Thánh Mát-thêu-Cha Vương

Thánh Mát-thêu

Hôm nay 21/09, Giáo hội mừng kính Thánh Mát-thêu. Mừng bổn mạng đến những ai chọn Ngài làm quan thầy nhé. Hãy thêm lời cầu nguyện cho những ai đang bị ảnh hưởng bởi tai ương, chiến tranh, bệnh tật khắp nơi.

Cha Vương

Thứ 4: 21/09/2022

“Bỏ nơi ấy, Chúa Giêsu đi ngang qua trạm thu thuế, thì thấy một người tên là Mát-thêu đang ngồi tại trạm. Người bảo ông: “Anh hãy theo tôi! Ông đứng dậy đi theo Người.”

Câu văn ngắn ngủi trên cho chúng ta biết về người môn đệ tên là Mát-thêu Thánh sử. Có phải thật Mát-thêu là người thu thuế như Thánh Marcô và Luca đã viết trong Tin Mừng không? Nếu đúng như vậy thì Mát-thêu chắc chắn bị những người Do thái khinh bỉ và ghét bỏ vì là người cộng tác với quân La Mã. Những người thu thuế là kẻ thù của nhân dân và là người tội lỗi mà họ oán trách Chúa Giêsu đã đi lại và dùng bữa với họ.

Dù sao đi nữa thì Mát-thêu đã bỏ dĩ vãng lại trong quá khứ mà đi theo Chúa Giêsu. Nhiều học giả nghi ngờ là sách Tin Mừng Mát-thêu có thể là do một trong những môn đồ của Chúa Giêsu vào cuối thế kỷ đầu tiên vì dường như là sách Tin Mừng Mát-thêu được viết bởi một Kitô hữu Do thái thông thạo tiếng Hy lạp và quả quyết Chúa Giêsu là Đấng Messiah, Đấng đã hoàn tất những tiên báo trong Cựu Ước mang đến một luật lệ và một kỷ nguyên mới.

Dường như thánh Mát-thêu viết sách Tin Mừng dành nhiều cho người Do Thái và người giàu có. Phúc âm thánh Mát-thêu ca ngợi sự nghèo khó và thuyết phục người đọc là ơn cứu độ tùy thuộc nhiều vào lòng thương xót những kẻ nghèo khó. Điều này nói lên lòng ăn năn hối cải của người thu thuế. Mát-thêu kể lại những lời giảng dạy của Chúa Kitô và tóm tắt điều căn bản trong Bài giảng trên Núi về các Mối Phúc Thật.

Mát-thêu ghi lại dụ nguôn về cuộc Phán Xét Cuối Cùng khi “Đức Chúa Con trở lại trong vinh quang” để tách ra “chiên và dê”. Chúa phán với những người được Chúa ân thưởng: “Vì khi Ta đói các người đã cho ăn, Ta Khát các ngươi đã cho uống, Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước, Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc, Ta đau ốm các ngươi dã thăm viếng, Ta ngồi tù các ngươi đã hỏi han.” Họ bèn hỏi: “Chúng tôi đã làm những việc ấy lúc nào? Chúa bèn phán: “Ta bảo thật các ngươi, mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.”

Thánh Mát-thêu là đấng phù trợ các sứ vụ của Giáo Hội. Được ơn gọi đi theo Chúa Giêsu, thánh Mát-thêu kết thúc Tin Mừng lời thúc dục người theo Chúa như sau: “Vậy anh em hãy ra đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, “và lời cuối cùng cho chúng ta và cho mọi thời đại: “Và đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Nguồn: ViệtCatholic)

Xin bạn hãy tự trả lời những câu hỏi gợi ý suy niệm hôm nay, nếu được thì hãy chia sẻ với một người nào đó:

❦ Hôm nay, Thiên Chúa sai tôi đến với ai?

 Tôi đã và đang làm gì để mang Tin Mừng vào trong môi trường sống của tôi?

 Đâu là những lĩnh vực trong đời sống mà tôi có thể tận hiến cho Thiên Chúa?

From: Đỗ Dzũng

HÃY THONG THẢ SỐNG -TRẦN MỘNG TÚ

HÃY THONG THẢ SỐNG -TRẦN MỘNG TÚ

Khi đến tuổi nào đó, hãy chuẩn bị, dọn sẵn con đường  đi cho mình, ai rồi cũng sẽ tới đích, chỉ có người trước người sau thôi …thong thả mà sống để hưởng trọn vẹn những gì mình đang có

   HÃY THONG THẢ SỐNG
          TRẦN MỘNG TÚ

Suy ngẫm.

“Thượng Đế khi đem mình vào đời, có hỏi ý kiến mình đâu. Nên chắc chắn là khi Ngài gọi mình đi cũng chẳng cần thông báo trước.”

Trần Mộng Tú

Nhiều khi chúng ta sống mà quên bẵng đi là mình có thể chết bất cứ lúc nào. Ta hối hả sống, vui, buồn, khỏe, yếu, ta cứ lướt qua rồi không ngoái đầu lại nhìn chuỗi ngày tháng ta đã tiêu hao của một đời người.

Cho đến khi có một người bạn vừa ngã bệnh, bệnh nặng, không biết sẽ mất đi lúc nào, lúc đó ta mới xa, gần, hốt hoảng gọi nhau.

Tưởng như chưa từng có người bạn nào “Chết” bao giờ…

Hay ta có một người thân trong gia đình, đang rất khỏe vừa báo tin bị bệnh hiểm nghèo. Gia đình, họ hàng cuống lên, sợ hãi như chưa nghe đến ai nói về cái chết bao giờ, chưa chứng kiến cảnh vào bệnh viện, cảnh tang ma bao giờ.

Cả hai người trên có thể đã ngoài 70 tuổi. Lạ thật ! Cái tuổi nếu có chết thì cũng đã sống khá lâu trên đời rồi, sao những người chung quanh còn hoảng hốt thế. Hóa ra người ta, không ai muốn nghe đến chữ “Chết”, dù chữ đó đến với mình hay với người thân của mình.

Hình như không ai để ý đến mỗi sáng chúng ta thức dậy, nhìn thấy mặt trời mọc (nếu còn để ý đến mặt trời mọc) là chúng ta đã tiêu dùng cái ngày hôm qua của đời sống mình . Có người vì công việc làm ăn, cả tuần mới có thời giờ ngửng mặt nhìn lên mặt trời.

Buổi sáng còn tối đất đã hấp tấp ra đi, buổi chiều vội vã trở về lúc thành phố đã lên đèn, làm gì nhìn thấy mặt trời. Nhưng mặt trời vẫn nhìn thấy họ, vẫn đếm mỗi ngày trong đời họ. Họ tiêu mất cái vốn thời gian của mình lúc nào không biết.

Tiêu dần dần vào cái vốn Trời cho mà đâu có hay. Rồi một hôm nào đó bỗng nhìn kỹ trong gương, thấy mình trắng tóc.

Hốt hoảng, tiếc thời gian quá! Khi nghe tin những người bạn bằng tuổi mình, bệnh tật đến, từ từ theo nhau rơi xuống nhanh như mặt trời rơi xuống nước, họ vừa thương tiếc bạn vừa nghĩ đến phiên mình.

Thật ra, nếu chúng ta bình tâm nghĩ lại một chút, sẽ thấy “Cái chết” nó cũng đến tự nhiên như “Cái sống”.

Đơn giản, mình phải hiểu giữa sống và chết là một sự liên hệ mật thiết, vì lúc nào cái chết cũng đi song song từng ngày với cái sống. Dẫu biết rằng, đôi khi có những cái chết đến quá sớm, nhưng ta cũng đâu có quyền từ khước chết.

Tôi biết có người mẹ trẻ, con của bạn thân tôi. Chị bị ung thư, chị cầu xin Thượng Đế cho sống đến khi đứa con duy nhất của mình vào Đại Học.

Chị không cưỡng lại cái chết, chị chỉ mặc cả với Thượng Đế về thời gian vì con chị lúc đó mới lên 3 tuổi. Thượng Đế đã nhận lời chị. Ngày con chị tốt nghiệp Trung Học, chị ngồi xe lăn đi dự lễ ra trường của con và tuần lễ sau chị qua đời.

Trong suốt mười mấy năm trị bệnh, chị vẫn làm đủ mọi việc: chị đội tóc giả đi làm, đến sở đều đặn, lấy ngày nghỉ hè và ngày nghỉ bệnh đi trị liệu.

Những bạn làm chung không ai biết chị bị ung thư, ngay cả xếp của chị. Khi họ biết ra, thì là lúc chị không đứng được trên đôi chân mình nữa. Chị sửa soạn từng ngày cho cái chết với nụ cười trên môi. Vẫn vừa đi làm, vừa cơm nước cho chồng con, ân cần săn sóc cha mẹ, hiền hòa giúp đỡ anh em trong nhà, chị mang niềm tin đến cho tất cả những người thân yêu của mình.

Sau ba năm chị mất, cậu con trai mỗi năm vẫn nhận được một tấm thiệp sinh nhật mẹ viết cho mình (Mẹ đã nhờ qua người dì gửi hộ).

Hôm sinh nhật 21 tuổi của cậu cũng vào ngày giỗ năm thứ ba của Mẹ, cậu nhận được tấm thiệp mừng sinh nhật mình, với dòng chữ nguệch ngoạc, chị viết cho con: “Mừng sinh nhật thứ 21 của con. Hãy bước vui trong đời sống và nhớ rằng mẹ luôn luôn bên cạnh con. “

Tôi đọc những dòng chữ mà ứa nước mắt. Tôi nghĩ đến chị với tất cả lòng cảm phục. Chị là người biết sống trong nỗi chết. Khi không thắng được bệnh tật, chị biết hòa giải với nó để sống chậm lại với nó từng ngày cho con mình. Chắc “Cái chết” cũng nhân nhượng với chị, thông cảm với chị như một người bạn.

Một chị bạn kể cho nghe về một bà bạn khác. Bà này mới ngoài sáu mươi, nhanh nhẹn, khỏe mạnh và tính nết vui vẻ, yêu đời. Nhưng khi nào đi ra khỏi nhà bà cũng mang theo một bộ quần áo đặc biệt, đủ cả giầy vớ bỏ vào một cái túi nhỏ riêng trong va-li.

Hỏi bà, sao lại để bộ này ra riêng một gói vậy, bà thản nhiên nói:“Nếu tôi chết bất thình lình ở đâu, tôi có sẵn quần áo liệm, không phiền đến ai phải lo cho mình.”

Bà mang theo như thế lâu lắm rồi, tôi không biết có khi nào bà ngắm nghía mãi, thấy chưa dùng tới, bà lại đổi một bộ mới khác cho ưng ý không?

Giống như người phụ nữ sắp đi dự tiệc hay cầm lên, để xuống, thay đổi áo quần sao cho đẹp. Đi vào cái chết cũng có thể coi như đi dự một đám tiệc.

Tôi nghĩ đây là một người khôn ngoan, sẵn sàng cho cái chết mà bà biết nó sẽ đến bất cứ lúc nào. Bà đón nhận cái chết tự nhiên, giản dị như đi dự tiệc, hay một chuyến đi xa, đi gần, nào đó của mình. Nhưng không phải ai cũng nghĩ về cái chết giản dị như vậy. Phần đông muốn được sống lâu, nên bao giờ gặp nhau cũng thích chúc cho nhau tuổi thọ.

Thích hỏi nhau ăn gì, uống gì cho trẻ trung mãi. Loài người nói chung, càng ngày càng thích sống hơn chết.

Họ tìm kiếm đủ mọi phương thuốc để kéo dài tuổi thọ. Người ta ức đoán, trong một tương lai rất gần, loài người có thể sống đến 120 tuổi dễ dàng với những môn thuốc ngăn ngừa bệnh tật và bồi dưỡng sức khỏe.

Rồi người ta sẽ còn tạo ra những bộ phận mới của nội tạng để thay thế cho những bộ phận gốc bị nhiễm bệnh. Gan, ruột, bao tử v.v, sẽ được thay như ta thay những phần máy móc của một cái xe cũ. Chúng ta, rồi sẽ sống chen chúc nhau trên mặt đất này.

Chỉ tiếc một điều là song song với việc khám phá ra thuốc trường thọ người ta cũng phải phát minh ra những người máy (robot) để chăm sóc những người già này, vì con cháu quá bận (chắc đang chúi đầu tìm thuốc trường sinh) không ai có thời giờ chăm sóc cha mẹ già.

Theo tôi, ngắm nhìn hình ảnh một cụ ông hay một cụ bà lưng còng, tóc bạc, đang cô đơn ngồi trong một căn buồng trống vắng, được một người máy đút cơm vào miệng, thật khó mà cảm động, đôi khi còn cho ta cái cảm giác tủi thân nữa.

Nhưng sống như vậy mà có người vẫn thích sống.

Một người đàn ông ngoài bẩy mươi, bị bệnh tim nặng, đang nằm trong phòng đặc biệt (ICU) lúc mơ màng tỉnh dậy, nhắn với các con cháu là khi nào vào thăm không ai được mặc áo mầu đen. Ông kiêng cữ mầu của thần chết. Ông quên rằng thần chết, đôi khi, có thể đến với chiếc áo mầu hồng. Thật ra, chính nhờ “cái chết” cho ta nhận biết là “cái sống” đẹp hơn và có giá trị hơn, dù có người sống rất cơ cực vẫn thấy cuộc đời là đẹp.

Những bậc thiên tài, những nhà văn lớn đã tự tìm về cái chết khi họ bắt đầu nhìn thấy cái vô vị trong đời sống như nhà văn Ernest Hemingway, Yasunari Kawabata và họa sĩ Vincent van Gogh, v.v… Chắc họ không muốn sống vì thấy mình không còn khả năng hưởng hết vẻ đẹp của “cái sống” nữa.

Họ là một vài người trong số nhỏ trên mặt đất này sau khi chết để lại tên tuổi trên những trang sử, lưu lại hậu thế, còn phần đông nhân loại, sau khi chết một thời gian, không để lại một di tích nào Con cháu có thờ cúng được một hai thế hệ, sau đó tên tuổi mờ dần, mất hẳn theo ngày tháng, vì chính những kẻ thờ phụng đó lại tiếp theo nằm xuống cùng cát bụi.

Ðời sống con người chóng qua như cỏ, như bông hoa nở trong cánh đồng, một cơn gió thoảng đủ làm nó biến đi, nơi nó mọc cũng không còn mang vết tích.(Thánh Vịnh)

Thượng Đế khi đem mình vào đời, có hỏi ý kiến mình đâu. Nên chắc chắn là khi Ngài gọi mình đi cũng chẳng cần thông báo trước. Chúng ta cứ thong thả sống từng ngày, khi nào chết thì chết, mặt trời mọc rồi mặt trời lặn, bông hoa nở rồi bông hoa tàn, thế thôi.

Tại sao ta phải cay cú với cái chết? Hãy dùng trí tưởng tượng của mình, thử hình dung ra một thế giới không có cái chết(*)

Chắc lúc đó chúng ta sẽ không còn không khí mà thở chứ đừng nghĩ đến có một phiến đất cho bàn chân đứng.

Trần Mộng Tú

From: LUCIE 1937

 Thánh Andrê Kim Taegon & Thánh Paul Chong Hasang và các Bạn tử đạo người Ðại Hàn.

 Thánh Andrê Kim Taegon & Thánh Paul Chong Hasang và các Bạn tử đạo người Ðại Hàn.

Chúc bình an đến bạn và gia đình nhé. Hôm nay Giáo Hội mừng kính Thánh Andrê Kim Taegon & Thánh Paul Chong Hasang và các Bạn tử đạo người Ðại Hàn.

Cha Vương

Thứ 3: 20/09/2022

Anrê Kim Taegon là linh mục Ðại Hàn đầu tiên và là con của một người trở lại đạo. Cha của ngài, ông Ignatius Kim, được tử đạo trong thời cấm đạo năm 1839 và được phong thánh năm 1925. Sau khi được rửa tội vào lúc 15 tuổi, Anrê phải trải qua một hành trình dài 1,300 dặm để gia nhập chủng viện ở Macao, Trung Cộng. 

Sáu năm sau, ngài xoay sở để trở về quê hương qua ngả Mãn Châu. Cùng năm ấy ngài vượt qua eo biển Hoàng Sa đến Thượng Hải và thụ phong linh mục. Khi trở về quê, ngài có nhiệm vụ thu xếp cho các vị thừa sai vào Ðại Hàn qua ngã đường biển, nhằm tránh né sự kiểm soát biên phòng. Ngài bị bắt, bị tra tấn và sau cùng bị chặt đầu ở sông Han gần thủ đô Hán Thành.

    Thánh Phaolô Chong Hasang là một chủng sinh, 45 tuổi. Kitô Giáo được du nhập vào Ðại Hàn khi Nhật xâm lăng quốc gia này vào năm 1592, lúc ấy có một số người Ðại Hàn được rửa tội, có lẽ bởi các binh sĩ Công Giáo người Nhật. Việc truyền giáo rất khó khăn vì Ðại Hàn chủ trương bế quan tỏa cảng, ngoại trừ những hành trình đến Bắc Kinh để trả thuế.

    Một trong những chuyến đi này, khoảng năm 1777, sách vở tài liệu Công Giáo của các cha dòng Tên ở Trung Cộng được lén lút đem về để dạy bảo người Kitô Giáo Ðại Hàn. Giáo Hội tại gia bắt đầu thành hình. Khoảng mười năm sau đó, khi một linh mục Trung Hoa lén lút đến Ðại Hàn, ngài thấy có đến 4,000 người Công Giáo mà chưa có ai được gặp một vị linh mục. Bảy năm sau, số người Công Giáo ấy lên đến khoảng 10,000 người. Sau cùng, tự do tôn giáo được ban hành vào năm 1883.

    Khi Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đến Nam Hàn ngày 06 tháng 5 năm 1984 để phong thánh, ngoài hai Thánh Anrê Kim Taegon và Phaolô Chong Hasang, còn 98 người Ðại Hàn và ba vị thừa sai người Pháp, tất cả đều tử đạo trong khoảng 1839 và 1867. Trong số 103 Thánh tử đạo có các giám mục và linh mục, số còn lại  là giáo dân: 47 phụ nữ, 45 quý ông.

    Trong những người tử đạo năm 1839 là Columba Kim, một phụ nữ 26 tuổi. Ngài bị cầm tù, bị tra tấn bằng vật dụng bằng sắt nung nóng và than. Ngài và người em là Agnes bị lột quần áo và bị giam chung với những tù nhân hình sự, nhưng họ không bị làm nhục. Sau khi Columba phàn nàn về sự sỉ nhục này, từ đó về sau không một phụ nữ nào bị nhục nhã như vậy nữa. Hai người bị chém đầu. Một em trai 13 tuổi, Peter Ryou, bị tra tấn dã man đến độ em có thể lấy da thịt của mình mà ném vào quan toà. Em bị xiết cổ cho đến chết. Protase Chong, một người quý tộc 41 tuổi, sau khi bị tra tấn ông đã chối đạo và được thả tự do. Sau đó, ông  trở lại, tuyên xưng đức tin và bị tra tấn cho đến chết.

LỜI BÀN: Chúng ta bàng hoàng khi thấy Giáo Hội Ðại Hàn, sau khi được thành lập, hoàn toàn là một Giáo Hội của giáo dân khoảng hơn một chục năm. Làm thế nào mà giáo hội ấy sống còn khi không có bí tích Thánh Thể? Ðiều này cho thấy, không phải các bí tích không có giá trị, nhưng phải có một đức tin sống động trước khi thực sự được hưởng ơn ích của bí tích Thánh Thể. Bí tích là dấu chỉ của sự hoạt động của Thiên Chúa và là đáp ứng của đức tin sẵn có. Bí tích làm gia tăng ơn sủng và đức tin, nhưng điều này chỉ có thể xảy ra khi đã có một điều gì đó để gia tăng.

LỜI TRÍCH: “Giáo Hội Ðại Hàn thì độc đáo vì được thành lập hoàn toàn bởi giáo dân. Giáo Hội còn non yếu, thật trẻ trung nhưng thật vững mạnh trong đức tin, và đã đứng vững sau những đợt sóng bách hại mãnh liệt. Do đó, chỉ trong vòng một thế kỷ, Giáo Hội đã kiêu hãnh với 10,000 vị tử đạo. Cái chết của các vị tử đạo này trở thành men cho Giáo Hội và đưa đến sự triển nở huy hoàng của Giáo Hội Ðại Hàn ngày nay. Ngay cả bây giờ, tinh thần bất khuất ấy vẫn còn trợ giúp cho người tín hữu của Giáo Hội thầm lặng ở miền bắc bên kia vĩ tuyến” (ÐGH Gioan Phaolô II, bài giảng trong lễ phong thánh).

(Nguồn: Người Tín Hữu Online)   

From: Đỗ Dzũng

Vì sao đa số người Anh vẫn muốn duy trì chế độ quân chủ?

Vì sao đa số người Anh vẫn muốn duy trì chế độ quân chủ?

Song Chi

20-9-2022

Tang lễ của Nữ hoàng Elizabeth II hôm nay cho thấy lịch sử lâu đời của Vương quốc Anh và chế độ quân chủ.

Nữ hoàng qua đời ở tuổi 96 tại nhà riêng của bà, Lâu đài Balmoral, ở Aberdeenshire, Scotland. Bà đã sống một cuộc sống lâu dài, luôn phục vụ cho đất nước của mình và cho Khối thịnh vượng chung. Tại Balmoral, chỉ hai ngày trước khi băng hà, bà chấp nhận sự từ chức của Thủ tướng Boris Johnson và bổ nhiệm người tiếp theo, Lizz Truss. Truss là Thủ tướng thứ 15 dưới triều đại của Nữ hoàng, người đầu tiên là Winston Churchill. Hàng tuần, bà tổ chức một buổi tiếp kiến với Thủ tướng, thể hiện sự quan tâm đến công việc của chính phủ, của đất nước.

Những địa điểm nơi diễn ra tang lễ, đều được xây dựng từ lâu đời và chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử của vương quốc Anh. Quan tài của Nữ hoàng đầu tiên được đưa đến Cung điện Holyroodhouse ở Edinburgh, dinh thự chính thức của chế độ quân chủ Anh ở Scotland.

Từ Edinburgh, quan tài của Nữ hoàng đã được đưa đến London. Linh cữu được quàn trong Hội trường Westminster, bên cạnh Nhà Quốc hội, để công chúng đến viếng. Hội trường Westminster được xây dựng vào năm 1097 bởi Vua William II, con trai của William the Conqueror. Ngoài việc được sử dụng làm nơi quàn linh cữu các thành viên của Hoàng gia và một vài chính khách quan trọng (trong đó Winston Churchill), tòa nhà cũng được sử dụng như một tòa án, bao gồm cả việc luận tội Vua Charles I và xét xử Guy Fawkes, người định làm nổ tung Nhà Quốc hội và Vua James I.

Lễ tang diễn ra tại Tu viện Westminster. Một nhà thờ được xây dựng lần đầu tiên ở đó vào khoảng năm 1080, nhưng tòa nhà hiện tại được khởi công vào năm 1245. Được chôn cất trong tu viện là 3.300 người Anh lỗi lạc, bao gồm ít nhất 16 quốc vương, tám thủ tướng, nhà thơ, diễn viên, nhà khoa học và nhiều người khác.

Lễ tang có sự tham dự của hoàng gia, các nguyên thủ quốc gia và những người đứng đầu chính phủ từ khắp nơi trên thế giới. Trong số các nhà lãnh đạo nước ngoài có những người đứng đầu chính phủ của các vương quốc Khối thịnh vượng chung (Commonwealth realms), thuộc địa cũ của Đế quốc Anh nơi Nữ hoàng vẫn là nguyên thủ quốc gia, và nguyên thủ quốc gia của các nước thuộc Khối thịnh vượng chung (Commonwealth countries), nay đã trở thành các nước cộng hòa.

Sau đó, quan tài của Nữ hoàng được đưa đến lâu đài Windsor, nơi ở của hoàng gia ở phía tây London. Lâu đài được khởi công bởi William the Conqueror sau Cuộc chinh phạt Norman của Anh vào năm 1066. Tại lâu đài, một nghi lễ được tổ chức trong Nhà nguyện St George (được xây dựng vào năm 1348), nơi quan tài của bà được hạ xuống hầm bên dưới nhà thờ. Nơi an nghỉ cuối cùng của Nữ hoàng sẽ là trong nhà nguyện tưởng niệm Vua George VI, bên cạnh cha của Nữ hoàng (George VI), mẹ, em gái và người chồng yêu dấu là Vương tế Philip, Công tước xứ Edinburgh. Nhiều quốc vương và hoàng gia khác được chôn cất trong nhà nguyện (bao gồm Henry VIII, Charles I, George III, George IV, Edward VII, George V).

Tất cả những điều này cho thấy rằng Nữ hoàng, cũng như tất cả mọi người, là một phần của lịch sử lâu dài và đa dạng, một sự tiếp nối lâu dài của sự sống quý giá trên hành tinh này. Hầu hết chúng ta sẽ không đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử, như Nữ hoàng, nhưng tất cả chúng ta vẫn là những sợi dây trong tấm thảm lớn của cuộc sống.

Một sự kiện xảy ra dưới triều đại của George III, tất cả thu nhập từ Crown Estates (trừ Công quốc Cornwall), đất đai và tài sản thuộc về Quốc vương (nhưng không phải tài sản cá nhân của Vua hoặc Hoàng hậu), đều do chính phủ nắm giữ. Đổi lại, chính phủ trả lại một số tiền cho George III để chi trả cho chế độ quân chủ và hoàng gia. Sự sắp xếp này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay, được Nữ hoàng cải tổ lại. Thu nhập từ toàn bộ đất đai, bất động sản đó, tính ra chế độ quân chủ Anh trả nhiều tiền hơn cho chính phủ so với chi phí để điều hành các hộ gia đình hoàng gia, hoàng gia không phải sống bằng tiền đóng thuế của người dân như nhiều người lầm tưởng.

Nữ hoàng là Người bảo trợ của hơn 600 tổ chức và hội từ thiện lớn nhỏ, ví dụ như tổ chức từ thiện lớn Nghiên cứu Ung thư của Vương quốc Anh và Hội Chữ thập đỏ Anh. Sự hỗ trợ và bảo trợ của bà đã giúp các tổ chức này gây quỹ (ước tính hơn 1,4 tỷ bảng Anh trong thời gian bà trị vì) và tiếp thêm tinh thần cho các tình nguyện viên và nhân viên của họ. Bà đã tham dự hàng trăm sự kiện mỗi năm để hỗ trợ các tổ chức này, cùng với hoạt động ngoại giao trong các chuyến viếng thăm các nước, chiêu đãi các nguyên thủ nước ngoài và những người đứng đầu chính phủ ở Vương quốc Anh. Khi còn sống, khối lượng công việc mà Vương tế Philip đảm nhận còn nhiều hơn, ông bảo trợ cho khoảng 800 tổ chức, đặc biệt tập trung vào môi trường, công nghiệp, thể thao và giáo dục, trong đó có việc sáng lập và là Chủ tịch của Quỹ Động vật Hoang dã Thế giới (World Wildlife Fund (WWF), thành lập Học bổng Kỹ thuật, sau này là Học viện Kỹ thuật Hoàng gia (Fellowship of Engineering, Royal Academy of Engineering)…

Các thành viên chịu trách nhiệm làm những công việc của Hoàng gia khác cũng vậy, họ cũng tham dự hàng trăm sự kiện mỗi năm, họ không ngồi không một chỗ cả ngày không làm gì cả như nhiều người lầm tưởng.

Hoa Kỳ tự hào về sự tách biệt giữa nhà thờ và nhà nước. Tại Vương quốc Anh, Quốc vương là người đứng đầu Giáo hội Anh và Nữ hoàng là một tín đồ Cơ đốc sùng đạo, cũng như Vua Charles III. Phần lớn ý thức về bổn phận của họ đến từ đức tin Cơ đốc. Thay vào đó, ở Anh, có sự tách biệt giữa chính trị và đời sống công dân. Các chính trị gia đến rồi đi. Nữ hoàng luôn ở đó, là sự kết nối giữa quá khứ và hiện tại, gắn kết mọi người. Với các chính trị gia, tất cả mọi lời nói, việc làm của họ trước hết phải thỏa mãn người dân ngay nhiệm kỳ này, thế hệ này, đồng thời phải đặt quyền lợi đảng của họ, những người bỏ phiếu bầu cho họ lên trên và không bao giờ có thể có sự hài lòng của toàn bộ người dân đối với một Tổng thống hay Thủ tướng. Vì vậy luôn luôn có sự chia rẽ, cứ nhìn Hoa Kỳ chẳng hạn.

Còn một chế độ quân chủ kiểu như Vương quốc Anh với Nữ hoàng hay Vua ở bên ngoài chính trị, bên trên chính trị, với tầm nhìn xa, cao hơn, cho một bức tranh lớn hơn.

Nữ hoàng hay Nhà Vua ở Anh hoàn toàn không can thiệp vào công việc chính trị. Quyền lực của họ là một thứ quyền lực mềm, dựa trên uy tín, hình ảnh, tư cách, ý thức về bổn phận, trách nhiệm của họ. Nếu làm tốt công việc và giữ gìn tốt hình ảnh, Quốc vương sẽ đại diện cho một lý tưởng và có sức mạnh truyền cảm hứng cho mọi người nỗ lực hết mình, cống hiến thời gian, công sức và nguồn lực cho những mục đích lâu dài, và đoàn kết mọi người. Và Nữ hoàng đã thể hiện điều đó trong suốt 70 năm trị vì của mình.

Tất nhiên sẽ khó khăn hơn nhiều để duy trì chế độ quân chủ, khi thiếu vắng một Nữ hoàng Elizabeth luôn sáng suốt, điềm tĩnh, đáng tin cậy và vững vàng. Tân vương Charles III chắc chắn hiểu rõ điều này.

Không có hệ thống nào tỏ ra hiệu quả như một bức tường thành chống lại chế độ chuyên chế. Hoa Kỳ có các giải pháp – phân chia quyền lực giữa các nhánh tư pháp, lập pháp và hành pháp, nhưng có lẽ là không đủ.

Mỗi quốc gia đều cần một người gánh vác gánh nặng biểu tượng của nhà nước. Nếu người đó không phải là quân chủ, được thiết lập rõ ràng để quản lý vai trò đó, trách nhiệm, và sự cám dỗ, có xu hướng rơi vào người đứng đầu nhà nước, người đứng đầu cơ quan hành pháp. Tại sao đó lại là một vấn đề? Chẳng hạn, trong chế độ Tổng thống, với quyền lực tập trung quá nhiều vào Tổng thống, rất có nguy cơ trở thành độc tài.

Hệ thống quân chủ thực hiện một mục đích tâm lý/tinh thần và xã hội quan trọng. Nó cũng có tiện ích thực tế to lớn, về mặt văn hóa – và kinh tế. Ai có thể phủ nhận sức hút to lớn của các truyền thống của Vương quốc Anh, ví dụ, đối với thương mại, du lịch?

Và cuối cùng, ý thức về lịch sử, sự trường tồn, về truyền thống phát triển, về sự phục vụ và cống hiến, là một phần của điều gì đó vĩ đại hơn, đó là lý do tại sao hơn quá nửa người dân Anh vẫn tiếp tục ủng hộ và tôn trọng chế độ quân chủ của họ.

Còn nếu một ngày nào đó đa số người Anh cảm thấy chế độ quân chủ không còn có ích lợi gì nữa, thì họ cũng sẽ nhẹ nhàng dứt bỏ thôi.

72% số người mới mua nhà gần đây ‘hối hận’

LOS ANGELES, California (NV) – Theo kết quả từ một cuộc khảo sát mới được thực hiện bởi Clever Real Estate, khi thị trường nhà ở Mỹ nguội đi, cuộc cạnh tranh nhà ở gay gắt trong vài năm qua đã khiến 72% người mua phải hối tiếc về việc mua nhà.

CNBC cho hay, lý do số một khiến người mua hối hận: 30% người được hỏi cho biết họ đã tiêu quá nhiều tiền.

Nhiều người Mỹ cho biết họ đã quyết định mua nhà quá vội vàng. (Hình minh họa: Justin Sullivan/Getty Images) 

Cuộc khảo sát trực tuyến được thực hiện vào Tháng Bảy và gồm có khoảng 1,000 cá nhân đã mua nhà vào năm 2021 hoặc 2022. Cuộc khảo sát này được ủy quyền bởi Anytime Estimate, thuộc sở hữu của Clever Real Estate.

Những thỏa hiệp góp phần gây ra sự hối tiếc

Thị trường quá nóng thiên về người bán trong những năm gần đây đã đẩy người mua cạnh tranh nhau để nổi bật trong việc giành quyền ký kết giao dịch đối với căn nhà tương lai của họ, chính điều này góp phần gây ra sự hối tiếc.

Tại thời điểm đó, 31% người mua cho biết họ đã trả cao hơn giá chào bán. Số tiền chênh lệch trung vị phải trả cao hơn so với giá niêm yết vào khoảng $65,000.

Đáng chú ý, sự cạnh tranh đấu giá gay gắt khiến 36% đưa ra lời đề nghị mua nhà mà không nhìn thấy căn nhà.

Mặc dù vậy, sự cạnh tranh vẫn rất khốc liệt, với 80% người mua cho biết họ đã gửi đi hơn một đề nghị, với 41% gửi từ năm đề nghị trở lên. Khoảng 1/3 người mua cho biết họ đã tìm kiếm nhà trong ba tháng, trong khi 1/8 người mua phải tốn thời gian từ sáu tháng trở lên.

Người mua có nhiều quyền hơn trên thị trường hiện tại

Theo Danetha Doe, kinh tế gia của Clever Real Estate, khi thị trường địa ốc có dấu hiệu hạ nhiệt, sẽ mang lại cho người mua nhiều đòn bẩy hơn đối với những quyết định giao dịch có giá trị lớn này.

Hiệp Hội Địa Ốc Quốc Gia tuần trước thông báo rằng Mỹ đang rơi vào tình trạng suy thoái nhà ở do doanh số bán và xây dựng giảm sút. Tuy nhiên, giá nhà vẫn tiếp tục tăng trên toàn quốc do số nhà tồn đọng vẫn khan hiếm.

Lãi suất đối với các khoản thế chấp cũng được cho là sẽ tiếp tục tăng do Cục Dự Trữ Liên Bang nỗ lực kiềm chế lạm phát đang cao kỷ lục. (Ng.Tr) 

Bệnh Mất Trí Nhớ – Câu chuyện buồn không của riêng ai


Bệnh Mất Trí Nhớ – Câu chuyện buồn không của riêng ai

Thái Anh/ QNA

Minh họa: Unsplash

Cụ Shigezo, một tư chức về hưu đã 20 năm, góa vợ và ở chung với gia đình con trai tên Nobutoshi, con dâu Akiko và cháu nội trai Satoshi. Con dâu Akiko vừa đi làm, vừa lo việc nội trợ, vừa lo cho đứa con trai còn học trung học và nhất là chăm sóc bố chồng. Cụ Shigezo, 85 tuổi, với căn bị bệnh mất trí nhớ Alzheimer’s ngày càng nặng, là một trách nhiệm nặng nề mà Akiko phải gánh vác. Cuộc sống của cô căng thẳng mà cô phải chịu đựng, không có được sự cảm thông nào của chồng, dù chồng cô là con trai trưởng của cụ Shigezo. Tình trạng tâm trí ông cụ như quay về tuổi ấu thơ. Akiko phải chăm sóc ông bằng cố gắng phi thường.

Cụ ông Shigezo bị bệnh lãng trí ngay từ khi cụ bà còn sống. Rất nhiều lần cụ ông đi ra ngoài và không nhớ đường về nhà. Có lần cảnh sát phải đưa về. Lúc bà vợ bị ngã nằm chết trong nhà, ông cũng không hề biết, lại bỏ đi ra ngoài. Akiko đi làm về thấy bố chồng đứng ngoài trời lạnh không áo khoác, cô đưa ông vào nhà mới phát giác bà mẹ chồng đã nằm chết từ lúc nào…

Sau khi vợ mất, bệnh của cụ Shigezo càng trở nặng, đến nỗi buổi tối Akiko phải ngủ bên cạnh để canh chừng ông. Chính vì Akiko gần gũi chăm sóc, nên trong gia đình, cụ chỉ quen mặt và nhớ tên một mình Akiko. Điều này khiến vài lần chồng và cô em chồng tỏ ra ganh tị với Akiko. Cụ ngày càng ăn uống mất kiểm soát, ăn chẳng biết ngừng nếu không ai cản ngăn. Trong đám tang của vợ, ông vào bếp ăn hết cả nồi súp nấu cho khoảng chục người ở tang lễ. Sau đó, trong một đêm, Akiko rất đỗi kinh hoàng khi thấy bình tro cốt của mẹ chồng trên bàn thờ được bỏ nằm dưới đất, và trên hai tay cụ Shigezo cầm một vật như là mảnh xương lấy từ trong bình… Rồi có lần sau khi đi vệ sinh, cụ Shigezo cởi tã, bốc phân trét đầy tường, đầy thảm… Không chịu đựng nổi nữa, Akiko đề nghị chồng gửi cụ vào nhà dưỡng lão. Vấn đề chưa được giải quyết thì sau một lần rời nhà đi lạc, cụ Shigezo bị cảm nặng nằm liệt mấy ngày rồi trút hơi thở cuối cùng sau đó không lâu. 

Trong ngày tang lễ bố chồng, Akiko – tay ôm chặt chiếc lồng có con chim mà lúc sinh thời cụ Shigezo rất ưa thích – chợt thấy một nỗi trống vắng vô cùng. Lúc này cô mới cảm thấy bố chồng đã là một hình ảnh rất thân thuộc. Khi cô cảm nhận được điều này thì hình ảnh ấy đã xa rời cô mãi mãi…

Đó là nội dung tác phẩm The Twilight Years của nữ văn sĩ Nhật Sawako Ariyoshi, một trong những tiểu thuyết từng bán chạy nhất của Nhật. Ngay lần phát hành đầu tiên (1972), tác phẩm đã bán trên một triệu bản. Một vấn đề xã hội ở Nhật, cũng như ở nhiều nước khác đó là cuộc sống của người già, vị trí xã hội và quyền lợi mà họ xứng đáng được hưởng sau nhiều năm cống hiến cho cộng đồng xã hội. Và đi cùng với điều đó là căn bệnh khá phổ biến: Alzheimer’s.

* * * 

Các trường hợp mất trí nhớ trên toàn thế giới sẽ gia tăng gấp ba vào năm 2050 với 135 triệu người bệnh, theo phúc trình mới nhất của Alzheimer’s Disease International, được công bố trong cuộc họp G8 về bệnh Alzheimer tại London. Riêng tại Mỹ, hơn năm triệu người Mỹ đang mắc bệnh này. Các thống kê chính thức về bệnh lãng trí Alzheimer cho thấy bệnh này là nguyên nhân làm chết người nhiều thứ sáu tại Mỹ, với khoảng 83,000 người chết mỗi năm. Tuy nhiên, nghiên cứu mới nhất cho thấy con số thật có thể nhiều gấp sáu lần, theo CNN. Một nghiên cứu đăng trên tạp chí Neurology ước tính rằng bệnh lãng trí Alzheimer’s làm chết 503,000 người mỗi năm, và con số này là nguyên nhân làm chết người nhiều thứ ba tại Mỹ, chỉ sau bệnh tim (600,000), và bệnh ung thư (575,000). Nhóm nghiên cứu tại Alzheimer’s Disease Center ở Chicago nói rằng giấy chứng tử báo cáo thiếu sót về bệnh lãng trí Alzheimer’s thường ghi nguyên nhân chết vì bệnh trực tiếp hơn, như là bệnh hoại huyết (pneumonia).

Bệnh Alzheimer’s là căn bệnh của tuổi già, phá hủy tế bào não và chức năng của não bộ và làm người bệnh thiệt mạng. Bệnh có những dấu hiệu sau:

 Trí nhớ sụt giảm, ảnh hưởng đến công việc hàng ngày.
– Mất định hướng về thời gian và không gian.
– Có vấn đề với cách dùng ngôn ngữ như xáo trộn từ ngữ thông thường.
– Để lạc đồ đạc và mất khả năng nhớ lại.
– Thay đổi tính tình hay tâm trạng. 

Rồi dần dần bệnh nhân không còn biết tự kiểm soát, dẫn đến bỏ ăn, nằm liệt và chết dần. Từ trước nay, y khoa vẫn chưa tìm ra phương pháp chữa trị dứt, ngoài những khuyến cáo nên làm đối với người mới nhuốm bệnh, như tập thể dục, chữa mất ngủ, chữa bớt quên sót. Giới y khoa chỉ biết là bệnh liên quan đến việc thoái hóa những mảng xám của thần kinh não (neocortex), nơi điều hành suy nghĩ và lý luận của con người. Từ sự thoái hóa này, bệnh Alzheimer’s sẽ đem đến một cái chết khổ sở, kéo dài, và đau đớn về cả thể xác lẫn tinh thần cho cả người bệnh và thân nhân.

Alzheimer’s từ lâu không xa lạ với cộng đồng Việt hải ngoại. Tại Nam California, trước đây có hai vợ chồng giáo sư bác sĩ Lương Vinh Quốc Khanh và Nguyễn Hoàng Lan chuyên nghiên cứu việc dùng sinh tố D (loại bác sĩ kê toa chứ không phải loại bán tự do) để chữa trị Alzheimer’s. Tạp chí y khoa của giới y sĩ Hoa Kỳ American Journal of Alzheimer’ s Disease & Other Dimentias, Volume 26 (7): 510, đã đăng bài khảo cứu này. Bác sĩ Khanh là cựu giáo sư bác sĩ tại University of Southern California (USC), Keck Medical School, Los Angeles, California. Ông còn là chủ tịch sáng lập VAMA (Vietnamese American Medical Research Foundation). Nhưng không may, vị bác sĩ tâm huyết này đã đột ngột từ trần năm 2013, trong khi công trình nghiên cứu về cách chữa trị Alzheimer’s của ông đang tiến 

Theo mẹ kể lại, ông cố tôi (bố của ông ngoại) lúc già cũng hay quên đường về nhà. Người nhà cứ phải đi tìm ông. Có lúc lối xóm thấy đưa ông về giùm. Sau ngày 30-4-1975, ông cố lên Sài Gòn ở nhà ông bà ngoại tôi. Sau đó, ông chú út, em ruột ông ngoại tôi (ra Bắc từ năm 1954, nay trở về là “cán bộ cách mạng”), khẳng định bố mình bị mất trí như người điên, nên đưa ông cố vào bệnh viện tâm thần Biên Hòa. Ông cụ bị nhốt chung phòng với những người điên thật sự. Chỉ thời gian ngắn ngủi sau, ông bị khủng hoảng trầm trọng. Ông cụ bỏ cả ăn uống, kiệt sức dần. Ông ngoại tôi hay tin, đến đón cụ về nhà. Cụ nằm mê man. Một ngày sau thì qua đời.

Sau này ở Mỹ, lúc tôi còn học tiểu học, bà nội tôi cũng mất vì bệnh này năm 2004. Lúc ấy bà nội về ở chung nhà với bố mẹ và tôi. Tôi chỉ nhớ bố hay bảo tôi nói chuyện, rồi ôm bà cho bà thấy vui. Mà nào tôi có thấy bà cười. Ánh mắt bà dững dưng, như ngó tận đâu đâu xa vắng. Sau đó, bà bệnh nhiều nên phải vào bệnh viện để chữa. Rồi một hôm, đi học về, tôi thấy nhà tôi đầy người. Mẹ khóc, nói với tôi bà mất rồi, con sẽ không bao giờ thấy bà nữa.

Mẹ tôi không phải là người làm nghề y nhưng từ cuộc đời những người thân, bà bắt đầu để ý tìm hiểu những tài liệu nói về bệnh Alzheimer’s. Bà trở thành một thành viên của nhóm hỗ trợ người bệnh và người nuôi bệnh (Alzheimer’s Vietnamese Caregiver Support Group). Bà sinh hoạt hàng tháng với nhóm vào mỗi ngày thứ năm trong tuần lễ thứ nhì. Mẹ tôi có gần bốn năm tham gia săn sóc cho một bà cụ bị bệnh. Lúc đầu mới tiếp xúc với bà, mẹ gặp rất nhiều khó khăn. Do lần đầu tiên gặp người lạ, bà cụ la lối, xua đuổi, có khi còn nặng lời với mẹ. Thời gian đầu mẹ tôi rất stress, có lúc tưởng phải bỏ ngang, nhưng rồi mẹ hiểu là bà cụ bị Alzheimer’s không hề ý thức được hành động của mình, cũng như ông cố hồi đó hay như bà nội tôi lúc bệnh, và cũng y như ông cụ Shigezo trong truyện Nhật kể trên…

Tôi cũng theo gương mẹ góp phần vào việc vận động mọi người mở lòng nhân ái, đóng góp chút công sức và vật chất vào những buổi đi bộ gây quỹ của Hội Alzheimer’s. Khi nắm tay nhau trong những cuộc đi bộ gây quỹ, chúng tôi quyết tâm thực hiện như lời kêu gọi của ông Jim McAleer, chủ tịch kiêm tổng giám đốc điều hành Hội Alzheimer’s: “Cùng nhau, chúng ta hy vọng ở một thế giới không còn bệnh Alzheimer’s”. Mỗi lần đi bộ, tôi lại được phát chiếc T-shirt màu tím in tên của Hội. Tôi từng hỏi mẹ, “Sao Hội lại chọn màu tím buồn vậy?”. Mẹ nói màu tím giống như buổi hoàng hôn của tuổi già, buồn bã và quạnh hiu như căn bệnh Alzheimer’s thời kỳ cuối. Trong quyển truyện về cụ Shigezo lẫn trí, có chi tiết đứa cháu nội Nobutoshi, trong một lúc bực dọc khi cuộc sống gia đình bị xáo trộn do căn bệnh của ông nội, đã thốt ra với bố mẹ: “Bố mẹ đừng bao giờ sống già như thế!”.

Tôi cầu mong các nhà nghiên cứu về y khoa trên thế giới sớm tìm ra thuốc điều trị được căn bệnh quái ác này để con cháu trong nhà không phải thốt ra những câu đau lòng như thế, để rồi phải ân hận, như Nobutoshi cuối cùng hối tiếc nói với mẹ: “Giá mà ông nội sống thêm vài năm nữa!”…

https://saigonnhonews.com/doi-song/benh-mat-tri-nho-cau-chuyen-buon-khong-cua-rieng-ai/

* * * 

Đọc thêm:

Đã Có Thuốc Chữa Bệnh Mất Trí Nhớ Alzheimer’s

New York: Trong hôm thứ hai ngày 7 tháng 6, cơ quan đặc trách về thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) đã chuẩn y cho việc dùng thuốc Aducanumab của công ty Biogen trong việc điều trị bệnh Alzheimer’s. Và đây là lần đầu tiên trong vòng 30 năm qua, đã có thuốc chữa bệnh lãng trí.

Với những tin tức được loan báo, giá cổ phiếu của công ty Biogen gia tăng $107.76 và ở mức $393.90 một cổ phiếu trên thị trường chứng khoán New York.

Loại thuốc Aducanumab có nhiệm vụ tách rời một loại protein có tên là amyloid beta trên não cũa bệnh nhân, những người bắt đầu có triệu chứng của bệnh lãng trí.
Loại protein amyloid beta bám trên màng não sẽ gây cho bệnh nhân bị mất trí nhớ, không có khả năng tự chăm sóc lấy mình.
Theo những ước tính thì trong năm 2020 có khoảng trên 6 triệu người Mỹ bị bệnh Alzheimer’s và có khoảng 1 triệu người Anh cũng bị bệnh này.
Khác biệt giữa dementia và Alzheimer’s: dementia là các triệu chứng quên trong khi Alzheimer’s là bệnh quên, bệnh mất trí nhớ.

60 phần trăm cho đến 70 phần trăm những người có các triệu chứng quên sẽ dần dần biến thành bệnh.

Đa số những người bị bệnh mất trí nhớ là những người trên 65 tuổi
Trước đây không có thuốc chữa cho nên một người có những triệu chứng quên, dần dần biến thành bệnh và cuối cùng cũng chết.

Các triệu chứng của bệnh mất trí nhớ

  • Khó nhớ những thông tin mới học
  • Không nhớ phương hướng
  • Tính tình thay đổi bất ngờ
  • Luôn luôn nghi ngờ về gia đình, bạn bè và những người chăm sóc, không tin những người này
  • Dần dần sự mất trí nhớ trở nên nghiêm trọng
  • Khó nói, khó nuốt đồ ăn và khó khăn trong việc đi lại.

Những cách phòng ngừa bệnh mất trí nhớ

Người ta thường nói phòng bệnh hơn trị bệnh: nếu chúng ta có thể phòng ngừa được bệnh mất trí nhớ xảy ra thì đó là cách tốt nhất.

Sau đây là những cách phòng ngừa bệnh mất trí nhớ theo tài liệu của bệnh viện Mayo ở thành phố New York:

 Không hút thuốc
– Kiểm soát không để gia tăng áp huyết, lượng cholesterol và bệnh tiểu đường.
 Ăn uống theo kiểu Địa Trung Hải: ăn nhiều rau trái, chất đạm nạc (lean protein) và có chất omega 

– Tránh không ăn nhiều chất bột, chất đường, nước soda, nước tăng lực, không ăn nhiều thịt đỏ, cơm trắng, các loại bánh ngọt, khoai tây chiên, các thứ đồ ăn fast foods.
 Giảm nhũng thực phẩm đã chế biến (processed foods) như lạp xưởng, hotdog, các đồ hộp.
– Nên ăn cơm gạo đỏ hay nâu, ăn các loại hạt (nuts), dầu olive, cá (nhưng tránh ăn những loại cá có nhiều thủy ngân như cá tuna)
 Tập thể dục đều đặn nhất là aerobics (thể dục nhịp điệu)
– Tránh bị suy thoái tâm thần
– Tìm cách học hỏi những thứ cần suy nghĩ, cần trí nhớ như học sinh ngữ, học chơi đàn
 Ngủ đủ giấc mỗi đêm
 Tham dự những sinh hoạt xã hội cộng đồng như học khiêu vũ, học hát, học đàn… tình nguyện làm việc giúp người nghèo trong cộng đồng.

Chile thông báo đang phát triển một bộ xét nghiệm nhanh có thể phát hiện bệnh Alzheimer chỉ qua một xét nghiệm máu đơn giản và hy vọng có thể đưa vào sản xuất trong năm tới.

Một xét nghiệm máu đơn giản có thể sớm phát hiện mắc bệnh Alzheimer

Ông Ricardo Maccioni, trưởng nhóm nghiên cứu chung của Đại học Chile và Trung tâm Y sinh quốc tế (ICC), cho biết công trình này dựa trên kết quả nghiên cứu gần 10 năm qua về protein TAU. Các nhà nghiên cứu khẳng định mô hình mới này là ‘duy nhất trên thế giới’, cho phép có được thông tin chính xác không chỉ giúp ích trong chẩn đoán mà còn cả trong ngăn ngừa sớm, thậm chí tới 10 năm, trước khi phát bệnh.

Theo ông Maccioni, bệnh Alzheimer cũng như nhiều bệnh lý suy giảm thần kinh khác bắt nguồn từ những rối loạn sinh hóa trong não bộ khi protein TAU bắt đầu sản sinh ra những polymer không mang tính sinh lý, do vậy việc ngăn ngừa và điều trị những bệnh lý này cần hướng tới khả năng kiểm soát tiến trình nói trên.

Cụ thể, xét nghiệm kiểu mới được thực hiện theo công nghệ mang tên Alz Tau, bao gồm một thiết bị để chuẩn bị protein tiểu cầu và một thiết bị để phân tích giá trị và mức độ của protein TAU. Xét nghiệm này dựa trên việc tính toán, thông qua một chỉ số sinh học, các dạng protein TAU khối lượng cao và các dạng khối lượng thấp, với cơ sở nghiên cứu là 90% các bệnh nhân Alzheimer có liên quan tới protein TAU khối lượng cao.

Các nhà khoa học cũng chứng minh rằng chỉ số sinh học này trong máu của bệnh nhân cũng tương tự như trong não, và quá trình biến thiên protein TAU khối lượng cao này trong nhiều trường hợp không có triệu chứng và đây được coi là giai đoạn tiền lâm sàng của bệnh Alzheimer.

Việc phát hiện bệnh Alzheimer sớm có thể giúp đẩy lùi thời điểm phát bệnh và thậm chí chặn được nguy cơ phát bệnh từ góc độ nhất định. Theo thống kê mới nhất, số người được chẩn đoán mắc bệnh Alzheimer chiếm tới 1,06% dân số Chile, và tỉ lệ này có thể lên tới 3,1% vào năm 2025. Nhóm nghiên cứu đang làm việc với các quan chức y tế của quốc gia Nam Mỹ này để có thể triển khai rộng rãi biện pháp xét nghiệm mới trên toàn quốc.

From: TU-PHUNG

Vài kỷ niệm về Đức Hồng y thứ 5 người Việt Nam-ĐHY.PX. NGUYỄN VĂN THUẬN 

 
XIN TRÂN TRỌNG GIỚI THIỆU BÀI CHIA SẺ ĐẦY TÍNH LỊCH SỬ BI TRÁNG VỀ ĐHY.PX. NGUYỄN VĂN THUẬN 

Tác giả bài viết: TS. Phạm Huy Thông

(Sau khi rời khỏi ngục tù suốt 13 năm)
Vài kỷ niệm về Đức Hồng y thứ 5 người Việt Nam.
Giáo phận Bùi Chu
Thứ sáu – 17/09/2021 

Thế mà thấm thoắt đã hơn 20 năm, kể từ ngày tôi lần đầu tiên được diện kiến với Đức TGM Nguyễn Văn Thuận. Tôi nhớ hồi giữa năm 1990, khi biết tin Mẹ Teresa Calcutta sắp sang thăm Việt Nam, tôi rất muốn viết một bài báo về Mẹ mà không kiếm đâu được tư liệu. Lúc đó internet chưa có, sách báo nước ngoài rất hiếm, chỉ có thể biết tin tức Công giáo bập bõm qua đài Veritas hoặc Vatican. Tôi đánh liều vào Toà Giám mục Hà Nội để mong gặp Ngài vì Ngài vừa mới được trả tự do về đây nhưng chưa được đi đâu vì không có giấy chứng minh thư. Gặp mấy cha quen biết để đề xuất, ai cũng lắc đầu cho rằng, chắc Ngài chẳng tiếp vì lúc đó tôi đang cộng tác với báo Người Công giáo Việt Nam. Tôi chạy tìm cha Toma Aquino Nguyễn Xuân Thuỷ đề nghị và hồi hộp chờ đợi. Mấy phút sau, Ngài xuống. Tôi đã xem ảnh Ngài nhiều lần nhưng vẫn ngạc nhiên khi gặp Ngài. Phải nói là Ngài có vóc dáng rất đẹp và phúc hậu. Ngài hỏi thăm về công việc, gia đình của tôi rất ân cần. Tôi băn khoăn về việc đang cộng tác với tờ báo Người Công giáo Việt Nam vì hiện ở Việt Nam không có tờ nào chính thức nào của giáo hội cả. Ngài bảo: không có gì Chúa dựng tạo là xấu cả. Chỉ có điều mình chưa làm cho nó trở nên tốt đẹp mà thôi. Anh xem, cây gỗ đóng đinh Chúa vốn là công cụ giết người mà Chúa đã làm cho nó nên vật thánh thiêng, là biểu tượng của đạo Công giáo đấy”. Tôi rất thích suy tư này và về sau có nói lại với Đức cha GB. Bùi Tuần. Đức cha Bùi Tuần rất tâm đắc và vẫn thường xuyên động viên tôi coi việc viết báo và nghiên cứu khoa học nghiêm túc cũng là một công việc truyền giáo.

Sáng hôm sau, Ngài cho người đưa cho tôi tờ giấy ghi khá kỹ về tiểu sử của Mẹ Teresa Calcutta kèm cả bức ảnh Mẹ nhận giải Nobel ở Oslo (Nauy) năm 1978 nữa. Bởi vậy, khi Mẹ đến Toà Tổng giám mục Hà Nội năm 1991, tôi vào biếu Mẹ tờ báo có bài “Thiên thần Calcutta đến Việt Nam” có cả ảnh, Mẹ cầm tờ báo thích lắm bảo: Làm sao vừa đến Hà Nội đã có báo đăng?”. Rồi Mẹ hỏi tôi: Báo này là báo gì? Tôi đáp: Báo Người Công giáo Việt Nam. Mẹ hỏi tiếp: Báo Người Công giáo Việt Nam của ai? Lúc đó vốn tiếng Anh của tôi “terrible” (tồi tệ) lắm nên quay sang nhờ cô thông dịch viên của Bộ Ngoại giao. Cô giãy nảy lên: Cháu chịu không sao dịch được. Lập tức Đức TGM Nguyễn Văn Thuận quay lại nói: Báo Người Công giáo Việt Nam là của người Công giáo Việt Nam. Tôi cảm ơn Ngài về sự giúp đỡ này. Mẹ Teresa bảo tôi: Lần sau nếu có bài nào viết về Mẹ thì gửi cho Mẹ qua ông Đại sứ Ân Độ tại Hà Nội. Tôi có viết mấy bài nữa và gửi như lời Mẹ dặn. Không biết Mẹ có nhận được không?

Cũng vì mấy bức ảnh Ngài gửi tôi có chú thích trên báo rằng: Ảnh do Đức cha FX. Nguyễn Văn Thuận cung cấp mà tôi bị ông Phó Trưởng Ban Dân vận phê bình nặng lời (khi đó Báo trực thuộc Ban dân vận Trung ương, mặc dù tôi đã khéo léo không đề chức vụ TGM), vì cho rằng, tôi kém nhạy bén chính trị dám đưa tên một người mà xã hội đang muốn quên đi lên mặt báo. Ông dứt khoát chỉ đạo Ban tổ chức không nhận tôi về làm việc ở báo Người Công giáo Việt Nam nữa.

Rồi đoàn của Đức Hồng y Bernard Law của giáo phận Boston Hoa Kỳ sang thăm Việt Nam, tôi lại chạy vào xin Ngài tư liệu. Ngài cũng mau mắn giúp đỡ. Chữ của Ngài rất đẹp, chữ cao, thanh thoát và rất rõ ràng. Tôi vẫn còn giữ những bì thư đó như kỷ vật của Ngài.

Tôi nghe đồn rằng, lúc đó Việt Nam đang bị Hoa Kỳ cấm vận ngặt nghèo và Nhà nước muốn Ngài tác động với Tổng thống Carter và Đức Giáo hoàng Gioan Phaolo 2 để Hoa Kỳ nới lỏng lệnh cấm vận vì nghe nói Ngài rất thân thiết với các vĩ nhân này. Ngài đã nhận lời. Không biết kết quả cụ thể thế nào nhưng năm 1991, khi Đức Cha Phạm Đình Tụng lúc đó đang là Giám quản Hà Nội có văn thư đề nghị Ngài làm TGM Hà Nội thì Nhà nước lo lắng thật sự vì trước đây Ngài được bổ nhiệm là TGM Phó tổng giáo phận Sài Gòn đã được coi như là “âm mưu hậu chiến của Vatican” nay lại về TGM Thủ đô thì làm sao chấp nhận được. Bởi vậy, bằng mọi cách người ta khuyên Ngài đi thăm bà cố ở Austrailia. Tôi nhớ hôm đó là ngày 21-9-1991, mặc dù mới chớm đông nhưng Hà Nội trời rất lạnh, tôi bám theo xe của Đức cha FX. Nguyễn Văn Sang ra sân bay Nội Bài để tiễn Ngài. Tôi có nghe nói loáng thoáng rằng, Ngài sẽ bị cấm quay về Việt Nam. Có lẽ Ngài cũng linh cảm thấy điều này. Ngài chụp ảnh kỷ niệm với mọi người và bắt tay từng người đưa tiễn. Ngài đứng giữa, gọi tôi đứng bên cạnh cùng Đức cha Sang. ( ảnh bên, rất đẹp do cha FX. Nguyễn Thế Khải- một linh mục được Ngài truyền chức bí mật chụp và tôi vẫn giữ đến hôm nay).  Khi bắt tay tôi, Ngài hỏi:

– Nhà báo dự đoán xem bao giờ tôi trở về Hà Nội?
Tôi đáp theo lối ngoại giao rằng:
– Đức Cha sẽ trở về Việt Nam với cương vị khác và màu phẩm phục khác.

Không ngờ đấy là lần cuối cùng tôi được gặp Ngài và cũng là lần cuối cùng Ngài được đứng trên mảnh đất quê hương.

Năm 2000, Uỷ ban giáo dân của HĐGMVN tổ chức hội thảo về Văn hoá Công giáo Việt Nam đầu tiên ở Huế quy tụ cả ngàn người tham dự có tiếng vang lắm nhưng cũng rất tốn kém. Khi đó tôi đang làm Thư ký cho Uỷ ban giáo dân liền trao đổi với Đức cha Chủ tịch FX. Nguyễn Văn Sang khi qua Roma nên nhờ Đức TGM Nguyễn Văn Thuận giúp đỡ và Đức cha Sang về cho biết. Ngài rất cổ vũ cho những hoạt động như thế và sẵn sàng vận động nguồn tài trợ giúp những cuộc hội thảo lần sau. Tiếc rằng sau đó, Ngài bị ốm phải nhập viện và qua đời nên không thực hiện được.

Khi Ngài được tấn phong Hồng y tháng 2-2001, tôi có viết bài: “Vài nét về vị Hồng y thứ năm người Việt Nam” (cũng không dám viết tên). Một sĩ quan công an tên là M.V- cháu ruột của một ông tướng công an có tiếng gọi điện bảo tôi rằng, ông ta từng coi trại giam trong đó có tù nhân Nguyễn Văn Thuận. Khi tôi gặp ông, ông nói: 

“Tôi coi nhiều tù Công giáo nhưng có hai người tôi thán phục là ông Nguyễn Văn Vinh (cha chính Vinh) và ông Nguyễn Văn Thuận. Họ thông minh, trí tuệ nhưng đặc biệt là nhẫn nhục và vị tha. Viên sĩ quan công an kể rằng, mới vào trại được mươi ngày, ông Thuận xin cán bộ trại giam mua hoặc mượn cho sách học tiếng Nga. Rồi mượn bộ Lênin toàn tập bằng tiếng Nga. Khoảng vài tháng, ông Thuận bảo:

– Các cán bộ có ai biết tiếng Nga không?
Vị công an hỏi lại: Ông cần làm gì?
Ông Thuận nói: Để cán bộ nghe tôi nói tiếng Nga thế nào?
Ông công an đáp: Kỷ luật trại không cho phép nói chuyện với phạm nhân bằng tiếng nước ngoài.

Thật ra, chúng tôi ai ở trong trường dù phổ thông hay đại học tại Việt Nam lúc đó chẳng học tiếng Nga nhưng học xong chữ thầy trả thầy cả, làm gì mà nói được tiếng Nga nữa nên nói tránh đi thế”.

Khi Ngài qua đời ngày 17-9-2002, tôi lại viết bài: “Tiễn người lên đường Hy vọng”. Mặc dù bài báo bị Ban biên tập cắt mất quá nửa nhưng cũng gây được cảm tình của bạn đọc. Lại một ông công an nhắn tôi gặp để kể cho nghe nhiều chuyện về người tù Nguyễn Văn Thuận. Ông bảo: tôi thật may mắn và hạnh phúc khi được coi tù nhân Nguyễn Văn Thuận. Chính vị tù nhân này đã giải phóng cho tôi khỏi ngục tù tội lỗi và tối tăm để quay về làm con Chúa”. Ông đã bỏ ngành công an và gia nhập đạo Công giáo để mang tên thánh Phaolô. Ông là nhà văn và là triết gia Nguyễn Hoàng Đức, bây giờ cũng sinh hoạt cùng nhóm Doanh Trí Công giáo với chúng tôi. Chắc chắn ông sẽ là một chứng nhân với phái đoàn điều tra của Toà thánh sắp tới khi sang Việt Nam để thẩm định về việc phong thánh của Ngài với bài: “Con đường đức tin vào Nước Chúa qua cây cầu Hồng y FX. Nguyễn Văn Thuận” nên tôi không muốn nói nhiều ở đây nữa.

Cho đến giờ, tôi vẫn không hiểu vì sao Nhà nước Việt Nam lại lo ngại về một con người hiền lành như vậy. Thậm chí cả đến những ai liên quan cũng bị nghi ngờ luôn. Trường hợp Đức cha Nguyễn Văn Hoà được đề cử về Hà Nội là một ví dụ đến nỗi Thủ tướng Phan Văn Khải trả lời các giám mục Việt Nam năm 2002 rằng: “việc giám mục Nguyễn Văn Hoà xin về Hà Nội xin từ nay không đề cập đến nữa”. Vì nghe đâu Đức cha Phao lô Hoà là do Đức cha Thuận tấn phong nên chắc có “liên hệ gì đó”. Tôi có lần nói chuyện với Đức cha Hoà về chuyện này. Đức cha cũng ngạc nhiên và chịu không thể tìm ra lý do.

Ngài đã ở trại giam tới 13 năm trong đó có 9 năm biệt giam nhưng chưa hề nghe Ngài nói hay viết những lời ca thán, căm ghét chế độ hay thù hận những người đã bắt bớ, giam cầm Ngài. Mặc dù, hoàn cảnh ở trại giam rất tồi tệ. Ngài viết trong Chứng nhân và Hy vọng: “Ở trại Phú Khánh, tôi bị giam trong phòng không có cửa sổ, phải đi qua 3 lớp cửa trong một hành lang mới đến chỗ tôi. Vào đó nóng nực vô cùng, tôi ngột ngạt và cảm thấy trí óc mất sáng suốt dần dần, cuối cùng là mê man. Có lúc người ta để đèn sáng như ban ngày, lúc khác lại nằm trong bóng tối. Buồng vừa nóng vừa ẩm, đến nỗi khi tôi nằm dưới nền, nấm mốc mọc lên trắng cả chiếc chiếu của tôi. Lúc nằm trong tối tăm, tôi thấy có một lỗ dưới vách, ánh sáng dọi vào, tôi lao đến, kê mũi để thở. Lúc nào trời mưa, nước ở ngoài ngập, những con trùng ở ngoài bò vào, có cả giun và những con rết dài. Dù thấy vậy, nhưng tôi yếu mệt quá không làm gì được, tôi cứ dể chúng bò quanh, ngày nào nước xuống thì chúng lại bò ra”…

Thật ra, cũng có những mưu toan chính trị muốn lợi dụng Ngài. Năm 1973, khi thấy tình thế lâm nguy, đúng là Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu có nhờ anh trai mình là Nguyễn Văn Hiếu lúc đó đang là đại sứ Việt Nam cộng hoà tại Italia xin Toà thánh bổ nhiệm Đức cha Nguyễn Văn Thuận làm TGM Sài Gòn nhưng Toà thánh không chấp nhận vì cho đấy là sự can thiệp của phần đời. Tài liệu số NT1/4-Lm 10/12 ở Bộ Tư lệnh cảnh sát quốc gia Sài Gòn còn ghi lại chuyện này. Còn việc chọn Ngài sau đó nhất là việc bổ nhiệm sát ngày Sài Gòn thất thủ (25-4-1975) rất dễ gây hiểu lầm nhưng trong bối cảnh bất khả kháng. Trong thư của ông Trương Tấn Sang- Chủ tịch Uỷ ban nhân dân T.p HCM gửi cho Đức TGM Nguyễn Văn Bình ngày 22-9-1993 có viết: “Như Cụ đã biết, năm 1975, chính phủ ta đã không chấp nhận ông Nguyễn Văn Thuận về giáo phận thành phố và dứt khoát không bao giờ chấp nhận vì ông Nguyễn Văn Thuận từng gắn bó với một gia đình có nhiều nợ máu với nhân dân và bản thân ông Nguyễn Văn Thuận cũng có một quá trình lâu dài và tinh vi chống phá sự nghiệp giành độc lập và bảo vệ độc lập dân tộc”.

Về gia đình cựu Tổng thống Ngô Đình Diệm tốt xấu thế nào đã có nhiều bài viết, thiết nghĩ không cần nói thêm, chỉ biết rằng, chính Hồ Chí Minh cũng nhận định” Ngô Đình Diệm là người yêu nước theo cách của ông ấy”. Song dù gia đình thế nào, cũng chỉ ảnh hưởng chứ không thể quyết định đến việc xem xét một con người cụ thể. Còn về Đức cha Nguyễn Văn Thuận, chúng tôi cũng cố gắng tìm các tài liệu nhưng chưa thấy tài liệu nào trưng ra bằng chứng “chống phá tinh vi” như những lời cáo buộc. Chỉ tìm thấy một lời sám hối của linh mục Thanh Lãng – một trong những người đã ký tên đòi Đức cha Thuận phải rời Sài Gòn về Nha Trang được viết ngày 28-11-1988 như sau:

“Tôi xin công khai sám hối với Chúa và Hội thánh toàn cầu và Việt Nam. Lạy Chúa xin tha thứ cho con mọi lỗi lầm và ban cho con lòng tin, lòng trông cậy và ơn tha thứ.
Tôi xin công khai sám hối xin Đức cha Nguyễn Văn Thuận, xin Chúa giữ gìn  và trả công cho Đức cha.
Tôi xin công khai sám hối và xin lỗi tất cả vì tình anh em linh mục mà tôi vô tình hay cố ý làm mất lòng.

Tôi xin công khai và xin lỗi toàn thể dân Chúa mà tôi hối tiếc là chưa được phục vụ trong mục vụ.

Tôi xin mọi người tha tội cho tôi để Hội thánh và Chúa tha tội cho tôi.”

Nghe nói linh mục Thanh Lãng đã gửi một bản sám hối này cho Ngài trước khi đương sự qua đời song không thấy Ngài phản hồi. Có lẽ Ngài đã quên chuyện ấy từ lâu rồi. Vì Ngài đã phó thác tất cả cuộc đời Ngài cho Chúa. Ngài chỉ có nhiệm vụ sống từng giây, từng phút cho tốt, cho nên thánh mà thôi: “Chấm này nối tiếp chấm kia, ngàn vạn chấm thành một đường dài. Phút này nối tiếp phút kia, muôn triệu phút thành một đời sống. Chấm mỗi chấm cho đúng, đường sẽ đẹp. Sống mỗi phút cho tốt, đời sẽ thánh. Đường hy vọng do mỗi chấm hy vọng. Đời hy vọng do mỗi phút hy vọng” (ĐHV 978).

Tôi bỗng nhớ trong một lần đến xin tài liệu của Ngài, tôi hỏi: Làm sao để vào được Nước Trời?

Ngài trả lời bằng câu chuyện vui hóm hỉnh: Có một linh mục đạo đức lắm khi qua đời, gặp thánh Phêrô, thánh nhân hỏi: Trên trần cha làm được những công trạng gì? Vị linh mục đáp: Con chu toàn mục vụ, khuyên bảo kẻ tội lỗi, gíup đỡ người khó khăn, an ủi kẻ bệnh tật… Thánh Phêrô bảo: Cha được 1 điểm, còn gì nữa không? Vị linh mục hỏi lại: Vậy bao nhiêu điểm mới được lên Thiên đàng? Thánh nhân đáp: 1000 điểm. Vị linh mục kêu lên: Lạy Chúa xin Chúa thương thế nào chứ con lấy đâu ra 1000 điểm? Thánh nhân nói to: 1000 điểm nữa. Vậy là cha thừa điểm lên Thiên đàng rồi”.

Cho nên, dù mai đây kết quả cuộc điều tra phong thánh của Ngài thế nào thì tôi vẫn tin Ngài đã được hưởng vinh quang nơi Chúa vì Ngài luôn tin tưởng, phó thác vào tình yêu của Chúa.

  ***Tôi còn biết chính Hồng y Thuận được coi là ân nhân của nhà Đại tướng Võ Nguyên Giáp khi đã liên hệ với Hồng Y Bernard Law để chữa trị bệnh máu trắng cho cháu ngoại của tướng Giáp khi Hoa Kỳ còn cấm vận Việt Nam.
  (Viết nhân lễ giỗ lần thứ 10 của Đức Hồng y F.X)                              

Tác giả bài viết: TS. Phạm Huy Thông

 From: Do Tan Hung & Kim Bang Nguyen

KHÔNG THỂ GIÁP MẶT-Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

KHÔNG THỂ GIÁP MẶT

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Họ không thể giáp mặt Ngài, vì dân chúng quá đông.”

Một nhà tu đức nói, “Ngài là Vua các vua, chói lọi vinh quang, Chúa vũ trụ vô tận, huyền ảo; toàn tri, toàn năng, toàn trị; thánh khiết không thể tả, không thể chạm tới, không thể giáp mặt, không thể đổi thay…  Ấy thế, Ngài được bao bọc trong thân xác một con người thấp hèn, sinh ra như một con cái Giuđa bị khinh dể, trong một hang lừa bẩn thỉu, từ lòng một phụ nữ giản dị và không phô trương. Đấng ‘không thể giáp mặt’ nên rốt hèn, để mọi người ‘có thể giáp mặt!’”

Kính thưa Anh Chị em,

“Đấng ‘không thể giáp mặt’ nên rốt hèn, để mọi người ‘có thể giáp mặt!’” Ngày xưa cũng như ngày nay, không ít người trong nhân loại khát khao giáp mặt Chúa Giêsu, một con người rất dễ gặp trên mọi nẻo đường cuộc sống của mỗi người; thế nhưng, Tin Mừng hôm nay cho thấy một điều xem ra ngược lại.  Nhiều lúc, gặp Chúa Giêsu không phải luôn luôn dễ!  Luca cho biết, “Mẹ và anh em Ngài đến tìm Ngài, nhưng họ ‘không thể giáp mặt’ Ngài, vì dân chúng quá đông.”

Mỗi người có lý do riêng của mình để tìm đến Chúa Giêsu!  Một số người cần được chữa lành, như Bartimê, anh mù thành Giêricô, la hét cho đến khi được Ngài xót thương; một số vì tò mò, như Giakêu, người đã leo lên cây để xem cho được Ngài; một số muốn nghe Ngài, như đám đông chen lấn bên hồ Gênêzareth; một số muốn chăm sóc Ngài, như Mẹ Maria, chị em Matta Maria.  Bạn và tôi, chúng ta có muốn gặp Chúa Giêsu không; tại sao tôi muốn gặp Ngài; điều gì đang ngăn cản khiến tôi ‘không thể giáp mặt’ Ngài?

Rõ ràng, nhiều lúc, thật không dễ dàng để chinh phục Chúa Giêsu; thậm chí cũng không dễ gặp Ngài.  Mặc dù chúng ta có thể tìm kiếm Ngài với ý định thuần khiết nhất, nhưng không phải lúc nào cũng toại nguyện.  Chắc chắn sẽ có những trở ngại, và chúng ta phải chuẩn bị!  Satan luôn tìm cách đẩy chúng ta ra xa Thiên Chúa qua tội lỗi, thậm chí đặt ra nỗi sợ, để cản ngăn chúng ta đến với phép Giải Tội, khiến chúng ta không nhận được ơn thứ tha và chữa lành.  Thế giới ra sức lôi kéo chúng ta càng xa Thiên Chúa càng tốt; nó cung cấp hàng ngàn sự xao nhãng và thú vui khiến chúng ta rời bỏ việc cầu nguyện, hồi tâm và hoán cải.  Bản thân chúng ta cũng rất ít có khuynh hướng thiên về điều lành, phục vụ tha nhân và sống các nhân đức.  Ngay cả lười biếng và ươn ế cũng có thể dập tắt những gì tốt nhất nơi chúng ta.  Vì thế, bạn và tôi, cần để Chúa Giêsu biết chúng ta đang tìm Ngài; nói cho Ngài lý do chúng ta ‘không thể giáp mặt’ Ngài.

Anh Chị em,

“Họ không thể giáp mặt Ngài.”  Tại sao bạn và tôi ‘không thể giáp mặt’ Ngài?  Đó là một câu hỏi quan trọng!  Vậy mà, với Chúa Giêsu, thật thú vị, được nhìn Ngài hay gặp Ngài vẫn không quan trọng!  Quan trọng là làm sao ‘được Ngài chạm’ hay ‘chạm được Ngài’; nhờ đó, được chữa lành và biến đổi.  Tuyệt vời thay!  Tin Mừng hôm nay tiết lộ, có một cách khác để có thể thường xuyên ‘được Ngài chạm’ hay ‘chạm được Ngài’, đó là khi chúng ta trở nên những con người biết “nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành.”  Bấy giờ, như Mẹ Maria, chúng ta sẽ sống mối tương quan với Chúa Giêsu đến một mức độ thân thiết còn hơn cả quan hệ huyết tộc.  Đây chính là vẻ đẹp của tình yêu Thiên Chúa, Đấng kêu gọi chúng ta đạt đến phẩm giá và sự thân mật ngày càng cao hơn với Ngài.  Càng yêu mến Chúa, chúng ta càng yêu thương anh chị em mình.  Sách Châm Ngôn hôm nay nói, “Thực hành công bình và bác ái, thì đẹp lòng Chúa hơn là hy lễ.”  Quý biết bao khi chúng ta sống Lời Chúa như Ngài mong ước; Thánh Vịnh đáp ca thật ý nghĩa, “Trên đường mệnh lệnh Chúa, xin dẫn con đi!”

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, xin đẩy xa mọi áp lực của ma quỷ và sự uể oải thiêng liêng nơi con; vì nó, con ‘không thể giáp mặt’ Ngài.  Xin chạm vào con, cho con chạm được Ngài; để con được biến đổi!”  Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

From: Langthangchieutim

NGÀY TẢO MỘ – Jos. Nguyễn Văn Sơn, C.Ss.R.

Kẻ Đi Tìm

NGÀY TẢO MỘ

Jos. Nguyễn Văn Sơn, C.Ss.R.

Hôm nay kỷ niệm 14 năm tôi chết. Tôi về tạo mộ lần thứ 14. Nhìn ngôi mộ của tôi, tôi thấy cỏ mọc xanh rì, rào chắn xung quanh không còn nữa. Quanh tôi, không chỉ là một mình tôi mà mỗi năm số người chết ngày càng tăng. Lúc đầu tôi còn nhớ tên họ, dần dần những người xa lạ đến tôi chưa kịp làm quen họ đã chuyển đi nơi khác, kẻ đến người đi thay phiên nhau.

Tôi đứng cạnh cây Thánh Giá đã sờn bạc vì mưa gió. Tên tôi vẫn còn đó. Ngày sinh, ngày chết, quê quán… chung quanh vắng lặng như tờ. Càng về khuya càng lặng vắng!

Tôi ngồi đây một mình trong ngày tảo mộ. Hồi tưởng lại kỷ niệm 14 năm trước. Ngày đó… ngày định mệnh 17/09/2008. Tôi nhập viện trong tình trạng nguy kịch, toàn thân đau tê tái… Bác sỹ sau khi chụp XQ, siêu âm, chuẩn đoán. Họ quyết định tôi phải mổ gấp, nếu chậm sẽ không còn hy vọng sống. Người ta hỏi tôi có sẵn sàng cho ca mổ chưa? Tôi trả lời sẵn sàng. Thân xác tôi trao cho họ, linh hồn tôi dâng chọn cho Thiên Chúa. Bởi tâm hồn, thân xác tôi là của Thiên Chúa.

17h người ta đưa tôi vào phòng mổ. Quang cảnh phòng mổ thật hãi hùng. Xung quanh tôi toàn là dao kéo, dây rợ chằng chịt; xa xa những ánh đèn sáng chói như muốn nuốt chửng đôi mắt tôi. Một màn hình to đùng hiện ra trước mắt với toàn bộ thân xác, bộ lòng, những thớ da thớ thịt của tôi. Một đội ngũ Bác sỹ vây quanh tôi. Người dao, người kéo, người chích thuốc mê, người cầm đèn rọi… từng lát cắt, từng miếng mổ như đâm thâu thân xác tôi. Tôi như lịm đi rồi lại tỉnh dạy, từng giờ, từng phút như thế cứ trôi đi. Lúc tỉnh lúc mê… dù mê, nhưng tôi vẫn nghe văng vẳng bên tai những lời trao đổi, những thắc mắc, những lo lắng của đội ngũ Y, Bác sỹ. Người ta thì thầm với nhau, tôi sẽ chết, chết không còn một chút hy vọng. Bởi người ta mổ bụng tôi ra, trong ổ bụng người ta thấy có rất nhiều máu, có tới 3 lít. 3 lít đã đông cứng vì để quá lâu. Vâng! Các Bác sỹ đã bó tay. Bó tay thật sự trước sức mạnh của thần chết. Họ đầu hàng vì ngoài khả năng của họ. Thần chết đã tới, lôi tôi ra khỏi thế gian, khỏi vòng tay yêu thương của bạn bè, người thân, khỏi nỗ lực hết mình của đội ngũ Y, Bác sỹ…

Tôi nhớ rất rõ, một người to cao, nhưng thân mình đen nháy lôi tôi đi. Nó lôi tôi đi từng cửa này tới cửa khác. Khung cảnh nơi đó thật hãi hùng, cảnh tan thương tràn lan, khóc lóc, rên riết, kêu la… thời tiết ở đó thật oi bức, lửa bập bùng cháy suốt ngày đêm. Tiếng kêu la ai oán từ khắp nơi vọng về làm tôi sợ hãi, vùng vẫy, kêu la inh ỏi…

Vậy là tôi đã chết thật. Chết 100%. Xa rồi những kỷ niệm thân thương bên gia đình, thầy cô, bạn bè… giờ đây xung quanh tôi toàn là tiếng kêu la ai oán, hãi hùng. Quỷ đưa tôi đi khắp nơi này tới nơi khác. Tôi không dám nhìn cảnh vật xung quanh bởi nó rất hãi hùng. Nó kéo tôi tới một vực thẳm, thẳm sâu hun hút. Từ trên cao, nó ném tôi xuống dưới. Tôi như người mất hồn, kêu lên những tiếng nỉ non, tôi kêu tên Thiên Chúa, kêu tên Mẹ Maria, tôi dâng linh hồn tôi trong tay Thiên Chúa và Mẹ Maria. Tôi rơi như một hòn đá bay xuống vực thẳm hun hút, khi tôi không còn một chút hy vọng. Tưởng chừng như đời tôi sẽ mãi mãi đi vào dĩ vãng, đi xuống vực thẳm mênh mông… vậy mà kìa!!! Một bàn tay, rồi hai bàn tay kéo tôi lại. Kéo tôi khỏi vực thẳm hun hút. Một ánh sáng chói lòa soi sáng cả bóng đêm u tối đưa tôi trở về với hiện tại. Trở về với kiếp sống trần gian. Tôi đã thoát khỏi hình bóng của bóng tối, thần chết. Thần chết đã kéo tôi xa rời mọi thứ ở trần gian, nhưng chính Thiên Chúa đã đoái thương và lôi tôi về cùng với Ngài. Tôi chỉ là phận hèn mọn, yếu đuối mỏng dòn và tội lỗi. Vậy mà Chúa vẫn đoái thương. ÔI TÌNH YÊU THIÊN CHÚA THẬT VÔ BỜ BẾN!

Tôi đã chết, chết cho kiếp phận người hèn yếu, tội lỗi… chết cho một kiếp người. Hôm nay, tôi trở về tảo mộ. Nhớ lại những kỷ niệm đã qua, tôi thấy phận mình thật yếu đuối, mỏng manh và đôi lúc thật tệ trước tình yêu vô biên mà Thiên Chúa đã dành cho mình. Như cánh hoa kia sớm nở chiều tàn. Cuộc đời con người cũng vậy, có sinh có tử. Vậy mỗi người sẽ làm gì trước vận mệnh của cuộc đời? Thiết nghĩ cuộc đời này chỉ là chóng qua, thân xác ta chỉ là tro bụi, rồi cũng sẽ trở về bụi tro. Ta hãy sống sao cho cuộc đời này có ý nghĩa.

Jos. Nguyễn Văn Sơn, C.Ss.R.

Khủng hoảng nhân sự tại Việt Nam không chỉ có y tế, giáo dục

HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Lương chết đói, áp lực công việc nặng nề, công chức cán bộ trong guồng máy cai trị của Việt Nam theo nhau bỏ chạy khắp mọi ngành, mọi nơi.

“Một số anh em xin nghỉ việc nhiều. Kể cả vụ phó, trưởng phòng cũng xin nghỉ việc. Tôi phải gặp và động viên suốt,” ông Hồ Đức Phớc, bộ trưởng Tài Chính Việt Nam, được báo Thanh Niên ngày Thứ Hai, 19 Tháng Chín, dẫn lời nhìn nhận về tình trạng nhân sự của bộ này nghỉ việc.

Người dân làm thủ tục hành chính tại bộ phận tiếp nhận và trả hồ sơ hành chính ở thành phố Thủ Đức, Sài Gòn. (Hình: VNExpress)

Tháng trước, cục trưởng và hai cục phó Cục Quản Lý Qiá đã bị “kỷ luật” vì dính líu trong đại án lừa dân cả nước “kit xét nghiệm” COVID-19 mà hàng chục quan chức nhiều bộ ngành đã bị bắt giam. Riêng ông Nguyễn Anh Tuấn, cục trưởng Cục Quản Lý Giá, bị “cách hết các chức vụ trong đảng,” một dấu hiệu có thể dẫn đến bắt giam khi cuộc điều tra tham nhũng vẫn còn đang tiếp diễn.

Không thấy ông Phớc đưa ra con số viên chức Bộ Tài Chính xin nghỉ việc, chỉ thấy ông ta nhìn nhận “bộ máy, nhân sự của Bộ Tài Chính hiện rất khó khăn.” Như vậy, người ta có thể hiểu hàng chục hay hàng trăm cán bộ đã bỏ chạy chứ không ít.

Bộ Tài Chính là bộ phận “tay hòm chìa khóa” của chế độ. Suốt nhiều năm qua, người ta hiểu rằng muốn chen chân vào Tổng Cục Thuế, hoặc Tổng Cục Hải Quan không phải dễ. Trên mạng xã hội từng thấy có những tiết lộ số tiền phải đút lót để được làm viên cho hai cơ quan vừa kể phải bằng rất nhiều đô la hay vàng khối. Viên chức hai cơ quan này nổi tiếng là “hái ra tiền.”

Lời xác nhận của ông Phớc chỉ vài ngày sau khi quan chức đứng đầu dầu khí quốc doanh cho hay rất nhiều chuyên viên trong ngành dầu khí bỏ việc lương thấp, chạy qua làm ở khu vực tư nhân lương tiền “đãi ngộ” tương xứng với khả năng.

Báo chí tại Việt Nam mấy tháng gần đây cho hay hàng ngàn viên chức y tế và giáo dục xin nghỉ làm vì không thể chịu đựng nổi đồng lương không đủ sống.

Ông Hoàng Ngọc Trung, phó tổng giám đốc Thăm Dò và Khai Thác Dầu Khí (PVEP), được thuật lời cho hay từ đầu năm đến nay “nhiều người có chuyên môn cao của đơn vị chuyển sang nơi khác, bởi vì họ có chế độ đãi ngộ tốt hơn, trong khi doanh nghiệp nhà nước như PVEP phải tuân thủ về chế độ ưu đãi, đãi ngộ theo quy định.”

Hậu quả, theo ông này, “người thực sự muốn giữ thì họ ra đi, không giữ được, còn người chúng tôi không muốn giữ thì họ không đi và chúng tôi không có cách nào cho người ta đi.”

Nhiều báo tại Việt Nam ngày Thứ Bảy, 13 Tháng Tám, dẫn thuật văn thư khẩn của chính quyền thành phố ở Sài Gòn gửi trung ương, một ngày trước đó, báo động số lượng rất lớn “cán bộ, công chức, viên chức” xin nghỉ việc lên gần 6,200 người.

Viên chức nhà nước giải quyết thủ tục hành chính cho người dân. (Hình: VNExpress)

Ba nguyên nhân được nêu ra gồm đồng tiền lương quá thấp không đủ sống, cơ hội thăng tiến không có, trong khi áp lực công việc lại rất lớn. Các nguyên nhân này “ảnh hưởng niềm tin, động lực gắn bó” với công việc của cán bộ công chức mà nói chung “làm giảm sức hấp dẫn của khu vực công.”

Đầu Tháng Bảy, các báo tại Việt Nam cho hay gần 10,000 bác sĩ y tá tại các bệnh viện công trên cả nước nghỉ làm kể từ đầu năm 2021. Lương không đủ sống, môi trường làm việc nguy hiểm trong khi bị ép làm việc quá sức chịu đựng của con người.

Đồng thời, hàng ngàn giáo viên khắp nơi cũng bỏ việc cũng vì đồng lương không đủ sống. Ngoài giờ dạy học, nhiều người phải chạy xe ôm hay làm thêm những việc khác mới tạm đủ qua ngày. (TN) 

Tổng thống Biden tuyên bố sẽ bảo vệ Đài Loan

Tổng thống Biden tuyên bố sẽ bảo vệ Đài Loan

Đặng Sơn Duân

19-9-2022

Tổng thống Biden trả lời phỏng vấn trong chương trình 60 Minutes. Ảnh: CBS

Tổng thống Joe Biden một lần nữa tuyên bố quân đội Mỹ sẽ bảo vệ Đài Loan trong trường hợp Trung Quốc phát động cuộc tấn công xâm lược hòn đảo này.

1. Chuyển động quân sự

– Nhiều tàu hải cảnh Trung Quốc được triển khai xuống quần đảo Trường Sa trong vài ngày qua. Cụ thể, tàu 5304 từ Tam Á di chuyển xuống phía nam Bãi Tư Chính, nơi tàu 5403 đã hiện diện vài tuần qua. Tàu 5302 cũng đang hướng xuống Trường Sa trong khi các tàu 5204 và 5305 cũng đang từ Tam Á di chuyển xuống phía nam. Chưa rõ đây chỉ là đợt thay thế luân phiên các tàu hải cảnh Trung Quốc ở khu vực phía nam hay là sự tăng cường hiện diện của các tàu này.

– Tàu sân bay Sơn Đông hiện ở vẫn Tam Á song tàu Liêu Ninh đã rời Thanh Đảo khoảng ngày 16.9, chưa rõ di chuyển đi đâu.

– Những ngày vừa qua, Trung Quốc vẫn thường xuyên triển khai máy bay quân sự vào khu vực Vùng nhận diện phòng không của Đài Loan và vượt qua đường trung tuyến ở eo biển như thường thấy trong thời gian qua. Tuy nhiên, vài ngày gần đây chứng kiến sự gia tăng sử dụng các máy bay không người lái trong các đợt triển khai này, bao gồm các chiếc máy bay trinh sát WZ-7, BZK-007 và máy bay chiến đấu CH-4.

– Truyền thông Hàn Quốc đưa tin nhóm tác chiến tàu sân bay USS Ronald Reagan của Mỹ sẽ ghé cảng Busan trong tuần này và tham gia cuộc tập trận chung với phía Hàn Quốc.

2. Đài Loan

Tổng thống Joe Biden một lần nữa tuyên bố quân đội Mỹ sẽ bảo vệ Đài Loan trong trường hợp Trung Quốc phát động cuộc tấn công xâm lược hòn đảo này. Đây ít nhất là lần thứ tư ông Biden phát biểu về việc bảo vệ Đài Loan, song những gì ông tuyên bố trong cuộc phỏng vấn với chương trình 60 Minutes của CBS là câu trả lời rõ ràng và dứt khoát nhất từ trước đến nay về vấn đề này.

Như thường lệ, một đại diện của Nhà Trắng sau đó khẳng định chính sách của Mỹ về Đài Loan vẫn không thay đổi. Nhưng một số nhà quan sát cho rằng ông Biden không hề lỡ lời và ông đã xác định rất rõ ràng về vấn đề này, rằng Mỹ sẽ bảo vệ Đài Loan nếu Trung Quốc tấn công.

Một vấn đề đáng chú ý nữa là ông Biden phát biểu rằng: “Đài Loan đưa ra phán xét của riêng họ về nền độc lập của họ. Chúng tôi không khuyến khích họ độc lập. Đó là quyết định của họ”.

Phát biểu này dường như có chút thay đổi so với chính sách lâu nay của Mỹ là “không ủng hộ Đài Loan độc lập”.

Thay vì khẳng định điều này, ông Biden chỉ nói rằng Đài Loan đưa ra phán xét riêng của họ và Mỹ chỉ “không khuyến khích”.

Chi tiết này gợi nhớ đến việc Bộ Ngoại giao Mỹ từng xóa câu “chúng tôi không ủng hộ Đài Loan độc lập” trong Fact Sheet của họ về Đài Loan trong một thời gian ngắn vào tháng 5 trước khi cập nhật nó trở lại.

Hai sự việc này khiến người ta không khỏi nghi ngờ liệu có phải Nhà Trắng muốn tạo ra thêm sự mơ hồ về việc họ có phản đối Đài Loan độc lập hay không.

Diễn văn tạm biệt của Boris Johnson

Diễn văn tạm biệt của Boris Johnson

BS Trần Văn Tích

Sau 1140 ngày cầm quyền bính, Thủ tướng Anh quốc Boris Johnson bắt buộc phải rời dinh thự số 10 Downing Street theo đúng tinh thần dân chủ pháp trị của một thể chế văn minh.

Hành động cuối cùng của Thủ tướng là đọc diễn văn từ biệt. Từ biệt dân chúng, từ biệt chính trường, từ biệt quyền hành, từ biệt trách nhiệm. Thủ tướng thức dậy sớm vào hôm thứ ba mồng sáu tháng chín vì diễn văn được đọc lúc bảy giờ rưởi sáng trong ánh bình minh của thủ đô London, khi mặt trời mới bắt đầu ló dạng. Trong khi đó, người kế nhiệm của Boris Johnson, Bà tân Thủ tướng Liz Truss đọc diễn văn nhậm chức vào buổi chiều, trong một cơn mưa rào ngắn ngủi, vì trời sáng sủa trở lại khá nhanh trong lúc Bà Thủ tướng mới ngỏ lời với quốc dân.

Boris Johnson là người có học. Chuyên khoa của cựu Thủ tướng là sử học. Cho nên trong bài diễn văn ngắn đã có nhiều điển tích lịch sử được sử dụng, chứng tỏ trình độ kiến thức của người đứng đầu chính phủ nước Anh. Hơn nữa, bản văn chính luận đã văn chương mà còn hoa lệ. Boris Johnson thích thú vận dụng ẩn dụ trong bức thư tạm biệt của mình.

Ẩn dụ là một biện pháp tu từ tuy nằm trong phạm trù so sánh nhưng nằm ở một mức độ cao hơn, không còn vế bị so sánh, chỉ còn vế đem ra so sánh. Ẩn dụ gây tác dụng liên tưởng kín đáo hơn so sánh. Ẩn dụ không mang chức năng định danh mà là biểu cảm. Thuyền về có nhớ bến chăng / Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền (Ca dao). Ẩn dụ thử thách tài năng vận dụng ngôn từ của nhà văn. Ẩn dụ hay là một sự khám phá kỳ diệu, nó thu hút được sự chú ý của người nghe người đọc và tạo ra nhiều liên tưởng mới mẻ đến những khía cạnh khác nhau thuộc đối tượng được biểu hiện. Bây giờ mận mới hỏi đào / Vườn hồng đã có ai vào hay chưa ? / Mận hỏi thì đào xin thưa / Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào (Ca dao). Baudelaire thực tinh tế khi bảo rằng : Les parfums, les couleurs et les sons se répondent (Correspondances). Đó là ẩn dụ bổ sung trong thi ca, trong văn học.

Nhà văn học Boris Johnson ít nhất đã hai lần sử dụng ẩn dụ. Johnson tự ví mình với một hoả tiễn bổ trợ. Rồi ra hoả tiễn sẽ quay trở lại vũ trụ và biến mất tăm mất tích nơi một vùng biển Thái bình dương hịu quạnh và xa xôi. Boris Johnson cũng tự ví mình với Cincinnatus : “Giống như Cincinnatus, rồi ra tôi sẽ quay về với đồng ruộng của tôi“. Lucius Quinctius Cincinnatus (519-430 trước Công nguyên) sau hai lần nắm giữ chức quyền tối cao trong chế độ La mã xưa ((458 và 439) cuối cùng đã quay trở về canh tác ruộng vườn. Cơ sở tâm lý của ẩn dụ là sự liên tưởng : người nghe Boris Johnson nói – và người đọc Boris Johnson qua báo chí – nghĩ đến tính khí khiêm cung mà cao cả của diễn giả.

Tuy nhiên trong tuần lễ trước, Boris Johnson không hoàn toàn bác bỏ chuyện mình sẽ trở lại chính trường một ngày nào đó. Trong khi chờ đợi, Boris Johnson cam đoan sẽ hết lòng ủng hộ tân nữ Thủ tướng. Cả cựu lẫn tân Thủ tướng đều phải di chuyển đến điện Balmoral ở Aberdeen tại xứ Tô cách lan xa xôi, cách London đến 800 km, để được Nữ hoàng trao giấy mãn nhiệm và nhận từ Nữ hoàng uỷ nhiệm thư thành lập chính phủ vì Nữ hoàng gặp khó khăn khi di chuyển, theo thông cáo chính thức từ văn phòng hoàng gia. Đàng lẽ lễ nghi tiễn và đón Thủ tướng phải diễn ra ở điện Buckingham, Luân đôn.

Nhắc lại các thành tích do chính phủ của mình đạt được, Boris Johnson đề cập đến sự kiện Brexit đưa vương quốc Anh ra khỏi Liên Âu, đến chương trình chủng ngừa chống corona thành công trên một bình diện rộng lớn. Boris Johnson tránh không nhắc đến các vấp váp, các sai lầm mình đã phạm phải.

Mở đầu diễn văn từ nhiệm, Boris Johnson nói : “Xin cám ơn tất cả các bạn. Mọi sự đã xong xuôi. Cám ơn tất cả đã tới đây hôm nay thực là sớm. Trong vài giờ nữa thôi, tôi sẽ có mặt tại Balmoral để yết kiến Nữ hoàng và bó đuốc sẽ được trao cho một người chủ bảo thủ mới. Cuộc chạy tiếp sức đã diễn ra, người ta đã thay đổi luật lệ giữa chừng, nhưng thôi, chuyện đó không còn quan trọng nữa. Và qua cánh cửa sơn màu đen này, một tân Thủ tướng sẽ bước vào phòng để gặp một toán chuyên viên công chức thượng hạng – họ là những nhân vật đã hoàn tất vụ Brexit, đã phân phát thuốc chủng chống corona nhanh nhất cho dân chúng toàn quốc nếu so với các quốc gia khác ở Châu Âu và xin đừng quên rằng 70 % dân chúng đã được chích ngừa trong vòng sáu tháng, nhanh hơn bất cứ đất nước nào khác. Đó là chính quyền của các bạn. Đó là chính quyền bảo thủ.“

Diễn văn từ nhiệm của Boris Johnson có thể được xem như là một hiện tượng chính luận hoàn mỹ thuộc hoạt động của con người và thuộc nghệ thuật văn hoá. Cái đẹp trong diễn văn nói riêng, cái đẹp trong nghệ thuật nói chung, là biểu hiện của cái đẹp trong cuộc sống. Và cũng như trong cuộc sống, cái đẹp chân chính trong nghệ thuật luôn luôn gắn liền với cái thật, cái tốt. Tất nhiên sự gắn bó này mang những tỷ lệ khác nhau tuỳ theo thời đại – và thời sự –, tuỳ theo xuất xứ, tuỳ theo trình độ, tuỳ theo phong cách và tuỳ theo nhân cách của từng người.

Bài diễn văn tạm biệt mang sắc thái Anh đặc biệt. Nó vừa dí dỏm khôi hài vừa phớt tỉnh ăng-lê.

Nhưng nó rất trí thức.

BS Trần Văn Tích