Mối tình xuyên biên giới – truyện ngắn

Le Tu Ngoc

Khi bà Klavdia Novikova mất ở tuổi 94 tại làng Progress (Tiến bộ) vùng Viễn Đông, Nga, tiễn đưa bà chỉ có dăm ba người, không có người thân, không có bạn bè vì tất cả đã từ lâu về bên kia thế giới.

Chỉ ở Nhật Bản, các hãng truyền hình lớn nhất đã đưa tin đậm: Người vợ Nga của ông Yasaburo đã mất!

Ở đất nước mặt trời mọc, bà Klavdia đã trở thành biểu tượng của tình yêu và sự hy sinh: sống chung 37 năm, bà đã khuyên chồng trở về nước, về với người thân, về với người vợ Nhật đã chờ ông hơn nửa thế kỷ…

Klavdia và Yasaburo gặp nhau năm 1959 khi cả hai đều trải qua trại tập trung của Stalin. Bà bị kết án 7 năm tù vì tội “hoang phí tài sản XHCN”, còn ông phải 10 năm “bóc lịch” vì là “gián điệp Nhật”.

Cả hai lại cùng có nỗi đau riêng: bà đã có chồng, sinh con trai và chờ chồng trở về từ mặt trận. Nhưng khi bà bị kết án đưa đi vùng khỉ ho cò gáy là Kolyma, thì chồng bà trở về đã lập gia đình khác. Ông cũng không kém bi kịch: sau khi cưới vợ ở Nhật Bản đã cùng vợ trẻ đến sống ở Triều Tiên và ở đó họ sinh 2 con, 1 trai, 1 gái

Vào mùa thu năm 1945, hồng quân Liên Xô tiến vào Triều Tiên, đã bắt gần như tất cả người Nhật và đưa về Liên Xô cải tạo với tội danh “làm gián điệp chống Liên Xô”. Yasaburo ngồi tù cùng Klavdia ở gần thành phố Magadan. Khi ông ra tù, người ta lại quên không đưa ông vào danh sách tù binh chiến tranh để trao trả về Nhật. Thêm nữa, ông tuyệt vọng vì cứ nghĩ vợ con mình đã chết và sợ hãi không biết đi đâu về đâu, nên rốt cục quyết định nhận quốc tịch Liên Xô, đổi tên thành Yakov Ivanovich.

Họ gặp ngẫu nhiên. Nàng Klavdia thấy một người đàn ông gày gò với khuôn mặt không có nét Nga, mắt thì ngập tràn nỗi buồn mênh mang nên trái tim bỗng thắt lại vì thương cảm. Sau đó, bạn gái bà rủ bà đến sống ở làng Tiến Bộ, vùng Viễn Đông. Bà tạm biệt ông rời đi.

Yasaburo viết thư cho bà, nài nỉ đến sống cùng bà ở nơi mới. Ban đầu bà từ chối vì sợ liên lụy khi quan hệ với một hàng binh Nhật, nhưng rồi tình yêu đã thắng và họ sống chung gần 40 năm. Ông làm nghề cắt tóc, chụp ảnh và châm cứu, bà thì trồng cà chua, dưa leo, nuôi dê. Cả hai sống cơ hàn, nhưng êm ấm, hạnh phúc. Ông không bao giờ to tiếng với bà, nhưng chỉ tiếc là hai ông bà không có con.

Bà thổ lộ: “cả vùng không thể kiếm ra người đàn ông thứ hai: không uống rượu, không hút thuốc lá”.

Yasaburo đã mua về 2 cỗ quan tài để nếu có chết cả hai sẽ cùng chết một ngày.

Khi bắt đầu Cải tổ và tấm màn sắt gỡ xuống, một người thân đã kể cho các bạn hàng Nhật về một người Nhật kỳ lạ sống với vợ Nga ở làng Tiến Bộ. Họ về Nhật kiếm tìm người thân của ông Yasaburo, tìm thấy em trai ông, con gái ông và sau đó là người vợ Nhật tên là Hisako. Bà Hisako đã từ Triều Tiên về nước và vẫn chung thủy chờ chồng (con trai họ đã mất ở Triều Tiên). Bà hành nghề y tá và cả đời ky cóp đồng lương ít ỏi để xây cho mình và cho người chồng thất lạc một căn nhà nhỏ. Dù không chắc chắn ông còn sống hay đã mất, bà Hisako vẫn để tên chồng là người sở hữu nhà và tài khoản tiền tiết kiệm gửi ngân hàng. Khi tìm ra thì con gái họ đã ngoài 50 tuổi.

Sau đó, em trai và con gái ông sang Nga đến làng Tiến Bộ khuyên ông về nước, song ông đã từ chối nói với người vợ Nga “anh không bỏ em, em là tất cả với anh”.

Bà Klavdia đã quyết định đưa ông về lại Nhật vì ở đó điều kiện chăm sóc y tế tốt hơn với người già và nhất là thương cảm người vợ Nhật mòn mỏi chờ chồng, mòn mỏi sống với mong ước được thấy lại mặt chồng, được ôm chồng lần cuối…

Một mình bà Klavdia đã xoay sở làm cho ông hộ chiếu xuất ngoại, tự bà rút tiền tiết kiệm đổi ra đô la mua vé máy bay và chi phí ăn ở, đi lại cho ông...

Và lại còn ly dị ông để ở Nhật Bản ông có lương hưu cũng như có quyền sở hữu và thừa kế tài sản.

Tháng 3 năm 1997, bà chia tay với người chồng Nhật. Yasaburo vẫn thường gửi đồ từ Nhật về cho bà, hàng tuần cứ vào thứ bảy ông lại gọi điện thăm bà…

Sau khi biết được mối tình xuyên biên giới qua báo chí và cả phim tài liệu, truyện ký, người Nhật đã tổ chức quyên góp tiền cho chuyến đi tới Nhật của “bà Klavdia”.

Bà đến Nhật lúc đã ngoài 80 tuổi và lập tức trở thành nữ anh hùng ở đất nước này. Bà gặp người vợ Nhật của ông, cả hai ôm nhau khóc, họ hiểu nhau không cần phiên dịch.

Sau đó, bà còn 2 lần đến Nhật, lần cuối là có mặt dự ra mắt vở kịch viết dựa trên câu chuyện về mối tình giữa người phụ nữ Nga và một hàng binh Nhật. Ông Yasaburo và bà Hisako đều muốn Klavdia ở lại Nhật Bản, song bà đã từ chối vì muốn Yasaburo của mình “được sống đàng hoàng” và bà đã quen với cuộc sống đạm bạc ở Nga.

Hay tin bà mất, chàng Yasaburo lúc đó đã rất yếu viết thư gửi về làng bằng tiếng Nga:

Klavdia! Anh biết em đã mất và nỗi buồn tràn ngập trong anh. Anh đã định gọi điện cho em ngày 30/8 nhưng anh không còn sức. 40 năm sống cùng em ở Nga, em luôn bên anh, chăm sóc cho anh. Cảm ơn em về tất cả. Anh về được Nhật là nhờ những nỗ lực của em. Anh cám ơn em vô ngần. Anh còn nhớ chúng mình đã đóng quan tài cho cả hai. Giá còn sức khỏe, anh đã lao về bên em, ôm chặt em…nhưng anh không còn sức lực. Hãy ngủ ngon, Klavdia yêu dấu!

Yakov của em”

Từ FB Tuan Anh Đao

FB Tuấn Mai SG

Thánh Vinh-sơn Phaolô, linh mục người Pháp (1581-1660)-Cha Vương

Thánh Vinh-sơn Phaolô, linh mục người Pháp (1581-1660).

Hôm nay 27/09 Giáo Hội mừng kính Thánh Vinh-sơn Phaolô, (St. Vincent de Paul), nguyện xin thánh nhân chuyển cầu cho Bạn và gia đình nhé.

Cha Vương

Thánh Vinh-sơn Phaolô, (St. Vincent de Paul) linh mục người Pháp (1581-1660). Thánh Nhân được biết là người thương những người bệnh, người nghèo. Sinh ngày 24 tháng 4 năm 1581.  Nhà nghèo, hồi nhỏ phải đi chăn cừu. Hồi 19 tuổi, sau khi làm linh mục, Vincent vuợt biển đi kiếm món tiền một ông già để cho. Tầu bị cướp bắt, và Vincent bị bắt và bị bán cho người đánh cá bên bắc Phi, rồi lại bị bán cho người khác, ông này hứa cho Vincent nhiều tiền, nếu chịu theo đạo Hồi. Vincent lịch sự nhưng cương quyết từ chối, Vincent hết lòng cầu xin Chúa và Đức Mẹ gìn giữ. Cuối cùng cha trốn về Rôma. Sau khi học hỏi một năm, cha được gửi về Paris, nơi đây cha nhận làm tuyên úy cho Nữ Hoàng Margaret de Valois. Cha hài lòng với cuộc sống giầu sang, thoải mái.

Đến tuổi trung niên một biến cố đã thay đổi hoàn toàn cuộc sống của ngài. Trong lúc giải tội cho một nông dân nghèo khổ trong nông trại của gia đình Condis, sau khi ban phép tha tội, người nông dân đã nói với ngài thà rằng chết trong tội lỗi còn hơn là xưng tội với một linh mục hờ hững như ngài. Từ đó ngài nhận thức về ơn gọi linh mục của mình và dấn thân làm việc để giúp đỡ người nghèo.

1- Năm 1625, cha Vincent nhận thấy sự hiểu biết về Thiên Chúa của đám đông nông dân thật thô sơ và việc đào luyện linh mục còn nhiều thiếu sót, ngài kêu mời anh em cùng ngài làm việc lập nên một tu hội cho nam giới, đào luyện các linh mục coi sóc xứ đạo, nhất là các xứ đạo ở vùng quê.

Ngài đã xây nhiều bệnh viện, nhà mồ côi, cũng như nhà cho người bệnh tâm thần. Ngoài ra ngài còn quyên tiền để chuộc những người bị quân Hồi giáo bắt làm nô lệ ở Bắc Phi châu.

Danh tiếng ngài vang lừng khắp  Âu châu, các nhà quý phái sẵn sàng giúp đỡ các dự án của ngài. Tinh thần của thánh Vincent là yêu mến Chúa bằng cách phục dịch người nghèo. Châm ngôn của ngài là: “Người nghèo là chủ nhân và chúng ta là những kẻ tôi tớ”.

2- Năm 1633, Ngài lập Dòng Nữ Tử Bác Ái để trợ giúp và giáo dục các thiếu nữ bụi đời, săn sóc bệnh nhân và người nghèo.  Ngài đi khắp các khu phố nhặt những trẻ bỏ rơi về nuôi.  Nhờ vào sự quen biết với giới thượng lưu, ngài đã nhờ các bà tiếp tay trong các công cuộc từ thiện giúp đỡ người nghèo. Hai bà đã giúp đỡ và hăng say trong công việc của ngài là bà Louise de Marillac và bà De Condis. Hai bà trên đã giúp ngài thành lập Dòng Nữ Bác Ái.

Khi gần chết, ngài đã thốt lên: “ Lạy Chúa, con đã làm những việc theo lệnh Chúa, nay xin Chúa ban cho con những gì Chúa đã hứa.” Ngài đã an nghỉ trong Chúa vào ngày 27 tháng 9 năm 1660, lúc 80 tuổi.

Đức Giáo Hoàng Lêô 13 tôn thánh Vincent làm bổn mạng các hội Từ thiện Công Giáo. Ngày nay trên thế giới , hội Bác ái Vinh sơn đã lan tràn rất nhiều nơi. (Nguồn: mạng Dân Chúa)

Sau đây là những câu nói để đời của Thánh Nhân, Bạn hãy bỏ ra mấy phút để đọc và lắng nghe coi thánh nhân đang muốn nhắn nhủ Bạn điều gì mà đến gần với Chúa hơn.

(1) Anh em hãy nhớ rằng cuộc sống Kitô hữu là một cuộc sống hoạt động; chứ không phải chỉ là lời nói và mộng mơ.

(2) Vũ khí mạnh nhất để chống lại ma quỷ là đức khiêm nhường. Bởi vì, như ma quỷ không có bất cứ một ý niệm nào về sự “khiêm nhường” thì ma quỷ cũng không biết làm thế nào để rũ bỏ sự “khiêm nhường”.

(3) Chúng ta nên đơn giản trong tình cảm, ý tưởng, hành vi và ngôn từ, chúng ta nên làm những gì chúng ta thấy không có sự giả tạo hoặc lừa lọc trong đó. 

(4) Tôi ước muốn từng giây phút quá khứ, hiện tại và tương lai đều được tôi cũng như mọi người sử dụng một cách tốt nhất.

(4) Trên thiên đàng chúng ta sẽ nghỉ ngơi.

(5) Một người càng tấn tới trong việc yêu mến Thiên Chúa thì nhất định càng yêu thích đau khổ, chịu bị khinh thường, đó chính là dấu hiệu của lửa tình ái, những thứ khác đều là mây khói.

Câu nào đánh động bạn nhất? Đối với mình thì câu (3) và (4)

From: Đỗ Dzũng

BÀI THƠ VỀ XÁC NGƯỜI BÓ CHIẾU CHỞ TRÊN XE GẮN MÁY

Vui Bình Chí

Dòng tin trên mạng cụt ngủn và khô khan “vợ bệnh nặng không có tiền trả viện phí, chồng chích điện cho vợ chết rồi tự tử theo”. Cụt ngủn và khô khan nhưng chứa đầy nước mắt. Bởi đó là 2 nhân sự cấu thành nhân loại, vợ và chồng kết hợp với nhau để thành nhân loại, nhân loại chết rồi thì ma quỷ sống với ai ?

Ấy thế mà ma quỷ vẫn sống. Chúng vẫn sống nhăn răng trên đầu trên cổ nhân loại bằng hệ thống ăn chia từ trên xuống dưới bằng tiền kit test, tiền thu từ những chuyến bay giải cứu, bằng xây dựng cổng chào tượng đài, BOT chằng chịt, bằng các công trình nhà máy phá sản có bàn tay lông lá của ngoại bang phương Bắc. Ma quỷ sống để hoàn thành mảnh ghép của trục ác toàn cầu.

Ma quỷ ở những nước nghèo ghê rợn hơn nước giàu. Chúng còn ăn tươi nuốt sống luôn cả quan tài người chết khiến có chuyện anh ruột phải bó chiếu chở xác em gái trên xe gắn máy hàng trăm cây số để về quê mai táng.

Tóm tắt vì không có tiền thuê xe cấp cứu nên tự túc chở xác về quê.

Cũng giống như một tóm tắt khác “vợ bệnh nặng không có tiền trả viện phí nên 2 vợ chồng chọn cách tự sát”.

Vẫn chỉ là một dòng tin cụt ngủn và khô khan lọt thỏm giữa những chuyến công du nước ngoài của bọn quan chức tai to mặt lớn bụng phệ. Nhưng BÀI THƠ VỀ XÁC NGƯỜI BÓ CHIẾU CHỞ TRÊN XE GẮN MÁY thì không khô khan cụt ngủn đâu. Bài thơ sẽ là lửa cháy thiêu đốt ma quỷ…

BÙI CHÍ VINH

BÀI THƠ VỀ XÁC NGƯỜI BÓ CHIẾU CHỞ TRÊN XE GẮN MÁY

Đất nước nghèo mạt hạng

Anh bó xác em vào manh chiếu cột sau xe

Bọn quý tộc đỏ tiền muôn bạc vạn

Mở mắt mà coi chân người chết xanh lè

Mở mắt mà coi dân chúng chửi thề

Có đánh bắt xa bờ, cá cũng không ăn được

Vua quan hàng ngày tẩm bổ nhân sâm

Trong khi con nít ốm đau không có thuốc

Đất nước biến thành chư hầu Trung Quốc

Lũ Mạc Đăng Dung quỳ mọp trước thiên triều

Đám Lê Chiêu Thống xem dân như thù địch

Gò Đống Đa đồng nhân dân tệ phủ xanh rêu

Đất nước nghèo bởi một bầy sâu

Gặm tất cả tài nguyên đem dâng giặc

Thân xác Việt Nam mà hồn vía tận nước Tàu

Có biến cố là quay đầu phương Bắc

Đất nước quá nghèo nên anh bó xác

Chở em đi lủng lẳng khóc cuộc đời

Bọn quý tộc đỏ quá giàu nên không dư nước mắt

Chúng dại gì cho nước bốc thành hơi…

BCV

Hình chụp người anh bó chiếu chở xác em gái hàng trăm cây số để về quê

BI KỊCH

Lê Vi

BI KỊCH

Có thể chỉ là bi kịch của một gia đình, một số phận khắc nghiệt của hai vợ chồng. Cũng có thể chỉ là một mẩu tin rất nhỏ trong hàng trăm tin nóng đang ngập tràn trên báo chí hàng ngày có thể người đọc sẽ đọc lướt qua. Nhưng tin đó sẽ có người đặt câu hỏi chúng ta đang sống thời kỳ nào mà có những số phận bi đát đến tận cùng như thế này. Có một thời, văn học đã có nhiều tác phẩm tố cáo chế độ thực dân, phong kiến với những nhân vật bế tắc không lối thoát, với những con người ngặt nghèo trong cuộc sống phải tìm đến cái chết. Và người ta kêu gọi đứng lên để đạp đổ chế độ ấy để xây dựng một chế độ tốt đẹp hơn.

Thế nhưng hoàn cảnh của những nhân vật xa xưa ấy chưa đến nỗi khốn cùng như hai nhân vật trong bản tin này. Hiện nay rất nhiều người tham nhũng hàng trăm hàng ngàn tỷ, tài sản nhiều không kể xiết như lão Hòa Thân bên Tàu ngày xưa. Có kẻ dưới vỏ bọc là doanh nhân thành đạt phát biểu hùng hồn chỉ cần có 230 tỷ, hay 100 tỷ là đủ, tiền nhiều chi cho khổ. Nhưng các ông bà ấy không hướng dẫn, giải thích số tiền tỷ đó lấy từ đâu ra, làm sao có được? Có ông lại bảo, tiền nhiều để làm gì? Những ông cán bộ tham nhũng, những doanh nhân thành đạt đó có bao giờ nghĩ đến những số phận không may vì không có tiền chữa bệnh mà phải dùng điện chấm dứt cuộc đời cả vợ lẫn chồng như thế này không? Toà án đang xử kẻ bị kết án là sát nhân. Thế nhưng đằng sau kẻ sát nhân này, ai mới là kẻ thật sự có tội? Ai mới thật sự là kẻ giết người? Chúng ta vẫn là những kẻ bị số kiếp săn đuổi và cũng là những kẻ có tội? Tội nghèo lại dám có bệnh trong xứ sở không còn nhà thương thí.

Cuộc sống sẽ vẫn trôi đi. Những số phận bất hạnh này rồi cũng bị quên lãng theo thời gian. Những số phận khác sẽ lần lượt tiếp nối. Nghĩ cho cùng xã hội chúng ta đang sống đầy những bi kịch. Nhà nước đang ở xa quá, đang bận rộn với những dự án, kế hoạch vĩ mô. Thân phận con người đã bị lãng quên và chấp nhận đầu hàng số phận. Cái chết là sự lựa chọn bởi không còn cách nào khác.

26.9.2022

DODUYNGOC

Tại sao ta tin “xác sẽ sống lại”?-Cha Vương

 Tại sao ta tin “xác sẽ sống lại”?

Chúc bạn và gia đình ngày đầu tuần bình an và hạnh phúc trong Chúa nhé.

Cha Vương

Thứ 2: 26/09/2022

GIÁO LÝ: Tại sao ta tin “xác sẽ sống lại”? Thánh Kinh khi nói về “thân xác” là muốn nhắm đến con người trong tình trạng mỏng giòn và phải chết. Tuy nhiên, Thiên Chúa cũng không coi “thân xác” con người là thấp hèn kém giá trị. Trong Đức Giêsu Kitô, chính Thiên Chúa đã mặc lấy xác phàm, để cứu chuộc loài người. Thiên Chúa cũng không chỉ cứu linh hồn con người, nhưng Người cứu toàn bộ con người có hồn và xác. (YouCat, số 153)

SUY NIỆM: Thiên Chúa đã dựng nên con người có xác và hồn. Đến Tận thế Người sẽ không để cho “xác” nghĩa là toàn thể thụ tạo vật chất rớt xuống như một đồ chơi cũ kỹ. Đến “ngày sau hết” Người sẽ làm cho ta chỗi dậy như những vật có xác thịt – nghĩa là ta sẽ được biến đổi, nhưng ta sẽ vẫn cảm thấy mình ở trong yếu tố của mình. Đối với Chúa Giêsu cũng vậy, việc ở trong điều kiện có xác không phải chỉ trong một giai đoạn.

❦ Khi Đấng Phục Sinh hiện ra với các môn đệ, các môn đệ trông thấy các vết thương ở xác Người. (YouCat, số 153 t.t.)

LẮNG NGHE: Và Ngôi Lời đã trở nên người phàm (có xác) và cư ngụ giữa chúng ta. (Ga 1,14)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, “Nơi Người, niềm hy vọng sống lại vinh phúc đã chiếu toả trên chúng con, để những ai buồn sầu, vì số phận chắc chắn phải chết cũng được an ủi, vì Chúa đã hứa ban phúc trường sinh bất diệt sau này. Vì, lạy Chúa, đối với các tín hữu Chúa, sự sống thay đổi chứ không mất đi, và khi nơi nương náu ở trần gian bị hủy diệt tiêu tan, thì lại được một chỗ ở vĩnh viễn trên trời. (Lời Tiền Tụng cầu cho Tín Hữu Qua Ðời I) Lạy Chúa con tin tưởng và hy vọng nơi Ngài.

THỰC HÀNH: Khi nhắm mắt, hai tay mở ra buông suôi, mọi sự đều phân tán, chỉ còn: Opera enim illorum sequentur illos (những công việc họ làm đi theo họ) Câu phương châm này có ý nghĩa gì đối với bạn? Bạn mang theo được những gì khi cái chết đến gõ cửa nơi bạn? 

From: Đỗ Dzũng

Nghĩ về một sự tự huỷ mình của một cô giáo

Nghĩ về một sự tự huỷ mình của một cô giáo

 Bởi   AdminTD

Lê Nguyễn

26-9-2022

Tôi nhớ cách đây 45-46 năm, đọc trong phần cuối bộ truyện Anna Karenine, thấy văn hào Nga Leon Tolstoy có một đoạn dài miêu tả tâm trạng và những diễn biến tâm lý của nhân vật nữ. Những suy nghĩ, dằn vặt quay cuồng trong đầu cô gái, càng lúc càng dâng cao, càng lúc càng căng thẳng, cuối cùng cô gái chỉ còn có một chọn lựa cuối cùng là nhảy vào đoàn xe lửa đang chạy.

Dù đã gần nửa thế kỷ không đọc lại tác phẩm này, song ấn tượng mà tôi có được từ những trang viết của văn hào Tolstoy khiến tôi nhớ mãi. Ông viết tinh tế, sâu sắc đến nổi khi ấy, tôi tự nhủ rằng nếu mình lâm vào hoàn cảnh như cô gái kia, trong đầu mình cũng quay cuồng những suy nghĩ, những tâm trạng đó, chắc mình cũng lao đầu vào đoàn xe lửa mất!

Mấy ngày qua, tình cờ đọc tin về sự tự sát của một cô giáo ở độ tuổi 30, bỗng nhiên mình nhớ đến tác phẩm Anna Karenine của văn hào Tolstoy. Với mình, khi có một quyết định dứt khoát như thế, cô giáo đáng thương ấy đã phải trải qua những ngày giờ căng thẳng cùng tột, trong những hoàn cảnh bi đát như thế nào. Trong một xã hội mà khái niệm tự do dù có bị hạn chế đến đâu, con người vẫn còn một thứ tự do gần như tuyệt đối, đó là tự do quyết định kết thúc cuộc sống của mình.

Trên mạng xã hội những ngày qua, cái chết của cô giáo ấy gợi lên trong lòng nhiều người nỗi cảm thương sâu sắc. Người ta liên tưởng đến thân phận một tầng lớp “trồng người” đang bị đè nèn, giày vò bởi một cơ chế giáo dục cần được cải thiện, đổi mới từng ngày, từng giờ; những người làm giáo dục còn có lương tâm hẳn cũng phải nghĩ đến một phần trách nhiệm của mình trước cái chết thương tâm của một nhà giáo nằm trong chức trách lãnh đạo, hướng dẫn, động viên, hỗ trợ và cả yêu thương của mình. Cái chết đó không chỉ là sự chọn lựa cách giải thoát phù hợp trong tình thế khốn cùng nhất mà còn là tiếng chuông cảnh tỉnh gióng lên trong một xã hội mà rất nhiều giá trị bị đảo lộn, đạo đức của con người bị băng hoại trước sự cám dỗ của quyền lực, sự chi phối của đồng tiền.

Vậy mà trong cái chết ấy, có một số kẻ nhận định đó là cái chết “lãng xẹt, nhạt nhẽo, yếu đuối, ích kỉ…”. Phải chăng họ lấy cuộc sống đầy đủ, nhởn nhơ của họ làm lăng kính soi rọi vào cuộc sống của người khác và chê bai, phê phán những cuộc sống nào không phản ánh được những gì toát ra từ cuộc sống của họ? Trước một cái chết thương tâm vì hoàn cảnh xã hội đè nặng lên cuộc đời một nhà giáo, những lời phê phán của họ không chỉ nói lên sự nhẫn tâm, mà còn tố cáo tính cách nông cạn của họ. Ngày 30.4.1975, khi các tướng VNCH Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng … tự tìm đến cái chết, họ có lãng xẹt và ích kỷ không? Hay là từ gần 50 năm qua, hàng triệu người Việt Nam đã vinh danh những cái chết đó và cúi đầu tự thẹn trước sự tồn tại nhục nhằn của chính mình?

Không nhỏ được giọt nước mắt nào xót xa cho thân phận một đồng bào, đồng nghiệp của mình thì xin đừng mượn cái chết của họ để đánh bóng mình bằng những lời phê phán vô tâm và lạc điệu.

Cái chết đáng thương của một nhà giáo, từng theo đuổi một nghề cao quý luôn được xã hội đề cao, thêm một lần cảnh tỉnh cho những người có trách nhiệm trong ngành quản lý giáo dục. Và cũng là một kinh nghiệm cho những đồng nghiệp của cô, cố làm sao đừng để lâm vào những cảnh ngộ như cô, để phải đau đầu trước sự chọn lựa giữa sự sống nhục nhằn, bất lực,và cái chết thương tâm.

Trong một tương lai gần, nếu không có những cơ chế quản lý khoa học, hợp lý, dựa trên một nền tảng giáo dục nhân bản thì những cái chết như thế sẽ tiếp tục diễn ra và tiếp tục là nỗi ám ảnh của mọi người!

Di chúc cho cả nhân loại đang bám cái PHÙ DU quên bản thân !

  Xin suy ngẫm

Nên đọc bài này !!!

Chủ Tịch tập đoàn Samsung, Lee Kun Hee, qua đời ngày 25/10/2020 sau 6 năm nhập viện vì một cơn đau tim.

Và đây là lá thư ông gửi tới những người còn trẻ:

“Gửi những người còn khỏe mạnh đang đọc thư của tôi,

Ngay cả khi bạn không bị ốm, bạn có thể đi kiểm tra sức khỏe hàng năm, uống nhiều nước ngay cả khi bạn không khát, học cách rũ bỏ mọi điều phiền muộn.

Cuộc sống cho đi và cho đi không có gì là xấu, vì vậy hãy sống đi.

Nếu bạn có tiền và quyền lực, đừng tự hào.

Hãy biết rằng bạn hài lòng với những điều nhỏ nhặt, ngay cả khi bạn không giàu, chỉ cần bạn biết cách nghỉ ngơi thì sẽ không mệt mỏi. Dù bận rộn đến đâu hãy vận động và tập thể dục trở lại.

Biên lai chứng minh giá trị của bộ quần áo trị giá 3.000 won.

Đối với một chiếc ô tô trị giá 30 triệu won, một tấm séc chứng minh điều đó.

Giấy tờ căn nhà chứng minh căn nhà trị giá 500 triệu won.

Bạn có biết điều gì chứng minh giá trị của một người không?

Đó là một cơ thể khỏe mạnh!

Đừng gõ số tiền chi tiêu cho sức khỏe của bạn bằng máy tính.

Số tiền bạn có khi bạn khỏe mạnh được gọi là tài sản, số tiền bạn nắm giữ sau khi ốm chỉ là di sản.

Có rất nhiều tài xế trên thế giới lái xe giúp bạn, sẽ có ai đó trên thế giới này sẽ kiếm tiền cho bạn, nhưng không ai có thể chịu tổn thương thay cho thân thể của bạn.

Nếu bạn đánh mất thứ gì đó, bạn có thể tìm lại hoặc mua nó, chỉ có một sinh mệnh vĩnh viễn không lấy lại được!

Tiền có ích gì khi tôi ở đây?

Việc theo đuổi sự giàu có vô hạn đã khiến tôi chỉ còn là một ông già tham lam.

Khi tôi chết, biệt thự sang trọng của tôi sẽ dành cho người khác không phải tôi.

Khi tôi chết, chìa khóa chiếc xe sang trọng của tôi sẽ rơi vào tay ai đó.

Nhiều thứ mà tôi đã từng biết và tận hưởng một cách hiển nhiên, tiền bạc, quyền lực và chức vụ giờ chỉ còn là rác…

Vì vậy, những người sống trong nửa đầu: Đừng sống quá tệ!

Những người sống trong nửa sau: Vì trò chơi vẫn chưa kết thúc, vì mọi năm vui vẻ, yêu bản thân từ bây giờ.

Tôi, người đã giành chiến thắng chói sáng trong hiệp một, hiệp hai không thể vượt qua cơn bạo bệnh và kết thúc với thất bại.

Tuy nhiên, tôi cảm thấy niềm vui ấm áp khi có thể gửi bức thư này cho bạn.

Những người đang bận rộn sống trên thế giới…

Yêu và chăm sóc cho bản thân…

Bất lực của tôi bây giờ chỉ cầu chúc cho bạn may mắn!”

Sưu tầm

Cố chủ tịch Samsung Lee Kun Hee và người con trai duy nhất của ông Lee Jae Yong còn được biết đến với tên tiếng Anh là Jay Y. Lee – Ảnh chụp màn hình Yonhap

“Stress” Và Trầm Cảm Thời Đại

“Stress” Và Trầm Cảm Thời Đại

Theo thống kê của Tổ Chức Y tế Thế Giới (WHO) cho biết cứ 40 giây trôi qua thì nhân loại có một người tự tử, mỗi năm có khoảng một triệu người tự kết liễu đời mình (trung bình 2.900 người/ngày)! Con số tử vong này nhiều hơn do: sốt rét, ung thư vú, chiến tranh và tội ác gộp lại, người ta còn cho biết có từ 10 – 20 triệu ca được cứu sống mỗi năm! Hiện khoảng 350 triệu người trên thế giới đang mắc chứng trầm cảm (riêng tại Việt Nam là khoảng 25%); những dòng chữ rất khẩn thiết như: “Hãy cứu lấy người trầm cảm”“Người tự tử không chạy trốn, mà bởi họ không còn có thể chạy trốn” vẫn thấy đây đó trên các mạng xã hội! Nhưng dường như cả thế giới đã bất lực trước “Stress” và Trầm cảm!?

“Stress” theo tiếng Việt tạm dịch là căng thẳng! Lúc đầu bệnh nhân bị mất ngủ, kèm theo: chóng mặt, đau đầu, hồi hộp, mất khả năng tập trung. Tuy nhiên, stress chỉ xảy ra trong một khoảng thời gian ngắn và tự khỏi nếu biết cách khắc phục. Trầm cảm cũng tương tự như “stress” nhưng tình trạng kéo dài và ngày càng tệ hơn, cần được điều trị, nếu không người bệnh dễ nghĩ đến cái chết.

WHO cũng đã gióng lên những hồi chuông báo động đến 10 quốc gia hàng đầu có nạn tự tử cao nhất hành tinh, trung bình từ: 20.5/100.000 người – 31/100.000 người mỗi năm, bao gồm: Belarus, Latvia, Sri Lanka, Lithuania, Hungary, Slovenia, Kazakhstan, Guayana, Hàn Quốc và Nhật Bản.

Thêm vào đó tình trạng thanh thiếu niên Châu Á tự tử cũng đã gia tăng do áp lực từ nhà trường và gia đình, bao gồm: Ấn Độ, Bangladesh, Thái Lan, Nhật Bản, Miến Điện, Hàn Quốc, Singapore, Philippines, Campuchia, Indonesia, Trung Quốc, Malaysia và Việt Nam! Chuyện đau lòng ở bên nhà đã kể rằng một nam sinh với điểm trung bình là: 8,9 chỉ thiếu 0.1 điểm nữa thì em đạt được “thành tích” Học Sinh Xuất Sắc! Vì sợ hai đấng sinh thành thất vọng vì mình nên cậu đã chọn cái chết và để lại thư tuyệt mệnh với nội dung:”Con xin lỗi ba má, con không đáp ứng được mong mỏi của ba má, con xin lỗi!”. Không riêng gì cậu học sinh đáng thương này mà có rất nhiều em ở Việt Nam đã ra đi vì: thứ hạng và điểm số từ căn bệnh “trầm cảm học đường”.

Đặc biệt trong thời gian cả hành tinh gồng mình đối phó với đại dịch Covid 19, vấn nạn tự tử đã tăng vọt trên khắp toàn cầu. Riêng tại Mỹ vào tháng 8 năm 2021, Tiến sĩ Victor Fornari, Phó Trưởng Khoa Tâm Thần tại Bệnh viện Zucker Hillside ở Glen Oaks, New York, cho biết trẻ vị thành niên tự tử tăng 50% và số ca nhập viện vì rối loạn ăn uống tăng gần 300% . Đại dịch đã làm cho các em bị stress khi phải vật lộn với cách học tập online; thêm vào đó các bậc phụ huynh do bị mất việc làm, căng thẳng nên đã trút hết lên con cái của mình, đưa đến hậu quả đáng tiếc như trên.

Thế mới biết “stress”, trầm cảm không chừa một ai trên đời này, nó không phân biệt tuổi tác, giới tính, tôn giáo, quốc tịch, địa vị xã hội … Họ còn có thể là những chính trị gia, là diễn viên, ca sĩ, ngôi sao lừng danh trên thế giới; sự nghiệp của họ với những thành công vượt bậc luôn là niềm mơ ước của hàng tỷ người trên hành tinh. Cái chết của siêu sao Robin William, của đầu bếp kiêm nhân vật truyền hình gạo cội Anthony Bourdain đã để lại cho người hâm mộ bao tiếc nuối. Đặc biệt trong vài năm gần đây thế giới đã nói lời chia tay với nhiều nhân vật nổi tiếng trong giới showbiz của Nhật Bản và Hàn Quốc. Jane Powell, Giám đốc tổ chức từ thiện CALM nhận định: “Đúng là họ được ngưỡng mộ, yêu thương và giỏi giang nhưng lại rất khắt khe với bản thân“.

Có thể nói “stress”, trầm cảm đã đồng hành với con người qua bao đời nay và mãi mãi sẽ không có ngày kết thúc.

Thời buổi công nghệ cao đã đem đến cho chúng ta những thành tựu đáng kể, góp phần làm thăng hoa đời sống về nhiều mặt; nhưng bên cạnh đó nó cũng đưa đến những hệ lụy chưa từng có. Các nhà khoa học đã cho biết người “nghiện nặng” điện thoại cá nhân lâu ngày sẽ đưa đến tình trạng Rối Loạn Tuần Hoàn Não! Đây là nguyên nhân của: căng thẳng kéo dài, liên tục thức khuya, sinh hoạt kém khoa học! Trầm cảm ở giới trẻ đang có xu hướng tăng vọt một cách vô cùng đáng sợ!

Thiền sư Ajahn Brahm đã đưa ra câu chuyện rất đáng suy gẫm: Thầy giáo hỏi cậu bé học sinh 11 tuổi rằng em muốn làm việc gì khi lớn lên?

Cậu bé trả lời ngay rằng em muốn trở thành chiếc iPhone hoặc iPad. Thầy giáo ngẩn người bối rối hỏi tại sao. Cậu bé trả lời : “Em muốn trở thành chiếc iPhone hoặc iPad để ba mẹ dành nhiều thời giờ hơn cho em. Ba mẹ em luôn luôn cầm chiếc iPhone hay iPad trong tay và mỗi lần em muốn nói chuyện với ba mẹ thì ba mẹ nói em chờ vài phút để ba mẹ gửi xong tin nhắn hay email, nhưng rồi ba mẹ không bao giờ có thời giờ dành cho em. Nếu em là chiếc iPhone hay iPad thì ba mẹ sẽ luôn luôn ở bên em.”

Nếu ai là người hay đi “gym” thì chắc sẽ thông cảm với những kẻ bận rộn như tôi! Hầu như chiều nào sau giờ làm việc tôi cũng phải vừa tập, vừa nhìn đồng hồ để còn về nhà kịp nấu bữa cơm chiều cho gia đình; ấy vậy mà những cái máy tôi đang muốn sử dụng thì đã có người ngồi “ì ra” với cellphone trên tay họ! Hay những “tạ thủ” vừa đẩy được vài cái là ngưng ngang, lôi điện thoại ra dòm-một-lát rồi mới tập tiếp; hoặc khi di chuyển từ cái máy này sang cái máy khác, vừa ngồi xuống là họ phải ghé mắt vô cellphone một chập mới thỏa lòng. Còn việc vừa đi bộ, vừa đạp xe, vừa leo cầu thang, vừa nói chuyện huyên thuyên với: headphones, earphones hay earbuds gắn trên tai là đã hết sức bình thường rồi! Cái tôi muốn nói ở đây là một thói quen. Thói quen của đại đa số người trên hành tinh hiện nay là lúc nào cũng phải có cái gì đó cầm trong tay để nhìn, để đọc, để “chat”, để “còm”, để “up” hình… mọi lúc, mọi nơi! Người ta nghiện cellphone và những ứng dụng của nó còn nhiều hơn nghiện thuốc lá, bia rượu và chất cấm nữa.

Vào những giờ nghỉ “break” trong hãng, nhìn quanh tôi thấy mình như đang lạc vào “mê cung” của biết bao người đang: vừa nhai, vừa đọc, vừa nói chuyện, vừa hát… trước cái cellphone của mình! Thậm chí hai vợ chồng, hai người bạn thân, bạn trai, bạn gái, dù đang ngồi cạnh nhau nhưng mắt họ không hề rời cái điện thoại trên tay. Họ dường như đang ở một cõi rất riêng khó ai “chạm” đến được! Trong bữa ăn hay họp mặt của nhiều gia đình hiện nay, cảnh mọi người vừa ăn vừa dí mắt, dí tay vào cell phone hay ipad đã không còn xa lạ nữa. Thậm chí có nhà đã “miễn” việc ăn cơm chiều cùng nhau như trước, mạnh ai nấy ăn trong phòng riêng của mình với … cái màn hình trước mặt! Thế giới này dường như đang xảy ra một sự “mất kết nối” với những người đang sống chung quanh mình thì phải?

Tôi cũng đã từng là một người nghiện cellphone khá nặng! Nhưng giờ đây tôi đã có thể để nó ở ngoài xe trước khi vô hãng, vô gym, vô chùa; hay khi đang làm vườn, nấu ăn … tôi hoàn toàn không nhớ đến cái điện thoại của mình nữa. Chắc chắn là đã có những cuộc gọi tôi đã không bắt kịp! Nhưng đâu hề gì!!! Nếu quan trọng thì họ sẽ gọi lại hoặc nhắn tin cho tôi ở đâu đó. Thế giới này nếu không có tôi thì mọi việc vẫn diễn ra theo cách của nó! Chỉ biết là tôi thấy rất vui mừng vì đã giành lại chủ quyền cho mình sau một thời gian bị “đánh cắp” từ một thiết bị quá-thông-minh! Và dĩ nhiên cái “smartphone” kia chẳng có lỗi gì cả; chẳng qua chỉ vì tôi đã buông lung, không làm chủ được mình mà thôi.

Theo Anna Lembke, một nhà Tâm Thần Học và là Giáo sư tại Đại học Stanford cho biết sự bùng nổ các ứng dụng trên cellphone và trò chơi điện tử đang gây ra một làn sóng nghiện Dopamine quá mức, đưa đến những tác hại không sao lường được! Có thể tạm dịch Dopamine là “hormone hạnh phúc”, chúng có nhiều tác dụng tốt đối với tinh thần và thể chất của con người. Vị Bác sĩ này cho biết bệnh nhân của bà có người còn rất trẻ nhưng đã bỏ học, chỉ ở nhà chơi game suốt ngày đêm và có dấu hiệu trầm cảm, muốn tự tử!!! Anna Lembke đã giúp họ từng bước kiểm soát các hành vi để dần tìm lại chính mình.

Với đà phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật, trong vài thập niên nữa người ta tiên đoán trí tuệ nhân tạo sẽ đi trước con người! Điều này hứa hẹn sẽ có những thiết bị kỹ thuật số siêu việt, vũ khí hóa học, bom nguyên tử tối tân hơn nữa sẽ ra đời… Và không ai biết được hành tinh này sẽ ra sao khi mà nhiều đất nước trên thế giới hiện nay vẫn luôn đặt quyền lợi chính trị, tư hữu cá nhân lên trên tôn giáo.

Tôi cũng là một con người đang “bơi” trong cái biển khổ này!

Tôi đã từng bị “stress” khi đặt chân đến Mỹ định cư, và nếu không có những lời khuyên của mẹ mình thì không biết tôi đã ra sao hôm nay. Đó là một giai đoạn vô cùng khó khăn mà tôi phải đối diện, khi cuộc đời mình đã lật sang một chương mới với quá nhiều khác biệt!!! Phải mất gần cả thập niên sau đó tôi mới dần tìm được sự cân bằng trong cuộc sống từ những bài Pháp đơn giản của mẹ mình, giờ là qua những lời giảng của các quý Sư Cô tại ngôi thiền tự mà tôi thường đến đây sinh hoạt hàng tuần. Đối với tôi đó quả là một nhân duyên rất lớn của đời mình.

Giờ đây nhìn lại bạn bè và những người chung quanh mình tôi mới thấy rằng hầu như ai cũng có một nỗi khổ đau riêng: người khổ vì gia đình, người khổ vì bệnh tật, túng quẫn… người nghèo thì khổ đã đành nhưng người giàu cũng…khóc. Có hai anh em nhà kia sống trong một gia đình mà người cha vô cùng gia trưởng; ông đối xử với vợ con rất hà khắc và luôn cho mình cái đặc quyền tối cao trong nhà. Ba mẹ con đã sống vô cùng khổ sở và không biết cách nào “chuyển hóa” được chồng và cha của mình.

Cuối cùng hai anh em đã bàn với nhau, một trong hai người sẽ tự tử để thức tỉnh thân phụ của mình, và người anh đã mãi mãi nằm xuống khi tuổi đời còn rất trẻ. Tôi được biết câu chuyện này qua lời kể của cô bạn thân thời sinh viên và cũng là con dâu duy nhất trong gia đình đó.

Có người đang nằm trên giường bệnh với những đau khổ tận cùng khi thân tứ đại sắp tan rã, họ chỉ cầu xin “quyền được chết” từ mũi tiêm trợ tử; nhưng các Bác sĩ vẫn sẽ nói “Không”! Về mặt tâm linh thì các tôn giáo cũng không đồng tình về việc này. Trên thực tế có nhiều người đã ra đi nhẹ nhàng thanh thản như ngủ, thậm chí có người còn biết trước khi nào mình sẽ chết; nhưng cũng có kẻ bị hành thân xác hàng năm trời mới trút được hơi tàn. Một nền minh triết đã cho rằng mọi việc xảy ra trên thế gian này đều do duyên sinh, không có gì là tình cờ và ngẫu nhiên cả; chẳng qua con mắt của kẻ phàm phu không có được “Thần Túc Thông” để nhìn thấu đáo tận cùng mà thôi. Do vậy sống-chết là lẽ thường của thế gian, nhưng vẫn là một ẩn số với mỗi người khi Thần Chết gọi đến tên.

Nếu ngày hôm nay ai đó trong chúng ta đang được quá nhiều phước báu với: tướng mạo xinh đẹp, gia đình hạnh phúc, địa vị xã hội đáng kính nể thì đó là do quả lành trổ từ những thiện duyên gieo trồng từ trước. Nhưng đó cũng chỉ là chuyện của hôm nay vì không ai biết được ngày mai sẽ ra sao. Chỉ khi nào hôm nay chúng ta tiếp tục gieo những nhân tốt, thì cây đời sẽ lại tiếp tục cho ra những quả ngọt. Và nếu như ai đó đã không may mắn: luôn gặp những thất bại, phiền não và đầy rẫy những điều xui rủi trong cuộc sống thì xin hãy đừng bi ai, vì có câu:”Phiền não tức Bồ Đề!”. Thường chỉ khi đã trải qua cái khổ, thấy những điều khổ người ta mới tìm cách thoát khổ. Có câu ”Nhân thân nan đắc – Thân người khó được”! Nó khó hơn cả việc con rùa mù sống trong đại dương, trăm năm mới trồi đầu lên một lần và lọt đúng vào bọng cây đang lênh đênh trên biển”. Vì thế hãy quý lấy thân mình mà đừng làm tổn thương nó! Bệnh tật là khổ, nhưng đôi khi nó giúp chúng ta: loại bỏ tâm kiêu mạn, thôi thúc thực hành bố thí, giúp tăng trưởng lòng từ bi, cảm nhận cuộc sống là vô thường…

Những nguyên nhân chính đưa đến “stress” và trầm cảm thường là do: phiền não, không chấp nhận với hiện tại, là không hài lòng với cái mình đang có… Mình cứ muốn mọi sự việc diễn ra theo suy nghĩ của mình, theo ước mơ của mình, theo nguyện vọng và hoài bão của mình; mà dường như chúng hay đi theo chiều ngược lại, do vậy mới có đau khổ. Chi bằng hãy tập chấp nhận, tập buông bỏ, tập suy nghĩ tích cực, tập sống tỉnh thức… để thấy rằng bão giông rồi sẽ đi qua, ngày mai trời lại sáng; phía trên những đám mây mù xám xịt kia vẫn có những tia nắng ấm áp rồi sẽ ló dạng! Chẳng qua cuộc sống vốn đã là …”Như thị”!

Trong vô vàn những nỗi khổ đau mà con người luôn đối diện hàng ngày ở mọi lúc mọi nơi trên hành tinh, trong đầy rẫy những tuyệt vọng tưởng chừng như không thể vượt qua, trong tận cùng những bế tắc mà con người tưởng đã gục ngã … thì may mắn thay tôn giáo vẫn thường là nơi trú ẩn cho tất cả những ai đang mất phương hướng giữa cuộc đời nhiều bão giông, nghiệt ngã này! Do đó có thể hiểu vì sao tại đất nước Hoa Kỳ lắm nơi Nhà Thờ còn nhiều hơn trường học; và niềm tin về Đấng cứu thế của nhân loại trải qua 2022 năm vẫn chưa hề phai nhạt trong tim của những tín đồ Tin Lành hay Thiên Chúa Giáo nơi đây.

Truyền thuyết kể rằng có một năm vì khí hậu quá khô hạn, không đủ Rồng để làm mưa nên Ngọc Hoàng đã đưa ra cuộc thi tìm những con vật sống dưới nước, có thể vượt qua ba đợt thử thách cam go sẽ hóa thành Rồng. Cuối cùng không con vật nào qua được ba cửa ải này cả; duy chỉ có cá Chép đã nhảy qua được vũ môn, biến thành Rồng và bay thẳng lên Trời!

Trên dòng sông Sanh – Tử này chắc chắn ai ai trong chúng ta cũng có thể hóa Rồng, chiến thắng với “stress”, trầm cảm nếu biết tìm ra được “nội lực phi thường” bất sanh, bất diệt đang có sẵn trong mỗi người chúng ta. Tôi xin mượn đoạn văn của một người đã từng bị trầm cảm để kết thúc bài viết này, với những dòng như sau:

“Tôi từng thấy cả thế giới như đang quay lưng lại với mình, và cũng có suy nghĩ muốn tìm đến cái chết. Nhưng khi đã trải qua được tôi nhận ra rằng, chỉ cần bạn không quay lưng lại với chính mình, dù cả thế giới có quay lưng lại với bạn thì cuộc sống của bạn vẫn tiếp tục tiếp diễn, những ước mơ hoài bảo của bạn vẫn còn cơ hội để thực hiện, bạn vẫn sẽ có thể trải nghiệm cuộc sống trở thành một người có ích cho xã hội và thành công”.

Nguyễn Bích Thủy

From: TU-PHUNG

ĐỪNG CHỈ LÀ NGƯỜI TỬ TẾ! – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

ĐỪNG CHỈ LÀ NGƯỜI TỬ TẾ!

 Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Vả chăng, giữa các ngươi và chúng tôi đây đã có sẵn một vực thẳm!”

Charles Hodge nói, “Một thế giới của những người tử tế, vốn hài lòng với sự tốt đẹp của chính họ, không nhìn xa hơn, quay lưng lại với Chúa… sẽ rất cần sự cứu rỗi như một thế giới khốn khổ – và thậm chí có thể khó cứu hơn!”

Kính thưa Anh Chị em,

Ai cũng mong làm người tử tế!  Nhưng thật bất ngờ, cùng với Charles Hodge, Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay yêu cầu chúng ta nhiều hơn, ‘đừng chỉ là người tử tế!’  Vì nếu chỉ là người tử tế, với Chúa Giêsu, xem ra vẫn không đủ!  Ngài sẽ tiết lộ sự thật này qua dụ ngôn người phú hộ giàu có và Lazarô nghèo khó, mà giữa họ là ‘một vực thẳm!’

Người phú hộ trong Tin Mừng được Amos, bài đọc thứ nhất, phác thảo là những con người chỉ biết có mình, họ sống an nhàn mà quên đi những người khốn khổ bên cạnh.  Thiên Chúa của Cựu Ước và của Tân Ước cũng chỉ là một, “Ngài là Vua các vua, Chúa các chúa” như Phaolô nhắn nhủ qua thư Timôthê, bài đọc hai; rồi đây, Ngài sẽ đứng ra hạch tội những kẻ vị kỷ.  Cũng chính Ngài sẽ nâng cao và phục hồi phẩm giá cho kẻ cô thế cô thân.  Thánh Vịnh đáp ca thật ý nghĩa, “Linh hồn tôi ơi, hãy ngợi khen Chúa!”, “Đấng trả lại quyền lợi cho người bị áp bức.”

Trở lại bài Tin Mừng, ai cũng biết người phú hộ trong dụ ngôn là người “tử tế”; ít là ông không ác tâm, không hại ai.  Kết thúc cuộc đời, ông cam phận cách hiền lành; ông không yêu cầu được rời khỏi địa ngục, nhưng chỉ xin một giọt nước để làm dịu cơn khát đang cháy bỏng.  Và khi không được đáp ứng ‘nhiều’ đến thế, ông xin một người đưa tin về gia đình, với hy vọng những người anh em của mình không chịu chung một số phận.  Ông, ít nhất, đã nghĩ đến phúc lợi của người khác.  Tuy nhiên, tất cả những điều tử tế đó vẫn không cứu được ông khỏi hình phạt đời đời.  Tôi có bao giờ suy nghĩ rằng, chỉ cần trở thành một người “tử tế”, tôi sẽ đạt thấu thiên đàng?  Có thể tôi đang sử dụng tiêu chí riêng của mình để đánh giá sự xứng đáng của bản thân, thay vì sử dụng những tiêu chuẩn của Chúa?

Người phú hộ dường như không bao giờ bận tâm đến sự có mặt của Lazarô.  Ông không đuổi, cũng không nhờ người khác đuổi; thay vào đó, ông ‘không thấy’ Lazarô.  Và đó là sai lầm của ông; tội của ông là tội thiếu sót.  Ông mất linh hồn không vì những gì ông đã làm, mà vì những gì ông đã không làm!  Tuy nhiên, dù đang bị lên án, ông lại tỏ ra quan tâm đến năm anh em còn ở nhà.  Có lẽ, họ đang sống một cuộc sống “tử tế” như ông trước đó; và rồi đây, chắc cũng có chung số phận với người anh em ruột thịt đi trước của mình.  Mối quan tâm của người phú hộ là đúng đắn, nhưng thời gian của ông đã quá muộn.  Giá mà ông thể hiện sự quan tâm đến linh hồn những người cật ruột khi ông còn sống, thì có thể ông đã tạo ra một sự khác biệt.

Anh Chị em,

“Giữa các ngươi và chúng tôi đây đã có sẵn một vực thẳm!”  Bỏ qua một người nghèo là tạo thêm một vực thẳm, phớt lờ người nghèo là coi khinh Chúa!  Nhiều người thường giả vờ như không nhìn thấy người nghèo!  Với họ, người nghèo không tồn tại.  Vậy mà, không một sứ giả nào, không một sứ điệp nào có thể thay thế những người nghèo mà chúng ta gặp trên hành trình cuộc đời; bởi chính trong họ, Chúa Giêsu đến gặp chúng ta!  Người phú hộ xem ra không có lỗi gì, ông chỉ quá bận tâm về mình; và hầu như cuộc đời ông chỉ biết tìm thoả mãn bản thân mà quên mất giới răn trọng nhất, “kính mến Chúa, yêu thương người!”  Bạn và tôi đừng quên, Lazarô có thể là người ở bên ngoài cánh cổng; nhưng Lazarô cũng có thể chính là người nhà trong gia đình chúng ta.  Hãy sống làm sao để đừng hối tiếc vì đã không làm nhiều hơn cho họ!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, Chúa muốn con ‘đừng chỉ là người tử tế!’; đừng để con tạo thêm cho mình một vực thẳm giữa Chúa và con ngay hôm nay, điều sẽ khiến con bẽ bàng và vỡ vụn mai ngày!”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

From: Langthangchieutim

Sự khác biệt giữa hai miền Nam-Bắc là lòng tử tế

Sự khác biệt giữa hai miền Nam-Bắc là lòng tử tế

Nguyễn Văn Lục

 ‘’Bản chất của chế độ ngụy là xấu vậy mà không hiểu sao nó lại đào tạo con người giỏi thế. Ai cũng lịch sự. Cứ mở miệng ra là cám ơn với xin lỗi. Ngồi ở trong nhà, có ai đi ngoài đường chõ miệng hỏi cái gì mà mình trả lời xong, cắp đít đi thẳng, không thèm cám ơn một tiếng, thì không cần nhìn, mình cũng biết ngay đó là dân Bắc Kỳ’’ (Nhận xét của nhà phê bình văn học Hoài Thanh, sau 1975, Hoài Thanh và vợ dọn vào Sài gòn ở theo lời kể lại của nhà phê bình Vương Trí Nhàn)

 Hoàng Lan Chi viết: Tác giả, Nguyễn Văn Lục, viết về LÒNG TỬ TẾ. Tôi cũng ưa thích dùng chữ ấy. Cách đây vài hôm, tôi ghi “NHỮNG NGƯỜI TỬ TẾ CỦA THẾ GIỚI NGHIÊNG MÌNH TIỄN NGƯỜI NHẬT VĨ ĐẠI”

Vâng, Tử Tế là cả đời. Anh hùng đôi khi chỉ một thời. Tác giả chỉ ra rõ ràng những bằng cớ về sự khác biệt giữa 2 miền Nam Bắc về LÒNG TỬ TẾ. Không VIẾT SUÔNG nhé. Có chứng cớ từ cả người Nam nằm vùng, từ cả vc ở tù và cả đảng viên cs sau 75.

Tôi mong những người sồn sồn hay đọc để hiểu rõ LÒNG TỬ TẾ KHÁC NHAU RA SAO, VÌ SAO MIỀN NAM CÓ ĐƯỢC TẤM LÒNG TỬ TẾ ẤY VÀ MIỀN BẮC THÌ KHÔNG.

Đọc đi rồi hãy “tôi nhìn tôi trên vách” mà ngẫm nghĩ lại, các người sồn sồn, các vị thanh niên đang sống trong cái lồng CHXHCNVN. Nhé

 Hoàng Lan Chi

 Phần Một

Miền Bắc: biểu tượng của hận thù 

Miền Bắc, sau 1954, được gọi là Bức màn tre do những hoàn cảnh xã hội, chính trị khắc nghiệt, khép kín. Kinh tế sau 1975 kiệt quệ vì nhiều lý do chủ quan và khách quan. Sau này phải nêu khẩu hiệu xóa đói, giảm nghèo.  Chính những nhà lãnh đạo miền Bắc cũng  không ai nhìn nhận những lỗi lầm tầy trời này: Dân chúng trong Nam vốn dư ăn, dư mặc nay phải ăn bo bo, khoai mì như tầng lớp dân chúng miền Bắc. Do thông tin một chiều, họ che đậy, dấu kín riết rồi họ không hiểu chính họ, hoặc hiểu mà không chịu hiểu thì làm thế nào họ hiểu nếp sống, con người miền Nam được.

 Học giả Nguyễn Mạnh Tường viết: ‘’ Aucun sentence n.est prononcé. Les communistes ont le gout de la clandestinité. Toutes les décisions sont prises et appliqués dans un silence de mort. »

(Không có bản án nào được công bố. Người cộng sản thường có thói quen che dấu.  Vì thế các quyết định và việc thi hành đều tuyệt đối bí mật)

(Nguyễn Mạnh Tường. Un Ex-Communié. Hà Nội 1954-1991. Procès d;un intellectuel, trang 229)

Sự tử tế của miền Bắc hầu như không thể có theo như nhận xét của của nhà phê bình kỳ cựu Hoài Thanh. Hơn ai hết, ông HT đã hiểu rõ chân tướng của dân miền Bắc cũng như chính quyền ấyChính quyền cộng sản chủ trương phân biệt Bạn-Thù dứt khoát, chính tà phải phân minh vì chủ nghĩa Marx- Lénine là chân lý sáng ngời, tuyệt đối. Thù thì phải bôi đen, triệt tiêu và chỉ đáng được được gọi là Thằng.

Đó là một nửa đất nước đã bị nhồi sọ, bị đầu độc từ trên xuống dưới trở thành quán tính. 

  • Tỉ như bác sĩ nhi khoa Nguyễn Khắc Viện, người đã để nửa đời người sống bên Pháp, một trí thức hàng đầu hiểu rõ văn hóa, hiểu rõ thế nào là tự do dân chủ của nước Pháp. Vậy mà khi viết một bài so sánh Cách Mạng và dân Sàigònđăng trên báo Nhân Dân đã ví von Cách mạng là Sen, dân Sàigòn chỉ là Bùn và ông NKV đã bị phản ứng dữ dội từ giới trí thức Sàigon. Nguyễn Trọng Văn lên tiếng trên báo Nhân Dân, nhưng bài của NTV dĩ nhiên đã không được báo Nhân Dân đăng…

Điều đó trước tiên bày tỏ một lập trường rõ rệt giữa Bạn-Thù và hàm ý sự khinh miệt.  Cách mạng tốt đẹp quá, thơm tho quá!! Cách mạng là SEN. Dân Sài gòn chỉ là bọn rác rưởi thối tha là đĩ hoặc điếm. Vì thế Dân Sài gòn chỉ là Bùn. 

Thật ra chính nhờ có Bùn mới có sen. Chính nhờ Bùn nuôi dưỡng, tạo ra hương thơm tinh khiết cho Sen. Không có Bùn làm sao Sen nở hoa. Chỉ nhắc nhở ông có bài thơ: Trong đầm gì đẹp bằng sen. Lá xanh bông trắng lại xen nhị vàng. Nhị vàng bông trắng lá sen. Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn…

Nhưng đối với cá nhân ông bác sĩđiều quan trọng là: Chế diễu như thế là đi đúng đường lối của chế độ.

  • Tỉ như Đào Duy Anh, sau 1975, một học giả ăn mòn bát đĩa cộng sản, hiểu cộng sản từ chân tơ kẽ tóc, hiểu những mánh khóe tiểu xảo. Vậy mà khi vào miền Nam gặp các trí thức trong Nam, ông theo thói quen quán tính vẫn gọi xách mé: thằng Diệm. Nhiều người lảng tránh ông. Đào Duy Anh là tác giả tập ký: Nhớ nghĩ chiều hôm. Cuốn tập ký lược thuật các công trình biên khảo của ông viết trong nhiều năm. Trần Huy Liệu khuyên ông: muốn sống, muốn tồn tại thì liệu viết mà lách nữa. Ở đây, quả thực ông đã thuộc bài do trần Huy Liệu chỉ dẫnTội cho tiếng tăm một học giả. Viết mà sợ, viết mà phải lách vì sợ bị liệt vị, bị thổi còi!!!

Có thể đây chỉ là một sự lỡ miệng, theo thói quen. Như một Lapsus linguae. Nhưng nó cũng chỉ ra rằng gọi thằng Diệm là đúng đường lối

Cũng chả trách được họ. Ông Hồ, theo ông Nguyển Minh Cần (1928-2016) kể lại trong những buổi họp đảng, có những đồng chi tuổi 80 vẫn bị gọi là các chú theo cái cách cá mè một lứa.

Nghĩ lại, tôi vẫn thấy tiếc nuối cho thời kỳ vàng son nhân hậu của cha ông để lại như thời của vua Lý Thánh Tông, thời trước thuộc địa. Nhà tù không phải là công cụ để trừng phạt. Do chịu ảnh hưởng của Nho giáo, lấy cái tâm, cái đức làm đầu. Nhà vua có lòng thương người chỉ thị cho triều thần phải phát mền, chiếu và gạo cho tù nhân vào năm 1055:

Sống trong cung điện có lồng ấp than sưởi và mặc nhiều áo ấm, mà trẫm còn thấy lạnh. Trẫm hiểu nỗi khổ của người tù bị gông cùm, không đủ cơm ăn, không đủ áo mặc ấm để che thân thể, nhiều tù nhân chết một cách oan uổng trước khi bị luận tội. Trẫm thương cho họ.”

(Ngô Sĩ Liên, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, tập I. Hà Nội 1972, trg 284)

Phải nhìn nhận với nhau rằng: thật không dễ để làm người tử tế. Còn khó hơn làm người anh hùng. Bởi vì làm người anh hùng chỉ là việc của một thời. Còn làm người tử tế là việc của cả một đời.

Đất nước chúng ta do thời chiến tranh 1946-1954 và nhất là 1955-1975 đã tự đánh mất đi cái lòng thương người, mất đi cái lòng tử tế. Ngoài cuộc chiến quân sự bạo tàn mà mạng người như cỏ rác, còn có cuộc chiến tuyên truyền ra rả mỗi ngày, đề cao cuộc chiến giải phóng, cứu nước thần thánh. Nhiều nhà lãnh đạo miền Bắc còn để lại các hồi ức như:

  • Trần Cung, Bùi Công Trừng, Hà Phú Hải, Văn Tiến Dũng, Xuân Thủy. Họ từng nếm trải cơm tù như Đỗ Mười 5 năm tù Hỏa Lò, sau trốn thoát được vào năm 1945. Nguyễn Văn Linh, hai lần ở Côn Đảo 1930-1935 rồi 1940-1945 và nhất là Hồ Chí Minh với “Nhật Ký trong tù “. Những bài học cay đắng trong tù, được tích lũy thành một mối Nuôi Thù. Nuôi Thù ấy đổ lên đầu nhân dân miền Nam vốn hiền lành và vô tư sau 1975. Trong các hồi ký đó, sự thật là bao nhiêu? Pha chế thêm mắm muối bao nhiêu? Nào ai biết được. Chỉ người trong cuộc mới biết được.
  • Ngoài ra, còn những người tù không thuộc phe cộng sản đáng kính nể đòi đời ghi ơn như Nguyễn Thái Học với Đời trong ngục, 1935 tiếp theo là những nhân sĩ như Hồ Hữu Tường, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế. Những người tù này được xã hội kính nể nhất trong xã hội Đông Dương. Ngô Đức Kế được tôn xưng là chí sĩ Ngô Đức Kế. Phan Chu Trinh được chính ông Trùm thuộc địa Marius Moutet kính nể. Huỳnh Thúc Kháng được một người thợ may biếu tặng cụ một bộ đồ không tính tiền.

(Đọc thêm: The Colonial Bastille. A history of Imprisonment in Viet Nam 1862- 1940)

Về phía những người lãnh đạo cộng sản sau này như Đỗ Mười, Xuân Thủy, Nguyễn Văn Linh, Văn Tiến Dũng đều là những người nếm trải cơm tù. Chứng chỉ đi tù trở thành tấm thẻ bài đi vào cửa chính.

Sau này, vẫn thái độ hận thù, miền Bắc vẫn tiếp tục ra rả luận điệu tuyên truyền với những khẩu hiệu: gọi là Mỹ-Ngụy- Mỹ xâm lược- thực Dân  kiểu mới. Giải phóng miền Nam…

Họ chỉ quên một điều là sau lưng họ còn có Nga, có Tàu. Ai kéo xe tăng, đại pháo vào miền Nam. Thế thì Ai xâm lược ai. Ai giải phóng ai? Miền Nam có cần ai giải phóng? Ai Ngụy hơn ai?

Vì thế, có lần ông Lê Đức Thọ và ông Xuân Thủy gặp phái đoàn miền Nam- đại diện là nhóm phản chiến, lực lượng thứ ba- được ra thăm miền Bắc, ở khách sạn Thắng Lợi. Ông Thọ nói rằng tiếng Ngụy cần bỏ đi. Ông Xuân Thủy phụ họa: Bây giờ mà còn dùng chữ Ngụy là mất dấu nặng. Là Nguy.

Và xin trích dẫn văn bản chính thức của Cục báo chí xuất bản,  số 06BCXB.

Kính gửi: Các cơ quan Thông Tấn  Xã, Đài Phát Thanh, Đài Truyền Hình,các Báo chí Miền, Thành phố và các Tỉnh.

Chấp hành ý kiến của  lãnh đạo, chúng tôi xin thông báo các đồng chí được rõ:

Kể từ nay, các bài viết đăng trên báo và phát trên đài, ta nên thống nhất dùng chữ: Những người trong quân đội và chính quyền cũ thay cho chữ:  Ngụy quân và ngụy quân Sài gòn đã dùng trước đây.

Mong các đồng chí chú ý thực hiện đúng.

Này 17 tháng hai năm 1976.

TM Ban lãnh đạo

Cục Báo chí Xuất bản.

( Ký tên và đóng dấu)

T.T.T

(trích dẫn hồi ký của Hồ Ngọc Nhuận Đời hay Chuyện về những người tù của tôi, trg 52-53-. Ông vừa mới qua đời 1935-2022)

Tưởng rằng từ nay tiếng Ngụy đã đi vào dĩ vãng. Gần nửa thế kỷ, nó vẫn còn văng vẳng đâu đây.

  • Nhà văn Dương Thu Hương (1947…) Một hình tượng phản diện của miền Bắc

Nhà văn Dương Thu Hương vốn là một đoàn viên Thanh niên xung phong của một thời oanh liệt về ‘’một cuộc chiến khác mà hầu hết chúng ta không biết đến’’. Họ trực diện với cuộc chiến và nỗi đau. Họ là những cô gái không được biết đến- họ có mặt mà như thể không có mặt-. Họ bị lãng quên trong cuộc chiến mà chủ yếu chỉ là quân đội. Họ thực ra là quân chủ lực của Đường mòn Hồ Chí Minh, với hơn 52.000 người- hầu hết là phụ nữ gia nhập. Cô Huỳnh Thị Tiếp nhớ lại:

‘’ Da nổi ghẻ, tóc trên đầu nhiều cháy rận, các bộ phận kín trong người ngứa ngáy phát điên. Vấn đề vệ sinh vùng kín của phụ nữ ít được đề cập tới. Tình trạng vệ sinh kinh nguyệt thiếu thuốc men, thiếu băng vệ sinh, đồng phục để thay và ít có điều kiện tắm rửa.

(Trích tóm lược Francois  Guillemot. « Trực diện với cái chết và nỗi đau. Vấn đề TNXP trong chiến tranh Việt Nam 1950-1975 ». Bản dịch Phương Hòa trên Talawas của Phạm Thị Hoài)

Phần DTH. chua chát về mối gắn bó giữa loài bọ và chiến tranh.: Tôi nằm xuống ván, gối đầu lên tay, đăm đăm nhìn kèo hầm. Dọc theo kẽ nứt của cây kèo, một đàn rệp béo mọng xếp hàng nằm nghỉ. Lũ rệp thời chiến là những ông  hoàng, bà chúa. Chúng được tự do và luôn luôn no đủ. Người ta hiến máu cho chúng một cách vui vẻ so với lệ phí của bom đạn thì đó chỉ là những khoản thuế còm.

(Dương Thu Hương, tiểu thuyết Vô Đề, trg 64)

Xông ra mặt trận từ tuổi 20-tuổi của ăn học, mơ mộng và tình yêu trai gái-. Bà là một chân dung tiêu biểu nhất của cuộc chiến thảm khốc này. Bà đã vẽ lại một một cảnh tượng hầu như phi thực về một cái chết bi thảm của 6 cô gái trong rừng mà mùi hôi thối giậy lên nồng nặc như thể dẫn đường cho những người sống đến tìm. ‘Chúng tôi hướng vào góc rừng đã tỏa ra mùi thối khủng khiếp mà đi. Tới Vực cô hồn, gặp 6 cái xác truồng… Xác đàn bà. Vú và cửa mình bị xẻo, ném vung vãi khắp đám cỏ xanh. Nhờ những tấm khăn dù, nhờ những chiếc cổ áo sơ mi kiểu lá sen tròn và hai ve nhọn mà chúng tôi nhận ra đấy là những con gái miền Bắc. Có lẽ họ thuộc một binh trạm hoặc một đơn vị TNXP cơ động nào bị lạc. Cũng có thể họ đi kiếm măng hoặc rau rừng như chúng tôi rồi vấp bọn thám báo.’

(DTH. Tiểu thuyết Vô Đề, trg 8)

DTH vì thế còn là một biểu tượng cực đoan cùng cực, một ngòi bút dữ dằn như những lát gươm chém và hư cấu hiện thực vô bờ ngoài cả sức tưởng tượng. Bà là biểu tượng cho sự kinh tởm đến tuyệt đối về cuộc chiến. Sự lừa phỉnh của chiến tranh và sự che dấu một cách bài bản những điều cấm kỵ của những năm 90 của cấp lãnh đạo miền Bắc. Bà đã bóc trần ra một cách trần truồng tình cảnh các chị em trong TNXP. Bà đã phơi bày việc xâm hại tình dục cũng như tàn phế do chiến tranh để lại và về những chấn thương tâm thần và thể xác cho lớp TNXP như bà.

Theo bà, họ phát điên loạn lên. ‘’Mấy cậu (chỉ mấy cô TNXP. NVL) sốt rét ác tính, điên rồ, cởi hết áo quần ra mà nhảy múa, la hét.’’

(DTH. Tiểu thuyết Vô Đề, trg 100)

Đó là những Hội chứng do chiến tranh vì nỗi nhớ nhà, từ đời sống bình thường yên hàn sang chiến tranh, từ lý tưởng cao vời đến thực tế khô trồi, từ những lo ngại hiểm nguy chết tróc rình rập, từ những mất mát và tuyệt vọng trở thành Nỗi điên tập thể. Về bệnh hay cười.

Cộng thêm những ham muốn tình dục, những đòi hỏi khát vọng thỏa mãn và những cuộc tình vụng trộm bị cấm đoán cũng là là một phần của cuộc chiến này mà không ai lường trước được.

Đó là một cuộc sống như một bi kịch phi thực ngoài sức tưởng tượng của con người. Phần tôi có thể chỉ là người miền Nam, có thể đứng bên lề cuộc chiến  tàn bạo và phi nhân ấy đành chỉ biết thầm lặng: Thì hãy mời bạn đọc miền Nam người tự mình cầm lấy và đọc: Tolle et Lege.

*Góc nhìn của David Lamb : « Nữ cán binh thời chiến, nỗi đau thời bình »

Ngoài cuộc chiến của TNXP do Francois Guillemont viết. Chiến tranh phi nhân ấy còn được mô tả dưới góc nhìn khác của David Lamb.Thay vì nói về những tàn khốc của cuộc chiến. Ông nói về : Nỗi đau thời bình. Có thể nói không một nước nào- trừ Liên Xô- trên thế giới này xô đẩy ra chiến trường những đội binh nữ trẻ, tuổi mộng mơ vào một địa ngục trần gian chỉ để chu toàn một giấc mơ hão huyền của tuổi trẻ.

Nhưng vấn đề quan trọng không hẳn là trong cuộc chiến mà là sau cuộc chiến khi hòa bình trở lại. Số phận những cô gái này ra sao.  Hãy nghe một số nhân chứng sống sót trở về qua tâm sự của họ.

*Lời bà Vũ Hoài Thư, một trong số 500 phụ nữ trong đoàn chiến binh 559, quê ở Ninh Bình, cách 60 dặm ở phía Nam Hà Nội. Người đã chiến đấu trong cái mà người cộng sản Việt Nam gọi là Cuộc Chiến Chống Mỹ. Bà than và tâm sự : ‘Ôi, rừng sâu đã làm tôi già đi biết bao nhiêu. Cuối cùng, tôi đã gặp một người con trai dễ thương. Anh ấy đã hỏi cưới tôi, nhưng cha mẹ anh không cho. Anh đã không muốn rời bỏ tôi, nhưng tôi đã thuyết phục anh là anh phải bỏ. Tôi đã quá yếu vì sốt rét và thiếu ăn. Tôi nghĩ rằng tôi sẽ không bao giờ để sinh con đẻ cái cho anh ấy’.

Họ nói về chuyện trở về nhà với đời sống còn khó khăn hơn là đời sống mà họ đã rời bỏ. Họ cay đắng dai dẳng trong suốt bao nhiêu năm đã là những chiến sĩ bị bỏ quên trong một cuộc chiến tranh mà những người đàn ông chiến đấu- chứ không phải phụ nữ- đã trở thành anh hùng.

*Theo lời bà Nguyễn thị Bình: ‘Tôi đã tưởng cuộc đời tôi sau chiến tranh sẽ giản dị và hạnh phúc, cân được 85 pounds khi trở về nhà. Nhưng tôi đã để cho người bạn trai tôi ra đi. Tôi đã nói với anh  ấy rằng với những chứng bệnh  của tôi, với một chân bị thương của tôi, tôi sẽ là một gánh nặng cho anh ấy.

Bà Bình đã sống một mình suốt 17 năm, một hình thức lưu vong trong một xã hội còn nặng thành kiến về phụ nữ trong gia đình, nhất là về hôn nhân. Thế rồi, do sự thúc dục của những cựu đồng chí trong đoàn phụ nữ- đoàn 559-, bà Bình đã lấy một người chồng qua đêm và sinh được một đứa con gái. Bà và đứa con tên Lan, hiện 10 tuổi, sống với  nhau trên một cánh đồng lúa nhỏ do bà canh tác.

Trong số những phụ nữ của Đoàn 559, họ là 50 người đã trở về như những người tàn tật và 40 người đã không trở về. Trong một buổi họp ở Ninh Bình, người chỉ huy của đoàn là Trần thị Bình đã cùng nửa tá người mặc những đồng phục cũ tại một tiệm ăn nhỏ. Và khi bữa ăn được dọn ra, bà Bình đã chia xẻ với  các bạn một bài thơ do bà sang tác: ‘Thời con gái’. Bà vừa ngâm và vừa nhắm mắt lại:

Tôi muốn đốt một nén hương

Cho những người con gái xấu số

Vẫn đợi chờ

Chúng tôi những cô gái Trường Sơn,

Tóc đã hoa râm và lòng tràn đầy kỷ niệm,

Tưởng nhớ những người bạn tình

Đã đi xa không bao giờ tìm được

Những phụ nữ khác tại bàn ngoảnh mặt đi. Một vài người úp mặt vào lòng bàn tay. Vài người lấy giấy thấm nước mắt. Khi bà Bình chấm dứt, một sự im lặng bao trùm. Rồi có người lên tiếng: ‘’Hãy làm cho ngày hôm nay là một ngày vui đi.’’.

(Tờ Los Angeles Times, Viet- Mercury, 17.01.2003)

  • Phúc âm của tội ác

Sau này, nhà văn DTH trong Tự Bạch cho rằng: sau chiến thắng, tác giả chỉ được một con búp bê về làm quà cho con, tác giả đau xót nhận ra rằng biết bao hy sinh mất mát để trả giá cho một vinh quang khải hoàn môn chỉ là ảo tưởng. Nỗi đau xót ấy nêu bật lên nghi ngờ về mục tiêu của cuộc chiến mà bây giờ bà mới ngộ ra cũng như nhiều nhà văn nổi tiếng khác đã trở lại đạo làm người và cổ võ cho tinh thần xét lại như mội cải đạo. Sự nhìn lại ấy bây giờ trở thành sự cứu rỗi cuối cùng. Nó trở thành như Tấm áo giáp tinh thần lúc này giúp che chắn tâm hồn. Nay nó chính là Niềm TinNhư trong các cuốn: Bên Kia Bờ Ảo Vọng (1987), cuốn Thiên Đường Mù. (1988), Chốn Vắng. (2002). Những cuốn sách này như một nhân chứng tố cáo sự lừa đảo tuyên truyền bánh vẽ mà thật sự chỉ là ảo vọng. Hầu hết các tác phẩm của bà đều được dịch ra tiếng Pháp, hoặc tiếng Anh, vì chúng bị cấm ở trong nước.

Đây là những cuốn sách mở đường cho sự tố cáo sự tàn bạo và dối trá, lừa đảo của cuộc chiến.

 Bà tuyên bố thẳng thừng: Không thể xếp tôi đứng với hàng ngũ những người mà tôi khinh bỉ.(trong Bách Khoa toàn thư Wikipedia)

Sự lăn xả nhập cuộc như lên đồng trong chiến tranh lúc ban đầu cũng như sự dứt khoát khước từ khi không còn chiến tranh của bà là một tấu khúc hoàn hảo của toàn thể xã hội miền Bắc. Biện chứng vào và ra là thái độ của nhiều đảng viên kỳ cựu khác- ước mơ-lầm lỡ và bội phản- như tướng Trần Độ, Hoàng Minh Chính, Nhật ký Tô Hải « Hồi ký một thằng hèn »  nhất là nhà văn Trần Đĩnh với cuốn Đèn Cù.

 Họ đã lột xác trong đau đớn, bị khinh bỉ, tủi nhục và nỗi cô đơn.

Tóm một lời: Khi biết được mình đã lầm lỡ thì tóc trên đầu đã bạc phơ!!  

  1. Phần Hai về miền Nam với lòng tử tế.

 *  Lòng tử tế qua các bài học vỡ lòng: Sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư   

Sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư xuất bản từ năm 1935 do Nha Học Chính Đông Pháp. Soạn giả là các ông Trần Trọng Kim và các ông Nguyễn Văn Ngọc, Đặng Đình Phúc, Đỗ Soạn… Nó gồm 4 cuốn : một cuốn cho lớp đồng ấu tương đương lớp một. Một cuốn cho lớp dự bị tương đương lớp hai. Cuốn Sơ Đẳng tương đương lớp 3. Và cuốn Luân lý Giáo khoa thư nói chung… Nó thâu tóm toàn bộ các bổn phận làm Người tử tế. Nó bắt rễ sâu trong tâm thức người Việt Nam trong cách ứng xử với cha mẹ tổ tiên, với Trời đất, với thày dậy,với chính bản thân mình, với họ hàng, bạn bè, với kẻ ăn người ở, dĩ chí cả với súc vật. Nó như một gia tài đồ sộ, một thứ Văn Hóa Phi Vật Thể (Văn hóa phi vật thể là những giá trị tinh thần như Ca dao, Tục ngữ – khác với Văn hóa vật thể như Đền đài, lăng tẩm. NVL). Văn hóa phi vật thể dành cho mọi người – không trừ- từ ngoài Bắc trước 54 và tồn tại trong Nam từ 1954-1975. Lớp trẻ tiểu học coi như những bài học vỡ lòng như hành trang chuẩn bị vào đời. Đây là những bài học giản dị, dễ hiểu, mỗi bài đều tóm tắt bằng một câu ngắn ngọn, khắc in vào đầu mà nay chính bản  thân tôi còn nhớ được như:

-Với Trời-Đất: Lạy Trời mưa xuống. Lấy nước tôi uống. Lấy ruộng tôi cày. Lấy đày bát cơm. Lấy rơm đun bếp…

– Với Cha-Mẹ: Công cha như núi Thái Sơn. Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha. Cho tròn chữ Hiếu mới là đạo con…

– Với Con Trâu và Người đi cày : Trâu ơi ta bảo trâu nay. Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta…

–  Nó còn vô số các bài học thực tiễn khác như: Thờ cúng tổ tiên. Anh em như thể tay chân. Xuân đi học coi người hớn hở.  Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao. Lá rành đùm lá rách. Một con ngựa đau, cả tàu không ăn cỏ. Thấy người hoạn nạn thì thương. Không tham của người. Có học phải có hạnh. Chớ nên nói xấu người. Không nên hành hạ súc vật. Học trò đối với Thày. Nhất là câu chuyện ông Carnot về thăm thày cũ dễ thương và cảm động: ‘’ Thưa thày, con là Carnot đây… thày còn nhớ con không?

Nó được coi như cuốn cẩm nang hành trang cho tuổi trẻ vào đời.

Trong Hương rừng Cà Mâu của nhà văn Sơn Nam, xb năm 1962, có truyện ngắn: ‘’Tình Nghĩa Giáo Khoa Thư” cho thấy dấu ấn tình tự con người bàng bạc trong thơ văn, trong nếp sống dân giã..của con người Đồng bằng sông Cửu Long, nơi còn được gọi là Văn minh miệt vườn.

Sau này, ở miền Nam QCGKT được đổi ra thành môn Công Dân Giáo Dục thời VNCH.

Nơi đây, tôi muốn bày tỏ riêng niềm tri ân đối với miền Nam mà tiêu biểu là các thày cô giáo bậc tiểu học đã cấy vào tâm hồn trẻ thơ của cả một lớp người trẻ trong tinh thần Giáo Khoa Thư và Luân lý Giáo khoa Thư. Không có họ, không có QVGKT mà cũng chẳng có lòng tử tế.

Miền Bắc ngay từ 1935 đến 1954 cũng được thừa hưởng gia tài của QVGKT như miền Nam qua người dân Hà Nội… Rất tiếc, sau 1954, Sách QVGKT như nhiều tài liệu quý báu khác bị người cộng sản Hà Nội quăng vào sọt rác. Thay vì yêu cha, yêu mẹ, yêu tổ tiên ông bà. Thay vì yêu bạn bè, yêu súc vật thì nay thay thế bằng một hình tượng mới: Yêu Bác Hồ. Trẻ con đêm nằm mơ thay vì thấy Tiên thì nay thấy Bác Hồ.

Mẫu người Người Tử Tế nay hiếm hoi mà thay bằng mẫu Người Anh Hùng đủ loại. Mẫu người anh hùng ở miền Bắc thì nhan nhản ngoài đường phố. Ra đầu ngõ là gặp.

  • Mẫu người Tử tế trong chính quyền miền Nam. Miền nam có cái may mắn là được kế thừa lòng tử tế truyền lại. Vì thế, lãnh đạo chính quyền có các chính sách khoan hồng, hòa giải như chính sách binh vận, dân vận, nhất là Chiêu Hồi. Chính sách đó không hẳn là chính trị, nó vượt trên chính trịmà căn bản, nó dựa trên tình tự tình người như tình nghĩa đồng bào, tình nghĩa xóm làng, gia đình, họ hàng, bạn bè. Hiện tôi còn giữ trong tay tài liệu ghi rõ sự quan trọng của chính sách Chiêu Hồi thời đệ nhị Cộng Hòa: Bộ Thông Tin và Chiêu Hồi. Đánh nhau là truyện bất đắc dĩ. Chiêu Hồi mở đường cho sự gia nhập, hòa giải.

Cho nên, các tình tự con người trong các chính sách đó được coi trọng hơn là lập trường chính trị nhất thời.

Xin nêu ra một vài trường hợp được kể lại: Có lần nhà thơ Cung Trầm Tưởng nói với tướng Kỳ- một tướng võ biền đòi đem máy bay bỏ xuống miền Bắc- vào năm 1968 .Thanh Nghị vào khu. Cung Trầm Tưởng nói với tướng Kỳ cho phép anh đưa chị Tâm Vấn  (vợThanh Nghị. Sau này bà Tâm Vấn lấy bác sĩ Nguyễn Đan Quế)) vào ở cư xá Không quân TSN. Tướng Kỳ đồng ý và thỉnh thoảng hhỏi thăm chị Tâm Vấn có khỏe không.  Đó là tình người- người vượt ranh giới chính trị.Trường hợp Thanh Lãng cùng với Nguyễn Văn Trung đi chiếc xe hơi từ Vũng Tàu về, bị lính Mỹ lấy đá chọi chơi bể kiếng xe. Ông đã gửi thư đến tòa Đại sứ Mỹ phản đối việc đó. Tòa Đại sứ đã viết thư xin lỗi và đề nghị tiền bồi thường. Người Mỹ  biết tôn trọng dân chủ, biết tôn trọng luật pháp. Cứ giả dụ, thay vì lính Mỹ, đây là lính Tàu thì họ có bồi thường không?

Những người bạn cùng lớp với tôi thời sinh viên đại học Đà lạt như Dương Văn Ba, Nguyễn Trọng Văn đều theo bên kia hầu như công khai, nhưng vì tình bạn nên chúng tôi làm lơ, chả ai tố cáo gì. Mà có tố cáo thì còn có thủ tục pháp lý, có nhân chứng, có luật sư nữa. Rồi còn những nhóm thành phần thứ ba hàng vài chục người, thành phần phản chiến, hoạt động công khai như Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức, Lý Chánh Trung, Lý Quý Chung có sao đâu!

Họ biết chắc một điều: Phản đối cứ phản đối. Họ không sợ đến an ninh của họ vì không có chuyện trả thù, không sợ công an chìm mò tới nhà bắt cóc mang đi.

Tôi nghĩ miền Nam thua miền Bắc vì cái tình người, cái lòng tử tế ấy.

 Tôi hỏi và tự trả lời. Những hoạt động như thế có thể xảy ra ở Hà Nội hay không?

 Vì thế, nhiều người phía bên kia do chính sách Chiêu Hồi đã quay về với chính quyền miền Nam mà con số lên đến vài chục ngàn người.

Tiêu biểu nhất có thể là nhà văn Xuân Vũ (ông là cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc, rồi được điều động vào miền Nam trên đường Trường Sơn. Rồi chấp nhận chính sách Chiêu Hồi.1930-2004) ông đã có trên 90 đầu sách bao gồm truyện ngắn, truyện dài, hồi ký. Tôi đã từng đọc ông một cách hứng thú với lối viết không dài dòng, trung thực mà không tuyên truyền bịa đặt, xuyên tạc, cũng không phỉ báng ai, dù là chế độ miền Bắc mà ông đã từng đi tập kết. Cuốn Đường Đi không đến, tập hồi ký vượt Trường Sơn đã được trao giải thưởng văn chương toàn quốc, năm 1973.

Hiện tôi cũng còn giữ một tập tài liệu photocopy khá đặc biệt nhan đề : ‘’Bội phản hay chân chính’’. Tác giả là cán bộ nằm vùng tên Dư Văn Chất bị mạng lưới tình báo của Đoàn Công Tác Đặc Biệt miền Trung Ngô Đình Cẩn giam giữ tại trại Lê Văn Duyệt, đường Tô Hiến Thành. Sau 1975, những người bị tù này được thả ra và chính quyền cộng sản không tin dùng, vì bị lê Đức Thọ coi là: Có vấn đề. Có người bị nghi ngờ vu khống, mất chức  hoặc chết oan uổng sau 1975 chỉ vì câu nói của Lê Đức Thọ, trưởng ban tổ chức Trung Ương. Họ với họ từng là đồng chí, nay nghi ngờ nhau. Người cộng sản lại sợ chính người cộng sản. 

Ông Dư Văn Chất đã viết tập tài liệu này để biện minh cho việc họ vẫn trung thành với đảng. Ông viết : ‘’Bằng tác phẩm này, tôi muốn nói với Đảng, với người thân và bạn bè, với người yêu và kẻ ghét, nói thay cho người đã chết và cho cả người còn sống.’ Tập ký 233 trang đề 19 tháng 8 và 2 tháng 9, 1992 và tháng 7, 1993. Đặc biệt nhờ ông Trần Quốc Hương ( tức Mười Hương), có thời là UVTƯĐ, linh hồn của cục tình báo viết thư tay cho ‘Anh Hai Tân, phó bí thư Thành Ủy và anh Tư Sang, phó bí thư Đảng Ủy TP. HCM, yêu cầu cho xuất  bản. Không được bị từ chối. Họ đành in phocopy 100 bản và đây là một trong những bản ấy’’. 

Xin trích dẫn một phần tập tài liệu đề cập đến trại giam Lê Văn Duyệt của ông Ngô Đình Cẩn.

  • Nhà tù không song sắt.

Dư văn Chất viết:’’ Ngủ có divan hoặc giường sắt hay ghế bố, mỗi người một cái,có mùng, có tấm đắp đàng hoàng. Có giờ, có giấc. Ăn uống cũng khá hơn chế độ thầu. Có câu lạc bộ, có phòng đọc sách, có sân banh giải trí, có bàn ping pong.

Ăn cơm Tiều’, một danh từ được khai sinh trong trại Lê Văn Duyệt. Không biết bên chính quyền dự chi về ăn uống một người được bao nhiêu mà  ở trại Lê Văn Duyệt thì chúng tôi được 5$50 tiền chợ mỗi trại viên hưởng một ngày. Đáng lý chúng tôi mỗi người ăn 5$50, nhưng chúng tôi khai cơm Tiều, nghĩa là một mâm 4 phần ăn. Chúng tôi ăn năm người.. Phần dư ra 5$50 thay nhau lãnh. Ăn sáng 1$ một người. Nếu nhịn thì một tháng cững được thêm 30$.

Ở tù mà lãnh lương, ở tù mà cũng đi phép nghỉ. Có nhiều anh ở tù lâu, cuối tuần được nghỉ phép. Chiều thứ bảy về, sáng thứ hai vô. Hoặc có anh về hằng đêm, 5 giờ 30 sau giờ làm việc ra cổng, sáng 7 giờ 30 về ở tù.Theo tôi, nhà tù trại giam Lê Văn Duyệt của ông Ngô Đình Cẩn là có một không hai trên thế giới. Đó là tù không song sắt.

Nói ra thì không một ai tin. Nhưng sự thực là như vậy, do chính tù nhân trại giam viết

 Những sự kiện như thế là một thực tế có thật, chỉ có thể xảy ra ở miền Nam mà không thể nào xảy ra ở miền Bắc.

 Trong cuộc chiến Nam-Bắc, số tù binh cộng sản ở trong Nam hẳn là cần nhiều trại giam. Một phần chính quyền xử dụng những nhà tù có sẵn từ thời Pháp thuộc như Khám Lớn, nhất là tại Poulo-Condonré được coi như hỏa ngục của người sống. Rồi mỗi tỉnh thành trong Nam đều có nhà tù để giam giữ cán binh cộng sản. Vẫn không đủ sức chứa tù nên còn lập thêm các trại giam như trại Phú Lợi, trại Tân Hiệp. Riêng trại Tân Hiệp có lúc chứa đến 3000 người. Sự tàn nhẫn, đánh đập, hiếp đáp, ăn uống thiếu thốn- tôi thiển nghĩ- do lòng tham của ban Quản Đốc trại, thật khó mà tránh khỏi.

Nhưng nếu so với các trại Tập Trung Cải Tạo sau 1975 thì chẳng thấm thía gì. Tôi dám gọi các trại cải tạo ấy là một thứ tội ác chống lại con người. Ngụy quân, ngụy quyền bị nhồi sọ, tẩy não. Họ bị giam không xét xử. Không thời hạn. Có người bị giam đến 17 năm tù” Đó là một thứ nghĩa địa chôn vùi cuộc sống của người tù. Tất cả là một sự tính toán tinh vi, tàn bạo để con người chết chậm, chết dần dần đến tàn tạ. Nhiều người khi được thả về chỉ còn là một tấm thân tàn phế như một phế vật. 

Vì thế, tôi mới ngộ ra, các nhà văn miền Bắc có từ: Sống mòn. Gớm thay, tội ác của cộng sản. Người miền Nam khó có thể quên được.

  • Lòng tử tế của miền Nam còn rộng mở đón nhận những tinh hoa từ miền Bắc.

Điều này càng cho thấy đất Bắc không thực hiện được lòng tử tế, vì toàn bộ miền Bắc bao phủ cuộc chiến với hận thù với xác quân thù. Quân thù nào, là ai? Chúng ta cứ thử nghe bài quốc ca- còn được gọi là Tiến Quân Ca do Văn Cao sáng tác- được coi là là linh thiêng, là linh hồn của tổ quốc với nội dung rực lửa kể từ ngày 2 tháng chín năm 1945 đến nay đã hơn 70 năm!!:

‘’ Đoàn quân Việt Nam đi. Chung lòng cứu quốc

Bước chân dồn vang trên đường gập ghềnh xa

Cờ in máu chiến thắng mang hồn nước.

Súng ngoài xa chen khúc quân hành ca.

Đường vinh quang xây xác quân thù.

Thắng gian lao cùng nhau lập chiến khu

Vì nhân dân chiến đấu không ngừng

Tiến mau ra xa trường. Tiến lên. Cùng tiến lên

Nước non Việt Nam ta vững bền. 

Bài hát xem ra không hợp thời nữa. Đáng nhẽ phải đổi. 

Bản thân người viết đón nhận những nhà văn miền Bắc trong tâm tình tử tế và kính trọng. Những nhà thơ, những nhạc sĩ như gia tài chung của Việt Nam mà không chút nề hà. Những nhà văn lớp Nho học còn sót lại như Ngô Tất Tố. Ông từng đả kích những ông quan đầu sỏ như Hoàng Trọng Phu, Phạm Quỳnh: ‘’Ấy thế mà ông chủ bút Nam Phong chỉ nhảy đánh vọt một cái lên làm được ghế Thượng Thư bộ giáo dục, bàng quan ai cũng phải ngạc nhiên. Người ta tưởng tượng như đứng trước một trò rất phi thường trong rạp xiếc.”

(Phê bình Văn Học, Nguyễn Huy Tưởng, Ngô Tất Tố, Tô Hoài , trg 149).

Ông viết Việc Làng, Lều Chõng. Nhưng Tắt Đèn là tác phẩm hiện thực xuất sắc nhất với hình ảnh chị Dậu. Tôi đã có dịp đọc tất cả trong sự say sưa và nể phục. Rồi những nhà văn như Trần Tiêu (tác phẩm Con Trâu),ông là em ruội Khái Hưng . Rồi một lượt những nhà văn như Nguyễn Tuân với Chùa Đàn,Tóc chị Hoài, nhất là Vang bóng một thời mà theo Vũ Thư Hiên ông được coi như bậc thầy của ngôn ngữ : << Chữ nào ông dùng cũng đắt, khó thay bằng chữ khác>>. Rồi đến Tô Hoài, Nguyên Hồng.Tôi còn giữ Tuyển tập Nguyên Hồng, xb 1985. Đọc mà ngậm ngùi. Tô Hoài với Dế mèn phiêu lưu ký(1941), O chuột, xóm Mới, Nhà nghèo.

Cũng phải kể đến thi sĩ Hồ Dzếnh với những bài thơ lục bát mượt mà. Nói chi đến Xuân Diệu, Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Khái Hưng, Nhất Linh trong các giáo trình của các lớp trung học đệ nhị cấp của VNCH trước 1975. Lưu Trọng Lư còn đình  đám hơn với bài Tiếng Thu , chỉ có 9 câu được phổ nhạc: Em không nghe mùa thu. Dưới trăng mờ thổn thức. Em không nghe rạo rực. Hình ảnh kẻ chinh phu. Trong lòng người cô phụ

 Nhạc có Văn Cao sánh vai cùng với Trịnh Công Sơn, Phạm Duy một thời. Nhưng số phận ông cũng hẩm hiu mặc dầu là người sáng tác ra bài Tiến quân ca.

Nhưng trước hết và hơn cả là Nam Cao. Ông đã thênh thang vào ngưỡng cửa trường đại học văn khoa Sài gòn với truyện ngắn Chí Phèo. Đến ngay những nhà văn nổi tiếng một thời như Mai Thảo, Doãn Quốc Sĩ, Võ Phiến của miền Nam cũng không có được cái vinh dự ấy.

Trong khi số phận những nhân tài đất Bắc, số phận họ ra sao? Họ đều phải Tự kiểm duyệt, nơm nớp sợ bị thổi còi như Nguyễn Tuân, như học giả Đào Duy Anh, như Văn Cao và rất nhiều văn nghệ sĩ khác.. Văn học miền Bắc đã có cắm cột mốc: muốn làm gì thì làm, nhưng không được động đến chính trị. Tôi nghĩ đến một xứ chột bị bịt mắt, bịt mồm. Đời sống thì lao đao túng bấn như Văn Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài.

  • Tờ Đất Nước, tháng giêng 1968 đã dành hẳn một số để kỷ niệm: 50 năm Cách Mạng tháng mười

Đi thêm một bước nữa, tiến xa hơn, trong Nam, giới trí thức, nhất là thành phần thứ ba, nói viết và phản kháng, đòi dân chủ, đòi chấm dứt chiến tranh mà không sợ nhà cầm quyền bắt giam. Người ta vẫn có thể biểu lộ quyền yêu hay ghét cộng sản. Nhưng bao lâu chỗ nào còn lầm than áp bức, bất công, chủ nghĩa Mác vẫn là một sự quyến rũ, một niềm hy vọng giải phóng!!!! Riêng đối với các dân tộc bị trị, cộng sản có phải là con đường độc nhất và cuối cùng để thực hiện hai mục tiêu trên không. Đất Nước, chủ bút Nguyễn Văn Trung đã tự hỏi. Vì thế đã có những bài:

  • Cách Mạng Nga 1917 của Nguyễn Khắc Ngữ.
  • Trí thức Nga trước Cách Mạng của Diễm Châu
  • Từ Cách Mạng tháng 10 đến Cách mạng tháng 8 Trương Bá Cần
  • Cảm nghĩ về cuộc Cách mạng Nga Lý Chánh Trung.
  • Cộng sản người anh em của tôi Nguyễn Văn Trung.

Nguyễn Văn Trung còn năng nổ viết cuốn: Hành Trình Trí thức của Karl Marx. (in xong 15-10- 1966.  Có giấy phép số 666 BTT. NHK. PHNT)

Trần Văn Toàn: ‘’ Tìm hiểu Triết Học Karl Marx.

Số phận những trí thức ấy ra sao sau 1975?

 Còn ra sao nữa!! Bị Truy dập, bị tù đầy. Cả 200 giới văn nghệ sĩ Sài gòn đều bị bắt đi tù, đi cải tạo. Mà cái tội chỉ vì cầm bút. Như Vũ Hoàng Chương, Doãn Quốc Sỹ. Hoàng Hải Thủy, Tạ Tỵ, nhà văn Thảo Trường. v v…

Trong số đó có Nguyễn Văn Trung. Theo Nguyễn Văn Trung viết lại, một người trong Ủy Ban Quân Quản ĐHVK Sài gòn nói: ‘’ Chúng tôi không bố trí anh dạy học vì không thích hợp với cách chúng tôi đang thực hiện và để anh tự ý nghiên cứu theo lối nhìn của anh, thì những công trình nghiên cứu của anh sẽ ích cho đất nước nhiều hơn”.

hưng nếu không dạy học, không có lương lấy gì mà sống?

Đã hết đâu, ba năm sau, ông bị bắt giam, kết tội là: Phản động, C.I.A cho Mỹ (có thể bị tử hình hoặc chung thân). Vào chiều ngày 14-6-1978, một toán công an đến đọc bản án và xét nhà, ông đã chỉ cho họ vác tài liệu để họ lấy mang đi đầy một xe LaDalat. Sáng hôm sau, một xe tải lớn đến tịch thu kho sách trên sân thượng. Nhưng nghĩ thế nào, họ lại thôi. Chỉ niêm phong. Ông bị biệt giam một mình. Ngày ngày chỉ viết các bản tự khai. Sợ quá tưởng chết, ông viết chúc thư xin lỗi bạn bè, nhất là bà con anh em ruột thịt về những lời nói việc làm của ông. Con trai trưởng của ông chứng kiến cảnh bố bị bắt giam nên đã quyết định tìm đường vượt biển và đã sang định cư ở Canada. Làm C.I.A cho Mỹ mà NVT không nói được một câu tiếng Mỹ. Phải nhờ Đặng Tiến hay Nguyễn Hữu Thái thông dịch. C.I.A nào nó mướn?

6 tháng sau, bất ngờ ông được trả tự do ở sở công an với lý do: Tạm tha vì lý do sức khỏe.. .Từ Phản động đến tha là một điều không hiểu được.

Tôi có cảm tưởng, 6 tháng tù biệt giam ấy, NVT không biết có rút ra cho mình được bài học gì không. Phần tôi đã từng chứng kiến xác những người đàn ông, đàn bà, chết cong queo, ám khói đen, vì cộng sản gài mìn trên đường số 5-Hà Nội- Hải Phòng. Lúc 5,6 tuổi, ở nhà quê, tôi đã nhìn thấy xác ngươi bị bỏ rọ, trương phình như lợn quay vập vờ đập vào kè đá cửa sông Đáy.

Tôi đã ghi lại trong một bài viết: Câu truyện của một dòng sông. (dcvonline.net, posted  2, 2018. Dòng sông cũ)

 Đúng như nhà văn Bùi Ngọc Tấn tâm sự:’’ Có lẽ lại phải viết thôi. Viết về tuổi trẻ bị đánh mất. Viết về tuổi già xót xa tuổi trẻ. Về nỗi xót thương nhau trong những trái tim mệt mỏi, những mái đầu bạc đang tính đếm những ngày còn lại. » ( Trả lời phỏng vấn với  nhà thơ Phạm Tường Vân trong dịp cuốn’’ Chuyện kể năm 2000 »  vừa được xuất bản)

 Dù sao, sau này ông NVT cũng có được một câu để đời giống vài người như  Lý Chánh Trung, Ngô Công Đức.

Lý Chánh Trung trên báo Tuổi Trẻ Chủ Nhật, 13-11- năm 1988 có viết một bài về môn học triết lý K. Marx mà trước đây ông đã chót từng ca tụng thì nay ông chế diễu ‘’Về một môn học mà thày không muốn dạy, trò không muốn học”. Đối với LCT, gốc dân ruộng: Nói dzậy là đủ rồi. Qua không muốn nói nữa. Nói nữa là qua nổi quạu.

 Còn dân biểu Đối lập Ngô Công Đức cũng thẳng thừng không kém: ‘’Tôi có hai điều không ưaĐó là tôi không thích những người công an.Tôi cũng không thích người Bắc Kỳ. » 

Nguyễn Văn Trung thì văn hoa hơn:’’ Tham gia cách mạng là tham gia vào một quá trình tự hủy diệt sau này.”

Phần tôi, tôi khẳng định triệt để, tôi giã từ người cộng sản ngay từ khi lên máy bay từ phi trường Gia Lâm di cư vào miền Nam năm 1955...

Bởi vì họ thiếu tình người. Bởi vì họ không là những người tử tế

 Nguyễn Văn Lục

Xứ Sở Hận Thù – Tưởng Năng Tiến

Xứ Sở Hận Thù

 Tưởng Năng Tiến

Tuy là một nhà văn danh tiếng nhưng Bá Dương, xem chừng, không được đồng bào/đồng chủng quí mến (hay yêu thích) gì cho lắm. Chả những thế, ông còn bị nhà nước Trung Hoa Dân Quốc bắt giam gần cả chục năm luôn!

Lâu dữ vậy sao ?

Chớ sao! Bởi ổng có cái tật hay cạnh khóe quý vị lãnh đạo cấp cao, và cũng thường chê bai cái đám đồng hương/đồng khói với mình, bằng nhiều lời lẽ chua cay (nghe) rất mất lòng – kiểu như: “Tôi nghi rằng để có thể móc trong mồm một người TQ ra cái câu cám ơn ông e rằng nếu không dùng đến cái cào cỏ năm răng của ông bạn Trư Bát Giới của chúng ta thì không thể được.” (Bo Yang. The Ugly Chinaman and The Crisis of Chinese CultureTrans Nguyễn Hồi ThủNgười Trung Quốc Xấu Xí. Westminster, CA: Văn Nghệ, 1999).

Nếu đúng vậy thì Tầu quả là tệ thiệt (và tệ lắm) nhưng có lẽ vẫn chưa đến nỗi nào, nếu so sánh với Ta. Dân Việt chả những đã ngại cảm ơn mà còn phủi ơn, hoặc tỏ ra vô ơn, ra mặt nữa kìa – theo như lời than phiền (mới nhất) vừa đọc được trên trang RFA của blogger Tuấn Khanh:

Tháng 8-2022, Lính thủy trên tàu bệnh viện Mercy của Hải quân Hoa Kỳ vừa khánh thành công trình phúc lợi là một trường học cho trẻ em ở Phú Yên. Toàn bộ chi phí được phía Mỹ tài trợ và sức lao động của lính thủy Mỹ nhằm ghi dấu cho một công trình mang tính hữu nghị và giáo dục.…

Nhìn hình ảnh ngày khánh thành trường mà chỉ loe hoe một vài người đại diện phía chính quyền Việt Nam ngồi cho có, còn bao nhiêu là những người đã dựng lên phía trường, và thầy cô của trường. Thấy mà ngại…

Nhưng những chuyện nói trên cũng không quan trọng bằng chuyện một chương trình giao lưu và hoàn toàn thiện nguyện từ một quốc gia khác, mà không hiểu sao phía truyền thông dư luận viên pro (ủng hộ) nhà nước tổ chức rất công phu những ngôn luận phủ nhận những hoạt động này, và nói rằng đây chỉ là những thứ mua chuộc để phá hoại Việt Nam, hay là giả dối để âm thầm tổ chức diễn biến hòa bình …

Tuấn Khanh khiến tôi nhớ đến một sự việc khác, xẩy ra đã khá lâu, hồi vài ba năm trước. Có bữa, từ San Francisco, tôi bay cái vù xuống phi trường Suvarnabhumi rồi phóc lên một toa tầu điện (BTS – Bangkok Skytrain) để về nhà trọ.

Trên tất cả những màn hình nhỏ trong xe, ngoài đủ thứ quảng cáo thương mại như thường lệ – lạ thay – lại còn xuất hiện rất nhiều hình ảnh và những hàng chữ rất trang trọng (và cảm động) viết bằng cả tiếng Thái lẫn tiếng Anh:

  • An entire country in one in heartfelt thanks. Lời cảm ơn từ tận đáy lòng của cả nước Thái.
  • Without national boundaries, working in unity. Thank you (from) the people of Thailand. (Không biên giới quốc gia, hành động hợp nhất. Lòng tri ân (từ) dân chúng Thái Lan).

Ủa! Chuyện gì vậy ta?

Nhật báo Nation (số ra ngày 15 tháng 7 năm 2018) cho biết: “Chính phủ Thái đã phát hành một video bầy tỏ sự tri ân với toàn thể nhân loại – về sự đồng cảm và hỗ trợ của tất cả mọi người – trong công việc giải cứu đội banh Wild Boars trong một hang động ngập nước, ở huyện lỵ Chiang Rai. Đoạn phim ngắn ngủi này vừa được khởi chiếu trên CNN, và được chia sẻ rộng rãi trên mọi phương tiện truyền thông.”

Asean News Today cũng có bài tường thuật (“The world is one: Thailand says thank you from the heart”) của John Le Fevre, với hình ảnh của người đứng đầu chính phủ Thái – Thủ Tướng Prayut Chan-o-cha – mừng phát khóc, sau khi được biết rằng các nạn nhân đều còn sống sót. Tác giả bài báo, cũng không quên ghi lại lời tri ân từ tận đáy lòng (“heartfelt thank you”) của Nhà Vua và ông Bộ Trưởng Ngoại Giao đã gửi đến tất cả những ai đã tham gia vào việc cứu nguy cho hàng chục công dân của xứ sở này.

Quan sát dân chúng Thái chăm chú lắng nghe từng câu/từng tiếng (“cảm ơn”) chân thành và trân trọng của giới cầm quyền ở xứ sở này – lập đi lập lại nhiều lần, trên màn ảnh nhỏ, trong mấy toa xe điện – khiến tôi đột nhiên “ngộ” ra cái lý do khiến cho người Việt hôm nay không ai có thể thốt lên được đôi lời (“tri ân”) tử tế như đa phần nhân loại.

Chớ các “đồng chí lãnh đạo ở ta” có bao giờ nói đến khoan dung, tha thứ, yêu thương hay ơn nghĩa … đâu! Chế độ hiện hành được dựng lên và duy trì nhờ vào lòng căm thù cùng sự oán hận mà, và thù hận không bỏ sót một ai – kể cả những nông dân chân lấm tay bùn:

  • Giết ! Giết nữa ! bàn tay không chút nghỉ/ Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong
  • Lôi cổ bọn nó ra đây/ Bắt quỳ gục xuống đọa đày chết thôi!

Nhà báo Uyên Vũ cho biết: “Trong sách giáo khoa lẫn trên bục giảng, từ một trẻ nhỏ chập chững bước vào trường tiểu học cho đến một tân khoa cử nhân đều phải học những bài học lịch sử được viết lại cho thuận ý nhà cầm quyền. Những bài học lịch sử bịa đặt, thêm thắt và tràn ngập những căm thù.”

Ngoài “những bài học lịch sử bịa đặt, thêm thắt và tràn ngập những căm thù,” bia căm thù (một đặc sản của chế độ hiện hành tại VN) còn được “tu bổ”, “tôn tạo” và “nâng cấp” thường xuyên – ở khắp mọi nơi:

Blogger Nguyễn Lân Thắng nhận xét: “Có lẽ, sau cuộc chiến, chưa có cuộc chiến tranh nào trên thế giới này lại có nhiều bia căm thù như cuộc chiến tranh Nam Bắc ở Việt Nam.”

G.S Nguyễn Văn Tuấn kết luận: “Những tấm bia căm thù đó chẳng làm cho người Việt mạnh hơn chút nào; ngược lại, nó nói cho người nước ngoài biết rằng người Việt vẫn còn sợ hãi.”

Cách đây khá lâu, tôi đã nghe một nhà văn than thở: “Người ta chỉ cần một hai thập niên để vực dậy một nền kinh tế sa sút nhưng để xây dựng lại niềm tin cho cả dân tộc, cụ thể như dân tộc tôi, nay chỉ còn cầu phép lạ gieo xuống thửa đất hoang hoá này những hạt giống mới để bắt đầu lại.” (Bùi Bích Hà. “Nhìn Lại Quê Hương.” Thế Kỷ 21, Sep. 2003).

Phép lạ – nếu có – e cũng khó nẩy mầm, nếu “gieo xuống” cái mảnh đất chất chứa (và chất ngất) hận thù như ở VN!

Trong những ngày tháng lang thang nơi xứ Thái, tôi cứ nhìn những dòng “loằng ngoằng” khắp nơi mà trộm nghĩ là đất nước này sẽ hòa nhập với thế giới nhanh chóng hơn nữa, nếu ngôn ngữ của họ được biểu đạt bằng mẫu tự abc – alphabétique – như đa phần nhân loại.

Sau khi xem phim Thirteen Lives và thấy thiên hạ (ở khắp mọi nơi trên trái đất) đổ dồn đến hang động Tham Luang, để giải cứu đội banh Wild Boars, tôi mới biết thêm rằng: không có gì tệ hại hơn trong việc cô lập một xứ sở bằng chủ trương ngu xuẩn (và thái độ ti tiện, đốn mạt) của bọn cầm quyền.

Tưởng Năng Tiến
9/2022

Hãy gắng trở nên người công chính, đạo đức, giàu lòng tin và lòng mến, hãy gắng sống nhẫn nại và hiền hòa. (1 Tm 6:11) – Cha Vương

Hãy gắng trở nên người công chính, đạo đức, giàu lòng tin và lòng mến, hãy gắng sống nhẫn nại và hiền hòa. (1 Tm 6:11)

Tạ ơn Chúa, một ngày mới để yêu thương và được yêu thương trong Chúa.

Cha Vương

CN: 25/09/2022

TIN MỪNG: Phần anh, hỡi người của Thiên Chúa, hãy tránh xa những điều đó; hãy gắng trở nên người công chính, đạo đức, giàu lòng tin và lòng mến, hãy gắng sống nhẫn nại và hiền hòa. (1 Tm 6:11)

SUY NIỆM: Là một người Kitô hữu, có bao giờ bạn nghĩ rằng những hành động và lựa chọn trong ngày của bạn có ảnh hưởng đến những người chung quanh không? Cuộc đời của bạn cũng giống như là một “bài giảng”.  Mình xin lỗi trước nhé, những ví dụ sau đây không có ý chỉ trích các nhà giảng thuyết đâu nhưng để diễn tả cuộc đời của mỗi người mà thôi. Như mình đã nói, cuộc đời của bạn cũng giống như là một “bài giảng”. Có những bài giảng dài thật dài nhưng lại rỗng tuếch, có những bài giảng thật xúc tích đánh động tâm hồn của người nghe, có những bài giảng như là một buổi kể truyện… hết chuyện này rồi qua truyện khác, từ chuyện của mình rồi đến chuyện của người khác, rồi lại có những bài giảng như là một chương trình hài kịch ngắn làm cho người nghe cười khúc khích, lại có những bài giảng như là một ca truy tố—soi bói, lên án, vạch  áo cho cả làng xem lưng, rồi lại có những bài giảng toàn nặng về lý thuyết sách vở nhưng nhẹ vệ ứng dụng làm người nghe cảm thấy nặng đầu, có những bài giảng thật đơn sơ, xúc tích, chân thành mà người nghe cảm thấy như là một quyển Kinh Thánh sống—lời nói đi đôi vời việc làm và làm những gì họ dạy và tin . Ví dụ như Mẹ Thánh Teresa, tất cả những gì ngài làm đều  được Phúc Âm hoá, ngài sống và thi hành những điều ngài tin và trở thành nhà giảng thuyết hùng hồn qua những lựa chọn và hành động đơn sơ đúng với tinh thần của Phúc Âm. Có những câu nói của ngài tuy rất đơn sơ nhưng làm cho các nhà phóng viên và giới trí thức phải thinh lặng. Là một người theo Chúa, bạn được mời gọi mỗi ngày để sống và rao truyền tình yêu thương và lòng thương xót của Chúa qua việc bạn quan tâm đến những người xung quanh, đặc biệt là những người đang cần sự giúp đỡ của bạn.

LẮNG NGHE:

CHÚA giải phóng những ai tù tội,

CHÚA mở mắt cho kẻ mù loà.

CHÚA cho kẻ bị dìm xuống đứng thẳng lên,

CHÚA yêu chuộng những người công chính. (Tv 145-đáp ca, CN 26)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, xin dạy con biết việc con phải làm, cùng khi làm xin Chúa giúp đỡ con, từ khởi sự cho đến hoàn thành đều nhờ bởi ơn Chúa. Amen.

THỰC HÀNH: Tập đặt người khác lên trên ý riêng của mình hôm nay.

From: Đỗ Dzũng