RỒI MỘT NGÀY!

Nghệ Lâm Hồng

RỒI MỘT NGÀY!

Rồi một ngày anh cũng sẽ già đi.

Chim ngừng hót và bu zi hết lửa,

Chợ chưa đến mà tiền đâu còn nữa,

Rốc két một giờ bữa được bữa không.

Rồi một ngày môi em chẳng còn hồng,

Bưởi tròn căng, bỗng nhùng nhằng thành mướp,

Giếng cạn khô, nước về đâu có được,

Tóc bạc dần, theo lược rụng dưới chân.

Rồi một ngày con cái chẳng ở gần,

Ngôi nhà vắng, như lần mình mới cưới,

Tôi và em kẻ nhà trên nhà dưới,

Vẫn âm thầm, rảnh tưới vài luống rau.

Rồi một ngày, mình ngủ ít như nhau,

Bệnh xương khớp lưng đau, đầu gối mỏi,

Lúc trở trời, lại tìm bác sĩ giỏi,

Thuốc uống nhiều thôi khỏi phải ăn cơm.

Rồi một ngày mình sao giống thằng bờm,

Nói lảm nhảm, nghĩ dởm đời đến lạ,

Đêm hai đứa chợt thấy thèm chung chạ,

Mở ra rồi..Ông ạ..đậy lại đi.

Rồi bây giờ, tiền bạc chẳng là gì.

Mua sức khỏe, ước chi ngày ba bữa.

Thuốc uống ít, thể dục nhiều hơn nữa

Vui cháu con, sống khỏe giữa đời thường.

Mong bạn bè, thân hữu hội yêu thương

Đừng đắn đo vấn vương khi có thể

Cứ vui đi, vượt ngàn trùng dâu bể

Lúc hết rồi, đâu nữa để cho nhau…

Sưu tầm

Chuyện khó tin có thật ở xứ thiên đường

Thanh Tâm

Đồi núi 1500 m ngập lụt

Chuyện khó tin có thật ở xứ thiên đường

Đà Lạt toạ lạc trên cao nguyên Lâm Viên. Mà cao nguyên Lâm Viên cao nhất khu vực Tây Nguyên, nhưng bây giờ ngập được kiểu này thì cs quá tài tình rồi

Xin một tràng pháo tay

Vỗ vỗ vỗ…

Thánh Grêgôriô Cả (540-604), Tiến Sĩ Hội Thánh-Cha Vương

Thánh Grêgôriô Cả (540-604), Tiến Sĩ Hội Thánh

Chúc bạn và gia đình những ngày nghỉ lễ Labor Day tươi vui bình an trong Chúa nhé. Hôm nay 03/09, Giáo Hội mừng kính Thánh Grêgôriô Cả (540-604), Tiến Sĩ Hội Thánh. Mừng quan thầy đến những ai chọn ngài làm quan thầy.

Cha Vương

Thứ 7: 03/09/2022

Trong cuộc đời Thánh Grêgôriô Cả, sự nghiệp của ngài càng ngày càng lẫy lừng. Ngài là trưởng thánh bộ Rôma trước khi 30 tuổi. Năm năm sau đó, ngài từ chức, sáng lập sáu đan viện trên các phần đất của ngài ở Sicilia và chính ngài là một tu sĩ dòng Biển Ðức (Benedictine) ở Rôma. Sau khi thụ phong linh mục, ngài là một trong bảy phó tế của đức giáo hoàng, và còn giữ chức vụ sứ thần tòa thánh ở Constantinople, Ðông Phương. Sau đó ngài được gọi về làm đan viện trưởng, và vào lúc 50 tuổi, ngài được chọn làm giáo hoàng thứ 64 kế vị Thánh Phêrô bởi hàng giáo sĩ và giáo dân Rôma. Ngài thẳng tính và kiên quyết. Ngài cách chức các linh mục bất xứng, cấm không được lấy tiền khi phục vụ, và ngài lấy tất cả quỹ riêng của đức giáo hoàng để chuộc các tù nhân bị phe Lombard bắt và săn sóc những người Do Thái bị bách hại và các nạn nhân của nạn dịch tễ cũng như nạn đói kém. Ngài rất lưu tâm đến việc trở lại của nước Anh nên đã sai 40 đan sĩ của ngài đến hoạt động ở đây. Ngài nổi tiếng vì những cải cách phụng vụ, và củng cố sự tôn trọng học thuyết. Người ta đang tranh luận xem có phải chính ngài là người chịu trách nhiệm phần lớn nhạc bình ca (Gregorian) hay không.

    Thánh Grêgôriô sống trong giai đoạn luôn luôn có bất hòa vì sự xâm lăng của phe Lombard và vì những tương giao khó khăn với Giáo Hội Ðông Phương. Khi Rôma bị tấn công, chính ngài là người đến chất vấn vua Lombard. Một sử gia Anh Giáo đã viết: “Không thể nào tưởng tượng được những gì sẽ xảy ra trong thời Trung Cổ–thật lộn xộn, vô trật tự–nếu không có triều đại giáo hoàng; và nói về giáo hoàng của thời trung cổ, vị cha chung đích thực là Ðức Grêgôriô Cả.” Cuốn sách của ngài “Cách Chăm Sóc Mục Vụ” nói về nhiệm vụ và đặc tính của một giám mục, đã được đọc trong bao thế kỷ sau khi ngài chết. Ngài diễn tả vị giám mục chính yếu như một y sĩ mà nhiệm vụ chính là rao giảng và duy trì kỷ luật. Trong các bài giảng thực tế của ngài, Thánh Grêgôriô có tài áp dụng phúc âm hàng ngày vào nhu cầu đời sống của giáo dân. Ðược gọi là “Cả”, Thánh Grêgôriô được nâng lên một vị trí ngang hàng với Thánh Augustine, Thánh Ambrôsiô và Thánh Giêrôme như một trong bốn vị tiến sĩ nòng cốt của Giáo Hội Tây Phương.

Lời Bàn: Thánh Grêgôriô thích là một đan sĩ, nhưng ngài sẵn sàng phục vụ Giáo Hội trong các phương cách khác khi được yêu cầu. Ngài đã hy sinh những sở thích của ngài trong nhiều phương cách, nhất là khi làm Giám Mục Rôma (Giáo Hoàng). Một khi được kêu gọi để phục vụ công ích, Thánh Grêgôriô đã dùng hết khả năng để chu toàn nhiệm vụ. (Nguồn: Người Tín Hữu)

Sau đây là những câu nói của ngài, mời bạn đọc và suy gẫm để đưa mình đến gần Chúa hơn:

(1) Những ai đã vấp ngã trên đất bằng, đừng nên đến gần vực thẳm.

(2) Ngay cả khi không có quyền lực trong tay, tâm trí con người vẫn hướng chiều về sự kiêu căng; thế thì khi có quyền lực nâng đỡ, họ còn tự đại đến đâu nữa.

(3) Linh hồn là bộ mặt bên trong của con người, theo đó, chúng ta được Đấng Tạo Thành nhận biết và chăm sóc.

(4) Chỉ cần yêu thích những sự trên cao là đã vươn cao rồi.

(5) Nói cho cùng có lẽ không khó để người ta từ bỏ của cải, nhưng chắc chắn là thật khó để từ bỏ chính mình. Khước từ những gì mình có là chuyện nhỏ; nhưng khước từ cái tôi của mình đó mới thật đáng kể.

(6) Đừng lo lắng anh em có gì, nhưng hãy lo lắng anh em là gì.

(7) Nếu biết thường xuyên trang bị tinh thần bằng nghị lực kiên cường để chống lại những xúi giục của các tập quán xấu xa, chúng ta có thể biến chính các tập quán xấu ấy thành vốn liếng của nhân đức.

Câu nào đánh động bạn nhất? Đối với mình thì câu số 4. Còn bạn?

❦ Thánh Grêgôriô, cầu cho chúng con.

From: Do Dzung

NÓI VỀ CẦU CHỮ Y và NHỮNG XỨ KHÁC CÓ TÊN DÍNH SỐ 3, SỐ 7, SỐ 5.

Lương Văn Can

NÓI VỀ CẦU CHỮ Y

và NHỮNG XỨ KHÁC CÓ TÊN DÍNH SỐ 3, SỐ 7, SỐ 5.

***

Cầu Chữ Y vì sao lại là …chữ y và có 3 nhánh? Vì ngay khúc đó là ngã ba sông. Cái cầu chữ y tẻ ra 3 hướng

Kinh Tẻ là kinh đào, năm 1905 người Pháp đào con kinh này từ sông Sài Gòn tại khúc cầu Tân Thuận ngày nay đến Kinh Tàu Hủ khúc cầu Chữ Y làm thủy đạo xuống Miền Tây chia bớt ghe tàu cho rạch Bến Nghé

Từ sông Sài Gòn trổ vô kêu Kinh Tẻ, từ khúc cầu Chữ Y đụng Kinh Tàu Hủ thì kêu là Kinh Đôi

Cầu Chữ Y bắc ngang Kinh Tàu Hủ và Kinh Đôi. Một đầu nó bên quận 5 ngay đường Nguyễn Biểu trổ qua bên kia ở hai hướng, hướng thẳng là qua Phạm Thế Hiển, Rạch Ông, hướng phải là qua Hưng Phú

Đường Hưng Phú trổ qua Chánh Hưng cắt ngang để gặp Bến Ba Đình. Chánh Hưng là vùng có nhiều lò mổ trâu, bò,heo, ngựa và cả gà vịt

“Ðốt đêm đen trái châu treo thay đèn lấp lánh

Cầu chữ Y, Lộ Hàng Xanh

Lửa bao thiêu tám nẻo đường thành”

Cầu Chữ Y ngày xưa là một miền quê ngoài rìa đô thành Sài Gòn nhiều sông rạch thuộc vùng Bình Xuyên là vùng đất Nam SG, bắt đầu bên bờ nam cầu Nhị Thiên Đường, cầu Chữ Y kéo dài xuống Rạch Đỉa, Nhà Bè, Bình Hưng, Phong Đước, An Phú, Cần Giuộc

Khúc cầu Tân Thuận đi xuống Nhà Bè khi đó minh mông sình lầy sông nước, khi chưa có cầu Rạch Ông thì chỉ có đi đò qua Sài Gòn

Sài Gòn ngày xưa là đô thành bên sông, là xứ sông nước không thua Miền Tây. Sài Gòn có nhiều ngã ba kinh, ngã ba sông lắm

“Nhà Bè nước chảy chia hai

Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về”

Sông Sài Gòn chảy từ rừng Lộc Ninh cùng sông Đồng Nai gặp nhau ở ngã ba rồi hòa làm một thành sông Nhà Bè

Cái tên Nhà Bè có giai thoại giải thích về cái bè làm việc thiện của viên thơ lại thành Gia Định là ông Thủ Hoằng (Võ Thủ Hoằng)

Tuy nhiên đó cũng là một cách giải thích thuần Việt, đâu phải cứ Nhà Bè thì phải có cái bè? Nhà Bè và Cái Bè có thể là phiên âm từ tiếng Khmer

Quận Nhà Bè nằm sát nách đô thành Sài Gòn là đất thuộc tỉnh Gia Định. Nhà Bè xưa có 9 xã với quận lỵ đóng ở làng Phú Xuân Hội , sau đó dời về đất làng Phú Mỹ. Từ đô thành Sài Gòn đường Trình Minh Thế -Liên Tỉnh 15 chạy dài từ Cầu Khánh Hội, cầu Tân Thuận, cầu Phú Xuân tới doi đất gọi là mũi Nhà Bè có cái cầu bắc

Phú Xuân Hội là một cái đảo nằm giữa bốn con sông là Nhà Bè, Soi Rạp, Phú Xuân, Phước Long, chiều dài từ cầu Phú Xuân xuống tới mũi Nhà Bè theo đường Liên Tỉnh 15 là 5 cây số và ngang từ sông Nhà Bè tới sông Mương Chuối độ hơn 3 cây số

Phú Xuân Hội là gì? Là đất mới nhưng đô hội như kinh kỳ Phú Xuân ngoài Huế, là tên gọi của người đi khai hoang đã lấy tên Phú Xuân ở Huế đặt cho vùng đất mới

Gọi là đường Liên Tỉnh 15 là vì con đường từ cầu Tân Thuận tới tận doi đất có bến đò, sau là bến bắc Bình Khánh, Phước Khánh.dài đúng 15 cây số

Hồi xưa đất Phú Xuân Nhà Bè là đất của các tổng kho xăng dầu vì nằm cặp sông sâu, rộng thuận tiện cho tàu chở dầu cặp bến. Các hãng có tiếng như Caltex, Esso, Mobil Oil, Shell đều có kho lớn ở Nhà Bè, thành ra trong đô thành Sài Gòn đường lộ còn đất đỏ bụi mù thì khúc 15 cây số này đã tráng nhựa láng o để cho xe chở dầu ra vô tiện lợi

Ngày nay còn địa danh “ngã ba Shell” bên Phú Xuân

Dân đô thành SG muốn về Nhà Bè hồi xưa có hai cách là đi bằng xe ngựa và xe lam. Tại đầu cầu Phú Xuân có bến xe ngựa và sau là xe lam. Nhà Bè là quận của tỉnh Gia Định nên dân từ Nhà Bè muốn về làm giấy tờ hành chánh ở tòa bố tỉnh Gia Định phải đi xe lam 2 tới 3 chặng, một chặng từ Phú Xuân tới Tân Thuận, đến chợ Xóm Chiếu, Khánh Hội và chặng từ Sai Gòn đến Lăng Ông và chợ Bà Chiểu ở Bình Hòa xã

Đất Nhà Bè minh mông sông rạch nên thưa dân, đất sình lầy gọi là đất không chưn rất khó xây nhà bê tông cao ốc, đây là vùng chứa nước mưa tự nhiên của đô thành Sài Gòn.Sau 1975 đã làm Phú Mỹ Hưng chặn lại nên cứ mưa là thành phố bị ngập cũng ở chổ này

Từ đây trổ về mé Cần Giờ, dọc sông Lòng Tàu Soi Rạp, Cần Giuộc gọi là Rừng Sác xưa là hang ổ của V C

Có câu “Cọp Biên Hòa, ma Rừng Sác”

Cọp Biên Hòa dữ nổi tiếng, muốn tìm hiểu thì mời đọc “Săn cọp Đồng Nai” của Bình-nguyên Lộc

Còn “Ma Rừng Sác” thì sao? Cái xứ “Ma Rừng Sác” cũng rùng rợn có tiếng, vùng này đi vô chỉ có chết, là “vùng đất chết “

Xứ Nhà Bè có những cây cầu nổi tiếng nghe ngộ ngộ như cầu Rạch Đỉa,cầu Long Kiểng

Có những món ăn đặc sản từ cua, cá bông lao, cá chìa vôi

Nhà Bè mang tiếng đất xa xôi, đất thưa dân nhưng là đất khai phá sớm thành ra có nhiều nhà cổ. Đọc các cuốn sách của ông già ó đâm Vương Hồng Sển bạn sẽ biết ngôi nhà cổ của ổng, cái “Vân Phủ Đường” ở đường Nguyễn Thiện Thuật tỉnh Gia Định là năm 1952 ông Vương trúng số, đã mua cái xác nhà cổ 5 gian 2 chái ở miệt Phú Xuân Hội –Nhà Bè về cất lên

Miền Nam mình tỉnh nào không có ngã ba sông, có tỉnh còn có ngã năm, ngã bảy sông nữa kìa

“Sông Ngã Bảy chảy về bảy ngã

Thuyền đến đây về ngã nào đây

Buồm không theo kịp chim bay

Xa nhau biết hẹn ngày nào gặp nhau”

Ngã bảy Phụng Hiệp là nơi giáp các con kinh và sông sau: Kinh Xáng, Bún Tàu, Lái Hiếu, Xẻo Môn, Xẻo Đông, Cái Côn, Mang Cá

Chợ nổi Ngã Bảy được thành lập năm 1915 hình thành từ những con sông, kinh đào, kinh xáng múc, xáng thổi

Người Pháp đã đào kinh Xáng để hình thành bảy ngã sông đi khắp mọi hướng để nó trở thành đầu mối giao thông thủy lớn nhứt Nam Kỳ thời ấy

Ngã bảy đi ra 7 hướng

Chợ nổi Ngã Bảy càng vang danh tên tuổi hơn hơn khi bản vọng cổ “Tình anh bán chiếu” của soạn giả tài hoa Viễn Châu qua giọng ca của ông Út Trà Ôn vang dội, trở thành câu ca thất tình ngâm nga của dân Lục Tỉnh

“Hỡi ôi….! con sông Phụng Hiệp chảy ra bảy ngã thì lệ của tôi nó cũng lai láng muôn dòng”

Người Khmer Nam Kỳ kêu Ngã Bảy là Tonlé Prambil Muk, có nghĩa là sông bảy mặt

Chợ nổi Ngã Bảy huy hoàng dập dìu ghe hàng từ sáng sớm, mùa nào thứ đó, từ trái cây tới những hàng thủ công của miệt Miền Tây, bảy nhánh sông là bảy làng nghề

Những người lấy ghe làm nhà, bán buôn quanh năm ở chợ nổi, chạy tứ tung Lục Tỉnh ông bà mình kêu là “khách thương hồ”

“Hò ơ..!

Đạo nào vui cho bằng đạo đi buôn

Xuống bể lên nguồn, gạo chợ nước sông

Bớ ghe sau chèo mau tôi đợi

Khúc sông này bờ bụi khó qua”

Thương hồ là thương nhân “rày đây mai đó”,”lang bạt kỳ hồ” hoặc “phiêu bạt kỳ hồ”,cuộc đời ví như bông lục bình

“Thiên hạ thường chê thứ lục bình

Phận hèn bèo giạt sống linh đinh

Sông hồ bể cả trôi thân mọn

Bãi cát ghềnh hoang gửi kiếp xình

Đêm đến chờ trăng soi dáng nguyệt

Ngày qua đợi sáng đón bình minh

Theo mây tận hưởng đời phiêu bạt

Lướt sóng an nhàn số nhục vinh”

Ngẫm thiệt vui! Trên bờ ngã ba, ngã bảy tưng bừng thời dưới sông ngã bảy,ngã ba cũng rộn ràng

“Anh đi ngã bảy ngã năm

Anh về anh mệt anh nằm ngã ba”

Mà số ba là số linh

Đạo đức kinh của Lão Tử nói “Đạo sanh ra Một, Một sanh ra Hai. Hai sanh ra Ba. Ba sanh ra vạn vật”

Con số ba của Kinh Dịch là một con số thần bí, thiêng liêng

Ai cũng biết mỗi một quẻ của bát quái đều gồm có ba hào, là ba vạch liền nhau hoặc đứt gãy

Ba hào dương gọi là quẻ Càn, ba hào âm gọi là quẻ Khôn, Kinh Dịch có hết thảy 64 quẻ

Thí dụ quẻ Càn ☰ còn đọc là Kiền được đặt tên theo nghĩa 3 hào dương do ba khúc cây được ghép lại với nhau

Tại sao lại là ba vạch ? Đó là ba bậc của trật tự trong vũ trụ, trật tự của thiên giới, trật tự của nhân giới và trật tự của vạn vật

Đó là tam tài. Vì vậy, một quẻ có ba hào tượng trưng cho: Thiên, Địa và Nhân (Trời,Đất, Người)

Ông bà ta hay nói “Thiên thời, Địa lợi, Nhơn hòa” là nói lên sự viên mãn, hanh thông của đời sống . Đây cũng là ba yếu tốt quyết định sự thành công của một người thành đạt

Trong chánh trị ai nắm ba cái này sẽ làm lãnh tụ

Trong Hán tự, số ba viết là 三(tam) gồm ba vạch như tam tài, chữ Vương 王 trong quyền lực chỉ rõ sự kết nối giữa Thiên-Nhơn-Địa nhiều hơn chữ tam, 王道 vương đạo là sự thẳng thuốm của người cầm quyền cũng vậy

Số ba ở Tây Phương cũng kỳ bí

Đi lễ nhà thờ Công giáo, ta hay nghe linh mục đọc “Nhân danh Cha, Con và Thánh Thần, Amens” là nội dung lời kinh có tên là “Dấu Thánh giá”

Đây là Thiên Chúa Ba Ngôi của đạo Công giáo, Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần

Số 3 linh thiêng

Địa danh Ba Làng ở Tĩnh Gia, Thanh Hoá là gọi tắt của ba ngôi làng tên là Sung Mãn, Ngoại Hải, Như Xuân

Ba Làng là vùng khỉ ho cò gáy khi xưa, nhưng Ba Làng đi vào lịch sử Đạo Thiên Chúa ở VN rất sớm. Năm 1627 Linh Mục Đắc Lộ Alexandre De Rhodes từng đến Lạch Bạng và rửa tội nhiều người dân ở đây

Lạch Bạng hay Cửa Bạng là tên của một cửa sông thuộc làng Do Xuyên nằm về phía đông Tĩnh Gia,Thanh Hoá

Giáo xứ Ba Làng ra đời như vậy, năm 1955 khi giáo dân Ba Làng Thanh Hóa đến biển Nha Trang định cư. Họ lấy tên làng cũ ở Thanh Hóa để đặt cho khu định cư mới tại thành phố Nha Trang nên cũng gọi là khu Ba Làng

Ba Đình là địa danh của huyện Nga Sơn Thanh Hóa gọi chung 3 làng Mỹ Khê, Hương Thọ và Mậu Thịnh.Thời Nguyễn quy định mỗi làng phải có một cái đình, đình làng Mỹ Khê, Hương Thọ, Mậu Thịnh nằm cũng gần nhau

Khu ba làng này có cuộc khởi nghĩa do Đinh Công Tráng và Phạm Bành làm thủ lãnh trong giai đoạn kháng Pháp 1886 – 1887 mà bản doanh là ba cái đình làng đó, dân kêu là khỏi nghĩa Ba Đình

Hà Nội thời Pháp phía trước Phủ Toàn quyền có vườn hoa Puginier nằm giữa các con đường Avenue de la République, Avenue Brière de l’Isle, Rue Elie Groleau, và Avenue Puginier

Có một bùng binh ở giữa cũng tên là Pugininer, dân Hà Nội xưa gọi vườn hoa Pugininer là quảng trường Tròn

Năm 1945 thời Việt Minh cướp chánh quyền đã đổi tên vườn hoa Puginier thành vườn hoa Ba Đình

Bây giờ xin mời về Định Quán tỉnh Đồng Nai

Định Quán là xứ rừng của tỉnh Biên Hòa xưa, đường lên Đà Lạt, xứ núi lửa cổ. Xứ này nổi tiếng về những tảng đá lớn lô nhô mọc lên mặt đất, không ai hiểu vì sao nó có

Nổi tiếng nhứt vì sát quốc lộ 20 là ba tảng đá lớn xếp chồng lên nhau với độ cao gần 40 m, dân gian kêu là Đá Ba Chồng

Ngộ cái nữa,gần đó có cái thác tên là thác Ba Giọt

Nam Kỳ chúng ta có một cái đất Ba Giồng vang danh lịch sử

Theo Hồ Biểu Chánh thì :

“Phía Tân Hiệp gồm tới ba cái giồng nằm gần nhau. Ấy là gịồng Trấn Định tại Tân Hiệp Củ Chi, giồng Cánh Én nằm tại ranh tỉnh Tân An, giồng Thuộc Nhiêu nằm dài theo qnan lộ Trung Lương xuống Cai Lậy.

Mà giồng nào cũng không có danh bằng ba cái giồng nầy. Sử có ghi chép ba giồng nầy gọi là vùng” Tam Phụ”. Thường nhơn nói nôm na thì gọi là xứ “Ba Giồng” (Hết trích)

Ba Giồng vang danh vì lập ra đạo quân Đông Sơn đánh lại Tây Sơn

Đội quân Đông Sơn của tướng Đỗ Thành Nhơn làm Nguyễn Huệ khiếp sợ, về sau Đỗ Thành Nhơn bị chúa Nguyễn Ánh giết chết đoạt binh

Thời Nguyễn,sử Nguyễn ít nhắc tới chữ Ba Giồng không biết vì lý do gì, có lẽ dân xứ này có tham gia vụ binh biến Lê Văn Khôi

Ngày nay chữ “Ba Giồng” chỉ còn tồn tại nhờ giáo xứ Ba Giồng là trung tâm hành hương của giáo phận Mỹ Tho, một thánh địa Công giáo Mỹ Tho xưa cổ

Tất nhiên đạo CG vào đất Ba Giồng sau này, chữ Ba Giồng của CG chỉ là một nhánh nhỏ của xứ Ba Giồng xưa

Ba Vát là một địa danh trên đường Mỏ Cày đi Chợ Lách, xưa là quận lỵ của quận Đôn Nhơn tỉnh Kiến Hòa (Bến Tre), nay là xã Phước Mỹ Trung, Mỏ Cày Bắc

Trong xứ Nam Kỳ ta các địa danh chữ Ba rất nhiều, thí dụ: Ba Giồng, Ba Thắc, Ba Lai, Ba Tri…

Ba Vát gốc Khmer Préah Wat, nghĩa là chùa Phật, các quan xưa phiên âm sang từ Hán Việt thì chữ vát không có trong Hán tự nên biến âm thành Ba Việt

“Đèn nào cao bằng đèn Ba Vát

Gái nào bạc bằng gái chợ Giồng

Ngày em làm lễ tơ hồng

Là ngày em bẻ gãy chữ đồng với anh”

Ba Vát ghi tên trong lịch sử Việt Nam vì nó là nơi diễn ra một trận đánh giữa Nguyễn và Tây Sơn:Trận Ba Vát 1777

Địa danh VN còn có Ba Lòng, Ba Chúc, Ba Lai, Ba Láng cũng chưa rõ nghĩa, xuất xứ của nó, có thể là tiếng dân tộc bổn địa phiên âm ra Việt ngữ

“Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng, Phong Điền

Anh có thương em thì cho bạc cho tiền.

Đừng cho lúa gạo xóm giềng cười chê”

Từ cái “Cầu Chữ Y” mà kéo dài qua Nhà Bè, rồi xuống tận Miền Tây là quá xá dài rồi, xin ngưng ở đây.

– Nguyễn Gia Việt – 

Bài nói chuyện của Tổng thống Biden Ở Philadelphia Joe Biden

Bài nói chuyện của Tổng thống Biden Ở Philadelphia Joe Biden

03/09/2022

Nghĩa Bùi dịch

Người dân Hoa Kỳ thân mến, nơi tôi đang đứng thưa chuyện cùng các bạn là thánh địa của chúng ta: Independence Hall [Dinh Độc Lập], tại thành phố Philadelphia, Pennsylvania. Đây là nơi mà hơn hai trăm năm trước một tân quốc gia đã tuyên bố cùng thế giới nền Độc Lập của mình qua một ý tưởng độc đáo chưa ai có, rằng trên đất nước này mọi người sinh ra đều bình đẳng. Đây là nơi bản Hiến Pháp của Liên bang Mỹ quốc được bàn thảo và tranh luận. Đây là khởi điểm cho cuộc thí nghiệm táo bạo nhất lịch sử nhân loại – chính quyền do người dân tự quản lý – chỉ với ba chữ đơn sơ: “Ta, người Dân.”

“We, the People.”

Hai bức văn kiện và những tư tưởng lớn lồng trong đó – bình đẳng và dân chủ, là nền móng dựng xây đất nước này. Nhờ nó mà chúng ta trở thành quốc gia vĩ đại nhất quả địa cầu. Vì nó mà qua hơn hai thế kỷ Hoa Kỳ vẫn là ngọn tiêu đăng của thế giới. Nhưng ngay khi tôi đang trò chuyện cùng các bạn đêm nay, sự bình đẳng và nền dân chủ của chúng ta đang bị đánh phá. Và sẽ chẳng lợi lộc gì nếu ta giả bộ như điều đó không xảy ra.

Bởi vậy nên hôm nay tôi trở lại nơi câu chuyện bắt đầu để nói với các bạn, bằng thứ ngôn ngữ giản dị nhất tôi có thể, về những mối đe doạ ta đang trực diện, về sức mạnh ta có trong tay để đối phó với chúng, và về một tương lai xán lạn đằng trước mặt nếu ta chọn nó.

Đừng bao giờ quên: Ta, người Dân, là những kẻ chính thức thừa kế cuộc thí nghiệm mang tên Mỹ quốc được khởi động hơn hai trăm năm trước. Ta, người Dân, mang trong mình ngọn lửa của quyền tự quyết đã được thắp lên tại Independence Hall. Ngọn lửa ấy đã soi sáng cho chúng ta trên con đường bãi bỏ nô lệ, cuộc Nội Chiến, bình đẳng cho phụ nữ, Đại suy thoái Kinh tế, hai Đại thế chiến, đấu tranh cho Dân quyền…

Ngọn lửa thiêng ấy vẫn đang bừng cháy, giúp ta xây dựng một nước Mỹ thịnh vượng hơn, tự do và công bình hơn. Đối với tôi, đó là nhiệm vụ của người tổng thống. Tôi đặt tất cả linh hồn và niềm tin của mình vào những mục đích ấy. Nhưng trước hết chúng ta cần phải thật lòng với nhau, và với chính mình.

Có quá nhiều chuyện đang xảy ra trên đất nước này mà ta phải công nhận là bất bình thường. Donald Trump và nhóm Cộng Hoà MAGA đại diện cho một thứ chủ nghĩa cực đoan đang làm băng hoại nền tảng quốc gia. Nhưng tôi cũng muốn nhấn mạnh, muốn nói cho thật rõ, rằng không phải tất cả những ai theo đảng Cộng Hoà, thậm chí càng không phải đa số đảng viên Cộng Hoà, là MAGA.

Không phải người Cộng Hoà nào cũng bị mê hoặc bởi ý thức hệ cực đoan ấy. Tôi biết chắc vậy vì tôi và những người Cộng Hoà chân chính từng làm với nhau được rất nhiều việc chung. Nhưng không thể chối cãi rằng đảng Cộng Hoà ngày nay đang bị khống chế, khuynh đảo, và khiếp đảm bởi Donald Trump và nhóm Cộng Hoà MAGA. Đó là mối đe doạ lớn cho đất nước.

Mấy chuyện này khó nói vô cùng. Nhưng vì là tổng thống của nước Mỹ – không phải của nước Mỹ đỏ hay nước Mỹ xanh, mà là của toàn nước Mỹ – nên tôi cảm thấy có bổn phận nói thẳng với mọi người, dù sự thật có khó nghe hay mích lòng chăng nữa.

Và đây là quan điểm của tôi về sự thật ấy: Những người Cộng Hoà MAGA không tôn trọng Hiến Pháp.

Họ không thượng tôn pháp luật. Họ không công nhận quyền tự quyết của người dân. Họ không chấp nhận kết quả đầu phiếu tự do. Và cả ngay lúc này họ vẫn đang đi từ tiểu bang này đến tiểu bang khác để vận động cho việc trao quyền quyết định kết quả bầu cử vào tay những con buôn chính trị và đám ăn theo; khuyến khích việc phủ nhận lá phiếu của cử tri hòng đánh sập nền dân chủ của chúng ta.

Các thế lực MAGA muốn đưa đất nước này trở lui về thời người dân Mỹ không có quyền chọn lựa, không có quyền riêng tư, không có quyền ngừa thai, không có quyền cưới người mình yêu. Họ ủng hộ những kẻ độc tài, họ thổi bùng ngọn lửa bạo lực chính trị ​hòng đe doạ quyền tự do cá nhân, quyền đi tìm công lý, sự thượng tôn pháp luật, và linh hồn của đất nước. Họ xem đám đông tràn vào Điện Quốc Hội ngày 6 tháng Giêng và bạo hành nhân viên công lực không như những kẻ phiến loạn kề dao vào cổ nền dân chủ, mà như những người yêu nước. Và họ xem thất bại của MAGA trong việc cản trở cuộc bàn giao quyền lực trong ôn hoà sau cuộc bầu cử 2020 như bài tập,​ giúp họ chuẩn bị cho 2022 và 2024.

Lần trước họ đã thử đủ cách để vô hiệu hoá lá phiếu của 81 triệu cử tri. ​Lần này họ càng quyết tâm hơn nữa trong việc bóp nghẹt tiếng nói của người dân. Chính vì vậy mà một số nhân vật Cộng Hoà được nể trọng, như Thẩm phán Liên bang Michael Luttig, gọi Trump và nhóm Cộng Hoà MAGA cực đoan là “hiểm nguy thực sự” cho nền dân chủ của chúng ta.

Nhưng dù rằng nền dân chủ Mỹ có đang bị đe doạ thật​, tôi xin được nói thẳng: Chúng ta không bất lực. Chúng ta không phải là người bàng quan trong lúc nền dân chủ đang bị tấn công như vầy. Số người Mỹ không chấp nhận những tư tưởng cực đoan của MAGA đông hơn số người nghe theo nó rất nhiều, và họ gồm đủ mọi thành phần xã hội cũng như tín ngưỡng. Cho nên, bà con tin tôi đi, chúng ta dư sức chặn đứng cuộc tấn công ​vào thành trì dân chủ nước nhà.

Tôi tin rằng nước Mỹ đang đứng trước một bước ngoặt quan trọng. Đây là một trong những thời điểm ta có thể uốn nắn vận mệnh đất nước theo một chiều hướng khác. Đã đến lúc người dân Mỹ phải chọn: Đi tới, hay đi lùi? Xây dựng tương lai, hay bị ám ảnh bởi quá khứ? Trở thành một đất nước của hy vọng, đoàn kết và lạc quan, hay một đất nước đầy sợ hãi, chia rẽ và u ám?​

Những người Cộng Hoà MAGA đã chọn con đường của họ. Họ chọn hận thù. Họ ưa hỗn loạn. Họ không ​sống trong ánh sáng của sự thật mà trong bóng tối của sự lừa dối. Nhưng chúng ta – chung tay với nhau, có quyền chọn một con đường khác. Một con đường sáng sủa hơn. Một con đường hướng đến tương lai. Một tương lai đầy cơ hội. Một tương lai dựng xây ​bằng niềm tin và hy vọng. Và chúng ta hiện đang bước đi trên con đường đó.​

Tôi biết đất nước này. Tôi hiểu người dân Mỹ. Tôi biết sự dũng cảm của bạn. Tôi hiểu trái tim bạn. Và tôi cũng rành lịch sử ​Hoa Kỳ. Chúng ta vinh danh chứ không chối bỏ Hiến Pháp của mình. Chúng ta tuân thủ chứ không khinh thường luật pháp. Chúng ta ​tôn trọng các cuộc bầu cử công bằng và tự do. Chúng ta chấp nhận chứ không phủ nhận tiếng nói của quần chúng qua lá phiếu. Và chúng ta không cho phép sử dụng bạo lực như chiêu trò chính trị. Chúng ta không bao giờ khuyến khích bạo lực. ​

Chúng ta vẫn là một đất nước luôn đặt niềm tin vào sự thành tâm, hướng thiện, tương kính, lòng ái quốc, tinh thần tự quyết, công bằng công lý, hy vọng, cơ hội. Sâu trong tâm khảm, chúng ta vẫn là một nền dân chủ thực sự. Tuy nhiên, lịch sử dạy ta rằng trung thành tuyệt đối với​ một nhà lãnh đạo và sẵn sàng tham gia bạo lực chính trị sẽ giết chết dân chủ.

Bao lâu nay ta thường tự nói với chính mình rằng nền dân chủ Mỹ rất vững vàng và bảo đảm, nhưng sự thật không phải vậy. Chúng ta, mỗi một người dân, phải sẵn sàng trấn thủ, bảo vệ và lên tiếng cho dân chủ. Đó là lý do tại sao tối nay tôi muốn kêu gọi người dân Mỹ, bất luận phe phái, hãy đến với nhau trong tình đoàn kết cùng mục đích chung là bảo vệ nền dân chủ của mình…

Nguồn: baotiengdan.com

HÀNH TRÌNH CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ

HÀNH TRÌNH CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

Thánh Luca nói với chúng ta rằng “có rất đông người cùng đi đường với Chúa Giêsu.”  Và, trong số rất đông người đó, Chúa kêu gọi những ai muốn làm môn đệ thì hãy theo Người, đồng thời Chúa cũng đưa ra những điều kiện cần có để theo Người.  Như thế, môn đệ của Chúa Giêsu là những người được gọi tách ra khỏi đám đông dân chúng, tình nguyện chấp nhận những điều kiện khắt khe và những hệ luỵ của ơn gọi làm Kitô hữu.  Theo Chúa Giêsu, đó là hành trình của người môn đệ. 

Theo từ điển Tiếng Việt, môn có nghĩa “cửa”; đệ có nghĩa là “em”, là “học trò.”  Hai từ này (môn đệ) có nghĩa học trò của một người thày.  Học theo một vị thày cũng có nghĩa bước vào một cửa, mà cửa chính là vị thày đó.  Theo nghĩa này, người theo Chúa Giêsu là người bước vào một cửa – cửa ấy là chính Chúa.  Môn đệ của Chúa là người thụ giáo với Chúa và chuyên tâm thực hành những gì Người dạy. 

Theo Chúa là tách ra khỏi đám đông.  Việc tách khỏi đám đông nói lên sự chọn lựa dứt khoát để không còn sống và suy nghĩ như người đời.  Đòi hỏi của Chúa có khi làm cho ta tưởng chừng như đi ngược với những liên hệ tình cảm đời thường.  Những điều được liệt kê trong lời Chúa nói cho thấy người môn đệ phải từ bỏ tất cả, chẳng giữ lại gì cho mình từ của cải vật chất cho đến những tình cảm thân thiết.  Khi nêu ra những điều kiện đó, Đức Giêsu nhắc tới thập giá, như sự từ bỏ triệt để nhất.  Chính Người đã dùng thập giá để chứng minh sự từ bỏ hoàn toàn vì vâng phục Chúa Cha.  Từ bỏ chính mình, đó là một nét đặc biệt của người người môn đệ.  Thiếu sự từ bỏ chính mình, chúng ta vẫn chưa thuộc về Đức Giêsu cách trọn vẹn mà chỉ trên danh nghĩa.  Đấng đáng kính, Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã viết: “Bỏ tất cả mà chưa bỏ mình thì con chưa bỏ gì cả, vì chính mình con sẽ dần dần quơ góp lại những gì con đã bỏ trước” (Đường Hy vọng, số 3).  Tự nguyện vác thập giá đời mình để theo Chúa không phải là một khẩu hiệu được hô vang, nhưng là những thực hành cụ thể trong mối tương quan hằng ngày.  Vác thập giá trong cách âm thầm khiêm tốn chứ không ồn ào tô vẽ lấy tiếng khen.  Xin trích dẫn một ý tưởng nữa cũng của Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê: “Trong một cuộc hành hương long trọng, nghìn vạn người tham gia, ai cũng muốn vác thánh giá đi tiên phong.  Nhưng trong cuộc hành hương của mỗi ngày, mấy ai sẵn lòng vác thánh giá của mình?  Anh hùng thinh lặng khó lắm” (ĐHV, số 171).  Vâng, chúng ta sẵn sàng vác thánh giá trong cuộc rước, nhưng không mấy sẵn sàng vác thánh giá trong cuộc đời. 

Theo Chúa là chấp nhận lối sống theo sự khôn ngoan của Thiên Chúa.  Sự khôn ngoan của Thiên Chúa không giống như sự khôn ngoan của con người, bởi lẽ con người đánh giá theo những gì họ ghi nhận bề ngoài.  Tác giả sách Khôn ngoan đã suy tư về sự cao siêu của thánh ý Thiên Chúa, vượt xa trí hiểu của con người, đồng thời mời gọi chúng ta hãy cầu xin cho được đức khôn ngoan để nhìn nhận và đánh giá sự việc theo cái nhìn của Chúa, chứ không theo suy nghĩ thiển cận của chúng ta (Bài đọc I).  Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh một người dự tính xây tháp và một vị vua sắp giao chiến để nói với chúng ta hãy khôn ngoan cân nhắc kỹ lưỡng trong việc chọn lựa cho mình một lý tưởng sống.  Việc xây dựng và giao chiến là những sự kiện rất quan trọng không thể coi thường.  Thiếu cẩn trọng sẽ dẫn tới sự thất bại và có thể mất mạng sống.  Nhờ sự khôn ngoan của Thiên Chúa mà chúng ta được trang bị sức mạnh cần thiết trong cuộc sống hằng ngày, khi xung quanh ta có biết bao khuynh hướng khác nhau đang giằng co lôi kéo con người.  Có thể đó là một triết thuyết vô thần làm cho chúng ta bỏ Chúa, hay một người đồng nghiệp có lối sống vụ lợi ích kỷ, hoặc một thành viên trong gia đình có quan điểm sống trái với giáo huấn của Tin Mừng.  Sống khôn ngoan theo lời Chúa dạy, chính là sự chọn lựa và quyết định cho mọi hành vi của mình.

Môn đệ là người sống quảng đại bao dung.  Ônêximô là một người đầy tớ của ông Philêmôn.  Anh đã dại dột trộm cắp tài sản của chủ.  Thánh Phaolô đã tiếp đón chàng thanh niên này và cho anh nhập Đạo, đồng thời muốn gửi lại cho ông Philêmôn và mời ông đón nhận “không phải như một người nô lệ, mà là một người anh em rất thân mến,” thậm chí còn “đón nhận nó như đón nhận chính tôi.”  Chỉ có người môn đệ đích thực của Chúa mới có thể thực hiện nghĩa cử này.  Môn đệ là người từ bỏ tất những gì thuộc về mình cả nhưng lại sẵn lòng đón nhận tất cả mọi người như anh chị em thân thiết. 

Trở lại với khái niệm “môn đệ” được quảng diễn trên đây, người Kitô hữu được mời bước qua cửa là chính Chúa Giêsu.  “Tôi là cửa, ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu” (Ga 10,9).  Bước qua cửa Giêsu là một chuỗi những cố gắng nỗ lực để lắng nghe và thực thi lời Người.  Người môn sinh chỉ có thể trưởng thành và được giáo huấn khi đón nhận những gì thày mình dạy và làm gương.  Vâng, Chúa Giêsu đã nêu gương cho chúng ta bằng chính cuộc sống của Người, nhất là bằng thập giá.  Người đang mời gọi ta hãy vác thập giá cuộc đời mà đi theo Người.  Thập giá sẽ nở hoa nếu chúng ta vác đi trong tâm tình yêu mến và phó thác.

 TGM Giuse Vũ Văn Thiên

From: Langthangchieutim

Cậu Út

Cậu Út

Tôi bắt đầu khó chịu khi gặp hắn lần thứ ba. Vẫn bộ quần áo vàng dành cho sinh viên sĩ quan lúc đi phép, hắn tỉnh bơ ngồi tại câu lạc bộ sĩ quan. Chung quanh, mọi người đều mặc đồ trận, kể cả những sĩ quan trẻ ngồi cùng bàn với hắn. Trừ bộ quần áo lạc lõng, còn lại từ thái độ đến cung cách ăn nói của hắn chẳng có gì khác lạ. Nâng ly bia, cụng ly, uống một hơi dài. Rồi cười nói, vung tay, xoãi chân như việc hắn có mặt tại đây trong bộ quần áo vàng là điều tự nhiên. Bất cần thiên hạ với những cái nhìn kỳ cục ném về. Kể cả tôi, tiểu đoàn trưởng của tiểu đoàn hắn phải trình diện.

Một vài cái nhìn của đám sĩ quan trẻ ngồi cùng bàn với hắn hướng về khi tôi ngồi xuống. Những cái cười, cái gật đầu được làm. Tôi gật đầu đáp lễ, mắt vẫn không rời hắn. Hắn thản nhiên nhìn tôi rồi bưng ly bia lên uống một hơi dài. Đám sĩ quan trẻ cùng bàn thì thầm với hắn. Hẳn đang nói về tôi. Đột nhiên tôi có ý nghĩ theo dõi thái độ hắn – sau khi đã biết tôi sẽ là tiểu đoàn trưởng của hắn – thế nào. Ngạc nhiên? Bối rối? Rồi sẽ làm một cái chào… làm quen đầy ngượng ngùng như hầu hết các sĩ quan vừa ra trường về trình diện đơn vị. Nhưng không, mọi điều suy đoán của tôi đều sai. Chỉ thấy sau những câu thì thầm của những người ngồi cùng bàn là cái gật đầu của hắn. Cái gật đầu hờ hững. Lại thêm một câu nói của người ngồi bên trái hắn. Lần này tôi ngạc nhiên và cảm giác khó chịu đã bắt đầu. Đó là cái nhún vai – cũng rất tự nhiên – của hắn.

Nén bực bội, tôi quay sang hướng khác. Thái độ dửng dưng và cái nhún vai của hắn vẫn đeo đuổi tôi. Cảm giác khó chịu càng lúc càng tăng khi tiếng cười của bàn hắn ngồi vang đến. Cuối cùng là tự ái bùng lên với ý nghĩ bị coi thường. Dù sao hắn cũng chỉ là một sĩ quan thuộc cấp, không thể có hành động như thế được. Liên tưởng đến hai lần trước tôi càng bực bội. Cả hai lần hẹn hắn trình diện đều không gặp cả hai. Lần đầu hắn đến khoảng 8 giờ rưỡi. Giờ trình diện là 9 giờ. Tôi ra trễ, hắn bỏ về. Lần thứ hai hắn đến văn phòng từ lúc 7 giờ sáng. Khoảng 9 giờ 10 tôi đến. Vẫn không thấy hắn. Người thượng sĩ già cho biết hắn vừa đi. Tôi im lặng theo dõi tên chuẩn úy này. Đằng nào mình cũng trễ hẹn. Tôi đã nghĩ thế và thông báo hắn đến trình diện lần thứ bạ Cái kỳ cục của hắn, kể cả bộ quần áo vàng đang mặc trên người đã làm tôi chú ý. Một mẫu người đặc biệt. Đã có lần tôi nghĩ thế với cái cười khoan dung. Nhưng hôm nay, lần hẹn thứ ba chưa đến tôi đã gặp cái nhún vai của hắn. Bao nhiêu ý nghĩ về hắn trong đầu đã thành khó chịu. Rõ ràng hắn coi tôi chả có ký lô nào. Mẹ kiếp! Ngựa non háu đá. Tôi uống cạn ly cà phê và đứng dậy với quyết định rất bình thường của một đơn vị trưởng bị xúc phạm: sẽ chứng minh cho hắn biết quyền hạn của mình.

Chín giờ sáng hôm sau tôi có mặt tại văn phòng. Hắn đã đến từ lúc nào. Vẫn bộ quần áo vàng hắn vào trình diện. Trong thế đứng nghiêm còn sặc mùi quân trường, hắn đọc nhanh cấp bậc, họ tên, số quân, câu trình diện rồi kết thúc bằng hai tiếng “chờ lịnh” lớn. Cung cánh rất nghiêm chỉnh, hắn đứng nhìn tôi. Đã sẵn ý tưởng lấy uy từ chiều hôm qua, tôi để yên hắn đứng một lúc. Sau cùng là cái hất hàm.

– Chuẩn úy ngồi xuống.

– Cảm ơn thiếu tá.

Hắn ngồi xuống, hai tay đặt trên bàn, vai thẳng băng với cái cổ cứng ngắc. Tôi nhìn chăm chăm vào mắt hắn. Đôi mắt lồi với những sợi gân máu nhỏ li ti bám trên lòng trắng cũng đang nhìn thẳng vào mắt tôi. Hắn có vẻ bình tĩnh hơn tôi tưởng.

– Mãi đến hôm nay tôi mới gặp chuẩn úy.

Tôi mở đầu lửng lơ. Hắn gật đầu.

– Thưa thiếu tá, tôi có đến đây hai lần theo lời gọi của thượng sĩ thường vụ.

– Đến rồi lại về?

– Vâng.

– Tại sao?

– Bởi không gặp thiếu tá.

– Tôi có nghe thượng sĩ thường vụ bảo cả hai lần chuẩn úy đều không chờ…

– Tại sao tôi phải chờ khi thiếu tá hẹn đúng 9 giờ là trình diện?

Hai bàn tay hắn vẫn đặt thoải mái trên mặt bàn khi hắn hỏi lại. Cảm giác khó chịu lại đến, tôi gằn giọng.

– Lần đầu tôi không nói. Tại sao lần thứ nhì chuẩn úy đến từ 7 giờ, chờ hơn hai tiếng rồi lại bỏ về khi vừa quá giờ hẹn độ mươi phút?

– Thưa thiếu tá, chờ hơn hai tiếng là phần tôi thích chờ, còn trễ 10 phút là phần thiếu tá trễ. Tôi không có lỗi…

Hắn vẫn nhìn thẳng vào mắt tôi khi nói. Từ cặp đồng tử đen láy của hắn, tôi bắt gặp hình ảnh của tôi ngày mới ra trường. Cứng ngắc trong từng câu nói, từng bước đi và ngại ngùng khi gặp cấp trên. Người sĩ quan trẻ trước mặt tôi khác hẳn. Hắn thoải mái và tự tin khi đối diện với mọi vật. Sự khó chịu chợt mất, trong tôi bắt đầu thích thú. Nhưng vẫn với nét mặt nghiêm nghị, tôi tiếp tục câu chuyện.

– Hôm qua ở câu lạc bộ sĩ quan, gặp tôi sao chuẩn úy lại nhún vai?

– Thiếu tá có thấy?

Hắn hỏi lại như xác nhận những ý nghĩ của tôi ngày hôm qua là đúng một cách rất ư là tự nhiên.

– Phải. Tôi thấy chuẩn úy có vẻ khinh thường tôi.

– Tại sao tôi lại khinh thường thiếu tá khi tôi chưa biết thiếu tá là ai? Hơn nữa, nếu biết là thiếu tá thì lúc đó tôi vẫn chưa trình diện…

Rất rành mạch hắn trả lời câu hỏi. Sự thích thú trong tôi chợt lớn. Cố nén nụ cười, tôi nói nhanh.

– Còn bộ quân phục, không lẽ nhà kho chưa phát quần áo trận cho chuẩn úy?

– Thưa thiếu tá tôi đã nhận được quần áo trận, nhưng quá rộng không thể mặc được. Ở quân trường có dạy nhìn quân phục biết tư cách. Tôi phải giữ tư cách, không thể ăn mặc cẩu thả được. Đành phải mặc đỡ bộ quần áo này, sau khi lãnh lương tôi sẽ sửa.

Lần này không thể nhịn được, tôi bật cười trước vẻ nghiêm trang của hắn khi trình bầy về bộ quần áo vàng đang mặc trên người. Nhưng hắn vẫn nghiêm. Bây giờ thì người giữ uy là hắn chứ không phải là tôi.

– Thôi được, chuẩn úy xuống ban quân lương để tạm ứng trước. Cố gắng sửa sớm, mình chỉ còn hai tuần để học bổ túc. Sau đó sẽ ra hành quân.

– Cảm ơn thiếu tá.

Hắn đứng dậy, lại một cái chào đúng kiểu Thủ đức. Tôi nhìn theo tấm lưng thẳng của hắn với nụ cười lạc quan. Thằng này một xanh cỏ, hai đỏ ngực, đúng điều cần thiết cho một binh chủng tác chiến mang nhiều lời khen pha trộn với tiếng chê: Biệt động Quân.

Vẫn không xanh cỏ, nhưng chẳng đỏ ngực bởi ký củ quá nhiều. Hơn một năm tại chiến trường Bồng sơn, Tam quan hắn đã trở thành một trong những trung đội trưởng chiến với cái tên dễ thương được gọi từ đồng đội: “cậu út”. Tôi thích thú theo dõi sự trưởng thành của một anh chàng chuẩn úy sặc mùi quân trường thành một sĩ quan tác chiến. Ngoài tính tự tin và kỷ luật với đơn vị khi hành quân, cậu út như đã quên hẳn những lễ nghi cứng ngắc. Phanh ngực áo, ngồi nhậu với lính từng can rượu trắng một cách hồn nhiên. Chửi thề ròn tan và đánh lộn với lính Địa phương quân tiểu đoàn 208 như cơm bữa. Bồ bịch tứ tung với các cô bán cà phê Tam quan… Nghĩa là chơi tận mạng, chơi đúng nghĩa một người chết trở về sau mỗi lần ủi. Bù lại cho những lần phá phách, cậu út đánh đấm rất đẹp. Lỳ lợm và khôn ngoan. Tự tin và kỷ luật. Cậu út đã biết áp dụng những điều cần thiết cho từng trường hợp. Con cọp đã rời khỏi bọc. Tôi đã thấy và tin tưởng. Bò vào tuyến Gia an, qua dẫy giao thông hào đầy mìn bẫy để cắm cờ. Giành lại đèo Bình đê để khai thông quốc lộ. Đánh đồi Hai vú để giữ đường vào phi trường. Giữ đồi 30, 31 để án ngữ lối vào An lão… cậu út đã thản nhiên tham dự với tiểu đoàn bằng đôi mắt nhìn thẳng như lúc trình diện tôi tại trung tâm huấn luyện Dục mỹ, khi tiểu đoàn về học bổ túc và bổ xung quân số. Cảm tình của người đơn vị trưởng dành cho một sĩ quan cấp dưới trong tôi thật kỳ lạ. Hãnh diện và thán phục. Thái độ ung dung trong mỗi lần hành quân đã làm tôi suy nghĩ nhiều về cậu út. Hắn còn quá trẻ để thành một con người như vậy. Thời gian ở đơn vị quá ngắn so với cái hắn làm được. Cộng tất cả những điều đã học ở quân trường với kinh nghiệm tại đơn vị cũng không đủ cho hắn thay đổi đến thế. Tôi đã hãnh diện. Tôi đã thán phục. Và bắt đầu tìm hiểu.

Sự thắc mắc trở nên rối bung và kín mít, không thể giải thích khi tôi biết về quá khứ của hắn. Là con út một ông đại tá thanh tra quân đoàn 3, Gia đình giàu có với hai tiệm vàng của bà mẹ làm chủ, “cậu út” sống sung sướng. Học giỏi, được mã, con ông cháu cha. Nghĩa là cậu út hội đủ điều kiện mơ ước của một thanh niên đang sống trong thời này. Lại nữa, kèm theo là hai tấm giấy hoãn dịch, một vàng vì lý do học vấn, một trắng vì lý do gia cảnh. Chữ “thọ” theo như quan niệm của số đông đeo vững vàng trước ngực. Vậy mà “tình nguyện” đi lính. Hai chữ “tình nguyện” là do mọi người nói. Nhưng sau cùng tôi biết, cậu út đi lính vì thất tình. Rất thành thật hắn kể lại mối tình với cô gái người Tiều châu. Chẳng giấu diếm để tô thêm lớp son hào hùng quanh con người lì lợm của hắn. Tất cả chỉ thế. Dễ hiểu và bình thường như trăm ngàn lý do bình thường khác. Vào lính ông cụ lo về chỗ ngon lành. Hắn từ chối, chọn Biệt động Quân. Bấy giờ có danh từ “cọp liếm”. Mặc tất cả, hắn thản nhiên xách ba lô về trình diện. Thản nhiên đánh đấm. Thản nhiên chơi bời. Để trở thành người sĩ quan tác chiến kỳ cục này với cái hỗn danh: cậu út.

Thêm vào đó những ngày trọng cấm mà hắn cũng thản nhiên ký lại làm sự thắc mắc của tôi càng thêm rối rắm. Nếu muốn chết để quên mối tình với cô gái Tiều châu – tạm gán cho hắn lý do cải lương này – thì hắn đâu cần khôn ngoan khi chiến đấu? Nếu muốn “đỏ ngực” thì hắn đâu thoải mái phá phách, rong chơi? Cả đoạn đời sau lưng và trước mặt đều không lộ ra một nguyên nhân nào giải thích cho con người cậu út. Tôi bỏ cuộc khi cậu út được đeo lon thiếu úy.

Sau trận núi Chéo, tiểu đoàn bị cày nát. Hơn một tuần lễ tăng phái cho sư đoàn 22 Bộ binh để ủi lên, ủi xuống núi Chéo – tên ngọn đồi trọc chỉ cao 81 thước – cả đơn vị còn lại chưa đầy trăm người lính và mươi sĩ quan. Trong đó có tôi và cậu út.

Trước ngày về Dục mỹ bổ xung quân số và học bổ túc, đứng trước hàng xác đồng đội quấn trong poncho tại phi trường Phù cát, lần đầu tiên tôi thấy vẻ ung dung biến mất trên mặt cậu út. Khuôn mặt như cằn lại, hai hố mắt lõm sâu. Chúng tôi im lặng khi hỏa tiễn 122 ly vẫn rót chung quanh. Người lính trong cậu út có lẽ bấy giờ đã lớn hơn.

Hắn đứng rất lâu trước hàng poncho cuộn xác. Mắt lờ đờ như đôi mắt xác chết. Nét hồn nhiên mọi ngày như chưa từng có. Đứng ngẩn ngơ, rồi đi từng bước ngắn. Thỉnh thoảng lại cúi xuống đọc một cái tên, miệng lẩm bẩm những câu không rõ. Tôi không còn nhận ra dấu vết gì của riêng hắn – người sĩ quan trẻ lì lợm, hồn nhiên và dễ thương của đơn vị. Chỉ còn lại một cái xác di động trước những cái xác đang cuộn trong poncho. Một cái xác chưa cuộn poncho.

Lê từng bước đến cuối dãy xác hắn dừng lại. Rồi bắt đầu quay lại bằng những bước ngắn hơn. Đế giày hình như không rời khỏi mặt nhựa của phi đạo. Tất cả sự mệt mỏi được bộc lộ trên con người cậu út. Tôi ngạc nhiên theo dõi thái độ hắn và vẫn không nghĩ hắn mất hồn sau trận đánh. Không thể bảo hắn là sợ hãi cái chết được. Điều hắn đã làm và tôi đang chứng kiến đã cho kết luận này. Đạn 122 ly vẫn nổ rải rác. Phi trường vắng hoe, chỉ có những người lính đang trong nhiệm vụ mới có mặt, còn lại hầu hết đều ở trong hầm. Mỗi tiếng nổ là một đám khói bốc lên, một cái chết đem đến. Ngay cả những người đang ngồi trong hầm, dưới lớp bao cát dầy vẫn thấp thoải âu lo. Nhưng hắn vẫn đi đi, lại lại trước hàng xác. Mặc đạn réo ngang đầu, mặc từng chớp lửa xa gần. Cậu út như đang sống với hàng xác quấn poncho trong một khoảng trời khác.

Từ trong miệng hầm tôi gọi tên hắn. Cậu út vẫn những bước chân lê sát mặt nhựa. Tôi gọi lần thứ nhì lớn hơn. Hắn vẫn không nghe. Rồi lần thứ ba tôi gọi bằng cái hỗn danh đồng đội thường gọi. Vừa lúc đó một loạt pháo 122 ly nổ chung quanh, rất gần. Những ánh chớp loé lên và cái ù tai rầm rĩ làm đau bọng tai. Cậu út dừng lại, đầu ngẩng lên và mắt hướng về phía hầm của tôi. Cặp mắt lờ đờ vừa có tia sáng ngạc nhiên. Tôi gọi thêm lần nữa, hắn đã nghe rõ. Trên nét mặt lầm lì vẫn không điểm thêm chút xúc cảm nào. Bằng những bước chân dài hơn khi nãy, nhưng không vội vã hắn tiến về phía hầm tôi. Đến sát miệng hầm, hắn ngồi xuống trước lối vào. Cái đầu đưa vào trong đó với đôi mắt đã trở lại bình thường.

– Thiếu tá…

– Cậu vào đây, chúng nó đang pháo, ở ngoài rất nguy hiểm…

– Không sao đâu thiếu tá.

– Biết đâu…

– Có gì thì nằm chung với anh em ngoài kia cũng đỡ buồn…

Hắn cười nhạt sau câu nói và đứng dậy, đi về phía hàng xác. Tấm lưng thẳng như chĩu xuống dưới ánh nắng. Bước chân đang nhanh lại thành chậm khi đến cạnh hàng xác. Từ miệng hầm nhìn ra, khoảng cách giữa tôi và cậu út như xa lắm. Bóng hắn in trên nền trời ngập nắng, sừng sững như một pho tượng đang sống. Trong cảm giác xấu hổ tôi thấy miệng hầm đang trú ẩn như lối vào hang chuột.

Sau lần đó, tôi được chuyển về đơn vị khác.

Tháng 3 năm 1975, chúng tôi gặp lại nhau thêm lần nữa. Đó là buổi chiều tại sông Bạ Sau đoạn đường đầy máu của liên tỉnh lộ 7B, qua Phú bổn, Phú túc… Cái mệt mỏi pha trộn âu lo làm tôi muốn bỏ cuộc khi thấy cảnh tượng tại sông Bạ Đạn pháo đủ loại vẫn rót, trực thăng vẫn tải người qua sông với chùm người bám trên hai càng sắt như đàn kiến bám trên hai sợi chỉ mỏng manh. Những cái đạp chân của đồng đội trên những bàn tay đồng đội đang tìm sự sống. Những con người chơi vơi hai tay khi rớt xuống. Những con người đong đưa, tay duỗi căng đang chờ phiên mình bị đạp để bắt đầu cái chết. Những hố đạn pháo vung vít thịt, xương… Tất cả bao quanh tôi sau cố gắng vượt qua mọi thứ để sống, từ Kontum.

Tôi ngơ ngác nhìn mọi việc xảy ra. Người và người. Đạn và đạn. Như hôn mê, tôi không còn là tôi. Ranh giới giữa cái sống và cái chết không có tại đây. Nhốn nháo pha trộn sự phó mặc, đám đông chung quanh ẩn hiện như có, như không. Tôi chán nản đến một hố đạn ngồi xuống. Một bàn tay nắm lấy vai tôi. Rồi một bàn tay nữa. Cậu út đang đứng trước mặt tôi.

– Trung tá…

– Cậu…

– Vâng. Em đây.

Tiếng “em” đầu tiên, từ ngày gặp được cậu út gọi thật bất ngờ. Giữa cái hoang mang tôi chợt thấy được an ủi. Nước mắt tôi ứa ra.

– Mình đã thua cậu ạ.

– Vâng. Mình đang thua.

Hắn gật đầu, khuôn mặt của ngày ở phi trường Phù cát lại hiện về. Bây giờ ngoài hai hố mắt sâu còn thêm những nét nhăn trên trán. Người lính trong cậu út đã già hơn.

– Cậu tính sao?

– Em không biết. Em đã ngồi đây từ đêm hôm qua Chẳng biết phải làm gì.

– Phải về Sàigòn.

– Về Sàigòn?

– Đúng.

– Rồi từ Sàigòn sẽ về đâu?

Hắn đặt lại câu hỏi như lần đầu gặp. Nhưng ngoài thái độ điềm tĩnh còn pha thêm vẻ đau đớn trên khuôn mặt.

Tôi im lặng. Chúng tôi im lặng ngồi xuống hố đạn. Nắng đã tắt, trên bầu trời bắt đầu sáng ánh vàng hỏa châu. Trong cơn mệt mỏi tôi thiếp đi.

Sáng sau tôi tỉnh dậy, cậu út đã bỏ đi từ lúc nào.

Mười ba năm ở Mỹ, vật lộn với cuộc sống khiến quá khứ trở thành hỗn độn, nhạt nhòa. Có những điều nhớ, có những điều quên trộn lẫn. Một nơi chốn nào, một thời gian nào, một con người nào… Cả ba điều khó đi cùng một lúc để trở lại. Tôi đã quá mệt mỏi. Qúa khứ như vùng cát đã lấp sóng. Chỉ thương, chỉ nhớ – và ngay cả 2 điều này – cũng chỉ cảm thấy. Không thể hình dung rõ nét. Nhưng nếp nhăn trên trán của người thanh niên 24 tuổi vẫn rõ ràng trong tôi. Những nếp nhăn kỳ cục của một con người thoáng qua trong đời làm tôi phải suy nghĩ. Sau đêm đó cậu út mất biệt trong cuộc sống. Không một tin tức nào cả. Kể cả những người đi tù về, vừa vượt biển sang. Chẳng một ai nhắc đến người thanh niên đó.

Đã có lần tôi hình dung ra cái chết của hắn. Một mảnh đạn ghim vào thân thể khi rời hố đi cầu. Chỉ thế mới bỏ mình tôi ở lại trong hố đạn. Không một lời giã từ, không một lời trăn trối. Suốt 13 năm, chưa một lần tôi nghĩ hắn bỏ lại mình tôi để vượt sông Ba một mình. Sự tin tưởng thật rõ ràng. Tôi tin thế, như tôi đã tin hắn khi còn ở Bình định. Nhất là lúc đó, giữa cái hoang mang tìm cách vượt sông của mọi người hắn vẫn ngồi yên trong hố đạn. Con người như hắn chỉ có cái chết mới bỏ đồng đội. Có thể hắn tự tử… Có thể hắn bị giết… Những câu trả lời tôi đặt ra cho tôi đều bằng cái chết của cậu út. Luôn luôn thế, bởi trong trường hợp đó chỉ có cái chết mới làm cậu út sống mãi hình ảnh đẹp trong ý nghĩ của tôi. Tôi biết dù sao cũng là ích kỷ – nhưng thà thế – để cậu út có trọn cuộc sống đúng nghĩa.

Sự tin tưởng là hắn đã chết càng mãnh liệt khi tôi nghe một số bạn vừa sang kể về cuộc sống tù đày tại những trại tập trung. Ở đó, ranh giới giữa anh hùng và anh hèn mong manh như lớp vỏ khoai mì. Con người thật lộ ra trong trại. Có những con người rất bình thường khi sống ngoài đời, hoặc giả tầm thường hay nhút nhát cũng trở thành kiên cường, quyết liệt với kẻ thù trong trại. Và ngược lại cũng có những con người rất can đảm, khí phách ngoài đời lại biến thành bần tiện, hèn hạ trong tù. Sẵn sàng bán rẻ đồng đội bằng những tiện nghi tối thiểu. Tôi ngạc nhiên khi nghe chuyện kể và mừng rỡ trong ý nghĩ nhỏ nhen là mình không lâm vào cảnh đó. Lại liên tưởng đến cậu út. Hắn sẽ thế nào nếu sống trong tù? Nghĩ đến hắn và ý nghĩ mong hắn chết lại càng lớn hơn. Thà thế, để mãi mãi người lính với cái hỗn danh dễ thương đó là một hình ảnh đẹp. Cuối cùng cái phân vân nghi hoặc trở thành sợ hãi khi sẽ nhận được một tin về hắn đã làm những năm sau này tôi nhốt kín hắn trong đầu của mình. Không muốn hỏi thăm ai và cũng chẳng muốn nghe ai nhắc đến hắn. Cầm bằng như đã chết mất một người bạn nhỏ.

Trong số những người tôi quen tại thành phố này, có một người viết sách. Một chiều tháng sáu, anh ta rủ tôi đến chơi tại tòa soạn tờ báo Việt ngữ. Mục đích, như anh ta bảo là để xem bài mình viết được trình bày ra sao. Tôi cùng đi và được nghe mẩu đối thoại tại phòng kỹ thuật và trình bày tờ báo.

– Ai lay out bài này.

– Tôi.

– Tại sao lại để ở phần cuối trang.

– Vì mỹ thuật và kỹ thuật

– Tôi đề nghị đem bài này lên đầu trang.

– Tại sao?

– Bởi vì bài này do tôi viết.

– Không được.

– Phải được. Tôi muốn thế.

– Tôi có 2 điều nói với ông. Một là tôi không cần biết ông là ai. Hai là tôi yêu cầu ông bước ra khỏi phòng này.

– Anh biết tôi là ai không?

– Tại sao phải biết?

– Tôi giới thiệu với anh, tôi được mời vào nhóm chủ trương tờ báo này.

– Ra thế!

– Anh hãy dời lên trên.

– Sau khi ông giới thiệu về ông. Ngoài hai điều vừa nói tôi còn thêm một điều thứ ba nữa để nói với ông: tôi sẽ không đăng bài của ông. Không! Phải nói là tôi không cho phép bài ông đăng vào phụ trang này, bởi tôi là người đã và đang phụ trách trang báo. Và ông, người chủ trương tờ báo không có nghĩa là ông có quyền xếp bài mình viết lên đầu trang báo theo ý muốn.

Tôi ngẩn người sau mẩu đối thoại. Lối trả lời rành mạch và giọng nói cách đây mười mấy năm sống lại. Chỉ là hắn mới có lối nói chuyện thế này. Tôi bước vào phòng kỹ thuật. Người viết sách hầm hầm nhìn một thanh niên đang vo bài báo – chắc của hắn – vất vào sọt rác. Đôi vai thẳng băng, cái lưng cứng và thái độ ung dung. Tôi gọi một cái tên. Người thanh niên quay lại. Đó là cậu út, hắn nhận ra tôi ngay.

– Anh…

– Phải, tôi đây.

Bỏ mặc người viết sách, cậu út tiến lại phía tôi. Nụ cười thật hồn nhiên trên môi. Khuôn mặt đã không còn nếp nhăn với đôi mắt đầy tự tin. Đột nhiên tôi liên tưởng đến những chuyện đã được nghe về trại tù, rồi hình ảnh hố đạn pháo cạnh sông Ba trở về.

– Sau đêm đó cậu đi đâu? Đêm ở sông Ba đó…

– Anh nhớ dai thật. Hắn vẫn cười hồn nhiên. Em không ngủ được, đầu óc nghĩ những chuyện đâu đâu, chỉ muốn tự tử. Bởi lúc đó em chẳng biết sẽ về đâu… Sau cùng, tự nhiên em đi ngược về liên tỉnh lộ 7B. Em cũng không hiểu tại sao lại quay về hướng cũ. Rồi bị bắt, sau mấy năm tù em trốn về được. Lại thêm mấy năm lang thang, làm đủ thứ nghề ở Sàigòn. Bây giờ em ở đây, như anh thấy…

– Cậu sang đây một mình?

– Vâng, nhà chả còn ai. Ông cụ mất, bà cụ thì già, anh chị cả đống con cái… Em đi một mình, hiện đi học buổi sáng, chiều làm ở đây.

Hắn kể chuyện của mình thản nhiên, như mọi việc xảy ra là điều tất nhiên. Ngay cả những chuyện tù, bị bắt, cha chết… Chỉ nhắc thoáng qua, không lộ vẻ cảm xúc nào. Và tương lai như đã vạch sẵn, chỉ bước tới. “Đi học buổi sáng, đi làm buổi chiều tại đây”. Thoải mái, tự nhiên hành động như ngày xưa chiến đấu và phá phách. Tin vào chính việc mình làm, con người cậu út vẫn không thay đổi. Người chết mười ba năm vừa sống lại. Tôi chăm chăm nhìn hắn. Mắt vẫn sáng và đang nhìn thẳng vào mắt tôi.

– Chuyện lúc nãy có thể khó khăn cho công việc của cậu.

– Tại sao lại khó khăn? Em làm đúng việc của mình, mấy cái râu ria em đâu màng. Không nhận thì không làm, nhận thì làm rõ ràng…

– Cậu vẫn thế.

– Làm sao thay đổi được hả anh.

– Ngay cả lối nói chuyện.

– Vâng, ngay cả lối nói chuyện.

Hắn nhắc lại và chúng tôi cùng bật cười. Phía góc phòng người viết sách ngạc nhiên theo dõi. Hắn sẽ mãi mãi ngạc nhiên bởi đã có cuộc sống của một con người hoàn toàn khác hẳn những trang sách đã viết. Của gã và ngay cả không của gã. Cuộc sống của người lính bình thường mang tên cậu út. Hệt như trăm ngàn người lính khác đã bước ra những ngoài dòng kẻ của trang giấy. Để sống và đã sống.

Nguyễn Ý Thuần

From: TU-PHUNG

TẠ PHONG TẦN: THIÊN CHÚA ĐÃ ĐẾN VỚI TÔI NHƯ THẾ NÀO?

TẠ PHONG TẦN: THIÊN CHÚA ĐÃ ĐẾN VỚI TÔI NHƯ THẾ NÀO?

Posted on 10/01/2016

Tạ Phong Tần 

Năm tôi học lớp 9, tình cờ có lần tôi mượn được một quyển sách dịch từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt ở thư viện tỉnh Bạc Liêu và đọc nó với tất cả sự tò mò của tuổi trẻ.  Sách dày khoảng 300 trang, bìa mỏng màu xanh biển, ruột giấy rơm vàng khè, chữ đen mờ mờ (giống như tất cả những sách in thời đó), tên sách là gì thì tôi đã quên bẵng từ lâu, nhưng nội dung thì tôi nhớ, “ấn tượng” là đàng khác. Trong đó, tác giả (xin cứ cho là vậy, bởi lẽ sách dịch, nên nội dung tiếng Việt là của chính tác giả viết ra hay của người dịch thì còn phải xem lại) mô tả cuộc đời Chúa Yêsu bằng cách trích dẫn từng đoạn, từng đoạn Thánh Kinh (sau nầy tôi mới biết đó là Tin Mừng) rồi diễn giải theo kiểu Yêsu là một kẻ lười biếng, khôn vặt, láu cá, hèn nhát, có chút khả năng về tâm lý quần chúng, dùng lời nói lừa bịp quần chúng để kiếm cơm, kiếm tiền. Tất nhiên, lúc đó tôi không biết gì về một người tên là Yêsu “tự xưng con Thiên Chúa” và một đứa nhỏ như tôi càng không đủ trình độ lý luận lẫn kiến thức để nhận biết sách viết đúng hay sai. Và tôi đã tin những điều trong sách này.

Cuối năm lớp 9, chương trình môn Văn, học sinh được học tác phẩm Bão Biển của Chu Văn. Tác phẩm lại dựng lên hình ảnh các linh mục, tu sĩ là những người có tâm hồn dị dạng, lạnh lùng và thâm độc, còn giáo dân là những người nhà quê ii1t học rất dễ sai khiến “bảo sao nghe vậy”, mở miệng ra là cứ kêu lên câu “Giê-su-ma.”Những người Công giáo ở quê tôi sống biệt lập, các sinh hoạt tôn giáo tách khỏi đời sống dân cư. Người không Công giáo khinh thường người Công giáo là không khoa học, mê tín, quái đản; còn người Công giáo khinh khỉnh với người không Công giáo là một lũ vô thần, không có linh hồn đáng tởm.

Có câu chuyện được kể truyền miệng như vầy: Đứa trẻ Công giáo nói: “Chúa ở khắp mọi nơi”. Đứa không Công giáo hỏi vặn lại: “Chúa ở khắp mọi nơi. Vậy Chúa của mầy có ở dưới gầm giường không?”. Vậy là nhảy xổ vào đánh nhau chí chóe. Lũ trẻ con cứ vậy mà hầm hè nhau suốt.

“Vật chất là nguồn gốc của ý thức”, đứa trẻ nào đi học cũng được nhà trường nhồi nhét như thế cả. Suốt một thời gian dài, tôi đã cho rằng khoa học mới là thứ đáng tôn thờ.

Khỏang năm 1998-1999, đơn vị tôi nhận điều tra vụ án “Truyền đạo trái phép” do nhóm các đệ tử của bà Thanh Hải Vô Thượng Sư thực hiện. Lúc này, tôi đang công tác tại Cơ Quan An Ninh Điều Tra Công An tỉnh Bạc Liêu. Có khoảng 7 người bị bắt giam, và chúng tôi có nhiệm vụ phải hỏi cung, ghi lời khai, lập hồ sơ đề nghị truy tố những người ấy ra Tòa. Trong thâm tâm tôi vẫn nghĩ rằng họ là những kẻ kém văn hóa, cuồng tín và bị người khác dụ dỗ trục lợi. Nhưng khi tiếp xúc, làm việc với họ, tôi bỗng nhận ra một điều: Trong khi các cán bộ điều tra bực tức,nóng nảy gọi họ là “những kẻ cuồng tín ngoan cố” thì các bị can lại bình thản, an nhiên, vui vẻ vì có thể…hy sinh thân mình làm sáng danh đạo của họ.

Thời đó, “án tại hồ sơ” được coi là chuyện bình thường. Về mặt quản lý nhà nước, có thể coi như chúng tôi là người có quyền quyết định số phận của họ, chúng tôi đứng trên họ, án tù của họ bị tuyên dài hay ngắn phụ thuộc vào hồ sơ điều tra của chúng tôi. Tuy nhiên, họ không khúm núm, van xin chúng tôi như những kẻ trộm cắp, cướp giật hay buôn bán phụ nữ…mà tôi đã từng làm việc. Tôi bỗng nhận ra một điều, tôi là kẻ chiến bại chứ không phải các bị can đang ngồi trước mặt tôi. Tôi cảm thấy mình thất bại thê thảm vì tôi không thể đem cái kiến thức khoa học lẫn pháp luật (mà tôi vốn vẫn tự hào hơn hẳn người đồng sự) thuyết phục họ chấp nhận rằng họ mê tín vớ vẩn. Tôi thua họ vì họ thản nhiên, tự hào, vui vẻ chấp nhận “cái gông” chúng tôi tròng vào cổ họ. Bởi đâu mà họ có được sức mạnh đó? Phải chăng là niềm tin mãnh liệt vào cái tôn giáo của họ?

Thời gian trôi đi, tôi chuyển ngành làm công tác quản lý du lịch thì chuyện vụ án Thanh Hải Vô Thượng Sư kia tôi cũng quên lãng. Nhưng cũng chính thời gian làm quản lý du lịch, phải tự học những tài liệu khoa học về di tích lịch sử, các cơ sở thờ tự đền chùa, miếu mạo, nhà thờ, văn hóa tín ngưỡng…để làm hướng dẫn viên chuyên dẫn các đoàn khách báo chí, cán bộ nơi khác đến tham quan thì tôi lại có dịp quay về tìm hiểu sâu hơn về thế giới tâm linh của con người.

Không biết từ bao giờ, các cơ quan nhà nước tỉnh tôi có tâm lý ngán ngại cảnh báo chí, và các đoàn cán bộ ở trên xuống, nói chuyện với báo chí sợ họ “bắt giò” đưa lên báo. Sếp bự nhất cơ quan tôi (xin nói rõ ông nầy là một người tốt) nói rằng tôi có trình độ pháp luật lẫn chính trị, đi với cánh báo chí đỡ “nói hớ” nên không phải lo “cơ quan ta” bị “vạch áo trên báo”. Âu cũng là một chữ “duyên”.

Mấy năm sau, sự kiện giáo dân Hà Nội cầu nguyện suốt 9 tháng trời ở khu đất Tòa Khâm sứ làm cho những ai thờ ơ nhất cũng phải đặt câu hỏi: Những người cầu nguyện đó là ai? Cầu nguyện như thế nào? Cầu nguyện thì được cái gì và thiệt hại cái gì? Tại sao họ lại làm như vậy?…

Tự mình đặt câu hỏi, và tìm hiểu, tôi mới biết những giáo dân ấy không phải là các mụ nhà quê mê tín, dễ bảo như được mô tả trong “Bão Biển”, có rất nhiều người tham gia là thành phần trung lưu, trí thức. Họ im lặng và đọc kinh, hát thánh ca ở khu đất mà trước đây chính là “nhà của Chúa”. Tham gia cầu nguyện, họ bị mất thời gian, mất việc làm, mất thu nhập, đau ốm khi thời tiết bất lợi, và bị đánh đập dã man…chớ không hề được… lãnh lương. Cả một đám đông chấp nhận thiệt hại vật chất chỉ để bảo vệ điều mà họ cho là đúng, là bảo vệ công lý, bảo vệ tài sản hợp pháp của Giáo Hội. Chỉ có niềm tin, tình yêu thương trong sáng không vụ lợi mới đủ sức giữ chân từng ấy con người kiên nhẫn đem thân thể phàm tục của mình thi gan cùng mưa nắng.

Một người bạn của tôi ở nước ngoài nói: “Trong chữ nghĩa thánh hiền “đạo” tức là “đường” bất kể là Thiên Chúa giáo hay Phật giáo, Hồi giáo. Con người ai cũng phải đi theo một con đường nào đó, người không có đạo cũng như không đi theo con đường, tất đâm quàng vào bụi rậm”. Chân lý thực đơn giản, vậy mà phải mất mấy chục năm mới có người nói cho tôi nghe.

May mắn thay, sau đó Văn Phòng Luật Sư (VPLS) nơi tôi làm việc nhận bào chữa cho 8 giáo dân Thái Hà bị nhà cầm quyền Hà Nội truy tố về tội “Gây rối trật tự công cộng” và “Hủy hoại tài sản”. Cáo trạng buộc rằng các bị cáo đã “hành lễ trái phép”. Các bị cáo phản bác rằng họ chỉ “cầu nguyện” chớ không “hành lễ”. Lục tìm trong toàn bộ các văn bản pháp luật Việt Nam hiện hành tôi không tìm thấy văn bản nào có khái niệm “cầu nguyện” và “hành lễ”, hình như chính những người thảo ra văn bản pháp luật cũng không phân biệt được hai khái niệm này. Tất nhiên muốn bác bỏ khái niệm của cáo trạng, tôi phải tìm hiểu sự khác biệt nhau giữa “cầu nguyện” và “hành lễ”, ai có quyền “cầu nguyện” và ai có quyền “hành Lễ”.

Trong đời tôi đã vài lần đến nhà thờ với tư cách bàng quan, dạo chơi theo đuôi người khác, khi cần thiết tôi lại không nhớ ra địa chỉ của nhà thờ ấy ở chỗ nào. Để làm sáng tỏ vấn đề, nơi tôi nghĩ đến trước nhất là nhà thờ Kỳ Đồng, vì có lần tôi thấy thông tin trên mạng nhà thờ nầy tổ chức hiệp thông cầu nguyện với giáo xứ Thái Hà. Một buổi sáng, lên mạng tìm địa chỉ xong, tôi dắt xe máy ra, từ Gò Vấp chạy đi một mach mờ ớ, không biết đường Kỳ Đồng nằm ở hướng nào, cứ thế đi đại tới thôi. Thấy người ta đi thì tôi đi, thấy người ta đứng thì tôi đứng, thấy người ta quẹo thì tôi quẹo, trong bụng nghĩ: “Chạy lộn thì chạy lại, lo gì, ngồi xe chớ có phải đi bộ đâu mà sợ mệt”. Không ngờ chạy bon bon một hồi, tôi bỗng thấy lù lù trước mặt mình cái bảng hiệu tên đường Kỳ Đồng và tấm bảng to tướng Giáo Xứ Mẹ Hằng Cứu Giúp đập ngay vào mặt mình. Mừng quá, tôi bèn lùi ngay vào.

Sau vài lần tiếp xúc với các linh mục và được giảng giải tận tình, tôi thầm tiếc tại sao đến bây giờ tôi mới được biết những người này. Các linh mục, tu sĩ không có khả năng ban cho ai quyền lực, danh vọng, địa vị, tiền bạc… nhưng có thể rộng rãi ban phát cho những con người bất hạnh đang bị xã hội vô tình chà đạp những thứ mà có quyền lực, danh vọng, địa vị, tiền bạc cũng không thể mua được. Đó là tình thương và sư tôn trọng phẩm giá con người. Trong lúc cao hứng, tôi đã trình bày với quý Cha tôi muốn học giáo lý để theo Chúa Yêsu.

Ngày đầu tiên đi học giáo lý, sắp đến giờ học thì bỗng đổ trận mưa tối trời tối đất, làm tôi hết muốn đi học. Bệnh làm biếng nổi lên, nhưng đã lỡ nói là đi học rồi, mình là người lớn (chẳng những lớn mà còn hơi già nữa) nói không giữ lời thì kỳ lắm, ai còn coi mình ra gì, phải có “lý do chính đáng” để trốn học chớ. Tôi ra đứng ngoài sân ngước nhìn lên bầu trời u ám đang đổ nước xuống xối xả, chống nạnh hai quai nói to với lên: “Mưa gì mà vô duyên, bộ không biết bữa nay bản tại hạ đi học giáo lý sao? Đúng 4 giờ kém 10 mà không nắng thì nghỉ học”, rồi vô nhà ngồi xem ti-vi tiếp. Không ngờ, đúng 4 giờ kém 10 thì trời quang mây tạnh, nắng chói chang. “Ý trời! Hồi nãy nói chơi vậy, bộ “ở trên” nghe được hay sao dị? Sợ quá!” Bèn lếch thếch dắt xe ra đi học.

Có học rồi, tôi mới biết Tân Ước. Hóa ra ngoài phần Tin Mừng có có phần Công Vụ Tông Đồ và những cuốn khác, mà theo ý tôi thì các phần sau quan trọng chẳng kém gì phần trước, thậm chí nhờ phần sau mà đánh bại được cái kiểu suy diễn bậy bạ, vớ vẩn như kiểu quyển sách dịch tôi đọc hồi nhỏ. Một người có hơn 20 năm bị nhồi nhét vào đầu tư tưởng “chủ nghĩa duy vật biện chứng” tôn sung vật chất, quen với lập luận “Yêsu là kẻ lừa đảo” đâu dễ gì một sớm một chiều gột rửa cái tư tưởng ấy. Ngay cả Chúa Yêsu mà có xuất hiện trước mặt, có thể tôi cũng giống như ông Tôma, ccoi người như một kiểu David Copperfield (“ông vua” ảo thuật) mà thôi. Thánh Phaolô chứ không phải ai khác, là người làm thay đổi và rung động tâm hồn những kẻ cứng lòng không tin Chúa. Tôi “tâm phục khẩu phục” tin rằng Chúa Yêsu thật sáng suốt khi Người chọn ông Saolô (tức Phaolô) làm người truyền giáo cho mình.

Trong nhà sách Đức Mẹ (nhà thờ Kỳ Đồng), tôi thấy có bức tượng Thánh Phao lô cao chừng 1 mét. Tôi rất thich bức tượng này. Tượng khắc họa hình ảnh một người đàn ông nước ngoài đứng tuổi, dáng người ốm, gò má hơi cao, tóc đen quăn thả dài xuống vai, nét mặt khắc khổ, mình mặc y phục kiểu cổ La Mã thường thấy trong phim. Điểm nổi bật ở bức tượng này (và khác hoàn toàn với tất cả những bức tượng Thánh khác) là tay trái Thánh Phaolô cầm một thanh gươm tuốt trần, mũi gươm chúc xuống chân; tay phải nâng cao ngang ngực quyển Kinh Thánh đang mở ra. Tượng các Thánh tay cầm quyển Kinh Thánh là bình thường, chỉ duy nhất mỗi một mình tượng Thánh Phaolô là có kèm gươm thôi. Thanh gươm trong tay ông Pharisêu trẻ Saolô đã một thời, mỗi khi vung lên là con chiên của Chúa phải đầu rơi máu chảy, giờ đây nó đã chúc mũi xuống đất khi ông Saolô trở thành ông Phaolô dâng hiến cả cuộc đời cho mục đích vinh danh Thiên Chúa. Nhưng ông Phaolô vẫn giữ thanh gươm bên mình tượng trưng cho tinh thần mạnh mẽ, quyết liệt đấu tranh và hy sinh cho sự nghiệp rao giảng Tin Mừng.

Cảm ơn hồng ân Chúa Yêsu, bằng những phép lạ gần như tình cờ, và thông qua hình ảnh Thánh Phaolô, đã đến và dẫn dắt tôi đến bên Người.

Tạ Phong Tần

(Trích sách “Hành Trình Đức Tin”, trang. 39-45 do Nguyễn Đức Tuyên thực hiện, phát hành 2014

Chủ tịch công ty Nga ‘rớt khỏi lầu’ sau khi chỉ trích xâm lăng Ukraine

 Chủ tịch công ty Nga ‘rớt khỏi lầu’ sau khi chỉ trích xâm lăng Ukraine

September 1, 2022

MOSCOW, Nga (NV) – Chủ tịch công ty dầu khí Nga Lukoil chết đột ngột sau khi “rớt khỏi cửa sổ tầng 6” của một bệnh viện ở Moscow, ít tháng sau khi chỉ trích việc ông Vladimir Putin, tổng thống Nga, đưa quân xâm lăng Ukraine, theo bản tin của tờ The Telegraph hôm Thứ Năm, 1 Tháng Chín.

Ông Ravil Maganov, 67 tuổi, thiệt mạng sau khi rơi từ cửa sổ lầu 6 của bệnh viện Trung Ương ở Moscow, nơi ông đang được điều trị, theo bản tin của hãng thông tấn Nga Interfax.

Bồn chứa dầu của công ty Lukoil tại Brussels, Bỉ. (Hình minh họa: Kenzo Tribouillard/AFP via Getty Images)

Giới truyền thông địa phương cũng nói rằng nhân viên công lực đã đến hiện trường để điều tra nguyên nhân xảy ra sự việc.

Lukoil, hãng dầu khí lớn hàng thứ nhì ở Nga, là một trong số rất ít các công ty tại quốc gia này bày tỏ sự chống đối cuộc xâm lăng vào Ukraine.

Trong bản thông cáo đưa ra hồi Tháng Ba, Lukoil cho biết: “Chúng tôi kêu gọi chấm dứt cuộc chiến càng sớm càng tốt, chúng tôi bày tỏ sự cảm thông đối với tất cả các nạn nhân do thảm kịch này. Chúng tôi mạnh mẽ ủng hộ có một cuộc ngưng bắn lâu dài và giải quyết các vấn đề qua đường lối thương thuyết và ngoại giao.”

Ông Maganov làm việc cho Lukoil từ năm 1993, ngay sau khi công ty được thành lập. Ông từng có trách nhiệm về lọc dầu, sản xuất và tìm kiếm khai thác dầu mỏ, trở thành chủ tịch công ty năm 2020. Người em của ông Maganov, Nail Maganov, đứng đầu Tatneft, một công ty dầu hỏa cỡ trung của Nga.

Ông Ravil Maganov là người thân cận với ông Vagi Alekperov, một trong các nhà sáng lập công ty Lukoil. Ông Alekperov, một cựu thứ trưởng dầu khí Nga, từ chức tổng giám đốc công ty Lukoil hồi Tháng Tư, một tuần lễ sau khi Anh đưa ra các biện pháp phong tỏa tài sản và cấm đến Anh nhằm trừng phạt thành phần tài phiệt ở Nga.

Cái chết của ông Maganov đánh dấu lần thứ nhì có giới chức cao cấp liên hệ với Lukoil thiệt mạng chỉ trong vài tháng.

Trước đó, tỷ phú Nga Alexander Subbotin, một cựu thành viên Hội Đồng Quản Trị Lukoil, chủ một công ty vận chuyển đường biển, chết sau khi có thầy thuốc dùng nọc độc của ếch để giúp ông tỉnh rượu.

Trụ sở Gazprom is ở Moscow, Nga. (Hình minh họa: Kirill Kudryavtsev/AFP via Getty Images)

Có ít nhất sáu giới chức cao cấp khác trong các công ty năng lượng ở Nga đã chết trong những hoàn cảnh đáng ngờ thời gian gần đây.

Ông Yury Voronov, người đứng đầu một công ty kho hàng cung cấp dịch vụ cho Gazprom, chết vì một phát súng bắn vào đầu trong hồ tắm ở căn nhà đắt tiền của ông ta tại khu ngoại ô St Petersburg hồi Tháng Bảy.

Ngay trước đó, ông Leonid Shulman, người đứng đầu công ty cung cấp dịch vụ vận chuyển Gazprom Invest, chết ở nơi gần St. Petersburg hồi Tháng Giêng, và ông Alexander Tyulakov, phó tổng giám đốc Gazprom, chết một tháng trước đó.

Thi thể ông Vladislav Avayev, cựu phó tổng giám đốc Gazprombank, cùng vợ và con gái được tìm thấy ở Moscow hồi Tháng Tư.

Một ngày sau đó, ông Sergey Protosenya, một giới chức cao cấp của Novatek, trực thuộc Gazprom, thấy chết cùng vợ và con gái ở Tây Ban Nha. (V.Giang) 

THẦN TƯỢNG “ĐIÊN”!

Nguyễn Nam Hải is at TP. Nha Trang.

THẦN TƯỢNG “ĐIÊN”!

Mình thần tượng thằng cha điên quái kiệt này: Elon Musk. Dân nhập cư, đến Mỹ, được đất nước và nền giáo dục tạo điều kiện học hành.

Thế rồi “hắn” đứng ra thành lập, lãnh đạo, phát triển hàng loạt những thương hiệu hay tập đoàn “Quái vật”. Từ PayPal, qua Tesla, tới SpaceX, SolarCity, Hyperloop… tập đoàn nào cũng là những nhà khổng lồ, khai phá, tạo nên những cuộc cách mạng về khoa học, công nghệ, kinh tế, y khoa…

Mới vừa đây, lại thấy cái tin gây sửng sốt cho giới khoa học, người ta cấy chip vô não 3 con heo, mở ra một hướng đột phá phát triển trí tuệ nhân tạo, tương tác với não người trong tương lai, để chữa rất nhiều bệnh liên quan đến não. Lại là một cái tên khác, Neuralink, cũng của Musk!

Phải nói, chỉ cần có được một phần nhỏ những gì Musk làm được, đã đủ là vĩ nhân, là thiên tài…

Elon Musk làm việc với cường độ trên 80 giờ/tuần (gấp đôi giờ hành chính hiện nay) là chuyện thường. “Hắn” có thể ngủ trong xưởng máy với công nhân, hay vùi mình với đám kỹ sư đầy máu điên trong phòng thí nghiệm.

Đã nhiều năm, Musk làm việc với cường độ đó và không có ngày nghỉ, cũng như những đợt du lịch xả hơi.

Và tất nhiên, Musk giàu. Nhưng lại như “đồng bọn” là hàng loạt tỉ phú Mỹ khác, hắn hứa và đã dành hầu hết tài sản để làm từ thiện.

Hình như (và đã rõ ràng), chỉ có môi trường Mỹ Quốc mới có thể tạo nên những quái kiệt như vậy. Họ như từ hành tinh nào đến, đóng góp cho nhân loại, vắt kiệt mình, rồi ra đi.

Và càng ngơ ngẩn, chẳng hiểu tại sao, người ta kêu là “bọn tư bản bóc lột” và kiên quyết duy trì học thuyết đó!

FB Nguyễn Danh Lam

“Các thánh thông công” nghĩa là gì?-Cha Vương

“Các thánh thông công” nghĩa là gì?

Chúc bạn và gia quyến cuối tuần dài mừng lễ Labor Day (Lễ Lao Động của nước Mỹ) thật vui vẻ, bình an, và hạnh phúc trong Chúa nhé.

Cha Vương

Thứ 6: 02/9/2022

GIÁO LÝ: Khi nói “Các thánh thông công” nghĩa là gì? Tất cả mọi người, dù nam hay nữ, đặt trọn vẹn niềm hy vọng vào Chúa Kitô, và thuộc về Người qua bí tích Rửa Tội, dù họ còn sống hay đã qua đời, đều được tham dự vào “các thánh thông công”. Bởi vì, chúng ta chỉ là một thân thể trong Chúa Kitô, chúng ta sống trong sự hiệp thông bao trùm cả trời và đất. (YouCat, số 146)

SUY NIỆM: Các thánh thông công nghĩa là mọi thành phần trong Hội thánh đều được cùng chia sẻ những thực tại thánh như đức tin, các bí tích, các đặc sủng và ơn thiêng, kể cả những của cải vật chất (Cv 4, 32). Một ý nghĩa nữa đó là sự hiệp thông giữa các người thánh: một số đang lữ hành trên trần gian; một số khác đã từ giã cõi đời này nhưng còn đang được thanh luyện và hưởng sự trợ giúp của những người khác; ý nghĩa sau cùng là một số đang hưởng vinh quang trên trời và đang chuyển cầu cho tất cả.

Hội thánh còn lớn hơn và sống động hơn ta nghĩ tưởng. Thuộc về Hội thánh có những người đang sống hoặc đã chết—những người này hoặc đang chịu thanh luyện hoặc đã hưởng vinh quang với Chúa—những người mà ta biết hoặc ta không biết, những thánh lớn và những người bình thường.

Vượt qua sự chết ta vẫn có thể giúp ích cho nhau. Ta có thể kêu cầu vị thánh mà ta mang tên ngài, hoặc vị thánh nào ta yêu thích hơn, nhưng cũng có thể người thân cận nào đã qua đời mà ta tin rằng các ngài đã được về với Chúa. Và ngược lại, ta có thể cứu giúp những người đã qua đời còn đang phải chịu thanh luyện bằng cách cầu nguyện cho họ.

Như vậy những gì chúng ta làm hoặc phải chịu đựng vì và trong Chúa Kitô đều đem lại lợi ích cho tất cả. Nhưng thông công còn có nghĩa khác là mỗi tội lỗi đều gây tổn thương cho tất cả cộng đồng, tiếc thay. (YouCat, số 146 t.t.)

❦ Đừng khóc, tôi sẽ giúp ích cho anh em hơn sau khi tôi chết, tôi sẽ giúp đỡ anh em hiệu quả hơn là khi tôi còn sống. (Thánh Đaminh)

LẮNG NGHE: Nếu một bộ phận nào đau, thì mọi bộ phận cùng đau. Nếu một bộ phận nào được vẻ vang, thì mọi bộ phận cũng vui chung. (1 Cr 12:26)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, qua Bí tích Thánh tẩy con được trở nên con cái Chúa, xin giúp con sống trong sự hiệp thông với các tín hữu khác nơi trần gian để được lớn lên mỗi ngày trong tình bác ái.

THỰC HÀNH: Mời bạn đọc 10 Kinh Kính Mừng cầu nguyện cho các linh hồn mới qua đời.

From: Đỗ Dzũng