ĐI TÌM “PHỐ ĐẠO TÂY NGUYÊN”

ĐI TÌM “PHỐ ĐẠO TÂY NGUYÊN”

 F.X Vũ Sinh Hiên

Kể từ sau ngày 30/4/1975, đất nước thống nhất liền một dải, người Kinh từ khắp nơi lên Tây Nguyên Trung phần lập nghiệp, đặc biệt là khu vực gần Ban Mê Thuột- Đaklak. Hàng loạt xứ đạo từ miền Trung được thành lập gần Ban Mê Thuột khiến người người đã “thuổng” một câu kinh trong Thánh lễ Công Giáo mà truyền miệng nhau : “Trời đất đầy Vinh”. Đi từ Nam lên Bắc theo quốc lộ 14, rời Đaklak lên Gia Lai, đến Kontum là gặp con sông Đakbla từ Bắc chảy xuống rồi ngoằn ngoèo ôm trọn bình nguyên Kontum. Địa thế này đã được vị Giám mục Đàng Trong, Đức Cha Cuenot Thể nhìn rõ, mặc dù cả đời Giám mục Đàng Trong của ngài chỉ sống dưới hầm ở Bình Định nhưng tầm nhìn của ngài đã phóng lên Tây Nguyên. “Anh cứ xẻ rừng mà đi, khi gặp con sông lớn, anh dựng lều ở đó và rao giảng Tin Mừng”, lệnh của vị Giám mục cho thầy Sáu Do năm 1848. Vì vậy, khi qua cầu Đakbla là chúng tôi vào địa phận Kontum rồi đấy. Thành phố Kontum hôm nay được phát triển dọc theo quốc lộ 14 lên hướng Bắc thành đại lộ Phan Đình Phùng, trục chính của thành phố, các cửa hiệu cung cấp mọi thứ cho sinh hoạt đều ở đại lộ này.

Nhưng khi vừa qua cầu Đakbla, rẽ tay phải vào đường Nguyễn Huệ, bắt đầu phố đạo Tây Nguyên rồi đấy. Từ thế kỷ 19, các giáo dân : ông cả Ninh, ông cả Quới đã dẫn các thừa sai lên Tây Nguyên qua ngả Quảng Trị, Phú Yên nhưng không thành. Tây Nguyên và vùng đồng bằng Trung phần được coi như hai lãnh thổ, mặc dù trong một quốc gia. Người Kinh không thể vào các buôn làng Baham, Bơlu, Kolphar, Kol Kelang, Kol Kesam mà phải dừng lại ở những cửa khẩu để trao đổi hàng hóa với người dân tộc. Đức Giám mục cẩn thận căn dặn phải tránh gặp các già làng khó tính như ông Baham, ông Lập, ông Bliu và nhất là ông Khiem ở Kolpha được triều đình tin cẩn trao quyền quản trị Tây Nguyên và được người Tây Nguyên gọi là “Bok” (bố). Ông sẵn sàng chặn bắt những đoàn người Kinh xâm nhập vào Tây Nguyên và trao cho triều đình. Đó là số phận của nhiều đoàn thừa sai đi trước thầy Sáu Nguyễn Do.

Lạ lùng thay, tình cờ gặp Bok Khiem trên đường xâm nhập Tây Nguyên, Bok mềm nhũn và lịch sự, kết nghĩa anh em với thầy Sáu Do, nhận các thừa sai Combes (cha Bê) và Fontaine (cha Khâm) là bố. Được sự đỡ đần của “hung thần Tây Nguyên”, thầy Sáu Do lập nghiệp ngay gần con sông, chỗ có tên là Gò Mít, Trại Lý nay là Tân Hương nằm trên đường Nguyễn Huệ. Chung quanh Tân Hương, Giáo hội Chúa phát triển, tòa Giám mục, nhà thờ gỗ chính tòa, trường Cuénot, trường Lê Hữu Từ, nối liền những cơ sở này là đường Bok Do, Bok Khiem và hàng loạt xứ đạo. Giáo phận Kontum được thành lập năm 1933 theo sắc chỉ của Đức Thánh Cha Pio XI và tỉnh Kontum được thành lập năm 1913, khi mà đại lộ Phan Đình Phùng mới chỉ là một con đường mòn. Phố Đạo Tây Nguyên được hình thành mà công đầu là của những người giáo dân can trường, của những người Việt Nam bình dị. Phố Đạo Tây Nguyên đã như một dấu ấn đóng lên Tây Nguyên, dựng lều giữa anh em nhiều sắc tộc khác nhau, níu anh em lại trong cộng đồng Việt để cùng chia sẻ một giang sơn gấm vóc. Cái xương sống của Đông Á này với trăm ngàn đường thượng đạo len lỏi giữa núi rừng, có thể dẫn lên Hoa Nam, vào Gia Định và từng bị nhiều ánh mắt để ý, nhòm ngó, thèm thuồng.Từ thế kỷ 12, 13 vương quốc Chàm đã từng đặt chân lên đây, rải rác ở Ayunpa còn những ngọn tháp như chúng ta thường gặp ở miền Trung. Rồi thực dân Anh sau khi chiếm đóng Ấn Độ, Miến Điện đã thôn tính Thái Lan tràn sang Hạ Lào về tận Bản Đôn, cũng muốn chiếm cao nguyên này để lên Hoa Nam.Với thực dân Pháp thì ý đồ thôn tính Tây Nguyên càng lộ liễu hơn mà cố gắng cuối cùng đầy tuyệt vọng là việc thành lập Hoàng Triều Cương Thổ với dụ số 16 của Quốc trưởng Bảo Đại ký ngày 21/5/1951 “Ấn định một quy chế đặc biệt cho dân cư khác dòng giống Việt Nam, sinh sống tại các miền và tỉnh gọi là Hoàng Triều Cương Thổ miền Nam”. Chỉ 4 năm sau, ngày 11/3/1955, thủ tướng Ngô Đình Diệm ban hành dụ số 21 “Sát nhập các vùng cao nguyên miền Bắc và miền Nam thuộc Hoàng Triều Cương Thổ vào lãnh thổ quốc gia Việt Nam và đặt hoàn toàn thuộc quyền quản trị của chính phủ quốc gia”. Mặc cho những tranh chấp của thế lực chính trị ở Tây Nguyên, đã có một cộng đồng Kinh Thượng chan hòa, chấp nhận nhau là anh em trong cùng một gia đình, không ai có thể ép uổng hoặc mê hoặc được để tách rời họ xa nhau. Công đầu này phải là của thầy Sáu Do, của quý ông cả Ninh, cả Quới, của những cư dân khố rách áo ôm từ Quảng Ngãi, Bình Định theo thầy Sáu lên đây, của những thừa sai Pháp Việt bất chấp gian khổ. Kính thưa quý vị, hậu sinh chúng con mang ơn quý vị nhiều lắm.

Và chúng con quyết tâm giữ vững Phố Đạo này như một chứng tích. Hôm nay có thể có những cơ sở, tên đường đã bị đổi thay, chiếm dụng nhưng lịch sử còn đó. Tiện đây chúng tôi muốn nhắc lại lập trường của Đức Cha Micae Hoàng Đức Oanh về các cơ sở tôn giáo bị tịch thu từ sau năm 1975. Được chia làm 3 loại :

  1. Các cơ sở tôn giáo vốn trước đây được dùng trong việc thờ phượng và huấn luyện các chức sắc, chính quyền phải trả lại cho các tôn giáo.
  2. Các cơ sở vốn trước đây được dùng để phục vụ cộng đồng như trường học, nhà thương, chính quyền trưng dụng và phải phục vụ cho lợi ích của dân.
  3. Các cơ sở vốn trước đây các tôn giáo dùng để kinh tài giúp cho sinh hoạt của các tôn giáo, chính quyền cứ giữ lại nhưng phải dùng để phục vụ cho lợi ích của dân.

        Điều cốt lõi là những cơ sở của Phố Đạo chỉ nên được tôn tạo mà không cần phải dẹp bỏ để thay thế bằng những khối bê tông, cho dù là hoành tráng đến mấy đi nữa. Tôn tạo là điều đã được áp dụng cho nhà thờ gỗ ở Kontum.

        Rất mong giáo phận Kontum làm đẹp mãi cho Phố Đạo Tây Nguyên.

   F.X Vũ Sinh Hiên

From: Hồ Công Hưng

CHỐN DUNG THÂN – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

CHỐN DUNG THÂN

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Thân lạy Chúa, Ngài là chỗ chúng con dung thân, từ đời nọ trải qua đời kia!”.

O. Hallesby nói, “Tôi có thể nhịn ăn nhiều ngày, nhưng không thể nhịn cầu nguyện một ngày. Cầu nguyện là phương thế mà tôi nhận được tất cả những gì tôi cần. Chỉ vì một lý do, Chúa là ‘chốn dung thân’ trọn cuộc đời tôi, mọi phút giây cuộc sống tôi. Ngài là nguồn vui phong phú và sức mạnh vô tận của tôi. Dung thân nơi Ngài, tôi có thể làm cho Ngài nhiều điều vĩ đại!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Trước cả O. Hallesby, tác giả Thánh Vịnh đáp ca của Chúa Nhật hôm nay cũng đã tìm thấy nguồn vui phong phú và sức mạnh vô tận của mình nơi Chúa, “Thân lạy Chúa, Ngài là chỗ chúng con dung thân, từ đời nọ trải qua đời kia!”. Vì thế, dù cho cuộc sống con người có ngắn ngủi, chỉ như một giọt nhỏ giữa đại dương thời gian; nhưng trong quảng tồn tại vắn vỏi đó, bạn vẫn có thể “làm nhiều điều vĩ đại” cho Chúa nếu biết chọn Ngài làm ‘chốn dung thân’.

Bài đọc Khôn Ngoan nói đến sự sâu nhiệm khôn dò của Thiên Chúa, “Ai trong loài người có thể biết được ý định của Chúa?”. Vậy mà, khi phó mình cho Ngài, chọn Ngài làm ‘chốn dung thân’, chúng ta sẽ hiểu biết Thiên Chúa, sẽ yêu mến Ngài; nói cách khác, chúng ta cho phép Thánh Thần của Ngài đi vào và ở lại trong chúng ta, thôi thúc chúng ta bằng tình yêu và lẽ thật; lúc ấy, chính Thánh Thần sẽ dạy chúng ta phụng sự Thiên Chúa, “làm nhiều điều vĩ đại” cho Ngài.

Một khi đã chọn Chúa làm ‘chốn dung thân’, thì Ngài sẽ là ưu tiên số một của cuộc đời chúng ta. Chúa Giêsu nói rất rõ trong Tin Mừng hôm nay, “Ai đến với Tôi mà không dứt bỏ vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình nữa thì không xứng đáng làm môn đệ Tôi”. Dạy như thế, Ngài muốn nói, bạn và tôi chỉ yêu một điều; đúng hơn, một người, cách tuyệt đối; đó chính là Thiên Chúa! Tất cả các tình yêu khác đều phải đến sau và phục vụ cho tình yêu tối thượng này.

Ngài còn nói thêm, “Ai không vác thập giá mình mà đi theo Tôi, thì không thể làm môn đệ Tôi!”. Một sứ điệp khó nuốt! Phải. Đó là điều Chúa Giêsu yêu cầu tôi phải “ngồi xuống và quyết định” nếu muốn đi theo Ngài và “làm nhiều điều vĩ đại” cho Ngài. Không có một giải pháp nào khác! Vậy cụ thể vác thập giá mình là gì? Là vác lấy những bất ưng trong cuộc sống, là chọn đi con đường hẹp của Tin Mừng, con đường mà chính Chúa Giêsu đã đi; là vác lấy vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của thế giới, của nhân loại; cả thân xác lẫn linh hồn anh chị em mình.

Trong bài đọc thứ hai, Phaolô mời gọi Philêmôn “làm một điều vĩ đại!”. Đó là vác lấy Ônêsimô, trước đây là một nô lệ của Philêmôn. Phaolô viết, “Xin anh hãy đón nhận nó như người ruột thịt của tôi”. Chọn Chúa làm ‘chốn dung thân’, chúng ta hẳn cũng trở nên ‘chốn dung thân’, “làm điều vĩ đại” cho anh chị em mình! Mẹ Têrêxa Calcutta nói, “Chúa không gọi con để làm những việc phi thường, Chúa gọi con để làm những việc tầm thường với một trái tim phi thường”, Mẹ đã trở nên một con người phi thường làm những điều vĩ đại cho thế giới trong thế kỷ 20!

Anh Chị em,

“Thân lạy Chúa, Ngài là chỗ chúng con dung thân, từ đời nọ trải qua đời kia!”. Đây là một lời cầu nguyện chân thành, cũng là tâm tình của một người đã có những trải nghiệm sâu sắc trong tương quan của họ với Thiên Chúa, với con người. Đó là những ai đã xác tín, “Cậy vào thần thế vua quan, chẳng bằng ẩn náu ở bên Chúa Trời”. Điều này đáng cho chúng ta suy nghĩ! Chúa là ai mà chúng ta tìm dung thân? Chúa là ai mà đòi hỏi con người phải yêu mến trên hết, trước hết như thế; Ngài đòi chúng ta yêu Ngài hơn cả gia đình, hơn cả chính bản thân; Ngài là ai để khi dung thân bên Ngài, con người mới có thể làm những điều vĩ đại? Thiên Chúa Là Tình Yêu! Hãy nhìn vào Chúa Giêsu, Thiên Chúa là Đấng Ngài đã chọn làm ‘chốn dung thân’; nên dù trải qua thập giá và cả cái chết trọn nghĩa bóng lẫn nghĩa đen; Chúa Giêsu đã thực hiện “một điều vĩ đại hơn tất cả các điều vĩ đại”, trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho muôn người.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, không dung thân nơi Chúa, con sẽ tìm dung thân nơi các thứ không phải Ngài. Cho con luôn gắn bó với Chúa, ‘chốn dung thân’, và con cũng làm nên những điều vĩ đại!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

From: KimBangNguyen

Ngày 05/09: Thánh Têrêsa Calcutta, nữ tu

Ngày 05/09: Thánh Têrêsa Calcutta, nữ tu

 Lm. Giuse Đinh Tất Quý & Trần Duy Nhiên

 Ngày 05/09/2022

Ngày 5 tháng 9
THÁNH TÊRÊSA CALCUTTA

  1. ĐÔI HÀNG TIỂU SỬ.

Đây là tiểu sử chính thức của Mẹ thánh Calcutta được Đức Hồng Y Angelo Amato, là Tổng trưởng bộ Tuyên Thánh, đọc trước Đức Thánh Cha Phanxicô trong thánh lễ tại quảng trường Thánh Phêrô lúc 10h25 sáng Chúa Nhật 04/09/2016

Calcutta, nhủ danh Gonxha Bojaxhiu Agnes, sinh tại Skopje, Albania, ngày 26 Tháng Tám năm 1910, là người con thứ năm và cũng là con út của ông bà Nikola và Drane Bojaxhiu. Têrêsa đã được rửa tội vào ngày hôm sau và được rước lễ lần đầu khi lên năm tuổi rưỡi. Từ thời điểm đó trở đi, tâm hồn Têrêsa tràn ngập tình yêu dành cho các linh hồn.

Năm 1928, với mong muốn được phục vụ như là một nhà truyền giáo, Têrêsa bước vào Tu hội Chị em Loreto ở Ireland. Năm 1929, Têrêsa đến Ấn Độ, và khấn lần đầu vào tháng 5 năm 1931 và khấn trọn vào tháng Năm năm 1937. Trong suốt hai mươi năm sau đó, Têrêsa đã giảng dạy ở Ấn Độ, và được nhiều người biết đến vì lòng bác ái, lòng nhiệt thành, sự tận tâm và sự vui tươi.

Ngày 10 tháng 9 năm 1946, Têrêsa nhận được từ Chúa Giêsu lời mời gọi “để lại tất cả mọi thứ phía sau và phục vụ Ngài nơi những người nghèo nhất trong số những người nghèo”. Năm 1948, Têrêsa nhận được sự cho phép của Giáo Hội để bắt đầu sứ vụ tông đồ của mình trong các khu ổ chuột của thành phố Calcutta. Dòng Thừa Sai Bác Ái đã trở thành một Tu Hội của giáo phận vào ngày 07 tháng 10 năm 1950, và đã được nâng lên thành một Tu Hội giáo hoàng vào ngày 1 tháng 2 năm 1965. Đặc sủng riêng của Tu Hội là để thỏa mãn cơn khát vô hạn của Chúa Giêsu đối với tình yêu và đối với các linh hồn bằng cách hoạt động cho sự cứu rỗi và sự thánh thiện của những người nghèo nhất trong những người nghèo.

Để mở rộng sứ mệnh tình yêu này, Mẹ đã mở thêm các nhánh khác bao gồm dòng các Tu huynh Thừa Sai Bác Ái, vào năm 1963, dòng các nữ tu sĩ chiêm niệm vào năm 1976, dòng các Tu huynh chiêm niệm (1979), và dòng các Cha Thừa Sai Bác Ái vào năm 1984, cũng như các Hiệp hội các cộng tác viên, Hiệp hội các cộng sự viên đồng lao cộng khổ, và phong trào Corpus Christi cho các linh mục.

Tại thời điểm Mẹ qua đời vào ngày 05 tháng Chín năm 1997, dòng có đến 3,842 chị em làm việc tại 594 nhà ở tại 120 quốc gia. Mặc dù, phải chịu đựng một kinh nghiệm đau đớn của bóng tối nội tâm, Mẹ đã đi khắp mọi nơi, có liên quan, như Đức Maria trong trình thuật Thăm Viếng [bà Elizabeth], để truyền bá tình yêu của Chúa Giêsu trên khắp thế giới. Do đó, Mẹ đã trở thành một biểu tượng của dịu dàng và tình yêu thương xót của Thiên Chúa cho mọi người, đặc biệt là đối với những người không được yêu thương, bị khước từ và bỏ rơi. Từ trên Thiên Đàng, Mẹ tiếp tục “thắp lên một ánh sáng cho những người sống trong bóng tối trên trái đất này.”

  1. CON ĐƯỜNG NÊN THÁNH.

Con đường nên thánh của Mẹ Thánh Têrêsa thật đơn giản: Chỉ sống trọn vẹn Lời khuyên của Phúa Âm với hai hướng đi rất rõ rệt.

  1. Sống tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa.

Đây là lời của đức cha Angelo Comastri về mẹ. Từ lúc còn trẻ, tôi đã có nhiều liên hệ thân tình với mẹ Têrêsa Calcutta. Một lần gặp tôi, mẹ đưa đôi mắt trong suốt và sâu thẳm nhìn tôi rồi đột ngột hỏi:

– “Con cầu nguyện mỗi ngày mấy giờ ?”.

Ngạc nhiên trước câu hỏi bất ngờ, tôi lúng túng tìm cách chống chế:

– “Con tưởng mẹ sẽ nhắc nhở con sống bác ái, yêu thương giúp đỡ người nghèo chớ! Đàng này mẹ hỏi con cầu nguyện mỗi ngày mấy giờ ?” .

Mẹ Têrêsa liền nắm chặt hai bàn tay tôi, rồi siết mạnh như thông truyền cho tôi điều mẹ hằng ấp ủ trong lòng. Mẹ nói:

– “Con à, nếu không có Thiên Chúa hỗ trợ, chúng ta quả thật quá nghèo để có thể giúp đỡ người nghèo. Con nên nhớ: Mẹ chỉ là phụ nữ nghèo luôn cầu nguyện. Chính trong khi cầu nguyện mà Thiên Chúa đặt Tình Yêu Ngài vào lòng mẹ và nhờ thế, mẹ có thể giúp đỡ người nghèo. Con nhớ cho kỹ nhé: – Mẹ giúp đỡ người nghèo vì mẹ hằng cầu nguyện, mẹ cầu nguyện luôn luôn!”.

 Một kỹ nghệ gia giàu có muốn dâng cúng ngôi biệt thự sang trọng của ông để mẹ Têrêsa tiếp đón những người bị bệnh liệt kháng. Ông cầm trong tay bộ chìa khóa và muốn trao ngay cho mẹ. Nhưng mẹ Têrêsa nói: – “Tôi phải cầu nguyện và suy nghĩ trước đã, vì tôi không biết có nên đưa các bệnh nhân liệt kháng vào một nơi chốn giàu sang để chăm sóc không. Biết đâu sẽ làm cho họ đau khổ gấp đôi!”.

Mọi người thầm cảm phục sự dè dặt khôn ngoan của mẹ. Tuy nhiên, nhiều người cho là mẹ đã bỏ lỡ một cơ hội ngàn vàng. Do đó, một người cảm thấy có bổn phận khuyên mẹ:

– “Thì mẹ cứ nhận chìa khóa đi, rồi sẽ tính sau!”.

Nhưng mẹ Têrêsa quyết liệt trả lời:

– “Không, thưa ông không. Những gì tôi không cần đều trở thành gánh nặng!” .

  1. Sống yêu thương mọi người nhất là những người nghèo khó bệnh tật.

Mẹ đã kể lại ơn gọi phục vụ của Mẹ trong một lá thư viết từ Calcutta như sau:

“Trong những ngày đầu khi mới khởi sự làm việc cho những người cùng khổ nhát trong vùng ngoại ô, tôi bị sốt liệt giường. Trong cơn mê sảng, tôi bỗng thấy mình được trình diện trước mặt thánh Phêrô, người giữ cửa thiên đàng. Nhưng thánh Phêrô chặn lại không cho tôi vào thiên đàng. Ngài nói như sau: “Không để để cho một người thuộc khu ổ chuột được vào thiên đàng. Thiên đàng không có nơi cùng khổ”.

Tôi mới tức giận nói với ngài như sau: “Thế ư ? Vậy thì con sẽ làm mọi cách để làm cho thiên đàng đầy dẫy dân cư của các khu ổ chuột và lúc đó, ngài bị bắt buộc sẽ để cho con vào thiên đàng”.

Tội nghiệp thánh Phêrô. Kể từ sau giấc mơ ấy, Mẹ Têrêxa và các nữ tu của Mẹ đã không để cho ngài được ở yên phút nào. Không biết bao nhiêu người cùng khổ và cô đơn đã qua đời trong vòng tay ôm ấp của Mẹ và các nữ tu. Thiên đàng đã trở thành nơi cư trú của những người cùng khổ.

Xin được kết thúc bằng câu chuyện sau đây:

Hôm thứ năm 18 tháng 9, Văn Phòng Thông Tin của Liên Hiệp Quốc cùng với Hiệp Hội quy tụ những người công giáo làm việc tại Trụ Sở của Liên Hiệp Quốc ở New York, mang tên là Hiệp Hội Hòa Bình Trên mặt Ðất, đã cùng nhau tổ chức buổi lễ Tưởng Niệm Mẹ Têrêsa Thành Calcutta. Ông Kulla, đại sứ của Albani tại Liên Hiệp Quốc đã ca ngợi Mẹ Têrêsa như là “vị thánh đã sống giửa chúng ta” và sẽ còn sống mãi qua những việc làm và lời nói của Mẹ. Ông còn nói thêm như sau: “ở đâu thuốc men thất bại, và những nghị quyết của Liên Hiệp Quốc không được tuân giữ, thì ở đó Mẹ Têrêsa lại thành công vạch ra con đường cho con người noi theo. Tất cả những người Albani đều hãnh diện về Mẹ”. Ðức Tổng Giám Mục Renato Martino, quan sát viên thường trực của Tòa Thánh tại Liên Hiệp Quốc thì nhận định như sau: “Ðời sống và chúng tá của Mẹ Têrêsa đã đánh động tất cả mọi người, không phân biệt tôn giáo, chủng tộc, quốc gia và xác tín chính trị. Sức thu hút của Mẹ đến từ thái độ sống của Mẹ nhìn thấy Chúa Kitô hiện diện trong mọi người. Mẹ Têrêsa dạy chúng ta rằng: chúng ta không thể thay đổi toàn thế giới, nhưng ít ra chúng ta có thể góp phần làm cho thế giới nầy trở thành nơi dễ sống hơn. Như Mẹ Terêsa, chúng ta đừng bao giờ thất vọng vì sự yếu đuối nhỏ nhoi của mình, nhưng hãy nhớ rằng Thiên Chúa xử dụng sự nhỏ hèn của chúng ta một cách đặc biệt, để chu toàn những việc cao cả.”

Lm. Giuse Đinh Tất Quý

Vào Chúa nhật ngày 4-9-2016, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã chủ sự thánh lễ tuyên thánh cho Mẹ Têrêsa Calcutta tại Quảng trường Thánh Phêrô ở Vatican với khoảng 120.000 người tham dự. Lễ kính Thánh nữ được ấn định vào ngày 5-9 hằng năm. Dưới đây là tiểu sử và chứng từ của Thánh nhân. 

MẸ TÊRÊSA: TIỂU SỬ VÀ CHỨNG TỪ

“Theo huyết thống, tôi là người Anbani. Theo quốc tịch, tôi là người Ấn Độ. Theo đức tin, tôi là một nữ tu công giáo. Theo ơn gọi, tôi thuộc về thế gian. Theo con tim, tôi hoàn toàn thuộc về Trái Tim Chúa Giêsu” (Mẹ Têrêxa).

Với dáng người nhỏ bé, nhưng với một đức tin sắt đá, Mẹ Têrêxa thành Calcutta được giao phó sứ mạng công bố tình yêu vô bờ bến của Thiên Chúa đối với nhân loại, đặc biệt đối với những người bần cùng nhất. “Thiên Chúa vẫn mãi yêu thương thế gian và Người sai chị em chúng ta ra đi để biểu lộ tình yêu và lòng thương cảm của Người đối với người nghèo”. Mẹ có một tâm hồn tràn đầy ánh sáng Chúa Kitô, một tâm hồn bùng cháy tình yêu đối với Ngài và bị thôi thúc bởi một mong ước duy nhất: “xoa dịu cơn khát của Chúa: khát tình yêu và khát các linh hồn”.

Thời thơ ấu

Agnes Gonxha Bojaxhiu sinh ngày 26 tháng 08 năm 1910, và chịu phép rửa ngay hôm sau, tại Skopje, Macedonia. Gia đình cô thuộc cộng đồng người Anbani. Đây là một gia đình công giáo, mặc dù đa số người Anbani ở đấy theo Hồi Giáo. Thời bấy giờ, Đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ cai trị đất nước. Cha cô, ông Nikola, là một doanh nhân. Ông làm chủ một công ty và một cửa hàng thực phẩm. Ông thường du hành đó đây, biết nhiều thứ tiếng và rất quan tâm đến chính trị. Ông là một thành viên của Hội Đồng người Anbani. Cùng với vợ mình là bà Drana, ông đã dạy cho Agnes những bài học bác ái đầu tiên.

Khi Agnes lên 9, năm 1919, cha cô qua đời một cách đột ngột. Bà Drana phải một mình bươn chải hầu nuôi dạy ba người con là Aga (1904), Lazar (1907) và Agnes Gonxha (1910). Để sinh sống, bà lao động vất vả qua nghề thêu may. Dù vậy, bà vẫn dành thì giờ để giáo dục con cái. Gia đình cầu nguyện mỗi tối, đi nhà thờ hằng ngày, lần chuổi Mân Côi mỗi ngày trong suốt tháng Năm và chuyên cần tham dự các lễ kính Đức Mẹ. Họ cũng luôn quan tâm giúp đỡ những người nghèo khổ và túng thiếu đến gõ cửa nhà họ. Trong các kỳ nghỉ, gia đình có thói quen đến tĩnh tâm tại một nơi hành hương kính Đức Mẹ, ở Letnice.

Agnes rất thích đi nhà thờ, cô cũng thích đọc sách, cầu nguyện và ca hát. Mẹ cô tình nguyện chăm sóc một phụ nữ nghiện rượu ở gần đấy. Mỗi ngày hai lần, bà đến rửa ráy và cho người phụ nữ ấy ăn, đồng thời bà cũng chăm sóc một bà góa có 6 con. Những ngày bà không đi được, thì Agnes thay bà đi làm các việc bác ái đó. Khi bà góa qua đời, những người con của bà đến sống với bà Drana như con ruột của mình.

Ơn Gọi

Những năm trung học, cô Agnes dùng phần lớn thời gian để hoạt động trong hội Đạo Binh Đức Mẹ (Legio Mariae). Vì giỏi ngoại ngữ, cô giúp một linh mục gặp khó khăn trong ngôn ngữ, cô dạy giáo lý và đọc rất nhiều sách về các nhà thừa sai Slovenia và Croatia ở Ấn Độ. Khi lên 12, lần đầu tiên cô mong muốn dâng đời mình để làm việc Chúa, hiến trọn đời mình cho Chúa để Người quyết định. Nhưng cô phải làm sao để biết chắc chắn là Chúa có gọi cô hay không?

Cô cầu nguyện nhiều rồi tâm sự với các chị và mẹ mình. Cô cũng trình bày với vị linh mục giải tội: “Làm sao con biết chắc?”. Cha trả lời: “Căn cứ trên NIỀM VUI. Nếu con cảm thấy thực sự hớn hở vui mừng với ý tưởng rằng Chúa có thể gọi con phục vụ Người và tha nhân, thì đấy là bằng chứng cho thấy rằng con có ơn gọi”. Và cha nói thêm: “Niềm vui sâu xa mà con cảm nhận là la bàn để chỉ cho con biết hướng đi của đời mình”.

Năm 18 tuổi là năm trọng đại. Cô quyết định. Hai năm trước đó, cô đã đến tĩnh tâm nhiều lần tại Letnice và nhận ra rõ ràng là cô sẽ phải đi truyền giáo ở Ấn Độ. Vào ngày lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời năm 1928, cô đến Letnice cầu nguyện xin Đức Mẹ chúc lành trước khi ra đi. Cô chuẩn bị gia nhập dòng Đức Mẹ Lorette, một hội dòng đang hoạt động tích cực tại Ấn Độ.

Ngày 25 tháng 09, cô lên đường. Cả cộng đồng tiễn cô ra ga: nào bạn hữu, nào láng giềng già trẻ, và dĩ nhiên cả Mẹ và bà chị Aga. Mọi người đều khóc.

Cô đi qua Zagreb, Áo, Thụy Sĩ, Pháp và đến Luân Đôn, rồi từ đấy vào một tu viện gần Dublin là nhà mẹ của Hội Dòng Đức Mẹ Lorette. Tại đấy, cô học nói tiếng Anh và sống nếp sống nữ tu. Ngày mặc áo dòng, cô chọn tên là Têrêxa, để tưởng nhớ chị thánh Têrêxa Hài Đồng ở Lisieux, nơi mà cô dừng chân trên đường đến Luân Đôn. Cùng thời gian này cô làm các thủ tục giấy tờ và năm 1928 cô khởi sự cuộc hành trình đầu tiên đến với Ấn Độ: đất nước ước mơ của cô! Cuộc hành trình này thật gian nan. Có vài chị em nữ tu đi cùng tàu với cô nhưng phần đông hành khách thì theo Anh giáo. Suốt nhiều tuần lễ, họ không được dự lễ và rước lễ, kể cả ngày Giáng Sinh. Tuy nhiên, họ cũng làm một máng cỏ, lần hạt và hát thánh ca Giáng Sinh.

Đầu năm 1929 họ đến Colombo, rồi đến Madras và cuối cùng là Calcutta. Họ tiếp tục đi đến Darjeeling, dưới chân dãy Hy mã lạp sơn, nơi mà người nữ tu trẻ sẽ hoàn tất thời gian huấn luyện. Ngày 23 tháng 05 năm 1929, chị Têrêxa vào tập viện và hai năm sau chị khấn lần đầu. Ngay sau đó, chị được chuyển đến Bengali để giúp đỡ các chị trong một bệnh viện nhỏ hầu chăm sóc các bà mẹ đau yếu, đói khát và không nơi nương tựa. Chị bị đánh động trước nỗi khốn cùng vô biên tại nơi này.

Nữ Tu và Giáo viên

Sau đó, chị được gởi đến Calcutta để học sư phạm. Khi nào có thể, chị đều đi giúp chăm sóc bệnh nhân. Khi ra trường, chị trở thành giáo viên và mỗi ngày phải đi xuyên qua thành phố. Công việc đầu tiên của chị là lau phòng học. Chẳng bao lâu, các em bé yêu mến cô giáo vì sự nhiệt tình và lòng trìu mến của cô, nên số học sinh lên đến ba trăm em. Ở một khu khác trong thành phố, còn 100 em nữa. Chị nhìn thấy nơi các em ở và đồ các em ăn. Cảm được sự chăm sóc và tình yêu của chị, các em gọi chị là ‘ma’ (mẹ). Những ngày chúa nhật, chị đi thăm viếng gia đình các em.

Ngày 24 tháng 05 năm 1937, chị khấn trọn đời ở Darjeeling và trở thành, như lời chị nói, “hiền thê của Chúa Giêsu cho đến đời đời”. Chị được cử làm hiệu trưởng một trường phổ thông cơ sở tại trung tâm Calcutta, dành cho nữ sinh Bengali. Đôi khi chị cũng đích thân dạy sử địa. Cạnh trường là một trong những khu ổ chuột lớn nhất Calcutta. Chị Têrêxa không thể nhắm mắt làm ngơ được: Ai chăm sóc cho những người nghèo sống lang thang trên đường phố đây? Tinh thần bác ái toát ra từ những bức thư của mẹ chị nhắc lại tiếng gọi căn bản: hãy chăm sóc người nghèo.

Hội đoàn Legio Mariae cũng hoạt động trong trường này. Cùng với các nữ sinh, chị Têrêxa thường đi thăm bệnh viện, khu ổ chuột, người nghèo. Họ không chỉ cầu nguyện suông. Họ cũng nghiêm túc trao đổi về những gì mình thấy và làm. Cha Henry, một linh mục dòng Tên người Bỉ, là vị linh hướng của chị; ngài gợi ý nhiều điều trong công tác này. Ngài hướng dẫn chị Têrêxa trong nhiều năm. Qua các gợi ý của ngài, chị càng ngày càng mong muốn phục vụ người nghèo, nhưng bằng cách nào đây?

‘Ơn gọi trong ơn gọi’

Với tất cả những thao thức ấy, chị đi tĩnh tâm ngày 10 tháng 09 tại Darjeering. Sau này chị nói:  “đấy là chuyến đi quan trọng nhất trong đời tôi”. Đấy chính là nơi mà chị thực sự nghe được tiếng Chúa: “Hãy đến làm ánh sáng cho Thầy”“. Sứ điệp của Người rất rõ ràng: chị phải rời tu viện để giúp đỡ những kẻ khốn khổ nhất và cùng sống với họ. “Đấy là một mệnh lệnh, một bổn phận, một xác tin tuyệt đối. Tôi biết mình phải làm gì, nhưng không biết phải làm thế nào”. Ngày 10 tháng 09 là một ngày quan trọng đến nỗi Hội Dòng gọi ngày này là ‘ngày linh hứng’ (inspiration day).

Chị Têrêxa cầu nguyện, trình bày cho vài chị khác, tham khảo ý kiến mẹ bề trên, và mẹ bảo chị đến gặp đức tổng giám mục Calcutta, Đức Cha Perrier. Chị giải thích cho ngài về ơn gọi của mình, nhưng đức cha không cho phép. Ngài đã trao đổi với các cha dòng Tên Henry và Celeste Van Exem, là những vị biết rõ chị Têrêxa. Các ngài xem xét mọi mặt vấn đề: Ấn Độ sắp được độc lập và chị Têrêxa lại là một người Âu!  E rằng chị sẽ gặp những nguy hiểm về chính trị và nhiều vấn đề khác xuất phát từ việc phân biệt sắc tộc. Liệu Rôma có phê chuẩn quyết định này chăng? Đức cha khuyên chị cầu nguyện một năm nữa trước khi thực hiện quyết định này, nếu không thì nên gia nhập dòng các Nữ Tử thánh Anna, những nữ tu mặc sari xanh đang hoạt động cho người nghèo. Chị Têrêxa nghĩ rằng đấy không phải là con đường thích hợp cho mình. Chị muốn sống cùng với người nghèo. Một năm sau, khi chị Têrêxa trình lên ý định mình, đức tổng giám mục muốn cho phép, nhưng ngài bảo tốt hơn là chị hãy xin phép Rôma và Mẹ bề trên tổng quyền của chị ở Dublin. Chị lại phải chờ đợi một thời gian khá lâu để nhận được quyết định từ trung ương.

Quyết định

Tháng 08 năm 1948, chị Têrêxa được phép rời cộng đoàn Lorette với điều kiện là tiếp tục tuân giữ các lời khấn khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục. Chị chia tay với chị em mình năm 38 tuổi, rời tu phục dòng Lorette để mặc lấy chiếc sari rẻ tiền màu trắng viền xanh. Trước hết, chị đến Patna để theo học một khóa huấn luyện y tá cùng với các nữ tu tại đấy. Chị thấy rõ ràng là chị chỉ có thể giúp đỡ người nghèo trong các căn nhà bẩn thỉu bệnh hoạn của họ nếu chị biết cách phòng bệnh và chữa bệnh. Kiến thức y khoa là điều kiện không thể thiếu được hầu chu toàn ơn gọi mới của mình.

Vị bề trên ở Patna, một bác sĩ, đã cho chị một lời khuyên khôn ngoan khi chị tỏ ý muốn ra sống giữa những người nghèo và chăm sóc họ. Chị bảo rằng chị muốn sống chỉ bằng cơm với muối, giống như người nghèo, và vị bề trên đáp lại rằng đấy là cách hay nhất để cản trở chị khỏi phải đi theo ơn gọi của chị: nếp sống mới đòi hỏi ở chị một sức khoẻ thật vững và thật tốt.

Sau khi trở về Calcutta, chị Têrêxa đến với các khu ổ chuột và đường phố, thăm viếng và giúp đỡ người nghèo. Toàn bộ tài sản của chị vẻn vẹn là một cục xà phòng và năm rupi (một đôla = 45 rupi; và 5 rupi = dưới 2000 VNĐ). Chị giúp tắm các em bé và rửa các vết thương. Người nghèo rất ngạc nhiên: Cái bà người Âu mặc chiếc sari nghèo nàn này là ai vậy? Mà bà nói thông thạo tiếng Bengali! Bà lại đến giúp họ rửa ráy, lau chùi và chăm sóc họ nữa chứ! Thế rồi chị bắt đầu dạy các em bé nghèo học chữ, học cách rửa ráy và giữ vệ sinh. Sau đấy chị mướn được một phòng nhỏ để làm lớp học.

Phần chị, chị vẫn tạm trú tại nhà các Chị Em Người Nghèo. Chúa là nơi nương tựa của chị để có được những sự trợ giúp vật chất. Và Người luôn có mặt: lúc nào chị cũng tìm ra thuốc men, quần áo, thức ăn và chỗ ở để đón người nghèo và chăm sóc họ. Vào giữa trưa, các em bé được uống một ly sữa và nhận một miếng xà phòng, nhưng đồng thời các em cũng được nghe nói về Chúa, Đấng Tình Yêu, và – ngược với cái thực trạng rành rành trước mắt các em – Người yêu thương các em, thực sự yêu thương các em.

Một thời điểm cảm động

Một hôm, một thiếu nữ Bengali, xuất thân từ một gia đình khá giả và là cựu học sinh của Mẹ Têrêxa, muốn đến ở với Mẹ mà giúp một tay. Đây là một thời điểm cảm động. Nhưng Mẹ Têrêxa rất thực tế: Mẹ nói về sự nghèo khó toàn diện, về những khía cạnh khó chịu của công việc Mẹ làm. Mẹ đề nghị thiếu nữ chờ đợi một thời gian nữa.

Ngày 19 tháng 03 năm 1949, thiếu nữ ấy trở lại trong một chiếc áo nghèo nàn và không mang trên người một món nữ trang nào. Cô đã quyết định. Cô là người đầu tiên gia nhập cộng đoàn của Mẹ Têrêxa và lấy tên khai sinh của Mẹ là Agnes. Những thiếu nữ khác nối tiếp cô: vào tháng 05 cộng đoàn có ba người, tháng 11 là năm người, năm sau đó là bảy người. Mẹ Têrêxa thiết tha cầu nguyện để có được nhiều ơn gọi hơn nữa cho Chúa Giêsu và Đức Mẹ. Có quá nhiều việc phải làm. Các chị em thức dậy thật sớm, cầu nguyện lâu giờ, dự thánh lễ để kín múc sức mạnh cho đời sống thiêng liêng hầu thực thi những công việc phục vụ người nghèo. Tạ ơn Chúa, có một ông tên là Gomes đã dâng tặng tầng cao nhất của căn nhà mình cho cộng đoàn Mẹ Têrêxa. Đây cũng là năm mà Mẹ Têrêxa lấy quốc tịch Ấn Độ.

Mẹ Têrêxa nhìn cộng đoàn lớn lên và biết rằng Mẹ có thể nghiêm túc nghĩ đến việc sáng lập một hội dòng. Muốn xây dựng hiến pháp đầu tiên, Mẹ tham khảo ý kiến của hai người đã từng giúp Mẹ trước đây: các cha dòng Tên Julien Henry và Celest Van Exem. Vị linh mục đọc lại lần cuối là cha De Gheldere. Giờ đây “hiến pháp của Hội Dòng Thừa Sai Bác Ái” có thể trình lên đức tổng giám mục, và ngài gởi về Rôma để xin phê chuẩn.

Đầu mùa thu, sắc lệnh phê chuẩn của Đức Thánh Cha đến, và ngày 7 tháng 10 năm 1950, lễ Mân Côi, nghi thức khánh thành diễn ra trong nhà nguyện của chị em. Đức tổng giám mục cử hành thánh lễ và cha Van Exem đọc sắc lệnh thành lập. Vào lúc ấy, có 12 chị em. Không đầy 5 năm sau, cộng đoàn được nâng lên thành hội dòng Tòa Thánh, có nghĩa là trực thuộc Đức Thánh Cha.

Những lãnh vực khác

Muốn đáp ứng trọn vẹn hơn các nhu cầu vật chất và thiêng liêng của người nghèo, Mẹ Têrêxa sáng lập:

  • Năm 1963: Tu hội Anh Em Thừa Sai Bác Ái.
    ·       Năm 1976: Nhánh nữ tu chiêm niệm.
    ·       Năm 1979, Các Nam tu sĩ chiêm niệm.
    ·       Năm 1984, Hội linh mục Thừa Sai Bác Ái.
    Tuy nhiên, thao thức của Mẹ không dừng lại nơi những người có ơn gọi tu trì mà thôi. Mẹ thiết lập hội:
  • Những Cộng Tác Viên với Mẹ Têrêxa và những Cộng Tác Viên Bệnh Tật Và Đau Khổ, gồm những người thuộc nhiều quốc tịch khác nhau mà Mẹ chia sẻ tinh thần cầu nguyện, đơn sơ, hy sinh và công tác tông đồ qua những việc làm hèn mọn vì tình yêu. Tinh thần này cũng thôi thúc Mẹ thiết lập hội:
    ·       Giáo Dân Thừa Sai Bác Ái.
    ·       Để đáp lại yêu cầu của nhiều linh mục, năm 1981, Mẹ Têrêxa khởi xướng phong trào Corpus Christi dành những linh mục nào muốn chia sẻ linh đạo và đặc sủng của Mẹ.
    Trong những năm lớn mạnh đó, thế giới bắt đầu chú ý đến Mẹ và các công trình mà Mẹ đã khởi xướng. Mẹ nhận được nhiều giải thưởng:
  • Giải Padmashri của Ấn Độ, năm 1962.
    ·       Giải Hoà Bình của Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII, năm 1971.
    ·       Giải Nêru vì có công thăng tiến nền hòa bình và sự thông cảm trên thế giới, năm 1972.
    ·       Giải Nobel Hòa Bình, năm 1979; trong khi đó, các phương tiện truyền thông càng ngày càng ca tụng Mẹ hết lời qua các công việc Mẹ làm. Mẹ đón nhận tất cả ‘vì vinh danh Thiên Chúa và nhân danh người nghèo’
    Chứng từ của một cuộc đời.

Toàn bộ cuộc đời và công trình của Mẹ Têrêxa là một chứng từ cho niềm vui trong yêu thương, cho sự cao cả và phẩm giá của mỗi một con người, cho giá trị của từng việc nhỏ nhất được thực thi với đức tin và tình yêu, và trên hết, cho sự kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa.

Nhưng có một khía cạnh anh dũng khác của vĩ nhân này mà ta chỉ biết được sau khi Mẹ qua đời. Đây là một điều Mẹ dấu kín đối với mọi người, kể cả những thân hữu gần gũi nhất với Mẹ: Trong cuộc sống nội tâm, Mẹ có một cảm nghiệm sâu lắng, đau đớn và thường xuyên rằng Mẹ ở xa cách Chúa, thậm chí bị Người ruồng bỏ, và vì thế càng ngày Mẹ càng khao khát được Chúa yêu thương nhiều hơn. Mẹ gọi cái cảm nghiệm nội tâm ấy là ‘bóng tối’. Cái ‘đêm đen cay đắng’ này khởi sự từ ngày Mẹ bắt đầu công việc phục vụ người nghèo và tiếp tục mãi cho đến cuối đời, khiến Mẹ ngày càng kết hiệp mật thiết hơn với Chúa. Qua cái tối tăm đó, Mẹ tham dự một cách huyền nhiệm vào cơn khát cùng cực và đau đớn của Chúa Giêsu và chia sẻ tự thâm sâu sự khốn cùng của người nghèo.

Trong những năm cuối đời, mặc cho sức khoẻ càng ngày càng giảm sút, Mẹ vẫn tiếp tục điều hành Hội Dòng và đáp ứng các nhu cầu của người nghèo và của Giáo Hội.

  • Năm 1997, số nữ tu của Mẹ Têrêxa là 4000 chị, hoạt động tại 610 nhà, trong 123 quốc gia trên thế giới.
    ·       Tháng 03 năm 1997, Mẹ chúc phúc cho vị bề trên tổng quyền mới của Hội Dòng Thừa Sai Bác Ái (chị Nirmala Joshi), rồi thực hiện một chuyến du hành ở nước ngoài.
    ·       Sau khi yết kiến Đức Thánh Cha lần chót, Mẹ về lại Calcutta, dành những ngày cuối đời để tiếp khách và dạy dỗ các nữ tu con cái mình.
    ·       Ngày 05 tháng 09 là ngày cuối cùng trong cuộc đời trần thế của Mẹ. Mẹ được tiễn đưa về vĩnh cửu theo nghi lễ quốc táng của Ấn Độ và thi hài Mẹ được chôn cất tại nhà mẹ của hội dòng Thừa Sai Bác Ái. Mộ của Mẹ trở thành nơi hành hương cho mọi người, giàu cũng như nghèo.

Không đầy hai năm sau ngày qua đời, do sự thánh thiện mà mọi người đã đồng thanh ca ngợi và những báo cáo về các ơn thiêng nhận được qua Mẹ, nên Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã cho phép tiến hành xem xét hồ sơ phong thánh cho Mẹ. Ngày 20 tháng 12 năm 2002, ngài phê chuẩn sắc lệnh công nhận nhân đức anh hùng và các phép lạ của Mẹ.

Ngày 19 tháng 10 năm 2003, Mẹ được nâng lên hàng chân phước (lễ kính vào ngày 05 tháng 9). Mẹ là người được phong chân phước nhanh nhất trong lịch sử Giáo Hội từ trước đến nay: chỉ 6 năm sau ngày qua đời. Trước Mẹ, thánh Gioan Bosco và thánh Maximilian Kolbe được phong chân phước 30 năm sau ngày qua đời và là những người được phong chân phước nhanh nhất.

Chân phước Têrêxa thành Calcutta – một người của toàn thể nhân loại, mang dòng máu Anbani, có quốc tịch Ấn độ và công dân danh dự của Hoa kỳ, nhưng lại xóa mình đến nỗi ít ai còn nhớ đến cái tên khai sinh Agnes Gonxha Bojaxhiu – mãi mãi là hình ảnh của một Kitô hữu có một đức tin không hề lay chuyển, một đức cậy bất chấp phong ba và một đức ái vượt mọi biên thùy. Lời đáp trả trước tiếng gọi của Chúa Giêsu “Hãy đến làm ánh sáng cho Thầy” đã biến người thành một nhà Thừa Sai Bác Ái, một ‘người mẹ của kẻ nghèo’, một biểu tượng cho lòng thương cảm của Thiên Chúa đối với con người và một bằng chứng sống động cho thấy rằng Chúa Giêsu từng ngày khắc khoải chờ đợi tình yêu của mỗi một linh hồn.

Trần Duy Nhiên
Tổng hợp theo tài liệu của Mạng Lưới Vatican
và Hội Dòng Thừa Sai Bác Ái

Bạn Biết Gì Về Bình Thản ?

Van Pham

GÓC SUY GẪM

Bạn Biết Gì Về Bình Thản ?

Mình khổ chẳng qua là vì mong mọi vật, mọi việc diễn ra theo ý mình.

Chim có đường bay của nó,

Cây có hướng mọc của cây .

Mỗi người có cách hành xử của riêng họ.

Có những chuyện, cần hờ hững thì hờ hững, điều gì không làm rõ được thì không cần làm rõ. Người nào cần lấn lướt mình thì cứ mặc cho họ lấn lướt.

Nhiều chiếc xe trên đường qua mặt xe mình nhựng rốt cuộc thì họ về nhà họ, mình về nhà mình, hơn thua nhau chi những cái nhấn chân ga trên đường, rốt cùng đều trở thành vô nghĩa ?

Muốn nhẹ lòng, hãy từ bỏ những phán xét người khác và biết chấp nhận mọi điều xung quanh, ngay phút đó bình yên trong cuộc sống tràn về..

Cuộc đời, nếu như chỉ biết nhớ không biết quên, chỉ biết tính toán mà không biết cho qua, chỉ biết khôn khéo mà lại không biết vụng về… sẽ chỉ làm cuộc sống của chúng ta luôn nặng nề, phiền não.

Con người đến độ tuổi nào đó, tự nhiên không còn thích những gì ồn ào náo nhiệt, tâm thái bình thản giúp cho cơ thể khỏe mạnh, kéo dài tuổi thọ. Mặc kệ là đời sống vật chất dư dả hay bần cùng, chỉ cần nội tâm bình thản, chính là biết sống một cuộc đời hạnh phúc.

Đỉnh cao nhất của tâm thái con người không phải là vô dục vô cầu, vô ái vô ngã, mà là hiểu được hai chữ “BÌNH THẢN”.

Để đạt được 2 chữ “bình thản” khó gấp trăm vạn lần “đi tu”.

Đi tu thì vào chùa, mọi thứ được cái vỏ bọc bên ngoài che chắn, bảo vệ. Tự mình mỗi ngày ép mình vào khuôn khổ để khống chế bản thân mà vượt qua hỉ nộ ái ố đời thường.

Nhưng người bình thường mà muốn sống bình thản thì lại gian khó hơn nhiều.

– Người bình thản là vẫn yêu thương say đắm, nhưng nếu có mất mát lòng vẫn có thể bình thản xem như đó là định luật hợp tan của cuộc sống.

– Người bình thản là vẫn làm việc chăm chỉ, mưu cầu hạnh phúc, nhưng không vì tiền mà làm trái đạo đức, trái lương tâm.

– Người bình thản là ăn uống chỉ cần no bụng, không cầu kỳ, đòi hỏi, không ăn chay, không ăn mặn, có gì ăn đó. Có ăn là được.

– Người bình thản khi gặp việc trái ý, không giận dữ, không tuyệt vọng, không nản chí. Họ chỉ thản nhiên xử lý hết khả năng. Nếu không được, thì buông, xem như đã hết duyên với việc cần làm.

– Người bình thản, sống đơn giản, quần áo, mọi thứ có gì mặc đó, hợp hoàn cảnh, lịch sự không làm cho bản thân khó chịu, không ảnh hưởng đến người xung quanh là được.

– Người bình thản thấy việc tốt thì làm, làm tất cả những việc trong tầm tay, không nhất thiết chạy theo từ thiện hay làm người tốt. Chỉ cần những việc rất nhỏ như bỏ rác đúng chỗ, lên tiếng khi thấy bất công, ngăn cản việc xấu. Và khi đã làm hết sức, không được cũng không cần quá cố gắng ép bản thân.

– Người bình thản là người như dòng nước. Mỗi ngày chảy xuống, thuận theo sự xô đẩy của cuộc đời, là ao tù cũng được, là biển cả cũng xong, mỗi ngày trôi qua bình bình, yên yên là được…

Chắc chắn một điều, nếu sống đến 80 hay 100 năm, khi ngoảnh đầu nhìn lại quá khứ bạn sẽ thấy những thành, bại, nên, hư, vinh, nhục…(mà bạn quá quan trọng lúc bấy giờ), tất cả đều sẽ là sương khói, mơ hồ như giấc mộng đêm qua…

Tổng hợp

Chắc gì chỉ có Tân Hoàng Minh và FLC?

Chắc gì chỉ có Tân Hoàng Minh và FLC?

Đỗ Ngà – Năm 2020, doanh nghiệp Bất động sản phát hành trái phiếu doanh nghiệp chiếm 38% tổng nguồn vốn thị trường trái phiếu doanh nghiệp, trong khi đó ngành sản xuất chiếm 6%, ngành năng lượng chiếm 8%. Tuy nhiên, đến năm 2021, doanh nghiệp bất động sản chiếm đến 40% nhưng ngành sản xuất chỉ còn 3% và ngành năng lượng chỉ chiếm 5%. Nghĩa là doanh nghiệp bất động sản phát triển phình ra rất nhanh trong khi đó ngành sản xuất và năng lượng lại teo tóp. Nguyên nhân là do đâu?

Như tôi đã có phân tích trước đây, hàng loạt doanh nghiệp bất động sản lâm nợ đến mức vay ngân hàng không được, và ngân hàng đã cấu kết doanh nghiệp bảo lãnh phát hành trái phiếu thông qua ngả “phát hành chui” (tức không niêm yết). Vì lỗ hổng pháp lý của thị trường trái phiếu quá lớn nên các doanh nghiệp mất khả năng trả nợ vẫn phát hành trái phiếu bán ra cho dân thu tiền thanh toán nợ ngân hàng và còn ít đầu tư. Sau đó, họ thổi giá bất động sản lên để đẩy hàng đi để kiếm lời khỏa lấp khoản nợ khổng lồ.

Đó là thủ thuật đánh quả của các doanh nghiệp bất động sản. Các doanh nghiệp sản xuất thì không dám làm như thế vì họ không thể thổi giá sản phẩm để bán kiếm siêu lời nhằm bù đắp khoản nợ như các doanh nghiệp bất động sản thổi giá nhà. Chính vì thế ngành sản xuất không lớn nổi và ngành sản xuất không lớn thì năng lượng cũng không lớn. Việc các doanh nghiệp bất động sản phát triển như vũ bão ở cả số lượng doanh nghiệp lẫn quy mô vốn điều lệ là dấu hiệu bất thường. Nếu nền kinh tế mạnh thì tại sao các doanh nghiệp sản xuất và năng lượng không lớn nhanh như doanh nghiệp bất động sản? Đấy là dấu hiệu bong bóng rất rõ.

Thị trường trái phiếu doanh nghiệp có lỗ hổng cực lớn, hổng đến nỗi 80% doanh nghiệp phát hành không niêm yết ung dung “bán giấy lộn” hốt tiền dân. Những doanh nghiệp này được gọi là doanh nghiệp 3 không “không tài sản đảm bảo, không xếp hạng tín nhiệm và không bảo lãnh thanh toán”. Trong đám “3 không” ấy, Chính quyền bắt con “ 3 không” Tân Hoàng Minh ra “xẻ thịt” thử trong đó có gì? Và kết quả thật kinh hãi, trong ruột chả có gì ngoài nợ. Doanh nghiệp làm ăn thua lỗ nên phát hành trái phiếu để hốt tiền trả nợ và đầu tư. Giờ bắt Tân Hoàng Minh trả lại tiền cho các trái chủ (mà đúng hơn là khổ chủ) thì họ vét “sạch túi” chỉ đủ thanh toán 20% khoản nợ. Hốt tiền khổ chủ trả nợ hết trơn, còn lại bao nhiêu đâu mà hoàn trả lại được cho các khổ chủ chứ?

Đấy là thị trường trái phiếu, còn thị trường cổ phiếu thì chả khác gì mấy. Chính quyền bắt con cá trương đối lớn trong thị trường cổ phiếu là FLC ra mổ xẻ thì cuối cùng, bên trong nó còn kinh hơn cả con cá Tân Hoàng Minh bên thị trường trái phiếu. Trịnh Văn Quyết đã thổi từ 1,5 tỷ lên đến 4.500 tỷ bằng cách bán giấy lộn cho người dân để thu tiền thật.

Nếu không có kẽ hở khổng lồ ở thị trường trái phiếu thì làm sao Đỗ Anh Dũng của Tân Hoàng Minh có thể lọt lưới để lừa dân bán “giấy lộn” lấy tiền? Nếu không có lỗ hổng khổng lồ trên thị trường cổ phiếu thì làm sao Trịnh Văn Quyết của FLC lấy “giấy lộn đổi tiền”?. Đã là lỗ hổng pháp lý, lỗ hổng bởi năng lực bộ máy chính quyền thì đám cá d bơi dày đặc ở thị trường chứng khoán ngoài kia không phải là “cá mè một lứa” thì đó là gì? Đã là lỗ hổng thì con này chui qua được thì con khác cũng chui. Đặc biệt là các con cá bất động sản, chúng có biểu hiện rất giống nhau đó là tốc độ lớn của vốn điều lệ còn nhanh hơn cả… Thánh Gióng.

Có lẽ chính quyền CS không dám bắt những con cá lớn trên thị trường chứng khoán như Vingroup, Sunggroup ra “xẻ thịt”. Vì nếu xẻ mà bên trong nó “cùng một giuột” như FLC thì thị trường chứng khoán sụp đổ. Vậy nên, rất có khả năng chính quyền im luôn, cứ để dân cầm giấy lộn mà tưởng tài sản còn hơn. Thị trường chứng khoán Việt Nam thực sự như đang xây lâu đài trên cát, rất rủi ro cho nhà đầu tư./.

-Đỗ Ngà-

Di dân lên xe buýt theo Chiến Dịch Lone Star của TĐ Abbott, nhưng xuống dọc đường

Di dân lên xe buýt theo Chiến Dịch Lone Star của TĐ Abbott, nhưng xuống dọc đường

September 5, 2022

DEL RIO, Texas (NV) — Mặc dù tiểu bang Texas chi hơn $12 triệu trong chiến dịch “Operation Lone Star” để đưa những người di dân bất hợp pháp đến các thành phố như New York, Washington D.C. và Chicago, vẫn có những người xuống ở trạm khác trước khi xe chạy đến điểm cuối, theo đài truyền hình Fox5 San Diego hôm Thứ Sáu, 2 Tháng Chín.

Bản tin nói rằng cho thấy những người di dân có thể lên xe do Texas đài thọ này ở mọi trạm, và cũng có thể xuống xe ở bất cứ đâu và bất cứ lúc nào.

Di dân bất hợp pháp bị Biên Phòng chặn bắt ở Texas. (Hình minh họa: Brandon Bell/Getty Images)

NewsNation theo dõi một chiếc xe buýt chở người di dân từ Del Rio, Texas đến Washington D.C. thì thấy rằng mặc dù họ đồng ý ở yên trên xe trong suốt chặng đường đi, và đa số đều tuân thủ, thế nhưng vẫn có những người rời khỏi xe trước khi đến trạm cuối.

Ông Josman Alvarado là một người di dân như vậy. Ông chạy trốn khỏi Venezuela vì không thể sống dưới chế độ và cảm thấy cuộc sống của mình bị đe dọa. Ông ngồi trên chuyến xe di dân và xuống xe ở thành phố Nashville, tiểu bang Tennessee. Trước đó, người thân của ông mua cho ông vé máy bay từ Nashville đến New Jersey, nơi mà gia đình ông đang ở. Do đó ông xuống xe tại đây, tạm biệt những người khác trên xe và đón Uber ra phi trường.

Kể từ Tháng Tư, Thống Đốc Greg Abbott của Texas bắt đầu khởi sự những chuyến xe buýt chở người di dân và hỗ trợ hơn 9,000 người tị nạn để họ đến các tiểu bang ở phía Bắc, vốn có lập trường ủng hộ di dân. Một số người gọi đây là “cuộc diễn trò” tốn kém, còn Tòa Bạch Ốc vài tháng trước đây nói các chuyến xe này chỉ là “màn trình diễn chính trị.”

Theo Cơ Quan Quản Trị Khẩn Cấp Texas (Texas Department of Emergency Management), tiểu bang này đang phải chi trung bình $1,300 cho mỗi người di dân. Trong khi đó giá vé máy bay thông thường từ vùng Nam Texas đến D.C. hoặc New York chỉ khoảng $400, còn xe buýt thì dĩ nhiên rẻ hơn nhiều. (V.Giang)

“Người Ba-na ở Kon Tum”: Cuốn sách từ một chuyến đi để đời

ĐỌC SÁCH CÙNG ĐOAN TRANG

“Người Ba-na ở Kon Tum”: Cuốn sách từ một chuyến đi để đời

Không làm nhà quá to, không phát rẫy quá rộng.

On  30/08/2022

By  AN NAM

Ngày nay, người ta hầu như đi du lịch một cách vội vã, không có chiều sâu. Ngoài một số bức ảnh và hương vị một vài món ăn, người ta không còn biết gì nữa về vùng đất mình mới đến.

Bố mẹ không có ý thức tìm hiểu về điểm đến du lịch dẫn đến con cái cũng xem thường việc hiểu biết về những vùng đất xa lạ. Dần dà tạo ra một thế hệ thiếu hiểu biết về chính quê hương của mình. Điều này có gì nguy hiểm?

Người thiếu hiểu biết về đất nước của mình sẽ thấy lạc lõng, kém thích nghi với những vùng đất mới. Họ thiếu tự tin hoặc tự tin thái quá khi tiếp xúc với những cộng đồng dân cư xa lạ. Đó là ở mức độ cá nhân. Nếu đó là một quan chức nhà nước, sự thiếu hiểu biết sẽ gây nên những đổ vỡ, xung đột khốc liệt do thực thi những chính sách sai lầm.

Đứng trước một vùng đất mới, tôi thường hình dung nơi này của một trăm năm trước từng như thế nào. Người ta đã sinh sống ra sao, đã trải qua những biến cố gì? Những câu hỏi tưởng như đơn giản nhưng sẽ đem đến nhiều điều thú vị cho chuyến đi.

Nếu đến Kon Tum, “Người Ba-na ở Kon Tum” – với tựa gốc là “Mọi Kon Tum” – sẽ là một cuốn sách không thể thiếu trong hành lý của tôi. [1]

Cách đây 89 năm, một vị bác sĩ người Việt được chính quyền Pháp phái lên Kon Tum để trông nom một nhà thương. Sự tò mò đã khiến ông dùng thời gian nhàn rỗi của mình để nghiên cứu về một dân tộc bản địa mà người Việt khi ấy gần như biết rất ít ỏi.

Không lâu sau, vị bác sĩ gọi người em ruột của mình lên Kon Tum để cùng nghiên cứu. Người em đó hàng ngày đi vào các bản làng người Ba-na, cùng chơi, ăn, ở với người bản địa để thu thập tư liệu thực tế. Sau ba năm ròng rã như vậy, cuốn sách mang tựa đề nguyên bản “Mọi Kontum” của bác sĩ Nguyễn Kinh Chi và Nguyễn Đổng Chi được viết xong. Một năm sau, vào năm 1937, cuốn sách được phát hành tại Huế.

Công sứ tỉnh Kon Tum Paul Guilleminet đã đề tựa cho cuốn sách này. Vị công sứ đã khen ngợi hai anh em tác giả về sự dày công khám phá những điểm giống nhau giữa người Ba-na và người Việt với những chứng cứ xác thực.

Thời nay, người ta thậm chí còn dành nhiều định kiến cho các sắc tộc bản địa. Điều đó cũng xuất phát từ việc lười tìm hiểu, thích áp đặt định kiến. Nhưng nếu có ai đó muốn tìm hiểu về những sắc tộc bản địa ở Tây Nguyên để thoát khỏi định kiến của mình thì cuốn sách này thật phù hợp.

Đây là một cuốn sách mẫu mực về dân tộc học, nhưng bạn đừng vội lo rằng nó khô khan hay khó hiểu. Lật từng trang sách, bạn sẽ thấy cách truyền tải của tác giả rất lôi cuốn, như thể đưa bạn đi từng bước một vào những ngôi làng Ba-na sống động, đến với trái tim và tinh thần của tộc người bản địa này.

Nội dung chính của sách chỉ khoảng 160 trang, bạn có thể đọc xong cuốn sách chỉ trong một ngày. Sách được chia ra làm hai phần.

Phần thứ nhất giới thiệu chung về địa lý, dân cư, chính trị và kinh tế của tỉnh Kon Tum. Một trong những ấn tượng của tôi trong phần này là tác giả tường thuật lại việc người Việt đã bắt đầu sinh sống ở Kon Tum như thế nào.

“Ở trên Kon Tum, người Annam ta lên sinh cơ lập nghiệp đã 85 năm nay [khoảng năm 1848]. Đường rừng là nơi ma thiêng nước độc, có mấy ai dám mạo hiểm. Chỉ vì đời vua Tự Đức, Triều đình bắt đạo riết quá, có một nhóm người giáo dân theo các cha cố lên Kontum lánh nạn”.

Tác giả thuật lại về cách ăn mặc của những người Việt ở Kon Tum: “Người Huế vẫn ăn bận theo lối Huế, đàn bà thường bận áo mùi [áo màu], quần trắng, tóc vấn, đội nón Kinh. Người Bình Định thì bận áo quần lĩnh hay vải thâm, tóc búi, bịt khăn xéo, cột múi ra trước trán hay sau gáy, đội nón Gò Găng”.

Trong phần thứ hai, tác giả đưa người đọc vào thế giới sống động của người Ba-na vốn được tổ chức thành từng làng, “mỗi làng Bahnar là một tiểu quốc gia hoàn toàn độc lập, không phục tùng dưới quyền thống trị nào khác”.

Trong phần thứ hai này, bạn sẽ được chứng kiến những triết lý tín ngưỡng đặc sắc của người Ba-na như về các vị thần, nhờ thần chỉ chỗ để phát rẫy, giao tế với thần linh hay quan niệm của họ về sở hữu vật chất.

“Người Bahnar cũng tin số mạng như người Annam ta; họ gọi là ai hay là Pun ai… Bởi vậy cho nên người Bahnar không bao giờ làm một cái nhà quá to, phát một đám rẫy quá rộng; ông bà làm sao con cháu cứ làm vậy.”

Bạn cũng có thể ngạc nhiên khi biết rằng người Ba-na không có nhà tù, “hình phạt chỉ có hai phép này: pơsơru (bồi thường) và pơkra (tạ lỗi)”. Đó là luật tục của các sắc tộc Tây Nguyên mà người Pháp từng cho phép thành lập các tòa án phong tục dành riêng cho người Thượng.

Nội dung của phần thứ hai còn có các vấn đề khác được trình bày chi tiết như cách tổ chức đời sống của người Ba-na, nhiều chi tiết rất thú vị như cách họ đối xử với đầy tớ.

“Annam ta nuôi đầy tớ thì trăm công, nghìn việc đều giao cho nó cả. Người Bahnar thì không thế. Theo tục họ, công việc đàn ông, đàn bà khác nhau, đứa đầy tớ cũng được hưởng quyền phân chia ấy. Cho nên khi bà chủ đương vất vả nấu cơm nước trong bếp thì anh đầy tớ trai cứ việc chơi bời lêu lổng ngoài đường và chờ cơm chín về đánh chén.”

Bạn đọc cũng sẽ được tìm hiểu về hệ thống kinh tế tuy đơn sơ trông có vẻ nghèo khổ ấy nhưng lại rất bền vững, nương tựa vào thiên nhiên. Phần cuối cùng của cuốn sách là về các loại hình giải trí, nghệ thuật, các câu đố, các tiếng của người Ba-na được phiên dịch sang tiếng Việt.

Trước khi đọc sách, bạn đọc nên lưu ý rằng đây là một quyển sách mà khi xuất bản 89 năm trước, tác giả đã viết rằng: “Một điều phải nói ra đây ngay là phong tục kê cứu ở trong sách ‘Mọi Kontum’ này là tục lệ xưa của người Bahnar. Chớ ngày nay, chịu ảnh hưởng của người ngoại quốc nên ở xứ họ, về hình thức cũng như về tinh thần, họ đã cải cách nhiều ít.”.

Nhưng đó cũng chính là một điều thật giá trị. Từ lịch sử của Ba-na, chúng ta có thể lần mò về thời hiện tại, họ đã thay đổi như thế nào, trải qua những biến cố nào. Nhà xuất bản Trẻ đã tái bản cuốn sách này vào năm 2018, bạn đọc có thể tìm mua tại các nhà sách.

Nhân đây cũng xin giới thiệu một số bài viết trên Luật Khoa về đề tài Tây Nguyên đã thay đổi như thế nào trong gần một thế kỷ qua sau hàng loạt các biến cố chính trị:

Biếm: Ô, con nhớ bác ấy rồi!

Biếm: Ô, con nhớ bác ấy rồi!

Chu Mộng Long

5-9-2022

Thằng bé xem TV thấy hình ảnh một phạm nhân đứng trước tòa, nó thốt lên:

– Ô, con nhớ bác ấy rồi!

Mẹ ngạc nhiên:

– Bác ấy là tội phạm, con gặp bác ấy khi nào?

Thằng bé đáp giọng hân hoan:

– Bác ấy dự lễ khai giảng đầu năm học. Bác ấy phát biểu xong thì đánh trống tùng tùng tùng…

Bố cũng tham gia vào chuyện:

– Bác ấy phát biểu gì vậy con?

Thằng bé hào hứng kể:

– Bác ấy nói dài lắm. Chúng con ngồi nghe đến nóng đ*t. Con chỉ nhớ bác ấy khuyên dạy tốt học tốt…

Mẹ cắt ngang:

– Ừ, bác ấy khuyên con học tốt để không phải đi tù như bác ấy…

Thằng bé trố mắt:

– Ơ, vậy là bác ấy học dốt mới được làm lãnh đạo hả mẹ?

Mẹ bị hỏi bất ngờ nên không biết trả lời sao. Bố thấy lạc đề, bèn định hướng vào vấn đề:

– Bác ấy còn khuyên gì nữa?

Thằng bé tiếp tục bài kể của nó:

– Bác ấy còn khuyên cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư. Con nghe chả hiểu gì cả.

Bố giải thích:

– Cần là cần cù, siêng năng, không lười biếng. Kiệm là tiết kiệm, không lãng phí. Liêm chính là tự trọng, không để người khác khinh. Chí công vô tư là không ăn cắp tài sản chung hoặc của người khác.

Mẹ nguýt bố:

– Giải thích như vậy thì thằng bé làm sao hiểu được?

Thằng bé cãi mẹ:

– Con hiểu rồi! Là bác ấy khuyên người khác siêng năng để bác ấy độc quyền lười biếng, khuyên người khác tự trọng để bác ấy độc quyền vô liêm sỉ, khuyên người khác không ăn cắp để bác ấy độc quyền ăn cắp. Vậy mà cả trường con vỗ tay to hơn tiếng trống. Thầy hiệu trưởng vỗ tay to nhất, lại còn hứa tiếp thu huấn thị của bác ấy đấy!

Mẹ mắng:

– Ranh con! Phản động!

Thằng bé nhăn mặt:

– Vậy thì… vỗ tay ủng hộ sự ngu dốt, tham lam, ăn cắp là không phản động hở mẹ?

Bố cười và lại định hướng lần nữa:

– Bố nghĩ, không phải thầy hiệu trưởng tiếp thu lời huấn thị mà hứa học tập và làm theo gương bác ấy. Chắc chắn thầy hiệu trưởng có trao phong bì và mời bác ấy nhậu để bày tỏ sự biết ơn. Vậy con có học tập và làm theo gương bác ấy không?

Thằng bé chống cằm đăm chiêu rồi nói:

– Trường con ghi khẩu hiệu: Học để làm người, học để làm việc, và học để làm cán bộ. Con chả biết học theo cái nào thì tốt hơn? Nhưng được dạy người khác, được đánh trống khai giảng, được nhận phong bì và được mời ăn nhậu là oách lắm đấy!

Cuộc Đời Này Thật Đáng Sợ – Đào Văn Bình

Van Pham

Cuộc Đời Này Thật Đáng Sợ

Đào Văn Bình

– Nếu biển rộng như thế nào thì nỗi khổ của con người bao la như thế.

– Nếu lá trên rừng nhiều như thế nào thì nỗi lo, nỗi sầu, nỗi buồn của con người nhiều như thế.

– Nếu vũ trụ vô biên như thế nào thì lòng tham của con người vô bờ bến như thế.

– Nếu hỏa diệm sơn, núi lửa hay cháy rừng, phóng xạ khủng phiếp như thế nào thì lòng hận thù, ghét bỏ, kỳ thị của con người còn còn khủng khiếp hơn. Cháy rừng, núi lửa, phóng sạ chỉ ở một vùng, còn hận thù, ghét bỏ, kỳ thị vì có internet, twitter, facebook, nếu được các giáo sĩ rao giảng, lãnh đạo kích động sẽ lan rộng toàn cầu.

– Loài vật không biết phân biệt đúng-sai cho nên bị con người nói là ngu hay đồ súc vật. Thế nhưng con người nhiều khi chẳng biết phân biệt đúng-sai, chánh-tà, thiện-ác mà hành động theo cảm tình yêu-ghét và vì quyền lợi. Nếu họ yêu, sai cũng thành đúng, phi lý cũng thành chân lý. Nếu ghét thì đúng cũng thành sai, đẹp cũng thành xấu. Xâm lược, thực dân trở thành “Khai sáng văn minh”.

– Sông hồ, biển cả và sâu như lòng đất còn có thể dò được nhưng lòng người không sao dò và biết được. Người ta đã phát minh ra máy khám phá nói dối. Nhưng chưa nhà bác học nào có thể phát minh ra máy để biết được đó là con người nham hiểm, lường gạt, gian trá, độc ác. Tướng học dù là bậc tôn sư cũng chỉ là “Ăn ốc nói mò”.

Không ai, kể cả thánh thần cũng không hiểu nổi lòng dạ con người.

– Đồng ý hữu thân hữu khổ.

– Có những nỗi khổ do thiên nhiên mà có như Sinh-Lão-Bệnh-Tử.

– Nhưng Hằng Hà sa số nỗi khổ khác do chính con người gây tạo ra cho mình hay cho người khác.

– Chiến tranh do con người tạo ra hay do thần linh tạo ra? Nếu do thần linh tạo ra thì thần linh quá hung ác.

– Khủng hoảng kinh tế do tham vọng và quản trị kém hay do ma đưa lối quỷ đưa đường, hay do thần linh muốn thế?

– Con người là con vật gian trá như Tuân Tử nói, “Nhân chi sơ tính bổn ác”.

– Ăn mặc sang trọng, đẹp đẽ, đi xe sang làm tổng giám đốc vài công ty nhưng cuối cùng lại là siêu lừa.

– Đẹp trai, hào hoa, Việt kiều từ ngoại quốc về kiếm vợ cuối cùng lừa một mớ bạc rồi chuồn mất.

– Đưa hình chỉnh sửa lên facebook đẹp như tài tử, người mẫu, cùng những lời đường mật dễ thương, mồi chài làm quen. Khi cá đã cắn câu rồi thì, nào là em cần tiền để lo hộ chiếu xuất cảnh qua đó gặp anh. Rồi nào là ba má em đau, em trai cần tiền vào đại học. Anh chàng có tiền nhưng dại khờ, gửi cả trăm ngàn đô-la cho nàng. Gửi tiền xong không sao liên lạc được nữa. Thế là mất công về Việt Nam trình công an nhờ truy lùng. Nhưng con chim một khi đã cao chạy xa bay, làm sao tìm được?

– Nâng ly cười nói hả hê trong bàn nhậu, bỗng dưng rút dao đâm chết bạn chỉ vì một lời nói hay cử chỉ gì đó. Một trăm bàn nhậu thì chín mươi là thảm họa. Nguyên do chỉ vì ngu si và thiếu học, coi vài ba con khô mực, đĩa lòng heo, vài ba miếng thịt bò, vài lon bia hơn cả hạnh phúc gia đình và tính mạng của mình. Thế mới hay khi nóng giận, tự ái và ngu si thì không chuyện gì trên đời là không dám làm.

– Đam mê cũng là thảm họa dù là đam mê thể thao, đá bóng. Đã có lúc đội túc cầu Ba Tây thua trong giải Túc Cầu Thế Giới phải trốn không dám về nước vì bị đe dọa giết.

– Bạo lực súng đạn lan tràn khủng khiếp! Chẳng còn nơi nào an toàn dù là trường học, nơi thờ phượng, chỗ vui chơi hay ngày lễ của quốc gia. Xác người nằm đó, các chính trị gia tới đọc diễn văn sụt sùi phân ưu để kiếm phiếu rồi đó đâu vẫn hoàn đó, không một giải pháp chữa trị. Các lobbyists đã bịt miệng các nhà lập pháp cả rồi. Thế mới hay tiền bạc, chức vụ đã là cho lương tâm mù tối. Như cụ Nguyễn Gia Thiều đã từng kêu than, “Gót danh lợi bùn pha sắc xám.” (Cung Oán Ngâm Khúc)

– Vợ chồng ngày hôm nay còn âu yếm, anh anh, em em, ngày mai đã đưa nhau ra tòa ly dị. Đó là may lắm đó, nếu không sẽ tìm cách giết nhau. Ai dám bảo yêu là hạnh phúc hay chính nó là cội nguồn của tai họa và khổ đau?

– Âm mưu thâm độc mua bảo hiểm nhân thọ, giết vợ hay giết chồng để lấy tiền và vui vầy duyên mới. Yêu tinh trong Tây Du Ký giả làm người lương thiện rồi bắt ăn thịt người cũng kinh khiếp như vậy thôi.

– Con nhà gia thế ở Washington DC giết cả bố mẹ để đoạt gia tài.

– Anh em ruột giết nhau chỉ vì nửa tấc đất hàng rào giữa hai bên.

– Vi túng thiếu tìm cách giết cô giáo cũ của mình để lấy tiền tiêu xài.

Ôi cuộc đời này tưởng như êm đềm phẳng lặng nhưng nó là một hầm chông bao la và bom mìn nổ chậm với bao lừa lọc và gian dối. Nó như biển cả mênh mông với ngàn vạn đợt sóng ngầm mà lòng người không sao biết hết. Giây phút này là kẻ hiền lành, giây phút sau đã là người hung dữ. Giây phút này nói lời thánh thiện, giây phút sau đã là kẻ gian tà. Bề ngoài thánh thiện, bên trong là quỷ râu xanh!

– Đôi chim nương cánh nhau suốt đời mà chẳng bao giờ cãi nhau, ly dị hay giết nhau.

– Cứ nhìn vào con số ly hôn trên thế giới mà kinh khiếp. Vợ chồng đã yêu nhau sao không thể sống chung với nhau? Sao không thể “chín bỏ làm mười” và nhường nhịn nhau?

– Với cuộc sống mỗi lúc mỗi khó khăn hơn, rồi đây con người sẽ hết tin người. dù là cha con, anh em, bè bạn, chồng vợ. Cuộc đời này thật đáng sợ!

Đạo Phật không nhìn cuộc đời này là một màu hồng đầy ân sủng do thần linh ban tặng, chỉ cần dâng cúng cho giáo sĩ và cầu nguyện là có tất cả. Đạo Phật nhìn cuộc đời này là một màu đen đầy khổ lụy. Rồi từ Đạo Để mà chuyển màu đen thành màu hồng. Đạo Phật khởi nguyên từ Khổ Đế. Khi đã nhận biết “Đời là bể khổ bến mê” rồi từ Đạo Đế mà giải thoát, rồi tiến tới Niết Bàn.

– Nếu có Phật tánh thì con người trở nên tốt đẹp và thế giới sẽ yên bình. Tham-Sân-Si-Mạn-Nghi-Ác Kiến làm con người trở nên ngu si và hung ác và thế giới này sẽ là địa ngục, đúng như Nhà Lửa Tam Giới Phật dạy trong Kinh Pháp Hoa.

Bạn ơi,

Càng sống, càng ngẫm nghĩ càng sợ hãi cuộc đời này.

Kiếp sau xin chớ làm người,

Làm cây thông đứng giữa trời mà reo. (Nguyễn Công Trứ)

Chính vì thế mà bao người bỏ cả gia đình, của cải danh vọng, quyền thế nương nhờ của Phật để có cuộc sống yên bình.

Nhưng không phải ai cũng có thể làm như vậy. Chúng ta vẫn cần và còn nợ thế gian này.

Hủy hoại thân để tìm một thiên đường ảo ảnh là ngu dại.

Chúng ta vẫn còn phải sống với thân tứ đại giả tạm này.

Nhưng sống mà tỉnh thức.

Mà muốn tỉnh thức thì phải luôn luôn giữ gìn chánh niệm.

Giữ gìn chánh niệm là xa lánh kẻ hung ác,

Xa lánh những nơi ăn chơi tụ họp đông người.

Xa lánh những chốn mưu danh đoạt lợi.

Cảnh giác với những lời hứa ngọt ngào.

Cảnh giác với sắc đẹp trên twitter, facebook mà chưa hề biết tung tích, gia đình và lý lịch ra sao.

Cảnh giác với những mối lợi bỗng nhiên mà có.

Muốn thế giới yên lành, mình phải không làm chuyện xấu.

Muốn không có chiến tranh mình phải yêu chuộng hòa bình.

Muốn người ta thiện lương mình phải là kẻ thật thà trước đã.

Nói người ta ngu si mình phải luôn luôn học hỏi và khiêm tốn.

Và phải thường xuyên sám hối.

Bạn ơi,

Giữa cuộc đời đầy biến động, lọc lừa và hung dữ này,

Để có an vui và tránh bớt hiểm nguy,

Chúng ta cần giữ gìn chánh niệm.

Mà chánh niệm không gì bằng tu theo Bát Chánh Đạo mà Tây Phương gọi là Noble Eightfold Path.

Quý trọng thân này mà không hủy hoại nó theo rượu chè, ma túy hoặc phiêu lưu vào những trò chơi nguy hiểm . (Chánh Mệnh)

Tìm nghề nghiệp chân chính và không đầu cơ, buôn gian bán lận. (Chánh nghiệp)

Suy nghĩ chín chắn trước khi hành động. (Chánh Tư Duy)

Có cái nhìn chân thực, không kỳ thị, bè phái, thương ghét (Chánh Kiến)

Luôn nói lời thơm thảo, hòa vui. Không nói lời đâm thọc, làm chứng gian. Không phổ biến những tin tức xấu (Chánh Ngữ)

Luôn luôn học hỏi, cầu tiến và không than thân trách phận. (Chánh Tinh Tấn)

Luôn luôn nhớ nghĩ tới điều lành, cuộc sống này vô thường và mọi chuyện diễn ra chỉ trong chớp nhoáng rồi qua đi. Thâm tân an lạc là quý chứ chưa hẳn tiền tài danh vọng. (Chánh Niệm)

Luôn luôn giữ đầu óc an tĩnh, không bị cuốn hút hay nhiễu loạn bởi những gì xảy ra chung quanh (Chánh Định)

“Dù ai nói ngả nói nghiêng.

Ta đây vẫn vững như kiềng ba chân”.

Phật Hoàng Trần Nhân Tông đã nói, “Cư trần lạc đạo” tức sống ở cõi đời ô trọc này mà vui với ánh đạo – chứ không phải vui với những trò nhố nhăng, hư ảo của cuộc đời. Khi không mê luyến vào những trò nhố nhăng và hư ảo của cuộc đời bạn sẽ an vui, tự tại và giải thoát.

9 MÓN ĂN TRƯỜNG THỌ MÀ NGƯỜI NHẬT RẤT THÍCH

9 MÓN ĂN TRƯỜNG THỌ MÀ NGƯỜI NHẬT RẤT THÍCH

  1. Mướp đắng
  2. Đậu hũ
  3. Khoai Lang
  4. Tỏi
  5. Nghệ
  6. Gạo Lứt
  7. Trà Xanh
  8. Nấm
  9. Rong biển

10% tuổi thọ được xác định bởi gen và 90% phụ thuộc vào lối sống bao gồm cả chế độ ăn uống.

Dan Bitner, một nhà nghiên cứu từ Hiệp hội Địa lý Quốc gia và Viện Lão hóa Hoa Kỳ, đã nghiên cứu trong hơn 10 năm và dần dần tiết lộ bí mật của sự khỏe mạnh và trường thọ.

Theo bảng xếp hạng tuổi thọ trung bình của tất cả các quốc gia trên thế giới do Tổ chức Y tế Thế giới công bố năm 2019, Nhật Bản đứng đầu với độ tuổi trung bình là 83,7, nữ là 86,8 và nam là 80,5. Tuổi thọ trung bình ở Nhật Bản đạt mức cao kỷ lục đối với cả nữ giới và nam giới vào năm 2020, lần lượt là 87,74 tuổi và 81,64 tuổi.

Trong cuốn sách “Làm sao để sống thọ 100 tuổi”, chế độ ăn của người Nhật cũng được giới thiệu là một trong những chế độ ăn trường thọ. Tác giả đã gặp những người lớn tuổi ở Okinawa của Nhật để tìm hiểu về thói quen ăn uống của họ.

Một bữa ăn truyền thống của người Okinawa sẽ bắt đầu với món súp miso kiểu Okinawa, bao gồm rau biển, đậu phụ, khoai lang và rau xanh. Món chính là các loại món Okinawa, mướp đắng, củ cải trắng, mướp, bí đỏ, củ ngưu bàng, hoặc đu đủ xanh. Đôi khi, như một món ăn phụ, cá, thịt hoặc mì được chế biến kèm các loại thảo mộc và gia vị.

Đặc biệt, các loại thực phẩm trường thọ thường được người Okinawa sử dụng hàng ngày là:

  1. Mướp đắng

Mướp đắng thường được xào cùng với các loại rau khác, là món ăn không thể thiếu trong khẩu phần của người Okinawa. Các nghiên cứu đã phát hiện ra rằng, mướp đắng có tác dụng chống lại bệnh tiểu đường mạnh mẽ, đem tới hiệu quả tương đương với các loại thuốc hạ đường huyết.

Bên cạnh đó, mướp đắng cũng như khoai lang, nghệ và rong biển… đều có chứa các dưỡng chất làm chậm quá trình tạo ra các gốc tự do ăn mòn.

  1. Đậu hũ

Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, những người ăn thực phẩm giàu protein thay thế thịt như đậu hũ sẽ có mức cholesterol và chất béo trung tính thấp hơn, có thể làm giảm nguy cơ mắc bệnh tim. Loại thực phẩm này cũng cung cấp chất béo, carbs, axit amin và nhiều loại vitamin, khoáng chất cơ thể cần.

  1. Khoai lang

Khoai lang ở Okinawa là một loại khoai lang tím, củ lớn, có chứa chất chống oxy hóa mạnh nên thường góp phần quan trọng trong quá trình chống lão hóa. So với các loại khoai lang khác, hàm lượng chất chống oxy hóa này trong khoai lang tím cao hơn.

  1. Tỏi

Tỏi là một trong những loại thuốc tự nhiên mạnh nhất mà rất dễ tìm. Người Okinawa sử dụng chúng trong hầu hết các món ăn mỗi ngày.

Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, ăn tỏi có thể ngăn ngừa hoặc giảm tỷ lệ mắc các bệnh mãn tính liên quan đến lão hóa, chẳng hạn như xơ vữa động mạch, đột quỵ, ung thư, rối loạn chức năng miễn dịch, lão hóa não, viêm khớp và đục thủy tinh thể…

  1. Nghệ

Nghệ là “anh em họ” của gừng, có màu vàng, xuất hiện thường xuyên trong các bữa ăn của người Okinawa, có thể dùng làm gia vị hoặc pha trà. Nghệ có tác dụng chống ung thư, chống oxy hóa và chống viêm mạnh.

  1. Gạo lức

Ở Okinawa, người trăm tuổi vẫn ăn cơm hàng ngày và gạo lứt cũng là một sự lựa chọn phổ biến của họ. Từ quan điểm dinh dưỡng, gạo lứt tốt cho khả năng miễn dịch, hệ tiêu hóa, giúp tăng cường sức khỏe tim mạch và kiểm soát bệnh tiểu đường rất tốt. Người dân địa phương sẽ ngâm gạo lứt trong nước và đợi cho đến khi gạo nở ra để giải phóng các enzym có thể phân hủy đường và protein, giúp gạo ngọt và mềm hơn.

  1. Trà xanh

Một loại trà xanh đặc biệt mà người Okinawa uống được gọi là “trà hoa”, có nghĩa là “trà có hương thơm”. Loại trà này được pha chế từ hoa lài, thường có thêm một chút nghệ. Các axit amin và chất chống oxy hóa dồi dào trong trà xanh có nhiều tác dụng tích cực đối với sức khỏe tổng thể.

  1. Nấm

Người Okinawa sử dụng nhiều loại nấm bổ dưỡng để nấu súp miso, hoặc thêm vào nhiều món ăn. Nhiều loại nấm còn được gọi là một “nhà máy dinh dưỡng thu nhỏ” vì rất giàu vitamin bao gồm acid pantothenic (B5), niacin (B3) và riboflavin (B2), bên cạnh đó là các kim loại như đồng và selen… Ngoài ra nấm còn là nguồn bổ sung hoàn hảo protein, chất xơ, kali,vitamin D, canxi và nhiều vi chất cần thiết cho cơ thể khác nữa.

Loại thực phẩm tự nhiên này có đặc tính kháng khuẩn, góp phần tăng cường hiệu quả của hệ thống miễn dịch và giảm nồng độ cholesterol trong máu. Thường xuyên sử dụng nấm còn có thể phòng ngừa và điều trị một số bệnh như Parkinson, Alzheimer, tăng huyết áp và ung thư.

  1. Rong biển

Rong biển là loại rau biển được ăn phổ biến nhất ở Okinawa, thường có mặt trong nhiều món súp và món hầm. Rong biển rất giàu khoáng chất và các nguyên tố vi lượng. Trên thực tế, nó thường chứa hàm lượng các chất dinh dưỡng này cao hơn hầu hết các loại thực phẩm khác.

Rong biển thường chứa nhiều chất chống oxy hóa cùng dinh dưỡng như Carbs, chất béo, magie, vitamin K, mangan, iot, natri, canxi, folate, kal, sắt… Nó cũng chứa một lượng lớn polysacarit sunfat (sPS), là những hợp chất thực vật có lợi được cho là góp phần mang lại lợi ích cho sức khỏe.

Nhờ thường xuyên sử dụng loại rau biển này, người Nhật có thể cải thiện sức khỏe tim mạch, ổn định lượng đường trong máu hiệu quả. Chức năng tuyến giáp đóng vai trò điều hòa quá trình trao đổi chất cũng được tăng cường và thúc đẩy.

From: TRUONG LE

Nguyên Ngọc- Sổ tay thường dân- Tưởng Năng Tiến

Nguyên Ngọc

Nếu chưa đọc hồi ký Lời Ai Điếu thì e khó mà biết được nỗi niềm mà Nguyên Ngọc (N.N) đã tâm sự với tác giả Lê Phú Khải về cuộc cách vô sản ở VN: “Chúng ta sai từ thời đại hội Tours”!

Giai thoại này – may thay – vừa được thi sĩ Thái Bá Tânvt thuật lại, một cách rất gẫy gọn, bằng những câu ngũ ngôn (quen thuộc) của ông:

Một nhóm mười trí thức
Được bà Nguyễn Thị Bình
Mời đến chơi, nói chuyện,
Kiểu thân mật gia đình.

Giữa chừng, bà chợt hỏi,
Không khỏi không bất ngờ:
Theo các anh, nói thật,
Ta sai từ bao giờ?

Hầu hết mọi người nói
Thưa chị, chúng ta sai
Từ Một Chín Năm Mốt,
Tức từ Đại Hội Hai,

Khi đảng quyết định lấy
Chủ nghĩa Mác – Lênin
Tư tưởng Mao Chủ Tịch
Làm đường lối của mình

Còn Nguyên Ngọc thì nói,
Mọi người nghe, tưởng đùa:
Chúng ta sai, thưa chị,
Từ thời Đại Hội Tours!

Bà Bình không đồng ý.
Nhưng ngay sáng hôm sau
Tự đến tìm Nguyên Ngọc,
Rồi nói, vẻ buồn rầu:

Hôm qua chị không ngủ,
Nằm suy nghĩ suốt đêm,
Và buộc phải thừa nhận,
Chị đồng ý với em!

Tuy chị đã “suy nghĩ suốt đêm” và “đồng ý với em” như thế nhưng trong cuộc phỏng vấn dành cho phóng viên Xuân Hồng (BBC) vào hôm 13 tháng 10 năm 2008, bà Bình lại nói khác: “Tôi không có sai lầm gì hết. Con đường mình đi hoàn toàn đúng, chỉ có là một số việc mình đã có thể làm tốt hơn để đóng góp công việc chung.”

Tôi chưa bao giờ có chút kỳ vọng nào vào những chính khách tầm cỡ (cỡ) như Nguyễn Thị Bình nên chả thất vọng chi, và cũng không phiền trách gì, về thái độ (bất nhất) của họ. Thứ người cố đấm ăn xôi này thì ở đâu, và thời nào, cũng thế. Chả thế mà bà Bình có thể yên vị trên cái ghế Phó Chủ Tịch Nước đến cả chục năm (1992 – 2002) dù chỉ ngồi để làm cảnh chơi thôi, chứ có “đóng góp” được gì đâu!

Thế còn N.N?

Với cá nhân tôi, ông là người hoàn toàn đặc biệt và ngoại lệ: một nhà văn lớn được rất nhiều bạn đồng nghiệp/ bạn đọc nể trọng và ái mộ về tài năng cũng như tư cách. Trong cái đám đông độc giả vô danh này; riêng tôi, còn có sự kính mến cùng quí trọng (cách riêng) vì mối hảo cảm chứa chan mà ông vẫn luôn luôn dành cho đất và người miền núi 

  • Tôi yêu Hà Giang, Lũng Phìn, Mèo Vạc, Đồng Văn, Yên Minh, Cán Tỷ, Mậu Duệ… là thơ chứ không phải đời thật.”
  • Các dân tộc Tây Nguyên đã cấy trồng trên đất đai núi rừng của mình một nền văn hóa lớn, cực kỳ độc đáo và đặc sắc, lâu đời và bền vững.”

Tôi sinh trưởng tại Cao Nguyên Lâm Viên nơi mà những sắc dân bản địa vẫn phải gánh chịu rất nhiều thua thiệt (về mọi mặt) chỉ vì chút thiên kiến, cùng đầu óc  chủng tộc hẹp hòi (ethnocentric minds ) của nhiều kẻ ở miền xuôi. Họa hoằn mới có một vị thức giả ở tuốt luốt dưới miền duyên hải (xa xôi) nhưng vẫn nhìn nhận đám dân sơn cước chúng tôi là đồng bào thiệt – như N.N.

Bởi vậy, hỏi sao mà tôi không “kết” (và không “mết”) cái ông Già Làng Tây Nguyên này chớ!

Ấy vậy mà khi có dịp được gặp gỡ nhân vật mà mình ái mộ, tôi lại ứng xử rất vụng về nên đã làm hư bột/ hư đường (ráo trọi) cái cơ may hạn hữu này. Bữa đó, tôi lái xe một mạch suốt 6 tiếng từ Bắc xuống Nam – California.

Đến thành phố Wesminster, tôi chợt nhớ đến Hoàng Khởi Phong nên tắp vô nhà ổng luôn. Ai dè Nguyên Ngọc lại đang có mặt ở Hoa Kỳ, và cũng ở tại đó. Tôi mời hai ông anh đi ăn cơm tối, và cả hai đều vui vẻ nhận lời ngay.

Thay vì chạy lòng vòng, kiếm một tiệm ăn thanh lịch để đãi khách quí tự phương xa, tôi vì quá vã (suốt từ sáng tới đến chiều chưa được nhấp môi một giọt rượu hay giọt bia nào mà) nên tắp đại vào một cái quán nằm ngay trong khu Bolsa (Quán Bình Dân) ở góc đường Brookhurst và Mc Fadden.

Tôi đã tạt vô đây vào giấc trưa, với Nguyễn Nam An, mấy lần rồi. Đúng như tên gọi, quán bình dân thật (và bình dân lắm, hay nói cho đàng hoàng và rõ ràng hơn là khá bầy hầy) nhưng được cái là giá bia tương đối nhẹ nhàng và mọi món nhậu đều trên trung bình cả. Chỉ có điều không ngờ là tối cuối tuần nó lại đông đúc và ồn ào quá cỡ (thợ mộc) như vầy.

Chúng tôi “may mắn” còn kiếm được một cái bàn trống nhỏ xíu xiu trong góc. Tiệm chật, khách đông. Mặt ai cũng đỏ gay, và tất cả đều chửi thề tới tấp. Không khí sinh động và náo nhiệt đến độ mà ngay cả một người thường hay ăn to nói lớn (cỡ) như anh Hoàng Khởi Phong mà cũng phải tắt đài – ngồi im ru bà rù – chớ chả nói được tiếng nào sất cả, nửa tiếng cũng không!

N.N rất … cool, tuy hơi trầm lắng nhưng luôn nhỏ nhẹ và chả tỏ vẻ gì là khó chịu. Phần tui thì đâu cũng được, sao cũng OK, miễn là có tí “cồn” là ça va tout. Cho đến khi nhìn thấy ông nhà văn mà mình yêu quí trệu trạo nhai khúc dồi trường, rồi ngần ngại xêu thử vài cọng bún giả cầy thì tôi bắt đầu … vô cùng ân hận!  

Cùng lúc, tôi mới chợt nhớ ra là dân Quảng (bất kể Quảng gì: Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quảng Trị, Quảng Bình, Quảng Tín ….) có mấy ai ưa tiết canh và lòng lợn? Nghe nói họ nhất định chỉ ăn đồ biển (tôm, cua, cá, mực, ghẹ, sò …) thôi hà. Mà Orange County thì có thiếu chi những nhà hàng trang nhã, lịch sự, ngon lành, chuyên trị cá bẩy món (hay lẫu hải sản) và tôi là cái thứ cơm hàng cháo chợ quanh năm, chớ nào có phải loại thường dân!

Từ chiều hôm đó, tôi cứ áy náy hoài về sự vô tâm/vô tính của mình cho mãi đến chiều nay. Nay, vừa có dịp được nỗi lòng (xong) nên cũng cảm thấy đôi phần nhẹ nhõm. Ngoài “tâm sự” này, tôi lại còn chút xíu “tâm tư” nữa cũng xin phép được thưa luôn (N.N đã bước vào tuổi cửu tuần, và tôi cũng đã thất thập rồi) chớ để lâu nữa thì sợ rằng … không tiện!

Sau cái bữa ăn chiều lãng xẹt ở khu phố Bolsa, có hôm, tôi tình cờ đọc được đôi câu trong thiên hồi ký (“Những Ngày Lang Thang”) của N.N rồi cứ băn khoăn mãi:

“Tôi thương Xuân Vũ. Anh ấy là một con người cực kỳ cảm tính, dễ cực đoan, dễ sai lầm, cả những sai lầm chết người, và là người ít gặp may trong đời.… Sau này trong chiến tranh chống Mỹ miền Nam Xuân Vũ đã rẽ đi một con đường khác. Tôi có nghe Nguyễn Quang Sáng kể lại chuyện ấy. Đáng giận, đáng buồn, và cũng đáng thương. Cũng là một cuộc đời!”

Ủa! Tại sao vậy kìa?

Sao Xuân Vũ “rẽ đi một con đường khác” lại là chuyện “đáng giận, đáng buồn, và cũng đáng thương” – hả Trời? Riêng về điểm này, quan niệm của N.N (xem ra) cũng chả khác chi với bà chị Nguyễn Thị Bình.

Trong cuộc phỏng vấn (thượng dẫn) với BBC, khi được hỏi “về hoạt động ‘ngoài luồng’ thời trẻ của mình với những người bất đồng chính kiến gần đây như luật sư Lê Thị Công Nhân,” bà Bình đã “nhấn mạnh” rằng: “Những việc làm của họ (những người đấu tranh chính trị) trong tình hình này không đem lại lợi ích cho đất nước.”

Như đã thưa, tôi không chấp với bà Nguyễn Thị Bình nhưng với N.N thì lại là chuyện khác. Cả hai đều nhận rằng mình đã sai ngay từ khi bước chân vào con đường cách mạng (vô sản) nhưng lại không chấp nhận một lựa chọn nào khác của tha nhân. Bà Bình chê ỏng, chê eo sự dấn thân và hy sinh của những người bất đồng chính kiến hiện nay là “không đem lại lợi ích cho đất nước.” Còn N.N thì chỉ “nghe Nguyễn Quang Sáng kể lại chuyện” của Xuân Vũ thôi mà đã buông một câu (e) hơi khinh bạc: “Cũng là một cuộc đời!”

Thế cuộc đời của Xuân Vũ ra sao?

Xin nghe qua đôi lời gan ruột của chính người trong cuộc:

“Nỗi day dứt về quê hương và gia đình, cộng với những điều kỳ cục trong mấy năm dằng dặc trên đất Bắc làm cho tôi thấy mình đi lạc đường. Sống trong nước mình mà cứ tưởng nước ai. Do đó tôi quyết chí trốn về Nam, sống dưới gầm cầu cũng được.”

Sau khi “trốn về Nam,” Xuân Vũ gần như đã dành hết phần đời còn lại cho bút mực. Trang Văn Việt cho biết: “Tác phẩm của ông tổng cộng gồm 90 cuốn.” Trang Văn Hóa Việt Nam lại ghi nhận một con số khác: “Thư mục Xuân Vũ có ít nhất 60 tựa với 15000 trang giấy.” Sở dĩ có sự dị biệt này vì đôi khi Xuân Vũ viết trường thiên – nhiều tập – như Đường Đi Không Đến gồm 5 cuốn, với 5 cái tựa khác nhau.

Tôi không tin rằng N.N không hề để mắt đến “mười lăm ngàn trang giấy” này chỉ vì đó là những dòng chữ viết ngoài luồng (nơi những “vùng đất tạm chiếm”) nên không đáng được quan tâm. Chả những thế, tôi còn hy vọng rằng nay mai (có lúc) N.N sẽ đọc qua dăm ba tác phẩm của nhà văn Xuân Vũ, và sẽ viết lại đôi dòng – chín chắn hơn – về một người bạn văn (nay) đà khuất bóng!

K’ Tiên
9/2022