Phóng Viên Không Biên Giới: CSVN độc ác, tàn bạo vô giới hạn

Phóng Viên Không Biên Giới: CSVN độc ác, tàn bạo vô giới hạn

September 13, 2022

HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Tổ chức Phóng Viên Không Biên Giới (RSF) lên án nhà cầm quyền CSVN là “độc ác và tàn bạo vô giới hạn” về mặt nhân quyền.

Hôm Thứ Ba, 13 Tháng Chín, RSF chỉ trích bản án năm năm tù áp đặt lên đầu ông Lê Anh Hùng trong một phiên xử kín hồi cuối Tháng Tám vừa qua, bất chấp dư luận quốc tế.

Blogger Lê Anh Hùng trước khi bị bắt. Ông từng là cộng tác viên của Ban Việt Ngữ Đài Tiếng Nói Hoa Kỳ (VOA Tiếng Việt). (Hình: Hội Anh Em Dân Chủ)

Nhà cầm quyền CSVN trước khi kết án tù đã nhốt ông trong bệnh viện tâm thần suốt bốn năm. Không những vậy, nhiều khi còn cột chặt người ông xuống một chiếc giường nan sắt từ ngày này sang ngày khác vì ông không chịu uống thuốc tâm thần. Ông cả quyết với họ là đầu óc ông tỉnh táo, bình thường chứ không bị tâm thần, hoang tưởng như họ gán ghép.

Nhà cầm quyền CSVN, cũng như Trung Quốc và Nga hiện nay vẫn có thói quen nhốt những người bất đồng chính kiến vào bệnh viện tâm thần để trả thù cho những phát biểu làm chế độ độc tài tức giận. Nhốt người vào bệnh viện tâm thần vốn có từ thời nước Nga còn là đế quốc Cộng Sản ở thế kỷ trước.

Tuy coi ông là kẻ tâm thần nhưng lại đem ra tòa kết án. Khi kết án ông năm năm tù ngày 30 Tháng Tám vừa qua, lại ngang nhiên xử kín dù lúc nào chế độ cũng thông báo là “phiên tòa xét xử công khai.” Trong trường hợp ông Lê Anh Hùng, bà mẹ ông chỉ biết được có phiên tòa xử khi bà gọi điện thoại cho công an hỏi thăm về trường hợp của ông.

RSF kêu gọi báo cáo viên đặc biệt của Liên Hiệp Quốc về tra tấn và các hình thức tàn ác khác “hành động để bảo đảm 38 nhà báo độc lập có thể sống còn trong các nhà tù CSVN.”

Khi ông Lê Anh Hùng bị bắt năm 2018, Hà Nội cũng bắt nhà báo độc lập Đỗ Công Đương. Ông cũng bị vu cho tội “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ…” với bản án bốn năm tù. Sức khỏe của ông xấu đi nhanh chóng và không được chữa trị khi bị giam tại nhà tù ở huyện miền núi Thanh Chương, tỉnh Nghệ An, nên qua đời ngày 2 Tháng Tám, 2022.

Tại bản xếp hạng về tự do báo chí thế giới hằng năm, năm nay CSVN hạng 174 trên tổng số 180 nước được RSF thực hiện chấm điểm. Hà Nội luôn luôn nằm trong nhóm cuối bảng cùng với những nước Cộng Sản, độc tài hay quân phiệt, tôn giáo cuồng tín khác như Bắc Hàn, Trung Quốc, Cuba, Iran, Lào, Miến Điện…

Blogger Lê Anh Hùng bị trói cả người trên giường sắt ngày 16 Tháng Bảy, 2020, vì từ chối uống thuốc tại bệnh viện Tâm Thần Hà Nội. (Hình: Facebook Nguyễn Vũ Bình)

Ông Lê Anh Hùng là thành viên của hai tổ chức dân sự như Hội Anh Em Dân Chủ và Hội Nhà Báo Độc lập. Trước khi bị bắt, ông từng là cộng tác viên viết blog bình luận, phân tích các vấn đề thời sự chính trị tại Việt Nam.

Sự chỉ trích của ông hiển nhiên dẫn đến sự trả thù. Trong mấy năm liên tiếp, ông gửi hàng trăm đơn tố cáo ông Hoàng Trung Hải, ủy viên Bộ Chính Trị, có thời là phó thủ tướng, tội buôn lậu và làm gián điệp cho Trung Quốc.

Theo RSF, nhà cầm quyền CSVN lạm dụng hệ thống tư pháp để áp đặt các bản án nghiệt ngã nhằm trừ khử các nhà báo độc lập dùng mạng xã hội đả phá độc tài đảng trị. (TN) [qd]

Tại sao Việt Nam lại tệ như thế?

Tại sao Việt Nam lại tệ như thế?

14-9-2022

Cứ mỗi lần xem hình ảnh, hay tin tức về tổn thất kinh hoàng của quân đội Nga trong cuộc xâm lược Ukraine, tôi lại đặt ra câu hỏi: Vì đâu nên nỗi?

Cùng câu hỏi ấy, tôi cũng đặt ra khi xem tin tức về vụ 39 người Việt chết thê thảm trong thùng xe đông lạnh ở nước Anh.

Ký ức lại dắt tôi về câu chuyện mấy mươi năm về trước, khi tôi đi thăm hai người bạn ở Sofia, Bulgaria. Lúc ấy nước này đã không còn sự cai trị độc đảng của người cộng sản nữa. Đi giữa những phố phường cũ kỹ, rải rác những “di tích” bê tông xấu xí thời cộng sản (lăng Dimitrov chẳng hạn), Milene, bạn tôi cứ nhiếc móc thậm tệ người … Nga, những kẻ mà theo họ đã gây ra sự èo uột của nước Bulgaria mấy mươi năm.

Tôi bèn thử phản biện: Này, tôi thấy các bạn không công bằng, cái gây ra khổ nạn cho Bulgaria là chế độ cộng sản Soviet, chứ đâu phải người Nga. Họ cũng chịu nạn cộng sản như các bạn vậy? Tôi thấy người Nga họ cũng dễ mến mà!

Milene nhìn sững vào tôi: Họ có thể dễ mến, nhưng họ ngu ngốc quá, cứ để cho cái bọn độc tài nó đè đầu cưỡi cổ, từ Sa hoàng, cho đến Lenin, Stalin…

Tôi không bao giờ quên câu mắng nhiếc một dân tộc thậm tệ như thế của Milene. Cứ mỗi lần nhớ tới nó, tôi lại chột dạ: Không biết có ai nói dân Việt Nam cũng là những người dễ mến, nhưng ngu ngốc vì để bọn độc tài đè đầu cưỡi cổ không?!

Đã có nhiều tranh cãi vì sao người Việt lại “cam tâm” nằm dưới sự cai trị của đảng Cộng sản gần nửa thế kỷ như thế (đối với miền Bắc Việt Nam thì đã gần 70 năm), thậm chí là có cả một lý giải khá siêu hình là chuyện quả báo của người Việt, vì họ là thủ phạm tiêu diệt cả một nền văn minh Champa rực rỡ, gần như diệt chủng cả một giống nòi.

Người Việt thì không bị diệt chủng, mà họ ngày càng đông lên, nhưng lại không tạo được một cuộc sống xã hội bình thường như những người bình thường nghĩ đến.

Trước đây, nông dân nghèo từ những vùng “toàn cát” như Nghệ Tĩnh, Quảng Bình,… đổ vào các khu công nghiệp mới mở vùng Đông Nam Bộ để bán sức lao động rất rẻ của họ cho tư bản nước ngoài. Bây giờ thì đến cả nông dân vùng sông nước vang bóng một thời là miền Cửu Long, cũng đổ lên phố kiếm việc, để lại cả một vùng quê xơ xác.

Mà lên phố như vậy cũng có đổi đời được là mấy. Chỉ mấy mươi ngày cách ly chống dịch Covid hồi giữa năm 2021, đã làm cho cả triệu công nhân chạy nháo nhào vì… đói.

Học trò giỏi, sau khi được ra nước ngoài học hành, thì tìm cách ở lại, vì về nước để làm gì?

Mà đâu chỉ học trò giỏi, học trò không giỏi đi làm thuê ở nước ngoài (gọi cho sang là hợp tác lao động), cũng tìm cách ở lại.

Trước đây các em gái ít học vùng Cửu Long lớn lên thì theo mai mối đi lấy chồng Đài Loan, Hàn Quốc, nay có vẻ khuynh hướng này chuyển sang cả các em có học. Mới đây thành phố Mungyeong ở Hàn Quốc đề ra “chính sách” khuyến khích các nông dân già, ế vợ, lấy nữ du học sinh Việt Nam để gia tăng dân số.

Trên đây tôi chỉ liệt kê ra những gì liên quan tới vật chất, đo đếm được, chứ không bàn đến chuyện tinh thần. Chuyện này rất khó tranh cãi vì nó tùy thuộc vào quan điểm, quan niệm,… chẳng hạn như những ồn ào gần đây về cúng vong, giải hạn của Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Đương nhiên đảng Cộng sản Việt Nam là người chịu trách nhiệm cho tất cả những sự khổ ải ấy của người dân Việt Nam, vì có ai khác ngoài họ cầm quyền đâu.

Tuy nhiên sẽ có một câu hỏi được đặt ra là tại sao họ (đảng Cộng sản Việt Nam) cầm quyền tệ hại như vậy mà không ai làm gì được họ cả?

Điểm lại những thay đổi triều đại ở Việt Nam từ khi có sử ghi chép đến nay, chúng ta không thấy có bất cứ triều đại nào bị dân chúng lật đổ cả, mà chỉ kết thúc bằng những cuộc xâm lăng từ bên ngoài, hoặc bằng những thanh toán cung đình, như từ triều Lý chuyển sang triều Trần, triều Trần chuyển sang triều Hồ, hay là cuộc nội chiến kéo dài Trịnh và Nguyễn, Tây Sơn và Nguyễn Ánh.

Tóm lại là không có … cách mạng!

Đó là mẫu số chung của nền văn minh Trung Hoa mà Việt Nam sống trong ảnh hưởng của nó cả ngàn năm.

Trong nền văn minh của những … quan phụ mẫu, dân chúng rất vâng lời, không phản kháng. Trước kia không phản kháng các vị tiên chỉ, thì nay cũng không phản kháng các vị bí thư chi bộ xã.

Chủ nghĩa cộng sản, một sản phẩm thất bại của nền văn minh Do Thái Ki Tô phương Tây đến với Trung Quốc, Tiều Tiên và Việt Nam trong bối cảnh “giải thực”, nên đã thắng thế. Tại miền đất mới, nó biến dạng và lai tạp với đám quan phụ mẫu phương Đông. Đứa con lai ấy chính là chế độ gọi là cộng sản ở Việt Nam.

Nó lai thêm lần nữa sau biến cố Đông Âu năm 1989, để biến thành kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dân chủ tập trung, trong đó vẫn còn các quan phụ mẫu, và vẫn còn đám dân chúng không bao giờ cãi cơ quan công quyền.

Cuộc đô hộ trăm năm của người Pháp, cuộc can thiệp chống cộng sản 20 năm của người Mỹ, tạo nên một nhóm người Việt có ý thức khác với các “quan phụ mẫu”. Nhưng nhóm này vẫn là một thiểu số rất ít trong xã hội Việt Nam. Với cái số ít đó, những ai muốn phản kháng thì phản kháng… bằng chân. Nói hoa mỹ là bỏ phiếu bằng chân.

Nhưng đừng tưởng bỏ phiếu bằng chân, sang đến “bến bờ tự do” rồi thì sẽ không còn các “tiên chỉ” nữa. Trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại cũng có đầy các “tiên chỉ”. Chỉ có điều là trong môi trường xã hội mới, sự “tinh tướng” của các “tiên chỉ” này bị giới hạn rất nhiều, vợ con họ không còn bị họ tác oai tác quái nhiều như khi còn ở cố hương.

Trở lại câu hỏi tại sao của tôi ở đầu bài, tôi không đủ kiến thức để trả lời chuyện người Nga cứ húc đầu vào chỗ tai ương (thời thế chiến thứ nhất, quân đội Nga bị các ký giả phương Tây gọi là cái cối xây thịt, vì họ chết rất nhiều).

Đối với Việt Nam thì thủ phạm cho cái chết của các cô gái Việt trong thùng xe đông lạnh ở Anh, hay cô du học sinh Việt nào đó lấy ông nông dân Hàn Quốc già (có gì khác nhau?), chính là các… “tiên chỉ”.

Có người sẽ không đồng ý với tôi mà hét lên rằng: Thủ phạm là cộng sản.

À vâng, cộng sản!

Putin, Gorbachev, và hai tầm nhìn về sự vĩ đại của nước Nga

Putin, Gorbachev, và hai tầm nhìn về sự vĩ đại của nước Nga

 

Gideon Rachman, “Putin, Gorbachev and two visions of Russian greatness,” Financial Times, 05/09/2022

Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng

Điện Kremlin đã quay trở lại với các phương pháp và mục tiêu dựa trên sự chinh phạt, sự sợ hãi và tàn bạo.

Donald Trump từng hứa sẽ làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại. Khẩu hiệu yêu thích của Tập Cận Bình là hướng đến “sự phục hưng vĩ đại” của dân tộc Trung Hoa. Vladimir Putin cũng được thúc đẩy bởi một mong muốn tương tự: hồi sinh nước Nga vĩ đại.

Nhưng thế nào là một quốc gia vĩ đại? Putin và Mikhail Gorbachev, người vừa qua đời vào tuần trước, lại có suy nghĩ khác nhau.

Đối với Putin, sự vĩ đại của một quốc gia được xác định bằng lãnh thổ, sức mạnh quân sự, và khả năng khiến các nước láng giềng khiếp sợ hoặc khuất phục. Nhà lãnh đạo Nga tin rằng đất nước ông có quyền trở thành một trong những cường quốc trên thế giới. Ông cho rằng nước Nga đã “bị cướp” khi Ukraine giành độc lập, và chìa khóa để xây dựng lại sức mạnh và tầm vóc quốc gia là giành lại lãnh thổ đã mất. Quyết định xâm lược Ukraine là đỉnh điểm của nỗi ám ảnh này.

Đối với Gorbachev, sự vĩ đại của một quốc gia lại tập trung nhiều hơn vào phẩm giá của những công dân bình thường. Trong một cuộc phỏng vấn hồi năm 2001 với nhà sử học Daniel Yergin, ông nhắc đến việc Liên Xô không có khả năng cung cấp cho công dân của mình những nhu yếu phẩm hàng ngày: “Hãy tưởng tượng một quốc gia có thể bay vào vũ trụ, phóng Sputniks, tạo ra một hệ thống phòng thủ mạnh mẽ … [Nhưng] không có kem đánh răng, không có bột giặt, không có những hàng hóa cơ bản cho cuộc sống. Thật không thể tin được và thật nhục nhã khi phải làm việc trong một chính phủ như vậy.”

Việc thường dân Nga không còn phải chịu đựng cảnh thiếu thốn như xưa phần lớn chính là nhờ các cải cách kinh tế của Gorbachev, dù chúng đã được triển khai một cách khá do dự. Những người đổ lỗi cho ông vì đã phá hủy nền kinh tế Liên Xô nên nhớ lấy điều đó.

Ý tưởng về phẩm giá con người của cựu lãnh đạo Liên Xô cũng đã mở rộng sang quyền tự do ngôn luận. “Thật không thể tin được và thật nhục nhã,” khi mà dưới chế độ Xô-viết, những người có học thức phải sống trong một thế giới của những lời nói dối, khẩu hiệu và sự kiểm duyệt chính thức. Gorbachev đã thay đổi điều đó bằng cách giải phóng báo giới và ngành công nghiệp sáng tạo, trả tự do cho những người bất đồng chính kiến, và cho phép tiếp tục những nghiên cứu lịch sử thực sự. Còn Putin đang đưa nước Nga trở lại với sự đàn áp theo kiểu Liên Xô – khi ông cho đóng cửa các phương tiện truyền thông độc lập còn sót lại, bỏ tù những thành viên đối lập, và biến việc thừa nhận rằng Nga đang có chiến tranh trở thành một hành vi phạm tội.

Quan trọng hơn, ý tưởng về phẩm giá con người của Gorbachev đã vượt ra ngoài biên giới nước Nga. Quyết định quan trọng nhất, chính trực nhất mà ông từng đưa ra là không gửi xe tăng Liên Xô đến Ba Lan, Hungary, hoặc Đông Đức vào năm 1989 khi các phong trào dân chủ nở rộ.

Trong một thời gian ngắn ngủi, một nhà lãnh đạo Nga đã trở thành một biểu tượng quốc tế của tự do chính trị. Khi Gorbachev đến thăm Đông Berlin vào tháng 10/1989, một tháng trước khi Bức tường Berlin sụp đổ, đám đông đã hô vang “Gorby hãy giúp chúng tôi.” Khi ông đến thăm Bắc Kinh vào tháng 5, những sinh viên biểu tình ở Quảng trường Thiên An Môn đã ca ngợi ông như một anh hùng – một nhà lãnh đạo đã chứng tỏ rằng các chế độ chuyên chế cũng có thể cải cách và không cần phải giết chết người biểu tình trên đường phố. Nhưng giấc mơ ấy đã kết thúc bằng vụ thảm sát ở Quảng trường Thiên An Môn chỉ một tháng sau đó.

Đúng là những phản ứng của Gorbachev không phải lúc nào cũng cao thượng và bất bạo động. Ông được nhớ đến cùng sự ghét bỏ ở các nước Baltic, vì đã mang quân đội Liên Xô đến đây hồi năm 1991 trong một nỗ lực (thất bại) để ngăn chặn phong trào giành độc lập của họ.

Tuy nhiên, những người ủng hộ Putin sẽ là những người đầu tiên chỉ ra, Gorbachev thiếu sự tàn nhẫn để tiếp tục chiến đấu và giết chóc cho đến khi quyền lực của Moscow được khôi phục. Putin quyết tâm không lặp lại “sai lầm” đó, và kết quả là Ukraine đã phải trả một cái giá khủng khiếp về nhân mạng. Khi câu chuyện về những gì thực sự đã xảy ra trong chiến dịch bao vây Mariupol của quân Nga bị vỡ lở, nó có thể vạch trần một tội ác chiến tranh có quy mô lịch sử – với hàng nghìn dân thường bị giết và chôn vùi trong những ngôi mộ tập thể.

Đối với Putin, những vụ thảm sát như Mariupol chỉ là một dấu chấm nhỏ khi so sánh với sứ mệnh lịch sử của ông là khôi phục nước Nga vĩ đại. Những kỳ vọng ban đầu của ông về chiến thắng trước Ukraine chỉ trong vài ngày đã bị tiêu tan. Nhưng ông đã sớm gạt bỏ thất vọng bằng cách so sánh mình với Peter Đại đế, người đã giành chiến thắng cuối cùng trong Đại chiến phương Bắc kéo dài hơn 20 năm.

Đó là một so sánh hàm chứa nhiều điều. Peter Đại đế là một bạo chúa, khét tiếng bởi sự thờ ơ tuyệt đối trước những thiệt hại về nhân mạng. Hàng nghìn người đã chết trong quá trình xây dựng thủ đô mới của ông, St. Petersburg. Peter cũng áp dụng chế độ nghĩa vụ quân sự bắt buộc để tiến hành các cuộc chiến của mình. Đây là một bước đi mà Putin cho đến nay vẫn không muốn thực hiện. Bất chấp những luận điệu kiểu Sa hoàng của mình, có lẽ ông ta vẫn hiểu được sự nguy hiểm của việc đối xử với những công dân thế kỷ 21 như nông nô thế kỷ 18.

Putin có thể tin rằng chiến thắng trên chiến trường và trong cuộc chinh phục lãnh thổ là những cách thức duy nhất để khôi phục sự vĩ đại của quốc gia. Nhưng điều mà Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ gọi là “sự nghiêm túc tôn trọng ý kiến của nhân loại” cũng cần được cân nhắc. Nước Nga hiếu chiến không được đánh giá cao ở điểm này. Một cuộc khảo sát quốc tế do Đại học Pennsylvania và nhiều tổ chức khác thực hiện vào năm ngoái cho thấy ba quốc gia được ngưỡng mộ nhất trên thế giới là Canada, Nhật Bản, và Đức.

Cả ba nước đều được đánh giá cao dựa trên các tiêu chí như chính phủ trong sạch, tôn trọng nhân quyền, và công bằng xã hội. Đây là những điều ít được coi trọng ở nước Nga của Putin, nhưng lại được những cá nhân và chính phủ quan tâm đến phẩm giá con người coi trọng.

Putin đã thể hiện sự khinh thường của mình đối với những giá trị này – những giá trị mà Gorbachev đề cao – bằng cách tuyên bố rằng mình quá bận rộn, không thể đến tham dự lễ tang của vị cựu tổng thống. Hàng nghìn người Nga thinh lặng đứng trước quan tài mở của Gorbachev đã thể hiện sự bất đồng của họ.

G.R.

Nguòn bản dịch: nghiencuuquocte.org

KHÔI PHỤC NHỮNG GÌ ĐÃ MẤT-Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

KHÔI PHỤC NHỮNG GÌ ĐÃ MẤT

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Thứ Ba Tuần XXIV – Mùa Thường Niên

“Đừng khóc nữa!”.

Hai giọt nước mắt nhỏ xuống, cùng trôi ra dòng sông cuộc đời. Giọt này nói với giọt kia, “Bạn là ai?”. Giọt kia nói, “Tôi là giọt nước mắt của một cô gái đang yêu một người đàn ông và mất anh ta! Còn bạn, bạn là ai?”. “Ôi, tôi là giọt nước mắt của cô gái đã lấy được anh ấy!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Sẽ khá bất ngờ khi Lời Chúa hôm nay cũng nói đến những giọt nước mắt, không phải của những cô gái đang yêu, nhưng của một bà mẹ mất con; qua đó, tình yêu Thiên Chúa tỏ lộ! Đó là một tình yêu lớn hơn sự chết! Thiên Chúa sẽ lau khô mọi dòng lệ trên từng khuôn mặt; vì Ngài là tình yêu, luôn ‘khôi phục những gì đã mất’, và luôn làm cho sống!

Như quả phụ Nain mất đứa con duy nhất của mình, con người có nhiều “lý do” để tuyệt vọng, bởi nó vô phương giải quyết muôn vàn khó khăn, nhất là những lúc đối diện với cái chết; lúc ấy, nó bất lực thật sự trong việc giúp đỡ người khác. Vậy mà, Chúa Giêsu vẫn trấn an, “Đừng khóc nữa!”. Quyền năng vô hạn của Ngài giải phóng chúng ta khỏi những giới hạn bi thảm của con người; hơn nữa, “Chúng ta biết rằng, mọi sự đều có ích cho những ai yêu mến Thiên Chúa!”.

Với tư cách Đấng Cứu Chuộc, Ngài hành động! Vì thế, “Đừng khóc nữa!” mang trọng lượng của một mệnh lệnh hơn là một ủi an. Như ngày tận thế, khi đau khổ và cái chết có thể xuất hiện, thì cuối cùng, Thiên Chúa bày tỏ một tình yêu luôn làm cho sống; sách Khải Huyền viết, “Ngài sẽ lau mọi giọt lệ trên mắt họ, và sẽ không còn chết chóc, than khóc hay đau đớn nữa”. Quả phụ Nain sắp nhận được một ân sủng khôn lường, không thể tưởng tượng so với nỗi buồn của cô; vì rằng, con cô sống lại. Bạn và tôi cũng hãy hy vọng vào lòng nhân từ của Chúa Kitô, Đấng ‘khôi phục những gì đã mất’ nơi chúng ta và nơi cả những người thân yêu của chúng ta.

“Hỡi thanh niên, Tôi truyền cho anh hãy chỗi dậy!”. Chúa Giêsu không an ủi tôi chỉ đơn giản bằng cách loại bỏ cảm xúc hoặc để tôi tưởng tượng rằng, mọi thứ khác
với thực tế. Thay vào đó, Ngài hành động để loại bỏ nguyên nhân gây ra đau khổ và buồn phiền; sách Xuất Hành viết, “Vì Ta là Chúa, Đấng chữa lành các ngươi!”. Khi nói với quả phụ Nain, “Đừng khóc nữa!”, Ngài không kết tội cô là một phụ nữ dễ xúc động và làm quan trọng mọi việc; ngược lại, Chúa Giêsu xót thương cô vì sự mất mát con trai yêu quý. Vì vậy, với tất cả trái tim và linh hồn, tôi phải tin để hy vọng rằng, cuộc sống của tôi nằm trong tay Chúa; cuộc sống của những người thân yêu của tôi nằm trong tay Chúa. Như Phaolô, bạn và tôi cần mạnh mẽ tuyên xưng, “Chúng ta sống, là sống cho Chúa; và chúng ta chết, là chết cho Chúa!”.

Anh Chị em,

“Đừng khóc nữa!”. Đó là lời một thanh niên có tên Giêsu nói với bà mẹ Nain đi ra từ trong thành; thứ Sáu tuần thánh, Giêsu ấy cũng ra khỏi thành, Mẹ anh cũng khóc. Ô hay! Anh không an ủi bà, anh không tự cứu mình mà đã chết thật; để rồi, nhờ cái chết của mình, Giêsu ấy đã kéo toàn thể nhân loại vào Giêrusalem thiên quốc, thành thánh trên trời. Luca viết, “Đoạn tiến lại gần, Ngài chạm đến quan tài và những người khiêng đứng lại”. Lòng từ bi vĩ đại đã hướng dẫn hành động của Chúa Giêsu! Ngài quyết định đương đầu với cái chết, có thể nói là mặt đối mặt; và sẽ đối đầu với nó cách dứt khoát, trực diện, trên Núi Sọ! Với thanh niên Nain đã chết, Ngài nói lớn tiếng cho mọi người nghe, “Hãy chỗi dậy!”; với mỗi người chúng ta, Ngài cũng nói, “Hãy chỗi dậy!”. Giêsu muốn bạn và tôi chỗi dậy, đứng thẳng; Ngài tạo ra chúng ta để đứng thẳng và đứng vững trên đôi chân mình. Vì lý do này, lòng từ bi vĩ đại của Ngài cũng sẽ chữa lành bạn và tôi; điều quan trọng là “Hãy chỗi dậy! Đứng lên!”, và để Ngài ‘khôi phục những gì đã mất!’.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, trong dòng sông cuộc đời của con, xin gạt bỏ những gì trở ngại cho sự mới mẻ của cuộc sống mà Chúa gọi con chỗi dậy để sống. Xin ‘khôi phục những gì đã mất’ nơi con!”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

From: KimBang Nguyen

Thánh Gioan Kim Khẩu- Cha Vương

Thánh Gioan Kim Khẩu

Mến chúc Bạn và gia đình một ngày an lành. Nào cùng hít thở sâu 10 lần để lấy sinh lực của Chúa Thánh Thần mà phục vụ nhé.

Cha Vương

Thứ 3: 13/09/2022

Hôm nay 13/9, Giáo Hội mừng kính Thánh Gioan Kim Khẩu. Thánh nhân sinh tại nước Thổ nhĩ Kỳ vào năm 349 tại Antiokia. Người ta gọi Ngài là Gioan thành Antiokia, được mệnh danh là Kim Khẩu: Chrysostome. Miệng tuôn toàn những lời quí như vàng. Thánh nhân có tài hùng biện và trí khôn ngoan minh mẫn hiếm có. Gioan thành Antiokia ngay từ khi còn nhỏ đã được mẹ Ngài giáo dục với một lòng nhân ái bao la, truyền đạt cho Ngài một đức tin sắt đá và lòng hy sinh hào hiệp. Năm 373, thánh nhân được tuyển vào chức đọc sách, nhưng tài lợi khẩu, hoạt bát của Ngài đã làm say mê bao người, từ đó danh tiếng Ngài vang dội khắp nơi. Vì danh tiếng lẫy lừng nổi bật do lòng đạo đức thánh thiện và tài hùng biện có sức thuyết phục nhiều người trở về với chúa, người ta nhất loạt tôn thánh nhân lên chức giám mục, nhưng Ngài khiêm tốn khước từ và chỉ thích ẩn mình, ăn chay, cầu nguyện. Ý Chúa lạ lùng không ai hiểu thấu, sau bốn năm sống khắc khổ, Ngài lâm bệnh dạ dầy nặng, buộc Ngài phải trở về Antiokia. Năm 386, thánh nhân lãnh nhận sứ vụ linh mục và trong cương vị linh mục, suốt 12 năm, thánh nhân đã làm say mê dân thành Antiokia nhờ lòng sốt sắng, tài ăn nói thuyết phục, miệng tuôn những lời quí như vàng và đưa rất nhiều người quay về với Chúa do lời giảng dậy của Ngài.

Thánh nhân đả phá những cổ tục mê tín, cuộc sống hào phóng, xa hoa, trụy lạc của những người giầu và kêu gọi mọi người lưu tâm đến những người nghèo. Chính thánh nhân nêu gương sáng sống nghèo và giúp đỡ người nghèo. Năm 397, Ngài được bầu làm giám mục thành Constantinople, thánh nhân lưu tâm nghiên cứu về thánh Phaolô tông đồ, cải tổ hàng giáo sĩ, thiết lập một số qui chế để thánh hóa bản thân, hủy bỏ tận căn mọi tập tục xa xỉ gây tốn phí tiền bạc, của cải, vật chất. Ngài chống đối kịch liệt các bè rối Ariô, Novatio vv. (Nguồn: Hạnh Các Thánh)

Thánh nhân qua đời vào ngày 14/9/407, Chúa thưởng công Ngài bằng vô số phép lạ sau khi Ngài chết. Ðức Thánh cha Piô X đã nâng Ngài lên bậc tiến sĩ Hội Thánh và đặt Ngài làm bổn mạng của những nhà giảng thuyết.

Mời Bạn suy niệm những câu nói vàng ngọc của Ngài sau đây nhé:

(1) Nếu bạn không tìm thấy Chúa Kitô nơi người ăn mày này, thì bạn sẽ không tìm thấy Ngài nơi chén thánh.

(2) Tội lỗi là một vết thương. Ăn năn là thuốc chữa.

(3) Cầu nguyện cho chính mình là bản năng tự nhiên; cầu nguyện cho người khác là bản năng của ân sủng.

(4) Yêu tiền bạc là một điều kinh khủng! Nó làm cho con mắt và lỗ tai không còn nghe thấy gì, khi đó con người tệ như con thú hoang dã.

(5) Tình yêu của người chồng và người vợ là sức mạnh gắn bó toàn xã hội.

(6) Dù lời của bạn có đúng cách nào, nó sẽ mất tất cả hiệu lực nếu bạn nói khi bạn giận.

Câu nào đánh động bạn nhất? (Câu 3 & 6 đánh động mình nhất)

Lạy thánh Gioan Kim Khẩu, xin ban cho chúng con biết dùng miệng lưỡi để ca tụng và cảm tạ tri ân Thiên Chúa.

From: Do Dzung 

Quân Nga ‘bỏ chạy như những vận động viên chạy Olympic’ khi Ukraine chiếm lại vùng Đông – Bắc

Quân Nga ‘bỏ chạy như những vận động viên chạy Olympic’ khi Ukraine chiếm lại vùng Đông – Bắc

Financial Times

12-9-2022

Lính Ukraine đứng chào cờ tại Balaklyia, Kharkiv trước khi di chuyển tới Kupyansk. Ảnh: Getty images

Chỉ huy Ukraine Petro Kuzyk biết bí mật của cuộc tấn công dẫn đến sự sụp đổ của quân Nga ở phía đông bắc đất nước này – đó là sự kết hợp của quyết tâm gan dạ, kế hoạch cẩn thận và sử dụng khôn khéo các thiết bị quân sự phương Tây với số lượng hạn chế.

Kết quả là, cuộc tiến công của quân đội Ukraine đã giải phóng 3.000 km vuông chỉ trong sáu ngày, là chiến thắng lớn nhất của Ukraine kể từ khi đẩy lùi quân đội Nga khỏi Kyiv vào tháng 3. Nhiều người Ukraine hy vọng cuộc tấn công này có thể đóng vai trò một bước ngoặt trong cuộc xung đột kéo dài gần 7 tháng qua.

Kuzyk, chỉ huy lực lượng phản ứng nhanh Svoboda của lực lượng vệ binh quốc gia Ukraine tham gia cuộc tấn công cho biết: “Cuộc phản công của chúng tôi đã được chuẩn bị từ lâu. Chúng tôi đã làm suy giảm khả năng phản kích của họ với những pha tấn công liên tục và chính xác… Bộ tham mưu [cũng] đánh lạc hướng, làm họ nghĩ rằng cuộc phản công lớn sẽ đến từ phía nam“.

Vào thời điểm Kuzyk và các chiến sĩ tấn công hồi tuần trước, quân Nga xung quanh góc đông nam của tỉnh Kharkiv đã rất hoảng sợ. Nhiều người bỏ chạy vội vã đến nỗi các bữa ăn vẫn còn nguyên trên bàn căng tin, và có những thùng đạn dược có giá trị và vũ khí khác được bỏ lại gần chiến hào.

Kuzyk nói với Financial Times: “Chúng tôi đã hy vọng vào một thắng lợi nhưng không ngờ quân Nga lại hèn nhát đến vậy”, giọng nói của anh chùng xuống vì kiệt sức sau sáu ngày chiến đấu. “Họ đã bỏ lại xe tăng và thiết bị quân sự… thậm chí còn lấy xe đạp để tẩu thoát. Việc quân đội Nga đã hoàn toàn tự tan rã khiến công việc của chúng tôi trở nên dễ dàng hơn; họ bỏ chạy như những vận động viên chạy nước rút Olympic”.

Theo Tướng Valeriy Zaluzhnyi, chỉ huy quân đội Ukraine, cuộc tấn công của Ukraine xung quanh Kharkiv đã đẩy quân Nga trở lại trong phạm vi 50 km tính từ biên giới ở biên giới phía đông bắc. Cuộc tấn công này được thực hiện sau khi có các cuộc tấn công khác vào vị trí chiến lược Kherson ở phía nam.

Chiến dịch dùng vũ khí tổng hợp, trong đó Ukraine triển khai một cuộc tấn công phối hợp với xe tăng, bộ binh và lực lượng yểm trợ trên không, đã làm những người hay hoài nghi, vốn cho rằng quân đội Ukraine thiếu quân và thiết bị để phá vỡ thế bế tắc quân sự hiện tại, đã phải im lặng.

Cuộc tấn công này đã biến chiến lược có chủ ý của Kyiv thành sự thật, đó là ăn mòn sức mạnh quân số và dàn pháo khổng lồ của Nga bằng cách sử dụng các cuộc tấn công bằng tên lửa và pháo chính xác hơn của phương Tây cũng như các cuộc tấn công của quân du kích để phá hủy các bãi chứa đạn, căn cứ hậu cần và sở chỉ huy quan trọng của Nga phía sau chiến tuyến.

Bộ trưởng Quốc phòng Oleksii Reznikov đã gọi đó là chiến lược “David đấu với Goliath”. Trong cuộc tấn công ở phía đông bắc Ukraine, điều đó có nghĩa là phải chiếm được các tuyến đường sắt và các trung tâm hậu cần mà quân Nga sử dụng để di chuyển lượng vũ khí và nhiên liệu khổng lồ mà Nga cần để duy trì lợi thế về pháo binh và quân số trước những người lính Ukraine được trang bị kém hơn.

Serhiy Kuzan, cố vấn quân sự của Bộ Quốc phòng Ukraine, người vừa trở về từ mặt trận phía đông, cho biết: “Nếu bạn tiêu diệt được lợi thế bất đối xứng mà quân Nga có được nhờ pháo binh, họ không chỉ ngừng chiến đấu mà thậm chí còn bỏ chạy. Đây là bí mật của chiến dịch này. Quân đội Nga chỉ là một quả bóng bay xì hơi”.

Điều khiến mọi người ngạc nhiên là tốc độ mà quả bóng Nga đã xì hơi, ít nhất là trong đoạn đường dài 1.300 km này. Lúc đầu, quân lính Ukraine di chuyển đến Balakliia, và Kuzyk nói rằng tại đây các lực lượng phòng thủ của Nga “được tổ chức một cách hỗn loạn… với tuyến đầu tiên được canh phòng cẩn mật” nhưng tuyến thứ hai và thứ ba chỉ là “các chốt quan sát lẻ tẻ”.

Khi Balakliia bị bao vây, quân Ukraine đã tiến vào Kupyansk, một trung tâm đường sắt và đường bộ cung cấp quân khí cho hệ thống phòng thủ của Nga ở phía đông bắc. Điều này khiến quân đội Nga đóng tại Izyum gần đó bị ảnh hưởng.

Kuzan nói: “Toàn bộ kho vũ khí của họ dọc theo trục Izyum đã bị khống chế. Người Nga có lợi thế về vũ khí, nhưng tốc độ của lực lượng của chúng tôi không cho phép họ khai thác nó.”

Hỗ trợ đà tiến quân của Ukraine, Bộ Quốc phòng Nga sau đó cho biết hôm 9/9 rằng, họ đã ra lệnh cho quân đội của mình rút lui khỏi Balakliia và Izyum, tuyên bố rằng điều này sẽ cho phép họ tập trung vào một chiến tuyến khác. “Họ nói rằng đó là một cuộc sơ tán. Nhưng đó là [một] cuộc rút lui trong hoảng loạn,” Kuzan nói.

Cả Kuzyk và Kuzan đều cho rằng Ukraine cần thêm vũ khí để tiếp tục đẩy lùi quân Nga. Kuzyk nói: “Nếu chúng tôi đạt được điều đó, thách thức của quân Nga sẽ là ngăn chặn lực lượng của chúng tôi ở biên giới“.

Hiệu quả chiến lược của những gì cuộc tấn công này đã đạt được – ngoài những dải đất rộng lớn tự do trên lãnh thổ Ukraine còn thưa thớt dân cư – vẫn còn chưa rõ ràng. Reznikov cho biết: “Sự phát triển của chiến dịch này đã tốt hơn những gì chúng tôi mong đợi và điều đó có nghĩa là Bộ tổng tham mưu lục quân cũng sẽ thay đổi kế hoạch của họ tùy theo kết quả thành công của chiến dịch”.

Xe bọc thép quân Nga bỏ lại ở Balaklyia, Kharkiv. Ảnh: AFP

Mark Galeotti, một nhà phân tích quân sự và quan sát Điện Kremlin kỳ cựu, cảnh báo: “Bạn không bao giờ được đánh giá thấp hoàn toàn người Nga, ngay cả khi họ có vẻ giống như một đội quân của Keystone Cops.

Nhưng [cuộc tấn công] tạo ra cho Ukraine động lực quân sự thần kỳ, điều này đã khiến cho người Nga mất công suy đoán xem điều gì có thể xảy ra tiếp theo và Nga sẽ buộc phải phân tán quân đội của mình theo đủ các cách khác nhau”.

Những gì Nga đã làm được là mang lại cho Ukraine một động lực lớn về mặt tinh thần – cho quân đội của họ và cho các đối tác phương Tây – đồng thời làm suy giảm nghiêm trọng lòng tin của Nga. Ramzan Kadyrov, nhà lãnh đạo mạnh mẽ của Chechnya, nằm trong số những người đang chỉ trích quân đội Nga về việc rút lui. Kadyrov nói rằng nếu chiến lược của quân Nga không thay đổi, ông sẽ nói chuyện với “lãnh đạo của đất nước Nga”.

Cuộc tấn công đã “tàn phá tâm lý và tinh thần của binh lính Nga – và tinh thần chiến đấu là chìa khóa cho các binh sĩ bộ binh, nếu không có nó, họ không có cơ hội nào”, Kuzan nói. Cuộc tấn công cũng đã đánh gục “tinh thần của xã hội Nga; chúng tôi đã thấy họ đang tìm kiếm ai đó để đổ lỗi”.

Giáo dục đơn nguyên và chuyện cô cháu gái

Giáo dục đơn nguyên và chuyện cô cháu gái

Nguyễn Ngọc Già

Bốn tin tức về giáo dục mới nhứt, như dưới đây:

1. Tỉnh Hưng Yên đang xác minh hàng trăm gia đình đồng loạt cho con nghỉ học [1]

2. Một thầy giáo dạy môn Ngữ Văn cấp III đã dùng thước và nón bảo hiểm đánh vào đầu học sinh [2].

3. Thầy giáo đâm chết đồng nghiệp tại căn tin nhà trường [3].

4. Khởi tố nữ sinh 16 tuổi đã lột đồ, hành hung và làm nhục bạn giữa đường [4]

càng khiến người dân hoang mang hơn bao giờ hết, khi toàn bộ học trò vừa khai giảng cho niên khóa mới 2022 – 2023.

Người dân không hiểu tại sao giáo dục gần nửa thế kỷ qua đi, với sự lãnh đạo của ĐCSVN, sáng suốt là như thế – trí tuệ là như vậy, bỗng ngày càng ghê rợn khủng khiếp như một xã hội vô chính phủ, khiến người dân bất an vô cùng!

Song song bốn tin trên, thêm 2 tin liên quan về giáo dục:

1. Hà Nội dự kiến chi 1.130 tỷ đồng hỗ trợ 50% học phí năm nay [5].

2. Nhà cầm quyền CSVN đang xem xét để kỷ luật ông Phùng Xuân Nhạ – nguyên là Bộ trưởng Bộ Giáo dục – Đào tạo – trong quãng thời gian ông ta chịu trách nhiệm về giáo dục toàn cõi xứ thiên đàng [6];

liệu số tiền hơn ngàn tỷ đó và việc kỷ luật cựu Bộ trưởng Bộ Giáo dục – Đào tạo sẽ thay đổi được gì (?).

Giáo dục phi triết lý – phản triết học

Thể chế chính trị nào sanh ra cơ chế giáo dục đó. Với thể chế đơn nguyên độc đảng tại Việt Nam, dĩ nhiên, giáo dục chắc chắn là một nền giáo dục đơn nguyên. Tính đơn nguyên đã loại bỏ tất cả những gì gọi là “sáng tạo” và “phong phú” trong việc dạy học, ngay từ những ngày trẻ chập chững bước vào lớp Một – lớp học vô cùng quan trọng cho tất cả trẻ em, để hình thành nhân cách và phẩm hạnh làm người.

Xứ thiên đàng với giáo dục XHCN, dù có đài thọ 100% học phí hay kỷ luật cấp cao nhứt trong giáo dục cũng không thể thay đổi gì cả là vậy. Bởi giáo dục XNCH không dạy “LÀM NGƯỜI” – trước khi cung cấp các môn học khác – ngay từ lớp thấp nhứt trong hệ thống giáo dục căn bản – vốn là điểm khởi đầu. Điều này có nghĩa, khi trẻ đã bước qua tuổi 15, vô cùng khó khăn để dạy về nhân cách. Cho nên – tới chương trình cấp Ba – những chương trình thuộc lãnh vực “giáo dục công dân” nhằm dạy và hình thành cho trẻ ý thức làm công dân – ngưỡng cửa của tuổi 18 – chứ không dạy về đạo đức nữa. Vì vậy, cho tới đại học, những bài giảng về đạo đức Hồ Chí Minh trở nên thừa thãi – nhàm chán và không hề có tác dụng gì, ngoài việc sinh viên buộc phải có đủ tín chỉ để ra trường.

Gần nửa thế kỷ đã trôi qua, tính từ 1975, nền giáo dục của nhà nước CHXHCNVN dường như không có lối thoát và con đường đi lên hay đi tới vẫn nằm đâu đó xa ngái và đầy chập chùng, hiểm nguy cùng với rủi ro đầy ắp, trên “con đường đến lớp” vốn được vẽ lên thật êm đềm và lãnh mạn, dành cho học trò – phụ huynh – thầy cô. Tuy vậy, “nền giáo dục XHCN” hoàn toàn logic, bởi chịu sự lãnh đạo của ĐCSVN mà cho tới nay vẫn loay hoay con đường tiến lên XHCN, lại không hề có một tia sáng le lói nào cho người Việt Nam, bất chấp “hết mưa là nắng hửng lên thôi” của ông Nguyễn Xuân Phúc – Chủ tịch nước CHXHCNVN – vừa phát ngôn trong lễ khai giảng năm học này [7].

Chuyện cô cháu gái

Bất chấp cải cách, bất chấp đầu tư giáo dục, bất chấp sự quan tâm của đảng và nhà nước, nền giáo dục XHCN chưa hề làm cho người dân an tâm trong hiện trạng xã hội đang đối diện với quá nhiều xáo trộn.

Người dân quèn và người dân nghèo buộc phải tự xoay xở, lo lắng cho tương lai có vẻ mờ mịt và vô định của con em mình. Dười đây là câu chuyện thật về cô cháu gái từ năm 2019.

Cô cháu gái lên 15, còn vài tháng nữa sẽ thi. Cô bé không chịu học nữa. Ba mẹ nó hỏi ý kiến tôi.

Lâu ngày, mới gặp cô bé. Tuổi 15, nó lớn phổng phao, ra dáng thiếu nữ với cặp giò dài, da ngăm ngăm – đúng “mốt” trẻ hiện nay. Cô bé cũng facebook như bao đứa trẻ khác. Nó thật sự sốc với hiện trạng học đường hiện nay, khi xem clip nữ sinh đánh nhau không thua đám đánh mướn.

Tôi khuyên nó:

– Còn vài tháng nữa thôi, con ráng học cho xong đi.

Nó lắc đầu quầy quậy và buông một câu nghe choáng váng:

– Tại bác hổng biết chớ! Bây giờ trong trường còn phức tạp hơn ngoài xã hội nữa!

Tôi trợn tròn mắt. Nó tiếp:

– Bác tưởng ngoài xã hội phức tạp hơn à? Không! Ở ngoài xã hội, người ta còn có quyền chọn bạn mà chơi. Trong trường mà hổng chịu chơi với mấy bạn “đầu gấu” là ăn đập liền!

Nghe mà đau điếng!

Tôi nói với ba mẹ nó:

– Nó đã nói vậy thì cũng nên cho nó nghỉ học đi.

Ba nó phân vân:

– Nhưng nhỏ quá! Nó nghỉ học rồi làm gì bây giờ, anh?

Tôi khuyên:

Hãy cho nó đi học nghề. Chọn những nghề nữ công gia chánh như: nấu ăn, làm bánh, cắm hoa, may vá hoặc học nail. Còn không cho nó học làm tóc, make-up, thiết kế thời trang.

Thời buổi này, đừng nghĩ đến mảnh bằng đại học nữa. Vô giá trị, vô dụng. Hãy nhìn các ông bà “giáo sư tiến sĩ” các loại mà coi! Và biết bao nhiêu sinh viên ra trường thất nghiệp, chạy grab và làm đủ thứ nghề mưu sinh. Bốn năm đại học, chỉ phí tiền. Quan trọng nhất là đứa trẻ sẽ chán ngán, bỏ nửa chừng càng nguy hiểm.

“Thời đại kỹ sư, bác sĩ” mà thế hệ chúng ta mong muốn đã quá lạc hậu rồi. Hơn nữa, cho nó học những nghề như nấu ăn, bartender, khi tốt nghiệp rất dễ kiếm việc, vì nhà hàng, khách sạn, resort bây giờ rất nhiều.

Nhưng học gì thì học, nhớ phải cho nó học tiếng Anh. Thế hệ tụi nhỏ mà không có tiếng Anh không được. Khi nó giỏi tiếng Anh và giỏi nghề càng có cơ hội làm việc nước ngoài, vì các quốc gia văn minh hiện nay họ rất coi trọng những nghề mang tính nghệ thuật. Tương lai của con bé là chỗ đó

Giáo dục bây giờ nát bấy! Đừng làm khổ xấp nhỏ nữa! Đây cũng là lời khuyên chân

thành của tôi đến các bậc phụ huynh.

N.N.G.

Nguồn: RFAvietnam

[1] https://thanhnien.vn/hung-yen-xac-minh-viec-hang-tram-gia-dinh-dong-loat-cho-con-em-nghi-hoc-post1498037.html

[2] https://thanhnien.vn/xon-xao-vu-viec-thay-giao-dung-thuoc-non-bao-hiem-danh-vao-dau-hoc-sinh-post1497991.html

[3] https://thanhnien.vn/tam-giu-hinh-su-thay-giao-day-the-duc-dam-dong-nghiep-tu-vong-tai-can-tin-cua-truong-post1497419.html

[4] https://tuoitre.vn/khoi-to-nu-sinh-16-tuoi-lam-nhuc-ban-giua-duong-20220907203728665.htm

[5] https://thanhnien.vn/ha-noi-du-kien-chi-1130-ti-dong-ho-tro-50-hoc-phi-nam-nay-post1498054.html

[6] https://congan.com.vn/tin-chinh/vi-pham-cua-nguyen-bo-truong-gddt-phung-xuan-nha-den-muc-phai-xem-xet-ky-luat_136650.html

[7] https://danviet.vn/chu-tich-nuoc-nguyen-xuan-phuc-gui-thu-nhan-dip-khai-giang-het-mua-la-nang-hung-len-thoi-20220904161746202.htm

 Lễ tôn kính Tên cực thánh Đức Bà Maria – Cha Vương

Lễ tôn kính Tên cực thánh Đức Bà Maria

Hôm nay là ngày Lễ tôn kính Tên cực thánh Đức Bà Maria. Mời bạn tìm hiểu nguồn gốc và ý nghĩa của Tên cực thánh Đức Bà Maria mà luôn luôn chạy đến Mẹ với hết lòng tin tưởng nhé.

Cha Vương

 Thứ 2: 12/09/2022

NGUỒN GỐC: Ngày lễ tôn kính Tên cực thánh Đức Bà Maria được Đức Giáo Hoàng Innocent XI thiết lập vào năm 1683, để kỷ niệm biến cố lớn lao về cuộc chiến thắng vĩ đại của người Kitô hữu chống lại quân Thổ Nhỉ Kỳ do sự che chở rất hiển nhiên của Đức Maria, Nữ Vương trên Trời.

Năm mươi vạn quân Thổ Nhỉ Kỳ tiến đánh sát thành Vienna và đang đe dọa toàn cỏi  Âu châu . Trong ngày lễ Bát Nhật kính ngày Sinh Nhật Mẹ Maria, Sobieski, vua xứ Ba Lan, quyết tâm đến cứu giúp thành Vienna đang bị quân Thổ bao vây khốn đốn. Vị vua này bắt đầu tiến quân với thánh lễ Misa. Sau khi sốt sắng rước Mình Thánh Chúa xong, ông tiến đến trước bàn thờ giang hai tay hình thánh giá và dỏng dạc hô lớn: “Chúng ta hãy mạnh dạn tiến quân, Thiên Chúa sẽ bảo vệ chúng ta và Đức Mẹ Maria sẽ trợ giúp chúng ta.” Lòng tin tưởng của vị vua thánh thiện này đã được đền đáp. Quân Thổ mặc dù rất đông đảo nhưng bị tấn công bất ngờ đã bỏ chạy trong rối loạn. Và từ đó danh thánh Mẹ Maria được tôn kính cho đến ngày hôm nay.

Thật là chính đáng khi tôn kính tên cực thánh Maria trong những ngày lễ kính của Giáo Hội Công giáo bên cạnh tên cực thánh Giêsu. Tên Maria là một tên cực thánh, đầy vinh quang, một tên có âm điệu dịu dàng, một tên khi gọi đến đều được mọi ơn cứu rổi. Các thánh đã cố gắng ghi lại nhiều điều lạ lùng tuyệt vời khi thốt lên tên cực thánh Maria. Niềm vinh quang của tên cực thánh Maria mà Thiên Chúa đã ban cho cha mẹ của Đức Nữ Đồng Trinh và là tên được Chúa chúc phúc mà thiên thần Gabriel đã rao truyền đầy lòng tôn kính và từ đó mọi thế hệ người Công giáo đã âu yếm lập lại trên đầu môi mỗi ngày; Thiên đàng đã ban cho thế gian một tên cực đẹp và thế gian đã ca tụng tên Maria với một âm điệu vang vọng hiền hòa. Thánh Pierre de Blois nói: “Nghe tên cực thánh Maria, toàn Giáo Hội đều quỳ gối, và những lời cầu xin và nguyện cầu của mọi người được vang vọng lên từ khắp mọi phương trời.”

Thánh Bonaventure thường cầu nguyện: “Tên của Mẹ đầy vinh quang, ôi Đức Mẹ Chúa Trời, ôi tên cực thánh là nguồn hạnh phúc tuyệt vời.” Chân phước Henri Suzo; “Tên của Mẹ ngọt ngào biết dường nào.” Thánh Ambrose nói: “Tên của Mẹ là hương thơm tỏa ra mọi ngưồn ân sủng. Nhưng đối với thánh Ephrem còn gọi tên của Đức Mẹ Maria là Chìa khóa cửa Thiên Đàng và thánh Bernard thì nói là khi kêu đến tên Maria thì mọi quỷ dữ đều bỏ chạy trốn. (PT Huỳnh Mai Trác)

THÁNH TÍCH: Bên Ý có một cô gái đang đi dọc đường, giữa một nơi xa vắng, gặp phải một tên cướp. Tên cướp ấy có tiếng là hung hãn và đã đoạt của cùng giết chết nhiều người. Giữa lúc bơ vơ không ai cứu chữa, cô sợ hải khiếp kinh. Giáp mặt cô, tên cướp bảo rằng: “Cô hãy nghe ta, bằng không ta sẽ giết”. Trong lúc nguy khốn, cô chợt nhớ đến Đức Mẹ, liền kêu tên Cực trọng Maria, cô lạy tên cướp và xin vì Đức Mẹ mà tha cho mình. Tên cướp nghe nói đến tên Maria thì dừng lại, nghĩ một lúc rồi bảo cô ta: “Được, vì Đức Mẹ mà ta tha chết cho cô, nhưng xin cô nhớ cầu Đức Mẹ cho ta với”. Ta xem tên Cực trọng Đức Mẹ linh ứng dường nào, tên cướp định hãm hại cô gái, nhưng vừa nghe tên Cực Thánh Đức Mẹ liền đổi lòng, chẳng những tha cho cô ta, mà lại đưa cô ta qua quãng đường đầy cheo leo ấy nữa.

From: Đỗ Dzũng

Chân dung văn nghệ sĩ Việt qua họa sỹ trẻ Trần Thế Vĩnh

Chân dung văn nghệ sĩ Việt qua họa sỹ trẻ Trần Thế Vĩnh

Là một họa sĩ hãy còn trẻ tuổi đời nhưng rất vững tay cầm cọ, Trần Thế Vĩnh đang chuẩn bị ra mắt những người yêu nghệ thuật một tuyển tập gồm 51 chân dung văn nghệ sĩ Việt Nam thành danh từ trước năm 1975.

Chân dung gồm những người đã mất nhưng cũng có những người vẫn còn tiếp tục sự nghiệp văn chương – văn nghệ cho đến ngày hôm nay. Họ đến từ khắp các miền đất nước, lại còn có những người đang sinh sống tại hải ngoại.

Tất cả sẽ góp mặt trong bộ chân dung được phác họa bởi một họa sĩ “tuổi trẻ – tài cao”, tràn đầy nhựa sống. Họa sĩ sáng tác 51 chân dung trong 2 năm 2018-2019 và đến năm nay đã có giấy phép xuất bản. Hy vọng một ngày rất gần chúng ta sẽ có cơ hội chiêm ngưỡng những khuôn mặt văn nghệ sĩ quen thuộc.

Họa sĩ Trần Thế Vĩnh sinh ra tại Quảng Trị, học vẽ tại Huế và hiện ở Sài Gòn. Ngoài tài vẽ chân dung, anh còn có những tác phẩm về phong cảnh, tĩnh vật và một chút hội họa trừu tượng.

Bộ sưu tập 51 chân dung văn nghệ sĩ là một con số không nhiều nhưng cũng không ít. Phải nói đây là bộ sưu tập vừa phong phú lại vừa quý hiếm đối với những người quan tâm đến nghệ thuật và cả những người làm nghệ thuật.

Người xem tranh có thể cảm nhận cái thần thái “nửa điên nửa tỉnh” của Bùi Giáng; vẻ “tiên phong đạo cốt” của Văn Cao, Hữu Loan, Phùng Quán, Trần Dần; nét đạo mạo của Phạm Công Thiện, Nguyễn Hiến Lê, Cung Trầm Tưởng; vẻ khắc khổ của Phan Khôi, Phạm Đình Chương, Nguyễn Bắc Sơn hay chân quê của Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử…

Chúng tôi xếp 51 chân dung văn nghệ sĩ theo danh sách từng nhóm theo mẫu tự để các bạn tiện theo dõi.

***

Hoạ sĩ Nguyễn Gia Trí (1908-1993), cùng với Tô Ngọc Vân, Nguyễn Tường Lân, Trần Văn Cẩn tạo thành “bộ tứ họa sĩ nổi tiếng thời kỳ đầu của nền mỹ thuật Việt Nam”.

Học giả Nguyễn Hiến Lê (1912-1984), ông còn là một dịch giả, nhà ngôn ngữ học, nhà giáo dục và hoạt động văn hóa độc lập, với 120 tác phẩm sáng tác, biên soạn và dịch thuật thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như giáo dục, văn học, ngữ học, triết học, lịch sử, du ký, gương danh nhân, chính trị, kinh tế…

Nhà phê bình văn học Đỗ Long Vân (1934‒1997), có lẽ là tác giả tài năng nhưng lặng lẽ bậc nhất của Sài Gòn, và cả Việt Nam trong thế kỷ 20. Ngoài gia đình, ông còn vài ba người bạn khác là Nguyên Sa, Bùi Giáng, Thanh Tâm Tuyền, Trịnh Công Sơn, Đinh Cường, Hoàng Anh Tuấn, Khánh Ly.

Nhà thơ, nhà báo Phan Khôi (1887-1959), thành viên nhóm Nhân Văn – Giai Phẩm, cháu ngoại của Tổng đốc Hà Nội Hoàng Diệu, đỗ Tú tài chữ Hán năm 19 tuổi nhưng lại mở đầu và cổ vũ cho phong trào Thơ mới.

Nhà thơ Bùi Giáng (1926-1998), ông còn là dịch giả và là nhà nghiên cứu văn học của Việt Nam. Các bút danh khác của ông: Trung niên thi sĩ, Thi sĩ, Bùi Bàn Dúi, Bùi Văn Bốn, Vân Mồng… Ông nổi tiếng từ năm 1962 với tập thơ “Mưa nguồn”.

Nhà thơ Cung Trầm Tưởng (1932) , năm 15 tuổi (1947), ông bắt đầu làm thơ, và có tập thơ đầu tay tên là “Sóng đầu dòng”. Năm 1952, sau một năm học đại học, ông sang Pháp du học tại Trường Kỹ sư không quân ở Salon-de-Provence. Năm 1957, ông tốt nghiệp trở về nước làm trong ngành không quân của Việt Nam Cộng hòa. Trong năm này, hai bài thơ của ông là “Mùa thu Paris” và “Vô đề” (thơ trường thiên) xuất hiện trong tuyển tập “Đất đứng” của nhóm Quan Điểm (gồm Mặc Đỗ, Vũ Khắc Khoan, Nghiêm Xuân Hồng), và đã làm người đọc chú ý.

Nhà thơ Đinh Hùng (1920-1967) ông còn dùng bút hiệu Thần Đăng khi làm thơ châm biếm và Hoài Điệp Thứ Lang khi viết tiểu thuyết.

Nhà thơ Du Tử Lê (1942-2019) làm thơ từ rất sớm, khi đang còn học tại trường tiểu học Hàng Vôi tại Hà Nội. Sau khi di cư vào Sài Gòn, Du Tử Lê bắt đầu sáng tác nhiều tác phẩm dưới nhiều bút hiệu khác nhau. Bút hiệu Du Tử Lê được dùng chính thức lần đầu tiên vào năm 1958 cho bài “Bến tâm hồn”, đăng trên tạp chí Mai.

Nhà thơ Hàn Mặc Tử (1912-1940), ông khởi đầu cho dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam, là người khởi xướng ra Trường thơ Loạn. Hàn Mặc Tử cùng với Quách Tấn, Yến Lan, Chế Lan Viên được người đương thời ở Bình Định gọi là “Bàn thành tứ hữu”, nghĩa là bốn người bạn ở thành Đồ Bàn.

Nhà thơ Hoàng Cầm (1922-2010) nổi tiếng với vở kịch thơ “Hận Nam Quan”, “Kiều Loan” và các bài thơ “Lá diêu bông”, “Bên kia sông Đuống”. Bài thơ “Bên kia sông Đuống” được chọn vào giảng dạy trong giáo trình trung học phổ thông. Ngoài bút danh Hoàng Cầm, ông còn có các bút danh: Bằng Việt, Lê Thái, Lê Kỳ Anh, Bằng Phi. 

Nhà thơ Hữu Loan (1916-2010) sau khi phong trào Nhân văn – Giai phẩm bị dập tắt vào năm 1958, nhà thơ Hữu Loan phải đi học tập chính trị, tiếp đó bị quản thúc tại địa phương. Cuối đời ông về sống tại quê nhà ở tỉnh Thanh Hóa. Ông nổi tiếng với bài thơ “Màu tím hoa sim” do ông sáng tác trong thời gian tham gia kháng chiến chống Pháp và được lưu hành rộng rãi trong vùng kháng chiến. 

Nhà thơ Lưu Quang Vũ (1948-1988) – Các tác phẩm của ông đã để lại một dấu ấn đáng kể trong lòng công chúng Việt Nam. Tác phẩm ông nổi bật lên từ những năm sau chiến tranh, đặc biệt là những năm 80. Ông đã từng sống những năm tháng tuổi trẻ trong chiến tranh, vào bộ đội chiến đấu và trở về sống trong một thời kỳ khó khăn của nước nhà: thời hậu chiến, kinh tế bao cấp với chồng chất khó khăn, cơ cực. Các vở kịch, truyện ngắn, thơ của Lưu Quang Vũ giàu tính hiện thực và nhân văn cũng như in đậm dấu ấn của từng giai đoạn trong cuộc sống của ông. Với tuổi đời còn khá trẻ, 40 tuổi ông đã là tác giả của gần 50 vở kịch và hầu hết các vở kịch của ông đều được các đoàn kịch, chèo gây dựng thành công dưới sự chỉ đạo của nhiều đạo diễn nổi tiếng. Rất nhiều các tác phẩm của ông đã làm sôi động sân khấu Việt nam thời kỳ đó như: “Hồn Trương Ba da hàng thịt”, “Lời thề thứ 9”, “Bệnh sĩ”, “Khoảnh khắc và vô tận”, “Ông không phải bố tôi”, “Tôi và chúng ta”, “Tin ở hoa hồng”, “Nàng Sita”. Giữa lúc tài năng đang vào độ chín, Lưu Quang Vũ qua đời trong một tai nạn ô tô trên quốc lộ số 5 tại Hải Dương, cùng với người bạn đời là nhà thơ Xuân Quỳnh và con trai Lưu Quỳnh Thơ. 

Nhà thơ Minh Đức Hoài Trinh (1930-2017), trước tác của bà thuộc nhiều thể loại như thơ, truyện ngắn, truyện dài. Có lẽ trong các tác phẩm của bà, được biết đến nhiều nhất là một số bài thơ được các nhạc sĩ phổ nhạc trong đó có Phạm Duy: “Đừng bỏ em một mình” và “Kiếp nào có yêu nhau” và Phan Văn Hưng: “Ai trở về xứ Việt”. Sau năm 1975 khi lưu vong sang Pháp bà sáng lập Hội Văn Bút Việt Nam Hải ngoại. Năm 1982 bà sang Mỹ định cư và mất tại Quận Cam.

Nhà thơ Nguyên Sa (1932-1998) là một nhà thơ lãng mạn nổi tiếng từ thập niên 1950, với những tác phẩm như “Áo lụa Hà Đông”, “Paris có gì lạ không em”, “Tuổi mười ba”, “Tháng sáu trời mưa”, “Hư ảo trăng”… Thơ Nguyên Sa có một số bài được biết đến nhiều hơn qua những bài hát do nhạc sĩ Ngô Thụy Miên phổ nhạc (Áo lụa Hà Đông, Tuổi mười ba, Paris có gì lạ không em…). Những nhạc sĩ khác có phổ nhạc vào thơ Nguyên Sa là Phạm Duy (Vết sâu), Phạm Đình Chương (Màu Kỷ Niệm), Anh Bằng (Mai Tôi Đi), Song Ngọc (Tiễn đưa) Hoàng Thanh Tâm (Tháng sáu trời mưa), Phạm Anh Dũng (Hư Ảo Trăng)… 

                                                             

Nhà thơ Nguyễn Bắc Sơn (1944-2015), trước năm 1975 Nguyễn Bắc Sơn là binh nhì, lính địa phương quân ở Sài Gòn, thời gian này ông có tập thơ phản chiến in năm 1972 “Chiến tranh Việt Nam và tôi”, gây được tiếng vang trong giới văn nghệ miền Nam. Thơ Nguyễn Bắc Sơn từng được nhiều bạn đọc ưa thích, ngâm nga trong các quán văn nghệ ở Đà Lạt, Vũng Tàu, Sài Gòn, Cần Thơ… 

Nhà thơ Nguyễn Bính (1918-1966) được coi như là nhà thơ của làng quê Việt Nam với những bài thơ mang sắc thái dân dã, mộc mạc. Bài thơ của ông được đăng báo đầu tiên là bài “Cô hái mơ”. Năm 1937 Nguyễn Bính gửi tập thơ “Tâm hồn tôi” tới dự thi và đã được giải khuyến khích của nhóm Tự lực văn đoàn.

Nhà thơ Nguyễn Đức Sơn (1937) được giới văn nghệ miền Nam trước năm 1975 gọi là một trong ba kỳ nhân của thời đó (hai người còn lại là Bùi Giáng và Phạm Công Thiện). Nguyễn Ðức Sơn bắt đầu công việc viết của mình với bút hiệu Sao Trên Rừng. Ông được coi là một người có cá tính đặc biệt. Trả lời trong bài phỏng vấn của tạp chí Bách Khoa, ông nói: “Tôi viết vì bị thúc đẩy bởi một lực ở đằng sau và được thu hút bởi một lực ở phía trước. Ðó là những ma lực làm tôi cảm khoái huyền diệu xa xăm. Thứ cảm khoái này kéo dài được chứ không ngắn như nhục cảm. Viết được một đoạn hay tôi đi lên đi xuống thưởng thức và khoái chí. Nên tôi nghĩ rằng sáng tác cho mình trước hết.”

                                                                                

Nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên (1952-1992), thi sĩ đã gặp một cô gái người miền Bắc tên là Duyên và có với cô này một tình cảm nhẹ nhàng nhưng không thành công vì hoàn cảnh gia đình và cả tính nghệ sĩ của Tất Nhiên. Dù vậy, cô gái tên Duyên này cũng đã là cảm hứng cho Tất Nhiên sáng tác khá nhiều bài thơ “Khúc tình buồn”, hay các bài “Cô Bắc Kỳ nho nhỏ”, “Linh mục”, “Em hiền như ma sơ”. 

Nhà thơ Phạm Công Thiện (1941-2011), ông còn là nhà văn, triết gia, học giả và cư sĩ Phật giáo với pháp danh Nguyên Tánh. Tuy nhận mình là nhà thơ và phủ nhận vai trò triết gia, ông vẫn được coi là một triết gia “thần đồng”, một hiện tượng dị thường của Sài Gòn thập niên 1960 với những tư tưởng ít người hiểu và được bộc phát từ hồi còn rất trẻ. 

Nhà thơ Phùng Cung (1928-1997), tham gia phong trào Nhân văn – Giai phẩm tại miền Bắc vào những năm 1955 – 1957. Sau đó ông bị kết án lợi dụng các bài viết của mình để kích động bạo loạn, và bị bắt giam 12 năm trong nhà tù Hỏa Lò. Một số tác phẩm tiêu biểu của ông là “Con ngựa già của Chúa Trịnh” và “Dạ Ký”, có ngụ ý đả kích những văn nghệ sĩ bẻ cong ngòi bút, bị lưu đày trong cõi tung hô. 

Nhà thơ Quang Dũng (1921-1988) là tác giả một số bài thơ nổi tiếng như “Tây Tiến”, “Đôi mắt người Sơn Tây”, “Đôi bờ”… Ngoài ra Quang Dũng còn là một họa sĩ, nhạc sĩ. Ông thuộc thế hệ các nhà thơ miền Bắc trưởng thành và nổi danh sau Cách mạng tháng Tám.  

Nhà thơ Thanh Tâm Tuyền (1936-2006) được biết đến với những cách tân thơ ca táo bạo. Năm 1956, lúc tròn 20 tuổi, ông đã nổi tiếng với tập thơ “Tôi không còn cô độc”, và năm 1957, lúc 21 tuổi, với tiểu thuyết “Bếp lửa” (viết năm 1954) mô tả khung cảnh Hà Nội trước 1954, với những người ra đi cũng như những người ở lại, cả hai đều bị giằng co bởi những chọn lựa miễn cưỡng, sự chia ly hay cái chết. Thanh Tâm Tuyền có ảnh hưởng lớn trên văn học Việt Nam giai đoạn 1956-1975 và cả những năm về sau này.  

Nhà thơ Tô Thuỳ Yên (1938-2019) là tác giả bài thơ “Chiều trên phá Tam Giang” mà một phần của bài thơ đã được Trần Thiện Thanh phổ nhạc. Ông cũng là tác giả bài “Trường Sa hành” sáng tác vào Tháng Ba, 1974, không lâu sau khi Trung Quốc chiếm quần đảo Hoàng Sa để vinh danh những chiến sĩ bảo vệ đất nước ngoài biển khơi. 

Nhà thơ Trần Dần (1926-1997) – Năm 1955, Trần Dần viết đơn đề nghị được giải ngũ, ra khỏi Đảng và kết hôn với bà Bùi Thị Ngọc Khuê (gia đình bà Khuê có người di cư vào Nam, nên chi bộ Đảng không cho phép kết hôn). Theo báo Nhân dân, việc Trần Dần đòi ra khỏi Đảng đã làm cho một số người đi theo. Tham gia Phong trào Nhân văn-Giai phẩm, Trần Dần lên tiếng đòi thay đổi quan điểm lãnh đạo văn nghệ trong quân đội, đòi xuất bản các tác phẩm mang tính cách tân của mình. Chỉ huy đơn vị nhiều lần cảnh cáo nhưng ông vẫn giữ quan điểm, ông liên tiếp cho ra đời các tác phẩm phê phán như “Lão rồng” và chuyện “Anh Cò Lấm” phê phán cải cách ruộng đất. Sau đó ông bị đơn vị giam 3 tháng do không tuân lệnh chỉ huy, cũng theo báo Nhân dân, trong tù ông kéo da cổ, lấy một lưỡi dao cạo râu cứa ngoài da rồi dọa tự tử. Sau đó ông viết thư cho tướng Nguyễn Chí Thanh, và vị tướng này ra lệnh thả ông. 

Nhà thơ Trần Vàng Sao (1942-2018) hầu như không cho xuất bản thơ nhưng vẫn nổi tiếng với “Bài thơ của một người yêu nước mình” ký bút danh Trần Vàng Sao, sáng tác tháng 12 năm 1967 và được chọn trong 100 bài thơ xuất sắc nhất Việt Nam thế kỷ 20. Năm 2008, Nhà xuất bản Giấy Vụn đã cho in tập thơ này.  

Nhà thơ Vũ Hoàng Chương (1916-1976) – Văn phong của ông được cho là sang trọng, có dư vị hoài cổ, giàu chất nhạc, với nhiều sắc thái Đông phương. Ngày 13/4/1976, ông bị Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam bắt giam tại khám Chí Hòa. Bệnh nặng đưa về nhà được 5 ngày thì ông mất tại Sài Gòn. Hoài Thanh – Hoài Chân trong “Thi nhân Việt Nam” đã nhận xét: “… Ý giả Vũ Hoàng Chương định nối cái nghiệp những thi hào-xưa của Đông Á: cái nghiệp say. Người say đủ thứ: say rượu, say đàn, say ca, say tình đong đưa. Người lại còn “hơn” cổ nhân những thứ say mới nhập-cảng: say thuốc phiện, say nhảy đầm. Bấy nhiêu say sưa đều nuôi bằng một say sưa to hơn mọi say sưa khác: say thơ…. cái say sưa của Vũ Hoàng Chương là một thứ say sưa có chừng mực, say sưa mà không hẳn là trụy lạc, mặc dầu từ say sưa đến trụy lạc đường chẳng dài chi. Nhưng trụy lạc hay say sưa đều mang theo một niềm ngao ngán. Niềm ngao ngán ấy ta vốn đã gặp trong thơ xưa”.  

Nhà thơ Xuân Quỳnh (1942-1988) nổi tiếng với nhiều bài thơ được nhiều người biết đến như “Thuyền và biển”, “Sóng”, “Thơ tình cuối mùa thu”, “Tiếng gà trưa”… Xuân Quỳnh mất năm 1988 trong một vụ tai nạn giao thông tại đầu cầu Phú Lương, thị xã Hải Dương, tỉnh Hải Dương, cùng với chồng Lưu Quang Vũ và con trai Lưu Quỳnh Thơ mới 13 tuổi.             

       

Nhà văn hoá Nguyễn Hữu Đang (1913-2007) là người chỉ huy dựng Lễ đài Độc lập tại Quảng trường Ba Đình, nơi Hồ Chí Minh và Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra mắt quốc dân. Ông đã bị kết án 15 năm tù vì tội kích động bạo loạn trong vụ án Phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm. 

Nhà văn Phùng Quán (1932-1995), tác phẩm đầu tay “Vượt Côn Đảo” của ông được giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1955. Trong di cảo hồi ký “Tôi đã trở thành nhà văn như thế nào” do Nhà xuất bản Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh xuất bản năm 2007, ông kể nhiều chi tiết rất thú vị về sự ngẫu nhiên và tình cờ đưa ông từ một người lính trở thành một nhà văn và những biến cố phải gánh chịu nhưng với giọng kể rất hóm hỉnh, không một chút trách móc hay thù hận. Không lâu sau đó, Phùng Quán tham gia phong trào Nhân Văn – Giai Phẩm bằng hai bài thơ “Lời mẹ dặn” và “Chống tham ô lãng phí” (1957). Khi phong trào này chấm dứt, Phùng Quán bị kỷ luật, ra khỏi quân đội, sau đó mất đi tư cách hội viên Hội Nhà văn Việt Nam và phải đi lao động thực tế ở nhiều nơi.

Nhà văn Vũ Trọng Phụng (1912-1939) đã để lại một kho tác phẩm đáng kinh ngạc: hơn 30 truyện ngắn, 9 tập tiểu thuyết, 9 tập phóng sự, 7 vở kịch, cùng một bản dịch vở kịch từ tiếng Pháp, một số bài viết phê bình, tranh luận văn học và hàng trăm bài báo viết về các vấn đề chính trị, xã hội, văn hóa. Một số trích đoạn tác phẩm của ông trong các tác phẩm “Số đỏ” và “Giông tố” đã được đưa vào sách giáo khoa môn Ngữ văn. Tuy nhiên, cũng vì phong cách “tả chân” và yếu tố tình dục trong tác phẩm mà khi sinh thời ông đã bị chính quyền bảo hộ Pháp tại Hà Nội gọi ra tòa vì “tội làm tổn thương phong hóa”. Về sau này, tác phẩm của ông lại bị cấm xuất bản, cấm đọc vì là “tác phẩm suy đồi” tại miền Bắc Việt Nam từ năm 1954 và cả nước từ ngày 30/4/1975 cho đến tận cuối những năm 1980 mới được chính quyền cho lưu hành.

Nhạc sĩ Cung Tiến (1938) được xem như nhạc sĩ trẻ nhất có sáng tác được phổ biến rộng với bài “Hoài cảm” năm 14 tuổi. Mặc dù Cung Tiến chỉ xem âm nhạc như một thú tiêu khiển nhưng ông đã để lại những nhạc phẩm rất giá trị. Ra hải ngoại, Cung Tiến viết nhạc tấu khúc Chinh phụ ngâm năm 1987, soạn cho 21 nhạc khí, được trình diễn lần đầu vào ngày 27/3/1988 tại San Jose, California với dàn nhạc thính phòng San Jose, và đã được giải thưởng Văn Học Nghệ thuật năm 1988. 

Nhạc sĩ Đoàn Chuẩn (1924-2001) là một nghệ sĩ biểu diễn guitar Hawaii, song được biết đến nhiều hơn cả như một nhạc sĩ Việt Nam với số lượng sáng tác ít ỏi nhưng đều trở thành những giai điệu thuộc nằm lòng của nhiều thế hệ. Tất cả ca khúc của ông đều được ghi tên tác giả là “Đoàn Chuẩn-Từ Linh”. Thực ra Từ Linh không trực tiếp tham gia sáng tác, nhưng Đoàn Chuẩn ghi tên chung hai người để tôn vinh người bạn tri âm của mình, tôn vinh tình bạn đã góp phần tạo cảm hứng nghệ thuật. Hiện đã xác định được tổng cộng là hai mươi mốt ca khúc của nhạc sĩ Đoàn Chuẩn, trong đó các sáng tác của ông thường đề cập nhiều đến mùa thu. Những nhạc phẩm nổi tiếng: Tình nghệ sĩ (1947), Gửi gió cho mây ngàn bay (1952), Lá đổ muôn chiều (1954), Tà áo xanh (1955)… 

Nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ (1929-2001) có nhiều sáng tác ca ngợi quê hương, đất nước, con người Việt từ trước 1975. Hoàng Thi Thơ sáng tác trên 500 ca khúc từ tình ca đến nhạc quê hương, dân ca đến nhạc thời trang, đoản khúc đến trường ca, nhạc cảnh đến nhạc kịch. Ngoài ra, tại Sài Gòn, ông có thực hiện ba băng nhạc mang tên ông với những giọng ca thượng thặng thời đó: Hoàng Thi Thơ 1: Rước tình về với quê hương, Hoàng Thi Thơ 2: Việt Nam như đóa hoa xinh, Hoàng Thi Thơ 3: Đưa em qua cánh đồng vàng. 

Nhạc sĩ Lam Phương (1937 – 2020) là một nhạc sĩ tiêu biểu của nền tân nhạc Việt Nam với gần 170 tác phẩm phổ biến từ giữa thập niên 1950 đến nay. Nhạc sĩ Lam Phương trong một lần lên Đà Lạt biểu diễn văn nghệ, ngồi trên khu nội trú nhìn xuống thung lũng ông viết bài “Thành phố buồn” và bán với giá 12 triệu đồng, tiền hồi đó. Ngoài ra còn rất nhiều bản khác như “Tình bơ vơ”, “Duyên kiếp”… khiến ông có một tài sản lớn. Ông nói rằng người ta đi tị nạn chính trị còn tôi tị nạn ái tình. Ở Pái ông đã gặp được một người phụ nữ tên Hường và viết hàng loạt ca khúc vô cùng tươi vui như “Bé yêu”, “Bài tango cho em”. Điển hình là bài “Mùa thu yêu đương” với câu hát “Đường vào Paris có lắm nụ hồng”. Tuy nhiên cuộc tình này không đi đến đâu, nên sau cùng ông viết “Tình vẫn chưa yên”. 

Nhạc sĩ Lê Uyên Phương (1941-1999) – Lê Uyên Phương là nghệ danh chung của vợ chồng nhạc sĩ Lê Minh Lập và ca sĩ Lê Uyên Lâm Phúc Anh. Lê Uyên Phương nổi tiếng bởi việc sáng tác và trình diễn những tình khúc ca ngợi tình yêu nồng nàn, lãng mạn tại Sài Gòn trước năm 1975. Những nhạc phẩm nổi tiếng: Tình khúc cho em, Uống nước bên bờ suối, Vũng lầy của chúng ta, Yêu nhau trong phận người… 

Nhạc sĩ Ngô Thuỵ Miên (1948), một số ca khúc đáng chú ý như: “Giáng ngọc”, “Mùa thu này cho em” (sau đổi là “Mùa thu cho em”), “Gọi nắng” (sau đổi là “Giọt nắng hồng”), “Dấu vết tình yêu” (sau đổi là “Dấu tình sầu”), “Cho những mùa thu” (sau đổi là “Thu trong mắt em”), “Tình khúc tháng 6”, “Mùa thu về trong mắt em” (sau đổi là “Mắt thu”) và “Ngày mai em đi”… Tiếp theo, Ngô Thụy Miên có những nhạc phẩm phổ từ thơ của nhà thơ Nguyên Sa như: “Áo lụa Hà Đông”, “Paris có gì lạ không em”, “Tuổi 13″…

Nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9 (1940-2016) là nhạc sĩ kiêm nhạc công chơi dương cầm. Nguyễn Ánh 9 bắt đầu sự nghiệp viết nhạc một cách rất tình cờ trong một chuyến đi Nhật biểu diễn cùng ca sĩ Khánh Ly. Sau buổi diễn tại hội chợ Osaka, khi cùng với Khánh Ly đứng chờ thang máy lên phòng khách sạn, thấy người bạn mình mang vẻ mặt buồn buồn, Khánh Ly lên tiếng hỏi: “Còn thương nó không bạn?”, ý muốn hỏi về một người bạn gái quen biết Nguyễn Ánh 9 vào thời đó. Sẵn cây đàn ghi-ta trên tay, Nguyễn Ánh 9 gảy ngay rồi cất tiếng hát: “Không! Không! Tôi không còn, tôi không còn yêu em nữa…”. Đến khi trở về Việt Nam, Khánh Ly đề nghị ông soạn nhạc phẩm này. 

Nhạc sĩ Phạm Duy (1921-2013), thường được coi như nhạc sĩ lớn nhất của nền Tân nhạc Việt Nam với lượng sáng tác đồ sộ cũng như đa dạng về thể loại, trong đó có rất nhiều ca khúc trở nên kinh điển và quen thuộc với người Việt. Câu mở đầu của bài “Tình ca”, ca khúc của Phạm Duy viết trong giai đoạn trước 1954 trở thành quen thuộc với mọi người: “Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời, người ơi!…”. Thi sĩ Chế Lan Viên nhắc tới Phạm Duy trong một bài báo tên “Hồi Ký” đăng tại tạp chí Sông Hương ngày 22 tháng 6 năm 1986: “Tất cả về cội, không mất mát gì ư? Có chứ, mất Phạm Duy! Chúng ta tiếc lắm, vì anh có tài lớn. Nhưng chúng ta làm sao được! Anh ấy bỏ chúng ta, chứ chúng ta đâu có bỏ anh.”

Nhạc sĩ Phạm Đình Chương (1929-1991), ông còn là một ca sĩ với nghệ danh Hoài Bắc trong ban hợp ca Thăng Long. Phần nhiều những tác phẩm của Phạm Đình Chương thường được xếp vào dòng tiền chiến bởi mang phong cách trữ tình lãng mạn. Hai sáng tác đầu tiên “Ra đi khi trời vừa sáng” và “Hò leo núi” đều có không khí hào hùng, tươi trẻ. Phạm Đình Chương cũng phổ nhạc từ thơ. Nhiều bản nhạc phổ thơ của ông đã trở thành những bài bất hủ, có một sức sống riêng như: “Đôi mắt người Sơn Tây” (thơ Quang Dũng), “Mộng dưới hoa” (thơ Đinh Hùng), “Nửa hồn thương đau” (thơ Thanh Tâm Tuyền), “Đêm nhớ trăng Sài Gòn” (thơ Du Tử Lê)… Phạm Đình Chương cũng đóng góp cho tân nhạc Việt Nam bài trường ca bất hủ Hội Trùng Dương nói về ba con sông đại diện cho ba miền: sông Hồng, sông Hương và sông Cửu Long.

Nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng (1937-2000) – Năm 1966, Trầm Tử Thiêng gia nhập Cục Tâm lý chiến thuộc Tổng cục Chiến tranh Chính trị, Bộ Tổng Tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Thời gian này ông viết các bản nhạc như: “Quân trường vang tiếng gọi”, “Đêm di hành”, “Mưa trên Poncho”. Sự kiện Tết Mậu Thân 1968, Trầm Tử Thiêng viết bài “Chuyện một chiếc cầu đã gãy” nói về cầu Trường Tiền bị giật sập. Năm 1970, ông viết “Tôn Nữ còn buồn” về trận bão tàn phá miền Nam. Ngoài ra, ông cũng tham gia vào phong trào Du ca Việt Nam. 

Nhạc sĩ Trần Thiện Thanh (1942-2005) còn là ca sĩ với nghệ danh Nhật Trường và được xem như là một trong bốn giọng nam nổi tiếng nhất của nhạc vàng. Về sáng tác, hai chủ đề lớn trong sáng tác của Trần Thiện Thanh là tình yêu và tình lính. Ông sáng tác nhiều nhạc về lính, nhưng nhạc lính của ông không có thù hận, gay gắt, kích động hoặc u uất, bi thảm mà thường là trong sáng vui tươi, làm thi vị hóa và lãng mạn hóa đời lính gian khổ. 

Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn (1939-2001), hiện nay chưa có thống kê chính xác về số tác phẩm để lại của ông. Tuy nhiên số ca khúc của ông được biết đến rộng rãi là 236 ca khúc. Ngoài ra, ông còn được xem là một nhà thơ, một họa sĩ, một ca sĩ và một diễn viên không chuyên. 

Nhạc sĩ Trúc Phương (1933-1995) – Nhiều ca khúc viết bằng giai điệu Bolero của ông trở thành bất hủ và vẫn được yêu thích cho đến tận nay. Năm 1976, Trúc Phương vượt biên nhưng không thành công và bị tịch thu nhà. Những năm sau, ông vượt biên thêm 2 lần nhưng vẫn không thành công. Lúc ra tù, vợ con ly tán, ông sống không nhà cửa, không giấy tờ tùy thân rồi lưu lạc về Trà Vinh, Vĩnh Long và vài nơi khác. Tác phẩm tiêu biểu: “24 giờ phép”, “Ai cho tôi tình yêu”, “Chiều cuối tuần”, “Đò chiều”, “Nửa đêm ngoài phố”, “Tàu đêm năm cũ”, “Tình thắm duyên quê”… 

Nhạc sĩ Từ Công Phụng (1942) là một nhạc sĩ thuộc dân tộc Chàm. Ông cũng là tác giả của các ca khúc trữ tình được nhiều người biết đến như “Bây giờ tháng mấy”, “Mắt lệ cho người”, “Giọt lệ cho ngàn sau”, “Trên ngọn tình sầu”, “Mùa xuân trên đỉnh bình yên”… Ông cũng hát một số trong những bài hát của chính mình. Có một thời ông hát chung với Từ Dung trở thành một cặp song ca nổi tiếng tại Sài Gòn.

Nhạc sĩ Văn Cao (1923-1995), ông là tác giả của ca khúc “Tiến quân ca”, quốc ca chính thức của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đồng thời ông cũng là một trong những cây bút có sức ảnh hưởng lớn nhất của nền Tân nhạc Việt Nam. Ông được giới chuyên môn và công chúng yêu nhạc đánh giá là một trong ba nhạc sĩ nổi bật nhất của nền âm nhạc hiện đại Việt Nam trong thế kỷ XX, cùng với Phạm Duy và Trịnh Công Sơn. Những ca khúc trữ tình lãng mạn như “Bến xuân”, “Suối mơ”, “Thiên Thai”, “Trương Chi”… nhanh chóng trở thành một trong những gương mặt tiên phong, nổi bật nhất của trào lưu lãng mạn trong lịch sử âm nhạc Việt Nam, đặc biệt là để lại những dấu ấn mang tính khai phá của ông trong tân nhạc Việt. 

Nhạc sĩ Vũ Thành An (1943) với các “Bài không tên” là những tác phẩm nổi tiếng của ông. Hiện nay, ông là một phó tế của Giáo hội Công giáo Rôma, đã ngừng sáng tác nhạc tình ca mà chỉ sáng tác thánh ca. Ông cũng là người có nhiều tai tiếng trong thời gian đi học tập cải tạo… 

Nhạc sĩ Xuân Tiên (1921) là một nhạc sĩ có nhiều đóng góp cho nền tân nhạc Việt Nam giai đoạn 1954-1975. Ngoài sáng tác nhiều bản nhạc có giá trị được nhiều người yêu thích như “Khúc hát ân tình”, “Duyên tình”, “Về dưới mái nhà”, … ông còn có khả năng chơi 25 loại nhạc cụ, đồng thời cải tiến và sáng tạo một số nhạc cụ mới. Năm 1976, lúc còn ở Việt Nam, ông chế tác cây đàn 60 dây chơi được tất cả âm giai. Tiếng đàn tương tự tiếng đàn tranh nhưng mạnh và chắc hơn. Năm 1980, ông cải tiến cây đàn bầu cổ truyền với thân đàn làm từ trái bầu dài làm hộp khuếch âm. Đàn này đã nhiều lần được đem đi triển lãm ở Úc, thường được gọi là Đàn bầu Xuân Tiên. Ông vừa mừng sinh nhật tháng 1/ 2021 đại thọ 100 tuổi.

Nhạc sĩ Y Vân (1933-1992) – Y Vân có nghĩa là “Yêu Vân”, tên tiểu thư Tường Vân – người yêu đầu tiên của ông. Ông chọn tên này từ khi chuyện tình giữa ông và cô tan vỡ. Một số ca khúc của ông đã được viết lên để nói lên tâm sự này: “Đò nghèo”, “Ảo ảnh”, “Nhạt nắng”… Bài hát “Lòng mẹ” của ông rất nổi tiếng và được xem như một trong những ca khúc tiêu biểu, sâu sắc và thiêng liêng nhất về tình mẹ, được sáng tác năm 1957. Từ đó đến nay, bài hát đã được nhiều ca sĩ thể hiện, vì thế nó còn là một bài hát rất quen thuộc với người Việt Nam từ ngày ra đời đến bây giờ.

Thầy Tuệ Sỹ (1943): Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ, tục danh Phạm Văn Thương, sinh ngày 15/2/1943 tại Paksé, Lào, quê tại Quảng Bình, Việt Nam. Ông là một học giả uyên bác về Phật giáo, nguyên giáo sư thực thụ của Đại học Vạn Hạnh tại Sài Gòn, nhà văn, nhà thơ, dịch giả và là một người bất đồng chính kiến với chính quyền. Ông được giới học giả Việt Nam đánh giá cao vì đã công bố nhiều tiểu luận, chuyên khảo, thơ và nhiều công trình dịch thuật Phật giáo từ tiếng Phạn, tiếng Trung Hoa và tiếng Nhật. Lúc bị bắt năm 1984, ông và Thích Trí Siêu, được coi là 2 nhà sư uyên bác nhất của Phật giáo Việt Nam, đang soạn thảo quyển Bách khoa Phật học Ðại Tự điển.

Triết gia Trần Đức Thảo (1917-1993) – Năm 1957-1958, ông bị kết án dính líu đến phong trào Nhân văn-Giai phẩm khi công bố hai bài báo có bàn đến một số vấn đề về tự do, dân chủ. Sau vụ Nhân văn-Giai phẩm, ông bị cách chức Phó Giám đốc trường ĐHSP Hà Nội, chức Trưởng khoa Lịch sử chung cho cả ĐHSP và ĐHTH Hà Nội. Trần Ðức Thảo bị cấm giảng dạy, phải dịch thuật lặt vặt để sống, phải bán dần bán mòn những bộ từ điển. Ông hạn chế liên hệ với người khác, bị cô lập trong cuộc sống.

Hoạ sĩ Vĩnh Phối… thầy tôi 

(Theo chú thích của họa sĩ Trần Thế Vĩnh)

Chân dung tự họa của Trần Thế Vĩnh

Họa sĩ Trần Thế Vĩnh

Họa sĩ Trần Thế Vĩnh
Đào Nguyên Thông sưu tập
From: TU-PHUNG

Steve Bannon, từng được Trump ân xá, bị New York truy tố tội lừa đảo

NEW YORK, New York (NV) – Ông Steve Bannon, người từng là chiến lược gia của cựu Tổng Thống Donald Trump, dự trù sẽ ra trình diện văn phòng công tố ở New York vào Thứ Năm, 8 Tháng Chín, vì các cáo buộc liên quan đến nỗ lực quyên góp xây tường biên giới phía Nam nước Mỹ, theo các nguồn tin thông thạo.

Báo Washington Post cho hay ông Bannon, người vừa bị kết tội khinh thường Quốc Hội chỉ mấy tuần trước đây, và gần hai năm sau khi được ông Trump ân xá về tội lừa đảo cấp liên bang, nay bị truy tố tội hình sự mới, cũng liên quan đến vụ quyên góp này, nhưng ở cấp tiểu bang.

Ông Stephen Bannon. (Hình: Tasos Katopodis/Getty Images)

Theo bản tin của CNN, văn phòng biện lý ở Manhattan mở cuộc điều tra về ông Bannon và các nỗ lực quyên góp có tên “We Build The Wall” sau khi ông được ân xá.

Trong mấy tháng gần đây, có mấy người thân cận với ông Bannon phải ra trình diện trước đại bồi thẩm đoàn tiểu bang.

Ông Bannon vào chiều tối Thứ Ba đưa ra bản thông cáo trong đó nói rằng việc truy tố là dựa trên các tội danh “giả tạo” và “chỉ là việc dùng hệ thống pháp lý làm công cụ tấn công đảng phái.”

Ông Bannon nói tiếp rằng ông hãnh diện “là tiếng nói hàng đầu trong việc bảo vệ biên giới của chúng ta và xây bức tường để giữ cho đất nước chúng ta được an toàn, khỏi bị sự đe dọa của thành phần buôn bán ma túy và các tay tội phạm hung hãn.”

Ông Bannon và ba người khác trước đây bị chính quyền liên bang truy tố là lừa đảo những người đóng góp khoảng hơn $25 triệu cho việc xây tường.

Ông Bannon bị truy tố là chuyển hơn $1 triệu cho người đồng lõa và chi nhiều trăm ngàn đô la cho các mục đích cá nhân, trong khi những người đóng góp, gồm cả những người ở tiểu bang New York, được hứa hẹn là tất cả số tiền thu được sẽ dùng vào việc xây tường.

Các công tố viên ở Manhattan đã đòi hồ sơ ngân hàng và tiến hành cuộc điều tra. Tuy nhiên, họ chờ cho tới khi giới chức liên bang hoàn tất cuộc truy tố ba người được coi là đồng lõa với ông Bannon, nhưng không được ân xá.

Hồi Tháng Tư, hai người đồng lõa là Brian Kolfage và Andrew Badolato nhận tội. Trong khi đó, phiên xử người thứ ba là Timothy Shea được tòa tuyên bố hủy bỏ sau khi bồi thẩm đoàn không đồng ý được là có kết tội hay không. (V.Giang) 

THƯƠNG XÓT LÀ MỘT QUÀ TẶNG-Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

THƯƠNG XÓT LÀ MỘT QUÀ TẶNG

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Thứ Hai Tuần XXIV – Mùa Thường Niên

“Tôi không xứng đáng được Thầy vào nhà tôi”.

Jean-Pierre de Caussade, linh mục Dòng Tên người Pháp, nói, “Để thoát khỏi nỗi đau gây nên bởi hối tiếc về quá khứ hay sợ hãi về tương lai, hãy để lại dĩ vãng cho lòng thương xót của Thiên Chúa; trao tương lai cho sự quan phòng của Ngài; và dâng hiện tại cho tình yêu Chúa bằng việc trung thành với ân sủng. Vì lẽ, ‘thương xót là một quà tặng’, không phải là một quyền!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa hôm nay chứng thực điều cha Jean-Pierre nói, “‘thương xót là một quà tặng’, không phải là một quyền!”. Sự thật này thể hiện qua thái độ khiêm nhường tuyệt vời của viên sĩ quan ngoại giáo, khi ông sai người đến xin Chúa Giêsu chữa cho đầy tớ mình, “Tôi không xứng đáng được Thầy vào nhà tôi; nhưng xin Thầy phán một lời, thì đầy tớ tôi được lành!”.

Một sự thật sâu sắc Tin Mừng hôm nay tiết lộ là ‘khiêm nhường, đức tin và lòng thương xót’ gắn liền nhau. Viên sĩ quan dường như đã nhận thức được sự vĩ đại của Chúa Giêsu mà ông đã nghe biết; từ đó, ông cảm thấy mình bất xứng tột cùng. Tuyên bố của ông là một hành vi đức tin cao cả; và kết quả là lòng thương xót được gửi đến cho ông và người đầy tớ của ông.

Rất thường xuyên khi cầu nguyện, chúng ta cầu nguyện như thể chúng ta có quyền hưởng mọi ân điển của Thiên Chúa. Đây là một sai lầm sâu sắc! Hãy học gương tự hạ của viên sĩ quan bằng cách hiểu rằng, chúng ta không có quyền trước bất cứ điều gì đến từ Ngài. Thừa nhận khiêm hạ này là nền tảng cần thiết để đón nhận lòng thương xót dồi dào của Ngài; vì ‘thương xót là một quà tặng’, không phải là một quyền! Nhưng tin tốt lành là trái tim Thiên Chúa luôn bùng cháy với ước muốn tuôn đổ quà tặng thương xót đó. Việc thừa nhận lòng thương xót của Thiên Chúa như một món quà tuyệt đối mà chúng ta không có quyền đòi hỏi, mở ra sức mạnh của nó trong cuộc sống chúng ta. Hiểu được lẽ thật này là một lời tuyên xưng đức tin mạnh mẽ vào Thiên Chúa và làm vui lòng Ngài
cách tuyệt đối và dồi dào nhất.

Trong thư Côrintô hôm nay, thánh Phaolô nhắc đến Bí Tích Thánh Thể, một hồng ân thương xót nhưng không của Thiên Chúa. Vì thế, một khi đến với Thánh Thể, tín hữu Côrintô phải nên tốt hơn, chứ không để nên tệ hơn. Thánh Thể biểu hiện rõ nét rằng, ‘thương xót là một quà tặng’. Vì thế, “Mỗi khi anh em ăn bánh và uống chén này, anh em loan truyền việc Chúa chịu chết, cho tới khi Chúa lại đến”. Thánh Lễ không là đặc quyền của ai, nhưng cho mọi người.

Anh Chị em,

“Con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con!”. Hôm nay, bạn và tôi cùng suy gẫm về những lời đầy cảm hứng của viên sĩ quan ngoại giáo giàu có này, lời mà chúng ta đọc mỗi lần trước khi rước Chúa, “Nhưng xin Chúa phán một lời, thì linh hồn con sẽ lành mạnh!”. Hãy lặp đi lặp lại nhiều lần, hãy để những lời này ứa trào từ trái tim chật hẹp của mình; hãy để chúng trở thành nền tảng của mối quan hệ giữa bạn với Chúa Thánh Thể. Với sự khiêm nhường này, bạn và tôi sẽ được ban phúc dồi dào cùng với niềm vui chứa chan. Không ai trong chúng ta dám nói, lòng tôi xứng đáng trở nên cung điện cho Vua muôn vua, Chúa các chúa; cũng không ai dám nghĩ tâm hồn mình trong ngần như tâm hồn một trẻ thơ! Chúng ta là những tội nhân khốn cùng, đáng chết ngàn lần, nhưng được xót thương. Và như vậy, rõ ràng, ‘thương xót là một quà tặng’ hoàn toàn miễn phí. Vấn đề còn lại, mỗi người sống sao cho xứng đáng với quà tặng xót thương đó!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con; xin giúp con bớt bất xứng mỗi ngày trước khi rước Chúa, Vua Cả Thiên Đàng!”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

From: KimBang Nguyen

May Mà Có Em – truyện ngắn – Tường Lam

 May Mà Có Em – truyện ngắn – Tường Lam

Quỳnh lấy vé máy bay về Việt Nam một cách vội vàng, mấy ngày nay nàng ăn, nói, đi, đứng như người mộng du.

  Tình cờ sang Cali dự đám cưới người cháu, Quỳnh gặp lại Trang, người bạn học thân nhất, ngồi cạnh nhau trong giảng đường Văn Khoa. Trang cho Quỳnh biết mới sang Mỹ được hai tháng. Trước khi đi Trang về thăm quê nội ở Trà Vinh và đã gặp Tân! Thương binh cụt một chân, ngồi bán vé số ngoài vỉa hè độ nhật. Nghe tin Tân còn sống, tim Quỳnh co thắt, toát mồ hôi và xây xẩm cả mặt mày. Quỳnh thì thầm như người mất hồn. “Trời ơi! Tân ơi! Anh còn sống sao? Mấy chục năm rồi, Tân ơi! Anh có biết rằng em tiếc thương anh ngần nào không? Cám ơn trời Phật đã cho Tân còn sống!!!” Dù hoàn cảnh thế nào Quỳnh cũng phải trở về gặp lại Tân! Gặp lại sự sống của chính nàng.

Theo gia đình Trang dự lễ mãn khóa 22 sĩ quan trừ bị Thủ Đức. Ngồi trên khán đài trong Vũ Đình Trường, sau bài diễn văn của Thiếu Tướng Chỉ Huy Trưởng, tiếng loa uy nghi dõng dạc:

– Quỳ xuống các sinh viên sĩ quan.

 Sinh viên sĩ quan thủ khoa nhận kiếm, cung bắn đi bốn hướng tượng trưng chí trai tang bồng hồ thỉ, sau khi hàng ngàn sinh viên khác nhịp nhàng quỳ xuống thẳng hàng để được gắn cấp bậc sĩ quan.

– Đứng lên các tân sĩ quan.

 Chỉ cần hai động tác quỳ xuống, đứng lên với cấp bậc trên cầu vai biết bao tháng ngày gian lao! Những bữa cơm chan mồ hôi, nước mưa trong rừng cao su … Ngoài bãi tập và biết bao gian nguy ngoài chiến trường chờ đón họ! Sau mười ngày phép cuối khóa của những người trai trong thời ly loạn! Phải “xếp bút nghiên theo việc đao cung”.

 Trên hai mươi năm qua rồi, đêm mãn khóa bập bùng kỷ niệm vẫn còn mới nguyên trong tâm hồn Quỳnh, đêm định mệnh để Quỳnh quen Tân do anh trai Trang; người bạn cùng khóa với Tân giới thiệu.

 Ngồi trong xe cạnh nhau, hai người chỉ trao đổi những lời thăm hỏi xã giao chừng mực. Ở Tân, Quỳnh thấy người con trai đã được tôi luyện qua gian lao, nắng mưa quân trường, tóc hớt cao, nước da bánh mật sạm nắng, tự dưng với tuổi mười bảy của đứa con gái mới lớn, Quỳnh thấy thương và tội nghiệp Tân quá đi thôi. Tân từ biệt mọi người – sau khi xin địa chỉ Quỳnh -ra bến xe miền Tây về quê thăm mẹ! Tân chỉ có hai mẹ con.

 Trước ngày ra đơn vị, Tân chọn binh chủng mũ nâu Biệt Động Quân như lời tâm sự: “Không đi lính thì thôi, đi phải chọn binh chủng xứng đáng và phải đánh đấm ra trò”. Tân có đến thăm Quỳnh đi phố, ăn trưa và trong bóng tối rạp Ciné Lê Lợi, cầm tay Quỳnh, Tân nói lời từ giã:

– Mai anh đi! Quỳnh ở lại vui! Ráng học giỏi.

 Tân ra đơn vị, Quỳnh thấy hụt hẫng trong lòng và tình cờ, tình tiết thương tâm trong cuốn phim “Le temps d’aimer c’est le temps de mourir” mà Quỳnh và Tân đã xem! Suốt thời gian dài sau này Quỳnh cứ tự hỏi: “Tại sao có một thời để yêu lại phải có một thời để chết???”.

 Chiến trận đã cuốn Tân đi biền biệt! Những địa danh mịt mùng xa xôi: Bình Định, Bồng Sơn, Tam Quan, Sa Huỳnh, Phá Tam Giang…tiếp nối trên đầu mỗi cánh thư đầy ắp yêu thương của Tân gởi về; một thứ hạnh phúc nhỏ nhoi mà nhiều lần Quỳnh đã mang vào giấc ngủ.

 Tình yêu qua những cánh thư đã làm Quỳnh trưởng thành, nàng đọc báo, nghe đài phát thanh, tin tức những trận đánh lớn đã khiến nàng bỏ ăn! Đóng cửa nằm yên trong phòng một mình.

 Quỳnh thường đi chùa! Một lần nghe có ông thầy ở Thủ Đức rất tài; làm phép trong tờ giấy bạc xếp thành hình tam giác, tránh được lằn tên mũi đạn. Quỳnh vội vàng thỉnh phép bọc bằng vải nhung tím, ép nylon gởi cho Tân và nàng bắt buộc Tân phải đeo bên mình, Tân phải sống để yêu thương nàng. Những gói mè xửng, chiếc nón bài thơ! Nhận được quà của Tân gởi về, Quỳnh cảm động mừng rơi nước mắt.

 Đơn vị Tân tham dự hành quân vượt biên sang Lào! Lam Sơn 719. Tiểu đoàn Tân vừa được đổ xuống một đỉnh đồi, và rồi trận chiến khóc liệt xảy ra!  Sau hai giờ chiến đấu bằng lựu đạn, đơn vị Tân đã bị tràn ngập… Ra trường chưa được hai năm Tân đã được thăng cấp tại mặt trận hai lần và giữ chức vụ Đại Đội Trưởng.

 Thân nhân gia đình đến hậu cứ đơn vị hỏi thăm tin tức về chồng con họ một cách nhiệt tình, tự nhiên. Thấy Quỳnh đứng rụt rè bỡ ngỡ, người sĩ quan hậu cứ đến hỏi:

– Xin lỗi cô tìm ai?

Quỳnh lí nhí:

– Dạ! Em muốn biết tin tức Trung Úy Tân Đại Đội Trưởng.

–  Cô là gì của Trung Úy Tân?

–  Dạ! Vợ.

Má Quỳnh ửng đỏ. Người sĩ quan hậu cứ ranh mãnh trả lời nàng:

– Đơn vị đang trong vùng hành quân! Có tin tức gì tôi sẽ thông báo cho bà sau.

 Chữ bà đã làm Quỳnh ngượng ngùng làm sao ấy. Nghĩ cho cùng rồi cũng đúng thôi. Quỳnh đã trao đời con gái cho Tân sau lần thăm ở Pleiku, khi Tân đang nằm điều trị ở Quân Y Viện để gắp một mảnh lựu đạn xuyên vào vai. Quỳnh chưa biết đam mê xác thịt, nàng muốn có con với Tân. Nếu lỡ Tân không về nàng còn giữ được giọt máu cho Tân! Cho mẹ Tân có người nối dõi tông đường! Quỳnh không có thời gian chọn lựa trong vòng tay Tân! Tình yêu đếm bằng phút giây với nỗi chết không rời! Tội cho Quỳnh biết bao! Khi lỡ có người yêu ngoài mặt trận.

 Quỳnh tỉnh dậy trong nhà thương, khi tuần sau lên hậu cứ và được người sĩ quan trực trả lời:

– Xin thành thật chia buồn cùng bà! Trung Úy Tân được báo cáo đã mất tích.

 Ba năm trời Quỳnh đi mọi nơi, hỏi không biết bao người đội mũ nâu; không nhận ra được một tin tức nào của Tân.

 Những ngày cuối tháng tư năm 1975, trong khi Xuân Lộc bị tấn công, Biên Hòa bị pháo kích; gia đình gồm cha, mẹ Quỳnh và đứa em trai di tản, sau đó định cư tại thành phố Montreal Canada.

Chuyện tình nàng và Tân phút chốc thoáng như mơ mà đã gần ba mươi năm! Một nửa đời người rồi còn gì!!!                                                                                                                                                       

Phi cơ ở độ cao! Quỳnh kéo chăn đắp lên ngực và thì thầm với chính mình:

– Tân ơi! Em phải về gặp anh! Dù thế nào em cũng không thể dối lòng mình được, em yêu anh suốt cuộc đời này.

Người tiếp viên thông báo, phi cơ đã vào địa phận Việt Nam.

 Trước khi đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất, phi cơ đảo đi một vòng lớn, qua khung cửa kính Quỳnh vẫn thấy thửa ruộng, mái tranh lụp sụp, sự nghèo khó làm vòng đai rộng lớn bao quanh thành phố Sài Gòn hoa lệ.

 Qua báo chí, Quỳnh biết rằng hơn bảy mươi lăm phần trăm dân tộc mình là nông dân, suốt đời úp mặt xuống bùn cũng không kiếm đủ miếng ăn cho gia đình! Giàu sang chỉ dành riêng cho thành phần thiểu số có quyền chức trong xã hội! Sự chênh lệch lớn lao giữa nghèo và giàu đó sinh ra sự bất ổn xã hội! Sài Gòn bây giờ là ô nhiễm, xe cộ đủ loại chen chúc luồn lách vô trật tự! Sự công xúc tu sỉ xảy ra ở mọi gốc cây, nhiều lần Quỳnh phải quay mặt đi vì hổ thẹn.

 Ra xa cảng miền Tây, đón xe tốc hành, Quỳnh về Trà Vinh, thành phố Quỳnh đến lần đầu. Quỳnh xuống xe với hai chiếc va li nặng trĩu. Ngơ ngác cố nhớ lời Trang tả; nàng đi lần về phía đầu chợ; thành phố đã lên đèn.

Hàng chục anh xe lôi, xúm quanh hỏi Quỳnh về đâu? Nàng hỏi thăm Tân, cụt chân bán vé số ở đầu phố chợ. Có người nhanh nhẩu trả lời:

– Trung úy Tân! Biệt động Quân bán vé số! Cô lên xe tôi chở đến nhà ổng cho.

– Tân! Biệt Động Quân! Những tiếng thân thương Quỳnh mừng khôn tả.

 Quỳnh đền ơn người chạy xe lôi hậu hĩnh! Trước khi mở cổng bước vào căn nhà ngói ba gian loang lổ gạch vôi nói lên đời sống khó khăn của chủ nhân nó. Quỳnh đưa tay đè lên trái tim, nén xúc động, Quỳnh gõ cửa. Người đàn ông chống nạng bước ra! Nhìn sững nàng! Miệng há hốc kinh ngạc! Đất như sụp dưới chân Quỳnh.

Tân không còn tin ở mắt mình:

– Có phải Quỳnh của anh đây không?

Nàng phóng tới ôm chầm lấy Tân:

– Vâng, em đây! Quỳnh của anh đây.

 Ngoài ngõ, hàng xóm và trẻ em thật đông, tò mò nhìn vào. Người đàn bà tóc bạc như cước, từ nhà sau bước ra lắp bắp hỏi Tân:

– Cô này là ai vậy con?

Tân trả lời mẹ trong xúc động:

– Thưa má! Quỳnh bạn con.

Quỳnh chắp tay lễ phép chào bà. Mẹ Tân bước tới ôm tay Quỳnh vừa mếu máo khóc, vừa nói:

– Thằng Tân gặp lại con! Bây giờ có chết bác cũng vui lòng.

Mẹ Tân vén tay áo lau nước mắt. Tân chống nạng phụ Quỳnh mang mấy va li vào nhà.

 Quỳnh đi tắm, thay đồ mát và bữa cơm đạm bạc được dọn ra gồm: một tô mắm chưng, hai trái cà nâu nướng chan nước mắm tỏi ớt, một dĩa bông so đũa luộc. Ba người cầm đũa, Quỳnh ăn thật ngon miệng! Mấy chục năm ở Canada làm gì có những món này. Tân và mẹ nhìn Quỳnh ăn một cách ái ngại.

Gắp cho Quỳnh bông so đũa luộc, mẹ Tân hỏi Quỳnh:

– Cháu ở đâu về? Lập gia đình được mấy đứa con rồi?

Nàng liếc sang Tân, hình như anh hồi hộp chờ câu trả lời của Quỳnh.

-Thưa Bác, con ở Canada về! Con chưa lập gia đình. Dạ thưa bác, nãy giờ con quên hỏi thăm về vợ con anh Tân.

Tân ngượng ngùng cúi đầu và mẹ Tân cười! Niềm vui trong ánh mắt:

– Bác đã tám mươi tuổi rồi! Thèm cháu nội lắm. Thằng Tân nhiều lần tâm sự với bác, thân nó tật nguyền và suốt đời nói chỉ thương mỗi mình con thôi! Có mấy mối được lắm, nết na có học, nhưng nó đều từ chối. Mỗi chiều bán vé số về tắm rửa cơm nước xong, nó nằm trên võng mắt nhìn lên tấm ảnh nó và con chụp chung chưng trên bàn viết đó! Tay đàn, miệng hát tới khuya. Lần nào bác cũng nghe nó hát bản…Em lây cu…lây cưa…gì đó. Nó hát bản đó hoài sao không chán. Nó nói bản nhạc đó là cuộc đời nó.

– Nghe xong, Quỳnh buông đũa, ngưng ăn! Nắm chặt tay Tân và Quỳnh quay mặt đi để dấu dòng nước mắt tuôn trào. Hồi lâu, nén xúc động, nghẹn ngào Quỳnh hỏi:

– Anh thương em nhiều đến thế sao Tân?

Tân xoa xoa vai Quỳnh giọng như muốn khóc:

– Quỳnh! Em có biết tình yêu và hình bóng em đã nuôi sống cuộc đời tật nguyền của anh.

 Hai người dìu nhau ra ngồi trên băng đá trước hiên nhà. Gió đi lào xào trên tàng cây vú sữa xum xuê trước ngõ, với giọng xúc động, Tân kể lại diễn biến cuộc hành quân sang Lào… và đơn vị Tân bị tràn ngập bởi thiết giáp đối phương, Tân bị đạn đại liên tiện đi mất chân trái! Tân bị bắt làm tù binh, và bị giam cầm 13 năm tại các tỉnh thượng du Bắc Việt, mười ba năm đầy nghiệt ngã, cách biệt với thế giới bên ngoài!

 Năm 1985 họ thả anh, về đây sống với đời buồn tủi tật nguyền, hằng ngày anh đi bán vé số! Hai mẹ con sống cuộc đời cháo rau túng thiếu trong căn nhà kỉ niệm của ba anh, người sĩ quan dù đã chết trong trận Điện Biên Phủ.

Quỳnh cũng kể cho Tân nghe! Từ năm 1972 sau nhiều lần hỏi thăm, kiếm tìm, đơn vị cho biết Tân đã mất tích.

Tháng 4 năm 1975 gia đình nàng di tản và định cư tại Canada; cha mẹ nàng đã qua đời! Nàng làm việc ở một bệnh viện, em trai nàng đỗ bác sĩ đã lập gia đình được hai con.

Riêng Quỳnh vẫn ở vậy. Em nghĩ rằng anh đã chết và em sẽ sống với hình bóng anh suốt cuộc đời này. Bây giờ đang ngồi bên anh em cứ nghĩ mình nằm mơ.

Tân cúi xuống, vén tóc Quỳnh, hai người hôn nhau say đắm! Một nụ hôn của ba mươi năm và dài bằng nửa vòng trái đất.

Buông nhau ra, Quỳnh nũng nịu:

– Em muốn anh đàn và hát cho em nghe.

Tân gật đầu và Quỳnh vào nhà mang đàn ra. Dáng hao gầy, gương mặt nhiều nét kỷ hà học, dạo phiếm và Tân cất tiếng hát! Lời bài hát của một thi sĩ té lầu chết trong một cơn say và Phạm Duy phổ nhạc:
“Phố núi cao phố núi đầy sương
Phố núi cây xanh trời thấp thật buồn
Anh khách lạ đi lên đi xuống
May mà có em, đời còn dễ thương…”

 Tân có ngón đàn thật điêu luyện! Giọng hát khàn đục chất ngất nỗi niềm, xoáy tận vào tim Quỳnh; xuôi về thành phố núi của những cô gái má đỏ môi hồng, mái tóc ướt mềm! Thành phố đi năm phút đã về chốn cũ và trong khách sạn Bồng Lai, trên chiếc giường ra trắng muốt, nàng đã trao thân cho Tân trong một đêm mưa kéo dài.

 Trời thật khuya! Trăng thượng tuần sáng vằng vặc. Quỳnh theo Tân vào phòng! Chiếc giường ngủ trải chiếu bông! Quỳnh ngất ngây trong vòng tay Tân! Mùi đàn ông, mùi nếp non rạ mới đã làm Quỳnh phiêu diêu trong hoan lạc tột cùng. Rõ ràng “đêm nay mới thật là đêm – ai đem trăng sáng trải lên vườn chè”.

 Suốt ba tuần lễ ở nhà Tân! Quỳnh và mẹ Tân đi sắm đồ trang trí lại nhà cửa theo sự yêu cầu nhiều lần của Quỳnh. Quỳnh thuê một chiếc xe du lịch đưa mẹ, Tân và Quỳnh ngắm cảnh Ao Bà Ôm, Tân chỉ cho Quỳnh nơi chú Đạt hôn cháu Diễm trong phim Yêu của Chu Tử do tài tử Anh Ngọc và Thanh Lan đóng. Những hàng cổ thụ, rễ nhô cao trên mặt đất! Mặt hồ gió mát! Phong cảnh tuyệt vời. Ba người cũng đi ngắm biển Long Toàn với những đồi cát chập chùng và những bữa ăn cua luộc ngon nhớ đời.

Bên Quỳnh, Tân như trẻ lại! ăn nói hào sảng như ngày nào khoác áo hoa rừng và đội chiếc mũ nâu.

 Khỏi phải nói! Mẹ Tân thương Quỳnh qua cách đối xử phải đạo của nàng! Nhiều lần bà cảm ơn Quỳnh đã mang về đây niềm vui, hạnh phúc cho Tân! Đứa con trai duy nhất và cũng là tài sản của đời bà.

 Riêng Quỳnh, sau nhiều đêm ngỏ lời! Trước khi chấp nhận, Tân hỏi Quỳnh suy nghĩ kỹ chưa khi chọn một người tật nguyền làm chồng.

 Quỳnh chọn căn nhà cũ kỹ! Có giếng nước mát lạnh, tàng cây vú sữa cho bóng mát suốt ngày, làm nơi cư trú suốt đời bên tình yêu nồng nàn của Tân.

 Quỳnh cùng Tân dạo phố! Không một mặc cảm ngại ngùng nào “bên người yêu tật nguyền chai đá”. Trái lại, Quỳnh còn thầm hãnh diện có người chồng đã hy sinh một phần thân thể cho quê hương đất nước.

 Trước khi Quỳnh trở lại Canada, gia đình Tân tổ chức một bữa tiệc, mời một ít bà con và một số hàng xóm cạnh nhà để tuyên bố lễ cưới giữa Tân và Quỳnh. Mọi người đều cảm động trước mối tình nồng thắm, cách chia gần ba mươi năm của hai người. Trong tiệc cưới, mẹ Tân đã không cầm được nước mắt khi nhìn thấy hạnh phúc của con trai mình.

 Ba tháng sau, trên chuyến bay Cathay Pacific Airline, Quỳnh đã thu xếp mọi việc ổn thỏa để trở về sống suốt đời ở Việt Nam bên cạnh Tân – chồng nàng.

Khách cùng chuyến bay ngưỡng mộ nhìn Quỳnh, tay xách túi nhỏ và vai mang một hộp da như đựng nhạc khí kèn đồng.

Trong quầy khám hành lý! Nhân viên hải quan hách dịch hỏi nàng:

– Sao không thấy bà kê khai hộp da bà mang trên vai. Chúng tôi được lệnh khám xét.

Quỳnh mở dây kéo! Mọi người đều ồ!!! lên một tiếng, ngạc nhiên bên trong lót lớp nỉ đỏ! Không có thứ nhạc cụ nào cả mà là một cái chân giả tuyệt đẹp.

– Bà mang chân giả này về cho ai? Nguyên do nào người này bị tật? Viên hải quan gắt gỏng.

Quỳnh trả lời một cách bình tĩnh:

– Nếu ở phi trường nước khác, tôi sẽ từ chối trả lời câu hỏi này. Nhưng ở đây tôi xin trả lời ông: Tôi mang chân giả này về cho chồng tôi! Anh bị thương trong cuộc hành quân Lam Sơn 719 ở chiến trường Hạ Lào.

– Sau một lúc bàn thảo! Hải quan đồng ý cho Quỳnh đi. Đẩy xe hành lý bước nhanh một đỗi, Quỳnh còn nghe rõ câu nói hằn học lớn tiếng sau lưng:

 Mẹ nó! Mấy thằng thương binh ngụy bây giờ có giá dữ ha!!!

Quỳnh mỉm cười bước nhanh khi nhìn thấy Tân và mẹ vẫy tay chào nàng ngoài khung của kính bên kia đường./.

Tường Lam

From: TU-PHUNG