TẠP GHI HUY PHƯƠNG….
Trở về quê cũ
Hạ Tri Chương, thi sĩ đời Thịnh Đường, xa quê từ nhỏ, lúc trở về đã già, tuy còn giữ giọng nói quê nhà, nhưng lũ trẻ thấy người lạ, bèn hỏi “Khách ở phương nào đến đây?” (Khách tòng hà xứ lai?)
Đối với chúng ta, xa quê gần bốn mươi lăm năm, gần nửa thế kỷ, tính theo đời sống của một con người, thì thời gian này cũng là quá nửa đời người.
Lúc bỏ nước ra đi, dù có hai mươi ba mươi, thì nay trở về cũng đã là một ông già bảy, tám mươi tuổi, tóc đã bạc, trí nhớ không còn minh mẫn như xưa.
Gặp lũ trẻ trong nước ngày nay, dù là ở trên con đường quê hay trong quán cà phê phố thị, cũng không ai đặt câu hỏi: “Khách ở phương nào đến đây?” Vì, lớn lên chúng biết và có nhiều kinh nghiệm về những người tuồng như xa lạ trở về.
Những ông già lạ mặt trở về lối xóm được biết là những “Việt kiều” không cần phải hỏi, nên nếu còn sống, ông Bùi Bảo Trúc có “tưởng tượng mai về khu Ngã Sáu” thì người ta cũng biết ông là ai. Chỉ tiếc rằng: “Tiếng quê nghe vẫn đầy âm cũ, mà cũng lạ tai câu trẻ thơ,” vì ngôn ngữ đã khác hẳn xưa rồi!
Tôi có một cô bạn, hồi hương sau nhiều năm xa xứ, đi một chuyến từ Sài Gòn ra Hà Nội. Để tránh mua cái vé xe lửa giá cao Việt Kiều, cô mượn cái “Chứng Minh Nhân Dân” của người nhà bản địa để mua vé “công dân XHCN,” tiết kiệm được mấy chục đồng.
Lên xe lửa, khi người soát vé xem vé, bấm vé cho cô xong, lúc nhận lại tấm vé, cô buột miệng nói hai tiếng: “Cám Ơn.” Soát vé chứ có cho chác, biếu xén gì đâu mà phải cám ơn. Cái này mới mệt, người trong nước đã quên mất hai chữ “cám ơn” lâu rồi. Vậy đây là người ở đâu mới lại?
Người soát vé bèn cười hỏi: “Khách ở phương nào đến đây?” Thôi đúng đây là Việt Kiều hồi hương, phải mua vé khác giá cao hơn, chịu khó đóng thêm mấy chục đồng, chưa phạt cô cái tội gian dối là may rồi!
Ra Hà Nội, cô Việt kiều đói bụng vào quán ăn, cũng còn mang cái giọng “đi xa mới trở về,” cô nói với người bán hàng: “Cho tôi bát bún!” “Hương âm vô cải” nhưng nội dung thì đã thay đổi rồi!
Cô được câu trả lời như tát vào mặt: “Ở đây có bún bán, chứ chẳng có bún cho!”
Lạ đường hỏi thăm, thì được câu trả lời là “Đéo biết!”
Những Hạ Tri Chương thời nay dù đã luống tuổi, tóc đã bạc hồi hương, bỡ ngỡ như thấy mình trẻ lại khoảng năm mươi tuổi khi nghe một thằng oắt con hay một cô gái đáng tuổi cháu ngoại, gọi khách bằng tiếng “mình,” nghe qua có vẻ ngọt ngào thân thiện, nhưng quả là suồng sã. Tiếng đại danh từ “mình” bây giờ vừa nói về ngôi số một, như một người tự giới thiệu trên mục “tìm bạn tri âm” của một tờ báo: “Mình năm nay ba mươi tuổi, tốt nghiệp Đại Học…” mà cũng là ngôi thứ hai “mình ơi” như gọi một người yêu dấu!
Như một mục trên tở báo Phổ Thông của Nguyễn Vỹ ngày xưa.
Người đi xa về, được nghe tiếng “mình” trong ngôi thứ hai này, được hỏi, sau khi kéo ghế ngồi xuống trong một nhà hàng: “Mình ăn gì?” Hay là thân mật hơn như trong gia đình: “Nhà mình có mấy người?”
Ông Hạ Tri Chương nhìn kỹ mặt người đối thoại, không hề thấy quen biết, cũng chẳng phải là bà vợ già của mình đang ở một nơi xa quê hương, thế thì vì sao lũ trẻ, chúng gọi ta bằng “mình?”
Chữ nghĩa bây giờ loạn xạ, mà âm thanh thì xa lạ, nghe chất chua hơn là vị ngọt, chẳng còn phong cách như của Hà Nội một thời. Có lẽ người đi mang theo quê hương, nên lúc trở lại nhà, vẫn giữ giọng nói ấy, chữ nghĩa ấy, phong cách nho nhã, trong sáng ấy, đã bao năm “hương âm vô cải” (tiếng quê vẫn thế).
Người đi xa trở về quê cũ, nói cũng không ai hiểu, mà cũng chẳng hiểu gì ai nói, ngẩn ngơ đoán chừng. Không lẽ cùng quê hương với nhau mà phải cần đến người thông dịch.
“Ôi, chốn quê hương đẹp hơn cả!” Ông già, bà cụ nào mà không nhớ câu nói ấy trong Quốc Văn Giáo Khoa Thư của một thời niên thiếu. Ai mà không biết chuyện vào mùa Thu, khi cây thay lá, cũng là lúc những con cá hồi trưởng thành, sau một quãng thời gian vùng vẫy ngoài biển lớn, ngược dòng nước để trở về với cội nguồn. Mới đây, nhiều người cũng đã từng nghe câu: “Nếu đi hết biển, con sẽ trở về làng xưa!”
Thế nào chúng ta cũng phải trở về, nhưng không phải là hôm nay!
Trở về khi bạn bè, thân quyến đã không còn ai. Trở về không còn ai là tri kỷ. Trở về khi đất trời trống vắng người xưa, mà những người mới không quen, lũ trẻ thì ngu ngơ xem chúng ta là người lạ lạc loài trên đất mình ngày cũ, hỏi: “Khách tòng hà xứ lai?” (Ông ở xứ nào tới vậy?)
Đó cũng là tâm trạng u hoài, xót xa của Trần Tử Ngang trong “Đăng U Châu đài ca.”
“Ngoảnh lại trước, người xưa vắng vẻ
Trông về sau, quạnh quẽ người sau
Ngẫm hay trời đất dài lâu
Mình ta rơi hạt lệ sầu chứa chan.”
(Bài Ca Trên Đài U Châu *Trần Tử Ngang – Trần Trọng San dịch.)
Trở về chốn cũ để ngậm ngùi.
“Ngước mắt trông lên trời cũng lạ
Nhà ai đây, chứ phải nhà tôi!”
(Trở Về Quê Cũ – Nguyễn Bính)