Một Chuyến Bay Bình Thường Nhưng Mang Theo Câu Chuyện Không Tầm Thường- Truyện ngắn HAY

Kimtrong Lam

Margaret vừa yên vị trong khoang hạng thương gia của chuyến bay từ Los Angeles đến Boston thì một sự huyên náo ở vài hàng ghế phía trước thu hút sự chú ý của tất cả mọi người. 

“Tôi không chấp nhận ngồi cạnh bà ta!” 

Một người đàn ông tên Henry gắt gỏng với tiếp viên, chỉ thẳng vào Margaret bằng ánh mắt khinh miệt.

“Thưa ông, đây là chỗ ngồi của bà ấy, chúng tôi không thể thay đổi,” tiếp viên đáp lại dứt khoát.

Henry nhíu mày, liếc nhìn bộ quần áo giản dị của Margaret.

“Ghế hạng thương gia này không hề rẻ,” ông ta nói to, “và bà ta trông chẳng giống ai có thể ngồi ở đây.”

Margaret, một cụ bà ngoài 80, ngồi im lặng, đôi bàn tay run run nắm chặt chiếc túi nhỏ khi những tiếng xì xào vang lên quanh mình. Những hành khách khác bắt đầu ngoảnh lại nhìn.

Cảm thấy xấu hổ nhưng vẫn điềm tĩnh, bà nghiêng người về phía tiếp viên và nói nhẹ nhàng:

“Nếu làm mọi chuyện dễ dàng hơn, tôi có thể chuyển xuống khoang phổ thông. Tôi đã dành dụm cả đời mới có thể mua vé này, nhưng tôi không muốn gây phiền phức.” 

Tiếp viên lắc đầu kiên quyết. 

“Không, thưa bà, bà đã trả tiền cho chỗ ngồi này và có đầy đủ quyền lợi ở đây. Xin hãy yên vị.”

Cô quay sang Henry, giọng nghiêm khắc:

“Thưa ông, nếu ông không bình tĩnh lại, chúng tôi sẽ phải báo cáo hành vi này.” Henry lầm bầm khó chịu nhưng cuối cùng cũng chịu ngồi xuống.

Margaret điều chỉnh lại túi xách và quay mặt ra cửa sổ, mong cơn hỗn loạn này nhanh chóng qua đi. Đây là lần đầu tiên bà đi máy bay, và mọi thứ đã quá sức choáng ngợp. Khi máy bay cất cánh, Margaret vô tình làm rơi túi. Bất ngờ thay, chính Henry cúi xuống giúp bà nhặt lại.

Ông nhặt lên một chiếc mặt dây chuyền bằng vàng nhỏ bé lăn ra từ túi, ngắm nhìn một lát trước khi đưa lại cho bà. “Chiếc locket này thật đẹp,” ông nói, giọng điệu đã dịu đi. 

“Tôi làm nghề thẩm định đồ cổ nhiều năm rồi, và món đồ này rất có giá trị.”

Margaret mỉm cười nhạt nhòa khi nhận lại kỷ vật. 

“Không phải theo cách ông nghĩ,” bà nói. “Nó là món quà cha tôi tặng mẹ trước khi ra trận. Ông ấy đã không trở về, và nó trở thành thứ quý giá nhất của mẹ tôi. Khi tôi còn nhỏ, bà đã truyền lại nó cho tôi. Đây là ký ức mà không có tiền bạc nào có thể mua được.” 

Bà mở mặt dây chuyền ra, bên trong là hai bức ảnh nhỏ. 

“Đây là cha mẹ tôi,” bà nói, chỉ vào một bức ảnh. 

Sau đó, với một nụ cười đầy hoài niệm, bà chỉ vào bức còn lại. 

“Và đây là con trai tôi.” 

Henry nhướn mày. 

“Con trai bà? Bà đến Boston để thăm cậu ấy sao?” 

Margaret ngập ngừng trước khi trả lời. 

“Không hẳn. Tôi đã phải cho con đi làm con nuôi khi nó còn bé. Khi ấy, tôi không đủ khả năng để nuôi dưỡng nó. Gần đây, tôi tìm lại được nó qua xét nghiệm DNA, nhưng nó không muốn gặp tôi. Nó nói rằng nó đã có cuộc sống riêng và không cần tôi xuất hiện trong đó.” 

Henry cau mày. 

“Thật khó khăn. Nếu nó không muốn gặp bà, tại sao bà vẫn lên chuyến bay này?”

Đôi mắt Margaret long lanh, nhưng giọng bà vẫn vững vàng.

“Hôm nay là sinh nhật của nó. Nó là cơ trưởng của chuyến bay này. Tôi chỉ muốn được gần nó, dù nó không biết tôi ở đây.” 

Henry chết lặng. Một tiếp viên đứng gần đó, đã nghe được toàn bộ câu chuyện, vội vàng rời đi. 

Vài phút sau, giọng nói từ loa phát thanh vang lên. 

“Kính thưa quý khách, đây là cơ trưởng của chuyến bay. Hôm nay, tôi muốn gửi lời chào đặc biệt đến một hành khách đáng kính – mẹ ruột của tôi, người đang bay lần đầu tiên trong đời. Mẹ, cảm ơn mẹ vì đã luôn yêu con, dù từ rất xa. Xin mẹ hãy đợi con khi hạ cánh.”

Tiếng xì xào vang lên khắp khoang, rồi nhường chỗ cho những tràng pháo tay rời rạc nhưng chân thành. 

Margaret run rẩy đưa tay lau những giọt nước mắt. Henry, tràn đầy hối lỗi, nắm lấy tay bà. 

“Tôi xin lỗi vì đã đối xử với bà như vậy,” ông nói thật lòng. “Bà là một người mẹ tuyệt vời.” 

Khi máy bay hạ cánh, hành khách dõi theo khoảnh khắc khi cơ trưởng bước ra từ buồng lái và tiến thẳng đến Margaret. Không chần chừ, anh ôm lấy bà thật chặt. Những tràng vỗ tay bùng lên khắp cabin. 

“Cảm ơn mẹ vì đã yêu con đủ nhiều để cho con một cuộc sống tốt đẹp,” anh thì thầm. 

Margaret siết chặt con trai, giọng bà vỡ òa: 

“Con xứng đáng có được điều tốt nhất, và mẹ chưa bao giờ ngừng nghĩ về con.”

Henry đứng lặng lẽ, lòng trĩu nặng vì điều mà ông từng phán xét quá vội vàng.

Chuyến bay này, khởi đầu bằng sự định kiến, đã trở thành một khoảnh khắc đầy nhân văn về sự gắn kết và tha thứ. Nhưng với Margaret, nó còn hơn cả một chuyến bay – đây là sự khởi đầu mà bà đã mong đợi suốt hơn 60 năm qua.

(Theo Facebook Plutos Sale PM Chien )


 

 CHIEF – Truyen ngan HAY

Chuyện tuổi Xế Chiều – Công Tú Nguyễn

Một con rắn hổ mang chui vào nhà qua một lối cửa mở ở dưới bếp. Lúc đó khoảng 2h chiều, bà cụ Liberata la Victoria 87 tuổi và chú chó Chief giống American Pit Bull Terrier và cháu của bà đang xem TV thì bỗng nhiên Chief nhảy dựng lên và báo động cho bà cụ biết về sự xuất hiện của một con rắn hổ mang cách đó độ 3 thước.

Maria Victoria vội vàng chạy tới và đẩy bà cụ vào một căn phòng và hy vọng con rắn sẽ bỏ đi. Nhưng khi Victoria quay lại thì cô hoảng sợ nhìn thấy con rắn chỉ còn cách khoảng chưa đầy 1 thước, nó bạnh mang ra và chuẩn bị tấn công. Cô hét lên để cầu cứu. Đúng lúc đó thì Chief lao vào giữa con rắn và 2 người phụ nữ, lấy thân mình để che chở 2 người khỏi cú mổ chết người của con rắn. Sau đó nó cắn cổ con rắn, quật ra sàn và giết chết nó.

Nhưng chiến thắng của Chief đã phải trả một cái giá quá đắt. Nó đã bị con rắn mổ vài nhát vào mõm và không lâu sau đó, nó đã trút hơi thở cuối cùng.

Gia đình Fronteras đã cố gọi bác sỹ thú y, nhưng người ta đã không thể làm được gì để cứu Chief. Vết rắn cắn quá gần não và nọc độc đã phát tán quá nhanh.

Ian De la Rama, một người bạn của gia đình Fronteras đã kể lại: “Chỉ chưa đầy 30 phút từ khi bị con rắn cắn, Chief đã bất tỉnh và mất khả năng kiểm soát cơ thể của nó, nhưng nó vẫn cố chống trả lại Thần Chết để được nhìn thấy chủ nó một lần cuối”.

Chồng của Victoria, tên là Marlone, đã vội vã cấp tốc trở về nhà khi nghe hung tin từ vợ anh. Điều cuối cùng mà Chief làm là đưa ánh mắt nhìn lên Marlone và vẫy đuôi. Nó thở dài lần cuối và vĩnh viễn từ giã cõi đời.

Hình ảnh Chief khi chết…

Sưu tầm

BỊ LỪA DỐI – (theo ANTG) – Truyện ngắn HAY

Xuyên Sơn

Tốt nghiệp đại học xong, tôi đi làm nghiên cứu sinh ở Tiệp Khắc trong quãng thời gian khá dài. Ngoài 30 tuổi, tôi mới trở về nước và mới bắt đầu tìm hiểu và lập gia đình.

  Tôi về làm việc ở Viện TH.

Trong quá trình tham gia giảng dạy thêm Trường Đại học TH tại Hà Nội, tôi đã gặp một người con gái rất xinh đẹp và hiền dịu.

Người con gái đó là giảng viên ở ngay trong trường nơi tôi cộng tác.

Ngay từ lần gặp đầu tiên, tôi đã có một tình cảm đặc biệt với vẻ ngoài xinh đẹp và tính cách hiền dịu của cô ấy.

Tôi chủ động tìm hiểu và biết được cô có một mối tình đầu sâu đậm với một người bạn học.

Giống như tôi, người yêu của cô ấy đi tu nghiệp ở nước ngoài, tại Cộng hòa Liên bang Đức.

Cô đã quên cả tuổi thanh xuân để chờ đợi và chung thủy với người yêu.

Thế nhưng người yêu cô cứ khất lần khất lữa mãi không trở về. Hình như anh ta không có ý định trở về Việt Nam sinh sống, nhưng cô gái thì gia đình rất “hoàn cảnh”.

Nhà được hai anh em, anh đi bộ đội và hy sinh ở chiến trường, còn lại một mình cô nên việc dứt bỏ bố mẹ già để ra nước ngoài cùng người yêu là điều không thể.

Đúng lúc ấy, tôi xuất hiện.

Trước tình cảm chân thành của tôi, cô ấy đã nhận lời yêu tôi.

Ngày tôi đưa cô ấy về giới thiệu với gia đình tôi, ông nội tôi và cha tôi ngay phút ban đầu gặp gỡ đã rất hài lòng trước vẻ ngoài xinh đẹp, dịu dàng và đoan trang của cô ấy.

Chuyện tình cảm của chúng tôi diễn ra chóng vánh trong nửa năm là chúng tôi đi đến kết hôn.

Chúng tôi được phân một căn hộ tập thể 20m2 ở Viện TH nơi tôi làm việc.

Sau khi kết hôn, vợ tôi không giảng dạy nữa mà về công tác ở Viện LS gần nhà.

Gần một năm sau chúng tôi đón cậu con trai đầu lòng.

Những năm đó, cuộc sống vừa thoát khỏi bao cấp nên cũng rất khó khăn.

Chúng tôi quyết định chỉ sinh một đứa con và dồn tất cả để dạy dỗ nó nên người, tạo điều kiện tốt nhất cho nó.

Vợ tôi là người kín đáo, lặng lẽ, ít nói, nên cuộc sống của chúng tôi rất yên ấm, hạnh phúc.

Tôi bằng lòng với hạnh phúc hiện tại và thầm cảm ơn cuộc đời đã ban cho tôi người vợ hiền thảo.

Cuộc sống của chúng tôi cứ thế trôi đi. Cả hai vợ chồng đều làm khoa học, công tác nghiên cứu nên thu nhập cũng đạm bạc, cuộc sống đơn giản, chúng tôi cũng không có nhu cầu nhiều hơn.

Thế nhưng mọi bất hạnh bỗng một ngày ập đến như bão lốc.

Tôi còn nhớ như in ngày đó, tôi vừa đi làm về thì đã thấy vợ tôi đang ngồi với một người khách lạ, cô ấy khóc sưng cả mắt.

Khi tôi vừa vào đến nhà thì vợ tôi cứ thế ôm mặt khóc nấc lên.

Tôi hoảng quá không biết có chuyện gì xảy ra thì ngay lập tức, vợ tôi quỳ sụp xuống dưới chân tôi khóc nức nở:

“Em có tội với anh, xin anh hãy tha thứ cho em. Em có tội với gia đình anh, xin anh hãy tha thứ cho em”.

Tôi đứng như trời trồng, trong lòng hỗn loạn vì không hiểu điều gì đang xảy ra.

Nhưng bằng sự nhạy cảm của một người đàn ông, tôi lờ mờ đoán rằng, gia đình tôi, tổ ấm của tôi đang gặp phải bão lớn, và người đàn ông xa lạ đang ngồi trước mặt vợ chồng tôi có lẽ là một nguyên nhân gây ra cơn bão này.

     Cuối cùng thì vợ tôi cũng bình tĩnh lại. Câu chuyện được vợ tôi nói lại.

Dù chỉ mấy câu thôi nhưng tôi nghe như sét đánh ngang tai.

Tôi đổ sụp xuống, choáng váng và tuyệt vọng.

Vợ tôi nói rằng đã mang tội lớn với tôi, rằng suốt trong 5 năm qua cô ấy đã lừa dối tôi, mặc dù sống cùng với tôi nhưng cô ấy vẫn nhớ tới người yêu cũ.

Và điều khủng khiếp nhất, như một phát đại bác nã vào tim tôi tan nát, đó là vợ tôi nói rằng, đứa con trai của chúng tôi chính là đứa con của người đàn ông đang ngồi trước mặt tôi chứ không phải của tôi.

Trước khi cô ấy kết hôn với tôi, người yêu cô ấy đã bay từ Đức về và họ đã gặp gỡ nhau.

Ngay sau khi kết hôn, cô ấy có thai luôn và theo vợ tôi thì cái thai trong bụng của cô ấy chính là giọt máu của người yêu cũ. Mặc dù không đến được với nhau nhưng tình cảm của hai người khá sâu đậm.

Người yêu cũ của cô ấy cũng đã lấy vợ ở nước ngoài.

Thế nhưng do một trục trặc về sức khỏe, sau một trận ốm khá nặng, người yêu cũ của vợ tôi không còn khả năng có con.

Là con trai duy nhất trong một gia đình, lại là tộc trưởng của một dòng họ, việc không thể có con là một tai nạn quá lớn đối với anh ta và gia đình họ tộc của anh ta.

Khi biết người yêu cũ ở Việt Nam sau lần gặp gỡ trước khi kết hôn đã có thai ngay và sinh con như một chiếc phao cứu sinh anh ta. Anh ta đã ly dị vợ trở về nước sinh sống và tìm gặp vợ tôi để xin nhận giọt máu của mình.

Vợ tôi vẫn còn quá nặng tình với mối tình đầu, với người đàn ông mà cô ấy không thể đến được.

Chính vì vậy khi anh ta trở về, gặp lại và van xin, vợ tôi đã thương cảm và bằng lòng.

Dân gian có câu:

“Tình cũ không rủ cũng đến” quả thật không sai.

Vợ tôi cũng không nằm trong trường hợp ngoại lệ.

Tới đây, cô ấy sẽ xin phép tôi và cùng với con trai tôi sẽ ra đi khỏi căn nhà của tôi cùng với người đàn ông kia đang ngồi trước mặt tôi.

Thú thực tôi không còn nghe được gì nữa, không còn biết gì nữa.

Tôi ngồi như một bức tượng và im lặng để mặc hai người một là vợ tôi, một là anh kia trình bày trước tôi và xin tôi tha thứ.

Chúng tôi là những trí thức, lại từng có thời gian học tập, làm việc lâu năm ở nước ngoài nên có thể trong xử sự chúng tôi văn minh và Tây hóa hơn.

Ngay lúc đó, tôi đã im lặng và bước ra khỏi nhà mình.

Tôi trở về nhà của bố mẹ tôi với tâm trạng suy sụp.

Tôi ở lỳ nhà bố mẹ tôi một tuần liền không quay lại nhà mình.

Sau một tuần gần như nằm liệt giường ở nhà bố mẹ, tôi đã qua đi những cảm giác sốc ban đầu.

Tôi suy nghĩ kỹ và đi đến quyết định nói chuyện với bố mẹ tôi chuyện của gia đình tôi.

Bố mẹ tôi đã khóc khi nghe tôi kể chuyện nhưng cả gia đình đồng ý cho chúng tôi ly hôn để vợ và con tôi có thể trở về với gia đình đích thực của cô ấy.

Tôi trở về nhà sau một tuần.

Vợ tôi cũng suy sụp không kém gì tôi.

Cô ấy đã chuẩn bị cho một cuộc ra đi.

Chúng tôi lặng lẽ làm thủ tục ly hôn.

Sẽ không có điều gì xảy ra sau đó nữa nếu như tôi không nghe theo lời khuyên của bà thẩm phán xử vụ ly hôn của chúng tôi.

Chính thẩm phán đã khuyên tôi nên đi xét nghiệm ADN để mọi thứ được rõ ràng minh bạch hơn.

Kết quả như thế nào thì bản thân mình cũng thỏa mãn, không ân hận.

Tôi hoãn vụ ly hôn và quyết định tiến hành xét nghiệm ADN tìm bố đích thực cho con trai tôi.

Tôi không nói gì với vợ tôi về chuyện tôi âm thầm làm.

Tôi chỉ nói với cô ấy là anh cần một thời gian nữa.

Ngày đó, xét nghiệm ADN trong nước rất khó khăn và phải qua rất nhiều thủ tục rườm rà và giấy phép.

Vì thế tôi đã liên lạc với một vài người bạn nước ngoài và gửi các mẫu vật ra nước ngoài làm giúp trong khoảng thời gian nhanh nhất.

Hơn một tháng sau, tôi đã có kết quả xét nghiệm.

Kính thưa các anh các chị.

Tôi như người đã chết đi rồi được sống lại lần thứ hai.

Như kẻ giữ một báu vật quá lớn bỗng một ngày phát hiện ra báu vật đó đã bị đánh cắp và giờ đây sau bao nhiêu tiếc nuối, đau khổ, giày vò bỗng dưng tôi đã tìm lại được báu vật quá lớn ấy cho mình.

Tôi gần như phát điên lên vì hạnh phúc.

Khỏi phải nói, khi cầm kết quả xét nghiệm rõ ràng mười mươi tôi là cha đẻ của con trai tôi, tôi cảm thấy cuộc đời tôi hạnh phúc lại dâng ngập đến đủ đầy.

Tôi không cần gì hơn nữa, không một mong muốn nào khác nữa.

Tôi đã mang kết quả xét nghiệm đưa cho vợ tôi và trình lên tòa án trước sự choáng váng của vợ tôi. Tiếp theo đó là những chuỗi ngày bi kịch của vợ tôi.

Thật lòng, tôi rất thương cô ấy nhưng sự đổ vỡ quá khủng khiếp, tôi không thể nào hàn gắn lại được cho dù tôi rất muốn giữ mẹ cho con trai tôi.

Vợ tôi sau đó cũng không về sống cùng với người ấy.

Tôi cũng không tìm hiểu lý do vì sao, mà thực ra tôi cũng không hề quan tâm đến những gì xảy ra tiếp theo sau đó của họ.

Tôi chỉ biết rằng vợ tôi rất đau khổ.

Cô ấy đã rời khỏi nhà của tôi và để lại đứa con trai cho tôi nuôi dưỡng.

Tuần nào cô ấy cũng đến trường tìm con và chơi với con.

Tôi đã gặp cô ấy và yêu cầu cô ấy làm sao để tránh sự tổn thương cho con trai tôi.

Có thể sau này khi con đã lớn đã hiểu được mọi chuyện thì mẹ con mới lại gặp nhau nhiều hơn.

Vợ tôi đã đồng ý và sau đó, mỗi tháng cô ấy gặp con trai tôi một lần.

Tôi cũng rất thương cô ấy, rất buồn và cảm thấy có lỗi với con trai nhưng số phận đã vậy, tôi không thể làm khác được.

Tôi sống một mình và không kết hôn nữa cho dù có rất nhiều người phụ nữ yêu thương và chia sẻ với tôi.

Tôi nuôi dạy con trai tôi lớn khôn và cháu trở thành một người đàn ông thành đạt.

Vợ tôi cũng không đi bước nữa.

Bà ấy sau đó mua một căn nhà nhỏ trên Phú Thượng và sống một mình.

Bây giờ con trai tôi đã đi làm ở một công ty nước ngoài, cháu lập gia đình và sinh được hai đứa con một trai một gái.

Giờ đây ngày lễ, ngày Tết cả gia đình lại tụ họp đông đủ.

Lần nào họp mặt gia đình, ăn uống hay lễ Tết, con trai và con dâu tôi đều đón mẹ về quây quần.

Các con tôi năn nỉ chúng tôi hãy quay trở về sống với nhau để cho các con cháu được hạnh phúc, gia đình được sum vầy vẹn toàn.

Thế nhưng không hiểu sao tôi không thể quay lại được với vợ tôi nữa.

Bây giờ chúng tôi đều đã có tuổi, sống nương tựa vào nhau vì con vì cháu.

Không phải tôi không thương cô ấy, không phải tôi còn giận hay hận thù gì cô ấy nhưng mỗi lần nhớ đến cảm giác năm xưa khi tôi đứng trước nguy cơ mất con trai và gia đình bỗng dưng bị tước đoạt hết tất cả, tôi lại thấy ớn lạnh xương sống.

Tôi không thể làm gì khác được nữa. Không biết như vậy tôi có ích kỷ quá không.

Nguồn: fb Vô Ngôn


 

Tôi không sợ chết đâu bác sĩ à – Truyện ngắn HAY

Bài viết hay và rất xúc động. Tôi viết trên tường chỗ làm việc để thường xuyên nhắc nhở tôi rằng “ làm sao vui để đợi chết “ làm sao vui lúc chết nếu đang bị bịnh nặng, đang chịu nhiều đau đớn??? Đang tự hỏi và SUY NGẪM? Làm sao và làm sao????? Phụng

Trần Thị Minh Hiền

Một bài viết thật hay của Bs Nguyễn Bảo Trung. Mình chia sẻ về để cả nhà cùng đọc

– Tôi không sợ chết đâu bác sĩ à. Tôi chỉ sợ sống mà không biết mình sống vì điều gì.

Tôi đã sống cả một đời với những tháng ngày nhàm chán của một người đàn bà tủn mủn, cáu gắt và tẻ nhạt. Năm 25 tuổi, tôi đã yêu. Hắn bỏ 1 vợ bốn con dưới quê lấy tôi vì tôi giàu có. Rồi khi tôi mang thai thì hắn đi vượt biên. Hắn cầm của tôi 100 cây vàng với lời thề rằng sẽ quay về đón mẹ con tôi. Vậy mà khi hắn tới Mỹ, hắn đã có vợ mới, một lá thư không gửi về. Sau này gặp lại vài người quen tôi mới biết.

Nhân nào quả nấy phải không bác sĩ? Mình chiếm chồng người ta mà. Mình để 4 đứa con người ta bơ vơ.

Tôi hiểu điều này sau khi đã hận thù đã đời.

Rồi tự dưng một ngày nghe tin dữ. Thằng con tôi bị xe tông chết khi đang đi phượt.

Tôi gào lên sao cái gì ông Trời cũng lấy đi của tôi.

Tôi đóng chặt cửa lòng mình lại.

Không hiểu sao cậu An xuất hiện. Cậu An là nhân viên hốt rác sáng nào cũng đi hốt rác khu phố tôi ở.

Tôi chẳng hiểu sao lúc nào cậu ấy cũng cười tươi trên xe rác. Cậu ấy hay chào tôi: Bà ơi bà có cần con mang cái này cái kia đi giúp không?

Rồi tôi xin được tên và số chứng minh thư của cậu.

Bác sĩ thấy đó, cậu ấy luôn giúp mọi người mang rác đi, khi thì cái sofa khi thì cái tủ lạnh hư … nếu người khác là xin thêm tiền rồi.

– Thế nên bà viết di chúc tặng 2 căn nhà ở phố cho cậu ấy.

– Tôi nhờ bác sĩ và hai cô điều dưỡng ở đây làm chứng tôi hoàn toàn minh mẫn trước khi chết. Nhờ 3 người đưa di chúc này cho luật sư.

– Bà ơi, con không biết bà sống cuộc đời ra sao, nhưng trong giây phút này con thấy bà sống rất rực rỡ, và khuôn mặt bà đó không nhăn nhúm, không khô héo, đặc biệt là đôi mắt rất hiền hoà phúc hậu … không như những người sắp chết khác.

– Mình đâu thể khước từ hay trốn chạy cái chết được. Thôi thì mình hân hoan đón nhận nó thôi bác sĩ à. Bác sĩ cũng thật phúc hậu.

Bà nói xong từ từ nhắm đôi mắt lại.

Mình cầm một bao hồ sơ cùng 2 điều dưỡng bước ra ngoài.

Bầu trời hôm đó thật xanh trong và đẹp. Mình tưởng tượng ra cảnh, cậu An 21 tuổi kia, sẽ hạnh phúc biết chừng nào khi biết được mình đã được yêu thương.

Chúng ta đến thế gian này cố gắng thu góp chắt chiu thật nhiều … rồi cuối cùng rời đi với bàn tay trắng. Không có gì mang theo cả.

Mình quay qua nói với hai em điều dưỡng: Để cuộc sống này được vận hành và để nuôi sống bản thân, mỗi người chúng ta phải có một nghề. Có người làm giám đốc thì có người làm thuê. Có người làm bác sĩ thì có người làm thầy giáo. Có người làm người mẫu thì có người đổ rác. Nghề nào cũng đáng trân trọng. Nhưng hai em thấy đó, khi làm hãy làm với cái tâm với những niềm vui tự mình phải biết tạo ra.

Như cậu An hốt rác. Nghề hốt rác có gì vui? Suốt ngày ngửi mùi hôi thối, bóc những thứ dơ bẩn … nhưng cậu ấy làm với một trái tim vui vẻ. Biết giúp đỡ người khác, đặc biệt là người già.

Thái độ sống với nghề khác nhau dù cùng nghề sẽ cho chúng ta những kết cục khác nhau.

Nghề Y này cũng vậy, cực lắm. Nhưng nếu chúng ta làm với trái tim yêu thương, vui vẻ, nghĩ cách giúp người bệnh … không cần họ phải mang ơn, không cần họ đáp lại điều gì, trước tiên chúng ta đã tìm được niềm vui và mục đích sống của mình rồi. Và trước tiên chúng ta đã có một trái tim vui vẻ!

Làm mà như trả nợ quỷ thần. Làm mà qua quýt đợi tới cuối tháng lãnh lương. Làm mà không có trái tim ở đó. Thì nghề chỉ giúp chúng ta tồn tại, không giúp chúng ta sống!”

Chúc mừng ngày quốc tế hạnh phúc 20.3. Hãy hạnh phúc trong chính sự chọn lựa của chính mình và nên an vui vì điều đó!


 

Thằng lơ xe đò trong văn hóa Miền Nam – Truyen ngan HAY

Kimtrong Lam

(Bài rất dài nhưng đọc không uổng. Merci các bạn đã đọc tới sau chót bài!)

Đi xe đò mà không có lơ thì khỏi xuất bến. Anh lơ mang hành lý hàng hóa của khách lên mui, sắp xếp ghế cho khách, dẫn người già lên xe, là cái loa báo hiệu quảng đường khách sắp tới.

Lơ xe có quyền lực ghê lắm, có thể đuổi khách xuống nếu phát hiện đi chui.

Ai đi xe đò Sài Gòn Mỹ Tho sẽ gặp vầy:

“Sắp tới Tân Hương, bà con nào xuống chuẩn bị đồ đạc nghen!”

Ngồi chưa nóng đít là đã tới ngã ba Phú Mỹ, tới Tân Hiệp.

Ai đi xe đò Chợ Lớn Cần Đước sẽ nhớ giọng anh lơ:

“Tới Cầu Ông Thìn bà con ơi! Tới Kế Mỹ rồi.Tới cầu Mồng Gà rồi.

Tới Chợ Trạm bà con cô bác nào xuống chuẩn bị nghen!”

Nhớ cầu Nhị Thiên Đường, nhớ cầu Ông Thìn như răng bà già sắp rụng, nhớ cầu Mồng Gà và cầu Chợ Trạm trong bụi đỏ mù trời!

Nghề lơ xe là một nghề mà người Nam Kỳ nào cũng biết.

Mấy bà già kêu “Thằng lơ”. Mấy em tre trẻ kêu “Anh lơ”. Mấy em học sinh kêu “Chú lơ”.

Thông thường kêu là “Thằng lơ” là hết xi mum.

Đi dê gái, mới tán gái vài câu mấy em chảnh xí một cái: “Cái thứ lơ mà trèo cao, đỉa đòi đeo chưn hạc, xí không thèm!”

Lơ xe tưởng bình dân, ăn mặc lèng xèng vậy chứ là từ tiếng Pháp à!, nó là “Controleur” người soát vé trong tiếng Pháp.

Người Nam Kỳ nhớ chữ leur và biến thành “lơ xe”.

Người Nam Kỳ xưa xài hàng Tây không hà, kêu tài xế là sốp phơ (chauffeur), sốp phơ ôm cái bánh lái kêu là ôm vô lăng (volant).

Khi khách lên xe, anh lơ sẽ dộng vô thành xe nói lớn:

“Bà con cô bác ngồi ngay ngắn, giữ kỹ đồ đạc, xe chuẩn bị đề pa!”

Đề pa tiếng Pháp là départ có nghĩa là khởi hành, rồ máy xe chạy.

“Sài Gòn có bến Chương Dương

Có dinh Độc Lập, có đường Tự Do

Phường Chợ Quán, khóm Cầu Kho

Bến xe Lục Tỉnh, con đò Thủ Thiêm.”

Xin dông dài dẫn về thăm một chút cái bến Miền Nam của chúng ta.

Ở Miền Nam mình, nơi ghe tàu đậu nhiều bên sông kêu là bến, từ bến ghe,bến đò tới bến xe.

Sài Gòn có  Bến Nghé, có Bến Thành. Dạt qua Bình Dương Thủ Dầu Một có Bến Cỏ, Bến Củi là nơi bán cỏ cho ngựa ăn và bán củi.

Bến Cát là nơi tập trung ghe chở cát, Bến Súc là nơi buôn bán cây mà thuộc loại lớn, người Nam Kỳ kêu những cây lớn còn nguyên hình là cây súc.

Bến Thế Thủ Dầu Một là cái bến có trạm thâu thuế thuyền bè qua lại kêu là Bến Thuế, lâu ngày dân Bình Dương đọc thành Bến Thế.

Bây giờ chúng ta chạy về hướng Miền Tây.

Qua cầu Bình Điền, Chợ Đệm ta đụng Bến Lức, nơi có khóm nổi tiếng ngon ngọt, phải qua cái cầu khá lớn về dưới

Bến Lức là tên của sông Vàm Cỏ Đông chảy qua khúc này.

Bến Lức là bến sông có nhiều cây lứt và không loại trừ có xuất xứ từ gốc Khmer.

Trong sử Nguyễn, chữ tên Hán Việt của Bến Lức là Lật Giang.

Chúng ta về Mỹ Tho sẽ gặp cầu Bến Chùa, nó là cái bến có cái chùa gần đó, dễ hiểu.

Mỹ Tho là một cái trung tâm về Miền Tây, có ga xe lửa, có cầu tàu lục tỉnh, mọi thứ đều nằm trên Quai Galliéni (bến Trưng Trắc).

Năm xưa quan lớn Phan Thanh Giản từ Huế vể Bảo Thạnh Ba Tri thì phải ghé Mỹ Tho kiếm đò ở vàm sông Bảo Định này rồi lên ghe đâm ngang ra sông Cửa Tiểu và Cửa Đại rồi vô đến sông Ba Lai về Bảo Thạnh.

Thời Nguyễn bến đò nằm mé bên Chợ Cũ, Bến Tắm Ngựa, nằm cuối đường Trịnh Hoài Đức.

Mỹ Tho có cái bến tàu này là trạm sông lớn nhứt về các tỉnh Miền Tây, về Châu Đốc, về Cần Thơ, Cà Mau…..

Bến tàu lục tỉnh Mỹ Tho ngày đêm lúc nhúc người và người, tàu ghe chen chúc, tiếng réo gọi nhau rân trời.

Tại cầu tàu lục tỉnh, ngoài tàu khách còn có ghe thương hồ chất hàng lên chợ Mỹ Tho, lòng vòng đó có nhiều chiếc ghe nhỏ chèo bán đồ ăn, phần đông là những cô còn trẻ, dân Mỹ Tho kêu là “gái bán vàm”.

Và chúng ta qua Bến Tre.

“Bến Tre Bến Tre hỡi!

Có nhớ gã thương hồ

Khua dầm loang nắng đục

Lẩn thẩn sầu bán thơ?”

Có 2 lý giải về Bến Tre:

-Bến Tre xuất phát từ gốc Khmer là Srok Tre với nghĩa là Sóc Tre hay Bến Tre.

-Bến Tre có nguồn gốc Khmer là Sork Kompong Treay nghĩa là xứ bến cá

Xứ này cá đồng nhiều.

Ngày nay vẫn còn các địa danh tên cá như cầu Cá Lóc,nên chữ Sork Kompong Treay cũng nghe có lý.

Trên bờ Rạch Bến Tre có cái chợ Bến Tre.

Khi Pháp thành lập hạt tham biện Bến Tre đã đặt tỉnh lỵ ngay khu vực đất trung tâm của làng An Hội này, cái tên Bến Tre là lấy tên cái chợ Bến Tre này.

Xuống Cần Thơ có Bến Ninh Kiều.

Thời Pháp tên bến này là Quai de Commerce,dân gọi là Bến Hàng Dương. Năm 1958 ông tỉnh trưởng Cần Thơ vì mê bài “Bình Ngô đại cáo”, mê câu “Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh hôi vạn dặm-Tụy Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm” nên đặt tên là Bến Ninh Kiều.

Thiệt không hiểu nỗi vì sao lại lấy một địa danh có mùi máu tanh ngoài Bắc đặt tên cho một bến sông thơ mộng Cần Thơ?

Đó cũng là sai lầm.

Có lẽ muốn “lạ” hơn Sài Gòn vì Sài Gòn đã có Bến Bạch Đằng, Bến Hàm Tử, Bến Vân Đồn, Bến Chương Dương là tên những trận thủy chiến.

Nhưng Ninh Kiều là câu thơ máu.

Sài Gòn còn có Bến Lê Quang Liêm, Bến Tôn Thất Thuyết, Bến Trần Xuân Soạn, Bến Mễ Cốc, Bến Bình Đông, Bến Bình Tây, Bến Bãi Sậy.

Miền Tây nổi tiếng nhiều kinh rạch, nhiều cầu thì cũng nhiều đò, chỗ ghe rước khách kêu là bến đò.

Rồi chợ cũng cất sát sông,dễ hiểu là cho tàu bè chở hàng hóa lên chợ cho dễ, vậy là sau chợ sẽ có cái bến.

Cái chợ nổi tiếng nhứt Nam Kỳ, giàu có nhứt Lục Tỉnh là chợ Bến Thành, tên thiệt là chợ Sài Gòn, nằm trên cái bến ngay hào thành Sài Gòn xưa.

Bến xe đò Lục Tỉnh đầu tiên là bến xe bên hông chợ Bến Thành.

Chợ Bến Thành Tây viết là“ Le Marche Central”, dân Nam Kỳ kêu là chợ Bến Thành, chợ Sài Gòn hay chợ Mới.

Chợ Mới được hãng Brossard et Maupin xây dựng trên cái ao Bồ Rệt (Marais Boresse) từ năm 1912 đến năm 1914 thì hoàn tất.

Cái chợ nằm giữa bốn cái lộ.

Mặt tiền day mặt về hướng chánh Nam theo Kinh Dịch là con lộ Place Cuniac (Bùng binh Chợ Bến Thành -Công trường Cộng Hòa-Công trường Diên Hồng-Quảng trường Quách Thị Trang).

Mặt bắc chợ là Rue d’Espagne (Lê Thánh Tôn).

Mặt tây là Rue Schroeder(Phan Châu Trinh).

Phía đông là Rue Viénot (Phan Bội Châu).

Hai con lộ bên hông chợ được Pháp làm bến xe đò lục tỉnh.

Lộ cửa Tây Rue Schroeder (Phan Châu Trinh) là bến xe về Miền Tây. Lộ mé đông Rue Viénot (Phan Bội Châu) là bến xe đò về Miền Đông.

Lúc bấy giờ khu chợ Bến Thành là khu trung tâm Sài Gòn, xế bên có ga xe lửa Sài Gòn-Mỹ Tho thì hành khách từ xe lửa có thể đi bộ qua hông chợ Bến Thành lên xe đò đi các nơi.

Tới những 1940 vẫn còn bến xe hai bên hông chợ Bến Thành.

Sau đó Pháp cho tản bến xe ra khỏi khu vực chợ Bến Thành để giữ văn minh đô thị.

Bến Miền Tây về bến xe Lục Tỉnh Petrus Ký, bến xe Chợ Lớn Bình Tây.

Bến Miền Đông dời về bến xe Nguyễn Cư Trinh, bến xe Nguyễn Thái Học.

Tới những năm 1960 thì chuyển hết về bến xe Petrus Ký.

Rồi thì bến xe Petrus Ký quá tải, xe đi Miền Tây được dời ra Phú Lâm gọi là Xa cảng Miền Tây.

Các hãng xe đò ngày trước ở Sài Gòn rất mạnh, họ chạy xuống Miền Tây, ra Miền Trung, thành ra thuật ngữ “xe đò” vang danh thiên hạ.

Bến xe đò, bến xe lam, bến xe lô.

Xe lô là nói tắt từ “lô ca xông”, tiếng Pháp là location. Đây là loại xe chạy nhanh hơn xe đò, chở ít khách, hàng hóa hơn xe đò.

Xe lô xưa thường của hãng Citroen sản xuất, nó dài, tiêu chuẩn là 7 tới 8 hành khách, nhưng sốp phơ hay nhét trên 10 người cho đủ sở hụi.

Có cả thảy 20 tỉnh ở Nam Kỳ ghép thành vần:

“Gia, Châu, Hà

Rạch, Trà, Sa, Bến

Long, Tân, Sóc, Thủ, Tây, Biên

Mỹ, Bà, Chợ, Vĩnh, Gò, Cần, Bạc. “

Sau thêm Cấp là Vũng Tàu.

Bến xe đò thì không phải tỉnh nào cũng có,nhưng bến xe lam, bến xe lô thì tỉnh nào cũng có.

Tại Lục Tỉnh xưa có rất nhiều bến xe lam.

Mà đi xe lam cũ rất vui, ông lái xe lam phải khởi động bằng cái cây sắt chọt vô cái lỗ đầu xe mà quây nhiều vòng.

Sau thì có xe lam đạp máy tành tạch. Có nhiều khi không nổ máy khách phải hì hụi phụ đẩy.

Xe lam chở nhiều bị nhổng đít, cái đầu chổng lên trời hoài.

Trở lại đề tài “lơ xe”.

Muốn làm lơ xe phải có sức khỏe vì phải trèo lên trèo xuống từ mặt đất lên mui.

Lơ thường đứng hoặc ngồi bẹp dưới sàn vì ghế là của khách đi xe.

Làm lơ xe nhà thường nghèo, vì có nhà giàu nào cho con đi làm cái thứ “lơ xe”.

Tuy nhiên đã có nhiều cuộc tình giữa lơ xe trẻ và nữ hành khách đi xe đò thường, từ gặp rồi quen, giúp bưng đồ riết thương nhau luôn.

Sau 1975 khi cộng sản quản lý Miền Nam kiểu ngăn sông cấm chợ, mấy bà bán đường dài phải o bế ông bán vé xe và ông lơ xe.

Chơi “líp ba ga” với khách thì sẽ có tình thôi.

Trong lịch sử chánh trị thế giới có một ông chủ tịch nước Lào ngày xưa hoạt động nhờ nghề đi lơ xe đò, mà ông này có máu người Việt mới vui !

Hàng ngày không thể thiếu những chuyến xe đò đường dài nối các tỉnh, cũng như không thể thiếu anh lơ xe

Nhiều bà đi bộ ghét lơ xe, bả đi ngoài đường xe đò trờ tới, lơ xe ló cái đầu ra nẹt bả: “Đi đứng gì mà tè le ra đường, muốn ch-ết hả má?”

Bả bực quá chửi lại:

“Ch-ết bà n-ội mày, đồ…cái thứ lơ xe!”

Đúng là cái thứ lơ xe!

( Nhắc mà nhớ, trời ơi sao mà mới như hôm qua vậy cà?)

From: KimTrong Lam


 

ANH CHƯA TỪNG BỎ RƠI EM-Truyện ngắn HAY

 Công Tú Nguyễn  –  Chuyện tuổi Xế Chiều 

MỘT CÂU CHUYỆN RẤT NHÂN VĂN

Tiền trong nhà ngày trước cha mẹ để lại đã tiêu hết, người anh trai không đành lòng để em gái ở nhà đợi chết, cậu dùng chiếc xe kéo tự chế của mình đưa em tới một bệnh viện lớn trên thành phố.

Bác sĩ bị tình cảm của hai anh em làm cho cảm động, sau khi họp bàn các bác sĩ quyết định miễn phí làm phẫu thuật cấy ghép thận, người hiến thận tất nhiên là người anh trai câm của cô bé.

Sau đó bác sĩ lại dẫn cậu anh trai vào phòng làm việc, thẳng thắn nói với anh:

“Nếu hiến thận của cậu cho em gái, thì cô bé có thể sống, nếu không hiến, em gái cậu sẽ nhanh chóng qua đời. tuy nhiên nếu trong cuộc phẫu thuật có gì sai sót, thì tính mạng của cậu cũng có thể là không giữ được”.

Người anh trai câm, sắc mặt tái nhợt, trong lòng nặng trĩu, đầy những suy nghĩ, và có chút do dự. Một lúc sau anh ngẩng đầu nhìn bác sĩ và gật đầu vẫn tiếp tục làm cuộc phẫu thuật này cho em gái. Bác sĩ vui mừng vỗ vai anh, bảo anh về nhà đợi.

Không ngờ, buổi chiều ngày hôm đó, người anh trai câm liền mất tích. Vị bác sĩ hỏi Tiểu Tiểu:

“Rốt cuộc anh trai cháu đã đi đâu? Lúc đi có nói gì với cháu không?”

Tiểu Tiểu nói: “Anh nói với cháu, phải về nhà 1 chuyến”.

Bác sĩ thấy có chút kỳ lạ, nhớ đến sắc mặt tái nhợt khi ông nói với người anh trai câm về sự cố không may xảy ra trong phẫu thuật. Ông cau mày nói:

“Sắp đến ngày phẫu thuật rồi, tại sao anh trai cháu còn về nhà làm gì?”

Tất cả đều đã chuẩn bị kỹ càng, chỉ cần đợi người hiến thận là xong, nhưng vào giờ phút này người anh trai câm lại bỗng dưng mất tích, khiến cả bệnh viện náo loạn.

Một ngày nữa lại trôi qua, người anh trai câm vẫn chưa xuất hiện. Tất cả ý tá, bác sĩ trong viện đều biết chuyện, tất cả mọi người đều không nói ra, nhưng trong lòng đều cho rằng anh nhất định vì sợ quá nên đã chuồn rồi.

Do lo lắng Tiểu Tiểu không chịu được sự đả kích này, bác sĩ và các y tá đều không dám nói trước mặt cô bé. Bất kể là như vậy, Tiểu Tiểu từ sắc mặt của mọi người cũng có thể đoán được ít nhiều, trên khuôn mặt của cô bé không còn những nụ cười vui tươi nữa, cả ngày cô bé đều khóc lóc.

Thời gian phẫu thuật cũng sắp đến, lúc đó, có một người vội vội vàng vàng chạy vào phòng bệnh. Thì ra đó chính là người anh trai câm đã mất tích mấy ngày qua của cô bé.

Tiểu Tiểu vừa nhìn thấy anh, dùng những động tác hình thái để nói chuyện với anh, một lúc sau cô bé bỗng khóc òa.

Mọi người có mặt trong phòng đều mơ hồ: “Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì?”, cuối cùng vì cảm xúc của cô bé lên cao quá mà cuộc phẫu thuật phải hoãn lại.

Vị bác sĩ tò mò hỏi Tiểu Tiểu: “Tất cả mọi người đều muốn biết, vừa rồi, cháu và anh trai đã nói gì với nhau vậy?”

Tiểu Tiểu lau nước mắt, nghẹn ngào nói:

“Cháu hỏi anh trai về nhà làm gì, vì bác sĩ đã miễn phí tiền viện phí và chi phí phẫu thuật rồi, anh nói với cháu là mấy ngày qua anh về nhà để vào rừng kiếm củi, gánh nước. Với số củi và nước đó cháu có thể dùng trong vòng nửa năm”.

Bác sĩ ngạc nhiên hỏi: “Anh trai cháu sao lại làm như vậy?”

Tiểu Tiểu vừa cười vừa khóc nói:

“Cháu cũng hỏi anh như vậy, anh nói để nếu có lỡ xảy ra chuyện gì trong lúc phẫu thuật, nếu anh có qua đời thì cháu cũng không phải lo về việc không có củi đốt và nước dùng”.

Khi đó mọi người mới hiểu những ngày qua không phải vì anh muốn bỏ rơi em gái ở lại, một mình chạy trốn, mà là vì anh muốn chuẩn bị chu đáo cho cuộc sống của người em sau cuộc phẫu thuật nếu như anh không còn ở bên. Biết chuyện ai nấy đều cảm động trước tình cảm của anh dành cho em gái.

Được làm anh em trong cùng một gia đình là phúc phận của mỗi người. Hãy luôn yêu thương quý mến nhau, vì không phải ai cũng có may mắn hạnh phúc đó. Tình cảm anh em là một trong những tình cảm quý giá mà ai cũng nên trân quý.

P/S : Cảm ơn bạn đã đọc bài,nếu thấy hay và ý nghĩa thì đừng quên chia sẻ cho mọi người cùng đọc nhé !

*** Tại đây có nhiều câu chuyện thú vị! Hãy để lại biểu cảm để tôi biết bạn đã đọc. Bạn có thể Share, mời bạn fb nếu muốn!!!

St

TQ


 

Một người đàn ông bị lạc ở đâu đó trong sa mạc – Truyen ngan HAY

TokyoLife 

Ảnh Steve McCurry

Một người đàn ông bị lạc ở đâu đó trong sa mạc.

Lương thực và nước uống ít ỏi của anh nhanh chóng cạn kiệt.

Anh biết rõ rằng nếu không tìm được nước trong vài giờ tới, chờ đợi anh sẽ là bóng tối vô hạn.

Nhưng sâu trong lòng, anh vẫn tin một phép màu nào đó sẽ xảy ra.

Rồi anh nhìn thấy một túp lều. Anh không thể tin vào mắt mình. Trước đó, anh đã nhiều lần bị ảo giác và những hình ảnh đánh lừa. Nhưng giờ đây, anh chẳng còn lựa chọn nào khác ngoài việc tin tưởng.

Dù sao đi nữa, đây chính là hy vọng cuối cùng của anh.

Anh dùng chút sức lực còn lại để đi về phía túp lều. Càng tiến gần, hy vọng của anh càng lớn dần và lần này may mắn cũng đứng về phía anh.

Thật sự có một túp lều ở đó!

Nhưng tại sao vậy? Tại sao túp lều hoàn toàn hoang vắng? Dường như đã không có ai đặt chân đến đây suốt nhiều năm. Dẫu vậy, người đàn ông vẫn bước vào, mang theo hy vọng tìm được nước.

Nhưng cảnh tượng bên trong khiến anh không thể tin vào mắt mình.

Có một chiếc máy bơm nước bằng tay ở đó!

Anh như được tiếp thêm sức mạnh. Khao khát từng giọt nước, anh lao tới và bắt đầu bơm liên tục.

Nhưng chiếc máy bơm đã cạn khô từ lâu. Anh tuyệt vọng, cảm thấy rằng lần này chẳng gì có thể cứu được mình nữa.

Kiệt sức, anh ngã xuống. Đúng lúc ấy, anh nhìn thấy một chai nước treo trên trần túp lều.

Hy vọng lại trào dâng trong tâm trí. Anh lao đến, định mở ra và uống ngay. Nhưng rồi anh thấy một tờ giấy dán trên chai, trên đó viết:

“Hãy dùng nước này để khởi động máy bơm, và đừng quên đổ đầy chai trước khi rời đi.”

Anh rơi vào một tình huống khó khăn. Anh không biết nên uống nước ngay để sống sót hay đổ vào máy bơm để khởi động nó.

Hàng loạt câu hỏi xuất hiện trong đầu anh:

Nếu máy bơm không hoạt động thì sao?

Nếu tờ giấy này chỉ là một trò đùa?

Và ai biết được, có thể dưới lòng đất cũng chẳng còn giọt nước nào…

Nhưng cũng có thể máy bơm sẽ hoạt động.

Có thể điều viết trên tờ giấy là sự thật.

Anh không biết phải làm gì. Sau một hồi bối rối, anh run rẩy mở nắp chai và đổ nước vào máy bơm. Anh cầu nguyện và bắt đầu bơm…

Một lần, hai lần, ba lần… và dòng nước mát lạnh trào ra!

Nước ấy chẳng khác nào thần dược cứu mạng anh. Anh uống thỏa thuê, cảm nhận sự sống trở lại trong cơ thể mình. Đầu óc anh tỉnh táo trở lại.

Anh đổ đầy chai nước rồi treo lại lên trần túp lều. Đúng lúc ấy, anh chợt nhìn thấy một chiếc chai thủy tinh khác ngay trong góc. Mở ra, bên trong có một cây bút chì và một tấm bản đồ, chỉ dẫn lối thoát khỏi sa mạc.

Anh ghi nhớ đường đi, rồi đặt tấm bản đồ lại chỗ cũ. Sau đó, anh đổ đầy những bình nước của mình và rời khỏi túp lều.

Đi được một đoạn, anh quay lại nhìn lần nữa. Nghĩ ngợi một lúc, anh quay trở lại, cầm tờ giấy dán trên chai nước và viết thêm một dòng: “Hãy tin tôi, chiếc máy bơm này thực sự hoạt động!”

Câu chuyện này chính là hình ảnh thu nhỏ của cuộc đời.

Ngay cả trong những hoàn cảnh tuyệt vọng nhất, ta cũng nên giữ vững hy vọng.

Và trước khi nhận được điều gì lớn lao, ta phải biết cho đi trước.

Trong câu chuyện này, nước tượng trưng cho những điều quan trọng trong cuộc sống.

Đối với một số người, đó là tri thức.

Đối với người khác, đó là tình yêu.

Còn với nhiều người, đó là tiền bạc.

Dù là gì đi nữa, để đạt được, ta phải cho đi trước, như đổ nước vào máy bơm, rồi sau đó nhận lại gấp bội phần những gì đã bỏ ra.

-Food for thought-

Theo Bhagwan Sahai Meena

Ảnh Steve McCurry

TokyoLife chia sẻ


 

Tình Người  – HUYÊN CHƯƠNG QUÝ-Truyen ngan HAY

  HUYÊN CHƯƠNG QUÝ

     Tác giả tên thật Quy Ly, tuổi trên 50. Nguyên là sinh viên tại Saigon, một mình vượt biên dường bộ tháng 11/1980 – qua Mỹ cuối tháng 4/ 1982. Công việc: Vài năm vẽ bìa sách cho nhà xuất bản Xuân Thu, vài năm làm bầu show ca nhạc. Hiện là cư dân quận Cam, làm nghề bảng hiệu. Bài viết về nước Mỹ thứ ba của ông nhiều chi tiết sống thực. Mong ông tiếp tục viết.

1.

“Em vì hiếu thuận với cha mẹ nên không trọn được tình với anh. Anh thứ lỗi cho em…” Câu nói này của Huyền tôi nghe hình như quen tai lắm, đâu đó trong các phim bộ Tàu, hay trong các vở tuồng cải lương của người Việt mình. Nhưng cũng rất đúng trong trường hợp của tôi với Huyền. Cha mẹ Huyền không bằng lòng cho Huyền lấy tôi, cho rằng tôi nghèo, không thân, không thế, không thể nào đem lại đời sống hạnh phúc cho Huyền. Chúng tôi chia tay trong nước mắt. Lần đầu tiên trong đời tôi khóc vì một cuộc tình buồn. Tôi phải rời khỏi Quận Cam này ngay. Tôi phải đi đâu thật xa. Thật xa. Để không còn nhìn thấy lại những con đường quen thuộc có tôi với Huyền cùng tay trong tay chung bước. Để không còn nhìn thấy lại căn tiệm cà phê của cha mẹ Huyền, có bóng dáng xinh đẹp của Huyền với đôi mắt bồ câu đen lay láy và nụ cười duyên dáng nở trên môi mỗi khi thấy tôi đến. Tôi hy vọng ở một nơi xa khuất, lạ chỗ, lạ người, tôi có thể dần quên đi Huyền. Vậy là tôi lên đường, với hành lý chỉ có một va li nhỏ quần áo và vỏn vẹn 300 đồng trong túi.

Trên đường phiêu lãng, tôi ghé San Jose để thăm một anh bạn sơ giao tên Phan, quen năm ngoái ở quán cà phê Dễ Thương, Quận Cam. Sẵn nhà còn trống một phòng nên ảnh bảo tôi hãy ở lại và kiếm việc làm, có tiền lương cuối tháng thì trả tiền nhà cho ảnh. Nghe theo lời ảnh, tôi vào làm bồi bàn cho một nhà hàng, lương 6 đồng một giờ. Ngày đầu làm việc, tôi bị mấy bạn làm chung đố kỵ vì nghe chị chủ khen tôi nhanh nhẹn. Họ đâm thọc với mấy chị trong bếp, khiến mấy chị thấy ghét tôi. Trong lúc đứng trong bếp chờ bưng thức ăn, có chị đứng quay lưng về phía tôi và nói móc:

– Đứng chật chổ thêm.

Một chị khác nói hùa theo:

– Có làm được gì đâu mà cũng khen.

Ngày hôm sau, trong lúc đang dọn bàn, tôi nghe vài bạn chụm lại nói với nhau:

– Nó chỉ lãnh tiền giờ, không có chia típ đâu. Coi chừng nó ăn cắp tiền típ của tụi mình đó.

Tôi biết cái nạn “ma cũ ăn hiếp ma mới” ở đâu cũng có, nên tôi cố gắng nhẫn nhịn, không đôi co với ai. Nhưng, một bạn khác còn chơi xấc hơn, trong lúc tôi bưng thau chén dĩa dơ đi ngang, đã thình lình đưa chân ra chặn bước chân tôi. Tôi ngã chúi về phía trước, nhưng may kịp lấy được thăng bằng, không bị té. Tôi không trách móc gì, chỉ lẳng lặng bưng thau chén dĩa vào trong bếp, nghe sau lưng có tiếng chị chủ la anh bạn đó:

– Mày còn chơi vậy lần nữa là tao đuổi mày ngay.

Cố gắng làm đến giờ đóng cửa, tôi xin nghỉ việc. Hai ngày sau, tôi vào làm cho môt nhà hàng khác, cũng bị nhiều chuyện phiền phức bởi sự sân si, ganh ghét. Tôi lại xin nghỉ. Tôi nghĩ, San Jose là thành phố đông người Việt nhất trên xứ Mỹ này, cả trăm ngàn người Việt đang được an cư lạc nghiệp, sao tôi có thể không được! Nghĩ vậy, tôi lại tìm việc làm. Bà bạn thân của anh Phan kêu tôi đi phụ bán chợ trời 2 ngày cuối tuần cho bả. Một người làm khác được bả trả 60 đồng một ngày. Riêng tôi, hai ngày qua cũng khuân vác, phụ bán hàng, rồi dọn dẹp, rất mệt, nhưng lại không được trả tiền công. Tôi hỏi, bả trả lời:

– Có ăn, có uống cả ngày là may rồi. Đang thất nghiệp mà đòi hỏi.

Tôi nói lại cho anh Phan biết, ảnh lại binh vực bà bạn của ảnh:

– Bả nói vậy không đúng sao? Nếu không, thì Quý chết đói. Tôi đâu có nuôi cơm Quý được. Nếu Quý không thích vậy thì đi đâu thì đi.

Chán cho tình đời. Tôi quyết định rời khỏi nhà anh Phong, đi San Francisco. Bấy giờ là đầu tháng 10, 1996.

2.

Từ bến xe Grey house, tôi kéo va li đi dọc theo đường 4 TH, hướng về những tòa nhà cao ngất ngưỡng. Tôi biết chỉ có Downtown mới có nhiều tòa nhà cao như vậy. Tôi nhìn đồng hồ, đã 9 giờ tối rồi. Khí trời mát mẻ. Bầu trời thăm thẳm, ngàn sao lấp lánh, có Chị Hằng sáng tỏ đang bay theo bước chân phiêu lưu của tôi. Phiêu lưu thật, vì tôi chỉ còn 100 đồng và chẳng quen biết ai ở San Francisco mà cũng cứ đâm sầm đến, để tìm một lãng quên tình cảm !

Trước mặt tôi là đại lộ Market, có nhiều cây cao dọc hai bên đường. Xe cộ chạy qua lại dập dìu. Ở giữa đại lộ có tuyến đường sắt dành cho xe điện. Một chiếc xe điện từ xa đang chạy đến. Tôi hỏi một người Mỹ đen đang đứng ở góc đường xe điện đó chạy đi đâu, anh cho biết chạy về Castro, khu dân Gay. Không phải chỗ của tôi. Tôi nhờ anh chỉ đường đi đến Chinatown rồi tiếp tục kéo chiếc va li đi. Từ lâu, tôi vẫn nghe bạn bè cho biết nước Mỹ có hai khu Chinatown lớn nhất, lâu đời nhất của người Hoa. Một ở New York và một ở San Francisco. Tôi nghĩ thầm, đến ở khu người Hoa chẳng ai biết mình, sống và làm việc với họ chắc dễ chịu hơn.

Đi theo đường Kearny qua khỏi đường California, tôi biết mình đã đi vào Chinatown, vì trước mắt là những cửa tiệm sáng trưng có bảng hiệu chữ Tàu. Tôi mừng rỡ bước nhanh hơn về phía trước. Cả khu phố Broadway sáng rực ánh đèn. Người Mỹ, người Hoa qua lại tấp nập ở hai bên đường. Tôi dừng lại, châm một điếu thuốc hút, nhìn ngó cảnh trời Chinatown về đêm thật đẹp, thật rộn ràng sức sống. Trước mặt tôi, nhiều tiệm Showgirl chạy đèn chớp chớp, có nhiều cô Mỹ trắng trẻ đẹp mặc quần áo hở hang đứng trước cửa, uốn éo thân mình mời khách qua đường. Một chị Mỹ đen thấy tôi hút thuốc thì đi đến xin. Tôi móc ra ngay 3 điếu đưa cho chị. Hai anh Mỹ đen khác đứng gần đó thấy vậy cũng chạy lại xin. Tôi cũng đưa mỗi anh 3 điếu. Một anh nói:

– You good men. Can you give me one dollar?

Tôi lại móc túi lấy cho mỗi anh một đồng , rồi hỏi chỗ nào có hotel rẻ tiền. Nhờ sự chỉ dẫn của họ, tôi có được một giấc ngủ thật ngon lành trong một hotel của người Hoa với giá 35 đồng một đêm. Hôm sau tôi đi tìm việc làm ngay. Khu chợ Tàu mới 9 giờ sáng đã đông nghẹt người Hoa qua lại hai bên đường. Đi không khéo có thể dẫm chân nhau hoặc đụng vào nhau. Tôi vào từng cửa tiệm để hỏi việc, nhưng đều bị từ chối. Chỗ thì chê tôi ốm yếu không làm được việc nặng. Chỗ đòi phải biết nói tiếng Hoa mới nhận. Nhiều chỗ khác cho biết đã đủ người rồi, kêu tôi cho số phone nhà, khi cần sẽ gọi. Tôi làm gì có phone nhà. Lại đi lòng vòng hỏi việc cho đến chiều, tối về lại hotel ở thêm một đêm nữa. Tôi bắt đầu lo lắng. Chỉ còn có 20 đồng, ngày mai mà không tìm ra việc làm thì biết ăn đâu, ở đâu…?

Thêm một ngày tìm không ra việc làm, tôi trở thành người Homeless. Buổi tối đầu tiên của đời không nhà, tôi ngủ trên lề đường 4 TH gần bến xe Grey house. Nửa đêm, trời trở lạnh, khí lạnh từ nền xi măng bốc lên thấm vào da thịt lạnh buốt khiến tôi phát run. Tôi ngồi dậy mặc thêm 5 cái áo vào người rồi nằm co ro cố ngủ tiếp. Giấc ngủ chập chờn nửa tỉnh, nửa mê. Đến sáng, ăn cái bánh ngọt xong tôi lại kéo chiếc va li đi vào Chinatown tìm việc làm. Các chủ tiệm thấy tôi kéo theo vali thì biết tôi là dân Homeless nên đều lắc đầu. Còn có 5 đồng, tôi vào một tiệm “food to go” ăn trưa, mua thêm vài cái bánh để tối ăn. Thế là cạn túi. Ăn xong, tôi hỏi chị chủ tiệm có cần thêm người làm không. Chị cũng lắc đầu và chỉ đường cho tôi đến hỏi việc ở khu thương mại của người Việt. Người Việt ở San Francisco không nhiều, khoảng mười mấy ngàn người, nên khu thương mại chỉ tập trung trên đường Larkin. Tôi kéo va li đi qua các cửa tiệm người Việt, chỉ nhìn nhìn mà không dám vào hỏi việc, vì mặc cảm đang bị homeless. Hoàng hôn đến, tôi lại về bến xe. Tôi bắt chước mấy người Mỹ homeless khác, tìm vài thùng carton ở thùng rác lót làm chổ nằm. Dù đã mặc thật nhiều áo, tôi cũng bị thức dậy lúc nửa đêm vì khí trời lạnh rét. Một chiếc xe dân chơi về đêm chạy ngang, không hiểu sao chạy chậm lại, ném lon bia đang uống vào người tôi rồi cười ha ha và vọt xe chạy nhanh. Trời đất ơi. Tên nào ác ôn thế! Sao mà khốn kiếp vậy! Tôi lầm bầm rủa thầm rồi cởi cái áo ướt nước bia ra, mặc thêm vài áo khác vào. Tôi không ngủ được nữa, ngồi co ro chịu đựng cơn lạnh đến sáng.

Tôi vẫn cứ ngồi co ro vậy cho đến mặt trời lên trên đỉnh đầu. Đói bụng quá. Làm sao đây? Một thời làm Bầu show ca nhạc, vui sướng tận cùng, bây giờ phải đi ăn xin sao? Tôi nghĩ thầm rồi bất chợt nước mắt tuôn trào. Khóc một hồi, tôi nằm dài ra trên tấm carton ngủ một giấc đến tối thì thức dậy. Tôi nhớ lại Quang, người bạn tốt thâm niên của tôi ở Houston, có dặn nếu bị gì thì phone cho Quang để Quang gửi tiền cấp cứu. Tôi đến một trạm phone công cộng, mấy lần nhấc phone lên rồi đặt xuống. Tôi thấy xấu hổ với bạn, nên thôi. Cái đói lại cồn cào bao tử tôi suốt đêm. Trưa hôm sau, thật may mắn, một anh Mỹ đen, cũng dân Homeless, đến ngồi bên tôi, hỏi:

– Are you hungry”

Tôi mau mắn trả lời:

– Yes. I am very hungry!

Anh Mỹ đen kéo tay tôi đứng dậy:

– Ok, go with me.

– Where are we go “

– Go to the church for eat.

Tôi mừng quá đi theo anh. Đến nơi, tôi đã thấy một hàng dài mấy trăm người Mỹ homeless đang chờ vào nhà thờ để ăn bữa cơm từ thiện. Đứng vào hàng rồi, nước mắt tôi tự nhiên lại ứa ra. Tôi đã thật sự là dân Homeless ở thành phố xa lạ này.

Nhờ có nhà thờ ở đường Jones giúp cho ăn bữa trưa, tôi tạm thời giải quyết được cái bao tử lây lất qua ngày. Cứ ngày thì đến nhà thờ ăn trưa, tối về bến xe, nhịn đói, và ngủ trong trời giá lạnh. Tính ra đã bị homeless nửa tháng rồi. Một hôm, sau khi ăn trưa ở nhà thờ, tôi đến công viên ở khu Civic Center trên đường Larkin, ngồi trên ghế đá nhìn trời mây bao la mà buồn cho thân phận. Anh Mỹ trắng ngồi gần bên thấy tôi có chiếc va li mới hỏi:

– Are you Chinese” Where are you come from”

Tôi nhìn anh một lúc rồi trả lời:

– Yes, I am Chinese. I came from Orange County, South California. I have been here for 3 weeks. Now, I am homeless. No home, no money!

Anh cũng nhìn tôi một lúc rồi nói:

– Why you don’ t go to Social Office” They’ ll help you Food Stamps emergency and Voucher hotel for seven days.

Trong hoạn nạn, vì quá buồn, tôi đã quên mất chương trình An sinh Xã hội giúp người khốn khổ. Tôi cũng không ngờ ở thành phố San Francisco này lại có thêm chương trình giúp Voucher hotel cho người lỡ đường không có chỗ ở. Mừng quá, tôi nói:

– I don’t know where Social Office. May you help me?

– Ok. I help you. Go!

3.

Thần may mắn đã mỉm cuời với tôi. Anh Mỹ trắng tốt lòng dẫn tôi đến trước cửa Sở Xã hội, dúi vào tay tôi tờ giấy 10 đồng rồi bỏ đi ngay. Tôi cảm ơn anh nhiều lần. Anh đi đã hơi xa nhưng còn ngoái đầu lại nói: Good luck. Tôi thấy xúc động, nước mắt lại ứa ra. Từ khi thất tình Huyền đến những ngày homeless vừa qua, tôi trở thành “mít ướt”! Trời sinh ra con người cũng ngộ: Buồn khổ, đau thương thì khóc đã đành, cảm động, vui mừng cũng khóc.

Điền các thứ giấy tờ xong, tôi ngồi chờ khoảng một tiếng thì được gọi vào gặp cán sự phỏng vấn. Người tiếp tôi là một chị người Việt, tên Tường, khoảng 45 tuổi. Chị nói chuyện nhỏ nhẹ, dịu dàng. Nghe tôi kể hoàn cảnh cha mẹ, anh chị em ruột thịt đã chết hết trong chiến tranh Việt Nam, qua Mỹ một mình, bị thất tình rồi trải qua những ngày homeless, chị tỏ ra cảm thông:

– Tội nghiệp em quá. Chị ở San Fran này 20 năm rồi, lần đầu tiên mới thấy một người Việt bị homeless như em. Trông em ốm quá. Có bị bệnh không”

– Dạ, trong hơn nửa tháng qua, mỗi ngày em chỉ ăn có một bửa trưa ở nhà thờ. Tối lại lạnh quá nên ngủ không được. Nhiều hôm bị cảm sốt, cũng phải rán chịu đựng. Em bị khủng hoảng tinh thần, cảm thấy chán đời lắm.

Chị Tường thở dài rồi tiếp tục ghi chép hồ sơ. Sau đó, chị bảo tôi ký tên vài chổ trên hồ sơ và nói:

– Em được trợ cấp Food Stamps mỗi tháng 145 đồng để ăn uống. Còn đây là phiếu ở tạm Shelter 3 ngày. Nơi đó có tắm rửa, ăn uống, giường ngủ đàng hoàng, lại có bác sĩ MD mỗi chiều đến khám bệnh cho thuốc uống. Em hãy xin bác sĩ làm giấy chứng nhận em có bệnh. Sau 3 ngày, em trở lại đây để nhận Voucher ở Hotel 7 ngày, và cán sự phụ trách y tế sẽ phỏng vấn em lần nữa. Nếu được họ thông qua, em sẽ được trợ cấp tiền mỗi tháng 345 đồng để tiêu xài và mướn chỗ ở lâu dài, không còn lo homeless nữa.

Nóí xong, chị móc ví lấy ra tờ giấy 20 đồng đặt vào tay tôi. Chị nói:

– Đây là chút tấm lòng riêng của chị. Trong khi chưa có tiền trợ cấp, em giữ để tiêu xài lặt vặt. Chị chúc em từ nay về sau sẽ luôn gặp nhiều may mắn.

Tôi cảm động quá, chẳng biết nói gì, chỉ biết cảm ơn chị rồi đứng dậy. Chị tiễn tôi ra tới ngoài cửa văn phòng.

Shelter là nơi tạm trú ngắn hạn dành cho người Homeless. Mỗi Shelter có quy định riêng. Shelter dành cho phụ nữ thì cho ở từ một tháng trở lên, đến khi nào phụ nữ đó có đời sống ổn định. Shelter dành cho nam giới, tùy theo trường hợp, cho ở 3 ngày, một tuần, tối đa là một tháng. Có Shelter còn trống một số giuờng thì cho xổ số hàng đêm để người Homeless nào trúng số thì được vào ngủ, chỉ một đêm, hôm sau là phải đi. Shelter tôi ở có hai tầng, tọa lạc trên đường 10 TH gần đại lộ Market. Buổi chiều, người Homeless đã tụ về đông đảo, tụm năm tụm ba nói chuyện ồn ào trong phòng sinh hoạt. Đa số là Mỹ đen. Tôi làm thủ tục nhận giuờng ở tầng 2 xong là vội vàng đi tắm. Sau hơn nửa tháng dơ bẩn ngoài đường, giờ được tắm, cảm giác vui sướng không thể tả hết được. Tắm xong cũng vừa tới giờ ăn chiều. Đến 7 giờ tối, có bác sĩ và y tá đến khám bệnh. Vị bác sĩ và cô y tá trẻ đều có nụ cười luôn nở trên đôi môi, ân cần hỏi han từng bệnh nhân. Tôi cũng được khám và được cho thuốc uống. Tôi xin bác sĩ viết giấy chứng nhận bệnh cho tôi, ông vui vẻ làm ngay.

Tôi đã có 3 ngày sống thật an vui trong Shelter. Hết hạn, tôi lại kéo va li đến Sở Xã Hội. Lần này, người phụ trách hồ sơ của tôi là chị Liên, trông trẻ hơn chị Tường. Sau khi đưa cho tôi Voucher hotel 7 ngày, chị dẫn tôi qua phòng cán sự phụ trách về y tế cho họ phỏng vấn bệnh trạng của tôi. Thật may mắn, tôi được thông qua. Tôi trở lại bàn làm việc của chị Liên. Chị cười thật tươi và nói:

– Như vậy là anh Quý được hưởng tiền trợ cấp mỗi tháng 345 đồng rồi đó. Tiền này anh không phải trả lại. Tiền trợ cấp chỉ ngưng khi anh khoẻ mạnh và đi làm, có lợị tức sinh sống. Tôi có nghe chị Tường nói lại, về hoàn cảnh của anh. Tôi cũng thấy xót xa cho anh lắm. Anh ngồi chờ tôi hoàn tất hồ sơ cho anh nhé.

– Vâng, cảm ơn chị nhiều.

Khoảng nửa tiếng sau, chị Liên bảo tôi ký vài chỗ trong hồ sơ rồi cười thật vui vẻ:

– Chúc mừng anh qua cơn hoạn nạn. Anh đạo gì vậy”

– Tôi đạo Phật.

– Tôi thì đạo Công giáo. Đạo nào cũng tốt thôi. Tôi có cái này tặng anh.

Chị mở túi xách lấy ra một bao thư, rồi mở bao thư lấy ra một thánh giá nhỏ bằng vàng đưa cho tôi, chị nói:

– Đây là thánh giá vàng thật. Anh cất vào bóp để có được sự may mắn. Chúa sẽ luôn phù hộ anh. Còn 20 đồng trong bao thư là tấm lòng tôi, cũng giống như chị Tường vậy. Để anh tiêu lặt vặt. Vì một tuần sau anh mới nhận được tiền trợ cấp của chính phủ. Anh nhận cho tôi vui.

Tôi lại thêm một lần xúc động, nhưng cố gắng kềm nén không cho nước mắt trào ra. Một lúc sau, tôi mới nói được nên lời:

– Tôi thật không biết nói như thế nào để tỏ lòng biết ơn chị Liên và chị Tường. Tôi thật may mắn gặp được hai chị tốt quá. Một miếng khi đói bằng một gói khi no. Tôi sẽ luôn nhớ đến tình cảm tốt lành của hai chị dành cho tôi. Tôi kính chúc chị và gia đình luôn mạnh khoẻ, an vui. Tôi cảm ơn chị nhiều.

Chị Liên cũng tiễn tôi ra tới cửa. Chị dặn:

– Tôi phụ trách hồ sơ của anh, nếu có gì thắc mắc thì anh cứ gọi phone đến Sở Xã Hội, bấm thêm mã số của tôi thì sẽ nói chuyện được với tôi. Chúc anh nhiều may mắn.

Tôi cảm ơn chị và cúi đầu chào chị rồi kéo va li đi. Vừa ra khỏi Sở Xã Hội, tôi giơ thẳng cánh tay trái lên và hét lớn:

– Vui quá Trời ơi. Ông Bà, Ba Mẹ, Anh Chị Em của Quý ơi. Con vui sướng quá. Con hết homeless rồi… Hết homeless rồi. ..

Sau một tuần ở hotel, cũng vừa lúc tôi nhận được tiền trợ cấp 345 đồng và Food Stamps 145 đồng. Tôi lại may mắn xin được trợ cấp Housing của City San Francisco dành cho người lợi tức thấp, và tìm được một building cho mướn phòng theo chương trình Housing, chỉ 98 đồng một tháng. Cuộc sống ổn định, tôi có lại những ngày tháng an vui, lo học hành thêm để có được sự thăng tiến đời sống cho những năm tháng về sau này.

4.

Trong những ngày tháng êm đềm về sau này, tôi nhớ lại… Có lần trong giấc ngủ dưới gầm cầu xa lộ gần bến xe, tôi chợt cảm thấy một luồng hơi ấm từ dưới đôi chân chạy dần lên tới ngực, rồi tới đầu, giúp cho tôi chống lại được tiết trời San Francisco giá lạnh. Và Mẹ tôi hiện ra bên cạnh tôi, đẹp rạng rỡ như nàng tiên trong chuyện cổ tích tôi thường đọc thời thơ ấu. Mẹ âu yếm vuốt tóc tôi và dịu dàng nói: “Con đừng bao giờ chán nản cuộc sống dù có gặp muôn ngàn cay đắng, khổ đau. Con phải dũng cảm vươn lên, vượt qua những phong ba, bão tố để sẽ tìm thấy được bờ bến yên lành, hạnh phúc. Cuộc đời có lấy ở con cái này thì sẽ cho con có được cái khác. Con hãy luôn ghi nhớ ở hiền thì sẽ gặp lành. Số con có Ơn Trên Thiêng Liêng phù hộ. Sẽ có rất nhiều người tốt thương mến, giúp đỡ con trên những bước gian nan của cuộc đời. Sau này, khi có được sự thành công, con hãy trả ơn đời bằng cách luôn yêu thương tất cả mọi người, làm thật nhiều việc thiện cứu giúp những người bất hạnh, khổ đau khác. Và còn phải lo giúp Dân giàu Nước mạnh… Ví thử cuộc đời bằng phẳng cả, Anh hùng hồ dễ có mấy ai…”

Mẹ tôi ngâm khe khẽ hai câu thơ rồi biến mất. Tôi chìm vào giấc ngủ, một giấc mơ khác lại đến. Tôi thấy tôi bay bay trong không gian trong lành tràn ngập ánh sáng dìu dịu. Hồn tôi lâng lâng vui sướng. Tôi thấy thế giới này trở thành một Thiên Đàng. Tôi bay đi khắp cùng trái đất. Đâu đâu cũng có cảnh sắc đẹp tuyệt vời, cỏ cây tươi xanh, ngàn hoa khoe sắc thắm, tỏa hương thơm ngát, và chim muông nhảy nhót, líu lo bên cạnh con người. Con người ở khắp năm châu đều có cuộc sống an bình, thịnh vượng. Không còn có sự đe dọa của bom nguyên tử và những vũ khí độc hại tàn sát loài người. Không còn có những kỳ thị màu da, sắc tộc. Không còn có những tranh chấp lợi quyền, hận thù, ganh ghét giết hại nhau. Nhân loại sống với nhau thật hiền lành, hòa ái, yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau cùng có được đời sống an lạc, vui sướng, hạnh phúc vĩnh cửu…

Giấc mơ đó bao giờ sẽ thành sự thật?

….Như trăng có khuyết, có tròn ; như ngày có mưa, có nắng ; như khí hậu có thời lạnh, thời nóng; ý nghĩa “tình người” cũng có hai mặt tương phản: xấu và tốt. Nhưng thường, người ta hiểu hai chữ “tình người” theo ý tốt: Lòng Bác Ái. Trường hợp tôi ở San Francisco, cũng vậy. Tôi đã gặp được những con người xa lạ không có tình thân thuộc, nhưng đã hết lòng giúp đỡ tôi vượt qua nghịch cảnh. Và, nhớ lại thời hoạn nạn vượt biển, vượt rừng của mấy triệu người Việt tỵ nạn, có tôi trong đó, cũng nhờ có Tình Người của hàng tỉ người dân nhiều nước trên thế giới, thể hiện Lòng Bác Ái thông qua Cao Ủy Liên Hiệp Quốc, Hồng Thập Tự Quốc Tế, đã cứu giúp tất cả chúng ta có được cơm no, áo ấm ở trại tỵ nạn, và nhận hưởng ánh sáng tự do, dân chủ ở các nước thứ ba, để từ đó được thăng hoa đời sống, hình thành Cộng đồng người Việt hải ngoại phát triển lớn mạnh như ngày nay. Riêng tại Mỹ, đã có hơn một triệu rưởi người Việt đang có được cuộc sống thành công, vui sướng. Xin trân trọng biết ơn nhân dân Mỹ, chính phủ Mỹ, Cao Ủy Liên Hiệp Quốc, Hồng Thập Tự Quốc Tế, cùng hàng tỉ con người có Lòng Bác Ái trên trái đất này. Và, xin được vinh danh hai chữ: Tình Người.

16/12/2008

Tể tướng số 1 của Tần Thủy Hoàng là Lý Tư – Truyen ngan HAY

Nguyễn Thị Bích Hậu

 Tể tướng số 1 của Tần Thủy Hoàng là Lý Tư. Ông là người nước Sở, quê quán ở huyện Thượng Tài nằm trong vùng Hà Nam ngày nay. Hồi còn trẻ, Lý Tư chỉ làm viên quan nhỏ ở huyện nhà, nhưng lại thích học tập nên theo học Tuân Tử cùng với bạn học là Hàn Phi, và thích Pháp gia.

Ngay từ lúc đó, Lý Tư đã là người đầy tham vọng. Có lần, ổng thấy chuột trong nhà vệ sinh gần văn phòng mình ăn đồ bẩn, hễ có người hoặc chó đến là sợ hãi bỏ chạy. Sau đó, Lý Tư lại đi vào kho thóc, nhìn thấy trong kho thóc có chuột, chúng ăn ngô dự trữ, sống dưới nhà lớn, không lo bị người hay chó quấy rầy. Lý Tư thở dài nói: “Tương lai của một người có tốt đẹp hay không cũng giống như loài chuột vậy, do hoàn cảnh sống quyết định!”.

Từ đó Lý Tư nuôi mộng thoát khỏi khung cảnh chật hẹp của vùng quê mình, của nước Sở mà khi đó vua đã suy yếu. Ông ta cho rằng “nhục nhã lớn nhất là địa vị thấp kém, buồn khổ lớn nhất là nghèo túng” nên đi vào nước Tần.

Lý Tư tìm cách vào làm người hầu cho tể tướng Lã Bất Vi thời vua Tần Chính. Sau đó từ từ leo lên chức thị giả vào hầu vua. Lý Tư xúi vua Tần nhất thống thiên hạ. Mà bí kíp chính là cần “nắm bắt cơ hội và đủ tàn nhẫn”. Tần Chính thấy hay quá bèn nghe theo, bổ Lý Tư làm quan trưởng sử, sau thành khách khanh. Rồi theo kế của Lý Tư phái người qua các nước lân cận để tiếp cận với các hoàng tử của họ. Hễ ai nghe thì cho vàng bạc châu báu còn ai không nghe thì ám sát.

Trong sự nghiệp làm quan ở nước Tần, Lý Tư từng 2 lần suýt bị “trục khách” (đuổi môn khách đang làm quan về nước) vì chính biến, nhưng nhờ tài ăn nói, thuyết phục mà được ở lại rồi càng ngày càng làm quan to, tới chức Thượng thư.

Khi đó, Tần Chính đọc sách của Hàn Phi Tử, bạn học của Lý Tư và là hoàng tử nước Hàn đầy tài hoa, thấy rất hay, bèn đánh nước Hàn. Nước này sợ mới cho Hàn Phi Tử qua làm sứ thần. Nhưng Lý Tư xúc xiểm nên Tần Chính đã giết chết Hàn Phi Tử.

Từ đó Lý Tư lên như diều gặp gió. Làm quan hơn 20 năm thì Tần vương thống nhất giang sơn, lên ngôi Hoàng đế Tần Thủy Hoàng, phong Lý Tư làm Thừa tướng. Lý Tư góp công lớn trong việc giúp Tần Thủy Hoàng dẹp loạn các nước chư hầu, cải cách bộ máy chính quyền, thống nhất văn tự, đo lường, tư tưởng. Những vụ án độc ác nhất mà Tần Thủy Hoàng làm cũng do ý tưởng mà Lý Tư dâng lên, ví dụ như đốt sách chôn nho. Tức là vì ý chí của Tần Thủy Hoàng và vì muốn củng cố địa vị của mình, Lý Tư cũng không màng tới cố quốc là nước Sở, chứ nói chi các chư hầu khác. Còn thân phận người dân thì ổng cho là con sâu cái kiến mà thôi.

Nhưng người tính không bằng trời tính. Khi Tần Thủy Hoàng qua đời, quanh hoàng đế chỉ có 3 người thân cận là Lý Tư, Triệu Cao và thứ tử Hồ Hợi. Trong khi di chiếu của Tần Thủy Hoàng muốn truyền ngôi cho thế tử Phù Tô.

Thái giám Triệu Cao không thích vậy, vì sợ mất địa vị, nên bàn với Lý Tư giả sửa chiếu chỉ, truyền ngôi cho Hồ Hợi.

Sau đó là một chương bi thảm của nhà Tần, vì rất nhiều con cái cháu chắt của Tần Thủy Hoàng bị giết để trừ hậu họa. Các phi tần bị chôn sống…

Hồ Hợi lên ngôi chỉ ham ăn chơi hưởng lạc, không quản triều chính. Kết quả thái giám Triệu Cao, người duy nhất vào tiếp kiến được với Hồ Hợi trở thành một dạng vua không ngai. Triệu Cao cứ lấy cớ vào trình vua, nhưng không nói gì tự quyết tất rồi truyền ra ngoài ý của mình, ai cũng sợ.

Lúc đó Lý Tư dâng sớ vạch tội Triệu Cao, can ngăn Hoàng đế thì đã muộn. Triệu Cao coi Lý Tư là cái gai trong mắt, vu cho ông tội làm phản, cùng con trai cấu kết với địch quốc để xưng vương.

Hồ Hợi nổi giận, giao Lý Tư cho Triệu Cao xử lý. Lý Tư và con trai phải chịu “ngũ hình” đầy thảm khốc. Mà tiếc thay tội này do chính Lý Tư là người đặt ra. Ba họ của Lý Tư cũng bị hại chết, b.ê.u đ.ầ.u ở cổng thành.

“Vào tháng 7 năm 208 TCN, Lý Tư bị kết án ngũ hình và bị chém đ.ầ.u trên phố Vân Dương ở kinh thành . Trước khi chết, Lý Tư quay lại nói với người con thứ: “Ta muốn cùng con ra khỏi cửa đông Thượng Tài ( tức quê cũ) dắt con chó vàng đi săn thỏ, mà làm sao được?” Sau đó, ông và con trai ôm nhau khóc.

Sau đó, Lý Tư và con trai bị g.iế.t, ba họ nhà ông chịu án chu di tam tộc đầy đau khổ. Người ta nói rằng Lý Tư đã hối hận về quyết định của mình trước khi chết, ông nói: “Ta từng là học trò của Tuân Tử với Hàn Phi, nhưng ta đã g.iế.t Hàn Phi. Bây giờ chuyện này xảy ra, chẳng phải là ý trời sao?”.

Lý Tư thật ra là một người kỳ tài, văn chương thời Tần đời sau đánh giá ông là số 1. Ông cũng hiểu cao học rộng, giỏi sáng kiến, áp dụng nhiều chính sách tốt làm cho nước Tần thống nhất thiên hạ. Tuy nhiên ông ta có bản tính là người tham lam, lại ma mãnh, sẵn sàng chà đạp lên bạn bè người thân để thăng tiến, coi rẻ quê hương bản quán. Vị quân vương nào gần ông thì càng bị kích động làm điều bạo tàn hơn là làm chuyện nhân nghĩa.  Vì thế nên cuối cùng thân bại danh liệt, mất hết dưới tay thái giám Triệu Cao.


 

Đồng bào tôi chết !-Câu Chuyện Vượt Biên Thương Tâm – Nguyễn Ngọc Ngạn

Đồng bào tôi chết !

(Chuyện xảy ra cho ông Nguyễn Ngọc Ngạn trong cuộc vượt biên)

50 năm sau 30.4.1975

Nghĩ gì về sự ” HÒA GIẢI DÂN TỘC ” chưa hề được thực thi  !
Hệ quả là đây :
“Những ngày trống vắng ở trại tị nạn Mã Lai chờ đi định cư, tôi suy nghĩ nhiều về nửa thế kỷ trầm luân của đất nước và nhận ra một điều đơn giản rằng: Trong xã hội Việt Nam, người đàn bà mới chính là thành phần chịu nhiều gian truân nhất – thời chiến tranh cũng như thời hậu chiến”.


Câu Chuyện Vượt Biên Thương Tâm:
TÀU KIM HOÀN MT065,
170 NGƯỜI CHẾT THẢM

Đời người, ai cũng có những kỷ niệm, đau thương hay hạnh phúc. Kỷ niệm đôi khi chỉ thoáng qua, mờ nhạt như áng mây bay ngang bầu trời, để lại chút hình ảnh bâng khuâng, nhưng cũng có khi hết sức sâu đậm, đến nỗi có thể coi là một biến cố, khả dĩ tạo thành khúc rẽ quan trọng cho cuộc đời. Đó là trường hợp của tôi với câu chuyện xảy ra hơn 20 năm về trước mà giờ này ngồi ghi lại, tôi vẫn thấy hiển hiện như mới hôm qua.

Ngày ấy, miền Nam vừa đổi chủ được 3 năm, tình hình chính trị còn cực kỳ khắt khe, đã thế, chính sách áp dụng lại không đồng nhất, mỗi phường mỗi tổ là một lãnh chúa, phát huy sáng kiến mà bức chế nhân dân.
Tôi ở trại cải tạo, cầm tờ giấy tha vào giữa năm 78, về trình diện Sở Giáo dục Thành phố cho đúng thủ tục, dù biết trước sẽ không được thu nhận trở lại nghề cũ. Không có nghề nghiệp biên chế, tôi chỉ được tạm trú 3 tháng tại Sài Gòn để thu xếp đi vùng kinh tế mới.

Thời gian này, miền Nam đang lên cơn sốt về phong trào vượt biên tìm tự do, những người ở vào hoàn cảnh của tôi, bị công an khu vực theo dõi và hăm dọa thường xuyên thì lại càng nôn nóng kiếm đường bỏ trốn, những người bạn tù chúng tôi ngày ngày đôn đáo gặp nhau, đề tài chính đem ra bàn bạc chỉ xoay quanh một chuyện duy nhất là vượt biên.

Thời gian trôi qúa nhanh, trong nháy mắt đã hết hạn tạm trú, tôi trở thành kẻ sống lậu không hộ khẩu tại thành phố, giữa lúc lao đao tuyệt vọng, không biết ngày nào bất ngờ bị bắt lại, thì một hôm em trai tôi giới thiệu cho tôi một đầu cầu qúy giá, đó là ông Ân, một người đàn ông trí thức, tuổi vừa 50, tính tình hiền hoà và đứng đắn.

Ông là nhân viên lâu đời của cơ quan viện trợ Hoa Kỳ trước 75, đồng thời góp phần chuyển âm Anh – Pháp cho hãng phim Cosunam ở Sài Gòn. Vì làm ăn chung với em tôi từ sau 75 nên ông có lòng tốt rủ em tôi cùng đi với ông trong chuyến vượt biển bán chính thức vốn dành riêng cho người Hoa đang rầm rộ đăng ký lúc đó. Thông cảm hoàn cảnh bấp bênh của tôi, em tôi giới thiệu tôi với ông, để xem ông có giúp gì được tôi chăng?

Đi bán chính thức lúc ấy đắt tiền lắm, vì đang là những đợt đầu, có người nộp tới 12 hoặc 14 cây vàng, vì phải qua nhiều trung gian, còn gía trung bình thì ít ra cũng phải 10 lượng một người. Tôi mới ở tù ra, làm gì có số tiền khổng lồ ấy!
Bà xã tôi bận con nhỏ, khi tôi đi tù thì cháu mới hơn 1 tuổi cho nên chỉ buôn bán vớ vẩn, đủ nuôi con và tiếp tế cho chồng là giỏi lắm rồi. Số vốn ít ỏi của vợ tôi lại cứ vơi dần sau mấy chuyến đi chui bất thành, con đường bán chính thức mua vé bằng cả chục lượng vàng, là điều vượt qúa sự kỳ vọng của tôi, trừ khi có một phép lạ.

Vậy mà phép lạ dường như đang xảy đến!

Hôm ấy, một buổi tối khoảng đầu tháng 11, gia đình em tôi đưa tôi lại quán bò 7 món Duyên Mai bên Chi Lăng, để gặp ông Ân lần đầu tiên. Tôi lúc này đang trốn chui trốn nhủi vì đã hết hạn nộp hộ khẩu từ lâu, phải xoay đủ mọi thứ giấy tờ lao động để qua mặt công an khu vực, nấn ná lưu lại thành phố được ngày nào hay ngày nấy.

Khu vực Công giáo tôi cư ngụ lại hay xảy ra những vụ bắt bớ bí mật, vì những tin đồn về các tổ chức Phục Quốc – cả thật lẫn giả — làm liên lụy đến khá nhiều người vô can. Trước năm 75, tôi có dạy một ít giờ tại hai trường tư thục Công giáo là Trung học Quang Minh ở nhà thờ Vinh Sơn đường Trần Quốc Toản, và Trung học Saint Thomas trên đường Trương Minh Giảng. Nhà thờ Vinh Sơn là nơi phát khởi vụ nổi dậy chống chính quyền đầu tiên sau 30 tháng 4 năm 75. Và linh mục Nguyễn Quang Minh bị bắt ngay sau đó. Cha Vàng ở trường Saint Thomas cũng đã bị bắt vì nghe đồn bị vu cáo có giấu vũ khí trong khuôn viên trường học.

Khi tôi ở trại cải tạo về, công an có gọi tôi ra và thẩm vấn về quan hệ của tôi với hai vị linh mục này. Có thể đó chỉ là những câu hỏi thủ tục về lý lịch nhưng cũng làm tôi hết sức lo sợ, bởi xã hội không có luật pháp rõ ràng, một khi công an nghi ngờ thì sớm muộn gì cũng vào tù. Bởi vậy, tôi càng nôn nóng muốn trốn đi.
Tối hôm ấy, gặp ông Ân ở nhà hàng, tôi bàng hoàng xúc động khi ông cho biết ông sẵn lòng đóng tiền cho vợ chồng tôi đi cùng chuyến với ông và em tôi, nghĩa là ông cho tôi vay 20 lượng vàng, qua Mỹ đi làm trả lại, vợ chồng tôi chỉ cần góp 5 lượng cho đứa con mà thôi! Tôi như người đi trên mây, buồn ngủ gặp chiếu manh, không ngờ đời mình có lúc gặp qúy nhân dễ dàng như thế này! Dĩ nhiên, qua trung gian em trai tôi, ông Ân mới dám tin là tôi sẽ trả ông sau khi đến Hoa Kỳ, nhưng dù sao đi nữa, việc ông giúp một người xa lạ như tôi, trong hoàn cảnh này, phải coi là một phép lạ mà tôi không mường tượng trước được, nhất là ở thời kỳ gạo châu củi quế năm 78.

Bà Ân ngồi cạnh chồng chỉ cười hiền hoà không có ý kiến gì. Lúc đó bà 39 tuổi, thua chồng hơn 10 tuổi, sáu đứa con, đứa nào cũng xinh xắn và ngoan hiền. Sau đó tôi còn được biết thêm, ông Ân cho tới 18 người vay tiền đi, tổng cộng là gần 200 lượng vàng!

Những ngày hồi hộp trôi qua rất chậm, tôi nôn nóng chỉ sợ chuyện bất trắc xẩy ra trước khi lên đường. Tôi vẫn hăng hái tham gia công tác thủy lợi tại địa phương hoặc tự nguyện dạy lớp bổ túc văn hóa ban đêm trong tổ dân phố để tránh sự chú ý của công an khu vực. Song song với những việc đó, tôi âm thầm mua giấy tờ, lấy tên giả, học nói dăm câu tiếng Hoa, và cuối cùng ra đi vào một ngày cuối năm khi sóng biển đang gầm thét dữ dội ngoài khơi.

Khi những chiếc ghe nhỏ đưa người ra thuyền lớn ở Kiến Hòa thì một chuyện bất ngờ xảy ra: công an cùng với chủ ghe đọc danh sách lên tầu, và quyết định bỏ lại 17 người đã đóng tiền, trong đó có toàn bộ gia đình em trai tôi gồm 4 người. Em trai tôi là người giới thiệu tôi đi, vậy mà phút chót lại bị ở lại. Tôi lên tầu hết sức hoang mang, ngờ ngợ linh cảm trước là sẽ có chuyện chẳng lành trên cuộc hành trình đầy sóng gió sắp tới.

Tầu đi bán chính thức chỉ được một lợi thế là không sợ bị bắt ở bến hẹn, nhưng luôn luôn chở quá trọng tải, có chuyến vừa ra tới cửa biển đã chìm. Chiếc thuyền gỗ tôi đi rất mong manh, mà chủ tầu và công an chất lên tới hơn 300 người, cố nhét càng nhiều càng tốt để thu vàng tối đa, họ gạch tên bỏ lại 17 người, để thay vào bằng những hành khách khác bằng lòng nộp nhiều vàng hơn.

Câu chuyện cảm động về con tàu mang số hiệu MT065 — Tiếng Việt

Đây là loại tầu đánh cá có hầm chứa nước đá để ướp cá, bây giờ được dọn sạch để đưa người vượt biển. Hơn 100 người đàn ông chúng tôi bị dồn xuống hầm, cấm không được leo lên, và chỉ có mỗi cái cửa vuông ở giữa tầu để ngày ngày bên trên ném thức ăn xuống. Đàn bà con nít thì được ngồi ở tầng trên cùng với thân nhân của chủ tầu và tài công, có nghĩa là từ lúc bước chân xuống tầu, tôi không được liên lạc với vợ con nữa. Tôi không biết trong số hơn 100 người đàn ông ngồi dưới hầm tầu có bao nhiêu người Việt; chỉ nghe tiếng chuyện vãn chung quanh toàn là tiếng Hoa.

Ông Ân với 3 cậu con trai tuổi từ 14 tới 18 ngồi dưới hầm bên cạnh tôi, vợ ông cùng cô con gái đầu lòng 19 tuổi, đứa áp út 13 và đứa con út 3 tuổi ở trên boong cùng với vợ con tôi. Vì là người Việt, không dám tranh cãi với đại đa số người Hoa, chúng tôi bị dồn vào cuối hầm tầu, ngồi chịu trận tại chỗ, nước lúc nào cũng ngập từ thắt lưng trở xuống, và có khi lên tới ngực, thức ăn cũng ít khi đến lượt mình, vì những người ngồi gần cửa lấy hết, lâu lâu mới quẳng vô phía chúng tôi cái bánh tét hay ổ bánh mì đã cứng như thanh củi. Tuy vậy, ai cũng tự an ủi là cuộc hành trình sẽ không lâu, cố gắng chịu đựng vài ngày là tới bến, tha hồ thong dong.

Sang đến ngày thứ tư, rồi thứ năm, tất cả đều mệt mỏi vì con thuyền nhỏ bị sóng nhồi liên tục, nước biển rỉ vào hầm tầu mỗi lúc một nhiều hơn mà chẳng ai buồn múc từng thùng đổ ra ngoài như hai hôm đầu. Chỗ tôi ngồi càng ngày càng thê thảm hơn, nước ngập tới ngực mà rác rến lại nổi lềnh bềnh chung quanh. Lá bánh chưng bánh tét, vỏ quít, vỏ bưởi cùng các thứ linh tinh trôi vật vờ, chẳng ai thèm vớt mà đem quăng xuống biển.

Vì quá chật chội, di chuyển rất khó khăn, nên ai cũng ngồi lì tại chỗ, đứng lên không nổi, đi tiểu luôn chỗ mình ngồi cho tiện. Trong hầm tầu, chúng tôi mất hết ý niệm thời gian, không ngày hay đêm, cũng chẳng biết tầu đang chạy hay đứng tại chỗ.

Đến ngày thứ năm, vì nóng bức qúa, có người ngộp thở ngất xỉu dưới hầm, tài công mới cho khoét một cái lỗ vuông mỗi bề hơn một gang tay ngay trên đầu tôi, nghĩa là phía dưới tầu, để lấy không khí từ trên lùa xuống cho hơn 100 người phía dưới. Vị ân nhân của tôi, ông Ân và các con, lúc đầu còn nói chuyện với tôi, sau mệt qúa, ai cũng nhắm mắt dựa vào nhau mà sống cho qua cuộc hành trình dài lê thê.

Bước sang ngày thứ bảy, buổi sáng tinh mơ, chắc chưa đến 6 giờ, tôi đang thiu thiu ngủ, thì nghe có tiếng gọi nhỏ:
– Anh Ngạn anh Ngạn ơi!

Tôi giật mình ngơ ngác ngước nhìn lên thì thấy bà xã tôi thò mặt qua cái lô thông hơi để tìm tôi. Tôi không nhận ra mặt vợ tôi vì trời còn tối thẳm, nhưng nhờ giọng nói tôi biết vợ tôi cần gặp tôi có chuyện khẩn cấp. Tôi hồi hộp tìm cách đứng dậy.
Tàu chật ních, lại thêm đã gần một tuần ngồi một chỗ, hai chân tê cứng dưới lớp nước mặn, tôi loanh quanh khá lâu mới đứng lên được. May cho tôi là quanh tôi mọi người còn đang ngủ cả, chứ nếu họ thức thì tôi khó lòng di chuyển, vì họ sẽ lôi lại và dí đầu tôi bắt ngồi xuống.

Bà xã tôi giục nho nhỏ:
– Lên đi anh! Lên đại đi! Chui lỗ thông hơi này lên đi!

Tôi lo lắng nhìn quanh. Lúc ấy tôi còn gầy yếu lắm, thời gian ở trại cải tạo bị sốt rét nặng kéo dài 21 ngày, bước đi phải nhờ người vịn, bạn bè cùng tổ cứ tưởng tôi là sắp phải đem tôi đi chôn trên đồi tranh ở Bù Gia Mập. Giờ này vượt biển, tôi vẫn chưa lại sức, mới chỉ lên cân được chút ít.

Nhà tôi lại bảo:
– Đêm qua bão lớn, cái áo của con bị rách tung rồi bay mất, nó phải cởi trần cả đêm lạnh tím cả người. Anh lên một chút đi.

Nghe nhắc đến đứa con hơn 4 tuổi, tôi vùng đứng lên, bước đại qua vào người đang ngồi ngủ, rồi chui liền lên. Cái lỗ nhỏ, phải lách người khó khăn, làm trầy sứt cả hai vai, nhưng tôi không có cảm giác gì lúc đó.

Từ hôm lên tầu, tôi vẫn mặc cái jacket nylon của Không Quân ngày trước và chiếc quần tây màu vàng đục, lúc ngồi dĩ nhiên phải cởi hết nút quần, kéo fermeture xuống cho thoải mái, bây giờ đứng dậy, vội vã dùng hai tay đu lên khỏi hầm tầu, có người nào đó đã nắm ống quần tôi kéo lại, làm tôi chỉ còn mỗi cái quần đùi khi lên tới tầng trên. Trời mưa không nặng hạt lắm nhưng gió biển thổi phần phật trong không gian mờ tối. Tôi cúi xuống ôm đứa con đang run cằm cặp.

Nhà tôi ưu tư bảo:
– Tầu sắp đắm mất, anh ạ!

Tôi đảo mắt nhìn quanh sau sáu ngày bảy đêm chui trong bóng tối dưới hầm. Chỉ một phút sau, tôi nhận ra ngay là mình sắp chết! Vợ tôi nói đúng, là bởi vì, khi ở dưới hầm, tôi cứ tưởng tầu đang chạy, hóa ra tầu bị bỏ neo đậu tại chỗ suốt cả đêm rồi, mặc cho gió mưa và sóng dữ cuối năm vùi dập. Tuy cùng ở trên tầu nhưng những tin tức bên trên không được thông báo cho người dưới hầm biết, sợ gây cảnh náo loạn, dẵm đạp lên nhau. Bởi vậy, tôi hoàn toàn không biết gì cả, cho đến bây giờ leo lên mới thấy kinh hoàng.

Tôi nhìn lại phía buồng máy: một cảnh tượng hãi hùng và thê lương: không có tài công, không có người phụ máy, chiếc tầu không người lái cứ bập bềnh nghiêng ngửa theo từng đợt sóng khổng lồ đưa vào, đẩy ra, phó mặc sinh mạng mấy trăm người cho đại dương. Với cơn sóng như thế này, tôi biết chắc tầu sắp vỡ. Đàn bà con nít, người đứng người ngồi lố nhố quên cả cái ướt lạnh, nhớn nhác hỏi nhau, không biết phải làm gì trong hoàn cảnh tuyệt vọng này.

Bà xã tôi bảo:
Tài công bỏ tầu từ nửa đêm rồi!

Bấy giờ tôi mới hiểu đầu đuôi câu chuyện:

Đêm qua, khi thuyền chúng tôi vào còn cách bờ Mã Lai khoảng nửa cây số thì có tầu cảnh sát Mã Lai ra đuổi, rồi họ dựng mấy cây đại liên và đèn pha trên bờ bắn ra xối xả. Mười mấy người tài công cùng với thân nhân chủ ghe đeo phao nhảy xuống bơi vào, nói là để điều đình rồi sẽ ra đưa tầu vô nhưng rồi họ đi luôn, không ai trở lại. Người ngoài khơi cứ đợi, người đã lên bờ thì bỏ mặc, đàn bà con nít trên boong không ai biết lái tầu, hơn 100 người ngồi dưới hầm thì tưởng tầu vẫn đang chạy bình thường!

Tôi biết mình sắp chết nhưng cố làm ra vẻ bình tĩnh bảo con tôi:
– Con ơi!, đằng nào tầu cũng sắp chìm, bây giờ con ôm lấy cổ ba, để ba nhảy xuống biển khơi, bơi vào.

Tôi không biết bơi, mà có biết thì cũng không còn sức bởi bờ ở qúa xa, tôi cố nhướng mắt nhìn mà chỉ thấy lờ mờ trong mưa. Đứa con trai hơn 4 tuổi quấn chiếc khăn quanh người ướt đẫm từ đầu xuống chân, run lẩy bẩy nhìn tôi im lặng gật đầu. Dường như nó cũng linh cảm thấy chuyện chẳng lành sắp đến cho nên chỉ nhìn tôi chia sẻ. Quanh tôi có vài cái bình nylon đựng nước ngọt đã uống hết nằm lăn lóc trên sàn. Tôi nắm bàn tay lạnh ngắt của vợ tôi và bảo:
– Em lấy cái bình nylon, ôm vào người rồi nhảy xuống, may ra sóng đánh vào bờ.

Thà nhẩy xuống trước chứ để tầu vỡ thì khó lòng mà sống được, vì cả trăm người sẽ níu chặt lấy nhau và cùng chết hết.

Vợ tôi nhìn tôi bằng ánh mắt ly biệt, đưa tay làm dấu đọc kinh. Tôi và con trai tôi cũng làm dấu thánh giá và cầu xin Chúa che chở trong cơn nguy khốn.

Tôi vừa đưa cho vợ tôi cái bình nylon, chưa kịp nói gì thêm thì một đợt sóng vĩ đại ấp tới làm chiếc tầu lật ngang, vỡ tung buồng lái ở tầng trên, tiếng người đồng thanh kêu rú lên bị tiếng gầm của sóng át đi. Buồng máy, kính cửa sổ, mui tầu, mái gỗ bọc tôn và bao nhiêu thứ ngổn ngang trên tầu đều rụng hết xuống biển, kéo theo qúa nửa hành khách gồm đàn bà và trẻ em.

Tôi té lăn trên sàn tầu trong khối nước mặn khổng lồ vừa ập tới, đôi tay quờ quạng bám víu bất cứ thứ gì để sống còn. Từ giây phút ấy, tôi không còn nhìn lại được vợ tôi lần nào nữa. Đứa con tôi cũng vuột khỏi tay tôi và văng xuống biển, tôi níu được một sợi dây nào đó trên tầu nên chỉ bị văng mất đôi mắt kính chứ chưa rơi hẳn xuống nước. Nhưng ngay sau đó, tôi chưa kịp hoàn hồn, chưa kịp đứng vững thì lớp sóng khổng lồ vừa đẩy vô bờ, lại rút ra mạnh hơn làm tầu lật ngang một lần nữa ra phía ngoài. Và lần này trên boong tầu không còn sót lại một ai, tất cả đều rụng xuống biển.

Những lớp ván, lớp kính và những gì chưa vỡ qua đợt sóng trước, lần này tan tành hết. Nhưng đau đớn hơn cả là chiếc tầu chìm dần xuống đáy biển mà hầm tầu lại chưa bể, cho nên hơn 100 người đàn ông ngồi với tôi suốt tuần lễ vừa qua đều chết ngộp hết trong hầm, trong đó có cả cha con ông Ân – người đã đóng tiền cho gia đình tôi đi.

Tôi rớt xuống biển, cố gắng vùng vẫy theo bản năng sinh tồn, mặc dầu không biết bơi. Trên mặt biển bao la, sóng nhồi khủng khiếp, tôi thấy từng mảng gỗ thật lớn của ván tầu, rồi thùng phuy, va li, nồi niêu, áo quần, thùng gạo và hàng chục thứ đồ lặt vặt khác trôi nổi theo triền sóng, đôi khi lao vào mặt mình, đàn bà con nít ngụp lên lặn xuống, bám lấy nhau mà cùng chết.

Tôi uống no nước, chìm sâu xuống, đụng phải bao nhiêu xác người còn bấu chặt không rời nhau. Tôi nín hơi ngoi lên được một chút để thở, rồi lại bị sóng cuốn đi không định được phương hướng. Là người Công giáo, trong lúc lâm chung tôi cố gắng đọc kinh sám hối để chuẩn bị lìa đời. đọc kinh nhưng không cầm trí tập trung được, tôi uất ức lắm, bởi thấy mình chết tức tưởi ở tuổi 32 sau khi đã trải qua qua bao nhiêu năm gian khổ.

Ngày còn trong quân đội, mấy năm tác chiến, tôi đã kề cận tử thần mà tại sao không chết ngay trên chiến trường cho xong? Tôi nhớ một lần hành quân ở Cái Bè, tôi đứng dưới đường mương bên gốc xoài, VC từ cánh đồng trước mặt bắn đạn pháo trúng ngọn xoài chỗ tôi đứng, miểng văng tung tóe làm bay mất cây súng Colt tôi đang đeo bên hông và cắt đứt sợi dây ống liên hợp máy truyền tin PRC-25 tôi đang nói chuyện với Bộ Chỉ Huy Hành Quân. Lúc ấy tôi thấy số mình còn lớn lắm, chỉ bị trầy sát nhẹ ở bên đùi. Rồi khi ở trại cải tạo Sông Bé, tôi lại bị sốt rét nặng nề đến kiệt sức, tưởng không còn sống nổi tới ngày được tha về, vậy mà cũng không sao! Tôi uất ức tự hỏi tại sao vượt biển gần đến nơi thì lại chết?

Thế rồi tôi uống no nước, đuối sức không vùng vẫy nổi, đành buông xuôi tay chìm xuống đáy bể, không biết gì nữa.

Khi tôi tỉnh lại trên bờ, thấy mình nằm sấp trên đống xác chết ngổn ngang. nước ộc từ trong bụng ra giúp tôi hồi sinh. Tôi mơ màng tưởng mình đang nằm chiêm bao. Đứa con trai 13 tuổi của ông Ân chạy lại lôi tôi dậy và nói:

– Chú Ngạn ơi! Tỉnh dậy! Tỉnh dậy! Đắm tầu, chú Ngạn ơi!

Tôi ngơ ngác nhìn nó, chưa nhận ra ai bởi qúa đuối sức và vì không có mắt kính.
Thằng bé lay tôi và nhắc lại:
– Chú Ngạn ơi! Đắm tầu! Ba cháu, chị cháu với 3 người anh của cháu chết hết rồi! Vợ chú với con chú cũng chết cả rồi!

Tôi vùng đứng dậy, đưa mắt nhìn quanh: lính Mã Lai đang đưa những người sống sót vào gốc dừa. Họ cũng như tôi là những người được sóng đẩy vào bờ và may mắn thoát khỏi tử thần, nhưng họ không được phép cứu những người bị ngộp nước như tôi. Nếu được cấp cứu, tôi tin chắc trong đám người nằm kia, ít lắm cũng có cả chục người sống dậy.

Lính Mã Lai không cho cứu là bởi vì những kẻ xa lạ và bất nhân ấy đang lột quần áo người chết để lấy vàng và dollars giấu trong gấu quần, gấu áo, cổ áo, vạt áo.
Moi của xong, họ lôi xác chết tập trung lại một chỗ chở xe mang đi chôn tập thể. Tôi từ gốc dừa bò tới, tìm trong đám 97 cái xác thấy con trai tôi đã chết hẳn. Tôi bế cháu lên và nhận ra ván tầu hoặc ghềnh đá đã đánh vỡ trán con tôi, còn để lại một vệt dài thật rõ. Còn vợ tôi thì sóng biển đánh trôi đi mất, không tìm được xác.
Mọi chuyện diễn ra chỉ trong chớp nhoáng. Ngoài kia, biển vẫn ầm ầm gào thét, chỉ thấy sóng xô chập chùng, không còn dấu tích gì của chiếc thuyền định mệnh.
Hôm sau, từ trại tạm cư, chúng tôi được đưa trở lại bãi biển. Thả bộ dọc xuống hướng Thái Lan, tìm thêm được một số xác chết nữa nhưng cũng không thấy vợ tôi. Tổng số 161 người chết, chỉ vào bờ được khoảng 100 cái xác, phần còn lại bị sóng đưa đi mất tích. Có hai nhà sư Mã Lai gốc Hoa đem vải và nhang đến làm lễ cầu siêu trước khi lính Mã Lai đem chôn tập thể.

Trên bãi biển Mã Lai dài thăm thẳm tôi dừng chân, ngồi dưới hàng dừa trông ra đại dương, nao nao mường tượng lại chặng đường đã qua, nhớ những buổi sáng Chúa Nhật vợ tôi lên thăm ở Khu Tiếp Tân trường Bộ Binh Thủ Đức, rồi những lần từ thành phố xuống miền Tây chờ tôi ở hậu cứ tiểu đoàn. Khi sinh con đầu lòng, tôi từ đơn vị hành quân, không kịp thay quân phục, vội vã đón xe về thăm ở Bảo Sanh Viện Đức Chính trên đường Cao Thắng. Nhớ hơn nữa là những lần vợ tôi gánh quả nặng trĩu đi tiếp tế cho tôi trong trại cải tạo, băng ngang 17 cây số đường rừng từ thị xã Phước Bình vào Bù Gia Mập. Tất cả đều đã qua đi, chỉ còn lại mặt nước mênh mông xanh thẳm trước mặt, từng cuốn mất bao nhiêu xác người đồng hương trên hành trình tìm tự do.
Vợ tôi mất đi ở tuổi 26 sau những tháng ngày vất vả vì chồng. Lấy tôi khi tôi đã vào quân đội, thường xuyên xa nhà, vợ tôi cũng giống như bao nhiêu người đàn bà khác trong thời khói lửa, chẳng mấy khi được gần chồng. Khi tôi được biệt phái về lại Bộ Giáo Dục, dạy học tại Sài Gòn, đã tưởng vợ chồng có thể sống đời dân sự yên ổn lâu dài, nào ngờ chỉ hơn một năm sau thì mất nước, bắt đầu cuộc sống mới lao đao gấp bội. Đoạn đường trầm luân ấy, có ngờ đâu cuối cùng lại kết thúc bi thảm bằng cái chết trên đại dương cùng với đứa con đầu lòng hơn 4 tuổi!
Tôi tin chắc cái chết của vợ tôi đã làm thay đổi hẳn cuộc sống của tôi. Nếu nói theo niềm tin thiêng liêng, thì chính vợ tôi đã cứu tôi vào phút chót, trước khi đắm tầu, bằng chứng là hơn 100 người đàn ông ngồi chung với tôi dưới hầm tầu đều chết cả vì ngộp nước. Em tôi – người giới thiệu tôi cho ông Ân – nếu đi cùng tôi chuyến ấy, chắc chắn cũng đã bỏ xác trên đại dương. Nhờ bị bỏ lại, nửa năm sau, em tôi cùng gia đình vượt biển thành công và gặp lại tôi tại Vancouver – Canada vào giữa năm 80. Bà Ân và hai đứa con nhỏ được sóng đánh vào bờ thoát chết, đi định cư ở Texas, tôi vẫn liên lạc cho đến khi trả xong 20 lượng vàng chồng bà cho tôi vay.

Tìm hiểu Du lịch Malaysia - Đảo Bidong

Biến cố hãi hùng của chuyến tầu định mệnh làm tôi càng vững tin rằng đời người có sự sắp đặt của định mệnh, hay nói theo đức tin Công giáo, thì đó là sự an bài của Thiên Chúa, còn đó rồi mất đó! Kiếp người mong manh như chiếc bách giữa dòng, cho nên các cụ ngày xưa thường ví là cuộc phù thế nhân sinh.
Vợ con tôi chết trước mặt tôi, hơn 160 người chết ngay bên cạnh tôi, mà một kẻ yếu đuối như tôi lại sống sót – đó phải là quyền năng của Thiên Chúa chưa muốn tôi lìa trần. Lúc ngồi trên tầu, ông Ân thường tâm sự với tôi: những ngày gần mất nước, gia đình ông đã có thể đi Mỹ dễ dàng, bởi ông làm việc cho cơ quan viện trợ Hoa Kỳ suốt hai mươi năm, nhưng ông thấy mình tuổi đã lớn, muốn ở lại quê nhà khi đất nước hết chiến chinh, nên ông từ khước quyền lợi di tản mà người Mỹ dành cho ông. Ba năm sau, đất nước qúa lầm than, mà chiến tranh vẫn không dứt, các con ông chuẩn bị bước vào tuổi nghĩa vụ quân sự phục vụ cuộc xâm lăng Kampuchia, thúc đẩy ông phải ra đi. Năm 75 ông từ chối di tản bằng máy bay, năm 78 ông phải trốn bằng thuyền, để rồi chính bản thân ông cùng với 4 đứa con lớn đều chết cả!

Có thể do những suy nghĩ về cuộc đời sau chuyến hải hành khủng khiếp mà tôi thoát nạn chỉ trong đường tơ kẽ tóc, tôi bắt đầu có những thay đổi lớn trong tâm tư. Tôi trở nên dễ tính, ít chấp nhất và không nuôi lòng thù ghét với bất cứ ai. Tôi tâm nguyện rằng cuộc đời mình hễ làm được điều gì cho cộng đồng, cho xã hội, cho tha nhân, tôi đều cố gắng để đền đáp lại phép lạ của Chúa đã cứu tôi trên biển.

Những ngày trống vắng ở trại tị nạn Mã Lai chờ đi định cư, tôi suy nghĩ nhiều về nửa thế kỷ trầm luân của đất nước và nhận ra một điều đơn giản rằng: trong xã hội Việt Nam, người đàn bà mới chính là thành phần chịu nhiều gian truân nhất, thời chiến tranh cũng như thời hậu chiến. Cảm thông cái thực tế chua xót ấy, cùng với nỗi nhớ thương người vợ mới mất, tôi bắt đầu viết truyện dài Những Người Đàn Bà Còn Ở Lại. Trong 3 tháng ở trại tạm cư, cuốn sách đầu tiên ấy, tuy kỹ thuật chưa cao nhưng chứa đựng nhiều cảm xúc. Nó là bậc thềm thứ nhất, là nấc thang khởi đầu, để rồi từ đó đến nay tôi đã có được gần 30 tác phẩm xuất bản.

Hai mươi năm đã qua, trên mặt báo chí Việt ngữ, tôi chưa hầ viết lại những dòng này để mô tả tỉ mỉ cái chết của vợ tôi với đứa con đầu lòng. Tuy vậy, từ thâm sâu, tôi vẫn tin chắc một điều rằng: chính cái chết của vợ tôi đã mở ra cho tôi một cánh cửa mới tôi chưa hề dự trù trong qúa khứ, đó là thế giới văn chương mà tôi miệt mài theo đuổi cho đến hôm nay.

Nguyễn Ngọc Ngạn                                                                                               From: KimBằngNguyễn

Người Lau Kính Xe – Lê Đức Luận – Truyen ngan HAY

Kimtrong Lam

Viet Ba’o

Lê Đức Luận

TG Lê Đức Luận (đứng giữa) nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2023

***

Nếu ở xa vùng Đông Bắc Hoa Kỳ, khi có dịp lái xe qua thành phố New York hay vào thủ đô Washington DC lúc tuyết đang rơi lất phất… bạn chớ ngạc nhiên khi dừng xe ở ngã tư đường lúc đèn đỏ thì trông thấy một người, thường là một thanh niên da đen, tay xách bình xịt nước, tay cầm chiếc cần lau kính xe chạy ra cào lia, cào lịa trên kính xe của bạn mà không cần hỏi han gì cả.

Khi mới định cư ở tiểu bang Maryland, tôi được anh bạn đưa đi New York chơi cho biết thành phố lớn nhất ở Hoa Kỳ. Nếu không vững tay lái, người ta sẽ choáng ngợp với luợng xe lưu thông như mắc cửi. Nhưng anh bạn tôi đã đến New York nhiều lần, nên anh ta lái xe rất bình tĩnh và an toàn. Khi xe dừng lại ở ngã tư đèn đỏ, một anh thanh niên da đen vội vã chạy ra lau kính xe như tôi đã mô tả ở trên. Anh bạn tôi ung dung, im lặng để cho người thanh niên ấy lau kính xe… Khi đèn vàng nổi lên, anh bạn tôi hạ cửa kính xe đưa cho anh thanh niên ba đô la. Người thanh niên nói: “Thank you! Thank you!” rồi chạy vội vào lề đường.  Xe cộ lại tiếp tục nối đuôi nhau…

Tôi có chút thắc mắc: “Anh lau kính xe cứ tự động lau, không cần hỏi. Anh chủ xe tự động móc ví đưa tiền, cũng chẳng cần hỏi phải trả bao nhiêu.”  Tôi định hỏi: “Anh chàng làm công việc này là tự nguyện hay do chính quyền địa phương thuê anh ta cào tuyết trên kính xe cho du khách lái xe được an toàn?” Nhưng phố xá New York có nhiều cảnh lạ mắt để tôi chú ý hơn là nêu lên câu hỏi trong lúc này.      

Anh bạn tôi lái xe qua nhiều con đường, đến đèn xanh, đèn đỏ  không thấy có người lau kính xe đứng chờ. Nhưng khi đến đoạn đường dẫn vào bãi đậu xe để chuẩn bị xuống phà tham quan tượng Nữ Thần Tự Do, thì lại thấy một ông già có dáng dấp của một người Phi châu nghèo khổ, xách xô nước và cây bàn chải lau kính chạy ra; anh bạn tôi khoát tay ra hiệu không cần. Ông già tiu nghỉu xách xô nước vào lề.

Bây giờ tôi mới nêu câu hỏi. Anh bạn tôi trả lời: “Ở Mỹ thích nhất là được tự do – tự do làm và tự do từ chối – tự do cho mình, nhưng không được xâm phạm tự do của người khác. Tôn trọng tự do và sòng phẳng là một cách cư xử và đạo đức của người Mỹ. Sống lâu trên đất Mỹ ông sẽ thấy nước Mỹ có nhiều cái hay nhưng không thiếu cái dở và lắm chuyện lạ lùng!”

Tuy chưa trả lời trực tiếp câu hỏi của tôi, nhưng anh bạn đã gieo vào đầu tôi ý niệm tự do và sòng phẳng ở Mỹ. Và từ đấy cho mãi sau này, ý niệm tự do và sòng phẳng đã giúp tôi suy nghĩ và hành động phù hợp để hội nhập vào cuộc sống mới một cách thoải mái và cảm thấy hạnh phúc trên quê hương thứ hai này.

Trên đường về, anh bạn mới trả lời cụ thể câu hỏi của tôi:

– Hồi nãy ông hỏi tôi về người lau kính xe là do tự nguyện hay do chính quyền trả lương cho anh ta làm công việc ấy? Đó là tự nguyện của anh ta đấy.

– Trời ơi! Tuyết lạnh mà đứng cả ngày như thế thật khổ thân, ở New York không có việc gì làm đỡ khổ hơn sao? Tôi hỏi.

Anh bạn tôi cười, trả lời:

– Ở Mỹ có những người thích “cái thú đau thương!” Đó là cái “tự do kiểu Mỹ!” Rồi ông sẽ thấy ở Mỹ cũng có ăn mày, có người vô gia cư, lang thang đây đó, ăn ngủ ở đầu đường xó chợ…

– Mỹ được tiếng là nước giàu mạnh nhất thế giới mà cũng có ăn mày, người vô gia cư, cơ cực đến thế sao?

Lạ thật! Tôi tỏ vẻ nghi ngờ.

Anh bạn tôi lặp lại:

– Đó là “cái thú đau thương!” là “cái tự do kiểu Mỹ! Người ta hay ví von rằng: Ở Mỹ chuyện chết đói và làm giàu khó ngang nhau.

Nói vậy không sai lắm đâu, vì ở Mỹ có cơ quan An sinh Xã hội và các tổ chức từ thiện quan tâm đến đời sống của những người cùng khổ. Quận hạt nào cũng có nhà lưu trú cho những kẻ vô gia cư và có những chỗ cung cấp bữa ăn miễn phí. Những công dân Mỹ trên 65 tuổi và những người khuyết tật, không còn khả năng làm việc, đều được cấp tiền an sinh xã hội, đủ sống! Nhưng trong số đó có những người không thích ở trong nhà lưu trú hay viện dưỡng lão. Họ thích cuộc sống tự do, lang thang đây đó… Ngoài ra nghiện ngập khiến họ phải kiếm thêm tiền bằng cách ăn xin.

Rồi anh nói tiếp:

– Như ông đã thấy người thanh niên khi nãy, đứng dưới tuyết lạnh lau kính xe cho người qua lại. Trông thật đáng thương! Với sức vóc đó, anh ta có thể tìm một công việc khác tốt hơn. Nhưng có lẽ anh ta cảm thấy tự do và sòng phẳng trong công việc này – anh ta được an ủi và ấm lòng mỗi khi một người xa lạ hạ kính xe đưa cho anh vài ba đồng tiền lẻ với nụ cười thân thiện, biểu lộ tình người chân thật. Tự do, tình người và sòng phẳng đã khiến anh gắn bó với công việc “lau kính xe” cho đến tận bây giờ.

Mỗi lần lên New York, lái xe qua con đường này, tôi thấy anh ta vẫn đứng ở ngã tư đường, lau kính xe với thao tác lanh lẹ và chuyên nghiệp hơn. Trông anh ta có già đi đôi chút, nhưng ánh mắt vẫn lạc quan và thân thiện với khách lái xe qua đường như ngày nào.

Thời gia trôi qua, chuyện “người lau kính xe” nhạt nhòa trong trí nhớ. Cho đến một ngày, tôi đến California thăm gia đình người em họ, hình ảnh “người lau kính xe” tái xuất hiện, nhưng lại là một ông già Việt Nam, khiến tôi có chút ngỡ ngàng…

Hôm ấy, đứa cháu lên phi trường Los Angeles đón tôi về nhà nó ở Orange County. Xe chạy êm trên đường. Nắng sớm Cali vàng ươm màu hổ phách, chiếu lên những lá cọ cao vút ven đường trông như dát vàng. Ánh nắng ấy làm ấm áp làn da. Tôi cảm thấy khoan khoái. Chỉ ở Cali mới bắt gặp cái nắng đẹp và ấm áp như thế…

Khi đến ngã tư đường Bolsa và Magnolia, đèn đỏ, xe ngừng! Một ông già Việt Nam, trạc tuổi trên bảy mươi, đầu đội bê rê (beret) đỏ, mặc quân phục hoa dù, đeo chiếc cà vạt to bản màu vàng có ba sọc đỏ (biểu tượng lá cờ Việt Nam Cộng Hòa), vai mang bình xịt nước to như bình xịt thuốc trừ sâu, tay cầm cần lau kính, từ trong lề đường bước ra,  đến trước xe của con cháu.

Con cháu vội hạ kính xe, nói: “Chào bác Năm, bác khỏe không?” Vừa hỏi nó vừa móc ví trao cho ông già tờ bạc mười đô, rồi nói tiếp: “Xin gởi bác Năm chút tiền. Hôm nay bác khỏi phải lau kính xe cho cháu.”

Ông già cầm tiền bỏ vào chiếc túi nhỏ đeo bên hông, im lặng, thản nhiên xịt nước lên kính xe, rồi vung cần lau… như không nghe thấy lời nói của chủ xe. Khi đèn vàng hiện lên, ông già quay gót, bước chầm chậm vào lề đường, không một lời cảm ơn, cũng không có cái vẫy tay chào!

Khi đoàn xe chuyển bánh, ông già lặng lẽ đứng trên lề đường nhìn theo với ánh mắt hững hờ… Thái độ và cách ăn mặc của ông già là một hiện tượng lạ. Tôi ngỡ ngàng quay lại nhìn ông. Đứa cháu hiểu ý, giải thích:

– Ông già lau kính xe, truớc đây là một “đại gia” nổi tiếng đó bác! Ở đây ai cũng biết ổng. Cách nay vài năm ổng bị bệnh tâm thần nặng. Ông mặc áo nhà sư, đi lang thang đây đó, lúc tụng kinh niệm Phật, lúc ca hát. Ông ca rất hay! Mỗi lần ổng xuất hiện, nhiều người vây quanh nghe ổng hát những bài tình ca rất mùi…

Bây giờ, ổng tỉnh táo hơn, bỏ áo nhà sư, mặc đồ lính, đứng đây lau kính xe… Lúc đầu, khách lái xe qua đường nhìn ông với ánh mắt thờ ơ, có người khoát tay bảo: không cần! Nhưng cũng có người để ông lau kính rồi đưa ông vài ba đồng tiền lẻ. Số tiền gom được, ông gởi đến “Hội HO Cứu Trợ Thương Phế Binh Việt Nam Cộng Hòa (VNCH)” lên đến bạc ngàn và ông thường xuyên đóng góp cho các hội từ thiện số tiền không nhỏ. Từ đấy, tên tuổi ông được nhiều người biết đến.

Hiện nay, những người trong vùng đều biết: Ông lau xe không phải kiếm tiền nuôi thân mà để giúp cho thương phế binh VNCH và những kẻ khốn cùng, nên ai cũng vui vẻ ủng hộ việc làm của ông. Và người ta thêu dệt cuộc đời của ông ly kỳ như trong tiểu thuyết…

Ở chơi nhà người em họ hơn tuần lễ, những lúc anh em ngồi uống trà, tán gẫu… tôi tò mò muốn biết chuyện đời của “ông già lau kính xe” như thế nào mà con cháu nói: “ly kỳ như trong tiểu thuyết”. Và được chú em cho biết:

Ông Khánh nổi tiếng ở vùng này với ba lý do: Thứ nhất là làm giàu rất nhanh; thứ hai có bà vợ đẹp tuyệt trần – nết na hiền thục; thứ ba là đã bỏ nhà cao cửa rộng, sống lang thang đây đó như người vô gia cư.

Những lúc trà dư tửu hậu, hết cãi nhau về chính trị, dân vùng này thường đem chuyện đời của ông Khánh ra bàn tán như ‘mồi nhấm’ đưa hơi nói về ông Khánh. Ông đến Hoa Kỳ, định cư ở Quận Cam này theo diện HO với hai bàn tay trắng như những anh em HO khác. Nhưng chỉ ba, bốn năm sau trở thành triệu phú – không phải do trúng số độc đắc, mà từ sức cần lao và cái đầu thông minh của ông ta.

Bước đầu ông đi sửa chữa nhà cửa cho dân cư trong vùng – cái nghề học được khi làm trong “Đội mộc”ở trại cải tạo Tân Lập, Vĩnh Phú. Ông làm rất khéo tay, nên được nhiều người gọi, kiếm được khá tiền. Sau đó, vay thêm tiền ngân hàng, ông mua những căn nhà cũ rồi sửa lại, bán kiếm lời! Mua căn nhà cũ dưới vài trăm ngàn, khi sửa sang xong, bán ra trên hai trăm năm chục ngàn. Cứ thế tiến lên! Ông có đến bốn, năm căn nhà đã tân trang, chờ bán! May mắn là lúc đó nhà ở Cali lên giá chóng mặt… Vậy là ông trở thành triệu phú!

Nhưng thói đời ‘phú quý sinh lễ nghĩa’ và sinh tật ‘ăn chơi’. Một lần theo đám bạn bè lên Las Vegas chơi, ông bị người phụ nữ chia bài mồi chài, hay bỏ “bùa mê thuốc lú” thế nào khiến ông si mê… Rồi hằng tuần ông lên với người tình ở Las Vegas, bỏ bê vợ con và công việc làm ăn.

Người vợ mẫu mực, đảm đang khám phá sự phản bội của chồng, bà uất đến nỗi phát cuồng, có mấy lần ngất xỉu phải đưa đi nhà thương cấp cứu. Từ đó bà tịnh khẩu!

Tình cảnh của vợ khiến ông thức tỉnh. Ông quay về với gia đình, sám hối tội lỗi với vợ con. Ông hết lời năn nỉ vợ con xin tha thứ… Nhưng bà tịnh khẩu và mỗi khi thấy mặt ông, bà lại lên cơn ngất xỉu. Mấy đứa con bây giờ cũng lạnh nhạt với ông và nói những câu phũ phàng: “Ba đi đi, đừng về làm khổ mẹ!”

Ông nghe như đất trời sụp đổ! Ngày nào những đứa con gần gũi, thân mật, yêu thương ông…  Chúng nó là nguồn an ủi của đời ông. Bây giờ chúng nó nhìn ông với ánh mắt lạnh lùng và nói những lời xua đuổi, bất kính…

Ông thấy đau nhói trong tim! Ông bỏ nhà ra đi không mang theo bất cứ thứ gì. Rồi một ngày, ông xuống tóc vào chùa xin tu, nương nhờ cửa Phật! Ông hy vọng chốn thiền môn, sớm chiều tụng kinh, niệm Phật và sám hối sẽ làm vơi bớt nỗi khổ đau.

Ngày xưa, những người có sự giác ngộ tâm linh, nghiệp duyên, hay do ảnh hưởng từ gia đình hoặc môi trường chung quanh thì vào chùa tu từ nhỏ. Bây giờ người ta thấy: thất tình đi tu, thất chí đi tu, hận đời đi tu; thậm chí có người đi tu như tìm một nghề thanh nhàn, đó là cái “nghề tu”!

Ông Khánh đi tu không thuộc vào các dạng nêu trên. Ông vào chùa xin tu với hy vọng chốn thiền môn sẽ làm vơi nỗi đau khổ đang giày xéo tâm hồn ông. Nhưng vào chùa tu một thời gian, không biết hoàn cảnh thế nào khiến ông phát khùng… Ông bỏ chùa, đi hát dạo!

Khi biết ông vào chùa đi tu, rồi bỏ chùa, lang thang đi hát dạo… bà vợ xúc động! Bao kỷ niệm của cuộc tình thơ mộng thuở ban đầu và những ngày hạnh phúc bên nhau trong đời sống vợ chồng, lúc hiển vinh cũng như khi nguy khốn, hai tâm hồn đã gắn bó cùng chia xẻ cay đắng ngọt bùi trong mấy mươi năm qua, trổi dậy trong lòng bà…

Bà rưng rưng gọi mấy đứa con vào, bảo: “Các con đi tìm ba, đưa ba về đây, mẹ sẽ tha thứ cho ba tất cả, các con cũng thế… Để ba các con lang thang như thế, tội nghiệp lắm!”

Nhưng lúc này, ông Khánh mang bịnh trầm cảm nặng, ông nhập bọn với những người homeless, trốn tránh những người quen thân. Bao nhiêu lần, các con tìm gặp, năn nỉ ông về nhà, nhưng ông im lặng. Bà viết nhiều lá thư tỏ hết nỗi lòng thuơng nhớ và sẽ bỏ qua hết mọi chuyện… rồi bảo các con đem trao cho ông, nhưng không làm lòng ông rung động.

Cho đến một ngày, người ta thấy ông bỏ áo nhà sư, mặc quân phục nhảy dù, đứng ở ngã tư đường, lau kính xe.

Vốn là bạn cùng khóa ở trường Võ bị Đà Lạt với ông Khánh, nên chú em kể cho nghe thêm cuộc đời thăng trần của ông trước và sau năm 1975.

Chuyện tình duyên đến với ông đơn giản nhưng thật đẹp. Ông gặp Thoa trong buổi trao tặng vòng hoa cho các chiến sĩ xuất sắc của Sư đoàn Dù ở vườn Tao Đàn, Sài Gòn. Hôm ấy, nắng xuân ấm áp, người tham dự rất đông. Trên khán đài gồm các quan chức, dưới sân dân chúng sắp hàng ngay ngắn cùng các nữ sinh Trưng Vương tay cầm vòng hoa, xếp hàng dọc trước khán đài. Trong các nữ sinh có mặt hôm ấy, Thoa là người xinh đẹp duyên dáng nhất.

Khi ban quân nhạc trổi lên một bản hùng ca, các chiến sĩ Dù xuất sắc bước đều ra vị trí hành lễ. Như duyên số an bài, chàng Trung úy trẻ được xếp đứng trước mặt người đẹp tên Thoa, chờ nàng khoác vòng hoa lên cổ. Khi ấy, bốn mắt nhìn nhau như có luồn điện giao thoa giữa hai tâm hồn. Nàng nhìn bảng tên trên túi áo, lí nhí: “Hân hạnh được choàng vòng hoa cho anh Khánh…” Nhìn bảng tên đeo bên ngực trái của Thoa, anh Trung úy trẻ, đẹp trai đáp lời: “Cảm ơn Thoa, ước gì được gặp lại…” Nàng gật đầu!

Thế là có những cuộc hẹn hò, thề ước. Và chỉ một năm họ làm đám cưới theo kiểu nhà binh. Có lẽ nhờ cái tướng “vượng phu ích tử” của vợ mà đường binh nghiệp của Khánh lên như diều. Ra trường Võ Bị, chọn binh chủng Nhảy Dù, chức vụ đầu tiên là Trung đội trưởng; khi cưới Thoa, Khánh đang làm Đại đội trưởng, ba năm sau lên chức Tiểu đoàn trưởng. Hai lần gắn lon thăng cấp đặc cách tại mặt trận và từ Trung úy lên Thiếu tá chỉ vòng bốn năm. Trong khi các bạn cùng khóa còn đeo lon Trung úy hay mới lên Đại úy.

Đến tháng 4 năm 1975, đời ông rơi tận đáy! Bị giam cầm, đày đọa, nhưng nhờ người vợ tháo vát, đảm đang tần tảo nuôi con, tiếp tế cho chồng ròng rã mười hai năm. Ngày được thả về với gia đình, vợ con nguyên vẹn và đã dành cho ông tất cả yêu thương cho đến khi thoát khỏi chế độ tàn bạo ở Việt Nam, làm  lại cuộc đời trên đất khách.

Nghe qua câu chuyện, tôi muốn gặp mặt con người đặc biệt này. Và một buổi chiều cuối tuần, chú em dẫn tôi đi qua các hẻm nhỏ, nơi có những người homeless thường ngồi lại với nhau. Vừa thoáng thấy chúng tôi, ông già cúi xuống che mặt, nhưng chú em tinh mắt chạy đến ôm vai ông, nói: “Khánh, cậu làm sao ra nông nỗi này?”  Ông già im lặng! Chú em nói đủ thứ chuyện, rất thiết tha! Nhưng ông già không tỏ vẻ gì xúc động, vẫn im lặng!

Ngồi với nhau gần nửa giờ, ông già không nói lời nào. Trước khi chia tay, chú em bảo: “Khánh à, cậu nên về với gia đình. Thoa và các cháu nhớ thương cậu, mong đợi cậu về.” Bấy giờ ông già rưng rưng, nói: “Ở đây, ngày ngày tớ lau kính xe, coi như cạo bớt lớp bụi tội lỗi đã bám lên cuộc đời tớ… khi nào cạo sạch, tớ sẽ về.”

Chúng tôi chào từ giã ông già. Chú em thở dài, nói: “Cuộc đời dâu bể, vô thường! Không ai biết được ngày mai sẽ ra sao!”

Lê Đức Luận

(Tháng Ba – 2025)


 

VỢ CỦA SOCRATES – Truyện ngắn HAY

Chau Doan  

Triet gia Socrates (470 – 399 TCN)

Triết gia mà tôi, CD yêu thích, một người với hình thức nông dân, xấu xí, sức khoẻ của lực sỹ, lòng dũng cảm của một chiến binh xuất sắc, một tâm hồn cam nhẫn, một trí tuệ thông thái xuyên qua nhiều thế kỉ và danh tiếng trường tồn mãi với nhân loại. Tuy nhiên tôi không chắc toàn bộ sự khắc hoạ của vợ ông là chính xác và công bằng. Những người dựng lại chân dung của ông rất khó khăn về tư liệu.

Từ trang Dianabasi Udoh

VỢ CỦA SOCRATES

Ai có thể ngờ rằng triết gia Socrates, nổi tiếng với trí tuệ, sự thông thái và những lời nói đầy sức mạnh, lại sống trong một môi trường đầy tiếng quát tháo, sự ngu dốt và thù địch từ chính người vợ của mình?

Người phụ nữ này được biết đến là kẻ áp đảo, sắc sảo, mạnh mẽ và buộc chồng phải rời nhà lúc bình minh và chỉ trở về sau hoàng hôn mỗi ngày. Tuy nhiên, Socrates từng nói về bà:

“Tôi mang ơn người phụ nữ này. Nếu không có bà ấy, tôi đã không học được rằng trí tuệ nằm ở sự im lặng và hạnh phúc nằm ở giấc ngủ.”

Ông cũng nói: “Tôi đã phải chịu ba tai họa: ngôn ngữ, nghèo đói và vợ tôi. Cái đầu tiên tôi vượt qua bằng sự chăm chỉ, cái thứ hai bằng sự tiết kiệm, nhưng cái thứ ba – tôi không bao giờ vượt qua nổi.”

Một ngày nọ, khi Socrates đang ngồi với các học trò, vợ ông bắt đầu la hét và lăng mạ ông như thói quen. Nhưng lần này, trước sự ngạc nhiên của mọi người, bà còn đổ nước lên đầu ông. Lau mặt trong ngỡ ngàng, Socrates bình tĩnh nhận xét: “Chúng ta đáng lẽ phải đoán được mưa sẽ đến sau tất cả tiếng sấm ấy.”

Sự điềm tĩnh và im lặng của Socrates cuối cùng đã dẫn đến cái chết của vợ ông vì một cơn đau tim.

Đúng vậy, bà qua đời sau khi bắt đầu một cuộc tranh cãi nảy lửa khác với Socrates. Trong khi ông giữ im lặng, bình thản và không chút bận tâm, bà bùng nổ như một ngọn núi lửa. Cơn giận dữ dữ dội gây ra cơn đau nghiêm trọng ở tim và vai, khiến bà qua đời ngay trong đêm đó.