Hãy đến nói với một người, là bạn yêu thương họ-Truyện ngắn HAY

Cao Nguyenhoc

(Câu chuyện bác ái)

Hãy đến nói với một người, là bạn yêu thương họ.

Cô giáo môn Tâm lý học đã kể lại một kỷ niệm.

Tuần trước,tôi đã cho những học viên lớn tuổi của tôi một bài tập về nhà, mà rất nhiều người cho là kỳ dị: «Trong một tuần, hãy đến nói với một người, là bạn yêu thương họ. Đó phải là một người bạn mà bạn chưa bao giờ nói những lời đó hoặc ít nhất là đã không nói điều đó trong suốt thời gian dài ».

Ở vùng mà tôi đang dạy học, người ta sống rất khép kín.

Lớp học tôi dạy có rất nhiều người đàn ông xấp xỉ bốn mươi trở lên, và cả thế hệ của họ được rèn giũa rằng việc thể hiện cảm xúc quá nhiều là uỷ mị.

Nói những lời yêu thương đối với họ là những điều rất ư là khó khăn, có phần còn xa xỉ nữa!.

Còn khóc lại là một sự cấm kỵ.

Sau tuần đó, tôi hỏi xem có ai “làm bài tập”chưa?.

Tôi đã rất kỳ vọng vào một vài học viên nữ sẽ lên tiếng, nhưng không phải, người dơ tay đầu tiên lại là người đàn ông.

Trông ông ấy có vẻ rất xúc động!, ông phát biểu:

– ̂ , tôi đã rất giận dữ khi tuần trước cô cho chúng tôi bài tập này: “Một bài tập ngớ ngẩn” tôi đã nghĩ vậy!.

Nhưng khi lái xe về nhà, tôi bỗng nghĩ đến bố tôi.

Năm năm trước, hai bố con tôi đã cãi nhau một trận kịch liệt, và từ đó coi như không có nhau trên đời này nữa.

Trên đường về nhà, tôi đã suy nghĩ miên man và khi bước tới cửa thì tôi đã quyết định nói với bố rằng: Tôi rất yêu thương ông.

Thật là lạ, ngay khi tôi có quyết định, tâm hồn tôi bỗng thấy nhẹ nhõm hẳn.

Tại sao điều dễ dàng như vậy mà năm năm qua tôi đã không làm được?

Sáng hôm sau, khi đến chỗ làm, việc đầu tiên tôi làm cho một ngày mới là gọi điện thoại về nhà bố mẹ.

Khi nghe tiếng của bố, tôi hồi hộp chỉ nói được ngắn gọn:

  • Tối nay con sẽ ghé qua nhà một chút có được không ạ? Con… con muốn nói chuyện với bố.
  • Bố tôi gắt lên:
  • Lại chuyện gì nữa đây? Anh muốn qua lúc nào thì qua, ai cấm được!

Và tôi biết rằng đó là một lời đồng ý.

Khi bấm chuông của nhà bố mẹ, tôi thầm mong là chính bố sẽ ra mở cửa cho tôi.

Không biết là có sự nhạy cảm của tình yêu không mà lúc đó bố tôi đã ra mở cửa thật!

Đến lúc ấy không thể cho phép để phí một phút giây nào nữa, tôi bước lại gần ông rồi nói:

  • Bố! Con chỉ đến đây để nói rằng con rất yêu bố!

Bố tôi gần như đứng sững lại, có một cái gì đó như băng giá đang tan ra trên gương mặt ông.

Lần đầu tiên trong đời tôi thấy bố mình bật khóc.

Ông ôm chầm lấy tôi như thể vừa tìm thấy vật báu của cuộc đời mà ông tưởng đã trôi tuột khỏi tầm tay mình.

Ông nói gấp:

Con trai! bố cũng yêu con… nhưng bố đã không biết làm cách nào để nói điều đó.

Đó là khoảnh khắc mà tôi biết, mình sẽ chẳng bao giờ quên được.

Hai ngày sau, bố tôi bị một cơn đau tim và đến lúc này đây ông vẫn chưa tỉnh.

Các bác sĩ cũng không chắc rằng ông có thể tỉnh lại được hay không?

Cô Dennis, tôi xin cảm ơn cô vì bài tập mà cô đã giao cho chúng tôi.

Điều gì sẽ xảy ra nếu tôi chưa giảng hoà cùng bố và kịp nói với ông những điều cần phải nói?

Nếu như thế, tôi chẳng bao giờ còn có cơ hội làm điều ấy nữa…

Vậy đấy!

****

Nếu các bạn cần nói lời yêu thương với một người, xin hãy làm ngay đi.

Yêu thương là điều không thể trì hoãn.

“Làm bài tập mà tôi ra cho các bạn ngay đi”


 

 Tôn trọng con người – Truyện ngắn HAY

 Ông lão ăn mặc giản dị bị từ chối suất ăn trên máy bay, sau khi hạ cánh ông sa thải toàn bộ phi hành đoàn….

Chiếc máy bay thương gia mang số hiệu VN888 chuẩn bị cất cánh từ Singapore về TP.HCM. Tại quầy làm thủ tục, một người đàn ông lớn tuổi bước đến. Ông mặc chiếc áo sơ mi ngả màu, quần kaki đã bạc, chân mang đôi dép nhựa. Trong tay ông là chiếc túi vải cũ – loại túi siêu thị ngày xưa – nhét gọn gàng vài thứ đồ cá nhân.

Giới thiệu máy bay Airbus A359 Vietnam Airlines

 Nhân viên quầy check-in nhìn ông, rồi nhìn xuống tấm vé trên tay. Vé hạng thương gia. Họ thoáng giật mình, nhưng vẫn lễ phép hướng dẫn ông đến phòng chờ.

Trên khoang thương gia.

Giá vé máy bay hạng thương gia Vietnam Airlines - VietNam Booking

 Ghế 1A – vị trí đắt đỏ nhất – được ông chọn. Khi ông vừa ngồi xuống, một nữ tiếp viên tiến đến, vẻ mặt bối rối. Cô cúi đầu lịch sự:

 “Cháu xin lỗi… bác có thể cho xem lại vé một chút được không ạ?”

 Ông lão cười nhẹ, lấy vé ra từ túi áo:

 “Đây.”

 Tiếp viên liếc nhìn, xác nhận đúng là vé thương gia, nhưng ánh mắt vẫn hiện rõ sự nghi ngờ. Sau vài câu khách sáo, cô bước về cuối khoang, thì thầm với một tiếp viên khác. Họ liếc nhìn về phía ông, cười nhỏ:

 “Chắc trúng số mua vé hạng sang… nhìn như dân lao động.”

 Một doanh nhân trẻ ngồi ghế 1C – áo vest hàng hiệu, đồng hồ Rolex – quay sang khẽ nhăn mặt. Anh ta nhìn ông lão từ đầu đến chân, rồi quay đi, bấm điện thoại. Dù không ai nói ra, nhưng trong khoang ấy, sự khó chịu vì “sự xuất hiện lệch đẳng cấp” rõ ràng hiện diện.

 Một tiếng sau.

 Khi máy bay ổn định ở độ cao, tiếp viên bắt đầu phục vụ bữa ăn. Những phần ăn sang trọng được bày ra: bò Wagyu, rượu vang đỏ, bánh mì nhập khẩu, tráng miệng panna cotta Ý.

 Ông lão nhẹ nhàng gọi cô tiếp viên:

 “Xin lỗi cháu, cho bác xin phần ăn được không?”

 Tiếp viên mỉm cười xã giao, nhưng câu trả lời lạnh tanh:

 “Dạ… hôm nay suất ăn thương gia có giới hạn, ưu tiên khách VIP thường xuyên. Mong bác thông cảm.”

 Ông khẽ gật đầu, không nói thêm lời nào.

 Vài hành khách xung quanh nhìn nhau, cười kín đáo. Một người nói nhỏ:

 “Tưởng hạng thương gia là được ăn sang à? Có tiền mua vé mà không đủ tiền mua phong cách.”

 Chuyến bay kéo dài 2 giờ đồng hồ, nhưng với ông – nó là hai tiếng im lặng tột cùng.

 Ông không đòi hỏi. Không trách cứ. Chỉ lặng lẽ nhìn qua cửa sổ, gương mặt già nua bình thản, nhưng đôi mắt buồn sâu thẳm.

Khi máy bay hạ cánh.

 Hành khách lần lượt rời khỏi khoang. Riêng ông lão được mời nán lại vài phút.

First Impressions of Vietnam Airlines A350 Business Class - Live and ...

 Ngay lúc đó, cửa khoang mở ra, một đoàn người mặc vest đen bước vào. Người đi đầu là Giám đốc điều hành của hãng hàng không.

 Tất cả tiếp viên, phi công, tổ bay đều bị gọi tập hợp trước mặt ông lão. Gương mặt họ thoáng ngạc nhiên, rồi bắt đầu lo lắng.

“Giới thiệu với mọi người – đây là ông Trần Vĩnh. Người sáng lập hãng bay chúng ta, chủ tịch tập đoàn sở hữu 60% cổ phần toàn hệ thống.”

 Cả khoang chết lặng.

 Tiếp viên trưởng đứng không vững. Cô gái từng từ chối suất ăn cúi gằm mặt.

 Ông Trần Vĩnh lúc ấy mới cất tiếng – giọng ông không giận, không to, nhưng vang như sấm:

 “Tôi đã muốn làm một hành khách bình thường, để trải nghiệm dịch vụ bằng chính con mắt của người không quyền lực. Và tôi đã nhìn thấy rất rõ.”

 “Một con người có thể mua vé giá cao nhất, ngồi vị trí tốt nhất, nhưng chỉ vì ăn mặc không giống số đông – lập tức bị xem thường, đối xử phân biệt, từ chối những quyền lợi vốn thuộc về họ.”

 Ông quay sang ban giám đốc:

 “Tôi không cần những tiếp viên đẹp đẽ ngoài mặt, nhưng rỗng lòng. Tôi cần con người – biết tôn trọng người khác, bất kể họ là ai.”

 Và ông nói câu cuối cùng:

 “Tôi yêu cầu đình chỉ toàn bộ phi hành đoàn của chuyến bay này. Họ cần thời gian học lại cách phục vụ – và cách làm người.”

 Câu chuyện ngay lập tức lan truyền khắp mạng xã hội.

 Người ta xúc động. Không phải vì một màn “trả đũa quyền lực”, mà vì một bài học: Đừng đánh giá ai qua quần áo họ mặc, hay cách họ xuất hiện.

Vì có thể, chính người bạn coi thường… lại là người đang nắm giữ cả tương lai của bạn trong tay.

 Sau sự việc, ông Trần Vĩnh yêu cầu mở lớp đào tạo lại về đạo đức phục vụ. Một số tiếp viên sau đó đã thay đổi thái độ sống, quay lại với nghề bằng tinh thần khác – tử tế hơn, biết ơn hơn.

 Ông không hề thù hận. Nhưng ông làm vậy để bảo vệ điều lớn hơn:

“Tôn trọng con người – là nền móng duy nhất cho mọi dịch vụ chân chính.”

From: haiphuoc47 & NguyenNThu


 

Đôi mắt của chị là 2 dòng lệ tuôn trào…Truyện ngắn HAY

Những Câu Chuyện Thú Vị – My Lan Pham 

Ở Mỹ, có một người phụ nữ bị gặp tai nạn giao thông. Khi đưa vào bênh viện cấp cứu thì phát hiện người phụ nữ đã trở thành người thực vật nhưng bên cạnh đó bác sị phát hiện cô ấy cũng đã mang thai được 3 tháng. Các bác sĩ đã truyền thức ăn nuôi sống đứa trẻ trong khi mẹ của bé vẫn hôn mê. Sau nửa năm thì cũng đến ngày đứa bé chào đời. Nhưng khó khăn lớn nhất ở đây là nếu các bác sĩ mổ để lấy đứa bé ra mà người mẹ tắt thở nửa chừng thì đứa bé cũng sẽ chết. Họ họp với nhau rất nhiều lần nhưng ko thể tìm ra cách tốt hơn. Cuối cùng họ quyết định vẫn mổ bắt bé ra. Trước khi mổ, vị bác sĩ kề vào tai người mẹ thì thầm : ” Hôm nay là ngày chúng tôi mổ để lấy đứa con của chị ra . Chị hãy ráng giữ hơi thở để con chị có thể chào đời.” và rồi họ tiến hành.

Quá trình mổ tiến hành thuận lợi, người mẹ vẫn duy trì hơi thở và may mắn khi đứa bé đã được cất tiếng khóc chào đời nhưng đó cũng là lúc người mẹ trút hơi thở cuối cùng ra đi mãi mãi. Các bác sĩ nhìn chị ngậm ngùi. Họ biết rằng chị đã cố gắng hơi thở cuối cùng vì đứa con bé bỏng của mình và đôi mắt của chị là 2 dòng lệ tuôn trào….

Đó là dòng lệ của sự vui mừng vì con mình chào đời nhưng cũng là dòng lệ đau buồn khi biết rằng mình phải vĩnh viễn ra đi, không một lần có thể ẵm con trong vòng tay, không thể chăm sóc nhìn con lớn khôn nữa…

Sưu tầm

My Lan Phạm


 

Tại sao bà lại nhận công việc khó khăn và thấp hèn này?-Truyện ngắn HAY

Chuyện tuổi Xế Chiều – 

Năm 1919. Nội chiến ở Liên Xô.

 Gần điền trang cũ của một gia đình Bá tước, có một trung đoàn Hồng quân dừng nghỉ đêm.

 Đêm khuya, nghe tiếng gõ cửa, nữ bá tước mở cửa và thấy một cô y tá đang đứng ở ngưỡng cửa.

– Chào bà, cô y tá nói, “Tôi vô tình nhìn thấy họ lập “Danh sách kẻ thù của nhân dân”.  Bà sẽ bị bắt vào đêm nay.  Nếu bà không chạy thoát thì bà sẽ bị bắn. “

– Tôi có thể chạy đi đâu được?  Tôi có hai con nhỏ, một đứa đang bị bệnh nặng.  Họ sẽ chặn bắt tôi ở ngay ngã tư đầu tiên.

– Tôi biết cần phải làm gì. Khi họ tới, tôi sẽ xưng bằng tên của bà. Như vậy họ sẽ bắn tôi và không tìm kiếm bà nữa.

– Sao cô lại làm điều này?!

– Tôi bị bệnh rất nặng khi còn nhỏ.  Và tôi đã thề với Chúa rằng nếu Chúa ban cho tôi sức khỏe thì tôi sẽ dâng mình cho Chúa.  Năm mười tám tuổi, tôi trở vào tu viện. Khi cách mạng đến, tu viện bị đóng cửa, các nữ tu sĩ bị giải tán. Tôi trở thành y tá cho những người Bolshevik.  Tuy nhiên, tôi cảm thấy rằng tôi chưa hoàn thành lời thề của mình…

– Xin bà hãy chấp nhận lời đề nghị của tôi.  Bà có con cái, bà cần cuộc sống trần thế hơn tôi. Đối với tôi, sự sống là Đấng Christ, và cái chết là có ích.

Nghe cô gái nói vậy, nữ bá tước bật khóc.

  Một năm đã trôi qua.  Người nữ y tá bị xử bắn, và nữ bá tước trốn thoát sang Pháp cùng các con. 

 Người phụ nữ có học thức và xinh đẹp xuất thân từ một gia đình quý tộc này đã nhận làm một công việc như một y tá tại một bệnh viện tỉnh lẻ. Dù nhận được những lời mời hấp dẫn cho những việc làm phù hợp, lương cao, nhưng bà đã từ chối tất cả.

Một nữ nhà báo Pháp đã phỏng vấn nữ bá tước Nga. Những lời nói của bà đã khiến người phụ nữ Pháp này vô cùng sốc.  “Tại sao bà lại nhận công việc khó khăn và thấp hèn này?”  nhà báo hỏi.

– Có một người con gái đã hy sinh cả cuộc đời của mình cho tôi và các con tôi.  Tôi biết rằng cô gái hiện ở với Chúa trên thiên đường, và đang nhìn tôi.  Tôi muốn cô ấy biết rằng cô đã không đổ máu cho cho hạnh phúc ích kỷ của tôi. Tôi cảm thấy rằng bằng cách nào đó tôi phải đáp lại hành động của cô gái đó, vì vậy tôi quyết định tiếp tục cuộc sống của cô.

Svi Doan st.& dịch


 

MỘT CHUYỆN TÌNH KHÔNG CÓ TRONG SÁCH GIÁO KHOA

Tu Le

Người ta thường nói, tình yêu không có tuổi. Nhưng mấy ai dám yêu khi cả thế giới quay lưng?

Câu chuyện của Emmanuel và Brigitte – Tổng thống nước Pháp và người phụ nữ hơn ông 24 tuổi – là một minh chứng lặng lẽ nhưng mạnh mẽ rằng tình yêu, nếu là thật, thì chẳng cần ai cho phép.

Brigitte năm ấy là cô giáo dạy văn. Mái tóc vàng óng, giọng nói trầm ấm và đôi mắt từng trải. Bà yêu thơ Rimbaud, say mê Racine, tin rằng văn chương có thể chạm được đến nơi sâu thẳm nhất trong tâm hồn một con người. Và rồi, một cậu học trò 15 tuổi – Emmanuel – bước vào lớp.

Cậu học trò khác thường. Ít nói, nhưng khi nói thì ánh mắt như thiêu đốt. Một đứa trẻ con mang dáng dấp của người trưởng thành. Brigitte không ngờ, trong hàng chục gương mặt tuổi mới lớn ngày ngày lắng nghe bài giảng của mình, lại có một cậu bé sớm nhận ra điều mà bà chưa từng dám nghĩ: trái tim bà vẫn biết yêu.

Cậu ấy nói: “Một ngày nào đó, em sẽ cưới cô.”

Brigitte cười, như bao lần người lớn cười trước giấc mơ ngông cuồng của tuổi trẻ. Nhưng Emmanuel thì không quên. Ngược lại, cậu sống như thể cả đời mình chỉ để chứng minh lời hứa ấy là thật.

Gia đình đưa cậu đi xa. Dư luận dấy lên. Bạn bè rời bỏ. Nhưng tình yêu đôi khi chỉ cần hai người, và sự im lặng của thế giới cũng là một thứ chấp thuận. Họ lặng lẽ viết thư cho nhau. Lặng lẽ sống, lặng lẽ đợi.

Thời gian trôi, Brigitte ly hôn. Emmanuel tốt nghiệp, đi làm, rồi bước chân vào chính trường. Họ kết hôn vào năm 2007, sau hơn một thập kỷ gắn bó thầm lặng.

Ngày ông đắc cử tổng thống, bà đứng bên cạnh – không như một “phu nhân quyền lực”, mà như người bạn đời hiểu ông nhất. Không ồn ào, không phát ngôn hoa mỹ. Bà không là chiếc bóng sau lưng, mà là mặt trăng dịu dàng luôn dõi theo mặt trời.

Người đời gọi bà là “cô giáo yêu học trò”, là “phu nhân già hơn chồng”, là “một sự bất thường trong chính trị châu Âu”. Nhưng bà không cần sửa lại những danh xưng đó. Bà chỉ nhẹ nhàng sống. Và yêu. Như cách bà từng dạy học – tận tụy và đầy đam mê.

Tình yêu thật sự không nằm trong khuôn mẫu. Nó không đo bằng tuổi tác, danh vị, hay số đông ủng hộ. Nó nằm trong ánh nhìn hai người dành cho nhau – giữa đám đông ồn ào, họ vẫn thấy nhau.

Ở một thế giới mà người ta dễ yêu nhanh và quên vội, có một Tổng thống từng là cậu học trò nhỏ giữ lời hứa thuở mười lăm. Có một cô giáo từng sợ hãi, từng hoài nghi, nhưng rồi chọn bước theo trái tim.

Đó là chuyện tình không có trong sách giáo khoa, nhưng đủ để viết nên một trang đẹp trong đời thật

ST


 

 Khoảng Trống Cuối Cuộc Đời – Lưu An Vũ Ngọc Ruẩn- Truyen ngan HAY

 Lưu An Vũ Ngọc Ruẩn

Anh Phi, anh Ruẩn thân mến,

Thật là tội cho bà cụ có hai người con như trong truyện, họ đã không còn bản tính như của người VN, cho dù họ cũng chỉ mới rời VN chưa lâu, chừng 20 năm.

Nhân dịp hai anh đều đã và đang sinh sống bên Thụy Sĩ, xin cho hỏi thăm về chuyện sinh sống của người già bên Thụy Sĩ:

  1. bên Thụy Sĩ có bắt buộc con cái phải nuôi cha mẹ không?
  2. nếu con cái không muốn chăm sóc thì sao? … người già có được trợ cấp để vào sống trong viện dưỡng lão không?
  3. tôi đã hỏi thăm vài viện dưỡng lão gần nhà, giá tiền tùy theo tình trạng sức khỏe, không cần trợ giúp của người già như 0%,10%,25%,50%,… và giá phí xê dịch từ US$5,000 đến US$15,000/tháng (năm ngàn đô đến mười lăm ngàn đô mỗi tháng). Bên Thụy Sĩ phí tổn thế nào?

Phí tổn chăm sóc người già bên Mỹ cao quá, nên nhiều người già cũng đang tìm cách bung qua các quốc gia khác với chi phí thấp hơn, ví dụ như VN, Phi, Thái Lan, Mexico, Portugal, v.v.

Xin phép “ní nuận” một tí cho vui, chúng ta cứ tìm cách sống dai, rồi phải lo lắng, mệt nhọc với chuyện chăm sóc cho bản thân khi về già thì mệt quá, có thật sự đáng không?

Thế gian chúng ta đều biết rõ những thứ hữu hình thì không bền chắc theo thời gian, bà cụ trong truyện nếu hiểu rõ mọi chuyện đều có thể thay đổi, ngay cả tính tình con người, thì có thể không thất vọng quá như vậy mà tự hủy mình.  Quan trọng hơn hết là đừng bao giờ trông mong quá nhiều nơi người khác.

Cảm ơn hai anh đã chia sẻ.

NĐTrọng

************

 Qua người bạn thân cùng lớp, tôi quen với gia đình bác Chấn, một gia  đình gốc Tây học, giàu có và thế lực của miền Nam trước năm 1975. Bác có hai người con, một trai, anh Quang hơn tôi 3 tuổi, một gái, chị Yến hơn tôi 1 tuổi. Hai người con của bác đều theo học chương trình Tây.

 Sự quen biết của tôi với gia đình bác rất sơ sài, không bước xa hơn những lời chào hỏi xã giao thông thường hay vài câu hỏi tò mò về thân thế, gia đình và học hành của tôi trong những lần tôi theo người bạn đến nhà bác chơi.

Sau này khi vừa xong tú tài, trong một lần ghé thăm bác Chấn, tôi được biết hai người con của bác đã đi du học tại Thụy Sĩ ngay sau khi tốt nghiệp bậc trung học Pháp tại Sàigon. Còn tôi không có điều kiện nên học đại học trong nước, sau khi tốt nghiệp xuống Cần thơ dạy học, tôi không có dịp nào đến chơi nhà bác Chấn nữa. Đầu năm 1974, trước khi nhận học bổng tu nghiệp ở Nhật Bản, tôi được người bạn cho biết bác Chấn trai đã bị mất vì ung thư. Bác gái vẫn sống với vài người cháu họ xa ở căn nhà khá lớn, sang trọng ngày xưa ở đường Ngô Tùng Châu rất gần với trung tâm Sàigon.

Rồi với bao nhiêu đưa đẩy của thời cuộc, cuối năm 1979 tôi rời bỏ Nhật Bản vì tìm được việc làm đúng với chuyên môn ở thành phố Zürich, vùng nói tiếng Đức, miền bắc Thụy Sĩ. Sang Thụy Sĩ được khoảng một năm tôi lập gia đình với người bạn gái người Nhật mà tôi đã quen biết nhiều năm trong thời du học tại đó.

Một lần vào năm 1983 gia đình tôi xuống Genève thăm người bạn, ngẫu nhiên tôi gặp được chị Yến, cô con gái của bác Chấn. Chị cho biết chị và anh Quang đã tốt nghiệp xong đại học Genève từ lâu. Cả hai đang đi làm, vẫn sống ở Genève, nhưng kẻ ở đầu tỉnh, người ở cuối tỉnh, lại bận rộn với công việc làm cho nên cũng rất ít gặp nhau. Chị Yến cũng cho biết cả hai vẫn chưa lập gia đình nhưng sống chung với người yêu đều là người Thụy Sĩ. Tôi cũng hơi ngạc nhiên vì cả hai đều đã xấp xỉ 40 tuổi mà vẫn độc thân, nhưng không dám thắc mắc vì có lẽ lối sống Tây phương là thế.

Trong lần gặp nhau đó, tôi cho chị địa chỉ, số điện thoại của gia đình, ân cần mời chị và anh Quang nếu có dịp đến chơi, coi như tìm được người bạn xa xưa nơi xứ lạ quê người. Nhưng tôi có cảm tưởng chị không có vẻ hân hoan với lời mời vồn vã, chân thành của tôi lắm. Vô tình hay cố ý, chị cũng không cho tôi biết địa chỉ! Tuy nhiên tôi cũng chẳng bận lòng vì nghĩ họ đã sống và lớn lên với nền văn hóa Tây Phương từ ngày còn bé, sự lạnh lùng, cách biệt với những người không cần thiết là lẽ tự nhiên mà thôi.

Chỉ có vậy, lần gặp nhau như thoáng qua, đã được quên đi dễ dàng. Bất thình lình, khoảng gần 2 năm sau ngày chúng tôi gặp nhau thoáng qua, nhạt nhẽo đó, tôi nhận được điện thoại của chị cho biết bác Chấn gái đã được anh em chị bảo lãnh sang đoàn tụ, hiện đang sống với chị ở   Genève đã được khoảng một tháng rồi. Chị có nói với bác Chấn về gia đình chúng tôi, bác mong muốn mời gia đình tôi đến chơi để tâm sự. Đặc biệt trong cuộc điện thoại này chị rất thân thiện, thân thiện đến nỗi tôi có cảm tưởng chị năn nỉ chúng tôi đến chơi với mẹ chị, giúp bà vui mà quên đi nỗi nhớ quê hương khi chưa quen biết ai ở Genève.

          Sau đó, một buổi sáng sớm thứ bẩy cuối tuần,vợ chồng tôi lái xe xuống Genève, chúng tôi đến tạm trú nhà một người bạn cũng ở trong Genève, nghỉ ngơi, nói chuyện một lúc. Khoảng 2 giờ chiều chúng tôi mới đến nhà chị Yến thăm bác Chấn. Trong lần gặp gỡ này có cả anh Quang cùng với 2 người Thụy Sĩ là bạn trai và bạn gái của họ. Ngay khi bước vào nhà, sau vài câu chào hỏi thông thường, vợ chồng tôi đã nhận thấy ngay bầu không khí nặng nề giữa bác Chấn với 2 người con của bác cũng như với 2 người bạn trai gái của họ.Bác Chấn hoàn toàn bị tách xa trong cuộc sinh hoạt của hai người con và bạn của họ, dù ngôn ngữ Pháp với bác không thành vấn đề. Sau vài câu xã giao bình thường, nói chuyện vu vơ với chúng tôi, nhóm con của bác Chấn cũng tự tách rời.

Họ nói chuyện, cười đùa, âu yếm nhau trước mặt chúng tôi, chẳng có tí ngại ngần rồi dẫn nhau vào phòng bên cạnh đùa giỡn trong âm thanh của âm nhạc khá ồn ào. Họ để bác Chấn tiếp đãi trò chuyện với chúng tôi. Bác Chấn có vẻ ngượng ngùng, nhưng chúng tôi cố làm ra vẻ không để ý,coi như chuyện bình thường của giới trẻ Tây phương. Chúng tôi ân cần mời bác lên nhà chúng tôi chơi bất cứ lúc nào, có thể ở với chúng tôi cả tháng trời cũng chẳng sao vì nhà khá rộng lại có vườn riêng để ăn uống ngoài trời.

Bác tỏ vẻ rất cảm động với nhiệt tình của chúng tôi. Bác càng thích hơn khi thấy vợ tôi cầm chiếc áo len mà bác đang đan nửa chừng, tò mò xem ra chiều hiểu biết và đồng sở thích thêu thùa. Lúc sửa soạn ra về, vợ chồng tôi có ý gặp hai người con để chào từ giã, nhưng với tí chút ngần ngừ trong vẻ ngượng ngùng bác nói:

– Thôi, các cháu cứ về đi, bác sẽ nói với chúng nó sau!

Từ giã bác Chấn, chúng tôi trở lại nhà người bạn ngủ qua đêm, sáng hôm sau, ngày chủ nhật, sau khi ăn sáng với gia đình người bạn xong chúng tôi từ giã ra về. Chiều ý vợ, tôi lái xe đi một vài vòng thành phố Genève cho vợ tôi xem tí chút về thành phố, trước khi về lại Zürich. Đang lúc chạy xe tôi thoáng thấy bác Chấn ngồi ở chiếc ghế của một trạm xe bus. Dừng xe vào lề đường tôi chạy vội đến nói với bác:

– Bác Chấn, bác đi đâu vậy? Bác lên xe cháu chở cho.

Bác giật mình khi nhìn thấy tôi, nhưng ngay lúc đó cảm giác ngượng ngùng buồn bã hiện rõ trên khuôn mặt, trong ánh mắt khi bác nhìn tôi. 

Chẳng đợi cho bác trả lời tôi nói tiếp:

– Cháu đang định chạy lòng vòng xem thành phố đây, bác đừng ngại gì cả, cứ lên cháu chở đi mà!

Nói xong tôi cầm tay, kéo bác về hướng chiếc xe, nơi đó vợ tôi đang mở cửa xe chờ đợi. Ngần ngừ tí chút, nhìn tôi như gửi gấm nỗi buồn kín đáo, bác nói như muốn khóc:

– Bác có muốn đi đâu đâu! Ở nhà buồn và cô đơn quá cháu ạ, chịu không được!  Ngày nào bác cũng ra ngồi ở các trạm xe bus, xe điện để nhìn người ta lên xe, xuống xe cho đỡ buồn đó mà thôi!

Nghe bác nói, tôi ngẩn ngơ, nhìn bác trân trối! Câu trả lời của bác xót đau quá! Tôi có cảm nhận người đàn bà xấp xỉ tuổi 70 đang đứng tước mặt tôi có rất nhiều tâm sự buồn đau khó nói. Hình ảnh cuộc gặp mặt chiều hôm qua ở nhà cô Yến, con gái của bác lại hiện ra, trở về trong ký ức tôi! Tôi thoáng hiểu một phần nào nỗi buồn, cô đơn của bác. Nhân dịp gặp lại trong ngẫu nhiên này tôi muốn được nghe bác tâm sự, biết đâu tôi lại tìm được điều gì đó giúp bác giảm được nỗi buồn mà bác đang chất chứa trong lòng ?!

Nghĩ như vậy, tôi thân thiện khoác tay lên vai bác, khẩn khoản tôi nói:

– Bác cháu mình tìm một quán nước nào đó nói chuyện đi! Bác đừng ngại ngần gì cả, ngày hôm qua cháu muốn nói chuyện với bác nhiều mà chưa hết. Hình như sự nhiệt lòng của tôi và cũng có lẽ vì quá buồn, bác im lặng đi theo. Sau một lúc chạy lung tung, chúng tôi vào một quán nước bên ngoài hành lang của một khách sạn trên đại lộ Quai du Mont Blanc, bên kia đường là hồ nước Lehmann. Bầu trời trong xanh, ánh sáng ban mai chiếu rọi lên mặt hồ nhấp nhô tạo ra những dải sáng lấp lánh tuyệt đẹp của một buổi sáng nắng tốt. Bác Chấn đã khóc gần như suốt thời gian ngồi kể cho tôi nghe về lý do của bác khi lựa chọn rời xa VN, sang Thụy Sĩ định cư.

Một lựa chọn mà bác nghĩ rằng đã sai lầm, đang làm cho bác buồn đau vì cô đơn.  Bác cho biết, với lời khuyên nhủ rất hợp lý, chân tình của hai con, bác đã bán căn nhà của mình ở trong nước, tiền bán nhà cùng với tất cả tiền bạc,nữ trang mà bác đã dành dụm từ khi mới kết hôn, bác đã giúp 2  con, mua cho mỗi người một căn hộ ở Genève. Căn hộ mà chúng tôi đến thăm hôm qua là của Yến. Một căn khác cho Quang, nhưng đến nay dù đã hơn một tháng ở Thụy Sĩ nhưng bác vẫn chưa có dịp đến xem nó ra sao!

Trước khi rời bỏ quê hương sang Thụy Sĩ, bác nghĩ rằng, tuổi đã già, bệnh hoạn, sống chết không biết lúc nào, vì vậy nếu được sống với chính con của mình là một điều rất hợp lý, vẫn hơn sống với những đứa cháu họ ở Việt Nam. Đã thế bác nghĩ với khả năng thông thạo tiếng Pháp, có lẽ bác chẳng khó khăn trong việc giao tế với người địa phương. Thêm vào đó với sở thích đọc sách báo, thêu thùa cũng sẽ giúp bác che lấp được những lúc nhàn rỗi, cô đơn khi các con đi làm. Với ý nghĩ lạc quan như vậy bác đã chờ đợi từng ngày được ra đi đoàn tụ với hai con. Nhưng khi đến Thụy Sĩ, chỉ sau một tuần lễ đầu tiên bác đã nhận thấy mình sai lầm! Cái sai lầm ra ngoài tưởng tượng, tính toán    của bác. Dù thích đọc sách,thích thêu thùa nhưng bác chẳng có được hứng thú mà là được như mong muốn!

Bác được Yến, người con gái mà bác thương yêu nhất, đón về sống chung. Mấy ngày đầu tiên, Yến nghỉ làm việc, dẫn bác đi lo giấy tờ hành chánh, bảo hiểm sức khỏe đồng thời chỉ dẫn bác cách mua vé, xử dụng các phương tiện giao thông công cộng như xe bus, xe tram của thành phố. Yến cũng không quên hướng dẫn bác xử dụng các máy móc trong nhà như máy giặt, máy sưởi cùng với những việc làm trong tập thể chung cư.

Mấy ngày đầu tiên còn bận rộn với những học hỏi, làm quen với cuộc   sống mới nơi xứ lạ quê người,bác không có thời gian để cảm thấy cô đơn. Nhưng chỉ một tuần sau,mọi hoạt động đã được đưa vào thứ tự và đều đặn. Buổi sáng Yến vội vàng đi làm,chiều tối về nhà, mệt mỏi nên cô ta chẳng có thì giờ và hứng thú để nói chuyện với bác ngoài vài câu hỏi sức khỏe vu vơ. Đã thế Yến thường về với người bạn trai, họ lại quây quần với nhau trong phòng riêng, chẳng thèm để ý đến bác. Bác sống im lìm như một chiếc bóng thừa thãi trong căn hộ.

Mấy ngày đầu tiên, có lẽ vì món ăn lạ hay nể nang công lao nấu nướng của bác, Yến và người bạn trai còn về nhà ăn cơm tối. Nhưng chỉ được vài ngày, họ chẳng còn thú vị với món ăn của bác nữa. Yến nói với bác đừng nấu cơm cho họ, họ tự lo được. Từ đó Yến và bạn trai thường ăn cơm ở đâu đó trước khi về nhà khá muộn. Thỉnh thoảng Yến mua đồ ăn nguội, rượu bia mang về bày ra bàn, ăn uống, nói chuyện cho đến khuya rồi chẳng thèm thu dọn. Sáng hôm sau khi thức dậy, nhìn thấy đống bát đĩa bác lại phải lau chùi, thu dọn! Không nói ra nhưng bác Chấn đã có cảm tưởng mình là người hầu hạ trong nhà, không còn là người mẹ được   con đón sang để phụng dưỡng nữa. Còn anh Quang, con trai của bác, thỉnh thoảng cùng với cô bạn gái đến chơi, thoáng qua một vài giờ đồng  hồ nói chuyện vu vơ với bác rồi từ giã ra về, cũng chưa một lần nào chở bác đến nhà để biết cuộc sống của anh ra sao!

Đôi lần thấy bác buồn, than van với các con là cô đơn không bạn bè…  Yến khuyên bác hãy làm theo lối giải trí, tìm vui của người Thụy Sĩ khi về già, không có việc gì làm. Họ tìm cách tránh thời gian rảnh rỗi, cô đơn bằng cách mua vé tháng của thành phố cho xe bus, xe tram… rồi sáng đi, tối về. Ngày ngày dùng phương tiện giao thông đi từ phố này, sang phố kia ngắm nhìn người ta buôn bán ở các siêu thị hay các công viên của thành phố… Buổi trưa hay lúc mệt mỏi thì tạt vào những nhà ăn bình dân rẻ tiền trong các siêu thị uống cà phê hay ăn trưa.

Nghe lời đề nghị của cô con gái, bác đã hình dung khá rõ con đường sống của mình sẽ ra sao nếu còn sống nơi đây. Bác chợt hiểu ra rằng hai đứa con của bác thật sự đã là dân Thụy Sĩ rồi, chúng sống, chúng suy nghĩ và chúng giải quyết theo xã hội, con người Thụy Sĩ. Chúng không thể nào nhìn thấy hay cảm thấy nỗi buồn, cô đơn của bác được nữa. Nói đến đây, bác Chấn ngước nhìn tôi với đôi mắt nhòa lệ, buông tiếng thở dài buồn bã bác than thở:

– Có lẽ bác phải về lại VN cháu ạ, sống ở đây chắc bác sẽ chết vì cô tịch mà thôi. Mấy ngày trước bác có liên lạc với tòa lãnh sự VN ở Genève để hỏi về việc hồi hương. Theo bác không khó khăn lắm, nhưng cần nhiều thủ tục để lấy lại hộ khẩu của bác ở VN và nhất là chứng minh được sự bảo đảm về tài chánh cho sự sinh sống của bác khi hồi hương. Thấy tôi im lặng, bác buồn rầu nói tiếp:

– Hiện nay bác chẳng có gì ở VN nữa, nhà cửa đã bán, tiền bạc, nữ trang cũng không còn. Bác đúng nghĩa một người nghèo, già lão đơn độc nếu về lại quê hương thì sống làm sao đây?

Tôi buột miệng hỏi:

– Tại sao bác không nói với anh Quang, chị Yến trả lại cho bác một ít tiền để có thể về VN sinh sống? Theo cháu biết thì không cần quá nhiều đâu vì cuộc sống và nhà cửa ở VN vẫn còn rất rẻ.

Lắc đầu ra vẻ thất vọng, bác cho biết tiền bán nhà, bán nữ trang vừa rồi rất lớn so với xã hội VN nhưng có đáng bao nhiêu so với Thụy Sĩ! Bác đã chia cho hai con để giúp chúng mua nhà, theo bác biết thì 2 người con cũng còn phải mượn ngân hàng hơn một nửa mới có đủ tiền để mua 2 căn hộ. Hiện nay tiền lời ngân hàng cùng với chi phí dịch vụ cho chung cư như thang máy, điện nước, lau chùi, cắt cỏ, xúc tuyết, làm vườn… tất cả không phải nhỏ, chẳng thua gì tiền đi thuê nhà. Bác cũng đã bàn với 2 con để trả lại bác một số tiền cho bác mua một căn nhà nhỏ ở VN, nhưng coi vẻ không được vì chúng vẫn phải trả nợ ngân hàng mỗi tháng, chẳng dư dả để đưa cho bác được! Đã thế khi về VN tiền sinh sống, thuốc thang, bệnh viện khi ốm đau cũng không thể coi là chuyện bỏ qua mà không tính toán được!

Nhẩm tính lại cuộc sống ở VN, tôi nói với bác:

– Theo cháu nghĩ nếu hai người con của bác giúp bác mỗi tháng 200 quan Thụy Sĩ (thời điểm 1986) chắc bác sống không khó khăn lắm đâu!

Bác Chấn mỉm cười với tí cay đắng, bác trả lời:

– Cháu tưởng đơn giản như thế sao? Giả dụ mà chúng nó gửi cho bác 200 quan mỗi tháng thì cũng chỉ đủ cho sinh sống bình thường mà thôi. Còn lúc ốm đau, chi dụng cho việc thuê nhà, cho người quen, họ hàng để người ta vui vẻ mà săn sóc cho mình làm sao mà đủ?! Tuổi già của bác đâu có thể sống độc lập được, mà phải dựa vào người khác, nhất là lúc ốm đau. Dù là họ hàng, quen biết cũng phải có tiền cháu ạ! Không dễ dàng và đơn giản như cháu nghĩ đâu!

Nghe bác tâm sự, tôi đã đã tạm hiểu hoàn cảnh của bác. Đúng như vậy, cái sai lầm lớn nhất là bác đã bán nhà, thu dọn tài sản để gửi cho con mong được sống gần con. Điều này nghe ra nó đơn giản và hợp lý nhưthói thường của gia đình văn hóa VN. Nhưng với hai người con của bác,nếp sống, sự suy nghĩ của văn hóa Tây phương đã thấm sâu vào con người họ, nó không còn là đơn giản nữa! Tìm một giải quyết cho bác không dễ dàng, họa chăng một hay cả hai người con bác biết cảm thông nỗi cô đơn, buồn bã của mẹ mà chính họ tìm cách giúp đỡ mà thôi. Bác  không nói ra, nhưng tôi có cảm tưởng 2 người con bác không như bác chờ mong.

Trước khi chia tay tôi ân cần nhắc lại lời mời của gia đình tôi, bất cứ lúc nào bác có ý muốn đến nhà tôi chơi nhiều tuần, vài tháng, hoàn toàn không có gì khó khăn. Hình như nhìn rõ sự chân thành của tôi, bác vuốt nhẹ bàn tay vợ tôi mỉm cười và hỏi vợ tôi:

– Cháu có phiền lòng nếu bác đến nhà cháu chơi không?

Dù ngôn ngữ VN chỉ hiểu lõm bõm, nhưng vợ tôi cảm nhận hoàn toàn ý nghĩa lời nói của bác qua ánh mắt, khuôn mặt và cả dáng điệu chân thành trong giọng nói, nụ cười của bác. Vợ tôi đưa tay ra dấu thêu đan, lõm bõm câu tiếng Việt:

– Bác cứ đến chơi đi, có nhiều việc làm với nhau lắm, bác đừng lo!

Có lẽ đây là lần đầu tiên trong cuộc gặp gỡ bác hôm qua và cả hôm nay, tôi mới nhìn thấy nỗi buồn bã biến mất trên nét mặt của bác. Thay vào đó là niềm vui thoáng hiện trong ánh mắt, nụ cười của người đàn bà xấp xỉ 70 tuổi mà tôi cũng chỉ quen biết thoáng qua trong quá khứ….

Trở về lại Zürich đã cả tháng trời, tôi cũng chẳng có dịp liên lạc với bác nữa.Đôi lúc trong lúc thảnh thơi tôi cũng nghĩ đến bác. Tôi cho rằng với thời gian bác sẽ làm quen với những người VN khác, rồi cũng giống như mọi người, đâu cũng vào đó mà thôi. Nhưng bất thình lình vào buổi tối khi tôi đang ăn giở bữa cơm thì bác gọi đến. Với giọng nói

thều thào, chứa đầy buồn bã, chán nản bác cho biết hiện đang ở bịnh viện đã gần một tuần lễ nay. Tôi hỏi lý do, bác không nói rõ ràng lắm nhưng có lẽ liên quan đến tim mạch lại thêm bị trầm uất vì buồn bã, cô đơn mà ra.

Bác khóc qua điện thoại cho biết hai người con chỉ đến thăm bác một lần duy nhất vào ngày đầu tiên, sau đó vì bận rộn họ chỉ điện thoại hỏi thăm mà thôi. Tôi buông tiếng thở dài, nói vài câu an ủi bác, hứa sẽ chở vợ đến thăm bác vào ngày mai hay ngày kia! Có lẽ cảm nhận được ý nghĩa tiếng thở dài của tôi trong điện thoại, bác nói rất nhẹ:

– Cám ơn vợ chồng cháu, biết là làm phiền cháu nhưng bác muốn gặp lại các cháu lắm. Vợ chồng cháu cố đến với bác lần nữa nhé! Chắc bác khôngcó dịp gặp lại vợ chồng cháu nữa đâu!

Tôi nghe mà rụng rời, tưởng như bác muốn gặp chúng tôi để nói lời trối trăn! Tôi nói vài câu an ủi, nâng đỡ tinh thần bác rồi tôi hứa chắc ngay ngày mai sẽ xin nghỉ làm một ngày đến thăm bác.

Xế chiều hôm sau vợ chồng chúng tôi đến bệnh viện của tỉnh, căn phòng khá  rộng có 4 bệnh nhân. Chúng tôi đã giật mình đến độ nghi ngờ thị giác của mình khi nhìn thấy bác xơ xác nằm như đang ngủ. Chỉ hơn một tháng trời mà sắc diện của bác thay đổi quá mau! Khuôn mặt tái xanh, hốc hác như người bệnh lâu năm, cơ thể như bị thu nhỏ lại nằm ép  dính xuống tấm nệm của chiếc giường! Cánh tay trái khẳng khiu, tái xanh thò ra ngoài chiếc chăn, được nối với sợi dây truyền serum treo lủng lẳng trên chiếc giá bằng alumin trắng. Tôi nhẹ nhàng nắm lấy cổ tay xương xẩu của bác,bác giật mình tỉnh dậy. Nhìn thấy chúng tôi, sự vui mừng, cảm động hiện rõ trên khuôn mặt già nua trắng bệch. Bác gật đầu nhẹ, đáp lại lời chào hỏi của vợ chồng tôi, rồi thều thào:

– Cám ơn hai cháu đã đến thăm bác,mời hai cháu ngồi!

Bác cho biết mấy ngày trước tự nhiên bị mệt mỏi,chóng mặt rồi bị xỉu, ngã ngay ở trong bếp vào ban đêm. Yến nghe tiếng động của chiếc ghế bịđổ, chạy ra mới biết và chở bác đến bệnh viện. Qua kiểm nghiệm bác  sĩ cho biết do chứng suy tim đã có từ trước kèm theo thận hoạt động không bình thường gây tắc trách sự tuần hoàn dẫn đến chứng lậm độc máu.

Sau vài giờ đồng hồ tâm sự, bác kể cho chúng tôi nghe những ngày tháng cô độc, buồn chán càng lúc càng đè nặng lên bác vừa qua. Tôi lắng tai nghe nhưng cũng chỉ biết khuyên nhủ để nâng đỡ tinh thần bác mà thôi.Chúng tôi ở với bác mãi đến buổi chiều, khi từ giã, bác nói với vợchồng tôi trong nước mắt:

– Chắc bác và vợ chồng cháu không còn có dịp gặp lại nhau nữa đâu! Dù thế nào thì bác rất cảm động với lòng tốt của các cháu đã vì thương bác mà nghe tất cả những lời tâm sự của bác. Bác cũng không ngờ cuối đời mình lại cô độc và buồn đau như thế này. Con của bác vì bận rộn hay vì vô tâm mà quên săn sóc bác. Biết làm sao hơn là im lặng! Nhưng

ít ra vào lúc cuối đời này bác cũng có một niềm vui đó là có hai cháu để hàn huyên, tâm sự…

Bác nói với chúng tôi nhiều lắm, toàn là những câu nói đượm buồn và kín đáo than van! Tôi có cảm tưởng tinh thần bác hoàn toàn suy sụp, buông xuôi. Nỗi chán nản cùng cực của bác không những thể hiện trên khuôn mặt mà còn trong những lời nói như trăn trối với vợ chồng tôi.

Tôi cố gieo vào bác lòng tin về tài năng của y học Thụy Sĩ, họ sẽ mang lại cho bác sức khỏe và niềm vui. Tôi hứa chắc chắn khi bác khỏe mạnh tôi sẽ xuống chở bác lên chơi với gia đình tôi vài tháng. Bác nghe lời hứa của tôi trong trạng thái bâng quơ hình như kín đáo che giấu sự thất vọng ở trong lòng.

Sau khi từ giã ra về, tôi tạt vào phòng y tá trực của dẫy phòng bácnằm,ý định gặp người y tá nào đó nói với họ vài lời cám ơn, nhân tiện nhờ họ thông báo cho tôi biết ngay nếu có gì cần thiết. Thật may, tôi gặp được cô y tá trưởng, biết nói tiếng Đức,nhờ vậy mà vấn đề giao tiếp, nhờ vả của tôi dễ dàng hơn. Tôi cũng chẳng ngần ngại nói rõ với cô ta sự thật về hoàn cảnh không vui của bác cùng với sự nhạt tình, thiếu săn sóc của hai người con. Tôi mong cô ta cảm thương nỗi cô tịch của bác mà đặc biệt quan tâm. Tôi cũng không quên đưa cho cô ta số điện thoại, ân cần xin cô ta báo tin cho tôi biết ngay, bất cứ giờ nào, ban đêm hay ban ngày nếu có gì bất trắc, để tôi kịp đến thăm viếng hay giúp đỡ bác nếu cần.

Trở về nhà, vừa được 2 ngày, vào buổi sáng khi đang sửa soạn đi làm thì cô y tá trưởng từ bệnh viện Genève gọi đến. Tôi giật mình, linh cảm có gì không may xẩy đến cho bác rồi. Cô ta cho biết bác hiện đang ở khoa cấp cứu, trong tình trạng tuyệt vọng! Với tí chút ngập ngừng cô ta cho biết đêm hôm qua vào khoảng nửa đêm, khi mọi người an ngủ, bác đã dùng kéo cắt đứt sợi dây truyền serum, rồi để nguyên mũi kim trong mạch máu ở khủy tay cho máu chẩy ra ngấm vào chăn và đệm! Khi người y tá trực đêm biết thì bác đã rơi vào hôn mê. Bác sĩ khoa cấp cứu chobiết rất khó hy vọng cứu chữa vì bệnh nhân đã bị sẵn bệnh về tim mạch lại bị mất máu nên cơ thể rất yếu. Theo cô ta, nếu tôi đến bệnh viêntrước buổi trưa hy vọng có thể gặp được bác lần cuối cùng.

Dù bị vướng bận với việc làm, nhưng tôi cũng xin nghỉ, lái xe một mình xuống Genève hy vọng gặp được bác thêm một lần nữa. Trên đường đi, tôicầu mong sự kiện không phải quá bi đát như lời cô y tá nói với tôi.

Đến Genève,người đầu tiên tôi tìm gặp là cô y tá, cô ta cho biết bác đã mất ngay sau khi cô ta điện thoại cho tôi, hiện đang nằm ở một phòng riêng gần khu nhà xác của bệnh viện để làm thủ tục cần thiết trước khi đưa vào nhà xác của bệnh viện. Tôi thẩn thờ khi biết mình đến quá chậm để không gặp được bác lần cuối cùng!

Mở cửa bước vào căn phòng nhỏ ở cuối hành lang của dẫy nhà phụ được tách biệt với khu vực chính của bệnh viện,chỉ có một chiếc giường duy nhất trên đó bác Chấn đang nằm. Cặp mắt của bác nhắm lại, bình thản như đang trong giấc ngủ! Chỉ có khác là khuôn mặt của bác hốc hác làm cho đôi gò má nổi hẳn lên giữa màu xám, tái xanh xấu xí của làn da mặt. Tôi im lặng đặt nhẹ bàn tay lên thân thể, lên cánh tay xương xẩu của bác như muốn cảm nhận rõ hơn cái lạnh lẽo của cơ thể cũng như nỗi buồn đau, cô độc của tâm hồn bác lúc ra đi.

Cũng chính lúc đó, lời tâm sự của bác mấy ngày trước khi vợ chồng tôi đến thăm bác ở bệnh viện hình như vang nhẹ bên tai tôi: Bác đã lầm lẫn chọn lựa! Cái lầm lẫn đã làm cho bác mất tất cả!Mất nhà cửa,mất tiền bạc nữ trang và có lẽ mất cả hai đứa con của bác nữa! Bác đã không thể hình dung ra cuộc sống xa quê hương nó lại mang đến cho bác thất vọng và buồn đau đến như thế! Nhưng ân hận cũng đã muộn, chẳng còn giải quyết nào khác hơn là phải chấp nhận những ngày tháng cô liêu đang đến.

Nhưng bác tự hỏi bác có can đảm để chấp nhận nó suốt cuộc đời còn lạicủa bác hay không? Tôi đưa mắt nhìn qua khung cửa sổ, bên ngoài ánh nắng hoàng hôn đổ dài trên con đường trải đá sỏi trong khung viên của bệnh viện.Vài con chim nho nhỏ chuyền nhẩy trên cành cây làm rung động những bông hoa cuối mùa đã khô vì nắng gió còn sót trên những đọt cây… Không gian thật vô tư, im lặng, chẳng có gì khác lạ để cảmthương cho một người mẹ đã vượt xa biết bao nhiêu khoảng cách trời đất, rời bỏ quê hương đến nơi đây với hy vọng được sống gần những đứacon, tìm cho mình một niềm vui đoàn tụ. Nhưng cuối cùng phải mang lấy nỗi buồn đau, cô tịch mà về với hư vô!

Switzerland, Zuerich, 19/10/2024

Lưu An Vũ Ngọc Ruẩn

From: ctkd-k & NguyenNThu


 

Sự kiện ấy để lại trong Enzo một chấn động tâm hồn sâu sắc

My Lan Pham

  Năm 2009, thợ lặn huyền thoại người Ý Enzo Maiorca đang lặn cùng con gái mình, Rossana, ngoài khơi bờ biển Syracuse.

Bất chợt, ông cảm thấy một cái chạm nhẹ sau lưng. Khi quay người lại, ông thấy một con cá heo. Nhưng nó không đến để chơi đùa – ánh mắt nó như đang cầu xin một điều gì đó.

Con cá heo lao mình xuống sâu dưới lòng biển, và Enzo lập tức bơi theo. Ở độ sâu khoảng 15 mét, ông phát hiện ra một con cá heo khác đang bị mắc kẹt trong một tấm lưới đánh cá bỏ hoang. Không chút do dự, ông ra hiệu cho con gái đưa mình một con dao. Và vào đúng khoảnh khắc cuối cùng, ông đã giải thoát được chú cá heo tội nghiệp.

Con vật kiệt sức đến mức không thể tự bơi nổi. Enzo kể lại rằng, vào giây phút được giải cứu, nó phát ra một âm thanh “gần như tiếng người”, đầy xúc động và nghẹn ngào.

Khi họ cùng nhau nổi lên mặt nước, một điều kỳ diệu đã xảy ra: chú cá heo vừa được cứu chính là một con cá heo cái đang mang thai – và chỉ vài phút sau, nó đã sinh một chú cá heo con ngay giữa lòng đại dương.

Con cá heo ban đầu – người bạn đồng hành, người đã đi tìm người giúp đỡ – bắt đầu bơi vòng quanh họ, rồi nhẹ nhàng tiến lại gần Enzo, chạm nhẹ vào cằm ông bằng chiếc mỏ mềm của mình – như một lời cảm ơn sâu sắc, không lời. Sau đó, cả gia đình cá heo lặng lẽ bơi xa, tan vào màu xanh thẳm của biển cả.

Sự kiện ấy để lại trong Enzo một chấn động tâm hồn sâu sắc. Sau này, ông chia sẻ:

“Chừng nào con người còn chưa học được cách tôn trọng thiên nhiên và biết lắng nghe các loài sinh vật khác, thì chừng đó, con người vẫn chưa thật sự hiểu được vai trò của mình trên Trái Đất này.”

Sưu tầm


 

 Nỗi hối hận muộn màng- Anton Pavlovich Chekhov – Truyen ngan HAY

 

Nhà văn Anton Pavlovich Chekhov 

Anton Pavlovich Chekhov (1860–1904) là một trong những nhà văn vĩ đại nhất của nước Nga, được coi là bậc thầy của truyện ngắn hiện đại. Ông sinh ngày 29 tháng 1 năm 1860 tại Taganrog, một thành phố cảng nhỏ ở miền nam nước Nga, trong một gia đình nghèo khó. Cha ông là một người bán hàng tạp hóa, tính tình khắt khe với con cái, trong khi mẹ ông là một phụ nữ hiền hậu, có ảnh hưởng sâu sắc đến tính cách của Chekhov.

Tuổi thơ của Chekhov gắn liền với những năm tháng cơ cực, khi gia đình ông phá sản và phải chuyển đến Moscow. Dù hoàn cảnh khó khăn, Chekhov vẫn cố gắng học tập và sau này theo học trường Y tại Đại học Moscow. Ông trở thành bác sĩ và luôn coi nghề y là một phần quan trọng trong cuộc đời mình, nhưng văn chương mới là đam mê lớn nhất.

Chekhov bắt đầu viết truyện ngắn từ những năm 1880 để kiếm sống và nhanh chóng khẳng định được tên tuổi. Các tác phẩm của ông thường tập trung vào cuộc sống hàng ngày của con người, khai thác tâm lý sâu sắc và chứa đựng những triết lý nhân sinh.

Bên cạnh việc viết truyện ngắn, Chekhov cũng là một nhà biên kịch xuất sắc với các vở kịch như Uncle Vanya (Chú Vanya), Three Sisters (Ba chị em) và The Cherry Orchard (Vườn anh đào). Những sáng tác này phản ảnh sự chuyển biến xã hội và mối quan hệ giữa con người trong một thời đại đầy biến động ở nước Nga cuối thế kỷ XIX.

Không chỉ nổi tiếng ở Nga, Chekhov còn có ảnh hưởng lớn đến nền văn học thế giới. Các nhà văn như Ernest Hemingway, William Faulkner, Raymond Carver đều chịu ảnh hưởng từ phong cách viết của ông.

Khác với nhiều nhà văn cùng thời, Chekhov không cố gắng đưa ra những kết luận rõ ràng trong truyện của mình. Ông tin rằng nghệ thuật không phải để trả lời câu hỏi, mà là để đặt ra câu hỏi. Các câu chuyện của ông thường kết thúc mở, để lại dư âm, những suy gẫm trong lòng người đọc.

Các đặc điểm nổi bật trong văn chương của Chekhov là sự miêu tả cuộc sống một cách chân thực, không tô vẽ hay cường điệu. Thay vì những tình tiết gay cấn, ông tập trung vào những khoảnh khắc đời thường nhưng giàu cảm xúc. Chekhov luôn thể hiện sự thấu hiểu sâu sắc với nỗi khổ và tâm trạng của con người.

Một trong những tác phẩm tiêu biểu thể hiện rõ phong cách này chính là truyện ngắn Nỗi Đau (Grief), nói về sự hối tiếc muộn màng của một người chồng trong cách đối xử với vợ mình.

Grigory Petrov, một người thợ mộc ở một vùng quê nghèo khổ và thiếu thốn của nước Nga vào cuối thế kỷ XIX. Vợ Grigory Petrov lâm bệnh gần cả một năm trời. Họ đã dốc hết tiền bạc vào thuốc men nhưng dường như vô ích. Lúc này, bà đang trên bờ vực của cái chết. Grigory Petrov cố đưa vợ đến bệnh viện trong thị trấn với suy nghĩ còn nước còn tát, còn chút hy vọng nào không?

Trời tuyết rơi nhiều, đường trơn trợt, Grigory đặt vợ lên chiếc xe ngựa cũ kỹ. Con ngựa già nua lê từng bước rã rời, mệt nhọc. Cả hai không nói gì nhiều, chỉ có tiếng gió rít qua những hàng cây, tiếng bánh xe nặng nhọc lăn trên nền tuyết lạnh. (Hình ảnh tuyết rơi nhiều là hình ảnh của cuộc đời lạnh quá. Hình ảnh con ngựa già lê bước là hình ảnh Grigory mang vợ mình về chốn mãi chia xa!)

Trên đường đi, Grigory bắt đầu nói chuyện với vợ, nhưng thực ra Grigory đang tự nói với chính mình. Ông nhắc lại những năm tháng họ sống bên nhau, những khó khăn, gian khổ mà vợ ông đã phải chịu đựng. Suốt 40 năm qua, bà đã làm việc quần quật, gánh vác cả gia đình mà chưa bao giờ nhận được một lời yêu thương hay một cử chỉ dịu dàng từ chồng mình.

Chỉ đến lúc này, khi cái chết cận kề, Grigory mới nhận ra lỗi lầm của mình. Ông nói với bà bằng giọng nghẹn ngào: “Lẽ ra tôi nên đối xử với bà tốt hơn… Cuộc đời quá bất công với bà, và tôi cũng quá bất công. Tôi chưa bao giờ dành cho bà một lời tử tế, một nụ cười dịu dàng. Tôi thật tệ…” Bà vợ khẽ rên lên, hơi thở yếu dần.

“Cố lên bà nhé… Chúng ta sắp đến nơi rồi. Bà sẽ khỏe lại thôi…” Nhưng trong thâm tâm, Grigory biết đó là điều không thể.

Minh họa truyện ngắn Nỗi Đau (Grief)- nguồn X

Cuối cùng, họ cũng đến thị trấn. Ông dừng xe, vội vã bước xuống. Lần đầu tiên trong đời, ông bế bà trên tay để đưa bà vào bệnh viện. Nhưng khi chạm vào bà, ông sững người. Bà đã lạnh ngắt. Bà đã chết. Bà trút hơi thở cuối cùng trên đường đi, trước khi kịp nghe những lời yêu thương muộn màng của chồng mình.

Chekhov không lên án, vì Grigory không phải là người xấu. Ông chỉ là một người nông dân bình thường. Nhà quá nghèo, kiếm được miếng ăn trầy vi tróc vảy, sao mà không cơ cực? Grigory quá bận rộn với cuộc sống mà quên đi giá trị của tình yêu.

Câu chuyện đặt ra một câu hỏi nhức nhối: “Tại sao con người chỉ nhận ra giá trị của nhau khi đã quá muộn?”

Những lời hối tiếc của Grigory chẳng còn ý nghĩa khi người cần nghe chúng đã không còn nữa.

Chekhov không kết luận, không dạy đời phải làm thế này hay phải làm thế nọ. Ông chỉ kể lại một tình huống mà ai cũng có thể thấy được chính mình trong đó, để rồi tự rút ra bài học cho bản thân.

Thông điệp của câu chuyện thật giản dị nhưng thấm thía. Chekhov nhắc nhở chúng ta rằng những điều tốt đẹp về sự yêu thương, chăm sóc cho nhau trong nghĩa vợ chồng không nên để quá muộn. Khi yêu thương một ai đó, hãy thể hiện ngay khi còn có thể, bởi thời gian không chờ đợi ai.

Câu chuyện của Chekhov không chỉ là một tác phẩm văn học xuất sắc mà còn là một bài học sâu sắc về cuộc sống. Nó khiến người đọc phải suy ngẫm về những giá trị quan trọng trong đời: “Đừng trì hoãn yêu thương. Một lời yêu hôm nay đáng giá hơn cả ngàn câu hối tiếc sau này.”

Người phương Tây có câu: “Whispered words—too late. Echoes in the empty room, love left unspoken.”

Lời thì thầm quá muộn để nói ra chỉ vang vọng trong căn phòng trống, lời yêu thương chưa nói, giờ mới nói ai nghe?

Đoàn Xuân Thu (Tác giả)
From: TU-PHUNG

33 NĂM TÌM ĐƯỢC XÁC CHỒNG – GIAO CHỈ – SAN JOSE

TRUYỆN CÓ THẬT TẠI MIỀN NAM VN 

SAU 30 – 4 – 1975

33 NĂM TÌM ĐƯỢC XÁC CHỒNG – GIAO CHỈ – SAN JOSE

Câu chuyện tình bi thảm của 1 thời chinh chiến – Giáo sư Bùi văn Phú bên Oakland nói rằng học sinh Nguyễn Bá Tòng 70 ai cũng biết hoa khôi Ngọc Di – Thầy Mạc Bìa ở San Jose nói rằng anh em không quân ai cũng biết phi công Nguyễn văn Lộc – Ngọc Di, quê Nha Trang vào học tại Saigon – Trung úy Lộc quê Đà Lạt về Nha Trang đi lính tàu bay – Ghé chơi nhà bạn chợt thấy tấm hình cô gái có đôi mắt “U uẩn chiều luân lạc” đâu biết rằng anh sẽ mê mệt vì đôi mắt người Nha Trang. – Niên khóa 71-72 Trung úy Lộc đi Hoa Kỳ học lái phản lực. – Năm 71-72 cô nữ sinh Nguyễn Bá Tòng tốt nghiệp tú tài toàn phần và ghi danh trường luật.

Đám cưới ở Nha Trang ngày 6 tháng 2/1974. – Một năm sau căn cứ không quân Phan Rang di tản. – Chồng đưa vợ có bầu lên máy bay chạy vào Saigon.– Trung úy phi công ở lại lo phi vụ hành quân.– Chia tay nhưng hẹn gặp lại tại Saigon.– Rồi vợ chồng tái ngộ trong niềm hạnh phúc.– Lại chia tay thêm lần nữa ngày 28 tháng 4/1975. – Ngọc Di có bầu 6 tháng lên máy bay đi Mỹ.– Người phi công phản lực ở lại với những phi vụ cuối cùng.– Chia tay nhưng vẫn hẹn găp lại, nhưng lần này là vĩnh biệt.– Người mẹ trẻ sinh con gái trong tỵ nạn ngày 18 tháng 7/1975. – Vợ vẫn không biết tin chồng, con không thấy mặt cha.– Anh phi công của Việt Nam Cộng Hòa nằm trong trại tù Long Giao tính được gần đúng ngày vợ sinh. – Ngày đêm anh sống với đôi mắt người tình Nha Trang. – Việt cộng hẹn 6 tháng học tập rồi sẽ trả tự do. – Sáu tháng trôi qua chưa được thả, anh âm mưu vượt ngục. – Bị bắn chết ngày 25 tháng 3/1976.– Chôn cùng người bạn phi công trốn trại. – Vợ con bên Hoa Kỳ hoàn toàn không có tin tức. – 10 năm sau, những người bạn tù qua được Hoa Kỳ lần lượt kể chuyện về chuyến vượt thoát bất thành. – Nhưng không ai biết xác chồng của Ngọc Di ở nơi nào.– Ba mươi ba năm sau, những bạn tù không quân mới tìm lại được xác chiến hữu.– Người quả phụ không quân đem con gái 33 tuổi về nhận di hài của phi công Nguyễn văn Lộc. – Trên chuyến bay hãng EVA đáp xuống phi trường LA ngày 3 tháng 11/2008 cô Ngọc Di ôm bình tro cốt của chồng. – Con gái cô ôm thêm bình tro cốt của người chiến hữu cùng chết bên cạnh anh.– Năm nay 2010 là ba mươi lăm năm nhìn lại con đường. – Tôi xin kể lại ngọn ngành 35 năm cuộc đời của người góa phụ không quân anh dũng muôn đời.

Một thời chinh chiến

Mỗi người trong chúng ta đều có riêng cho mình những kỷ niệm về tháng 4 năm 1975. Chuyện của cô Nguyễn Thị Ngọc Di thường được kể thêm vài hàng bên cạnh câu chuyện của người chồng anh hùng trốn trại và đã hy sinh. Nhưng tôi lưu ý riêng đến hoàn cảnh người vợ nên đã nghe cô Ngọc Di kể lại tâm sự cuộc tình. Cô nói rằng, dù đã đem được di hài anh Lộc về nhưng tâm tình u uẩn chưa nguôi. Con gái của cháu tương đối ổn định, nhưng phần cháu, cuộc chiến vẫn chưa yên. Từ lúc 10 tuổi, hình ảnh mẹ cháu đi nhận xác chồng với di hài và vết máu trên áo trận của ba cháu vẫn theo đuổi cháu trong nhiều năm. Đến thời gian cháu ở Phan Rang có mấy tháng đã chứng kiến cảnh cô vợ trẻ miền Tây, đẹp não nùng đi nhận xác anh không quân tử trận. Phi cơ bị rơi vẫn còn mang bom. Phi công không kịp nhảy dù. Bom mang theo nổ cùng con tàu. Xác chẳng còn gì. Căn cứ lấy 2 cây chuối cho vào quan tài, thêm 1 ít da thịt rồi đóng hòm thực kín. Khi cô vợ ra nhận xác chồng, vật vã xin mở ra nhìn mặt, nhưng còn thấy làm sao được. Cháu chứng kiến mà thấy tê dại cả người. Anh Lộc dìu cháu vào nhà ở khu sĩ quan độc thân. Anh nói rằng, anh cam đoan sẽ không bao giờ bị như thế. Như vậy là làm sao. Phải chăng lời tiên tri cho cả cuộc đời sau này. Lấy nhau từ tháng 2/74, chẳng bao giờ được gần nhau 1 tháng. Anh đi bay khắp mọi nơi. Đầu năm 75, cháu có bầu mới ra sống ở căn cứ Phan Rang. Vì không có nhà bên cư xá gia binh, phải tạm trú ở khu độc thân. Chứng kiến toàn chuyện hy sinh chết chóc. Cháu mới 19 tuổi, bác nghĩ coi làm sao mà sống được. Mới năm trước từ thời học sinh vô tư qua thời sinh viên hết sức thần tiên. Chợt bước chân vào đời vợ lính, lo lắng sợ hãi biết chừng nào.

Một thời để yêu

Chờ cô Ngọc Di bớt cơn xúc động, tôi xin cô kể lại chuyện tình bắt đầu ra sao. Cô bình tĩnh và kể hết, không hề dấu diếm kề cả chuyện bay bướm và ngang tàng của anh Lộc.

Bác biết không, trước khi gặp cháu, anh Lộc đã quen với cô giáo Hương bên Ba Làng cũng tại Nha Trang. Bạn bè đã có người gọi anh là Lộc Ba Làng. Chuyện này về sau cháu mới biết. Ông anh họ không quân của cháu cũng không biết mới dẫn Lộc về nhà coi mắt chị cháu ở Nha Trang. Nhà cháu có đến 9 anh chị em. Nhưng coi bộ anh Lộc với chị Như Khuê của cô không hợp duyên, nên chỉ chuyện trò qua loa. Chợt anh Lộc thấy hình của Ngọc Di còn đang trọ học Saigon. Anh nói là đã mê đôi mắt từ lúc đó.

Qua niên khóa 71-72 Trung úy Lộc đi học bay tại Hoa Ky. Ngọc Di bắt đầu nhận được thư làm quen. Bạn bè của anh ở Mỹ nói rằng mỗi tuần anh đều nhận được thư của 2 cô. Cô giáo bên Ba Làng và cô nữ sinh Nguyễn Bá Tòng. Nhưng xem chừng đôi mắt người Nha Trang đã lấy trọn vẹn tình yêu của anh chàng không quân gốc Đà Lạt. Dù rằng về phần Ngọc Di vẫn chưa thực sự rung động với tình yêu chiến sĩ.

Hồi hương được 3 ngày, Trung úy Lộc bèn vào trường Nguyễn Bá Tòng lừa cha giám học nhận là anh vào thăm cô em cùng họ Nguyễn. Đây là đầu tiên 2 người gặp mặt. Từ trước chỉ biết qua hình ảnh. Anh chị có 2 tuần lễ đi chơi khắp Saigon, bao nhiêu là quà bên Mỹ, anh phi công hào hoa dành hết cho cô hoa khôi trường trung học.

Giáo sư Bùi Văn Phú thời đó học Nguyễn Bá Tòng cùng lớp với Ngọc Di kể lại rằng hình ảnh anh không quân xuất hiện đã làm cho biết bao nam sinh đau lòng.

Một hôm anh Lộc dẫn cô Di về nhà bà chị tại Saigon, chợt gặp cô giáo Ba Làng ra thăm.

Cuộc gặp gỡ bất chợt như trong thoại kịch trên sân khấu. Người yêu cũ chợt thấy bị phản bội, người yêu mới chợt thấy bị lừa dối. Anh không quân đưa Ngọc Di về nhà, nhưng cô cho rằng cuộc tình ngắn ngủi coi như chấm dứt. Cô cũng chưa yêu nên không thấy thực sự bẽ bàng. Sẵn sàng để anh Lộc trở về với người xưa của anh. Nhưng anh không quân đã trở thành Phạm Thái của Tiêu Sơn Tráng sĩ nhất định chết trong cặp mắt của giai nhân Trương Quỳnh Như.

Ngày hôm sau, trung úy phản lực trở lại nói là đã giải quyết xong mục tiêu. Cô gái Ba Làng buồn tủi trở về Nha Trang và anh Lộc quyết một lòng đi tới với Ngọc Di.

Cuộc tình duyên trải qua suốt năm tháng dài cho đến ngày đám cưới ở Nha Trang 6 tháng 2-1974.

1974 – Một thời hoạn nạn:

Khi đôi trẻ bắt đầu xây dựng gia đình qua lễ cưới là lúc đất nước bước vào năm tang tóc cuối cùng. Ngọc Di nhắc đi nhắc lại là cháu đâu có được làm vợ lính cho trọn vẹn một đời. Tuy hòa bình đã ký nhưng 2 bên vẫn còn chiến tranh dành dân lấn đất. Cô sinh viên vẫn lấy bài học luật đi về giữa Saigon Nha Trang và người chồng bất chợt lúc gặp ở Nha Trang, lúc thì Saigon. Mấy tháng cuối cùng sống chung ở căn cứ Phan Rang ngày đêm nghe tiếng phi cơ phản lực và những giây phút ngóng đợi chồng về.

Rồi khi tình thế nguy ngập, anh chồng đẩy cô vợ mang bầu lên C.130 với toàn những người xa lạ. Phi cơ cất cánh, nhìn anh còn đứng trên phi trường Phan Rang, nào biết bao giờ gặp lại nhau. Nhưng rồi anh đem phản lực về Saigon yểm trợ cho mặt trận Long Khánh.

Có tin vợ con phi công chiến đấu vào hết Tân Sơn Nhứt để chờ di tản. Đêm định mệnh cuối cùng Ngọc Di vẫn còn ở nhà với mẹ và thân quyến tại Saigon. Các ông anh cũng có chương trình di tản cả nhà.

Nửa đêm 28 tháng 4/75 chợt có tiếng xe hồng thật tự chớp đèn bấm còi ầm ỹ. Anh Lộc gõ cửa kêu Ngọc Di khẩn cấp lên đường. Bà mẹ nói rằng hay con ở lại để đi với mẹ và anh em, nhưng Lộc kiên quyết kéo vợ đi ngay. Ánh mắt mẹ già buồn bã trông theo. Nhưng sau này cả nhà đều bị kẹt lại. Lên xe hồng thập tự thấy cảnh tượng hãi hùng, Trung úy Giới ngồi bên vợ là cô sản phụ vừa sinh con, ôm con trong khăn còn vết máu.

Thì ra xe bus chở gia đình phi công đã nổ máy chờ trong căn cứ, ông trung úy Giới lấy xe cứu thương của không quân chạy ra nhà thương rước vợ. Anh Lộc nhảy theo, sau khi đón được vợ con mày, phải ghé nhà cho vợ tao đi. OK.

Xe Hồng thập tự bóp còi chớp đèn chạy như bay trong đêm Saigon. Các gia đình trên xe bus đang nổ máy chờ, thấy 1 bà mới sinh con và 1 bà bầu mặt còn trẻ thơ bước lên xe. Hai ông chồng vất vả đứng trông theo. Ngọc Di nhìn lại anh Lộc qua khung kính. Anh phi công hẹn sẽ gặp lại bên Mỹ. Vợ con đi rồi, còn mấy anh lái phản lực thì xoay sở dễ dàng, Ngọc Di không thể nghĩ rằng đấy là hình ảnh cuối cùng. Đó là ngày 28 tháng 4-1975. Cô đi C.130 qua Côn Sơn rồi sau đó di tản qua đảo Guam. Hết sức cô đơn, không gia đình, không bà con thân thuộc. Ngay cả gia đình bạn bè trong không quân cô cũng không quen ai. Cô sống 1 cuộc đời tiểu thư từ nhỏ, số mệnh đột nhiên ném vào cuộc đời. Cô bắt đầu cuộc sống trong chờ đợi, đen tối mịt mùng, hoàn toàn tự lập suốt một phần tư thế kỹ.

Một thời định cư

Vẫn tràn đầy hy vọng, cô nằm chờ ở đảo Guam. Các phi công lần lượt đến tìm vợ con và đoàn tụ bay vào lục địa. Anh chị Giới của chuyến xe Hồng thập tự định mệnh cũng đến rồi đi, không có tin gì về anh Lộc và không ai biết là Lộc mất tích, đã chết hay còn lạc loài nơi đâu. Rồi người ta không cho bà bầu ở lại đảo Guam. Cô phải đi vào Mỹ để còn lo sinh đẻ.

Ngọc Di lên đường mắt còn ngó lại biển Đông. Các trại tỵ nạn Cali và Arkansas đã tràn ngập người di tản. Người ta đưa cô về Florida. Nơi đây ngày xưa anh Lộc đã từng đến học bay.

Mỗi ngày vẫn còn người đến trại, dù muộn nhưng vẫn còn tìm được hạnh phúc đoàn tụ bên nhau. Nhưng cô vẫn mòn mỏi đợi chờ. Ngày 18 tháng 7/1975 Ngọc Di hạ sanh 1 bé gái. Nỗi truân chuyên và sống trong ray rứt đợi chờ đã hành hạ thêm cô gái trẻ với 16 giờ đồng hồ đau đớn chuyển dạ. Trước sau vẫn chỉ có một mình. Anh Lộc một năm trước đã đặt tên cho con trai tương lai là Phi Hải. Nhưng cô con gái được mẹ đặt tên là Nguyễn Lộc Đan Vi. Nguyễn là họ của cha và mẹ, Lộc là tên cha. Đan Vi là ý kiến của cô học sinh Nguyễn bá Tòng khi nghĩ đến những cây hoa tường vi đan vào nhau ở cổng nhà chồng trên Đà lạt.

Sau khi sanh con, mẹ con cô tỵ nạn Việt Nam được ông bà bảo trợ đón về nông trại. Ngôn ngữ không quen, suốt vùng quê không có 1 người Việt Nam. Những năm đầu vừa buồn về cảnh ngộ vừa buồn vì cảnh vật. Ngọc Di ôm con sống bằng nước mắt. Duy chỉ có điều, bé gái với cặp mắt thần tiên của mẹ là nguồn an ủi cuối cùng.

Một thời để chết

Cùng lúc đó trong trại tù, anh phi công thấy rằng không còn hy vọng được trả tự do. Thời gian ngộ nhận 15 ngày đã qua từ lâu. Thời gian hứa hẹn học tập 6 tháng cũng qua rồi. Cặp mắt người yêu Ngọc Di thôi thúc ngày đêm, anh phi công ngang tàng 1 thuở nhất định trốn trại, tìm tự do. Hai anh phi công Nguyễn văn Lộc và Lê văn Bé cùng vượt trại. Hy vọng tìm đường qua biên giới Cam Bốt rồi Thái Lan. Giữa 1 đêm mưa gió, cả 2 vượt thoát còn đem theo cả lựu đạn phòng thân.

Lính cộng sản đuổi theo. Lộc chạy trước. Bé ném lựu đạn chận hậu nhưng bị thương ngã xuống. Lộc bèn quay lại, đánh lựu đạn cứu bạn. Được biết lính cộng sản cũng bị chết vì lựu đạn. Vì vậy sau khi 2 anh phi công đã gục ngã chúng còn bắn điên cuồng vào 2 xác chết.

Hai anh chết ngày 25 tháng 3-1976. Cộng sản cho kéo xác để giữa sân trại Long Giao để dằn mặt anh em rồi đem chôn xấp 2 ngôi mộ bên nhau, nhưng không có mộ bia. Các bạn tù tìm cách làm dấu nhưng không rõ ràng. Vài năm sau, không còn ai biết rõ di hài của 2 người anh hùng không quân nằm ở đâu.

Một thời định cư

Mẹ con Ngọc Di rời bỏ nông trại tìm đường về ở với bà con trên Nữu Ước. Cô nữ sinh hoa khôi Nguyễn bá Tòng, sinh viên luật Saigon tiếp tục cuộc sống lủi thủi với đứa con ngày càng rực rỡ với dấu vết người cha Đà Lạt và đôi mắt bà mẹ Nha Trang.

Mấy năm sau, anh em và gia đình không quân họp mặt, nên mẹ con cô Di có dịp về Cali gặp gỡ mọi người. Sau cùng cô định cư tại quận Cam. Phải bắt đầu từ thập niên 80 trở đi mới có tin tức về cuộc trốn trại hào hùng và chuyện hy sinh của anh Lộc. Mẹ con bắt đầu nghĩ đến chuyện đi tìm dấu vết của người xưa. Tuy nhiên tất cả đều vô vọng. Không ai còn nhớ những ngôi mộ ở đâu, Cuộc sống vẫn bình thản diễn tiến. Anh chị em đoàn tụ. Me già gặp lại con gái. Cháu Đan Vi tốt nghiệp bác sĩ nhãn khoa rồi lập gia đình. Vợ vẫn không thấy xác chồng. Con vẫn chưa thấy xác cha.

Một lần, hết sức vô tình, Ngọc Di gặp người trong gia đình HO. Anh ở Bắc Cali nói rằng trước có ở Long Giao. Cô Di hỏi rằng anh có biết trung úy Lộc không. Anh HO nói ngay rằng cô có phải là Ngọc Di không. Ngạc nhiên đến sững sờ, cô nói tôi là Nguyễn thị Ngọc Di, sao anh biết. Anh bạn trả lời: « Tôi ở gần anh Lộc trong trại. Anh ấy nói về đôi mắt của cô suốt ngày. Khi cô mới bước vào nhà tôi đã cảm thấy. Khi cô hỏi anh Lộc, tôi biết ngay cô là vợ anh.» Và câu chuyện 20 năm xưa tuôn chảy, nhưng sau cùng cũng không biết mộ anh ở đâu.

Một thời ngoại cảm

Câu chuyện đi tìm mộ của anh Lộc đã trải qua 1 thời gian hết sức đặc biệt dựa trên các câu chuyện linh thiêng về lãnh vực ngoại cảm. Sau cùng, người bạn tù, người chiến hữu tận tụy của anh Lộc đã tìm được 2 ngôi mộ của những người phi công trốn trại năm 1976.

Các ngôi mộ được khai quật năm 2008 có cả sự tiếp sức của thầy Mạc Đìa, ngồi tại San Jose mà chỉ dẫn qua điện thoại. Mặc Đìa ngày xưa cũng là sĩ quan của không lực Việt Nam Cộng Hòa. Sau cùng cô Ngọc Di đưa con gái là Nguyễn Lộc Đan Vi về nhận xác người thân.

Ngày 3 tháng 11-2008 mẹ con ngồi trên phi cơ Eva ôm mỗi người một bình tro về Hoa Kỳ. Mẹ ôm tro của chồng, con ôm bình tro chiến hữu. Gia đình anh phi công Lê văn Bé nói rằng chiến hữu đã chết bên nhau thì cho đi Mỹ với nhau. Tuy nhiên bình tro của anh Bé chỉ có 1 nửa. Phân nửa gia đình lưu lại quê hương.

Ngày 8 tháng 11-2008 không quân Nam Cali làm lễ truy điệu cho 2 người anh hùng của họ. Có lễ trao cờ lại cho cô Ngọc Di cùng con gái.

Ngọc Di làm vợ lính có hơn 1 năm và làm quả phụ 33 năm mới nhận được xác chồng bằng tro tàn. Bác sĩ Đan Vi không bao giờ thấy được người cha dù ở trên trời hay ở dưới đất.

Khi khai giấy tờ người ta hỏi rằng con đến Mỹ năm nào. Con khai là đi năm 1975. Con đi bằng phương tiện gì. Con nói là con đi trong bụng mẹ. Cha con bây giờ ở đâu. Con không biết. Có thể còn đang bay ở trên trời. Con không có cha làm sao ai nuôi con học thành bác sĩ. Trả lời: Mẹ con.

Đan Vi là loài hoa tường vi, đan vào nhau mọc ngoài cổng nhà anh phi công Nguyễn Văn Lộc.

Tuổi của cô là tuổi của cộng đồng. Cộng đồng Việt Nam ở hải ngoại năm nay 35 tuổi, cũng là tuổi của Đan Vi, một cô gái khác ngày xưa sinh ra trên tàu Trường Xuân, trên biển Nam Hải, tên cô là Chiêu Anh, cũng 35 tuổi.

Chiều văn nghệ 35 năm nhìn lại tại San Jose vào ngày 23 tháng 5/2010 chúng tôi sẽ mời cả 2 cô lên sân khấu CPA. Một cô đi tàu biển vào Mỹ. Một cô đi tàu bay vào Mỹ. Lúc ra đi cả 2 đều trong bụng mẹ.

Cả 2 cô đều không phải là ca sĩ, nhưng vẫn được mời lên sân khấu trình diễn. Hai cô đều không biết hát, chỉ đứng đó cho khán giả vỗ tay. Bởi vì cuộc đời của các cô chính là những bài ca của nửa thế kỷ trầm luân. Đó là những hài nhi của cộng đồng di tản, những công dân của thế hệ mới trưởng thành sau những đau thương của đất nước.
Các bạn hỏi rằng văn nghệ của chúng tôi sẽ có những danh ca nào trình diễn.
Chúng tôi có các nữ danh ca có tên có tuổi nhưng không biết hát.Vậy ai là những người biết hát thì xin đến giúp một tay.
Và trời đất sẽ trả công cho quý vị.

Tất cả chỉ cần hát có 1 bài: Bài “Cô Gái Việt” của Nhạc sĩ Hùng Lân.

GIAO CHỈ – SAN JOSE

AI BẢO CHĂN TRÂU LÀ KHỔ? Phan Phát Huồn

Phan Phát Huồn

Cha Phêrô Phan Phát Huồn, DCCT (1926-2015), người quê giáo xứ Phường Đúc, Huế, nguyên Phó Giám đốc Nha Tuyên Úy VNCH và cũng là  người sáng lập và xây dựng nhà thờ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp tại Xóm Mới. 

Ngay từ khi vừa chịu chức linh mục ngài đã viết cuốn lịch sử Việt Nam Giáo Sử- tác phẩm đầu tiên về lịch sử GHCG Việt Nam từ ban đầu cho đến giữa thế kỷ XX.  

Tôi gặp ngài lần đầu ở Thái Hà dịp tết năm 1988 khi ngài vừa được trả tự do sau 13 năm trong ngục tù cộng sản. Vì Thái Hà là nơi ngài đã sống 7 năm khi còn làm thầy trước năm 1954, nên ngài cùng với cha Ngô Đình Thỏa và Đinh Ngọc Quế đã ở lại đây ăn tết với cha Vũ Ngọc Bích và tôi gần 1 tháng, trước khi về Sài Gòn. 

Năm sau -1989- tôi được cha Vũ Ngọc Bích gửi vào tu viện DCCT Sài Gòn ở đường Kỳ Đồng. Thế là chúng tôi lại có dịp chung sống với nhau. Bấy giờ công an cấm những người như ngài và tôi- không có hộ khẩu- ngủ qua đêm tại tu viện. Vì thế khoảng 8 gio mỗi tối tôi chở ngài về chỗ ngủ nhờ ở nhà 1 giáo dân và khoảng 4g45 sáng khi tôi đi qua chỗ ngài ở thì lại chở ngài đến tu viện. 

Trong mấy năm ở chung tại tu viện Kỳ Đồng, ngài kể cho tôi nghe nhiều chuyện đau khổ trong tù trong đó cũng có nhiều chuyện cười ra nước mắt. Tôi nhớ mỗi lần kết thúc một câu chuyện ngài lại nói: “Đó là chuyện tôi sẽ viết khi đáp máy bay xuống phi trường Washington!” 

Ngài đã viết thật. Năm 1991 ngài sang Hoa Kỳ theo diện HO và năm 1994 ngài đã xuất bản cuốn hồi ký có tựa đề là “AKA và Thập Giá. Ai thắng ai?”viết về 13 năm sống trong ngục tù cộng sản và gửi về VN tặng tôi một bản. Nhân dịp 30 tháng 4 tôi xin trích vài trang kể về hai “tai nạn” khi ngài đi chăn trâu lúc ở tù.

                                                       ***

(….) Chúng tôi chia tay nhau mà lòng đầy phấn khởi, và cũng vì phấn khởi mà tôi leo lên lưng trâu cỡi, tôi vừa cỡi trâu vừa nghêu ngao ca bài của Phạm Duy:

Ai bảo chăn trâu là khổ,

Chăn trâu sướng lắm chứ

Đầu tôi đội nón mê như lọng che.

Tôi vừa ca đến đây thì tôi nghe tiếng quen quen:

– Tụt, tụt, anh tụt khỏi lưng trâu ngay lập tức. 

Tôi nhận ra tiếng của cán bộ quản giáo của tôi. Tôi lanh lẹ cầm đuôi trâu tụt xuống khỏi lưng nó. Cũng lúc ấy cán bộ xông tới gần tôi, tôi nghĩ là ông ta muốn đánh tôi, tôi nói:

– Yêu cầu cán bộ đứng xa tôi 3 mét. 

Sở dĩ tôi nói như vậy vì trong nội quy của nhà tù, tôi không được đứng gần cán bộ 3 mét. 

Ông cán bộ đăm đăm nhìn tôi như muốn ăn sống tôi làm tôi nhớ lời trong thánh vịnh:

Tôi phải nằm giữa bầy sư tử, 

Loài thú ăn thịt người 

Nanh vuốt chúng là đầu tên mũi giáo,

Lưỡi thì sắt bén tựa gươm đao.

– Anh có biết anh là gì không?

– Thưa cán bộ tôi là Phan Phát Huồn.

– Phan Phát Huồn là cái thớ gì? Anh là tư sản là tanh hội là xấu xa, anh biết chưa?

Tôi không trả lời cho câu hỏi ấy. Ông cán bộ hỏi tôi tiếp:

– Anh có biết con trâu này là gì không?

– Thưa cán bộ có, về mặt sinh vật học con trâu này là một con vật có 4 chân thuộc loài có vú.

Nghe tôi nói có vẻ lạ tai, ông ta trợn đôi mắt tròn xoe rồi ông ta khạc nước bọt lên trên nền đất tỏ vẻ bất mãn:

– Cà chớn, ai lại không biết con trâu này có 4 chân thuộc loài có vú, cha cố gì mà ăn nói tục tĩu, điều mà anh cần phải nhớ, phải ghi lòng tạc dạ: con trâu này là một con trâu xã hội chủ nghĩa, và anh là tư bản chủ nghĩa, vậy mà anh dám đưa cái đít thối tha tư bản chủ nghĩa của anh, ngồi lên trên, cà lên trên lưng của con trâu xã hội chủ nghĩa. Láo.

Cán bộ nói câu ấy với tất cả tấm lòng thành của một cán bộ cộng sản lúc ông ta tưởng rằng lý thuyết của ông ta bị xúc phạm.

– Vậy bây giờ anh hãy tự xử lấy.

– Thưa cán bộ tôi chẳng biết phải tự xử làm sao cả. 

– Học tập như anh quá kém, làm sao lên lớp được, anh đem trâu xuống suối tắm, giải tỏa cho lưng nó sạch mùi xú uế. 

– Thưa cán bộ sáng hôm nay đài khí tượng cho biết tại Yên Bái là 5 độ C, đem trâu xuống suối tắm thì cả trâu lẫn người sẽ đều bị bệnh. Vậy tôi xin cán bộ cho phép tôi lấy lá khô xung quanh đây chùi lưng trâu với mục đích giải tỏa cho lưng trâu sạch mùi xú uế.

Cán bộ suy nghĩ chốc lát rồi trả lời ngắn gọn:

– Được! 

Thế rồi tôi hái lá khô chùi lưng trâu, vừa chùi vừa cười thầm trong bụng về cái công tác kỳ cục này. Sau đó tôi lại tiếp tục nghề chăn trâu của tôi. Một hôm cán bộ đến gần tôi và nói rằng:

– Anh Huồn, anh biết là sắp đến ngày quốc khánh mồng 2/9 không? Anh lựa con trâu nào coi được, trao cho nhà bếp làm thịt cho trại viên ăn.

Tôi lựa một con thật béo tốt và tôi để trong trí tôi, không cho ai hay biết. Tôi lựa một con thật béo là cốt ý cho anh em bồi dưỡng chứ không phải để mừng ngày 2/9 vì ngày ấy đối với tôi là một ngày toàn dân bắt đầu làm thân trâu ngựa để phục vụ cho một chế độ độc tài, độc đảng, độc ác.

Sáng mồng 2/9 tôi vào chuồng trâu để đưa con trâu tôi đã chọn trao cho nhà bếp làm thịt, thì nó nhìn tôi và tràn trụa nước mắt, thấy vậy tôi về trại cáo bệnh và tôi xin bác sĩ cho tôi nghỉ ngày hôm ấy, như thế tôi tránh được việc dẫn trâu đến lò sát sinh vì tôi không muốn chứng kiến cái cảnh đau thương dù là của một con vật.

Chiều đến chúng tôi được một bữa cơm thịnh soạn với thịt trâu, anh NSX linh mục tuyên úy Quân khu 3, bạn đồng nghiệp của tôi, nằm khít bên cạnh tôi, là người bạn giúp đỡ tôi trong suốt thời kỳ tôi đau ốm, chúng tôi cùng ngồi ăn chung với nhau suốt thời kỳ ở Yên Bái. Hôm ấy ăn món thịt trâu xong, tôi để xương vào đĩa định đem đi đổ thì anh NSX không cho và anh lấy hết đĩa xương ấy ngồi mút thật ngon lành, rồi một buổi chiều kia anh NSX đưa tôi lên bệnh xá nhận thuốc bổ của gia đình anh gởi và bắt tôi uống, có lẽ đó là cách anh trả xương trâu lại cho tôi! Anh em chúng tôi ở với nhau thật tình như thế đấy.

Lâu lâu các linh mục BĐH và mục sư ĐVL cũng ghé thăm tôi, và một hôm các anh đề nghị với tôi, tổ chức đại hội trâu, thật là một ý kiến tuyệt vời. Đến ngày ấn định chúng tôi cùng kéo nhau lên đỉnh núi cầu nguyện, để đàn trâu ăn cỏ dưới chân núi. Đứng trước cảnh trời bao la, một màu xanh biếc, chúng tôi cảm thấy tâm hồn nhẹ nhõm thư thái, và quên hết tất cả những nỗi lo âu, phiền toái của cuộc sống ở chốn nhà tù việt cộng âm u. Thế rồi không ai bảo ai, chúng tôi cất tiếng hát:

Chúa ơi cho con hầu kề, Gần bên Chúa luôn. 

Trí con đinh ninh một bề làm tôi Chúa luôn. 

Con quyết không bao giờ nguôi.

Theo Chúa con luôn không rời.

Chúa ơi cho con hầu kề gần bên Chúa luôn…

Chính lúc đó một tiếng từ trong bụi quát ra: 

– Làm gì có Chúa mà gần các anh, chính tôi, tôi đây, cán bộ nhân lực, cán bộ an ninh, tôi gần các anh đây, tôi bắt quả tang các anh bỏ giờ lao động, tập họp bất hợp pháp để hát những bài nhạc vàng, những bài dâm ô. Các anh xuống núi, lùa trâu về trại.

Anh Hiểu quay lui nói với tôi:

– Làm gì mà không chịu ngó trước ngó sau!! 

– ỡ rồi biết sao được. 

Lúc xuống núi tôi nhìn quanh quẩn nhưng không thấy đàn trâu của chúng tôi đâu cả, tôi đâm lo, người xưa nói thật đúng: Họa vô đơn chí, nhưng may cho tôi, tôi thấy được dấu chân trâu và tôi lần mò đi theo lối chân ấy, lúc tôi tới cuối ruộng mía, tôi thấy đàn trâu đang bị buộc ở đấy, bỗng trong ruộng mía một cụ già xông ra, tay cầm bó mía, vừa chạy vừa chửi:

– Mẹ kiếp nhà mày, chúng mày cho trâu ăn mía nhà ông. Ông phang cho vỡ sọ bây giờ.

Ông vừa chửi vừa chạy nhanh về phía tôi, vấp phải một hòn đá ông ngã lăn quay ra, miệng cạp phải đất, bó mía rơi khỏi tay ông nhưng miệng ông vẫn nói: “Ông phang vỡ sọ nhà mày”. 

Tôi chạy tới đỡ ông dậy, ông hơi trầy gối, tôi lấy thuốc đỏ trong túi tôi xức cho ông, vì khi chúng tôi đi lao động chúng tôi luôn mang theo thuốc đỏ và thuốc trị rắn cắn, đồng thời tôi xin ông cho tôi chuộc lại bầy trâu. Bây giờ ông không còn hung hăng nữa, ông chấp nhận đối thoại, ông hỏi tôi:

– Anh có gì mà chuộc?

– Cháu có áo tây gi.

– Áo tây gi là áo gì?

– Là áo chúng cháu đang mặc đây.

Ông nhìn chúng tôi một chốc rồi ông nói:

– Được, các anh trao cho tôi.

Chúng tôi cởi áo chúng tôi ra, xót xa như bị lột da vậy, vì đây là một gia tài đối với tù nhân như chúng tôi. Ông nhận lấy áo chúng tôi, xem đi xem lại rồi bảo tôi:

– Cả quần của các anh nữa.

Chúng tôi dành phải tụt quần trao cho ông, nhưng riêng đối với tôi, tôi còn một chiếc quần đùi, mà quần đùi của tôi chỉ còn khả năng che phía đằng trước. Lấy xong bộ đồ tây gi của 3 anh em chúng tôi, ông nhìn tôi và nói: 

– Áo lót của anh nữa!

Biết làm sao bây giờ, tôi cũng phải chiều lòng ông cởi chiếc áo lót duy nhất của tôi cho ông, sau đó thì ông đăm đăm nhìn tôi rồi ông hỏi tôi:

– Anh là công giáo à?

– Vâng cháu là công giáo và còn hơn thế nữa. 

– Hơn thế nữa nghĩa là gì? 

– Cháu là linh mục.

– Cháu là linh mục?

Nói câu ấy xong, tôi thấy một sự thay đổi rõ rệt trên nét mặt, đôi mắt ông trở nên đỏ ngầu, ông chấp hai tay lại và ông van nài tôi:

– Lạy cha, xin cha tha tội cho con, thưa cha thật tình là con không biết, lúc cha cởi áo thun ra, con thấy cha đeo thánh giá, con chỉ nghĩ rằng cha là một giáo hữu thường, con đâu có ngờ là linh mục.

Rồi ông gọi thằng con ông:

– Tuấn, mày đem nồi khoai ra đây cho tao.

Ông cụ già chẳng những hoàn lại cả bầy trâu cho chúng tôi, mà còn biếu chúng tôi một nồi khoai nóng hổi, thảo nào các em thường hát: Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!

Phan Phát Huồn

From: Truong Le


 

Thuyền phó tàu Titanic tiết lộ bí mật vĩ đại giấu kín nửa đời người

Lời hay ý đẹp Tuổi Trung Niên – My Lan Pham 

Thuyền phó tàu Titanic tiết lộ bí mật vĩ đại giấu kín nửa đời người, phương Tây họ văn minh hơn chúng ta từ rất lâu!

Nhân sinh như cõi mộng, dù cho người đó giàu có bao nhiêu hay nghèo kém cỡ nào, đứng trước sinh tử cũng đều chỉ là một sinh mệnh bé nhỏ. Quan trọng hơn, khi ấy người ta mới thật sự nhận ra điều quan trọng nhất của cuộc đời: Không phải vật chất, không phải quyền danh, càng không phải nhận lại điều gì cho mình mà là cho người khác, mà là lòng vị tha.

Đêm ngày 14/4/1912, một vụ tai nạn kinh hoàng đã xảy ra. Con tàu mang phong hiệu “không thể chìm” có tên Titanic đã đâm sầm vào một tảng băng trôi khổng lồ. Kết quả của vụ va chạm ấy là những con số và nỗi đau mà người ta không bao giờ muốn nhắc lại.

1.514 người đã thiệt mạng trong vụ đắm tàu kinh hoàng năm ấy. Nỗi đau đã khép lại hơn 100 năm, ngày nay, những gì người ta lưu lại về từ khóa “Titanic” có thể là: Vụ đắm tàu, thảm họa hàng hải nghiêm trọng nhất mọi thời đại hay mối tình lãng mạn của Jack và Rose, cũng có thể là tình ca bất hủ My heart will go on qua chất giọng cao vút của Celine Dion…

Tuy nhiên, hầu như tất cả đều không nhận ra, đằng sau bức màn đen tối của những nỗi đau và mất mát ấy là một kiệt tác vĩ đại của Lòng vị tha.

Charles Lightoller, khi ấy 38 tuổi, Thuyền phó thứ 2 trên con tàu Titanic, ông là người cuối cùng được kéo lên trên thuyền cứu hộ, cũng là người còn sống sót có chức vị cao nhất trên thuyền lúc đó.

Trở về từ cõi chết, sau rất nhiều năm giấu kín và im lặng, cuối cùng Charles quyết định viết 17 trang hồi ức, kể lại chi tiết vụ tai nạn kinh hoàng mà ông chứng kiến. Từng câu từng chữ của ông chưa bao giờ sống động và dồn dập đến vậy. “Chỉ cần tôi còn sống, tôi sẽ không bao giờ quên được cảnh tượng đêm đó!”

“Phụ nữ và trẻ em lên trước!”

Khi mệnh lệnh vừa vang lên, nhiều người rời thuyền cứu hộ, họ lặng lẽ bước ra phía sau châm điếu thuốc và hút. Charles không thấy bất kỳ một phụ nữ hay trẻ em có ý định bỏ lại những người đàn ông thân yêu của họ. Tất cả mọi người dường như rất bình tĩnh… trước cái chết… dù đó là một thương nhân nổi tiếng hay người hầu.

Khi chiếc thuyền cứu hộ đầu tiên được đưa xuống mặt nước, Charles đã hỏi một người phụ nữ họ Straw khi ấy đang ở trên boong tàu rằng: “Bà có muốn tôi đưa bà lên thuyền cứu hộ không?”

Người phụ nữ lắc đầu: “Không, tôi nghĩ vẫn là ở lại trên tàu thì tốt hơn”. Người chồng của bà hỏi: “Tại sao em lại không muốn đi lên thuyền cứu hộ?” Người phụ nữ mỉm cười trả lời: “Không, em vẫn muốn ở bên cạnh anh”. Cũng kể từ đây, Charles không bao giờ còn gặp lại đôi vợ chồng này lần nữa…

Astor đệ tứ (John Jacob Astor IV), một nhà kinh doanh, nhà phát minh, nhà văn nổi tiếng và là một trong những người giàu nhất thế giới lúc bấy giờ. Sau khi đưa người vợ mang thai 5 tháng tuổi lên thuyền cứu hộ, một tay dắt chó, tay còn lại châm điếu xì gà rồi hét to về phía chiếc thuyền cứu hộ đang trôi dần về nơi xa: “Anh yêu hai mẹ con”.

Thuyền phó đã ra mệnh lệnh cho Astor đệ tứ lên thuyền, nhưng ông kiên quyết trả lời rằng: “Tôi thích cách nói cơ bản nhất (bảo vệ phái yếu)!”. Sau đó, ông nhường chỗ của mình cho một người phụ nữ ở khoang hạng 3.

Vài ngày sau, khi bình minh vươn lên trên mặt biển Đại Tây Dương, đội cứu hộ tìm thấy thi thể ông trong tình trạng đầu bị chấn thương nghiêm trọng do đập vào ống khói. Khối tài sản của ông đủ để chế tạo 10 con tàu Titanic, nhưng Astor đệ tứ đã từ chối tất cả. Ông chọn cái chết để bảo vệ người thân yêu của mình, bảo vệ “phụ nữ và trẻ em” và bảo vệ nhân cách của mình.

Ben Guggenheim, một nhà tỷ phú, một nhân vật nổi tiếng trong ngành ngân hàng. Trong giờ phút nguy nan nhất, khi tất cả mọi người đang hối hả và vội vã, ông thản nhiên thay một bộ vest dạ hội sang trọng và tuyên bố: “Tôi phải chết thật trịnh trọng, như một quý ông”.

Trong lời nhắn ông gửi cho vợ viết: “Trên con tàu này, không có bất kỳ một phụ nữ nào vì anh cướp chỗ trên thuyền cứu hộ mà bị bỏ lại trên boong tàu. Anh sẽ không chết giống như một tên khốn, anh sẽ giống như một người đàn ông chân chính”.

Một thủy thủ đề nghị với Strauss, nhà sáng lập công ty bách hóa Macy của Mỹ, cũng là người giàu thứ hai thế giới rằng: “Tôi bảo đảm sẽ không ai phản đối một người già như ngài bước lên thuyền cứu hộ đâu”. Strauss nói: “Tôi sẽ không đi khi những người đàn ông khác còn đang ở lại”. Khi ông cố gắng khuyên giải bà Rosalie vợ của mình lên thuyền cứu hộ thì bà vẫn một mực từ chối. Bà nói: “Bao nhiêu năm qua, anh đi đâu là em theo đến đó, em sẽ cùng anh đi đến bất cứ nơi nào mà anh muốn đi”.

Sau đó, ông choàng lấy cánh tay của bà Rosalie, thong thả bước đến chiếc ghế trên boong tàu, ngồi xuống và chờ đợi giây phút cuối cùng của cuộc đời. Ngày nay, tại Bronx thành phố New York, người ta xây một tượng đài để tưởng niệm vợ chồng ông Strauss, trên đó khắc hàng chữ: “Tình yêu không thể nào nhấn chìm dù có nhiều nước biển hơn nữa”.

Một doanh nhân người Pháp tên Nahuatl đưa hai cậu con trai của mình lên thuyền cứu hộ, nhờ một vài người phụ nữ chăm sóc cho chúng, và mình thì từ chối lên thuyền. Sau khi hai đứa con trai được cứu sống, báo chí khắp nơi trên thế giới đều rầm rộ đăng hình ảnh của hai đứa trẻ này, cho đến khi mẹ của chúng từ hình ảnh nhận ra được chúng.

Trong giờ phút nguy kịch, Lydepas ôm chặt lấy người chồng mới cưới, không muốn thoát chết một mình. Vì bất đắc dĩ, chồng Lydepas phải đấm cô ngất xỉu, khi cô tỉnh lại thì đã thấy mình trên một chiếc thuyền cứu hộ đang trôi lênh đênh ngoài biển. Về sau, Lydepas cả đời không tái giá, sống độc thân để hoài niệm người chồng đã mất của mình.

Trong buổi họp mặt những người may mắn sống sót tại Lausanne nước Thụy Sĩ, bà Smith kể lại: “Lúc đó hai đứa con của tôi được bế lên thuyền cứu hộ. Vì quá tải nên tôi không thể lên thuyền nữa, một người phụ nữ ngồi trên thuyền cứu hộ khi ấy đã đứng dậy rời khỏi chỗ ngồi, rồi đẩy tôi lên và hét lớn với tôi một câu: ‘Ngồi đi, những đứa trẻ không thể thiếu mẹ!’.” Bà hối tiếc vì lúc đó đã không hỏi tên người phụ nữ đó.

Những người thiệt mạng trong vụ tai nạn này còn có tỷ phú Acid, nhà báo nổi tiếng Stead, Thiếu tá pháo binh Bart, kỹ sư Robble nổi tiếng v.v.. Họ nhường chỗ của mình trên thuyền cứu hộ, cho những phụ nữ nông dân không một đồng trên người.

Hơn 50 nhân viên cấp cao trên tàu Titanic, ngoài thuyền phó thứ hai Charles Lightoller chỉ huy cứu hộ may mắn sống sót, toàn bộ đều hết mình cứu người đến chết trong cương vị của mình.

Khoảng 2h sáng nhân viên điện báo số 1 John Philip nhận được mệnh lệnh bỏ tàu của thuyền trưởng, mọi người tự mình cứu mình, nhưng ông vẫn ngồi trong phòng thông báo, vẫn giữ tư thế phát tín hiệu SOS liên tục cho đến phút cuối cùng.

Khi đuôi tàu bắt đầu chìm xuống nước, Charles nghe thấy vào khoảnh khắc cuối cùng, khoảnh khắc của sinh ly tử biệt, những lời yêu thương vang lên: “I love you! I love you!”

Trong bức màn đêm đen tối nhuốm đẫm đau khổ và chia ly, tinh thần quý tộc nổi lên như ngọn đuốc rực sáng, khắc họa nên một tuyệt tác vĩ đại về nhân cách và đạo đức con người. Giáo dục lối sống không chỉ là lý thuyết; mà trong những hoàn cảnh thực tế, những bài học đạo đức ăn sâu vào tâm thức trở thành kim chỉ nam cho hành động của mỗi người.

Phụ nữ và trẻ em, những con người yếu đuối cần được tôn trọng và ưu tiên. Những người đàn ông lịch lãm không chỉ là kẻ nói lời hoa mỹ và tử tế trên bàn tiệc; mà ngay cả khi đối diện với thực tế rằng dù ngày mai tất cả đều trở thành vô nghĩa thì bài học về đạo đức và nhân cách hôm nay vẫn cần được thực hành một cách tuyệt đối.

Nhân sinh như cõi mộng, dù cho người đó giàu có bao nhiêu hay nghèo kém cỡ nào, đứng trước sinh tử cũng đều chỉ là một sinh mệnh bé nhỏ. Quan trọng hơn, khi ấy người ta mới thật sự nhận ra điều quan trọng nhất của cuộc đời: Không phải vật chất, không phải quyền danh càng không phải nhận lại điều gì cho mình mà là cho người khác, là vị tha.

Vị tha hàm chứa một sức mạnh vô tỉ, đã biến những con người xấu số trong cơn “bão biển” kinh hoàng năm ấy trở thành biểu tượng vĩ đại của tấm lòng thiện lương cao cả.

P/s: Những câu chuyện thế này theo các bạn có nên đưa vào sách giáo khoa không?

Hoàng Nguyên Vũ


 

Chồng bắt vợ bỏ thai để dễ bề đến với người khác…- Truyen ngan HAY

Chuyện tuổi Xế ChiềuCông Tú Nguyễn

Chồng bắt vợ bỏ thai để dễ bề đến với người khác, 7 năm sau cô dắt 2 con về, khiến chồng cũ điêu đứng…

Hà Nội tháng Ba, mưa xuân như sợi tơ rơi rả rích ngoài cửa kính. Trong căn phòng chung cư cao cấp trên phố Nguyễn Chí Thanh, Ngọc đứng chết lặng, tay siết chặt tờ phiếu siêu âm.

“Con chị chưa thành hình. Bỏ sớm đi. Tôi lo toàn bộ chi phí.”

Giọng người đàn ông trước mặt lạnh lùng đến mức xa lạ. Dũng – chồng cô, người từng quỳ xuống xin cưới bằng được, giờ đây đang thẳng tay ép cô bỏ đi giọt máu của hai người.

Ngọc không tin vào tai mình. Cô cứ ngỡ Dũng sẽ hạnh phúc khi biết tin. Nhưng không, ánh mắt anh ta trốn tránh, và rồi… một lời thú nhận như nhát dao cắm sâu vào tim:

“Tôi có người khác rồi. Em ấy đang mang thai. Nếu cô giữ lại đứa bé này, sẽ rối lắm. Cô nên hiểu.”

Đêm đó, Ngọc bỏ đi. Không một tiếng gào thét. Không một giọt nước mắt. Chỉ có nhịp tim đập loạn và bước chân lao vào màn mưa, mang theo một sinh linh còn đỏ hỏn trong bụng.

Ngọc đến Sài Gòn vào một buổi chiều oi ả. Cô đổi họ tên, thuê một căn phòng trọ nhỏ ở quận Tân Bình. Dưới cái tên “Trang”, cô bắt đầu lại – một mình với bụng bầu ngày càng lớn.

7 tháng sau, Ngọc sinh đôi. Hai bé trai, giống Dũng như đúc. Cô đặt tên hai con làNamvà Minh – một người trầm lặng, một người lanh lợi, như hai mảnh của chính trái tim cô.

Cuộc sống không dễ dàng. Ngọc làm nhân viên quán cà phê, sau đó chuyển sang phụ bếp, rồi bán hàng online. Cô chưa bao giờ kể về bố của hai đứa trẻ. Trong lòng, chỉ có một điều duy nhất:

“Mẹ sẽ không để các con thiếu tình thương. Nhưng cũng sẽ không để ai làm hại các con.”

7 năm sau. Một chiều thu Hà Nội, chiếc xe taxi dừng lại ở trước cổng công ty Dũng – giờ đã là CEO một tập đoàn bất động sản nổi tiếng. Ngọc bước xuống, tóc búi cao, áo sơ mi trắng, thần thái cứng cỏi.

“Em định làm gì?” – Mai, bạn thân cô hỏi, giọng lo lắng.

“Không phải trả thù. Chỉ là… muốn cho anh ta biết, thứ anh vứt bỏ năm xưa, giờ đã lớn lắm rồi.”

Ngọc gửi hồ sơ xin vào làm trong bộ phận marketing – tất nhiên là với tên giả. Năng lực của cô nhanh chóng khiến nhiều người nể phục, và chẳng bao lâu, cô được mời làm trợ lý cho Phó Tổng – người trực tiếp báo cáo lên Dũng.

Từng bước một, Ngọc bắt đầu “giăng lưới”. Cô điều tra những hợp đồng bất minh Dũng đang cố giấu. Bằng cách tiếp cận với trợ lý tài chính, cô lần ra một dự án ma trị giá hơn 30 tỷ. Nếu bị khui ra, Dũng có thể mất ghế.

Nhưng Ngọc không vội tung đòn. Cô quan sát. Lặng lẽ gieo tin đồn trong nội bộ. Rồi “vô tình” để rò rỉ dữ liệu tài chính ra bên ngoài.

Báo chí bắt đầu đưa tin. Ban quản trị họp khẩn. Dũng – người từng ngạo nghễ như vua, nay mặt tái mét vì các cổ đông quay lưng.

Một buổi tối, khi công ty tan ca, Ngọc đứng chờ Dũng trước sảnh. Gió lạnh thổi tung tà áo dài màu xám tro. Dũng nhận ra cô, đôi mắt trợn lên:

“Là… cô?”

“Anh quên nhanh thật. Tôi tên là Trang. Còn Ngọc – người anh từng bắt phá thai, đã chết 7 năm trước rồi.”

Dũng đứng sững. Cô đưa ra tờ giấy xét nghiệm ADN của hai đứa bé – bản sao cô giữ lại, chưa từng công khai.

“Chúng là con anh. Nhưng anh không cần nhận. Vì chúng chẳng cần một người cha như anh.”

Dũng bắt đầu tìm đến trường mẫu giáo nơi hai đứa bé học. Anh lén nhìn chúng qua ô cửa kính – ánh mắt vừa tiếc nuối vừa ăn năn.

Một hôm, Minh sốt cao, nhập viện. Dũng nghe tin qua bạn cũ của Ngọc, chạy đến giữa đêm.

“Tôi xin lỗi. Là tôi sai. Tôi không xứng đáng… nhưng tôi thật sự… muốn làm gì đó cho con.”

“Anh không cần chuộc lỗi. Con tôi đã có mẹ.”

Khi Minh tỉnh lại, thấy Dũng ngồi ngủ gục bên giường, cậu bé chỉ hỏi nhỏ:

“Chú là ai ạ?”

Dũng bật khóc, không trả lời nổi.

Một tháng sau, Dũng chủ động xin từ chức. Anh chuyển sang làm giảng viên quản trị ở một trường đại học, sống kín tiếng, không tái hôn. Còn Ngọc, tiếp tục nuôi dạy con, không nhắc gì về “chú Dũng” nữa.

Một ngày, Dũng gửi đến cho cô một lá thư tay – không xin lỗi, không mong tha thứ. Chỉ là:

“Cảm ơn em đã không biến các con thành công cụ trả thù. Nhờ em, tôi biết mình từng có cơ hội làm người cha tốt – dù chỉ trong giấc mơ.”

Ngọc đọc xong, đốt lá thư. Mắt nhòe đi trong làn khói mỏng. Cô thì thầm:

“Tôi tha thứ – không phải vì anh xứng đáng, mà vì tôi muốn được bình yên.”

Năm Minh vàNamlên mười, vào một buổi tối mùa đông, khi cả nhà đang ngồi xem chương trình truyền hình,Nam– cậu anh hay suy nghĩ – đột nhiên hỏi:

“Mẹ ơi, tụi con không có ba thật sao?”

Ngọc khựng lại, đôi tay đang gọt táo run lên một nhịp. Cô nhìn ánh mắt trong veo của con, rồi khẽ gật đầu:

“Có chứ. Ba các con từng là người mẹ yêu nhất. Nhưng vì mẹ làm sai điều gì đó… nên ba không ở bên các con được nữa.”

Minh – cậu em lanh lợi – chui vào lòng mẹ, hỏi lí nhí:

“Vậy… ba có biết tụi con không?”

Ngọc hít một hơi sâu.

“Biết chứ. Và ba rất yêu các con. Chỉ là… đôi khi yêu không đủ để người ta dũng cảm.”

Hai đứa nhỏ im lặng. Chúng không hỏi thêm. Nhưng Ngọc biết, sợi dây vô hình kia vẫn âm ỉ tồn tại trong lòng chúng. Dù cô có cố gắng đến đâu, thì vai trò của một người cha – dù chỉ là sự hiện diện – vẫn là điều các con khát khao.

Mười ba năm kể từ ngày Ngọc rời khỏi Hà Nội trong đêm mưa, cô nhận được cuộc gọi từ một người xa lạ:

“Chị Ngọc phải không ạ? Tôi là sinh viên của thầy Dũng. Thầy nhập viện do đột quỵ, trong người chỉ có một bức ảnh… là ảnh chị với hai bé.”

Ngọc đi như chạy đến bệnh viện. Hai đứa trẻ – giờ đã là hai chàng trai cao lớn, cùng theo sau. Trong phòng ICU, Dũng nằm lặng lẽ, cơ thể gầy sọp, tay trái co quắp, ánh mắt mờ đục dần.

Ngọc đặt bàn tay mình lên tay anh. Như năm xưa, nhưng giờ không còn giận, không còn đau, chỉ có một cảm giác sâu thẳm của người từng yêu sâu đậm.

“Em đến rồi đây. Nhưng không phải để níu kéo. Chỉ là để anh biết… chúng ta không còn oán nhau nữa.”

Minh bước lại gần giường, nhìn người đàn ông mà mẹ từng gọi là “ba”, rồi cúi đầu khẽ nói:

“Cảm ơn chú đã cho con cơ hội sống. Dù không bên nhau, nhưng… con không ghét chú đâu.”

Dũng rơi một giọt nước mắt. Cũng là giọt cuối cùng.

Tang lễ của Dũng diễn ra lặng lẽ. Không hoa, không vòng lớn. Chỉ có vài người học trò và những đồng nghiệp cũ. Ngọc để lại cho anh một bó hoa cúc trắng và một dòng chữ viết tay:

“Anh từng là sai lầm, cũng từng là ký ức đẹp. Em tha thứ rồi, thật lòng.”

Sau lễ tang, ba mẹ con lên xe trở về Sài Gòn. Trên đường, Nam quay sang mẹ:

“Mẹ, tha thứ có khó không?”

Ngọc mỉm cười, nhìn qua kính chiếu hậu – nơi bóng Dũng mờ dần phía xa.

“Rất khó. Nhưng nếu không làm được, mình sẽ mãi bị nhốt trong quá khứ. Tha thứ… không phải vì người kia xứng đáng. Mà vì chính mình xứng đáng được tự do.”

Hai mươi năm sau.Nam trở thành luật sư. Minh là nhà thiết kế đồ họa. Trong một buổi phỏng vấn truyền hình, khi được hỏi:

“Ai là người ảnh hưởng nhất đến cuộc đời anh?”

Nam chỉ cười, rồi đáp:

“Là mẹ tôi. Người phụ nữ đã tha thứ cho một kẻ không xứng đáng – để dạy chúng tôi bài học đầu tiên về lòng nhân và sự tự do.”

Bài và ảnh sưu tầm