PHÊRÔ – MỘT CUỘC ĐỜI ĐƯỢC BIẾN ĐỔI – Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

Từ xưa đến nay, những nhân vật được chọn để giữ một vai trò trọng yếu nơi một tổ chức thường là những người có những biệt tài nào đấy: thông minh, có tài quản trị, có khả năng ngoại giao tốt…  Thế nhưng, nhìn đến những con người mà Chúa đã chọn để thay Chúa phân phát ơn lành từ trời cho thế giới, ta lại thấy một điều hoàn toàn ngược lại.  Ngay từ thời điểm bắt đầu đời sống công khai, Đức Giêsu đã mời gọi một số người cùng đi với Ngài, ở lại với Ngài, để Ngài huấn luyện và sai đi.  Trong số nhóm người thân tín nhất với Đức Giêsu, Phêrô được chọn làm người đứng đầu, nhờ việc ông được Chúa Cha mặc khải cho biết về căn tính Kitô của Đức Giêsu.  Phêrô không phải là người xuất sắc nhất trong nhóm, cũng không phải là người thánh thiện nhất trong nhóm.  Ông lại còn là người chối Chúa khi Chúa bước vào cuộc khổ nạn.  Đặt một ngư phủ vô học làm nền tảng cho Giáo Hội của mình, rõ ràng Đức Giêsu đã làm một chuyện thật ngược ngạo từ trước đến nay trong lịch sử nhân loại.

 Lần đầu tiên Phêrô nghe nói về cái tên Giêsu là nhờ người anh em Anrê kể lại.  Sau khi nghe Gioan Tẩy Giả giới thiệu Đức Giêsu là chiên Thiên Chúa, Anrê và Gioan đã đi theo Đức Giêsu và đã ở lại với Người ngày hôm ấy.  Không biết chuyện gì đã xảy vào khoảng thời gian định mệnh này, nhưng sau khi trở về, Anrê đã quả quyết với Phêrô là ông đã được nhìn thấy Đấng Mêsia.  Chắc hẳn là Phêrô cũng nóng lòng, mong chờ một dịp nào đấy thuận lợi để ông cũng có diễm phúc được gặp Đấng Thánh này.

 Chẳng biết là cơ duyên hay tình cờ, điều ông mong chờ đã xảy đến vào một buổi sáng đẹp trời, khi ông vừa trở về sau một đêm đánh cá chẳng thành công.  Cái nghề ngư phủ này lúc nào cũng phải tùy thuộc vào vận may như thế cả.  Đã không được con cá nào, người mỏi mệt vì một đêm thức trắng, ông và gia đình lại còn phải cặm cụi vá lại chiếc lưới rách tả tơi.  Nhưng có ai ngờ, vào cái ngày mà ông cho là ê chề thất bại, cuộc đời ông lại được mở sang trang nhờ một cuộc gặp gỡ không dự báo trước.  Đang khi ông làm việc, Giêsu từ đâu bước tới, theo sau là lũ lượt những con người.  Giêsu ngỏ lời mượn chiếc thuyền của ông làm bệ giảng, và xin ông chở Ngài ra xa một tí để có thể chia sẻ những bài học hay cho dân chúng đang đợi chờ lắng nghe.

 Niềm hạnh phúc dâng cao, Phêrô chưa kịp hiểu được điều gì đang xảy ra.  Giữa biết bao con thuyền đang đỗ bến, con thuyền của ông được chọn.  Giữa biết bao ngư phủ đang ở đây, ông là người được ngỏ lời.  Giờ đây, khi Đức Giêsu đang trao ban những lời vàng quý giá, ông là người ở gần Ngài nhất, nghe rõ những gì Ngài nói nhất.  Hàng ngàn hàng vạn người đang đua nhau để tiếp cận Đức Giêsu, trong số đó, chắc là có nhiều người danh giá và giàu có hơn ông.  Vậy mà một con người đức cao vọng trọng như Giêsu lại để ý đến thân phận nhỏ bé của ông.  Trong thoáng chốc, ông quên đi hết tất cả cái mệt mỏi của mình, kể cả thất bại vừa trải qua.  Ông đang hạnh phúc!

 Cứ ngỡ là sau khi mượn chỗ để giảng thuyết, Giêsu sẽ cảm ơn ông, rồi nhờ ông đưa vô bờ trở lại.  Sau đó, đường ai nấy đi, không còn gặp mặt nữa.  Nhưng thật bất ngờ, Giêsu tiếp tục trò chuyện với ông, mời gọi ông hãy chèo thuyền ra xa hơn một tí nữa, để đánh cá.  Phêrô chẳng muốn đi tí nào!  Giêsu đã khơi lại trong ông nỗi buồn của đêm trước.  Cái mệt mỏi và chán nản vừa được xua tan đi, bỗng dưng quay trở lại.  Kinh nghiệm đánh cá lâu năm của ông mách bảo ông rằng lời mời gọi ấy của Giêsu mới thật ngớ ngẩn biết bao.  Nhưng vì Thầy, vì để làm Thầy vui, ông cố gắng tận dụng chút sức lực còn lại thực hiện một cuộc mạo hiểm mới.  Ông vốn dĩ đã thần phục Đức Giêsu vì tiếng lành đồn xa của Ngài, và vì vừa được nghe những bài giảng sâu sắc của Ngài.  Nay, ông càng kinh khiếp hơn vì phép lạ mà ông vừa chứng kiến.  Ông như được dẫn vào trong một thế giới siêu nhiên, nơi đó, ông thấy mình nhỏ bé quá chừng.  Ông quỳ xuống, một cử chỉ thể hiện sự thấp kém của mình trước mặt Đấng Chí Tôn.

 Ngày hôm ấy và khoảnh khắc đáng ghi nhớ ấy, chắc có lẽ sẽ đọng mãi trong tâm hồn ông, vì đó là lúc mà ông nghe rõ bằng chính đôi tai mình lời mời gọi của Thiên Chúa, muốn ông bỏ hết mọi sự mà bước theo Ngài.  Có vẻ như chẳng phải ngẫu nhiên mà Giêsu đến nhờ ông, rồi giảng cho ông nghe, rồi mời ông đi thả lưới.  Chính tại nơi bờ biển hồ thân quen hàng ngày với ông đã trở thành nơi kỷ niệm và làm chứng cho cuộc tình gắn bó keo sơn giữa ông và thầy Giêsu chí thánh của mình.  Vài năm sau, khi cuộc tình ấy đã trải qua nhiều chông chênh thử thách, kể cả bội phản, ông sẽ nghe lại lời mời gọi này một lần nữa, cũng trên một bờ biển hồ này, vào lúc bình minh chan hòa khắp chốn.

 Ánh bình minh là dấu chỉ báo hiệu cái qua đi của một đêm dài âm u lạnh lẽo, của thất bại và chán chường.  Nó là khởi điểm cho một sự khởi đầu mới với những bất ngờ và niềm vui.  Lời mời gọi của Giêsu dành cho ông đã đến vào những lúc bình minh và cũng có tác dụng hệt như một ánh bình minh vậy.  Cuộc đời ông đã bắt đầu thay đổi khi nghe lời mời ấy lần đầu tiên.  Và cứ mỗi lần ông nghe lại lời ấy, một hành trình mới lại được mở ra.  Bước ngoặc cuối cùng là khi ông thấy Thầy mình vác thập giá quay trở lại thành Giêrusalem khi ông tìm cách bỏ trốn.  Nên đồng hình đồng dạng với Chúa, đó là niềm mơ ước của ông.  Ngày xưa, trên chiếc thuyền đánh cá nhỏ bé của ông, đầu ông đã một lần cúi xuống bái thờ Ngài.  Giờ đây, trên thánh giá gỗ treo thân ở đây, một lần nữa ông lại xin phép cho đầu mình được hướng xuống đất.  Một cuộc tái ngộ giữa ông và Thầy Giêsu lại tiếp tục diễn ra.  Lần này, không phải nơi bờ hồ, hay trên chiếc thuyền đánh cá, nơi ông đã từng mê mẩn hứng lấy từng lời nói của Thầy, nhưng là trên Thiên Đàng, nơi ông có thể gắn kết với Thầy trọn vẹn, nơi đánh dấu cho sự nguyên tuyền và hoàn hảo của tình yêu mà ông và Thầy đã cố gắng dựng xây.

 Giêsu đã xuất hiện trong cuộc đời của Phêrô ngay trong những thất bại và ê chề ông đang nếm trải.  Chính điều đó càng làm cho ông càng thấy bất ngờ và hạnh phúc hơn.  Gắn kết cuộc đời mình với Giêsu, từ chỗ người ngư phủ lưới cá, Phêrô đã trở thành vị tông đồ lưới người.  Cùng với Chúa, ông không ngừng chèo chiếc thuyền Giáo Hội ra chỗ nước sâu, thu về cho Chúa biết bao linh hồn đang sa cơ lạc lối.  Có ai ngờ một con người tầm thường như Phêrô, sau khi đến với Giêsu, đã được trở nên một con người phi thường như thế?  Với Phêrô, Giêsu là khởi nguồn mang đến “bình minh” cho những ai luôn đặt Ngài làm điểm tựa của cuộc đời.

 Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

From: Langthangchieutim

Nỗi hối hận muộn màng- Anton Pavlovich Chekhov  -Truyện ngắn HAY

 

 Nhà văn Anton Pavlovich Chekhov 

Anton Pavlovich Chekhov (1860–1904) là một trong những nhà văn vĩ đại nhất của nước Nga, được coi là bậc thầy của truyện ngắn hiện đại. Ông sinh ngày 29 tháng 1 năm 1860 tại Taganrog, một thành phố cảng nhỏ ở miền nam nước Nga, trong một gia đình nghèo khó. Cha ông là một người bán hàng tạp hóa, tính tình khắt khe với con cái, trong khi mẹ ông là một phụ nữ hiền hậu, có ảnh hưởng sâu sắc đến tính cách của Chekhov.

Tuổi thơ của Chekhov gắn liền với những năm tháng cơ cực, khi gia đình ông phá sản và phải chuyển đến Moscow. Dù hoàn cảnh khó khăn, Chekhov vẫn cố gắng học tập và sau này theo học trường Y tại Đại học Moscow. Ông trở thành bác sĩ và luôn coi nghề y là một phần quan trọng trong cuộc đời mình, nhưng văn chương mới là đam mê lớn nhất.

Chekhov bắt đầu viết truyện ngắn từ những năm 1880 để kiếm sống và nhanh chóng khẳng định được tên tuổi. Các tác phẩm của ông thường tập trung vào cuộc sống hàng ngày của con người, khai thác tâm lý sâu sắc và chứa đựng những triết lý nhân sinh.

Bên cạnh việc viết truyện ngắn, Chekhov cũng là một nhà biên kịch xuất sắc với các vở kịch như Uncle Vanya (Chú Vanya), Three Sisters (Ba chị em) và The Cherry Orchard (Vườn anh đào). Những sáng tác này phản ảnh sự chuyển biến xã hội và mối quan hệ giữa con người trong một thời đại đầy biến động ở nước Nga cuối thế kỷ XIX.

Không chỉ nổi tiếng ở Nga, Chekhov còn có tầm ảnh hưởng lớn đến nền văn học thế giới. Các nhà văn như Ernest Hemingway, William Faulkner, Raymond Carver đều chịu ảnh hưởng từ phong cách viết của ông.

Khác với nhiều nhà văn cùng thời, Chekhov không cố gắng đưa ra những kết luận rõ ràng trong truyện của mình. Ông tin rằng nghệ thuật không phải để trả lời câu hỏi, mà là để đặt ra câu hỏi. Các câu chuyện của ông thường kết thúc mở, để lại dư âm, những suy gẫm trong lòng người đọc.

Các đặc điểm nổi bật trong văn chương của Chekhov là sự miêu tả cuộc sống một cách chân thực, không tô vẽ hay cường điệu. Thay vì những tình tiết gay cấn, ông tập trung vào những khoảnh khắc đời thường nhưng giàu cảm xúc. Chekhov luôn thể hiện sự thấu hiểu sâu sắc với nỗi khổ và tâm trạng của con người.

Một trong những tác phẩm tiêu biểu thể hiện rõ phong cách này chính là truyện ngắn Nỗi Đau (Grief), nói về sự hối tiếc muộn màng của một người chồng trong cách đối xử với vợ mình.

Grigory Petrov, một người thợ mộc ở một vùng quê nghèo khổ và thiếu thốn của nước Nga vào cuối thế kỷ XIX. Vợ Grigory Petrov lâm bệnh gần cả một năm trời. Họ đã dốc hết tiền bạc vào thuốc men nhưng dường như vô ích. Lúc này, bà đang trên bờ vực của cái chết. Grigory Petrov cố đưa vợ đến bệnh viện trong thị trấn với suy nghĩ còn nước còn tát, còn chút hy vọng nào không?

Trời tuyết rơi nhiều, đường trơn trợt, Grigory đặt vợ lên chiếc xe ngựa cũ kỹ. Con ngựa già nua lê từng bước rã rời, mệt nhọc. Cả hai không nói gì nhiều, chỉ có tiếng gió rít qua những hàng cây, tiếng bánh xe nặng nhọc lăn trên nền tuyết lạnh. (Hình ảnh tuyết rơi nhiều là hình ảnh của cuộc đời lạnh quá. Hình ảnh con ngựa già lê bước là hình ảnh Grigory mang vợ mình về chốn mãi chia xa!)

Trên đường đi, Grigory bắt đầu nói chuyện với vợ, nhưng thực ra Grigory đang tự nói với chính mình. Ông nhắc lại những năm tháng họ sống bên nhau, những khó khăn, gian khổ mà vợ ông đã phải chịu đựng. Suốt 40 năm qua, bà đã làm việc quần quật, gánh vác cả gia đình mà chưa bao giờ nhận được một lời yêu thương hay một cử chỉ dịu dàng từ chồng mình.

Chỉ đến lúc này, khi cái chết cận kề, Grigory mới nhận ra lỗi lầm của mình. Ông nói với bà bằng giọng nghẹn ngào: “Lẽ ra tôi nên đối xử với bà tốt hơn… Cuộc đời quá bất công với bà, và tôi cũng quá bất công. Tôi chưa bao giờ dành cho bà một lời tử tế, một nụ cười dịu dàng. Tôi thật tệ…” Bà vợ khẽ rên lên, hơi thở yếu dần.

“Cố lên bà nhé… Chúng ta sắp đến nơi rồi. Bà sẽ khỏe lại thôi…” Nhưng trong thâm tâm, Grigory biết đó là điều không thể.

Minh họa truyện ngắn Nỗi Đau (Grief)- nguồn X

Cuối cùng, họ cũng đến thị trấn. Ông dừng xe, vội vã bước xuống. Lần đầu tiên trong đời, ông bế bà trên tay để đưa bà vào bệnh viện. Nhưng khi chạm vào bà, ông sững người. Bà đã lạnh ngắt. Bà đã chết. Bà trút hơi thở cuối cùng trên đường đi, trước khi kịp nghe những lời yêu thương muộn màng của chồng mình.

Chekhov không lên án, vì Grigory không phải là người xấu. Ông chỉ là một người nông dân bình thường. Nhà quá nghèo, kiếm được miếng ăn trầy vi tróc vảy, sao mà không cơ cực? Grigory quá bận rộn với cuộc sống mà quên đi giá trị của tình yêu.

Câu chuyện đặt ra một câu hỏi nhức nhối: “Tại sao con người chỉ nhận ra giá trị của nhau khi đã quá muộn?”

Những lời hối tiếc của Grigory chẳng còn ý nghĩa khi người cần nghe chúng đã không còn nữa.

Chekhov không kết luận, không dạy đời phải làm thế này hay phải làm thế nọ. Ông chỉ kể lại một tình huống mà ai cũng có thể thấy được chính mình trong đó, để rồi tự rút ra bài học cho bản thân.

Thông điệp của câu chuyện thật giản dị nhưng thấm thía. Chekhov nhắc nhở chúng ta rằng những điều tốt đẹp về sự yêu thương, chăm sóc cho nhau trong nghĩa vợ chồng không nên để quá muộn. Khi yêu thương một ai đó, hãy thể hiện ngay khi còn có thể, bởi thời gian không chờ đợi ai.

Câu chuyện của Chekhov không chỉ là một tác phẩm văn học xuất sắc mà còn là một bài học sâu sắc về cuộc sống. Nó khiến người đọc phải suy ngẫm về những giá trị quan trọng trong đời: “Đừng trì hoãn yêu thương. Một lời yêu hôm nay đáng giá hơn cả ngàn câu hối tiếc sau này.”

Người phương Tây có câu: “Whispered words—too late. Echoes in the empty room, love left unspoken.”

Lời thì thầm quá muộn để nói ra chỉ vang vọng trong căn phòng trống, lời yêu thương chưa nói, giờ mới nói ai nghe?

Đoàn Xuân Thu 

From: NguyenNThu                              


 

Sự Khiêm Nhường và Đơn Sơ tột cùng của Đức Giáo Hoàng Phanxicô (1936 – 2025)-Tác giả: Phùng Văn Phụng

Tác giả: Phùng Văn Phụng

Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã an nghỉ trong Chúa lúc 7 giờ 35 sáng (giờ Ý) tức 12 giờ 35 trưa (giờ Việt Nam) ngày thứ Hai Phục sinh 21 tháng 04 năm 2025 thọ 88 tuổi. Ngài qua đời vì “đột quỵ não, hôn mê, suy tim mạch không hồi phục” giấy chứng tử cho bìết (tin từ Vietcatholic.net)

1)Ngài làm việc cho đến phút chót:

Ngài đã ra đi một ngày sau khi tiếp Phó Tổng thống Mỹ JD Vance

Vào tháng 09 năm 2024, Ngài đã thực hiện chuyến công du dài 12 ngày qua Đông Nam Á và Châu Đại Dương bao gồm các chuyến thăm tới Indonesia, Papua New Guinea và Singapore.

Nhà báo Hà Phan (không là người công giáo) viết: Giáo hoàng Francis chỉ để lại tài sản trị giá 100 USD sau khi qua đời ở tuổi 88! Lúc còn sống, Ngài từ chối nhận lương, từ chối ở tại khu biệt thự trong Điện Tông tòa, từ chối đi xe sang, không sử dụng trang phục và phục sức đắt tiền. Giáo hoàng sống cuộc đời giản dị cho đến khi về với Chúa!

Ngài cũng không nhận bất kỳ khoản tiền lương nào kể từ khi trở thành Giáo hoàng vào tháng 3-2013. Kể cả sau khi được tấn phong Hồng y vào năm 2001, Ngài vẫn sống trong một căn hộ nhỏ và sử dụng phương tiện công cộng như xe buýt hay tàu điện ngầm thay vì những chiếc ô tô sang trọng có tài xế riêng hay có đội bảo vệ riêng dành cho các Hồng y để giữ gìn tinh thần khó nghèo, vâng phục lời khấn “khó nghèo” mà Ngài tuyên hứa với Dòng Tên. (Trích từ TT)

Trong ký ức của những người dân nghèo ở Buenos Aires, nhất là khu ổ chuột lớn nhất thủ đô Argentina, Giáo hoàng Francis, khi đó là linh mục Jorge Mario Bergoglio, mãi mãi là “linh mục của dân nghèo”, là người cha luôn yêu thương, giúp đỡ những người sống bên rìa xã hội.

 2)Hôn chân tù nhân: (báo Tiền Phong)

Ngày 14/4/1922, Giáo hoàng Francis đến thăm một nhà tù của Ý để thực hiện lễ rửa và hôn chân 12 tù nhân, nhằm tưởng nhớ cử chỉ khiêm nhường của Chúa Jesus với các tông đồ trong đêm trước khi qua đời.

 Giáo hoàng Francis hôn chân phạm nhân trong một nhà tù ở Ý. (Ảnh: Vatican)

 3)Đơn Sơ đến tận cùng, không hương hoa, không đèn nến.

Linh cữu Đức Thánh Cha Phanxicô lặng lẽ giữa đền thờ Thánh Phêrô – một cỗ quan tài gỗ trơn, mộc mạc, không một hoa văn.

Ngài đã chọn sống nghèo khó và khiêm hạ – và ra đi cũng như thế. Không vòng hoa như trong các đám tang thông thường hiện nay.

Mong sao các đám tang Công giáo cũng bày trí đơn sơ như thế này.

Tạm biệt Đức Thánh Cha Phanxicô, chứng nhân của Tin Mừng, người hành hương của hy vọng.

nguồn: Đền Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp


Ngài là hiện thân của “Tình yêu bao la dành cho mọi người đặc biệt người nghèo khó và bị gạt bên lề xã hội”

Đức Thánh Cha Phanxicô là tấm gương phản diện cho con người hiện nay trong đời thường còn quá nhiều ham muốn trần tục, ham muốn danh vọng, nổi tiếng, ham muốn tiền bạc, giàu sang và nhiều thứ dục vọng ham muốn khác.

Xin cầu nguyện cho linh hồn Đức Thánh Cha Phanxicô sớm hưởng Nhan Thánh Chúa, hưởng vinh phúc muôn đời trên nước Thiên đàng Vĩnh Cửu. Amen

Ngày 25 tháng 04 năm 2025

Phùng Văn Phụng

Xem thêm:

1)ĐƠN SƠ ĐẾN TẬN CÙNG – MỘT CÁI CHẾT NÓI LÊN CẢ MỘT CUỘC ĐỜI – Lm. Anmai, CSsR

https://keditim.net/216028-2/

2)Tiểu sử của Đức Thánh Cha Phanxicô

https://keditim.net/216022-2/


 

Diễm Xưa – Trần Thị Nhật Hưng -Truyen ngan HAY

Ba’o Nguoi-Viet

April 23, 2025

Trần Thị Nhật Hưng

Diễm và Liễn lấy nhau được đúng 5 năm, chưa có con, biến cố 30-04-75 đến, chồng Diễm khăn gói vào tù, lúc đó nàng vừa 23 tuổi. Ở nhà chỉ còn nàng và cụ Định 70 tuổi, thân phụ Liễn.

Trước đây, cả nhà ba người chỉ sinh sống bằng đồng lương hạn hẹp, ít ỏi của Liễn. Nhờ Diễm biết tằn tiện, quán xuyến, lại không phải hạng người ham vật chất, đua đòi nên cuộc sống gia đình nàng tạm đủ. Đủ theo cái nghĩa biết đủ thì nó đủ. Nhờ thế, mái ấm gia đình nàng êm đềm hạnh phúc dù vắng bóng tiếng trẻ thơ.

Sau 1975, bất ngờ không còn đồng lương, chồng vắng nhà, Diễm thật chới với. Nhưng rồi vốn quen với nếp sống thanh đạm“ngày hai bữa vỗ bụng rau bình bịch“ giỏi chịu đựng, mọi sự phải tập quen, cho nên, cũng như bao người miền Nam khác, ăn tiêu, Diễm bán dần đồ đạc và cần kiệm cho qua ngày. Nhà chỉ còn hai người cũng dễ. Lại thêm bố mẹ ruột của Diễm khá giả, thỉnh thoảng từ miền Trung tiếp tế vào Sài Gòn cho con gái, nên về đời sống vật chất tạm thời không đến nỗi âu lo quá đáng. Thế nhưng,“phước bất trùng lai, hoạ vô đơn chí,” độ chừng vài tháng sau, khi cụ Định liên lạc được với bà con họ hàng gia đình ngoài Bắc (cụ di cư vào Nam chỉ hai bố con), Diễm mới vỡ lẽ, trước năm 54 di cư vào Nam, Liễn, chồng nàng từng có một đời vợ và một đứa con trai ngoài đó. Điều này khi kết hôn với Diễm, năm nàng mới 18 tuổi, Diễm không hề nghe tới. Người vợ đó cho đến năm 75, vẫn ở vậy chờ chồng, chắt chiu với đứa con trai chỉ thua Diễm hai tuổi. Biết được điều này, Diễm như tiếng sét đánh ngang đầu, đánh nát cả trái tim nàng. Nước mắt lúc đó không đủ xoa dịu nỗi cơn đau xé ruột, xé gan. Diễm chết điếng với nỗi bàng hoàng không sao giải quyết được. Đêm đêm, Diễm chỉ còn biết khóc…và khóc…

Nỗi đau khổ này, tuyệt nhiên, Diễm không hề than thở với chồng. Liễn đang ở tù, chẳng giải quyết được gì. Trách móc, than thở chỉ làm nát lòng nhau. Nhưng Diễm muốn biết đầu đuôi câu chuyện. Diễm hỏi cụ Định:

-Bố có thể kể cho con nghe cuộc hôn nhân đó như thế nào không?

Bằng giọng bùi ngùi, cụ Định dõi hồn về quá khứ, cụ kể:

-Khi nhà con 17 tuổi, bố và nhà con rời quê lên thị xã thuê một căn nhà nhỏ ở tạm. Nhà con còn đi học. Bố thì trốn lánh vùng mất an ninh, vì ở quê lúc đó, tối Việt Minh về quấy rối, ngày thì Tây bố ráp. Ở thị xã bố chả làm gì. Hai bố con sinh sống bằng tiền ở quê tiếp tế. Ngày ngày có các cụ, bạn bố qua đánh chắn (đánh tổ tôm, một loại bài bạc của người miền Bắc). Các cụ ấy cũng đều ở quê lên cả, nhà rất giàu. Nhìn cảnh hai bố con đơn chiếc, nhà lại thiếu đàn bà, các cụ khuyên bố lấy vợ hai.

Nói đến đây, cụ Định “chậc” một tiếng, lắc đầu:

-Vợ hai, vợ ba, rắc rối lắm con ạ. Bố từ chối, thế là các cụ bàn nhau lấy vợ cho Liễn. Có một con bé, con người bạn, xinh xắn, ngoan hiền, nhưng mới 14 tuổi, bé quá, biết gì. Lấy về lại phải “hầu” nó. Thế là cụ Chánh Hàn giới thiệu ngay cháu gái cụ 20 tuổi.

Vợ Liễn ngoài đó và nhà con, chúng nó chỉ “thấy” nhau một lần thế thôi, rồi tháng sau đám cưới. Một đám cưới chạy tang đơn giản. Phần loạn lạc nên cũng chỉ đại khái theo nghi lễ. Vợ Liễn về nhà bố, hai tháng sau có thai. Ngày ngày nó lo cơm nước, quét dọn, giặt giũ và buôn bán lặt vặt. Nhà có đàn bà, mọi sự ngăn nắp tươm tất hơn. Ngày vợ Liễn gần sanh, nhà con đưa nó về quê, cùng lúc đất nước biến động, hiệp định Genève ra đời chia đôi đất nước. Thành phần địa chủ như bố, ở lại chỉ có nước chết. Bố đành phải chạy vào Nam. Gia đình không muốn để bố ở Nam một mình, cử nhà con đi, khi đó thằng Thịnh, con của Liễn, mới sanh được 5 tháng.

-Tại sao không dắt mẹ con Thịnh theo? Diễm hỏi.

-Bấy giờ ở quê đã rơi vào tay Việt Minh. Muốn đi, phải lén lút trốn tránh. Đùm đề vợ con làm sao trốn được. Lại nữa, mẹ Thịnh vừa mới sanh.

Nói đến đây, cụ Định lại thở dài, “chậc” lên một tiếng bi ai:

-Bố đâu muốn nhà con đi, bỏ vợ con trong hoàn cảnh như thế. Nhưng rồi nó cứ đi, trốn ra được Hải Phòng theo con tàu “há mồm” di cư vào Nam với Bố. Lúc đó ai cũng tưởng rằng, hai năm sau tổng tuyển cử đất nước thống nhất, gia đình có cơ đoàn tụ, nào ngờ kéo dài mãi đến hôm nay.

Cụ Định kể với ánh mắt xa xăm, quá khứ đau thương từ vực sâu ký ức như trỗi dậy đè nặng lòng cụ. Giọng cụ bỗng lạc hẳn đi, chất chứa bao chua xót, uất hờn:

-Ngày bố và nhà con đi rồi, gia đình ta ngoài đó bị ghép vào thành phần địa chủ phản động, bị đấu tố. Toàn bộ tài sản ruộng đất bị tịch thu, một cái chén cũng không còn để mà dùng. Mẹ con Thịnh chỉ còn được tá túc nơi xó bếp. Còn mẹ con và thằng em mới 15 tuổi của Liễn, bị đày đi Lào Cai nơi rừng thiêng nước độc. Hiện giờ Thịnh, sau khi học hết phổ thông, thành phần này không bao giờ ngoi đầu lên được trong xã hội cộng sản, cuối cùng cũng lên Lào Cai với chú. Còn mẹ nó vẫn ở quê làm ruộng với hợp tác xã cho tới bây giờ.

Kể xong, cụ ngồi yên thầm lặng. Vẻ u uẩn hằn lên khuôn mặt gầy gò. Cụ đưa mắt xót xa nhìn sang Diễm. Diễm vẫn ngồi đó, hai tay chắp vào nhau, mặt cúi gằm tư lự. Mọi biến chuyển nội tâm đang xáo trộn tâm tư nàng. Diễm thấy thương số phận mình, thương luôn hoàn cảnh trớ trêu của mẹ con Thịnh. Nàng biết trách ai đây? Cụ Định ư? Liễn ư? Hay trách  cho số phận, định mệnh đã an bài?

Khi Diễm ngẩng mặt lên, ánh mắt nàng mang theo bao nỗi đau khổ. Từ nơi đó, những giọt lệ long lanh tròn như hạt sương mai, trong như pha lê đang thi nhau lăn dài trên má. Diễm nấc lên trong tiếng khóc nghẹn ngào. Nàng đưa tay quẹt nhẹ nước mắt nhạt nhòa trên mặt, rồi hỏi:

-Câu chuyện thương tâm, quan trọng như vậy, tại sao trước ngày cưới của con cũng như 5 năm qua, không ai nói cho con biết?

Cụ Định vẫn ngồi yên lặng, trầm ngâm. Lòng cụ cũng đang xốn xang trước nỗi buồn của cô con dâu trẻ. Một lúc thật lâu, vẫn giọng bùi ngùi, cụ nói như vỗ về, an ủi:

-Lúc đó con còn nhỏ quá. Nói ra chả có ích lợi gì. Bố chỉ nói với ông bà thân sinh của con. Ai cũng nghĩ, chuyện xưa nhiều năm rồi chắc không hy vọng có ngày tái hợp.

Diễm nói, giọng nghẹn ngào:

-Con lấy chồng chứ đâu phải bố mẹ con lấy chồng. Ít ra mọi người cũng nên nói với con. Tại sao tất cả người lớn dối gạt con. Bố cũng biết hồi đó, dù có thương nhà con, nhưng con vẫn chưa muốn lấy chồng. Con còn đi học, ham học, hiếu học và học giỏi. Bây giờ mọi sự đã lỡ dở cả rồi. Con mất hết tất cả rồi. Mất hết. Con sẽ trả lại chồng cho mẹ con Thịnh. Rồi con sẽ rời đây!

Nói xong, Diễm khóc oà, chạy vội vào nhà trong úp mặt vào giữa hai lòng bàn tay nức nở. Cụ Định chẳng biết nói sao hơn, chỉ đưa mắt nhìn theo buông một tiếng thở dài não nuột.

Từ sau hôm nghe câu chuyện cụ Định kể, Diễm tự coi như nàng đã chết. Đúng ra, Diễm đã muốn quyên sinh ngay từ hôm đó. Đã nhiều lần, Diễm ngồi hằng giờ trên căn gác nhỏ nhìn từng đống thuốc ký ninh, dầu nóng, dầu xanh, thuốc cảm, thuốc đau bụng… nàng đã lôi hết ra từ tủ thuốc gia đình, chỉ cần nốc một hơi với ly nước nhỏ, nửa tiếng hay một tiếng sau nàng kết thúc cuộc đời và kết thúc luôn nỗi khổ đau nàng đang gánh chịu. Nhưng trong cơn tuyệt vọng cùng cực, nhập nhòa trong trí Diễm, hình ảnh ông bà Chí, bố mẹ nàng hiện ra. Hai mái đầu bạc thất thểu lặn lội từ miền Trung vô Sài Gòn gục trên chiếc quan tài của nàng khóc thảm thiết. Nàng nằm trong đó không biết gì. Giữa bao tiếng khóc, tiếng cầu kinh, trống kèn ò e tiễn biệt cùng lời xầm xì thương tiếc tò mò của bà con lối xóm, nàng sẽ không còn nghe gì, thấy gì. Mãi mãi Diễm được yên giấc ngàn thu. Sẽ không bao giờ còn đớn đau gì nữa cả, nhưng thay vào đó, sẽ là nỗi đớn đau của chính bố mẹ nàng. Hai ông bà cụ sẽ đau khổ triền miên suốt quãng đời còn lại. Còn cụ Định và Liễn ư, đương nhiên cũng buồn và sẽ ray rứt khôn nguôi với tháng ngày. Vì chính cụ Định và Liễn đã là người trực tiếp gây nên cái chết của nàng. Không, không thể được. Diễm không thể để người khác phải đau khổ vì mình. Thế thì nàng phải sống, can đảm mà sống, chịu đựng để sống, sống cho bao người thân được cười, trong khi chỉ mình nàng thì khóc.

Nghĩ vậy, Diễm cố giữ lại cái xác của nàng. Một cái xác không hồn, một cái xác biết đi, vất vưởng như bóng ma cả ngày lẫn đêm, nhất là những lúc Sài Gòn không đèn, ngọn đèn dầu le lói soi bóng nàng vào ra, héo hắt trong căn nhà nhỏ với cụ Định.

Diễm quyết không than trách với Liễn. Nàng cũng không thư từ bắt bẻ, kể khổ với bố mẹ. Diễm cũng không muốn tâm sự với bất cứ ai, mà xung quanh nàng còn có ai để tâm sự ngoài cụ Định. Bạn bè, kể từ ngày nàng đến với Liễn, cuộc sống rồi việc học, thêm biến cố 75, tản mác kẻ ở người đi, chả còn người bạn nào có thời gian liên lạc với nàng. Diễm sống khép kín, đóng khung trong cuộc đời của Liễn và cụ Định.

Bây giờ nàng ngồi đây một mình, cô đơn khủng khiếp trên căn gác vắng, không còn cách nào hơn, Diễm bắt đầu trút niềm đau qua những trang nhật ký. Diễm viết về Liễn, về nàng, nhắc nhớ lại những kỷ niệm êm đềm ngày chàng và nàng gặp và quen nhau. Ôi định mệnh. Diễm không ngờ định mệnh khiến xui đưa đẩy cuộc đời Diễm sang một lối rẽ, giữa khi cô bé Diễm ngày nào còn quá ngây thơ, thánh thiện của tuổi học trò.

***

Diễm lên xe hoa về nhà Liễn năm nàng 18 tuổi. Hành trang mang theo về nhà chồng một vali toàn sách vở và vài chiếc áo dài trắng nữ sinh. Đám cưới nhằm ngày chủ nhật. Sáng hôm sau thứ hai, Diễm vẫn cắp sách đến trường để hai tháng kế chuẩn bị cuộc thi Tú tài phần một, rồi tiếp tục phần hai, rồi đại học như ước mơ Diễm hằng ấp ủ.

Diễm ham học, hiếu học hơn là ham lấy chồng trong lúc đó. Nhưng Diễm không cưỡng được số phận, không cưỡng nổi ước mong quyết thực hiện câu ca dao “cưới vợ phải cưới liền tay, chớ để lâu ngày lắm kẻ dèm pha” của cụ Định và ông bà Chí, hai gia đình vốn thân nhau qua hội những người Bắc di cư khi cụ Định còn ở miền Trung – Cụ Định là Hội trưởng còn ông Chí là Thủ quỹ – và nhất là tình chàng. Liễn đến. Đến như cơn gió nhẹ, như dòng suối ngọt ngào, nhẹ nhàng chảy thấm dần vào lòng đất. Tuổi tác chênh lệch như chú cháu, cả Liễn và Diễm không có “tiếng sét ái tình”, nhưng thời gian suốt hai năm “nằm vùng” tại gia đình ông bà Chí – đêm đêm, cụ Định, thỉnh thoảng cả Liễn đến ngủ nhờ nhà nàng để tránh những cuộc tấn công kế tiếp của cộng quân sau vụ tết Mậu Thân – thời gian vừa đủ để Liễn và Diễm tuy không quan tâm để ý nhau vẫn “thấy” ra nhiều điểm tương đồng của nhau. Diễm kính Liễn như một người… chú, một người anh cả. Ngược lại, Liễn cũng mến nàng như cô em gái ngoan. Rồi, điều gì đến đã đến. Một đám cưới “thần tốc” không ai ngờ được, thật đơn giản nhưng không kém phần trang trọng với đầy đủ lễ nghi đã diễn ra chỉ sau một tháng khi Liễn ngỏ lời muốn cưới nàng: “Đừng gọi anh bằng chú nữa. Anh muốn cưới em làm vợ, em bằng lòng không?” Diễm cười: “Cháu… ơ … ơ… e…m … em bằng lòng. Nhưng, nhưng… đợi… em… học xong đại học đã.” Đã chẳng ai chịu đợi nàng. Và Diễm thì nhất quyết không muốn bỏ học.

Các cụ nhà ta vẫn bảo, tình yêu thường đến sau hôn nhân. Quan niệm đó không hoàn toàn đúng trong mọi trường hợp, nhưng với Liễn và Diễm thì rõ ràng như vậy. Những ngày sống bên nhau, tình yêu của cả hai đã tăng theo cấp số nhân tỉ lệ thuận với lòng tương kính. Càng ngày hai người càng thấy “ý hợp tâm đầu”. Cả hai có cùng một ước mơ, một sở thích, một suy nghĩ và nhất là cùng một chí hướng, một hoài bão phụng sự con người, xã hội, dân tộc hơn là đeo đuổi vật chất để phục vụ đời sống bản thân. Với lý tưởng đó, cho nên, dù nắm giữ những chức vụ chỉ huy quan trọng, Liễn đã chọn cho chàng một đời sống trong sạch, thanh liêm. Và Diễm vui vẻ lẫn cả hãnh diện để chấp nhận cái nghèo của chàng. Ngày ngày, ngoài phận làm dâu, làm vợ, quán xuyến mọi việc trong gia đình, Diễm vẫn nỗ lực tiếp tục học hành với hy vọng sau này đem khả năng hỗ trợ cùng chàng thực hiện những ước mơ.

Nhiều lần, ôm Diễm trong vòng tay, Liễn đã thủ thỉ với nàng: “Em là vợ anh, là em gái của anh, và không chỉ là bạn đời của anh, mà còn là bạn tri kỷ của anh nữa.” Diễm đã sung sướng ngả đầu vào vai chàng, gật đầu.

Biến cố 30-04-75 đến, như cơn bão tố quét sạch mọi ước mơ, mộng đẹp của bao người. Cơn bão lửa ấy đã tàn nhẫn cướp luôn của Diễm trái tim, linh hồn, tình yêu, tương lai và niềm hy vọng. Bây giờ thì nàng mất hết cả rồi. Mất hết. Tất cả đối với Diễm chỉ còn lại kỷ niệm, để tiếc, để thương, và để nhớ….

Một ngày, bà Chí từ miền Trung vào Sài Gòn thăm nàng. Bà hỏi thăm cụ Định về vợ con Liễn ngoài Bắc. Khi rõ chuyện, bà tìm riêng nàng, ngậm ngùi nhìn con gái, rồi nói:

-Con nên về với mẹ. Mẹ gả chồng khác cho con. Cũng may, con và Liễn chưa có con cái ràng buộc, cũng dễ. Hãy trả chồng lại cho người ta, con ạ!

Diễm nén tiếng khóc trong lòng, thẳng thắn trả lời bà Chí:

-Mẹ à, vợ chồng đâu phải là quần áo nay thay mai đổi. Mẹ đã gả con đi lấy chồng, chấp kinh tòng quyền, mẹ hãy để cho con tùy cơ ứng biến, tự định đoạt đời con. Con muốn đợi Liễn về, giáp mặt một lời, rồi tuyên bố trả chồng cho người ta cũng không muộn. Sau đó, con sẽ ra đi. Con chưa biết đi đâu, nhưng chắc chắn một điều con không về với mẹ.

Nói xong, Diễm lẳng lặng bỏ xuống nhà bếp để giấu những dòng lệ đang lã chã tuôn rơi.

***

Một năm, hai năm rồi ba năm. Thời gian lặng lẽ trôi, thấm thoát đã ba năm trời. Ba năm đối với Diễm, biết bao mỏi mòn trong nhớ thương, phiền muộn. Và ba năm qua, thời gian vừa đủ để Diễm rùng mình lột xác, rời bỏ bản chất ngây thơ hồn nhiên, để mở thật to mắt nhận diện rõ cuộc đời. À, thì ra, cuộc đời không phải là những trang giấy trắng trinh nguyên học trò mà Diễm từng vẽ lên đó bao hoa bướm với nắng hồng. Cũng không phải là những áng văn, thơ trữ tình lãng mạn như mây bay, suối ngàn, gió thoảng. Mà cuộc đời còn đầy dẫy chông gai, thú dữ, thác ghềnh, bão tố…. Chỉ cần sơ hở, con người  sẽ bị nuốt trộng, cuốn trôi, ngã quỵ…

“Học tập cấp úy mang theo lương thực mười ngày, cấp tá một tháng.”

Đó là lời khuyến dụ của nhà nước cộng sản nói với đồng bào miền Nam. Nhưng, mười ngày đã trôi qua, một tháng đã trôi qua, vài tháng và vài năm rồi cũng trôi qua, Liễn vẫn biền biệt, không thấy trở về.

“Thân nhân gia đình cải tạo phải chấp hành tốt đường lối chính sách của cách mạng. Cách mạng sẽ nhân đạo khoan hồng, cứu xét cho người thân sớm đoàn tụ”.

Một lần nữa, Diễm lại ngây thơ nghe theo một cách ngoan ngoãn. Công tác phường, khóm, thủy lợi đào mương, nàng năng nổ như một… kiện tướng! Cuối cùng, cái tin Liễn bị đưa ra Bắc, bị đày tận Lào Cai như cú đấm… đảng giáng, đẩy Diễm xuống tận cùng của hố thẳm tuyệt vọng. Nhưng chính vào lúc cùng cực của khổ đau, bị ép vào chân tường, trong nàng lại bừng lên sức phản kháng mãnh liệt. Phản ứng tâm lý ấy, một phần là uất ức cá nhân, một phần không thể chấp nhận được chính sách của chính quyền cộng sản. Nhưng làm gì bây giờ? Diễm lắc đầu, bó tay, chịu trận. Dù sao, nàng cũng vẫn là một phụ nữ chân yếu tay mềm. Lúc đầu, nàng chỉ biết bày tỏ lòng phản kháng bằng những giọt nước mắt đắng cay, tự thương cho thân mình, cũng như thương toàn thể nhân dân Việt Nam bị lừa gạt bởi một chính sách mị dân, dối trá.

Nhưng thời gian sau, trong những đêm khuya thanh vắng, thầm lặng bên khung cửa sổ, Diễm đẵm mình vào dòng suy tưởng đến nhân sinh, xã hội, đất nước. Khi niềm đau chung của dân tộc quá bao la to lớn, nỗi niềm ray rứt riêng tư của nàng dường như nguôi ngoai được phần nào. Lắng nghe từ nội tâm, Diễm cảm nhận được niềm thôi thúc mãnh liệt. Cảm giác thôi thúc đó càng lúc càng lớn dần chiếm hữu tâm tư nàng. Phải chăng tiếng gọi của non sông? Phải chăng tiếng thở dài của dân tộc? Tâm thức Việt Nam từ thuở Hồng Hoang dựng nước của cha ông, giờ đây nẩy nở trong tâm hồn nàng, kêu gọi, đánh thức khả năng phân tích nhận định của nàng về xu hướng phát triển của đất nước trong tương lai. Một đất nước làm sao có được thanh bình, thịnh vượng, đạo đức xã hội cao, khi những đứa trẻ ngây thơ trong trắng hôm nay, là rường cột của quốc gia mai sau, không được giáo dục các bài học yêu thương, mà chỉ nhồi nhét vào tâm hồn chúng thù hận ngút ngàn:

Giết, giết nữa bàn tay không phút nghỉ.

Cho ruộng đồng lúa tốt thuế mau xong.

Cho đảng bền lâu cùng rập bước chung lòng.

Thờ Mao Chủ Tịch, thờ Xít Ta Lin bất diệt.

(Thơ Tố Hữu)

Và:

Người đứng lên, một thân hình ngã gục.

Mắt người đưa, một thác máu rung rinh.

(Thơ Tố Hữu)

Người ta không dạy cho các em thượng tôn ý thức dân tộc, trao truyền cho thế hệ mai sau nền văn hoá bản địa (hoặc đã bản địa hoá lâu đời) và những tư tưởng nhân bản, từ bi, bác ái của tiền nhân Đại Việt, mà đầu độc các em bằng chủ nghĩa ngoại lai, bằng tư tưởng nô lệ quốc tế. Những danh từ “anh cả Liên Xô” hay “chị hiền Trung Quốc” đã cho con dân Việt Nam thấy sự quái thai của chính sách vọng ngoại kỳ quái. Thương thay cho mẹ hiền Việt Nam đã bị những đứa con bất hiếu, vong bản “trả ơn, báo hiếu” bằng những lời thơ nô dịch, mà từ cổ chí kim chưa bao giờ có:

Thương biết mấy khi con tập nói.

Tiếng đầu đời con gọi Stalin.

Hay là:

Thương cha, thương mẹ, thương chồng.

Thương mình thương một, thương ông (Stalin) thương mười”.

(Thơ Tố Hữu)

Một đất nước không thể phát triển đúng mức khi sơ yếu lý lịch không là khuôn vàng thước ngọc để đo đếm tài năng mà chỉ để phân biệt thù hay bạn. Chính sách “hồng hơn chuyên” hay “lý lịch trao quyền” đã đưa những kẻ vô tài, vô đức vào những địa vị quan trọng. Còn những người con ưu tú của dân tộc, nhưng nếu ông, cha họ khác chính kiến với chính quyền, thì chắc chắn không bao giờ ngóc đầu lên nổi.

Diễm hình dung guồng máy điều hành quốc gia như một cỗ xe. Cỗ xe ấy chỉ có thể vận hành, khi từng bộ phận được đặt đúng vị trí của nó. Không thể đặt chiếc bánh xe vào vị trí tay lái, và tay lái vào vị trí bánh xe. Không thể thay cái cuốc, cái cày vào bàn tay người cầm bút, và cũng không thể đặt bàn tay của người đồ tể giết heo vào cán cân công lý, hoặc bàn tay của một người chỉ có khả năng làm thơ tô hồng chế độ vào vị thế chỉ đạo kinh tế quốc dân. Nhưng hiện tại, cả miền Nam đều đảo ngược, bao nhiêu tài hoa trí thức bị đẩy vào lao tù, đi đày ở vùng kinh tế mới. Một sự phí phạm, lãng phí tiềm năng chất xám không thể nghĩ bàn!

Rồi Diễm lại nghĩ đến Liễn. Giờ này ở Lào Cai rừng thiêng nước độc, chắc chàng đang đói rét, cực khổ trăm bề, mạng sống thật mong manh, ngày về diệu vợi. Chàng tội gì nhỉ? Diễm tự hỏi. Từng sống bên chàng và là tri kỷ của chàng, Diễm thấy rõ cái chính nghĩa nơi chàng. Một người yêu nước, trong sạch, thanh liêm. Chàng vượt lên trên mọi quyến rũ của vật chất tầm thường, để sống cuộc đời thanh đạm, ôm hoài bão phụng sự một đất nước tự do, dân chủ thật sự. Chàng khẳng định rằng những thế lực quốc tế chắc chắn chẳng thương yêu gì dân tộc, đất nước Việt Nam.

Nhiều lần, chàng tâm sự với Diễm: “Đất nước ta chưa độc lập, luôn nằm trong sự tranh chấp của hai phe, ba phái. Những người yêu nước chân chính, không Cộng sản, không Tư bản, chưa có chỗ đứng trên đất nước này, em ạ”.

Càng nghĩ, Diễm càng thấy thương chàng, kính chàng. Diễm cũng nghĩ đến mẹ con Thịnh. Họ đều là những nạn nhân của thời cuộc. Họ tội tình gì, mà phải chịu đựng bao điều đau khổ, con thiếu cha, vợ thiếu chồng? Rồi Diễm thương luôn cả mẹ con Thịnh. Nghĩ như vậy, Diễm dẹp tình riêng, quên đi niềm đau để nghĩ đến những điều cao cả, to tát hơn là những tình cảm vụn vặt đời thường. Diễm quyết chờ Liễn về, không phải để “trả lại chồng cho người ta, rồi bỏ đi” vì như thế Liễn sẽ đau lòng không ít, mà Diễm sẽ cùng chàng, sát cánh bên chàng để thực hiện những ước mơ, hoài bão mà cả hai hằng ấp ủ. “Sát cánh bên chàng” tức là đồng nghĩa với sự chấp nhận cuộc sống chung và sự hiện diện của mẹ con Thịnh. Và như thế, sự chờ đợi của nàng, cuối cùng, chỉ còn… nửa ông chồng! Nhưng mà, “chết cho tri kỷ còn không đáng tiếc”, sá gì hy sinh một nửa ông chồng?!

Tự tìm ra được lối thoát hợp lý giải quyết vấn đề nội tâm, ổn định nội bộ gia đình, Diễm thấy lòng nhẹ nhàng, thanh thản. Nàng không xem chuyện rắc rối vợ nọ, con kia giữa Liễn và nàng là điều quan trọng nữa. Chấp nhận sống chung trong tình thương yêu chân thành sẽ là nhịp cầu thông cảm để mọi người xích lại gần nhau, cùng xây dựng mái ấm gia đình.

Nhưng, Diễm lầm. Hạnh phúc không thể xây dựng từ một phía, mà đòi hỏi sự đồng lòng, thiện chí quyết thực hiện từ hai bên. Cho nên, một ngày, khi mẹ Thịnh vào Nam thăm cụ Định và nàng, mặc dù Diễm đã đối xử với… bà vô cùng thân thiện, trân trọng, chân tình, song nhìn Diễm tươi trẻ, gần gũi, mẹ Thịnh lại có suy nghĩ khác. Bà nói:

-Tôi hết sức ngạc nhiên. Cô trẻ thế, anh Liễn thì già thế, thế mà lấy nhau được? Chắc cô nhí nha, nhí nhảnh… quyến rũ anh Liễn chứ gì?

Diễm đã tròn xoe mắt ngạc nhiên, không nói nên lời. Nàng nhìn sững mẹ Thịnh, người đàn bà đáng thương, đáng tuổi mẹ nàng. Chiến tranh đã cướp của bà trọn tuổi thanh xuân. Phong kiến và cộng sản đã tạo nên bà thành người cam phận trước số mạng, chấp nhận nó một cách đương nhiên không hề biết hay có biết nhưng ý chí và sức phấn đấu đã bị thui chột, tê liệt trước sự tàn bạo của cuộc đời. Như Thịnh, con bà, Thịnh giống mẹ nhiều hơn giống Liễn. Giống mẹ từ hình hài lẫn suy nghĩ. Ngày Thịnh vào Nam, khi chuyện trò, Diễm có nói với Thịnh: “Con trai lấy sự nghiệp làm chính. Thành phần chúng ta không thể ngoi đầu trong xã hội này. Thịnh ở lại trong Nam cùng tôi tìm cách vượt biên. Sau này, Thịnh bảo lãnh cho mẹ Thịnh, còn tôi bảo lãnh cho Liễn.” Nhưng sau khi trở về Bắc, Diễm không ngờ, vài tháng sau, Thịnh lập gia đình khi sự nghiệp chỉ trơ hai bàn tay trắng. Diễm đã hoàn toàn thất vọng về Thịnh, và bây giờ thất vọng thêm về mẹ Thịnh. Nhưng Diễm hoàn toàn không trách bà, trách Thịnh. Nàng chỉ buồn thôi, buồn riêng số phận mình.

Diễm sa sầm nét mặt, cảm nhận điều gì đó đang đổ vỡ trong lòng. Nàng buồn rười rượi, lặng thinh, bâng quơ nhìn nắng lung linh rực sáng ngoài hiên cửa, song lòng nàng ảm đạm, héo hắt tựa mùa Đông.

-Chắc cô ham công danh, địa vị, xúi anh Liễn đi lính để anh bị tù tội ngày hôm nay? Mẹ Thịnh giáng thêm câu kế tiếp.

Diễm vẫn không trả lời. Nàng đứng dậy, thất vọng, lẳng lặng đi xuống bếp.

Kể từ hôm đó, không khí trong nhà trở nên nặng nề ngột ngạt. Diễm biếng nói, biếng cười. Lòng héo úa, cô đơn như bãi sa mạc quạnh hiu. Hằng ngày, vẫn bổn phận thường nhật, Diễm lo cơm nước cho gia đình. Dạo này, bà con họ hàng, con cháu cụ Định ngoài Bắc liên tục vào Nam. Kinh tế gia đình vốn đã khó khăn càng thêm kiệt quệ. Những món tiền bố mẹ Diễm thỉnh thoảng tiếp tế, những đồ đạc, nữ trang trong ngày cưới thi nhau ra chợ trời, Diễm cũng tập tành bươn chải tìm kế sinh nhai, cụ Định vay nợ để chi phí trong nhà càng lúc càng chồng chất, mặc dù chỉ khi riêng cụ Định và Diễm, những bữa ăn đạm bạc vỏn vẹn một đĩa rau luộc vẫn không đủ trang trải tiền thăm nuôi, tiếp tế Liễn và nhất là quà cáp, tàu xe cho con cháu cụ Định.

Trước cuộc sống bế tắc, chế độ khắc nghiệt, tương lai mịt mờ, bao khổ lụy từ vật chất lẫn tinh thần dồn dập, ý tưởng vượt biển tìm tự do lại nung nấu trong lòng Diễm.

Một lần nấu cơm, ngồi quạt những viên than đá trong lò, khói đen mù mịt, trong nỗi chán chường dâng đầy, Diễm bật thốt:

-Ở đây, khó sống quá. Chắc phải vượt biên thôi!

Câu nói trống không, vô thưởng, vô phạt lại có tác dụng mạnh mẽ trong suy nghĩ của mẹ Thịnh. Bà đùng đùng nổi giận, gắt lớn:

-Cô có đi vượt biên thì nên đi một mình. Tôi không giữ anh Liễn cho tôi, nhưng anh ấy phải ở lại để có trách nhiệm với con anh ấy.

Diễm lại tròn xoe mắt ngạc nhiên, nhìn thẳng vào đôi mắt mẹ Thịnh rồi nhẹ nhàng gật đầu:

-Được, chị an tâm. Tôi sẽ đi một mình!

***

Diễm đã đi một mình vào giữa năm 1981. Hành trang nàng mang theo vỏn vẹn chiếc nhẫn cưới vàng tây mỏng mảnh, sợi dây chuyền tượng Phật, cũng vàng tây, ngày bé, mẹ đã đeo cho nàng và tập tiểu thuyết viết tay Diễm tập viết từ những ngày cô đơn, đau khổ. Diễm viết về chính cuộc đời nàng, về xã hội đương thời đầy rẫy những bất công, lọc lừa, áp bức mà nàng cũng như bao người phải cam chịu “có tai như điếc, có mắt như mù, có miệng như câm”. Viết, đối với Diễm bấy giờ vừa là phương cách giải tỏa những u uẩn nội tâm, là sự phản kháng nhẹ nhàng, trút bao uất hờn chất chứa trong lòng, vừa đánh dấu một giai đoạn của thời cuộc mà chính nàng là nhân chứng lẫn nạn nhân.

Diễm chép làm hai bản. Một bản mang theo, một bản giấu ở nhà phòng chuyến đi thất bại.

Ngày ra đi, ngoài cụ Định, nàng không hề tạ từ cha mẹ và anh chị em ruột. Diễm âm thầm theo người chủ tàu, “phu nhân” của một đại tá tình báo Việt Nam Cộng Hoà (chồng đang tù cải tạo) từng đi lại quen biết với gia đình cụ Định, đứng ra tổ chức. Người phụ nữ đó, cũng như Diễm, trưởng thành mau trước sóng gió và những nỗi gian truân của cuộc sống. Bà giúp Diễm một chỗ với sự đóng góp tượng trưng cùng lời nhắn nhủ Diễm: “Ra đi để làm lại cuộc đời!”

Chuyến vượt biên đổ người vào nửa đêm về sáng khi những công an biên phòng lơ là canh gác. Bà chủ tàu lay Diễm dậy giữa khi nàng đang trăn trở với trăm mối ngổn ngang. Nửa muốn ra đi, nửa bịn rịn quê cha đất tổ với bao người thân còn kẹt lại và bao kỷ niệm êm đềm lẫn đau thương nơi quê nhà. Ra đi, không biết bao giờ trở lại, có hy vọng gặp lại người thân hay vĩnh viễn rời xa. Diễm tự hỏi rồi bồi hồi xúc động khi nàng nghĩ đến Liễn, đến hình hài tiều tụy mà những lần thăm nuôi tiếp tế vẫn không thay đổi khá hơn. Nàng thầm nói với chàng: “Anh Liễn ơi, đêm nay em xuống tàu vượt biên, em không biết nên nói với anh lời tạm biệt hay vĩnh biệt. Gia đình không dung chứa em. Tổ quốc cũng không đón nhận em. Không cho em một chỗ đứng dù khiêm nhường nhất. Sáu năm qua, chịu đựng và cố gắng phấn đấu với đời, em không còn đủ sức chống chọi nổi. Em đầu hàng số mạng, tự thả đời em trôi theo dòng sống. Hãy hiểu em, đừng trách em, anh nhé.” Nói rồi, Diễm đưa tay lau nhẹ những giọt nước mắt vừa trào ra, lò dò ngồi dậy, lầm lũi theo bà chủ tàu ra bến. Diễm từ biệt bà, xuống ghe. Còn bà ở lại chờ chồng và chuẩn bị những chuyến vượt biên kế tiếp.

Đêm đó, tàu ra khơi. Tàu dần dần rời xa đất tổ. Con thuyền lướt sóng, lặng lẽ như chiếc lá con giữa biển khơi, bỏ lại sau lưng quê hương, bố mẹ già, anh chị em, cụ bố chồng và… người chồng yêu dấu!


 

GIỮ CHO NÓ NỒNG NÀN – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

 (Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

“Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng”.

“Hãy để cuộc sống bạn toả sáng, không phải với những ánh chớp mà là với ngọn lửa nồng nàn! Chúa thích các vì sao hơn sao chổi, Ngài thích ngọn nến giữ cho lửa nồng nàn hơn là một pháo sáng!” – Vance Havner.

Kính thưa Anh Chị em,

Tin Mừng hôm nay chứng tỏ “Chúa thích ngọn nến nồng nàn hơn là một pháo sáng!”. Tóm tắt các sự kiện phục sinh của Chúa Giêsu, Marcô tiếp tục gay gắt, “Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng”. Tất nhiên, không chỉ lửa trong tim các tông đồ, nhưng còn là lửa trong bạn và tôi, làm sao ‘giữ cho nó nồng nàn!’.

Dù được báo trước về cuộc khổ nạn và sự phục sinh của Thầy, các tông đồ vẫn không tin Chúa Giêsu sống lại; hoặc có tin, cũng chỉ nửa vời! Maria, một nhân chứng rất đáng tin; hai môn đệ Emmaus hầu chắc đã nói tất cả sự thật. Phải chăng những gì xảy ra chiều thứ Sáu đã ‘bỏ tù’ các ông? Chúa Phục Sinh không cho phép điều đó. Ngài không muốn một ai để mình phải co cụm, sợ hãi; không cho phép một ai ‘tập làm quen’ với những giọt nước mắt của mình. Đúng hơn, Ngài muốn chúng ta gạt bỏ những oán hận và đau đớn của quá khứ để nhìn về tương lai – phía mặt trời mọc – tiến thẳng đến đó để nhận ra Ngài là ‘Vầng Dương’ rạng rỡ, xua tan bóng tối và sự chết; bởi lẽ, Ngài đã chiến thắng!

“Trong thời đại ngày nay, việc dạy giáo lý kém hoặc không còn tồn tại, một nền văn hoá thế tục tràn lan, sự thù nghịch đối với Công Giáo, tổn thương, mất mát, tai tiếng do tội lỗi của các tín hữu hoặc tội lỗi của mình… chính những điều đó có thể làm vẩn đục trí tuệ con người và cả chúng ta, khiến chúng ta mất đức tin. Đức tin như ngọn lửa trong tim mà mỗi người cần trau dồi trong cuộc sống bằng cách ‘giữ cho nó nồng nàn!’” – Bonagura.

Quà tặng đức tin chỉ như ngọn lửa nhỏ mà chúng ta thường bất cẩn ‘chường ra trước gió’ khiến nó bị dập tắt trước khi kịp bùng lên. Mục tiêu của việc theo Chúa là để lửa ấy rực cháy. Và nó có thể! Bạn có thể để nó cháy rực đến mức không gì có thể dập tắt. Điều cần nhớ, Chúa Giêsu tiếp tục đi về phía chúng ta cho đến khi chúng ta mở mắt! Các tông đồ – từng từ chối tin – đã ‘mở mắt’, công bố sự Phục Sinh của Thầy với một lòng tin sắt đá, “Những gì tai đã nghe, mắt đã thấy, chúng tôi không thể không nói ra!” – bài đọc một.

Anh Chị em,

“Chúa thích ngọn nến nồng nàn hơn là một pháo sáng!”. Cách thức gìn giữ ánh nến bên trong liên quan đến cách thức chúng ta chăm sóc tia lửa vốn đã có ở đó, bắt đầu bằng các việc làm tốt lành. Tại một đại học Ba Lan, một bạn trẻ hỏi Đức Phanxicô, “Trường con có nhiều bạn vô thần, con sẽ nói gì để thuyết phục họ?”. Ngài trả lời, “Con chỉ nói một điều gì đó thôi sao? Không! Con hãy bắt đầu sống và họ sẽ hỏi con, ‘Tại sao bạn sống như vậy?’”. Đừng để mình bị đánh lừa bởi những tia chớp; hãy tập trung cao độ vào ngọn lửa bên trong bằng cầu nguyện, phục vụ. Nó sẽ bùng cháy, rồi bạn và tôi sẽ cảm nhận sự diệu kỳ của ơn thánh, “Lạy Chúa, con xin tạ ơn Ngài vì đã đáp lời con!” – Thánh Vịnh đáp ca.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, con sẽ bắt đầu với những hành vi yêu thương cỏn con nhất và lửa tim con sẽ mãi nồng nàn!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

From: KimBang Nguyen

********************************************

Thứ Bảy trong tuần Bát Nhật Phục Sinh

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mác-cô.

9 Sau khi sống lại vào lúc tảng sáng ngày thứ nhất trong tuần, Đức Giê-su hiện ra trước tiên với bà Ma-ri-a Mác-đa-la, là kẻ đã được Người trừ cho khỏi bảy quỷ. 10 Bà đi báo tin cho những kẻ đã từng sống với Người mà nay đang buồn bã khóc lóc. 11 Nghe bà nói Người đang sống và bà đã thấy Người, các ông vẫn không tin.

12 Sau đó, Người tỏ mình ra dưới một hình dạng khác cho hai người trong nhóm các ông, khi họ đang trên đường đi về quê. 13 Họ trở về báo tin cho các ông khác, nhưng các ông ấy cũng không tin hai người này.

 14 Sau cùng, Người tỏ mình ra cho chính Nhóm Mười Một đang khi các ông dùng bữa. Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người sau khi Người trỗi dậy. 15 Người nói với các ông: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo.”


 

Người bảo các ông: “Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá.”- Cha Vương

Alleluia! Xin Chúa Phục sinh luôn ở với bạn trong mọi xao xuyến cuộc đời nhé.

Cha Vương

Thứ 6, BNPS: 25/4/2025

TIN MỪNG: Người bảo các ông: “Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá.” Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá. (Ga 21:6)

SUY NIỆM: Có bao giờ bạn cảm thấy Chúa đang bỏ quên, đang im lặng lánh mặt làm ngơ trước những lời cầu nguyện khẩn thiết của bạn chưa? Có lẽ đây cũng là tâm trạng của Phê-rô và các môn đệ. Bạn hãy nhớ rằng, trong mọi biến cố của cuộc đời, Thiên Chúa hằng lắng nghe lời cầu nguyện của bạn và can thiệp một cách kỳ diệu. Có thể bạn không nhận ra việc tay Chúa làm ngay bây giờ nhưng nếu bạn kiên nhẫn chịu đựng thêm một tí nữa thì bạn sẽ thấy việc Chúa làm rất là tinh vi và kỳ diệu ngoài sức tưởng tượng của con người. Điển hình như mảnh lưới đầy cá trong bài Tin Mừng hôm nay. Có lẽ bạn không nhận được những lời bạn ao ước van xin nhưng Chúa lại dùng cơ hội đó để mời gọi bạn làm những việc khác đẹp lòng Chúa hơn, hữu ích cho chính mình và cho những người chung quanh hơn. Do đó, thay vì bực bội, bạn hãy kiên nhẫn bình thản đặt mình vào sự quan phòng của Chúa, hãy hình dung rằng Chúa là người tài xế U-bờ giỏi sẽ đưa bạn tới đích. Đừng cho mình là người chỉ đạo “backseat driver” trong chuyến đi nhé. Nếu Chúa không kiên nhẫn với bạn thì bạn sẽ ra thế nào nhỉ? Bạn nên nhớ rằng Chúa kiên nhẫn chịu đựng là để giải thoát chứ không phải để dung túng và để bạn muốn làm gì thì làm. Ngài sẽ đưa bạn đến bến bình an. Cứ yên tâm và vững tin!

LẮNG NGHE: Lạy Chúa Tể càn khôn là Đức Vua, là Thiên Chúa con thờ, ngay chim sẻ còn tìm được mái ấm, cánh nhạn kia cũng làm tổ đặt con bên bàn thờ của Chúa! (Tv 84:4)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa Giê-su Phục sinh, xin ban cho con sự kiên nhẫn chịu đựng của Chúa để con lớn lên trong sự kiên nhẫn, trong niềm hy vọng và trong tình thương mến. 

THỰC HÀNH: Tập vui vẻ nói lời “xin vâng” trong mọi hoàn cảnh .

From: Do Dzung

**************************

VÂNG LỜI THẦY CON THẢ LƯỚI – Lm. Thiên Ân ll Gia Ân – Thanh Sử – Trần Ngọc 

Bộ Trưởng Ngoại Giao Nga Larov xác nhận đang tiến gần đến thỏa thuận hòa bình cho Ukraine

Theo các báo Hoa Kỳ

Theo trích đoạn trong cuộc phỏng vấn với CBS News, Bộ trưởng Ngoại giao Nga Sergei Lavrov hôm thứ Năm đã đồng tình với khẳng định của Tổng thống Trump rằng các cuộc đàm phán chấm dứt chiến tranh với Ukraine đang “đi đúng hướng”.

Tại sao điều này quan trọng: Bình luận của Lavrov được đưa ra vài giờ sau khi Trump đưa ra lời chỉ trích hiếm hoi đối với Tổng thống Nga Vladimir Putin sau khi lực lượng Nga tiến hành một cuộc tấn công bằng tên lửa và máy bay không người lái chết người vào Kyiv vào đêm qua.

Nhà ngoại giao hàng đầu của Nga Lavrov cho biết Điện Kremlin “sẵn sàng đạt được thỏa thuận” để chấm dứt chiến tranh Ukraine

Ảnh chụp màn hình: Tổng thống Trump /X/Truth Social

Họ đang nói gì: Trong chương trình “Face the Nation” của CBS phát sóng toàn bộ vào Chủ Nhật, Lavrov lưu ý rằng Trump đã đề cập đến một thỏa thuận “và chúng tôi sẵn sàng đạt được thỏa thuận”.

Nhưng ông nói thêm: “Vẫn còn một số điểm cụ thể của thỏa thuận này cần được điều chỉnh và chúng tôi đang bận rộn với quá trình này”.


 

Kỹ Thuật cuối tuần: Máy bay siêu vượt thanh MD 19 của Trung Cộng mở ra kỷ nguyên mới cho drone

Tổng hợp báo chí Hoa Kỳ

MD-19  của Tàu có thể trở thành nền tảng thử nghiệm cho một loạt các cải tiến công nghệ mới vào thời điểm mà người Mỹ vẫn đang vật lộn để đưa ngay cả những vũ khí siêu thanh thô sơ vào kho vũ khí của mình.

Là một loại máy bay không người lái nhỏ gọn có khả năng đạt tốc độ trên Mach 7, MD-19 đại diện cho một cột mốc quan trọng trong lãnh vực bay siêu thanh, và đã tạo nên làn sóng chấn động lan tỏa khắp trên toàn cầu, đặc biệt là khiến Lầu Năm Góc phải báo động. Hệ thống này có thể bay với tốc độ vượt quá 3.800 dặm một giờ, trong khi vẫn duy trì khả năng giảm tốc, chuyển sang tốc độ dưới tốc độ của âm thanh và hạ cánh theo chiều ngang trên các đường băng tiêu chuẩn.

Máy bay không người lái siêu thanh MD-19 mới của Trung Quốc là cơn ác mộng đối với phòng không Hoa Kỳ

China’s New MD-19 Hypersonic Drone is a Nightmare for U.S. Air Defense

MD-19 là một thành tựu kỹ thuật quan trọng, vì việc chuyển đổi từ bay siêu thanh sang bay dưới thanh đòi hỏi hệ thống điều khiển bay tiên tiến, khí động học thích ứng và vật liệu có khả năng chịu được ứng suất nhiệt và cơ học khắc nghiệt. 

Thân máy bay không người lái hình nêm, cánh delta và đuôi thẳng đứng nghiêng giúp giảm lực cản và tăng cường độ ổn định ở tốc độ cao, trong khi động cơ của nó (có lẽ là động cơ tên lửa) cung cấp lực đẩy cần thiết để di chuyển ở tốc độ siêu thanh. Tất nhiên, một động cơ như vậy có thể hạn chế độ bền của máy bay không người lái, đặc biệt là khi so sánh với các phương án thay thế chạy bằng scramjet của các đối thủ siêu thanh khác

Trong quá trình chế tạo máy bay không người lái, Viện Cơ học thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc và Viện Nghiên cứu Khí động học Quảng Đông – hai đơn vị phát triển chính – đã dựa trên nhiều năm nghiên cứu, bao gồm các cuộc thử nghiệm đường hầm gió siêu thanh JF-12 , một trong những cơ sở tiên tiến nhất thế giới để mô phỏng chuyến bay tốc độ cao. 

Một tính năng chính của MD-19 là tích hợp trí tuệ nhân tạo (AI) tiên tiến mô phỏng các quá trình ra quyết định tự nhiên. Tính năng tự động do AI điều khiển này cho phép máy bay không người lái điều hướng các đường bay phức tạp, khiến nó trở thành một công cụ thay đổi cuộc chơi tiềm năng trong các hệ thống không người lái. 

Với một máy bay không người lái siêu thanh trong kho vũ khí của họ, và tiềm năng sản xuất hàng loạt các hệ thống này như xúc xích, Trung Quốc đã giành được một chiến thắng thực sự trước Hoa Kỳ. MD-19 có thể được trang bị đầu đạn thông thường, nhưng có khả năng mang đầu đạn hạt nhân—hoặc ít nhất là có thể dễ dàng được chế tạo để có khả năng mang đầu đạn hạt nhân) 

Khả năng di chuyển với tốc độ Mach 7 trên quãng đường dài, cùng với khả năng cơ động linh hoạt – được khuếch đại bởi tuyên bố rằng nó có hệ thống AI tiên tiến để điều khiển – sẽ chứng tỏ là thách thức đối với hệ thống phòng không hiện tại của Hoa Kỳ. 

Máy bay không người lái siêu thanh là mối đe dọa thực sự đối với nước Mỹ 

Trung Cộng đã tuyên truyền và khoe khoang khi nói đến năng lực công nghệ của họ, và không phải tất cả đều đáng tin. Tuy nhiên, về khả năng quân sự, họ vẫn không nên bị đánh giá thấp.

Trong các lĩnh vực như công nghệ siêu thanh, trí tuệ nhân tạo và máy bay không người lái, Bắc Kinh đã chứng tỏ mình là một đối thủ đáng gờm. 

Nếu chiến tranh nổ ra, máy bay không người lái siêu thanh MD-19 của Trung Quốc sẽ là vấn đề đáng kể đối với lực lượng Hoa Kỳ—và thậm chí có thể là mối đe dọa đối với đất nước Hoa Kỳ.

Chị và cháu tôi đã ra đi mãi mãi vào ngày 21/04/2025 tại Bệnh viện II Lâm Đồng.

Đinh Hữu Thoại 

Hai mẹ con sản phụ tại thôn Tân Hoá 1, Lộc Nga, Bảo Lộc, Lâm Đồng tử vong: thông tin từ Bệnh viện II Lâm Đồng (link trong bài) và từ người nhà nạn nhân.

“Hiện, các cơ quan chức năng đang điều tra, xác minh làm rõ nguyên nhân tử vong của mẹ con sản phụ H.”

———-

Chị và cháu tôi đã ra đi mãi mãi vào ngày 21/04/2025 tại Bệnh viện II Lâm Đồng.

Không có sự công bằng nào có thể đổi lại hai sinh mạng ấy, nhưng gia đình chúng tôi cần một điều duy nhất: Sự minh bạch! Chúng ta ở 1 thành phố đẹp nhưng cũng cần ở 1 thành phố văn minh, nơi có đội y tế lành nghề và những trái tim nhân đức!

  • Chị tôi – sản phụ Bùi Thị H. – đã đến Bệnh viện II Lâm Đồng vào khoảng 7h sáng, trong tình trạng đau bụng liên tục, sốt cao 38.7°C, kèm ói và chảy máu. Tuy nhiên, theo hồ sơ của bệnh viện, mãi đến 10h sáng chị tôi mới được “nhập viện chính thức”. (thông tin bệnh viện 10h nhập viện theo link báo đính kèm:

https://baolamdong.vn/…/benh-vien-ii-lam-dong-thong…/…)

=> Tại sao lại có khoảng cách tới 3 tiếng đồng hồ như vậy trong khi đây là một bệnh viện tuyến tỉnh, lượng bệnh nhân không đông? Và trong thời gian đó, người nhà chúng tôi nhận thấy không có bác sĩ nào tiếp nhận ca trực, chỉ có sự thờ ơ của một vài nhân viên y tế, cho rằng “thai phụ nào cũng đau như thế cả thôi” ?!!

  • Khoảng trưa ngày hôm đó, khi tình trạng chị tôi đã nguy kịch, chị mới được đưa vào mổ. Sau khi kết thúc ca mổ, gia đình chúng tôi nhận thông tin em bé đã mất. Người mẹ được đưa vào hồi sức trong tình trạng sức khỏe yếu, nhưng ở thời điểm đó chúng tôi vẫn tiếp tục không nhận thấy sự theo dõi, chăm sóc cho chị. Mà đáng lẽ ở thời điểm hậu phẫu sau sinh của 1 thai phụ vừa mất con, chính là thời điểm nguy hiểm nhất và lẽ ra phải được theo dõi đặc biệt?!

Tình trạng của thai phụ ngày càng chuyển biến xấu, nhưng gia đình chúng tôi vẫn nhận được sự từ chối và trấn an rằng bệnh viện vẫn có khả năng cứu sống bệnh nhận.

Tới tận 18h cùng ngày, tức hơn 8 tiếng sau mổ, chị tôi mới được làm thủ tục chuyển viện lên TP.HCM. Nhưng không còn kịp nữa… Trên đường đi, chị tôi qua đời tại Bệnh viện huyện Định Quán.

Chị tôi – và cháu tôi – không chết vì “rủi ro y khoa”. Họ chết vì sự chậm trễ, thờ ơ, thiếu đạo đức, thiếu chuyên môn của đội ngũ được gọi là bác sĩ, y tá tại Bệnh viện II Lâm Đồng.

Chúng tôi quá đau đớn, bàng hoàng, phẫn nộ trước sự mất mát to lớn của 2 sinh mạng quý giá này – vì mọi thứ đáng ra đã có thể được ngăn chặn!

Chúng tôi viết những dòng này để cảnh báo, để thức tỉnh, để đòi lại sự thật cho người đã khuất – và để bảo vệ những thai phụ khác, những đứa trẻ khác. Hãy hành động trước khi con cháu bạn có thể trở thành nạn nhân tiếp theo!

Gia đình chúng tôi đã quá đau lòng về sự ra đi quá sức bàng hoàng của chị và cháu tôi, không muốn nhắc tới và cũng chấp nhận sự thật là chị và cháu đã mất thật rồi, nhưng bên bệnh viện lại có những bài báo viết sai sự thật, khi người nhà chúng tôi lên tiếng thì bị block và không được bình luận, tới mức này rồi chúng tôi không thể im lặng được nữa, xin hãy làm việc đúng lương tâm và đưa ra những thông tin thật đúng đắn!

Nguồn: Loan Kim

VƯỢT QUÁ TƯỞNG TƯỢNG – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế 

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế 

“Đến mà ăn!”.

“Điểm phân biệt lớn nhất về sự toàn năng của Thiên Chúa, là khi nghĩ về nó, trí tưởng tượng của con người triệt tiêu! Ngài luôn nhiều hơn những gì có thể tưởng tượng, luôn vượt quá tưởng tượng!” – Pascal.

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa hôm nay chứng tỏ rằng, với Chúa Phục Sinh, mọi sự có thể bắt đầu lại, có thể phục hồi – kể cả những đổ vỡ, phản bội. Ngài có khả năng làm mới lại mọi sự, và những gì Ngài làm sẽ ‘vượt quá tưởng tượng!’.

Với tâm trạng thất bại, người ta thường có xu hướng trở lại nếp cũ hầu khôi phục sự tự tin và giá trị bản thân. Với Phêrô, nếp cũ là đánh cá; vì vậy ông ra biển, rủ các bạn cùng đi. Là những người cảm thấy cũng có lỗi với Thầy nên họ dễ dàng nhập cuộc với Phêrô. Vậy mà nhóm bạn chài đáng thương ấy thật may mắn, Thầy Giêsu đi tìm họ, Ngài sẽ băng bó và chữa lành những trái tim thương tổn của họ, dẫu họ không nhận ra Thầy.

Chúa Giêsu hiện ra – nơi lần đầu tiên Ngài gọi họ – bảo họ buông chài ‘bên phải’ mạn thuyền và họ bắt được rất nhiều cá. Mẻ cá mang tính biểu tượng cao! Biểu tượng trọng tâm là Chúa Phục Sinh đang ở với họ giữa những thất bại, ‘nếp cũ’. Và nếu họ tự nỗ lực để làm điều này, họ sẽ trắng tay; nhưng làm theo ‘cách mới’, tức là theo lệnh, theo cách, ‘trong thời gian của Ngài’, nỗ lực của họ sẽ mang lại thành quả ‘vượt quá tưởng tượng!’.

Chưa hết, “Bước lên bờ, các ông thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa”. Với Phêrô, lại là một biểu tượng! Ánh lửa của đêm nào sống lại trong ông, lửa phản bội, lửa chối Thầy; nhưng nay, lửa xót thương, lửa tha thứ! Trong đêm đó, ông đã nói, “Tôi không biết người ấy!”; nhưng giờ đây, cũng bên bếp lửa hồng, ‘Người Ấy’ lại nói “Đến mà ăn!”. Quá đỗi thâm trầm, ‘vượt quá tưởng tượng’; bởi lẽ, nó gợi lên những lời của đêm Tiệc Ly, lời từ các phép lạ bánh cá hoá nhiều, lời của những bữa ăn thắm tình Thầy, đượm tình trò.

Với Chúa Phục Sinh, mọi sự có thể bắt đầu lại, có thể phục hồi – kể cả những đổ vỡ, phản bội. Trước thượng hội đồng, Phêrô – người chối Thầy – chẳng hề sợ hãi, “Đấng quý vị đã đóng đinh vào thập giá, Thiên Chúa đã làm cho trỗi dậy từ cõi chết, chính nhờ Đấng ấy mà người này được lành mạnh ra đứng trước mặt quý vị. Đấng ấy là tảng đá mà quý vị là thợ xây loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường!” – bài đọc một và Thánh Vịnh đáp ca. 

Anh chị em,

“Đến mà ăn!”. “Sự hiện diện của Chúa Phục Sinh biến đổi mọi sự: bóng tối trở thành ánh sáng, công việc phù phiếm trổ sinh hoa trái và đầy hứa hẹn, cảm giác mệt mỏi và bị bỏ rơi nhường chỗ cho một động lực mới và niềm tin chắc rằng, Chúa ở cùng chúng ta!”; “Khi lưới của chúng ta trống rỗng trong cuộc sống, thì đó không phải là lúc để cảm thấy thương hại cho bản thân, để quên đi mọi thứ, để quay lại với những trò tiêu khiển cũ. Nhưng đã đến lúc bắt đầu lại với Chúa Giêsu, đã đến lúc tìm lại lòng can đảm để bắt đầu lại, đã đến lúc ra khơi một lần nữa với Ngài!” – Phanxicô.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, cho con hiểu rằng, ân sủng phục sinh không chỉ kết thúc với việc con được tha thứ; hồi kết của nó ‘vượt quá tưởng tượng’ – con được biến đổi!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế) 

**********************************

Thứ Sáu trong tuần Bát Nhật Phục Sinh

Đức Giê-su đến, cầm lấy bánh trao cho môn đệ ; rồi cá, Người cũng làm như vậy.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.  Ga 21,1-14

1 Khi ấy, Đức Giê-su lại tỏ mình ra cho các môn đệ ở Biển Hồ Ti-bê-ri-a. Người tỏ mình ra như thế này. 2 Ông Si-môn Phê-rô, ông Tô-ma gọi là Đi-đy-mô, ông Na-tha-na-en người Ca-na miền Ga-li-lê, các người con ông Dê-bê-đê và hai môn đệ khác nữa, tất cả đang ở với nhau. 3 Ông Si-môn Phê-rô nói với các ông : “Tôi đi đánh cá đây.” Các ông đáp : “Chúng tôi cùng đi với anh.” Rồi mọi người ra đi, lên thuyền, nhưng đêm ấy họ không bắt được gì cả.

4 Khi trời đã sáng, Đức Giê-su đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là Đức Giê-su. 5 Người nói với các ông : “Này các chú, không có gì ăn ư ?” Các ông trả lời : “Thưa không.” 6 Người bảo các ông : “Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá.” Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá. 7 Người môn đệ được Đức Giê-su thương mến nói với ông Phê-rô : “Chúa đó !” Vừa nghe nói “Chúa đó !”, ông Si-môn Phê-rô vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển. 8 Các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ kéo theo lưới đầy cá, vì các ông không xa bờ lắm, chỉ cách vào khoảng gần một trăm thước.

9 Bước lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa. 10 Đức Giê-su bảo các ông : “Đem ít cá mới bắt được tới đây !” 11 Ông Si-môn Phê-rô lên thuyền, rồi kéo lưới vào bờ. Lưới đầy những cá lớn, đếm được một trăm năm mươi ba con. Cá nhiều như vậy mà lưới không bị rách. 12 Đức Giê-su nói : “Anh em đến mà ăn !” Không ai trong các môn đệ dám hỏi “Ông là ai ?”, vì các ông biết rằng đó là Chúa. 13 Đức Giê-su đến, cầm lấy bánh trao cho các ông ; rồi cá, Người cũng làm như vậy. 14 Đó là lần thứ ba Đức Giê-su tỏ mình ra cho các môn đệ, sau khi trỗi dậy từ cõi chết.


 

TỐT NHẤT KHÔNG BẰNG PHÙ HỢP

Có những chiếc áo rất đẹp, nhưng mặc không vừa.

Có những đôi giày rất đẹp, nhưng khiến chân đau.

Có những giấc mơ rất đẹp, nhưng không thực tế.

Có những con người rất đẹp, nhưng không bao giờ thuộc về mình.

Trong tình cảm, không có xứng hay không xứng, chỉ có yêu hay không yêu.

Trong nhân sinh, không có dở nhất hoặc tốt nhất, chỉ có những lựa chọn vừa vặn và phù hợp với mình.

Vốn dĩ là của mình, không tranh không giành vẫn sẽ là của mình.

Vốn dĩ không phải của mình, trầy da tróc vẩy giành giật cũng chỉ nhận về một nắm hư không.

Lúc nào nên buông thì hãy buông, giữ lại cho bản thân một chút tôn nghiêm cuối cùng.

Buông xuống, mới có thể cầm lên.

Chấp nhận, mới có thể an ổn.

Mở lòng, mới có thể hạnh phúc.

From: ngocnga_12 & NguyenNThu