VinFast Lỗ Nặng, Phạm Nhật Vượng Thừa Nhận “Sai Lầm Mỹ Du”

Ba’o Dat Viet

April 26, 2025

Sau những tuyên bố hào nhoáng về việc “chinh phục toàn cầu,” nay tỷ phú Phạm Nhật Vượng buộc phải thừa nhận rằng việc đưa VinFast vào thị trường Mỹ chỉ mang về một cú lỗ khổng lồ.

Tại phiên họp cổ đông Vingroup hôm 24 Tháng Tư ở Hà Nội, ông Vượng thẳng thắn thừa nhận chiến lược “tấn công Mỹ” là “lỗ to,” sau khi hãng xe điện này đốt thêm 3.2 tỷ đô la trong năm 2024, theo tiết lộ của tạp chí Nikkei Asia. Ông chủ Vingroup tuyên bố chuyển hướng nhắm vào các thị trường Á Châu như Ấn Độ, Indonesia, Malaysia, hy vọng cứu vãn tình hình bằng cách bán xe gần nhà hơn thay vì đâm đầu vào thị trường Mỹ đầy rủi ro.

Cùng ngày, Reuters công bố bản tin cho biết, riêng quý 4 năm 2024, VinFast đã báo cáo khoản lỗ ròng 1.3 tỷ đô la – gần gấp đôi khoản lỗ cùng kỳ năm trước và nặng hơn quý 3 đến nửa tỷ đô. Nguyên nhân được hãng lý giải do chính sách sạc điện miễn phí cho khách hàng và việc suy giảm giá trị tài sản.

Điều trớ trêu là lỗ chồng lỗ vẫn xảy ra bất chấp số lượng xe giao tăng nhẹ so với năm trước. Vậy mà tại phiên họp này, theo ZNews (Tri Thức Trực Tuyến), cổ phiếu Vingroup vẫn “tăng trần” – một hiện tượng khó hiểu trong bối cảnh doanh nghiệp lỗ liên tiếp.

Không dừng lại, ông Vượng còn vẽ tiếp một viễn cảnh rực rỡ: mục tiêu bán hơn 200,000 xe điện trong năm 2025 và giành 40% thị phần ô tô nội địa, với lời hứa rằng VinFast sẽ “hòa vốn” tại thị trường Việt Nam nếu đạt được chỉ tiêu này.

Phát biểu trước đám đông cổ đông, vị tỷ phú nhấn mạnh hai mục tiêu hàng đầu: “đạt doanh số” và “cắm cờ cho thế giới biết đến xe điện Việt Nam.” Hào hứng tuyên bố, nhưng ai cũng nhớ rằng năm ngoái, ông từng cam kết tài trợ 1 tỷ đô la cho VinFast từ túi riêng và sẵn sàng “rót tiền đến khi hết sạch” để nuôi giấc mộng xe điện.

Tuy vậy, bức tranh thật sự phía sau những màn tuyên truyền bóng bẩy lại tối tăm hơn nhiều. Các nguồn tin trong nước tiết lộ rằng, dưới chỉ đạo của Ban Tuyên Giáo và Dân Vận Trung Ương, báo chí quốc doanh buộc phải đưa tin tích cực về VinFast, đồng thời giấu nhẹm mọi thông tin bất lợi như tình trạng thua lỗ triền miên, xe cháy nổ, hay khách hàng kêu trời về chất lượng sản phẩm và dịch vụ hậu mãi.

Trong khi đó, với giới đầu tư và người tiêu dùng tỉnh táo, VinFast không còn là biểu tượng cho tham vọng toàn cầu, mà đang dần trở thành bài học cay đắng về những giấc mơ được dựng nên bằng tiền… và sự che đậy.


 

Tương Lai của Giáo Hội Công Giáo hậu triều đại của Đức GH Phanxico

Báo Tin Tức Hoa Kỳ – US News

Một trong những di sản lâu dài của Đức Giáo hoàng Phanxicô là ngài đã mở rộng đáng kể sự đa dạng của các hồng y sẽ bầu người kế nhiệm ngài , bổ nhiệm “các hoàng tử của giáo hội” từ những quốc gia xa xôi chưa từng có hoàng tử trước đây.

Gregorio Borgia

Báo Ki Tô Hữu ngày nay

Trong nhiều thế kỷ, Hồng y đoàn do người châu Âu thống lãnh, đặc biệt là người Ý. Hiện nay, Hồng y đoàn có các thành viên đến từ hơn  90 quốc gia , trong đó Francis đã bổ nhiệm  gần 80 phần trăm  trong số họ.

Catholic Church to Elect New Pope in Sistine Chapel Conclave After ...

Theo báo WSJ

Cuộc tranh luận sẽ diễn ra trong các giáo đoàn hồng y đang tụ họp tại Rome để chuẩn bị cho mật nghị, dự kiến ​​diễn ra vào đầu tháng 5.

“Chúng ta cần chấm dứt một số sự phân cực này. Mọi người phải phát triển mối quan hệ với những người có quan điểm khác biệt”, Cha Robert Sirico, chủ tịch danh dự của Viện Acton, một nhóm nghiên cứu dựa trên đức tin của Mỹ, cho biết.

Sirico phát biểu: “Chúng ta cần phải có sự rõ ràng về mặt đạo đức và giáo lý về các biểu tượng và cử chỉ khiến mọi người bối rối”, đồng thời chỉ trích Đức Phanxicô theo quan điểm của nhiều người Công giáo bảo thủ.

Báo Tin tức vùng Vinh – GulfNews

Câu hỏi bây giờ là liệu người kế nhiệm ĐGH Phanxico có đi theo con đường tương tự hay đưa Giáo hội Công giáo theo một hướng mới.

Các hồng y sẽ họp trong vài ngày tới để bầu ra giáo hoàng mới, làm dấy lên những đồn đoán sôi nổi về cách giáo hoàng tiếp theo sẽ lãnh đạo 1,4 tỷ người Công giáo trên thế giới.

Nhưng các chuyên gia cho rằng mặc dù đã thực hiện cải cách, Đức Phanxicô vẫn không thay đổi học thuyết cơ bản – điều này cho thấy nhà lãnh đạo tiếp theo có thể mang đến phong cách mới và những ưu tiên khác, nhưng khó có thể đảo lộn niềm tin đã tồn tại 2.000 năm. “Cho dù là về các vấn đề phá thai, chấm dứt sự sống, hôn nhân cho các linh mục, việc thụ phong cho phụ nữ hay đồng tính luyến ái, vốn là những điểm của học thuyết bảo thủ truyền thống, thì Đức Phanxicô vẫn không thay đổi điều gì cả”, Francois Mabille, giám đốc Đài quan sát địa chính trị về tôn giáo, cho biết.

Báo Dispatch

Giáo hoàng Francis được đánh dấu bằng sự tập trung nhiều hơn vào các vấn đề chính trị tiến bộ — người di cư, biến đổi khí hậu và quyền LGBTQ — đã gây ra nhiều nhầm lẫn về giáo lý trong quá trình này. Đồng thời, Francis duy trì các tín ngưỡng truyền thống và đi theo bước chân của những người tiền nhiệm của mình là Thánh Giáo hoàng John Paul II và Benedict XVI, giữ lập trường cứng rắn khi nói đến các vấn đề như phá thai, nhu cầu truyền giáo và giúp đỡ người nghèo.  

Ngay từ đầu, Đức Thánh Cha đã tạo ấn tượng mạnh mẽ bằng cách sống giản dị, ví dụ, chọn cư trú tại nhà khách thay vì Cung điện Tông đồ mà hầu hết các giáo hoàng lựa chọn. Ngài nhấn mạnh sự tập trung của mình vào người nghèo và các hoạt động từ thiện, đồng thời ủng hộ sự tham gia nhiều hơn của giáo dân. Đây là tất cả những điều tốt đẹp cho một giáo hội đang tìm kiếm vị trí của mình trong thế kỷ 21.   

Tuy nhiên, tôi đồng ý với ý kiến ​​gần đây của Tổng giám mục danh dự Charles Chaput của Philadelphia (người đáng lẽ phải được Đức Phanxicô phong làm hồng y) rằng “thời kỳ giữa hai triều đại giáo hoàng là thời điểm cần sự thẳng thắn”. Sự thẳng thắn đó bao gồm việc nêu bật những điều Đức Phanxicô đã làm không tốt và những gì giáo hoàng tiếp theo có thể làm để biến giáo hội thành một thế lực mạnh mẽ hơn vì lợi ích chung trên toàn thế giới, đồng thời vẫn duy trì các truyền thống và giá trị đã tồn tại hàng thế kỷ của mình. 

Giáo hoàng Francis đã bị nhiều người trong chính trường cánh hữu ở Hoa Kỳ và quê hương Argentina của ông mô tả sai là một người cộng sản, nhưng điều đó không có nghĩa là phong cách độc đoán thường thấy của ông không khiến những người Công giáo bảo thủ xa lánh. Đúng vậy, Francis là một giáo hoàng đầu tiên – người đầu tiên đến từ Châu Mỹ Latinh, người đầu tiên theo đạo Dòng Tên và người đầu tiên lấy tên là Francis – nhưng phong cách phá cách của ông cũng có những hạn chế. Kỷ nguyên của Francis được đánh dấu bằng quá nhiều cảnh báo tin tức tuyên bố rằng một số giáo lý của nhà thờ đã bị thay đổi, chỉ để phát hiện ra rằng rất ít thay đổi. Điều đó dẫn đến sự đưa tin rầm rộ của báo chí chính thống và sự thất vọng đối với rất nhiều người trong chúng ta.

Một ví dụ về điều này xảy ra vào tháng 12 năm 2023 khi giáo hoàng chấp thuận cho phép giáo sĩ Công giáo ban phước cho các cặp đôi đồng giới — ban hành một văn bản nêu chi tiết về sự thay đổi trong chính sách của Vatican—miễn là nó không giống với một buổi lễ kết hôn. Trong những ngày và tuần tiếp theo, giữa nhiều sự phản đối, Vatican đã buộc phải làm rõ quyết định này. Ý nghĩa của tất cả những điều này đối với cuộc sống hàng ngày của người Công giáo vẫn ít được hiểu (một cách tỏ tường, được giải thích rành mạch) hơn ngay cả sau ngần ấy thời gian (đối thoại). 

Vậy thì nhà lãnh đạo tiếp theo của 1,4 tỷ người Công giáo trên thế giới sẽ ra sao? 

  • Giáo hoàng tiếp theo có thể vừa tiến bộ vừa vẫn giữ được truyền thống. Ngài phải đối mặt với nhiều thách thức đang có.
  • Các nhóm sống sót (từ lạm dụng tình dục) đã kêu gọi Giáo Hội hành động nhiều hơn và thay đổi hệ thống để bảo vệ trẻ em.
  • Vào năm 2023, thâm hụt hoạt động hàng năm của Tòa thánh được báo cáo đã tăng lên hơn 90 triệu đô la.
  • Đối thoại Liên Tôn, Giáo hoàng tiếp theo sẽ cần phải làm tiếp tục như Đức Phan xi cô đồng thời không làm loãng đi các giáo lý Đức Tin Công Giáo (duy chỉ một mình Chúa Giê Su có ơn cứu độ cho con người). 
  • Đức Hồng y Kevin Farrell chủ trì tại Vương cung thánh đường Thánh Peter vào thứ Sáu trong Nghi lễ niêm phong quan tài của cố Giáo hoàng Francis, trước lễ tang của giáo hoàng vào sáng thứ Bảy tại Thành phố Vatican. (Ảnh của Simone Risoluti—Vatican Media qua Vatican Pool/Getty Images)

 

  •  

Các nhà sản xuất Trung Cộng đang lùng sục khắp thế giới để tìm người mua mới thay thế cho Hoa Kỳ

Theo báo WSJ

Với việc Nhà Trắng áp thuế 145% trong năm nay đối với hàng hóa Trung Quốc, các nhà sản xuất Trung Quốc đang lan rộng khắp thế giới để tìm kiếm các thị trường mới để giảm tải các sản phẩm có thể phục vụ nhu cầu của Mỹ.

Sẽ không dễ dàng để tìm ra các lựa chọn thay thế cho những khách tiêu thụ nhiều như người Mỹ. Mỹ cho đến nay là người mua hàng hóa xuất khẩu lớn nhất của Trung Cộng chiếm tới khoảng nửa nghìn tỷ đô la sản phẩm, tương đương khoảng 15% xuất khẩu hàng hóa của Trung Quốc, vào năm ngoái, theo dữ liệu hải quan Trung Quốc.

Theo ước tính của Goldman Sachs, khoảng 10 triệu đến 20 triệu việc làm ở Trung Quốc đang bị đe dọa để sản xuất các sản phẩm cho người tiêu dùng Mỹ. Ngoài ra còn có sức khỏe của nền kinh tế lớn thứ hai thế giới.

Các nhà triển lãm Trung Quốc đông hơn các nhà sản xuất trong nước tại hội chợ thương mại.

Nhiều nhà sản xuất Trung Quốc không có lựa chọn nào khác ngoài việc tìm thị trường nước ngoài mới cho hàng hóa của họ, vì họ phải đối mặt với sự cạnh tranh tàn bạo và nền kinh tế trì trệ ở trong nước.

Các nhà lãnh đạo Trung Quốc cho biết họ có kế hoạch thúc đẩy tiêu dùng nội địa và hỗ trợ các lĩnh vực bị ảnh hưởng bởi thuế quan, và một số công ty thương mại điện tử như JD.com đã công bố các sáng kiến giúp các nhà xuất khẩu chuyển đổi sang thị trường địa phương.

Nhưng nhu cầu từ các hộ gia đình và doanh nghiệp ở Trung Quốc còn yếu. Sau sự sụp đổ của thị trường bất động sản và tăng trưởng kinh tế chậm lại, người dân Trung Quốc đang tiết kiệm nhiều hơn và chi tiêu ít hơn. Giá tiêu dùng đã đi ngang, giá cửa nhà máy đã giảm trong hơn hai năm và nhập khẩu đã giảm, phản ánh chi tiêu nội địa ở Trung Quốc đang ấm áp như thế nào.

Nhiều nhà sản xuất Trung Quốc có rất ít lựa chọn ngoài việc tìm kiếm thị trường nước ngoài mới.
Qian Xichao, đại diện của Wujiang City Hongyuan Textile, cho biết ông đến Indonesia để tham dự hội chợ lần đầu tiên vì thị trường nội địa ở Trung Quốc khó khăn như thế nào, nơi các nhà máy đang sản xuất quá nhiều hàng hóa dư thừa đến mức chiến tranh giá cả đã nổ ra, giết chết lợi nhuận.
Liên minh châu Âu, Anh, Việt Nam, Đài Loan, Malaysia, Indonesia, Mexico, Singapore, Ả Rập Xê Út và Nigeria có nhiều khả năng hấp thụ hàng xuất khẩu của Trung Quốc trước đây đến Mỹ, theo Allianz. Xuất khẩu của Trung Quốc sang các quốc gia này có thể tăng khoảng 6% hàng năm trong ba năm tới, công ty ước tính.

Nhiều nhà sản xuất cho biết họ không đưa ra các quyết định kinh doanh lớn do chính sách thuế quan của chính quyền Trump đã thay đổi nhanh như thế nào. “Chúng tôi không thể làm gì về thuế quan. Chúng tôi sẽ phải đợi cho đến khi thuế quan ổn định trước khi tiến hành, nếu không bạn sẽ không dám mạo hiểm”, Michael Wang, quản lý tại Shaoxing Double-Color Textile cho biết.

Theo báo Bloomberg

Nhà quản lý quỹ đầu cơ tỷ phú Bill Ackman cho biết Trung Quốc sẽ cần phải nhanh chóng đạt được một thỏa thuận thương mại với Mỹ vì nước này không thể giành chiến thắng trong một cuộc chiến thương mại kéo dài sẽ gây thiệt hại nghiêm trọng cho nền kinh tế của mình.

Trong một bài đăng trên X, Ackman nói rằng Bắc Kinh “nên được khuyến khích cao để thực hiện một thỏa thuận thương mại càng nhanh càng tốt” bởi vì thuế quan cao càng kéo dài, khả năng các công ty sẽ mất niềm tin vào Trung Quốc như một thị trường mà họ có thể tìm nguồn cung cấp hoặc sản xuất hàng hóa theo các điều khoản khả thi về mặt kinh tế. Nếu một thỏa thuận không được ký kết sớm, “mọi công ty có chuỗi cung ứng có trụ sở tại Trung Quốc sẽ chuyển nó đến Ấn Độ, Việt Nam, Mexico, Mỹ hoặc một số quốc gia khác”, ông nói.

Ackman cho biết: “Nếu thay vào đó, Trung Quốc vẫn cố chấp quyết định không đàm phán vì lòng tự trọng hoặc các vấn đề tình cảm khác, Trung Quốc sẽ phải gánh chịu hậu quả kinh tế nghiêm trọng và lâu dài hơn nhiều”. “Thời gian là bạn của Mỹ và là kẻ thù của Trung Quốc trong cuộc đàm phán này.”

Đánh giá của người quản lý quỹ đầu cơ này hoàn toàn trái ngược với những người cho rằng Trung Quốc sẽ có thể chống chọi được cuộc chiến thương mại của Tổng thống Donald Trump và thái độ bất chấp chung trong lập trường của Bắc Kinh. Chủ tịch Tập Cận Bình đã từ chối nỗ lực gọi điện cho ông Trump, và Trung Quốc nói rằng Hoa Kỳ phải thể hiện sự tôn trọng và kiềm chế những phát biểu mang tính coi thường trước khi các cuộc đàm phán giữa hai nước có thể bắt đầu.

 

S.T.T.D  Tưởng Năng Tiến – Số báo cuối cùng

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến 

Ba’o Dan Chim Viet

24/04/2025

Với thời gian, trí nhớ của tôi mỗi lúc một thêm bạc bẽo. Tháng 11 năm 1989, Bức Tường Ô Nhục Bá Linh (“Wall of Shame) sụp đổ. Qua năm sau, tạp chí Reader’s Digest (dường như là số tháng 5) có đăng một mẩu chuyện ngăn ngắn – liên quan đến biến cố này – mà tôi chỉ còn nhớ được loáng thoáng như sau:

Giữa đám đông đang hăm hở và hớn hở lũ lượt vượt rào đi từ Đông qua Tây là một ông già, dáng lầm lũi và đơn độc. Ông không dừng chân ở bất cứ quán bar nào, dù tất cả đều mở rộng cửa –  và cung cấp rượu bia miễn phí – để chào đón những kẻ vừa đặt chân đến phần đất tự do.

Và trong khi mọi người đều náo nức xếp hàng chờ được lãnh tiền (gọi là “tiền chào mừng”, khá hậu hĩnh) do chính phủ Cộng Hoà Liên Bang Đức cấp phát thì ông già lặng lẽ tìm đến thư viện để gửi trả một cuốn sách mượn từ tháng Tám năm 1961, cùng với lời trần tình: Tôi chỉ định giữ tác phẩm này vài ngày thôi nhưng không ngờ bị kẹt ở bên kia bức tường tới hai mươi tám năm trời! Để trễ hạn lâu quá, tôi rất lấy làm tiếc và xin được thứ lỗi.

Câu xin lỗi vừa ghi khiến tôi lại nhớ (và cũng chỉ nhớ mang máng thôi) đến lời than thở của học giả Nguyễn Hiến Lê, trong một tác phẩm nào đó của ông: Thưở nhiễu nhương và loạn lạc  thì ngay đến sách báo cũng phải chịu cảnh phong trần, lưu lạc!

Thời gian “lưu lạc” kéo dài gần ba mươi năm của một cuốn sách kể cũng khá dài nhưng so với số phận long đong của một tờ báo (tạp chí Bách Khoa, số cuối cùng – 426 – phát hành vào ngày 20 tháng 4 năm 1975) thì xem ra vẫn còn hơi ngắn, theo như “tin mừng” đã được nhà văn Phạm Xuân Đài (chủ bút trang Diễn Đàn Thế Kỷ) hân hoan loan báo:

“Trong công cuộc sưu tầm những tài liệu cũ của miền Nam trước 1975, lâu nay chúng tôi đã hết sức cố gắng tìm kiếm bộ tạp chí Bách Khoa, một tờ báo đã đi gần suốt chiều dài 20 năm của Việt Nam Cộng Hòa. Và xin báo tin mừng với quý độc giả và bè bạn gần xa: cách đây mới hai ngày thôi, chúng tôi đã có được số Bách Khoa cuối cùng còn thiếu, đó là số phát hành 20 tháng 4 năm 1975. Trong một thời gian không lâu nữa, chúng tôi sẽ phổ biến rộng rãi nguyên bộ Bách Khoa trong dạng điện tử để mọi người khắp nơi có thể đọc dễ dàng.

Việc số báo Bách Khoa cuối cùng đến với chúng tôi vào những ngày cuối tháng Ba năm 2017 vừa rồi đã gây cho chúng tôi một xúc động mãnh liệt, vì đó chính là một trong những hình ảnh còn sót lại một cách cụ thể của một miền Nam đang hấp hối, cách đây 42 năm.”

Chúng ta đang sống trong một thế thẳng băng, cùng với những phương tiện giao thông và truyền thông tân kỳ chưa từng thấy trong lịch sử. Cớ sao một số báo Bách Khoa (BK) lại phải “phong trần lưu lạc” đến gần nửa thế kỷ vậy cà?

Đây không phải là một câu hỏi khó nhưng cũng không dễ trả lời ngắn gọn nên tôi xin phép được thưa thêm năm điều/ba chuyện cho nó ngọn ngành:

Từ BK số 1 đến số 425, chắc chắn, đều được gửi đi và lưu giữ trong những thư viện ở Âu Mỹ nên việc sưu tập chả khó khăn gì. Nhưng với số báo cuối cùng, 426, phát hành 10 ngày trước khi miền Nam thất thủ thì số phận của nó lại hoàn toàn khác. Toà soạn BK – vào thời điểm này – chắc chẳng có ai còn lòng dạ nào để lo lắng đến chuyện phát hành, hay gửi báo đến cho độc giả (dài hạn) qua bưu điện nữa.

Giữa lúc “xẩy đàn tan nghé” thì tai họa chả bỏ sót ai, và cũng chả chừa một thứ gì ráo trọi:

“Bởi vì sách vở thời ấy, số phận nó như số phận người. Nó cũng phải trốn chạy, chui rúc, ẩn náu. Chúng cũng rơi vào cảnh mồ côi cha mẹ, cảnh lạc đàn, cảnh tan nát, cảnh tan hoang mất còn. Vận người dân miền Nam thế nào, vận chúng như thế…

“Đài phát thanh thành phố ra lệnh phải thu nộp tất cả các sách vở, báo chí, phim ảnh, tài liệu in ấn trước ngày 30 tháng tư được coi là đồi trụy. Nhiều người tiếc rẻ đem bán kilô. Các gói xôi bán buổi sáng, nay có tên Nguyễn Thụy Long, Nhã Ca, Thanh Tâm Tuyền. Vừa ăn, vừa đọc kể cũng vui.

Nhiều chỗ mang sách vở cũ ra đốt… Đứa may trốn thoát…  Đứa yểu tử thì làm mồi cho cuộc phần thư. Đứa không may làm giấy gói sôi buổi sáng. Đứa bất hạnh làm giấy chùi đít.  Đó là cuộc trốn chạy vô tiền khoáng hậu mà những kẻ đi truy lùng chỉ là các trẻ con lên 12, 13 tuổi.

Các cháu ngoan bác Hồ.  Họ xô những đứa trẻ con vô tội đó ra đường. Chúng quàng khăn đỏ hô hoán, reo hò như trong một vụ đi bắt trộm, hay đi bắt kẻ gian. Chúng lục soát tận tình, chúng đánh trống, chúng hát hò như một cuộc ra quân của một đoàn quân chiến thắng. Gia đình nào cũng sợ hãi cái quang cảnh đó nên kẻ mà phải hy sinh đầu tiên chính là sách vở.” (Nguyễn Văn Lục, “Sách cũ Miền Nam 1954 – 1975”).

Trong khi đám trẻ con quàng khăn đỏ hét hò đốt sách thì qúi vị trí thức, nhân sĩ, nhà văn, nhà báo cũng cần mẫn ghi chép và hoàn thành những “công trình biên khảo” để đưa bọn cầm bút (thuộc bên bại cuộc) ra … trước toà án dư luận:

  • Nọc độc văn hóa nô dịch, Trần Trọng Đăng Đàn, gồm 2 cuốn:
    Nọc độc văn hóa thực dân mới Mỹ,  NXB TPHCM 1983
    b.  Lại bàn về nọc độc văn hóa thực dân mới Mỹ,  NXB TPHCM 1987
  • Văn hóa văn nghệ miền Nam dưới chế độ Mỹ ngụy  (2 tập) nhiều tác giả, NXB Văn Hóa 1977
  • Những tên biệt kích của chủ nghĩa thực dân mới trên mặt trận văn hóa/ tư tưởng (2 tập) Nhiều tác giả, NXB Thông tin lý luận 1980
  • Tiếp tục đấu tranh xóa bỏ tàn dư văn hóa thực dân mới, Hà Xuân Trường, NXB Sự Thật 1979
  • Nhìn lại tư tưởng văn nghệ thời Mỹ ngụy, Lê Đình Kỵ, NXB TPHCM 1987
  • Cuộc xâm lăng văn hóa và tư tưởng của đế quốc Mỹ tại miền Nam VN, Lữ Phương, NXB Văn Hoá 1985

Đó là một “thời nông nỗi” đã qua chăng ? Không đâu, làm gì có chuyện đó! Cuộc “Cách Mạng Văn Hoá” chưa bao giờ ngưng nghỉ cả. Chủ trương “bài trừ văn hóa nô dịch, lai căng” là chính sách triệt để, xuyên suốt và nhất quán của Đảng Cộng Sản và Nhà Nước Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ qua mà.

Ngày 20 tháng 3 năm 2017, T.T Nguyễn Xuân Phúc lại ký Nghị Định 28/2017/NĐ-CP: “Phạt tiền từ 20-25 triệu đồng đối với hành vi tàng trữ, phổ biến trái phép bản ghi âm, ghi hình ca múa nhạc, sân khấu có nội dung đã quyết định cấm phổ biến hoặc quyết định thu hồi, tịch thu, tiêu hủy.”

Vậy bằng cách nào mà cuốn tạp chí BK, số cuối cùng (phát hành vào ngày 20 tháng 4 năm 1975) đã không bị ném vào mồi lửa, không trở thành giấy gói xôi, không bị thu hồi, tịch thu, tiêu hủy” và vẫn có thể xuất hiện “nguyên con” trên trang web của Tạp Chí Thế Kỷ 21 vào ngày 2 tháng 4 năm 2017? Đây là câu hỏi mà qúi vị lãnh đạo của chính phủ hiện hành … cần “suy ngẫm” để có thể ban hành những nghị quyết, hay nghị định đỡ ngớ ngẩn (và lạc hậu) hơn chút xíu.


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Đỗ Lệnh Dũng

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

26/04/2025

Tưởng gì chứ sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Hoà, cấp bực làng nhàng, cỡ như ông Dũng, tôi quen cả đống. Bạn cùng khoá cũng độ vài trăm, cùng đơn vị khoảng vài chục, và cùng trại (tù) thì chắc … vài ngàn! Tôi đã nghe vô số thằng kể lại những giờ phút cuối cùng của đơn vị mình nhưng chưa thấy ai bị lâm vào hoàn cảnh bi đát, và giữa lúc thập tử nhất sinh, đã tuyên bố một câu (ngon lành) dữ vậy.

Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu (vào giờ phút chót) cũng chỉ âm thầm … đào ngũ thôi, chứ chả hề có mở miệng nói năng gì ráo trọi – với bất cứ ai. Còn Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ thì ồn ào hơn chút đỉnh, rồi cũng chuồn êm – không lâu – sau đó.

Trường hợp của Đỗ Lệnh Dũng thì hơi khác. Cách hành xử của ông cũng khác. Bảnh hơn thấy rõ. Đúng nửa đêm 24/11/1974, trái đạn 82 ly đầu tiên rót vào trong vòng đai Đồng Xoài. Với đại pháo và T-54 yểm trợ, hai trung đoàn của Sư Đoàn 7 của Bắc Quân – sử dụng chiến thuật tiền pháo hậu xung – đã chiếm được chi khu này, vào rạng sáng 7/12/1974.

Buổi chiều cùng ngày, trong khi đang cùng những quân nhân còn sống sót tìm cách thoát khỏi vòng vây, trung úy Đỗ Lệnh Dũng (bỗng) thấy một đoàn người – toàn là đàn bà và trẻ con nhếch nhác, với tay nải hòm xiểng, lôi thôi, lếch thếch – nằng nặc đòi đi theo toán quân của ông, để trốn ra khỏi vùng đất (sắp) được … hoàn toàn giải phóng.

Trước nguy cơ dân chúng có thể bị thiệt mạng oan uổng trong lúc giao tranh, và để thuyết phục mọi người nên ở lại nhà cho được an toàn, trung úy Dũng đã dõng dạc tuyên bố với đám đông: “Tôi nhân danh sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Hoà xin hứa sẽ trở lại với đồng bào.”

Và Đỗ Lệnh Dũng đã trở lại thực, chỉ vài ngày sau, như là một … tù binh! Rồi ông bị đấu tố trước Toà Án Nhân Dân Huyện Đôn Luân, một tên gọi khác (mỹ miều hơn) của Đồng Xoài, và đưa từ Nam ra Bắc – theo đường mòn Hồ Chí Minh – để đi cải tạo. Gần muời năm sau, năm 1982, trung úy Đổ Lệnh Dũng được chuyển trại từ Bắc vào Nam – và tiếp tục … ở tù!

Cuộc đời (rõ ràng và hoàn toàn) không may của trung úy Đỗ Lệnh Dũng đã được nhà văn Lê Thiệp viết lại, bằng một cuốn sách – dầy đến bốn trăm trang – lấy tên của chính ông làm tựa. Nhà xuất bản Tiếng Quê Hương đã cho phát hành phẩm này vào cuối năm 2006, với lời giới thiệu – như sau:

“Đỗ Lệnh Dũng không chỉ là câu chuyện về chiến tranh, dù nhân vật chính là một chiến binh mất tích giữa chiến khu D sau một trận đánh dữ dội.” Đây là câu chuyện về những oan khiên khắc nghiệt mà người dân Việt Nam phải trải gần trọn thế kỷ qua cho đến ngày nay.

Nhân vật chính giã từ cha mẹ khi tròn 18 tuổi và lúc được gặp lại song thân thì đã gần tới tuổi ngũ tuần. Thời gian xa cách là lửa đạn, là những ngày lê gót trên con đường mòn vượt rừng núi Trường Sơn từ Nam ra Bắc, là những năm tháng đoạ đầy tại những trại tù …

Dù chỉ là một góc cạnh giữa muôn ngàn góc cạnh của một thời bão táp, câu chuyện vẫn là bằng cớ vô giá về thảm trạng con người bị tước đoạt trọn vẹn tuổi trẻ, tình yêu gia đình và mọi điều kiện an bình của cuộc sống.

Cuốn Đỗ Lệnh Dũng được ra mắt tại thành phố San Jose, California. Hôm đó, tôi đã hân hạnh được nhìn thấy Trung Úy Dũng và Thiếu Tá Đặng Vũ Khoái – chỉ huy trưởng Chi Khu Đôn Luân – người mà không mấy ai tin là còn có thể sống sót, sau khi đơn vị này thất thủ.

Thiếu tá Khoái cho biết nhờ tác phẩm này mà trong mấy tuần qua, một số những người lính năm xưa – đang tản mát khắp năm Châu – đã tìm lại được nhau. Và ông nghẹn ngào khi giới thiệu với mọi người, vài quân nhân khác của đơn vị – hiện cũng đang có mặt tại hội trường.

Tôi ngồi ở xa, không nhìn rõ nét mặt của những nhân vật này nhưng có thể đoán được rằng mắt họ đều đang ngấn lệ. Tôi cũng là một cựu chiến binh, cũng có cái may mắn lớn lao là còn sống sót sau cuộc chiến vừa qua, và thoát thân đến được một quốc gia an bình phú túc nên cảm thông (thấm thía) sự xúc động của họ.

Trong giây phút đó (có lẽ) mọi người đều cảm thấy an ủi và ấm lòng, trước cảnh trùng phùng bất ngờ (và khó ngờ) đến thế. Cái cảm giác sung sướng vì sự may mắn (hiếm hoi) của mình đã theo tôi suốt cả buổi chiều hôm ấy, và đã cùng với tôi đi vào giấc ngủ.

Nửa khuya, tôi thức dậy. Gần nhơ đêm nào tôi cũng thức dậy vào giấc đó. Và đó cũng là lúc mà tôi thường lò mò trở về … chốn cũ. Như một công dân “part – time” của nước Hoa Kỳ, tôi chưa bao giờ sống hết mình và hết tình nơi quê hương mới. Gần ba mươi năm lưu lạc, tôi vẫn cứ sống (một cách mộng mị) đều đều – theo kiểu “ngày ở / đêm về” – như thế.

Tôi thường trở về Đà Lạt. Đây là nơi mà tôi đã lớn lên, và đã ướp đẫm tuổi thơ (cũng như tuổi trẻ của mình) bằng rất nhiều đặc sản của núi rừng: nuớc hồ Xuân Hương, sương mù, phấn thông vàng, mùi cỏ dại của Đồi Cù, và cả trăm loại hương hoa man dại.

Có dạo tôi hay trở về những đồi trà, đồi bắp, đồi khoai – bao quanh trại cải tạo Tân Rai – ở Blao. Tôi cùng lũ bạn tù cứ đi trong nắng sớm, trên những con đường mịn màng (thơm nồng mùi đất) sau một đêm mưa.

Cũng có khi tôi về lại Sài Gòn, ghé thăm một người bạn đồng đội mới, chỉ vừa biết sơ, qua một bài báo ngắn – của ký giả Bùi Bảo Trúc:

“Sáng nay mở e-mail ra đọc, tôi nhận được từ một người không hề quen biết, không kèm theo một giòng chữ nào, bức hình một người đàn ông mà tôi cũng chưa gặp bao giờ. Hình chụp người đàn ông đang ngồi trên giường có trải chiếu, đằng sau là bức tường loang lổ, hoen ố những vết đen mốc. Ông có một bộ ria, tóc dầy và đen, một mắt to, một mắt nhỏ mà tôi nghĩ là bị hư, chỉ còn một con. Ông không còn chân tay. Hai chân bị cụt trên đầu gối. Và hai tay cụt ở trên khuỷu tay, gần nách.

Trong hình có ghi tên ông. Ông tên là Thìn, Nguyễn Văn Thìn. Năm sinh được ghi là 1952. Hàng chữ phía dưới cho biết ông là thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa. Ðơn vị cuối của ông là Trung Ðoàn 49, Sư Ðoàn 25 Bộ Binh. Cấp bậc của của ông là Trung Sĩ Nhất. Ông sinh năm 1952, tuổi Thìn nên tên cũng là Thìn. Ông không còn chân tay.

Từ 30 năm nay, ông không có chân, cũng không có tay. Ông làm sao sống nổi qua bằng ấy năm không có hai chân mà cũng không có cả hai tay. Tôi tưởng tượng, không khó khăn lắm, cũng vẫn thấy ra được những khó khăn của ông. Trong một chế độ thân thiện với ông, ông cũng đã vô cùng bất hạnh vì thiếu con mắt, thiếu hai tay, lại thiếu luôn cả hai chân. Huống chi trong một khung cảnh không thân thiện nếu không muốn nói là thù nghịch, thì ông còn khổ biết là bao nhiêu nữa. Tôi không dám tưởng tượng thêm ra những chuyện khác trong đời sống hàng ngày của ông, nếu đó có thể gọi được là một đời sống.”

Ông Thìn luôn luôn nhìn tôi với đôi mắt u buồn và lắc đầu ra dấu, như có ý nói là đừng đến thăm nhau nữa: “muộn mất rồi.” Mãi sau này tôi mới biết là … muộn thật! Trong những trang sổ tay cũ, khi viết về trung sĩ Nguyễn Văn Thìn, cách đây vài năm, tôi đã có dịp phổ biến địa chỉ của ông: nhà số 9/8 đường Bông Sao, phường 5, quận 8, Sài Gòn. Chừng một tháng sau, vài người báo cho tôi biết là họ đã gửi quà về biếu ông Thìn nhưng không còn … kịp nữa. Ông bạn đồng đội của tôi đã qua đời, vài tuần, trước đó!

Đêm nay thì tôi về miền Trung, phần quê hương khốn khó mà tôi chưa bao giờ có dịp ghé qua, để thăm một đồng đội khác:

“Sự hy sinh của anh quá lớn, hai mắt, hai tay và hai chân cho tổ quốc còn cá nhân chị đã hy sinh cả cuộc đời cho những người mà cả tổ quốc phải tri ân. Đã rưng rưng khóc lần nữa và cảm ơn nhiều lắm đến bà con ở Úc và Hội. Tôi phải vượt đường xa tít tăp từ Huế tìm đến nơi 1 anh Thương Binh mù hai mắt, cụt 2 tay lẫn 2 chân gần Lăng Cô … Tôi nhìn thấy anh Dương Quang Thương nằm xấp ngay ngạch cửa. Tôi lên tiếng chào, anh bật ngồi dậy hỏi tôi là ai?

Qua những phút giây trao đổi, tôi thấy anh khóc, những dòng nước mắt lăn ra từ hai hố mắt sâu thẳm ấy làm tôi phải khóc theo. Nghe tiếng người lạ, vợ anh từ sau hè chạy lên trên tay còn cầm nắm rau dền hoang vừa mới ngắt về để lo bữa ăn chiều, chị chào hỏi tôi rồi rót nước mời tôi uống … Thoạt đầu tôi chỉ nói tôi là người mang tiền và thuốc tây đến cho anh do bà con từ bên Úc đóng góp gửi về. Tôi gởi anh 100 đô Úc và 5 hộp thuốc tây. Anh đã rưng rưng khóc lần nữa và cảm ơn nhiều lắm đến bà con ở Úc và Hội.”

Sau một hồi tâm sự anh nhắn gửi lời cảm ơn đến người điều hành Hội mà gia đình anh thường thư từ qua lại nhiều năm nay. Tôi xúc động quá và cho biết là: Thưa anh chị chính tôi đây… Nghe đến đó anh quờ quạng hai cái cùi tay còn lại lết thật nhanh về hướng tôi và ôm lấytôi mà khóc. Vợ anh cũng khóc, tôi cũng khóc, người chạy xe ôm cũng khóc theo… Sự hy sinh của anh quá lớn, hai mắt, hai tay và hai chân cho tổ quốc còn cá nhân chị đã hy sinh cả cuộc đời cho những người mà cả tổ quốc phải tri ân. Chị đã khóc nhiều lắm vì những khó khăn đè nặng thân phận của người phụ nữ ốm o gầy còm cố vươn vai suốt hơn ¼ thế kỷ gánh gồng, ẵm bồng tắm rửa, đút ăn và những cơn lũ lụt khủng khiếp phải cõng chồng chạy tìm sinh lộ… Ra tới đầu ngõ, tôi và anh xe ôm vẫn còn khóc… (Nguyễn Cảnh Tân. “Nỗi Sầu Riêng Hay Cái Đau Chung.” Việt Luận).

Ở VN, bây giờ, mà khóc nhiều như vậy e hơi (bị) lố. Làm người Việt thì dù ở vào hoàn cảnh tệ bạc đến đâu chăng nữa vẫn (có thể) được khối kẻ khát khao. Tôi liên tưởng đến số phận te tua, bầm dập của Đỗ Lệnh Dũng và không khỏi trạnh lòng nghĩ thêm rằng: đó là cảnh đời mà phế binh Dương Quang Thương có nằm mơ cũng không thấy được.

Và hiện tại ở quê tôi còn bao nhiêu chục ngàn cựu chiến binh khác nữa (cũng tàn phế đến độ không thể đi xin ăn được) đang nằm chờ chết ở một xó xỉnh nào đó, ước mơ đến ngày có người đồng đội cũ (chợt) nhớ đến mình và ghé thăm chơi – như chiến hữu Nguyễn Cảnh Tân đã ghé thăm bạn Dương Quang Thương, vào một buổi chiều nào đó 


 

Bà vợ của triết gia Socrates- Truyện HAY

Chau Doan

Chuyện này quá nổi tiếng trong lịch sử rồi, đăng lại để nhắc anh em ta nhẫn nhịn trong nhà.  

Ai mà ngờ rằng Socrates — nhà triết học vĩ đại nổi tiếng với sự khôn ngoan, điềm tĩnh và những lời nói sâu sắc — lại sống với một người phụ nữ luôn thử thách sự kiên nhẫn của ông? Vợ ông nổi tiếng với chiếc lưỡi sắc bén, tính cách thích làm chủ mọi thứ với những cơn thịnh nộ. Mỗi sáng, bà đẩy ông ra khỏi nhà khi mặt trời mọc, và ông chỉ trở lại khi mặt trời sắp lặn.

Tuy nhiên, bất chấp tính cách khó khăn của bà, Socrates luôn nói về bà với sự tôn trọng và thậm chí là lòng biết ơn. Ông từng thừa nhận rằng một phần sự khôn ngoan của ông có được nhờ bà, bởi nếu không có những thử thách hàng ngày như vậy, ông sẽ không bao giờ học được rằng trí tuệ thực sự sống trong sự im lặng, và bình an được tìm thấy trong sự tĩnh lặng.

Một ngày, khi ông ngồi cùng các học trò, bà lại bắt đầu la mắng ông như thường lệ — nhưng lần này, bà đổ nước lên đầu ông. Không nao núng, Socrates chỉ lau mặt và bình tĩnh nói, “Chà, sau tiếng sấm, mưa là điều dễ hiểu.”

Câu chuyện của bà kết thúc đột ngột. Trong một cơn giận dữ khác, khi Socrates, như mọi khi, vẫn giữ sự bình tĩnh và im lặng, cơn thịnh nộ của bà đã áp đảo. Bà bị đột quỵ và qua đời ngay đêm đó. Trong khi bà bùng lên như một cơn bão, Socrates vẫn là một biển cả bình yên.

Tên bà dần dần phai mờ trong lịch sử. Sự điềm tĩnh của ông trở thành huyền thoại. Đây không chỉ là một câu chuyện về mâu thuẫn — mà là một lời nhắc nhở rằng sức mạnh thường thể hiện trong im lặng, và những người thầy vĩ đại đôi khi lại ẩn mình dưới hình hài của những con người khó khăn nhất trong cuộc sống.


 

Ngôi Mộ Đá Bình Dị Của Giáo Hoàng Francis: Một Lời Chào Sau Cuối Từ Quê Hương Xa Xôi

Ba’o Dat Viet

April 26, 2025

Trong lòng Vương cung thánh đường Đức Bà Cả, giữa những mái vòm rực rỡ ánh vàng, nơi linh cữu Giáo hoàng Francis giờ đây an nghỉ lại mang vẻ đẹp giản dị đến lạ kỳ: một phiến đá cẩm thạch trắng ngà, khắc vỏn vẹn dòng chữ “Franciscus” cùng biểu tượng thánh giá ngực của vị giáo hoàng quá cố.

Theo Vatican News ngày 25 Tháng Tư, mộ phần của Giáo hoàng Francis được tạc từ đá cẩm thạch vùng Liguria – nơi ông cố của ngài, Vincenzo Sivori, đã rời bỏ vào thế kỷ 19 để di cư sang Argentina, bắt đầu một hành trình tạo dựng gia đình và định hình nên người cháu vĩ đại mang tên Jorge Mario Bergoglio – tức Giáo hoàng Francis sau này.

Ngôi mộ đơn sơ được đặt tại một hốc nhỏ gần Bàn thờ Thánh Francis, nằm giữa Nhà nguyện Pauline và Nhà nguyện Sforza. Nơi đây từng chỉ là chỗ để chân nến trước khi được chọn làm điểm an nghỉ cho vị giáo hoàng của lòng nhân ái.

Theo Hồng y Rolandas Makrickas – phó giám quản Vương cung thánh đường Đức Bà Cả – chính Giáo hoàng Francis đã đích thân yêu cầu dùng loại đá bình dân từ thị trấn Cogorno, Liguria, quê hương dòng họ Sivori. Một chọn lựa giản dị nhưng đầy ý nghĩa, như cách ngài đã sống cả cuộc đời mình.

Tin tức về nguyện vọng của Giáo hoàng khiến thị trưởng Cogorno, bà Enrica Sommariva, không khỏi sững sờ. Ngay cả gia đình Sivori còn sống tại quê nhà cũng bàng hoàng xúc động. Bà Angela Sivori, người em họ xa của giáo hoàng, nhớ lại lần đầu nhận được phả hệ từ Buenos Aires như một nhịp cầu nối quá khứ và hiện tại, quê hương và thế giới.

“Đó là món quà tuyệt vời, một bất ngờ sau cuối,” bà Angela và con gái Cristina chia sẻ trong niềm xúc động nghẹn ngào.

Lãnh đạo huyện Slate, bà Franca Garbaino, cũng xác nhận phiến đá dùng cho mộ phần không phải đá quý, mà là loại đá mộc mạc, gần gũi, “tỏa hơi ấm,” đúng như tâm nguyện cuối cùng của Giáo hoàng Francis.

Trong khi đó, tại Vương cung thánh đường Thánh Peter, dòng người viếng linh cữu Giáo hoàng vẫn chưa ngớt. Tính đến cuối ngày 24 Tháng Tư, hơn 90.000 người đã đến kính viếng, buộc nhà thờ phải mở cửa xuyên đêm, chỉ tạm ngưng dọn dẹp vỏn vẹn 90 phút trước khi mở lại vào lúc bình minh.

Ngày mai, 26 Tháng Tư, Quảng trường Thánh Peter sẽ trở thành tâm điểm của thế giới khi hơn 130 phái đoàn quốc tế, bao gồm 50 nguyên thủ quốc gia và 10 vị quân chủ, quy tụ về đây để tiễn biệt vị Giáo hoàng của lòng trắc ẩn – người đã chọn sự giản dị để viết nên di chúc cuối cùng cho chính mình.


 

Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy. (Dt 11:1)-Cha Vương

Cuối tuần tràn ngập niềm tin yêu trong Chúa Phục sinh nhé. Hãy cầu nguyện cho nhau.

Cha Vương

Thứ 7, BNPS: 26/4/2025

TIN MỪNG: Sau cùng, Người tỏ mình ra cho chính Nhóm Mười Một đang khi các ông dùng bữa. Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người sau khi Người trỗi dậy. Người nói với các ông: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. (Mc 16:14-15)

SUY NIỆM: Vào sáng Thứ Bẩy 26/4/2025, hơn hai trăm ngàn người từ mọi tầng lớp đã đổ về Quảng trường Thánh Phê-rô và các khu vực lân cận để từ biệt Đức Giáo hoàng Phanxicô trong Thánh Lễ an táng của ngài. Đó là chưa kể hàng tỉ người, qua mọi phương tiện truyền thông đang hướng tâm hồn lên cầu nguyện cho ngài. Trong khi tham dự Thánh Lễ an táng trực tuyến, mình dâng lời tạ ơn Chúa vì đã ban cho mình món quà đức tin. Nhờ có đức tin mình có thể khẳng định được 2 điều: 

Thứ nhất sự sống đời sau thực sự tồn tại. 

Thứ hai, sự sống đời sau có liên quan đến Thiên Chúa hằng sống. Hai điều này thực sự gắn bó chặt chẽ với nhau. Sự sống đời đời của chúng ta liên quan đến Thiên Chúa hằng sống! Sự tồn tại của con người không kết thúc trong ngôi mộ nhưng mà là được ở trong nhà Chúa để được sống đời đời.

    Trong bài Tin Mừng hôm nay, khi nghe các phụ nữ kể lại việc Chúa Giêsu hiện ra cho các bà, các môn đệ đã không tin. Các ông vẫn không tin khi nghe thêm hai môn đệ thuật lại cuộc gặp gỡ của họ với Đấng Phục sinh. Chỉ mãi đến lúc Chúa đến thì các ông mới tin. Đức tin không do suy luận, không do có bằng chứng, nhưng đức tin là việc Chúa làm, do Chúa ban. Có bao giờ bạn cảm ơn Chúa vì Ngài đã ban đức tin cho bạn chưa?

    Có một bà nổi tiếng là đạo đức, nhân hậu và luôn bình tâm trước mọi thử thách. Một bà khác ở cách xa ít dặm, nghe nói thì tìm đến, hy vọng được bí quyết để sống bình tâm và hạnh phúc.

Bà hỏi:

– Thưa bà, có phải bà có một đức tin lớn lao?

– Ồ không, tôi không phải là người có đức tin lớn lao, mà chỉ là một người có đức tin bé nhỏ đặt vào một Thiên Chúa lớn lao.

LẮNG NGHE: Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy. (Dt 11:1)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa Giê-su Phục sinh, con xin Chúa giữ gìn và củng cố đức tin nhỏ bé của con luôn mãi để được ở bên Chúa muôn đời.

THỰC HÀNH: Đọc chậm và suy niệm Kinh Tin Kính. “Tôi tinh kính Đức Chúa Trời là Cha phép tắc vô cùng…” 

From: Do Dzung

*************************

Tôi Tin – Nguyễn Hồng Ân

PHÊRÔ – MỘT CUỘC ĐỜI ĐƯỢC BIẾN ĐỔI – Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

Từ xưa đến nay, những nhân vật được chọn để giữ một vai trò trọng yếu nơi một tổ chức thường là những người có những biệt tài nào đấy: thông minh, có tài quản trị, có khả năng ngoại giao tốt…  Thế nhưng, nhìn đến những con người mà Chúa đã chọn để thay Chúa phân phát ơn lành từ trời cho thế giới, ta lại thấy một điều hoàn toàn ngược lại.  Ngay từ thời điểm bắt đầu đời sống công khai, Đức Giêsu đã mời gọi một số người cùng đi với Ngài, ở lại với Ngài, để Ngài huấn luyện và sai đi.  Trong số nhóm người thân tín nhất với Đức Giêsu, Phêrô được chọn làm người đứng đầu, nhờ việc ông được Chúa Cha mặc khải cho biết về căn tính Kitô của Đức Giêsu.  Phêrô không phải là người xuất sắc nhất trong nhóm, cũng không phải là người thánh thiện nhất trong nhóm.  Ông lại còn là người chối Chúa khi Chúa bước vào cuộc khổ nạn.  Đặt một ngư phủ vô học làm nền tảng cho Giáo Hội của mình, rõ ràng Đức Giêsu đã làm một chuyện thật ngược ngạo từ trước đến nay trong lịch sử nhân loại.

 Lần đầu tiên Phêrô nghe nói về cái tên Giêsu là nhờ người anh em Anrê kể lại.  Sau khi nghe Gioan Tẩy Giả giới thiệu Đức Giêsu là chiên Thiên Chúa, Anrê và Gioan đã đi theo Đức Giêsu và đã ở lại với Người ngày hôm ấy.  Không biết chuyện gì đã xảy vào khoảng thời gian định mệnh này, nhưng sau khi trở về, Anrê đã quả quyết với Phêrô là ông đã được nhìn thấy Đấng Mêsia.  Chắc hẳn là Phêrô cũng nóng lòng, mong chờ một dịp nào đấy thuận lợi để ông cũng có diễm phúc được gặp Đấng Thánh này.

 Chẳng biết là cơ duyên hay tình cờ, điều ông mong chờ đã xảy đến vào một buổi sáng đẹp trời, khi ông vừa trở về sau một đêm đánh cá chẳng thành công.  Cái nghề ngư phủ này lúc nào cũng phải tùy thuộc vào vận may như thế cả.  Đã không được con cá nào, người mỏi mệt vì một đêm thức trắng, ông và gia đình lại còn phải cặm cụi vá lại chiếc lưới rách tả tơi.  Nhưng có ai ngờ, vào cái ngày mà ông cho là ê chề thất bại, cuộc đời ông lại được mở sang trang nhờ một cuộc gặp gỡ không dự báo trước.  Đang khi ông làm việc, Giêsu từ đâu bước tới, theo sau là lũ lượt những con người.  Giêsu ngỏ lời mượn chiếc thuyền của ông làm bệ giảng, và xin ông chở Ngài ra xa một tí để có thể chia sẻ những bài học hay cho dân chúng đang đợi chờ lắng nghe.

 Niềm hạnh phúc dâng cao, Phêrô chưa kịp hiểu được điều gì đang xảy ra.  Giữa biết bao con thuyền đang đỗ bến, con thuyền của ông được chọn.  Giữa biết bao ngư phủ đang ở đây, ông là người được ngỏ lời.  Giờ đây, khi Đức Giêsu đang trao ban những lời vàng quý giá, ông là người ở gần Ngài nhất, nghe rõ những gì Ngài nói nhất.  Hàng ngàn hàng vạn người đang đua nhau để tiếp cận Đức Giêsu, trong số đó, chắc là có nhiều người danh giá và giàu có hơn ông.  Vậy mà một con người đức cao vọng trọng như Giêsu lại để ý đến thân phận nhỏ bé của ông.  Trong thoáng chốc, ông quên đi hết tất cả cái mệt mỏi của mình, kể cả thất bại vừa trải qua.  Ông đang hạnh phúc!

 Cứ ngỡ là sau khi mượn chỗ để giảng thuyết, Giêsu sẽ cảm ơn ông, rồi nhờ ông đưa vô bờ trở lại.  Sau đó, đường ai nấy đi, không còn gặp mặt nữa.  Nhưng thật bất ngờ, Giêsu tiếp tục trò chuyện với ông, mời gọi ông hãy chèo thuyền ra xa hơn một tí nữa, để đánh cá.  Phêrô chẳng muốn đi tí nào!  Giêsu đã khơi lại trong ông nỗi buồn của đêm trước.  Cái mệt mỏi và chán nản vừa được xua tan đi, bỗng dưng quay trở lại.  Kinh nghiệm đánh cá lâu năm của ông mách bảo ông rằng lời mời gọi ấy của Giêsu mới thật ngớ ngẩn biết bao.  Nhưng vì Thầy, vì để làm Thầy vui, ông cố gắng tận dụng chút sức lực còn lại thực hiện một cuộc mạo hiểm mới.  Ông vốn dĩ đã thần phục Đức Giêsu vì tiếng lành đồn xa của Ngài, và vì vừa được nghe những bài giảng sâu sắc của Ngài.  Nay, ông càng kinh khiếp hơn vì phép lạ mà ông vừa chứng kiến.  Ông như được dẫn vào trong một thế giới siêu nhiên, nơi đó, ông thấy mình nhỏ bé quá chừng.  Ông quỳ xuống, một cử chỉ thể hiện sự thấp kém của mình trước mặt Đấng Chí Tôn.

 Ngày hôm ấy và khoảnh khắc đáng ghi nhớ ấy, chắc có lẽ sẽ đọng mãi trong tâm hồn ông, vì đó là lúc mà ông nghe rõ bằng chính đôi tai mình lời mời gọi của Thiên Chúa, muốn ông bỏ hết mọi sự mà bước theo Ngài.  Có vẻ như chẳng phải ngẫu nhiên mà Giêsu đến nhờ ông, rồi giảng cho ông nghe, rồi mời ông đi thả lưới.  Chính tại nơi bờ biển hồ thân quen hàng ngày với ông đã trở thành nơi kỷ niệm và làm chứng cho cuộc tình gắn bó keo sơn giữa ông và thầy Giêsu chí thánh của mình.  Vài năm sau, khi cuộc tình ấy đã trải qua nhiều chông chênh thử thách, kể cả bội phản, ông sẽ nghe lại lời mời gọi này một lần nữa, cũng trên một bờ biển hồ này, vào lúc bình minh chan hòa khắp chốn.

 Ánh bình minh là dấu chỉ báo hiệu cái qua đi của một đêm dài âm u lạnh lẽo, của thất bại và chán chường.  Nó là khởi điểm cho một sự khởi đầu mới với những bất ngờ và niềm vui.  Lời mời gọi của Giêsu dành cho ông đã đến vào những lúc bình minh và cũng có tác dụng hệt như một ánh bình minh vậy.  Cuộc đời ông đã bắt đầu thay đổi khi nghe lời mời ấy lần đầu tiên.  Và cứ mỗi lần ông nghe lại lời ấy, một hành trình mới lại được mở ra.  Bước ngoặc cuối cùng là khi ông thấy Thầy mình vác thập giá quay trở lại thành Giêrusalem khi ông tìm cách bỏ trốn.  Nên đồng hình đồng dạng với Chúa, đó là niềm mơ ước của ông.  Ngày xưa, trên chiếc thuyền đánh cá nhỏ bé của ông, đầu ông đã một lần cúi xuống bái thờ Ngài.  Giờ đây, trên thánh giá gỗ treo thân ở đây, một lần nữa ông lại xin phép cho đầu mình được hướng xuống đất.  Một cuộc tái ngộ giữa ông và Thầy Giêsu lại tiếp tục diễn ra.  Lần này, không phải nơi bờ hồ, hay trên chiếc thuyền đánh cá, nơi ông đã từng mê mẩn hứng lấy từng lời nói của Thầy, nhưng là trên Thiên Đàng, nơi ông có thể gắn kết với Thầy trọn vẹn, nơi đánh dấu cho sự nguyên tuyền và hoàn hảo của tình yêu mà ông và Thầy đã cố gắng dựng xây.

 Giêsu đã xuất hiện trong cuộc đời của Phêrô ngay trong những thất bại và ê chề ông đang nếm trải.  Chính điều đó càng làm cho ông càng thấy bất ngờ và hạnh phúc hơn.  Gắn kết cuộc đời mình với Giêsu, từ chỗ người ngư phủ lưới cá, Phêrô đã trở thành vị tông đồ lưới người.  Cùng với Chúa, ông không ngừng chèo chiếc thuyền Giáo Hội ra chỗ nước sâu, thu về cho Chúa biết bao linh hồn đang sa cơ lạc lối.  Có ai ngờ một con người tầm thường như Phêrô, sau khi đến với Giêsu, đã được trở nên một con người phi thường như thế?  Với Phêrô, Giêsu là khởi nguồn mang đến “bình minh” cho những ai luôn đặt Ngài làm điểm tựa của cuộc đời.

 Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

From: Langthangchieutim

Nỗi hối hận muộn màng- Anton Pavlovich Chekhov  -Truyện ngắn HAY

 

 Nhà văn Anton Pavlovich Chekhov 

Anton Pavlovich Chekhov (1860–1904) là một trong những nhà văn vĩ đại nhất của nước Nga, được coi là bậc thầy của truyện ngắn hiện đại. Ông sinh ngày 29 tháng 1 năm 1860 tại Taganrog, một thành phố cảng nhỏ ở miền nam nước Nga, trong một gia đình nghèo khó. Cha ông là một người bán hàng tạp hóa, tính tình khắt khe với con cái, trong khi mẹ ông là một phụ nữ hiền hậu, có ảnh hưởng sâu sắc đến tính cách của Chekhov.

Tuổi thơ của Chekhov gắn liền với những năm tháng cơ cực, khi gia đình ông phá sản và phải chuyển đến Moscow. Dù hoàn cảnh khó khăn, Chekhov vẫn cố gắng học tập và sau này theo học trường Y tại Đại học Moscow. Ông trở thành bác sĩ và luôn coi nghề y là một phần quan trọng trong cuộc đời mình, nhưng văn chương mới là đam mê lớn nhất.

Chekhov bắt đầu viết truyện ngắn từ những năm 1880 để kiếm sống và nhanh chóng khẳng định được tên tuổi. Các tác phẩm của ông thường tập trung vào cuộc sống hàng ngày của con người, khai thác tâm lý sâu sắc và chứa đựng những triết lý nhân sinh.

Bên cạnh việc viết truyện ngắn, Chekhov cũng là một nhà biên kịch xuất sắc với các vở kịch như Uncle Vanya (Chú Vanya), Three Sisters (Ba chị em) và The Cherry Orchard (Vườn anh đào). Những sáng tác này phản ảnh sự chuyển biến xã hội và mối quan hệ giữa con người trong một thời đại đầy biến động ở nước Nga cuối thế kỷ XIX.

Không chỉ nổi tiếng ở Nga, Chekhov còn có tầm ảnh hưởng lớn đến nền văn học thế giới. Các nhà văn như Ernest Hemingway, William Faulkner, Raymond Carver đều chịu ảnh hưởng từ phong cách viết của ông.

Khác với nhiều nhà văn cùng thời, Chekhov không cố gắng đưa ra những kết luận rõ ràng trong truyện của mình. Ông tin rằng nghệ thuật không phải để trả lời câu hỏi, mà là để đặt ra câu hỏi. Các câu chuyện của ông thường kết thúc mở, để lại dư âm, những suy gẫm trong lòng người đọc.

Các đặc điểm nổi bật trong văn chương của Chekhov là sự miêu tả cuộc sống một cách chân thực, không tô vẽ hay cường điệu. Thay vì những tình tiết gay cấn, ông tập trung vào những khoảnh khắc đời thường nhưng giàu cảm xúc. Chekhov luôn thể hiện sự thấu hiểu sâu sắc với nỗi khổ và tâm trạng của con người.

Một trong những tác phẩm tiêu biểu thể hiện rõ phong cách này chính là truyện ngắn Nỗi Đau (Grief), nói về sự hối tiếc muộn màng của một người chồng trong cách đối xử với vợ mình.

Grigory Petrov, một người thợ mộc ở một vùng quê nghèo khổ và thiếu thốn của nước Nga vào cuối thế kỷ XIX. Vợ Grigory Petrov lâm bệnh gần cả một năm trời. Họ đã dốc hết tiền bạc vào thuốc men nhưng dường như vô ích. Lúc này, bà đang trên bờ vực của cái chết. Grigory Petrov cố đưa vợ đến bệnh viện trong thị trấn với suy nghĩ còn nước còn tát, còn chút hy vọng nào không?

Trời tuyết rơi nhiều, đường trơn trợt, Grigory đặt vợ lên chiếc xe ngựa cũ kỹ. Con ngựa già nua lê từng bước rã rời, mệt nhọc. Cả hai không nói gì nhiều, chỉ có tiếng gió rít qua những hàng cây, tiếng bánh xe nặng nhọc lăn trên nền tuyết lạnh. (Hình ảnh tuyết rơi nhiều là hình ảnh của cuộc đời lạnh quá. Hình ảnh con ngựa già lê bước là hình ảnh Grigory mang vợ mình về chốn mãi chia xa!)

Trên đường đi, Grigory bắt đầu nói chuyện với vợ, nhưng thực ra Grigory đang tự nói với chính mình. Ông nhắc lại những năm tháng họ sống bên nhau, những khó khăn, gian khổ mà vợ ông đã phải chịu đựng. Suốt 40 năm qua, bà đã làm việc quần quật, gánh vác cả gia đình mà chưa bao giờ nhận được một lời yêu thương hay một cử chỉ dịu dàng từ chồng mình.

Chỉ đến lúc này, khi cái chết cận kề, Grigory mới nhận ra lỗi lầm của mình. Ông nói với bà bằng giọng nghẹn ngào: “Lẽ ra tôi nên đối xử với bà tốt hơn… Cuộc đời quá bất công với bà, và tôi cũng quá bất công. Tôi chưa bao giờ dành cho bà một lời tử tế, một nụ cười dịu dàng. Tôi thật tệ…” Bà vợ khẽ rên lên, hơi thở yếu dần.

“Cố lên bà nhé… Chúng ta sắp đến nơi rồi. Bà sẽ khỏe lại thôi…” Nhưng trong thâm tâm, Grigory biết đó là điều không thể.

Minh họa truyện ngắn Nỗi Đau (Grief)- nguồn X

Cuối cùng, họ cũng đến thị trấn. Ông dừng xe, vội vã bước xuống. Lần đầu tiên trong đời, ông bế bà trên tay để đưa bà vào bệnh viện. Nhưng khi chạm vào bà, ông sững người. Bà đã lạnh ngắt. Bà đã chết. Bà trút hơi thở cuối cùng trên đường đi, trước khi kịp nghe những lời yêu thương muộn màng của chồng mình.

Chekhov không lên án, vì Grigory không phải là người xấu. Ông chỉ là một người nông dân bình thường. Nhà quá nghèo, kiếm được miếng ăn trầy vi tróc vảy, sao mà không cơ cực? Grigory quá bận rộn với cuộc sống mà quên đi giá trị của tình yêu.

Câu chuyện đặt ra một câu hỏi nhức nhối: “Tại sao con người chỉ nhận ra giá trị của nhau khi đã quá muộn?”

Những lời hối tiếc của Grigory chẳng còn ý nghĩa khi người cần nghe chúng đã không còn nữa.

Chekhov không kết luận, không dạy đời phải làm thế này hay phải làm thế nọ. Ông chỉ kể lại một tình huống mà ai cũng có thể thấy được chính mình trong đó, để rồi tự rút ra bài học cho bản thân.

Thông điệp của câu chuyện thật giản dị nhưng thấm thía. Chekhov nhắc nhở chúng ta rằng những điều tốt đẹp về sự yêu thương, chăm sóc cho nhau trong nghĩa vợ chồng không nên để quá muộn. Khi yêu thương một ai đó, hãy thể hiện ngay khi còn có thể, bởi thời gian không chờ đợi ai.

Câu chuyện của Chekhov không chỉ là một tác phẩm văn học xuất sắc mà còn là một bài học sâu sắc về cuộc sống. Nó khiến người đọc phải suy ngẫm về những giá trị quan trọng trong đời: “Đừng trì hoãn yêu thương. Một lời yêu hôm nay đáng giá hơn cả ngàn câu hối tiếc sau này.”

Người phương Tây có câu: “Whispered words—too late. Echoes in the empty room, love left unspoken.”

Lời thì thầm quá muộn để nói ra chỉ vang vọng trong căn phòng trống, lời yêu thương chưa nói, giờ mới nói ai nghe?

Đoàn Xuân Thu 

From: NguyenNThu                              


 

Sự Khiêm Nhường và Đơn Sơ tột cùng của Đức Giáo Hoàng Phanxicô (1936 – 2025)-Tác giả: Phùng Văn Phụng

Tác giả: Phùng Văn Phụng

Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã an nghỉ trong Chúa lúc 7 giờ 35 sáng (giờ Ý) tức 12 giờ 35 trưa (giờ Việt Nam) ngày thứ Hai Phục sinh 21 tháng 04 năm 2025 thọ 88 tuổi. Ngài qua đời vì “đột quỵ não, hôn mê, suy tim mạch không hồi phục” giấy chứng tử cho bìết (tin từ Vietcatholic.net)

1)Ngài làm việc cho đến phút chót:

Ngài đã ra đi một ngày sau khi tiếp Phó Tổng thống Mỹ JD Vance

Vào tháng 09 năm 2024, Ngài đã thực hiện chuyến công du dài 12 ngày qua Đông Nam Á và Châu Đại Dương bao gồm các chuyến thăm tới Indonesia, Papua New Guinea và Singapore.

Nhà báo Hà Phan (không là người công giáo) viết: Giáo hoàng Francis chỉ để lại tài sản trị giá 100 USD sau khi qua đời ở tuổi 88! Lúc còn sống, Ngài từ chối nhận lương, từ chối ở tại khu biệt thự trong Điện Tông tòa, từ chối đi xe sang, không sử dụng trang phục và phục sức đắt tiền. Giáo hoàng sống cuộc đời giản dị cho đến khi về với Chúa!

Ngài cũng không nhận bất kỳ khoản tiền lương nào kể từ khi trở thành Giáo hoàng vào tháng 3-2013. Kể cả sau khi được tấn phong Hồng y vào năm 2001, Ngài vẫn sống trong một căn hộ nhỏ và sử dụng phương tiện công cộng như xe buýt hay tàu điện ngầm thay vì những chiếc ô tô sang trọng có tài xế riêng hay có đội bảo vệ riêng dành cho các Hồng y để giữ gìn tinh thần khó nghèo, vâng phục lời khấn “khó nghèo” mà Ngài tuyên hứa với Dòng Tên. (Trích từ TT)

Trong ký ức của những người dân nghèo ở Buenos Aires, nhất là khu ổ chuột lớn nhất thủ đô Argentina, Giáo hoàng Francis, khi đó là linh mục Jorge Mario Bergoglio, mãi mãi là “linh mục của dân nghèo”, là người cha luôn yêu thương, giúp đỡ những người sống bên rìa xã hội.

 2)Hôn chân tù nhân: (báo Tiền Phong)

Ngày 14/4/1922, Giáo hoàng Francis đến thăm một nhà tù của Ý để thực hiện lễ rửa và hôn chân 12 tù nhân, nhằm tưởng nhớ cử chỉ khiêm nhường của Chúa Jesus với các tông đồ trong đêm trước khi qua đời.

 Giáo hoàng Francis hôn chân phạm nhân trong một nhà tù ở Ý. (Ảnh: Vatican)

 3)Đơn Sơ đến tận cùng, không hương hoa, không đèn nến.

Linh cữu Đức Thánh Cha Phanxicô lặng lẽ giữa đền thờ Thánh Phêrô – một cỗ quan tài gỗ trơn, mộc mạc, không một hoa văn.

Ngài đã chọn sống nghèo khó và khiêm hạ – và ra đi cũng như thế. Không vòng hoa như trong các đám tang thông thường hiện nay.

Mong sao các đám tang Công giáo cũng bày trí đơn sơ như thế này.

Tạm biệt Đức Thánh Cha Phanxicô, chứng nhân của Tin Mừng, người hành hương của hy vọng.

nguồn: Đền Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp


Ngài là hiện thân của “Tình yêu bao la dành cho mọi người đặc biệt người nghèo khó và bị gạt bên lề xã hội”

Đức Thánh Cha Phanxicô là tấm gương phản diện cho con người hiện nay trong đời thường còn quá nhiều ham muốn trần tục, ham muốn danh vọng, nổi tiếng, ham muốn tiền bạc, giàu sang và nhiều thứ dục vọng ham muốn khác.

Xin cầu nguyện cho linh hồn Đức Thánh Cha Phanxicô sớm hưởng Nhan Thánh Chúa, hưởng vinh phúc muôn đời trên nước Thiên đàng Vĩnh Cửu. Amen

Ngày 25 tháng 04 năm 2025

Phùng Văn Phụng

Xem thêm:

1)ĐƠN SƠ ĐẾN TẬN CÙNG – MỘT CÁI CHẾT NÓI LÊN CẢ MỘT CUỘC ĐỜI – Lm. Anmai, CSsR

https://keditim.net/216028-2/

2)Tiểu sử của Đức Thánh Cha Phanxicô

https://keditim.net/216022-2/