30 THÁNG 4

Xuyên Sơn

 30 THÁNG 4

Xin các bạn nói chuyện với tôi đừng bao giờ nhắc đến từ ăn mừng ngày giải phóng 30 tháng 4 nhe, nếu các bạn còn coi tôi là bạn, bởi với tôi đó là một tháng 4 đen vì giải phóng vô đây có vạn người vui nhưng có triệu người buồn !

Hình 1:

Thiếu tá Đặng Sĩ Vinh vị sĩ quan QLVNCH đã tuẫn tiết cùng với vợ con khi hay quân CSBV đã tiến chiếm Saigon, ông thà chết vinh hơn sống nhục

Hình 2:

Trung tá Cảnh Sát Quốc Gia Nguyễn Văn Long tự sát trước tượng đài Thủy Quân Lục Chiến tại Saigon trong ngày 30 tháng 4 !

Ông chấp nhận cái chết chớ không muốn rơi vào tay giặc thù !

Anh Hùng Tử Khí Hùng Bất Tử

Mẹ Việt Nam Ơi,

Con Xin Tạ Lỗi Dưới Chân Người .!

Nguồn: fb Si Ngo


 

Quá sợ Trump, dân Canada bỏ phiếu cho Carney thắng, khiến lãnh tụ Đảng Bảo Thủ mất ghế

Ba’o Nguoi-Viet

April 29, 2025

TORONTO, Canada (NV) – Đảng Tự Do của Thủ Tướng Mark Carney đã giành chiến thắng trong cuộc bầu cử liên bang Canada, chặn đứng một ngã rẽ đáng sợ với mối đe dọa bị sáp nhập vào Mỹ cùng với cuộc chiến tranh thương mại của Tổng Thống Mỹ Donald Trump nhắm đánh Canada, thông tấn xã AP loan tin hôm Thứ Ba, 29 Tháng Tư.

Đối thủ của Thủ Tướng Carney, là nhà lãnh đạo Đảng Bảo Thủ theo chủ nghĩa dân túy Pierre Poilievre, đã bị cử tri bỏ phiếu truất khỏi ghế của mình trong Quốc Hội, theo tính toán của Hiệp Hội Phát Thanh Truyền Hình Canada.

Việc mất ghế đại diện cử tri Quận Ottawa trong cuộc tuyển cử vào hôm Thứ Hai đã đánh dấu đà sụt giảm nhanh chóng trong vận may của ứng cử viên Poilievre, nhân vật mà cách đây vài tháng có vẻ như là sẽ trở thành vị thủ tướng tiếp theo của Canada và giúp cho Đảng Bảo Thủ quay trở lại nắm quyền sau một thập niên đứng bên lề. Nhưng sau đó, cũng nhờ Tổng Thống Mỹ Donald Trump bỗng dưng phát động cuộc chiến tranh thương mại với Canada và đòi nước này phải trở thành tiểu bang thứ 51 của Hoa Kỳ mà cử tri Canada đâm ra phẫn nộ, dẫn đến chuyện đảo lộn kết quả cuộc bầu cử.

Thủ Tướng Canada, nhà lãnh đạo Đảng Tự DoMark Carney phát biểu trước những người ủng hộ sau khi đắc cử thủ tướng ngày 29 Tháng Tư, 2025 ở Ottawa, Canada. (Hình: Andrej Ivanov/Getty Images)

Ông Poilievre, một chính trị gia chuyên nghiệp, đã vận động tranh cử với sự liều lĩnh giống như ông Trump bên Mỹ, rõ ràng là đã lấy một chương từ trong chính sách của vị tổng thống Mỹ này, là “Nước Mỹ Trên Hết,” khi ông áp dụng khẩu hiệu “Canada Trên Hết” để làm cương lĩnh chính trị của đảng mình.

Thế là những điểm tương đồng của ông Poilievre với ông Trump, rốt cuộc, có thể đã khiến ông và đảng của ông phải trả giá đắt. Nhờ thế mà Đảng Tự Do mà theo dự đoán sẽ giành được nhiều ghế hơn trong số 343 ghế của Quốc Hội so với Đảng Bảo Thủ. Tuy vậy, hiện vẫn chưa rõ liệu họ có giành được đa số hoàn toàn, tức là phải giành được ít nhất là 172 ghế, hoặc là sẽ phải liên hiệp với một đảng nhỏ hơn để thông qua các đạo luật và tiếp tục nắm quyền.

Trong bài diễn văn tuyên bố chiến thắng, Thủ Tướng Carney nhấn mạnh đến tầm quan trọng của tình đoàn kết dân tộc khi đang phải đối phó với các mối đe dọa từ Washington. Ông cũng cho biết hệ thống bang giao đôi bên cùng có lợi, mà Canada và Hoa Kỳ đã cùng nhau áp dụng từ Thế Chiến II cho tới ngày nay, coi như đã kết thúc mất rồi.

“Chúng ta đã vượt qua cú sốc do sự phản bội của Mỹ gây ra, nhưng chúng ta không bao giờ nên quên những bài học thấm thía đó,” ông Carney nói. “Như tôi đã báo động trong nhiều tháng, nước Mỹ thèm khát đất đai, tài nguyên, nước, và xứ sở của chúng ta,” vị đương kim thủ tướng nói thêm.

“Đây không phải là những mối đe dọa suông. Tổng Thống Trump đang cố gắng đập tan chúng ta để nước Mỹ có thể làm chủ đất nước chúng ta. Điều đó sẽ không bao giờ… không bao giờ xảy ra đâu. Nhưng chúng ta cũng phải nhận ra thực tế chẳng mấy hay ho gì rằng thế giới của chúng ta đã thay đổi từ căn bản. Hy vọng rằng thất bại của Đảng Bảo Thủ dưới quyền ông Poilievre sẽ biến cuộc bầu cử này thành một cuộc trưng cầu dân ý về cựu Thủ Tướng Justin Trudeau, nhân vật phải lãnh đủ sự ủng hộ giảm sút của cử tri vào cuối giai đoạn cầm quyền khi giá thực phẩm và nhà ở tại Canada tăng cao quá…” (TTHN)


 

Kỷ niệm tháng Tư đen: Hồi Ức của một người Bạn Mỹ tốt của VNCH

Giáo sư Stephen Young, một học giả Mỹ được xem là “có trái tim Việt Nam” vì luôn quan tâm đến vận mệnh của dân tộc Việt.

Tác giả Stephen B. Young (trái) và bìa sách 'Kissinger's Betrayal: How America Lost the Vietnam War'Tác giả Stephen B. Young (trái) và bìa sách Kissinger’s Betrayal: How America Lost the Vietnam War
 
Tiến sĩ Young Giáo sư Stephen Young đã từng giảng dạy tại các trường đi học nổi tiếng ở Hoa Kỳ như Havard, Hamline và Minnesota. Ông phục vụ tại Việt Nam từ năm 1968-1971 và rất am tường lịch sử Việt Nam cũng như tình hình thế giới xưa và nay.

Năm 1993, Giáo sư Stephen Young và nhóm Phong Trào Thống Nhất Dân Tộc và Xây dựng Dân Chủ tổ chức một hội nghị quốc tế về Việt Nam, tại Sài Gòn. Trên nguyên tắc hội nghị này được chấp thuận với sự tham dự của ông Young, Tướng Westmoreland và Thượng Nghị sị John McCain, nhưng hội nghị đã bị cấm một ngày trước khi khai mạc. Ông Young và các thủ lãnh của Phong Trào là Giáo sư Nguyễn Đình Huy và một số người thuộc đảng Tân Đại Việt đã bị bắt giữ. Giáo sư Nguyễn Đình Huy bị kết án 17 năm tù còn ông Young bị trục xuất khỏi Việt Nam ngay sau đó. 

Tôi quan sát thấy Lớp Trẻ Việt Nam sinh ra và lớn lên tại Mỹ nói và viết tiếng Anh rất thông thạo như người bản xứ nhưng không nói và viết được tiếng mẹ đẻ. Lớp trẻ này là người Mỹ gốc Việt. Câu hỏi của tôi là họ có nghĩ tới Việt Nam không? Họ có lo cho Việt Nam không? Ðây cũng là điều tự nhiên vì họ trưởng thành ở xứ nào thì chỉ biết văn hóa xứ đó.

Họ không muốn tham gia các sinh hoạt Chính Trị Đấu Tranh cho Việt Nam. Và hình như lớp người trẻ này chỉ thích về Việt Nam Đi Du Lịch. Còn lớp người vẫn còn lo lắng cho Việt Nam thì bây giờ lớn tuổi lắm rồi.

Thành ra tôi nghĩ, những người Việt Nam còn ý thức được số phận của Dân Tộc phải tổ chức những Sinh Hoạt Văn Hóa nhằm khơi dậy lòng tự hào Dân Tộc nơi Lớp Người Trẻ để (Lớp Người Trẻ này) tham gia vào các Hoạt Động cho Việt Nam.

Thánh Catarina ở Siena, Tiến Sĩ Hội Thánh (1347-1380) – Cha Vương

Một ngày yêu thương nhiều hơn giận hờn ghen ghét nhé bạn. Hôm nay 29/04 Giáo hội mừng kính thánh Catarina ở Siena, mừng quan thầy đến những ai chọn ngài làm bổn mạng.

Cha Vương

Thứ 3: 29/04/2025

Thánh Catarina ở Siena, Tiến Sĩ Hội Thánh (1347-1380). Tên thật là Catarina Benincasa sinh ngày 25 tháng 3 năm 1347 tại Siena, Tuscany, Ý Đại Lợi và là người con út trong gia đình 25 người con. Ngài là một nữ tu Dòng Đa Minh, một nhà huyền bí nồng nhiệt, một chiến sĩ bảo vệ sự thánh thiện của Giáo Hội Công giáo. Ngài sinh sống trong thế kỷ thứ XIV, một thời kỳ mà Giáo Hội đang gặp phải những khó khăn chia rẽ dường như khó mà hàn gắn được. 

    Ngay từ khi bảy tuổi, cô đã dâng hiến tâm hồn cho Ðức Kitô. Khi lớn lên cô bày tỏ ý muốn đi tu, nhưng gia đình lại muốn cô kết hôn. Ðể nói lên ý chí quyết liệt của mình, cô đã cắt tóc và sau cùng, với sự đồng ý của cha mẹ, Catarina gia nhập tổ chức Mantellate, là hội phụ nữ có liên hệ đến Dòng Ða Minh, họ mặc áo dòng nhưng sống ở nhà, phục vụ người nghèo và người đau yếu. Cô sống ẩn dật trong một căn phòng nhỏ tại gia đình ở Siena. Trong vòng hai năm liên tiếp cô không bao giờ rời phòng, trừ khi đi xem lễ và xưng tội, và cũng không nói chuyện với một ai ngoại trừ cha giải tội. Trong thời gian này, Catarina tập luyện tinh thần qua lối sống khắc khổ. Sau đó, cô tự phá vỡ đời sống cô độc và bắt đầu hăng say chia sẻ công việc trong nhà, săn sóc người bệnh và giúp đỡ người nghèo. Tuy nhiên cô vẫn dành thời giờ trong thinh lặng và chiêm niệm. Dần dà, người ta nhận thấy dường như Thánh Catarina đọc được tâm hồn của họ và dân chúng thuộc đủ mọi thành phần – giầu và nghèo, tu sĩ và giáo dân, thợ thuyền và lính tráng – bắt đầu tuốn đến với ngài để được khuyên bảo. Từ đó một tổ chức tông đồ giáo dân được thành hình. Các lá thư của ngài, hầu hết là các lời khuyên bảo tinh thần và khuyến khích các người mến mộ, ngày càng được công chúng đón nhận. Ngài có ảnh hưởng rất lớn vì sự thánh thiện hiển nhiên. Tất cả công việc ngài thi hành đều được thúc đẩy bởi ngọn lửa tình yêu. Cuộc sống của ngài luôn ẩn náu trong những vết thương của Chúa Kitô bị đóng đinh. Ngài cảm nhận trong thâm sâu của con tim và trong đức tin của ngài, những thảm họa của Giáo Hội và của xã hội ngài đang sống, vẫn còn tiếp tục đóng đinh Chúa Kitô. Ngài đã làm trung gian để đem lại hòa bình giữa các đô thị và giữa các phe nhóm thù nghịch. 

    Một vài tuần trước khi chết, ngài đang cầu nguyện trước một bức khảm ở Ðền Thánh Phêrô, ngài trông thấy con thuyền của Thánh Phêrô như rời khỏi bức khảm và đậu trên vai của ngài. Con thuyền xô ngài ngã quỵ và người ta phải khiêng ngài về nhà. Ngài hầu như bất toại cho đến khi từ trần ngày 29 tháng 4  năm 1380, lúc ấy mới ba mươi ba tuổi. Ngài được Ðức Giáo Hoàng Pius II phong thánh năm 1461, và được coi là một trong những vị thần nghiệm và văn sĩ linh đạo của Giáo Hội. Vào ngày 04 tháng 10 năm 1970, Ðức Giáo Hoàng Phaolô VI tuyên xưng ngài là Tiến Sĩ Hội Thánh. Ngài là người phụ nữ thứ hai (sau Thánh Têrêsa ở Avila) được vinh dự  này. 

(Tóm lược từ nguồn: Nhóm Tinh Thần)

 Sau đây là những câu nói của ngài:

❦ Phạm tội là con người, nhưng ngoan cố trong tội là ma quỷ.

❦  Đối với các linh hồn hoàn thiện mọi nơi đều là nguyện đường. 

❦ Ta [Thiên Chúa] thương yêu con nhiều hơn con có thể yêu thương bản thân con, và ta ân cần chăm sóc cho con cả ngàn lần hơn con có thể chăm sóc bản thân con. 

❦ Con người được tạo dựng nên do tình yêu, để con người sống cho tình yêu. 

+ Câu nào đánh động bạn nhất?

Xin thánh Catarina thành Siena cầu bầu cho chúng con.

From: Do Dzung

***********************

Tình Yêu Thiên Chúa – Vy Oanh

Bắt thẩm phán, gây khủng hoảng du học sinh: Chính quyền Trump bị tố “lạm quyền trắng trợn”

Ba’o Dat Viet

April 27, 2025

MILWAUKEE – Một thẩm phán liên bang bị bắt ngay giữa nhiệm sở. Hàng ngàn du học sinh lao đao, bị đẩy đến bờ vực trục xuất. Ngày 25 Tháng Tư, hai sự kiện chấn động đã phơi bày tình trạng rối loạn và lạm quyền ngày càng trắng trợn của chính quyền Donald Trump trong cuộc chiến di trú đầy tranh cãi.

Cục Điều tra Liên bang Mỹ (FBI) đã còng tay thẩm phán Hannah Dugan, hạt Milwaukee (bang Wisconsin), với cáo buộc trợ giúp người nhập cư bất hợp pháp trốn tránh truy bắt. Giám đốc FBI Kash Patel xác nhận trên mạng xã hội X rằng bà Dugan bị truy tố vì “cản trở thi hành công vụ” – một cáo buộc đang bị giới luật gia lẫn các chính trị gia chỉ trích là nhằm mục tiêu chính trị.

Tại phiên tòa cùng ngày, bà Dugan chọn im lặng, để luật sư của mình, Craig Mastantuono, lên tiếng phản đối vụ bắt giữ mà ông gọi thẳng là “hành động phi lý, đe dọa nền pháp quyền.”

Thống đốc bang Wisconsin, ông Tony Evers, cũng không giấu được sự phẫn nộ khi tuyên bố việc còng tay một thẩm phán là “cú đòn đánh vào năng lực hành pháp và nền dân chủ Mỹ.” Vụ việc diễn ra giữa lúc nhiều thẩm phán liên bang và tiểu bang đang mạnh mẽ chống lại các sắc lệnh di trú hà khắc của ông Trump.

Chưa dừng lại ở đó, cùng ngày, Bộ An ninh Nội địa Mỹ phải chấp nhận khôi phục trạng thái cư trú hợp pháp cho hàng trăm du học sinh – sau ba tuần gây ra hỗn loạn chưa từng thấy bằng cách xóa hồ sơ cư trú trên hệ thống SEVIS.

Ít nhất 1.800 du học sinh và 280 trường đại học bị cuốn vào cơn bão nhập cư. Hàng loạt sinh viên mất việc, buộc phải rời khỏi Mỹ, hoặc kéo nhau ra tòa. Theo thống kê, hơn 100 đơn kiện đã được các tòa án trên toàn quốc thụ lý, khiến chính quyền Trump phải đối mặt với áp lực pháp lý ngày càng lớn.

Dưới áp lực trong và ngoài nước, giới quan sát nhận định rằng việc bắt thẩm phán và truy lùng du học sinh chỉ càng bộc lộ một chính quyền ngày càng đơn độc, đang sử dụng luật pháp như vũ khí chính trị, bất chấp mọi nguyên tắc pháp quyền căn bản mà nước Mỹ từng tự hào.


 

Chính quyền Trump kỳ vọng Mật nghị Hồng y chọn một giáo hoàng nhu nhược và dễ kiểm soát

RFI 

Mật nghị Hồng y chịu trách nhiệm bầu người kế nhiệm giáo hoàng Phanxicô sẽ bắt đầu hôm 07/05/2025. Với các chính sách hỗ trợ tích cực những người nghèo khổ nhất, dang tay tiếp đón di dân, tư tưởng tương đối tiến bộ, trái ngược hoàn toàn với ý thức hệ của Donald Trump, giáo hoàng Phanxicô đã đi ngược lại làn sóng chủ nghĩa dân tộc toàn cầu trước khi qua đời. Giờ đây, chính quyền Hoa Kỳ dưới sự lãnh đạo của Donald Trump muốn chứng kiến một giáo hoàng bảo thủ hơn.

Đăng ngày: 28/04/2025 

Ảnh tư liệu : Tổng thống Mỹ Donald Trump (T) và giáo hoàng Phanxicô tại Vatican, ngày 24/05/2017.

Ảnh tư liệu : Tổng thống Mỹ Donald Trump (T) và giáo hoàng Phanxicô tại Vatican, ngày 24/05/2017. REUTERS/Evan Vucci/Pool

Phan Minh

Một trong những hình ảnh cuối cùng của giáo hoàng Phanxicô là một ngày trước khi tạ thế, ngài mỉm cười với J. D. Vance, phó tổng thống Hoa Kỳ, người đã gia nhập Công Giáo vào năm 2019. Sinh ra trong một gia đình theo đạo Tin Lành ở bang Ohio, ông Vance là người ủng hộ một Công Giáo kêu gọi sự trở lại của một nước Mỹ bảo thủ, đồng nhất với ý thức hệ của Donald Trump, cách xa ý thức hệ của giáo hoàng Phanxicô hàng vạn dặm. Trong suốt thời gian làm giáo hoàng, ngài đã tìm cách chống lại sự ích kỷ của các quốc gia, thúc đẩy các nước tiếp đón di dân và hỗ trợ những người nghèo khổ. Về một số vấn đề xã hội, giáo hoàng Phanxicô đã bảo vệ tư tưởng tiến bộ tương đối, làm xáo trộn một Giáo hội vốn bảo thủ từ trước đến nay.

Ngay từ năm 2016, giáo hoàng Phanxicô đã công kích Donald Trump và chính sách di cư khắc nghiệt của ông khi tuyên bố : “Người muốn xây dựng tường mà không xây cầu thì không phải là người Công Giáo.”

Giáo hoàng quá cố cũng đã tìm cách ngăn chặn làn sóng dân tộc chủ nghĩa dân túy cả ở ngoài Hoa Kỳ. Đồng hương Achentina của ngài, tổng thống Javier Milei, đã gọi giáo hoàng Phanxicô là “kẻ ngốc”, coi ngài là “hiện thân của cái ác trên Trái đất”. Giáo hoàng cũng đã phản đối các lập trường gây tác hại đến môi trường của cựu tổng thống Brazil Jair Bolsonaro, đặc biệt trong khu vực Amazon. Cho đến lần xuất hiện trước công chúng cuối cùng, giáo hoàng vẫn tỏ ra lo lắng về nỗi đau khổ của người Palestine, lên án cuộc chiến mà thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu khơi mào ở dải Gaza.

Tuy nhiên, Hoa Kỳ có một công cụ gây ảnh hưởng lớn đối với Tòa Thánh, đó là khoản tiền tài trợ hàng triệu đô la. Mặc dù Mỹ, quốc gia chủ yếu theo đạo Tin Lành, chỉ có “20,8%” tín đồ Công Giáo, nhưng các nhà tài trợ của họ lại chiếm gần 40% số tiền đóng góp cho Tòa Thánh, theo nhận định của nhà báo Christine Pedotti trên France 24 hôm 22/04.

France 24, ngày 25/04, có bài phỏng vấn Nicolas Senèze, phóng viên thường trú tại Vatican của nhật báo Công Giáo La Croix từ 2016 đến 2020 và là tác giả của cuốn “Comment l’Amérique veut changer de pape” (Hoa Kỳ muốn thay thế giáo hoàng bằng cách nào), kể về cách các nhóm vận động Mỹ đã tìm cách lật đổ giáo hoàng và chuẩn bị cho thời kỳ hậu Phanxicô ngay từ nhiệm kỳ tổng thống đầu tiên của Donald Trump. RFI xin giới thiệu.

Liệu Mỹ có phải là nhà tài trợ lớn nhất của Vatican ? Sức mạnh tài chính này có mang lại cho Hoa Kỳ tầm ảnh hưởng đặc biệt ?

Nicolas Senèze : Những con số mà chúng ta thường nhắc đến về tài trợ của Mỹ liên quan đến những gì gọi là “tiền quyên góp dành cho Thánh Phêrô”. Đây là cuộc quyên góp toàn cầu nhằm tài trợ cho các hoạt động của Tòa Thánh. Trong một thời gian dài, đúng là gần như một nửa số tiền đến từ Hoa Kỳ. Nhưng giờ đây, các nguồn tài trợ đã trở nên đa dạng hơn. Vào năm 2023, theo báo cáo mới nhất từ nền tảng quyên góp chính thức của Vatican, Mỹ chỉ còn chiếm khoảng 28% số tiền quyên góp, nhưng vẫn là quốc gia đóng góp lớn nhất với 13 triệu rưỡi euro.

Cần phải nói thêm rằng tiền quyên góp dành cho Thánh Phêrô đạt khoảng 48 triệu euro vào năm 2023. Tuy nhiên, phần lớn nguồn tài chính của Tòa Thánh đến từ các khoản đầu tư tài chính và bất động sản, cũng như từ doanh thu từ các bảo tàng Vatican.

Vì vậy, Mỹ là nhà tài trợ lớn nhất đối với tiền quyên góp dành cho Thánh Phêrô, nhưng không phải là nguồn tài trợ chính của Vatican nói chung.

Sức mạnh tài chính này tuy nhiên có thể trở thành công cụ gây áp lực. Có thể sẽ hình thành một hình thức “bắt chẹt trợ giúp nhân đạo và tài chính”. Ví dụ, việc cắt giảm ngân sách của USAID đã tác động mạnh đến các hoạt động từ thiện của Giáo hội Công Giáo trên toàn thế giới, đặc biệt là ở châu Phi. Washington có thể gây áp lực với các hồng y châu Phi và nói “các ngài hãy bỏ phiếu theo ý chúng tôi và các khoản tài trợ sẽ được khôi phục”.

Tôi rất ngỡ ngàng khi nghe các hồng y châu Phi kể lại rằng ngay từ thời tổng thống Barack Obama, Hoa Kỳ đã gây áp lực về những hỗ trợ nhân đạo đối với các vấn đề như phá thai. Đây là một kiểu bắt chẹt trợ giúp nhân đạo mà chính quyền Trump giờ đây vẫn áp dụng.

Làm thế nào phe bảo thủ Mỹ có thể tác động đến cuộc bỏ phiếu bầu giáo hoàng ?

Nicolas Senèze : Trong số 135 hồng y cử tri, tầm ảnh hưởng của các hồng y bảo thủ người Mỹ như hồng y Raymond Leo Burke khá hạn chế. Họ chỉ chiếm phần nhỏ và không có tầm ảnh hưởng thực sự để bầu ra một giáo hoàng có cùng chung quan điểm.

Tuy nhiên, cũng có những cách khác để gây áp lực. Trong cuốn sách của mình, tôi kể về chiến dịch “Red Hat Report”, nhằm bôi nhọ hình ảnh của một số hồng y. Không loại trừ khả năng, trước thềm hội nghị, một hồ sơ về một hồng y nào đó có thể được công bố mà họ không thể phản bác. Với thời đại mạng xã hội, điều này khá dễ dàng. Các hồng y cử tri có thể nghĩ rằng “không có lửa thì không có khói”, và ứng viên đó sẽ bị loại.

Những người ủng hộ Donald Trump cũng kiểm soát hệ thống tình báo Mỹ và có thể dùng công cụ này chống lại một ứng viên nào đó. Đây là cách để gây áp lực với Mật nghị Hồng y, với mục đích bầu lên một vị giáo hoàng không nhất thiết phải là “người của họ”, nhưng ít ra là một người mềm mỏng, có thể kiểm soát được. Mục tiêu là loại bỏ tất cả những ứng viên có đủ bản lĩnh để duy trì những cải cách của giáo hoàng Phanxicô.

Mọi người đã thấy những nỗ lực kiểu này vào năm 2018. Giám mục Vigano, cựu đại sứ của giáo hoàng tại Mỹ, đã công bố một bức thư yêu cầu giáo hoàng Phanxicô từ chức, cáo buộc ngài là đồng phạm của hồng y McCarrick trong các vụ bê bối lạm dụng tình dục.

Giáo hoàng Phanxicô là người đại diện cho một Công Giáo đa văn hóa, trái ngược với KitôGiáo bản sắc mà phe bảo thủ ủng hộ Donald Trump thúc đẩy. Liệu tầm nhìn của ngài có thể tồn tại trong một thế giới ngày càng phân cực ?

Nicolas Senèze : Việc bầu chọn giáo hoàng Phanxicô đã xác nhận một sự chuyển biến dân số trong Giáo hội hướng về các quốc gia phương Nam. Theo tôi, đây là một trong những lý do chính giải thích các chống đối nhắm vào giáo hoàng Phanxicô : một phần của Công Giáo châu Âu rất khó chấp nhận rằng một người có thể theo Công Giáo mà không theo mô hình châu Âu.

Trong nhiều thế kỷ, châu Âu đã dẫn dắt Giáo hội, và ngày nay, một bộ phận Công Giáo ở châu Âu và Mỹ khó chấp nhận việc một tín đồ Công Giáo với những ảnh hưởng văn hóa từ Mỹ Latinh, châu Phi hay châu Á.

Giáo hoàng Phanxicô đã rất chú trọng đến Công Giáo đa văn hóa. Nhưng đối với những người mang tư tưởng phân biệt bản sắc, chủ nghĩa đa văn hóa là điều không thể chấp nhận. J. D. Vance là một ví dụ điển hình. Phó tổng thống Mỹ có những quan điểm trái ngược hoàn toàn với giáo hoàng Phanxicô, đặc biệt là về tình yêu trong Kitô Giáo. Ông Vance bảo vệ ý tưởng phải yêu quý gia đình trước tiên, rồi đến cộng đồng, sau đó là đất nước và cuối cùng là những người xa lạ. Giáo hoàng Phanxicô đã đáp lại rằng hình mẫu của tình yêu Kitô Giáo chính là người Samari nhân lành, vượt ra khỏi vòng tròn này.

Giáo hoàng Phanxicô đại diện cho một Giáo hội mang tính toàn cầu, đa văn hóa, trong một thế giới đa cực. Nhưng giờ đây, thế giới không còn đa cực, ta thực sự thấy những đế chế đang được hình thành, trong khi ngài Phanxicô luôn từ chối trở thành “người làm từ thiện cho phương Tây”.

Đối với ngài, giáo hoàng phải là người lãnh đạo tất cả các tín đồ Công Giáo – người Nga, người Ukraina… – và không thể là một giáo hoàng của phe này chống lại phe kia. Ngài luôn chối bỏ những logic của đế chế hoặc cuộc đối đầu giữa các nền văn minh.

Ngày nay, tôi nghĩ rằng các hồng y có đủ tính đa dạng và chính họ đại diện cho những nền văn hóa cực kỳ khác biệt để không rơi vào cạm bẫy bầu ra một giáo hoàng chỉ đại diện cho một nền văn hóa duy nhất.


 

CẦU NGUYỆN NHƯ MỘT TÍN HỮU KITÔ -Rev. Ron Rolheiser, OMI 

Rev. Ron Rolheiser, OMI 

Trong Kitô giáo có bốn dạng cầu nguyện khác biệt.  Có lời cầu nguyện nhập thế, lời cầu nguyện thần nghiệm, lời cầu nguyện cảm xúc và lời cầu nguyện linh mục.  Vậy những lời cầu nguyện này là gì và khác nhau như thế nào?

 Lời cầu nguyện nhập thế.  Thánh Phaolô mời gọi chúng ta “cầu nguyện luôn mãi.”  Làm sao có thể làm được?  Chúng ta có thể hay không thể cầu nguyện luôn mãi?  Điều mà thánh Phaolô mời gọi chúng ta cũng là điều Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta khi Ngài bảo “hãy đọc dấu chỉ của thời đại.”  Khi nói thế, Chúa Giêsu không bảo chúng ta hãy đọc mọi phân tích chính trị, kinh tế, xã hội mình tìm được.  Đúng hơn, Ngài mời gọi chúng ta hãy tìm kiếm ngón tay của Thiên Chúa trong mọi sự kiện trong đời chúng ta.  Thế hệ cha mẹ tôi gọi điều này là hòa hợp với “sự quan phòng tối cao”, nghĩa là nhìn vào mọi sự kiện trong đời mình và những sự kiện chính của thế giới rồi tự vấn: “Thiên Chúa nói gì với chúng ta trong những sự kiện này?”  Nhưng khi làm việc này, chúng ta phải cẩn thận.  Thiên Chúa không gây ra tai nạn, bệnh tật, thương tâm, chiến tranh, nạn đói, động đất, trái đất nóng lên hay đại dịch, Thiên Chúa cũng không cho trúng số hay cho đội bóng chúng ta yêu thích thành vô địch, nhưng Thiên Chúa nói qua những sự việc này.  Chúng ta cầu nguyện nhập thế khi tìm ra tiếng nói đó.

 Lời cầu nguyện thần nghiệm.  Cầu nguyện thần nghiệm không phải là việc có trải nghiệm thiêng liêng phi thường như thị kiến, xuất thần.  Thần nghiệm không phải hướng về những điều này.  Trải nghiệm thần nghiệm của tôi đơn giản là được Thiên Chúa chạm đến cách thâm sâu hơn những gì chúng ta có thể nắm bắt và hiểu được bằng trí tuệ và tưởng tượng, một hiểu biết vượt trên cả tâm và trí.  Nhận thức thần nghiệm hoạt động như sau: Cái đầu bảo cho chúng ta biết suy nghĩ nào của chúng ta là khôn ngoan để thực hiện, trái tim cho chúng ta biết điều chúng ta muốn và trung tâm thần nghiệm cho chúng ta biết chúng ta phải làm gì.  Ví dụ như tác giả C.S. Lewis mô tả trải nghiệm trở lại đạo của ông, ông kể lần đầu tiên ông quỳ gối và công nhận Chúa Kitô, ông đã không nhiệt tâm làm.  Thay vào đó, theo lời nổi tiếng của ông, ông đã quỳ gối “trong lần trở lại gượng ép nhất trong lịch sử Kitô giáo.”  Điều gì đã buộc ông làm điều này?  Ông nói: “Sự hà khắc của Chúa thì tốt hơn là sự dịu dàng của con người, và sự ép buộc của Chúa là sự giải phóng chúng ta.”  Chúng ta cầu nguyện cầu nguyện thần nghiệm bất cứ khi nào chúng ta lắng nghe và nghe thấy tiếng nói cưỡng bức nhất trong chúng ta, tiếng nói mách bảo cho chúng ta biết điều mà Thiên Chúa và bổn phận kêu gọi chúng ta làm.

 Lời cầu nguyện cảm xúc.  Đó là mọi lời cầu nguyện sốt mến (chầu Thánh Thể, đọc kinh cầu, kinh mân côi, những lời cầu nguyện xin Đức Mẹ hay các thánh cầu bàu) xét cho cùng, đây là lời cầu nguyện cảm xúc, là những dạng chiêm nghiệm và suy niệm.  Chúng đều như nhau về ý chỉ.  Đó là gì vậy?  Trong Phúc âm thánh Gioan, những lời đầu tiên Chúa Giêsu phán là một câu hỏi.  Dân chúng tò mò nhìn Ngài, và Ngài hỏi họ, “Các anh tìm gì?” Câu hỏi đó tồn tại xuyên suốt toàn bộ các phúc âm như một câu nền.  Nhiều điều diễn ra trên bề mặt, nhưng bên trong luôn có một câu hỏi day dứt, băn khoăn: “Các anh tìm gì?”

 Chúa Giêsu chính xác trả lời cho câu hỏi này vào sáng ngày phục sinh.  Khi bà Maria Magđala đi tìm Ngài, đem theo thuốc thơm để xức xác Ngài.  Chúa Giêsu gặp bà, nhưng bà không nhận ra.  Rồi Ngài lặp lại cùng câu hỏi đã mở đầu Phúc âm: “Bà tìm ai?” và cho chúng ta câu trả lời thực sự.  Ngài gọi tên bà đầy yêu thương: “Maria.”  Khi làm như thế, Ngài mặc khải điều mà bà và hết thảy chúng ta đều luôn mãi tìm kiếm, đó là tiếng Chúa phán trực diện, với tình yêu thương vô điều kiện đang gọi tên chúng ta.  Mọi lời cầu nguyện sốt mến dù cho chúng ta, cho người khác hay cho thế giới, đều có mục đích tối hậu này.

 Lời cầu nguyện linh mục.  Lời cầu nguyện linh mục là lời cầu nguyện của Chúa Kitô cho thế giới thông qua giáo hội.  Kitô giáo tin rằng Chúa Kitô vẫn ở với chúng ta bằng lời của Ngài và bằng phép Thánh Thể.  Và chúng ta tin rằng bất cứ khi nào chúng ta tụ họp với nhau, trong nhà thờ hay nơi nào khác, để quây quần quanh Kinh thánh hoặc để cử hành phép Thánh Thể, là chúng ta đang bước vào lời cầu nguyện này.  Lời cầu nguyện này thường được gọi là lời cầu nguyện phụng vụ, đó chính là lời cầu nguyện của Chúa Kitô chứ không phải của chúng ta.  Hơn nữa, đây không phải là lời cầu nguyện trước hết cho bản thân chúng ta hay cho hội thánh, mà là lời cầu nguyện cho thế giới – “Thịt Ta là của ăn đem lại sự sống cho thế gian.”

 Chúng ta đọc lời cầu nguyện phụng vụ, lời cầu nguyện linh mục, bất kỳ lúc nào chúng ta quây quần quanh Kinh thánh, phép Thánh Thể hay bất kỳ bí tích nào.  Chúng ta cũng cầu nguyện theo cách này khi cầu nguyện các giờ kinh phụng vụ, riêng tư hay với cộng đoàn.  Chúng ta được yêu cầu hãy đều đặn cầu nguyện cho thế giới nhờ thiên chức linh mục được truyền cho chúng ta trong phép rửa.

 Một tín hữu Kitô lành mạnh về mặt thiêng liêng và trưởng thành cầu nguyện theo bốn cách này, và phân biệt rõ ràng bốn dạng cầu nguyện này có thể hữu ích để chúng ta cầu nguyện luôn mãi và cầu nguyện với Chúa Kitô.

 Rev. Ron Rolheiser, OMI

From: Langthangchieutim

VẪN CÒN NƯỚC MẮT –  DODUYNGOC

THÁNG TƯ. MỘT BÀI VIẾT CŨ

VẪN CÒN NƯỚC MẮT –  DODUYNGOC

Tháng tư. Khi cái nóng miền Nam lên đến đỉnh điểm và cờ đỏ giăng đầy lối phố, là đến ngày kỷ niệm. Ngày mà cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt cho rằng: Triệu người vui cũng có triệu người buồn.

Người bên thắng trận có triệu người vui, nhưng thật ra trong niềm vui cũng có chất chứa sâu kín nỗi buồn. Hàng ngàn thanh niên miền Bắc sinh Bắc tử Nam, đã đi và không về cho một chiến thắng cuối cùng. Họ nằm lại và cho đến giờ, cuộc chiến tranh chấm dứt đã 43 năm, gần nửa thế kỷ qua rồi, thịt  xương của họ đã thành cát bụi, đã hoà lẫn với đất cát, tro than, cây cỏ. Người thân của họ vẫn trông chờ, tìm kiếm trong vô vọng. Những bà mẹ miền Bắc chiều chiều vẫn ngóng về Nam, thắp nén nhang gọi hồn con về. Cắm nén nhang lên bàn thờ nhiều khi chỉ là khung ảnh trống không có hình, nhiều khi chỉ ghi một cái tên, cũng có khi là chân dung của một người rất trẻ. Họ ra đi trong chiến tranh và không trở về trong ngày hoà bình, thân xác của họ được vùi vội vàng đâu đó và bây giờ không còn dấu tích. Bạn bè, đồng đội trở về nhưng họ không về. Có người cho đến giờ vẫn chưa được công nhận là liệt sĩ. Và hàng ngày những bà mẹ già buồn bã vẫn đợi tin con. Ngày lễ chiến thắng nhiều người vui nhưng mẹ lại buồn dù con mẹ là người lính của đoàn quân thắng trận.

Một người không về là nỗi đau không riêng người mẹ, nó là nỗi xót xa, khổ đau của cha, của anh em và còn là nỗi đau của người vợ mất chổng, những đứa con lớn lên không biết mặt cha. Chiến tranh đi qua như một con lốc dữ, để lại những nỗi đau không lấp được.

Hàng dãy mộ bia trùng trùng điệp điệp ở Trường Son, ở các nghĩa trang liệt sĩ, nhiều đến không còn nước mắt để khóc thương.

Người ta có thể tung hô, hùng hồn đọc diễn văn, vui chơi với ngày chiến thắng. Nhưng những bà mẹ, người cha, người vợ làm sao vui khi vẫn chưa tìm thấy hài cốt người thân của mình, hay chỉ thấy con, cháu mình chỉ còn là nấm mồ hiu quạnh.

Theo thống kê của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội Việt Nam, trong tất cả các cuộc chiến tranh kể từ sau năm 1945 (bao gồm Chiến tranh Đông Dương, Chiến tranh Việt Nam, Chiến tranh biên giới Tây Nam, Chiến tranh biên giới Việt-Trung và một số chiến dịch chống thổ phỉ và FULRO), cả Việt Nam có trên 1.140.000 liệt sĩ. Theo tài liệu thống kê của cổng thông tin điện tử ngành chính sách quân đội – Cục chính sách – Tổng cục Chính trị – Bộ Quốc phòng thì đến năm 2012, toàn quốc có 1.146.250 liệt sĩ và khoảng 600.000 thương binh, trong đó có 849.018 liệt sĩ hy sinh trong kháng chiến chống Mỹ.(Wikipedia)

Bên thua cuộc là hàng triệu người buồn. Họ bị mất nhiều thứ: công việc, nhà cửa, tương lai không biết về đâu? Là chia ly, là ly tán, là những bất hạnh dồn dập.

Họ cũng có những người thân cầm súng chết trong cuộc chiến. Và cũng có rất nhiều người không về. Trong cơn hoảng loạn của tháng ba, cả tiểu đoàn Thuỷ quân lục chiến bị kẹt lại ở biển Thuận An, pháo dội, súng nổ, nhiều người đã chết và vùi thây trong hố chôn tập thể. Trên con đường từ Phú Bổn về trong những ngày cuối tháng tư, bao nhiêu xác người đã nằm lại bên đường, họ nằm đó và cát bụi thời gian phủ thây họ, gia đình bặt tin và lấy ngày đó làm ngày giỗ. Những ngày cuối của cuộc chiến, xác người vẫn ngã xuống và nhiều người bây giờ cũng không tìm thấy xương cốt mộ bia. Rồi khi lá cờ của bên chiến thắng tung bay trên những thành phố, hàng trăm ngàn người vào trại cải tạo, và hàng ngàn người cũng không trở về, họ chết và thân xác được chôn vội vàng giữa vùng đồi núi xa lạ hoang vu. Người thân của họ đi tìm mà mấy người tìm gặp.

Con số 220.357 binh sĩ VNCH tử trận được Lewy dẫn từ tài liệu lưu trữ của Bộ quốc phòng Mỹ, tính từ năm 1965 đến năm 1974. Cộng thêm con số tử trận trong giai đoạn 1974-1975 và trước đó cho ra ước tính khoảng 300.000 tử trận. Nhà sử học R.J. Rummel đưa ra con số ước tính cao nhất có thể lên tới 313.000 tử trận.

Theo thống kê chi tiết của Jeffrey J. Clarke thì tính từ năm 1960 tới 1974, Quân lực Việt Nam Cộng hòa có 254.256 lính tử trận. Cộng thêm con số tử trận trong các năm 1956-1959 và năm 1975 thì số lính Việt Nam Cộng hòa tử trận ước tính là khoảng 310.000 người.

Sau năm 1975 ở miền Nam có hơn 1.000.000 người thuộc diện phải ra trình diện. Riêng ở Sài Gòn có 443.360 người ra trình diện, trong số đó có 28 viên tướng, 362 đại tá, 1.806 trung tá, 3.978 thiếu tá, 39.304 sĩ quan cấp uý, 35.564 cảnh sát, 1.932 nhân viên tình báo, 1.469 viên chức cao cấp trong chính quyền, và 9.306 người trong các “đảng phái phản động”.

Hàng trăm ngàn người đi về phía biển, hàng triệu người bất chấp hiểm nguy đi ra biển và hàng trăm ngàn người chôn vùi thân xác dưới đáy đại dương. Hàng trăm, hàng ngàn người đàn bà bị hãm hiếp trên con đường đi về phía biển ấy, có người bị chết xác quăng xuống biển, cũng có người đi được đến nơi và sống đến bây giờ, nhưng dấu tích của vết thương theo suốt đời họ, không xoá được. Có hàng trăm, hàng ngàn cô gái bị bắt đi và mấy chục năm rồi không tin tức, có thể họ chết lần mòn trong những căn nhà chứa ở Thái Lan. Theo thống kê của cơ quan Tị nạn Liên Hiệp quốc thì có khoảng 500.000 người vượt biên đã bỏ xác ở biển Đông. Thế giới cho rằng đó là cuộc di dân tồi tệ nhất của lịch sử.

Nỗi đau tức tưởi đó làm sao quên, nên tháng tư đối với họ là tháng nước mắt.

Như thế, trong ngày chiến thắng của bên thắng cuộc, cả hai phía vẫn còn những nỗi đau khó xoá. Cả hai phía đều vẫn còn nước mắt. Nước mắt khóc cho một dân tộc bất hạnh có cuộc chiến tranh dài nhất của thế kỷ hai mươi. Một cuộc chiến tranh giữa anh em mà đã 43 năm rồi vẫn chưa hàn gắn được. Thời gian đã trôi qua, cuộc chiến tranh đã lùi xa, nhưng VẪN CÒN NƯỚC MẮT.

15.4.2018

DODUYNGOC


 

Chuyến Vượt Biển Kinh Hoàng – (Sài Gòn trong tôi – Hoàng Định)

Sài Gòn trong tôi

Chuyến Vượt Biển Kinh Hoàng

– Đoàn người chúng tôi vượt biển bằng chiếc ghe với chiều dài khoảng 10 thước, ngang 2 thước, kéo bằng chiếc máy đầu tám ngựa khỏi Bãi Giá, Đại Ngãi, Hậu Giang, Sóc Trăng chở 78 con người đủ lứa tuổi, riêng trẻ em khoảng 20 cả trai lẫn gái, hầu hết thuộc về làng ven biển, mà tôi chỉ biết một số người.

Chúng tôi rời quê hương tháng 2 năm 1990, thời tiết êm dịu, mọi việc kể như trót lọt, nhưng đồ ăn nước uống rất thiếu thốn, vì thế sau bảy ngày chịu đựng một em bé sáu tuổi khóc mãi và chết trong tư thế đang khóc, mọi người lấy ván có sẵn trong ghe làm tạm chiếc hòm với hy vọng ngày mai mang lên bờ chôn cất,

Tối đó có rất nhiều người nằm mơ nhiều chi tiết liên quan đến cái chết của cháu bé, riêng tôi thấy rất nhiều trẻ em kêu khóc, níu kéo ghe chìm xuống, thế là mọi người đều đồng ý cúng vái với một ít mì gói vụn và thả hòm xuống biển, mấy đêm sau đó mọi người không còn những giấc mơ kinh hoàng nữa.

Vài giờ sau chiếc ghe máy bị hỏng không ai sửa chữa được, thế là thuyền lênh đênh trên biển thêm bảy ngày đêm, đói thì ăn cả kem đánh răng, khát thì uống nước biển hoặc nước tiểu, cứ tối đến thì thỉnh thoảng đốt lửa kêu cứu bằng quần áo tẩm dầu. (SGtt-HĐ)

Một đêm, khoảng 2 giờ 30 sáng, trong lúc người ta đốt lửa làm hiệu thì nhận ra một chiếc tàu chạy đến và dừng lại trao cho chúng tôi chuối, nước, rồi tự động cột dây kéo đi. Người trên chiếc tàu đó không biết là người nước nào. Chúng tôi rất mừng vì được cứu. Khoảng mười phút sau đó, tàu dừng lại song song với ghe và ra dấu chỉ vào tai, vào ngón tay, cổ tay chúng tôi, mấy tiếng giọng lơ lớ “US đô la”.

Vì quá vui mừng nên chủ ghe Năm Be vội lấy mũ nỉ gom góp nữ trang của những người trên ghe, họ đứng nhìn và thấy nữ trang được bỏ đầy vào chiếc mũ thì nhẩy qua ôm chiếc mũ sang tàu họ. Một người có vẻ là chủ tàu ra dấu như không đủ vào đâu nên ra dấu bảo đưa thêm hoặc chính họ sang để lục soát. Rồi họ tự động cột giây từ bánh lái đến mũi ghe và cột vào tàu họ.

Tôi và một số thanh niên khác cảm thấy lo sợ và nghi ngờ hành động này thì tức thời họ ra dấu chỉ đám đàn ông đu dây xuống nước dọc thành ghe. Tôi và mọi người cùng biết đây là bọn hải tặc đang tìm cách hãm hại những người trên ghe, đang do dự không tuân lệnh nhưng chủ ghe Năm Be lại giải thích vì của cải chúng tôi nộp cho họ quá ít ỏi không đủ cho chuyến đánh cá của họ. Và vì họ ít người nên ngại chúng tôi đông người đó thôi. (SGtt-HĐ)

Thấy chúng tôi vẫn đứng yên, Năm Be vung tay nói; “Đ.M! có thằng nào chịu nổi cú đấm của tao không mà bày đặt chống cự?”, thế là chúng tôi hậm hực đu xuống, bọn họ chỉ tay ra dấu cho Năm Be đu xuống luôn. Cả đám đàn ông thanh niên đu dây trong biển dọc thành ghe mà nhìn họ.

Trời lờ mờ sáng và với đốm lửa cấp cứu mà chúng tôi đã đốt lên, nhận ra bọn họ khoảng năm tên, tay xách búa chặt cây bước sang lục soát những phụ nữ, trẻ em trên ghe, sau dó tên lái táu lái ghe chạy làm lệch ghe.

Đàn ông thanh niên dưới nước ôm chặt dây sát vào ghe, cố ngoi đầu lên thở còn thân mình và đôi chân trôi trong nước theo tốc độ của ghe bị kéo. Chúng tôi còn đang kinh hoảng thì những chiếc búa vun vút chém vào đầu, vào mình đám đàn ông thanh niên đang đu dây.

Cảnh tượng thật kinh hoảng, những tiếng la ó từ trên ghe của phụ nữ, trẻ con, những tiếng hét đau đớn, thảm thiết vang lên chỉ một lần để rồi tắt lịm của những nhát búa trúng đích vào đầu, tiếng la thất thanh của những ai bị bọn hải tặc man rợ chém trúng tay, cổ, vai hoặc lưng.

Tôi kinh hãi buông tay lúc nào không hay và lặn ngầm qua bên kia của ghe. Tên lái tầu rọi đèn pha đảo qua đảo lại để nhìn cho rõ ràng mà chém, chợt nhận ra tôi, một tên trong bọn lấy mỏ neo liệng theo nhưng may không trúng, thế là tôi lặn tiếp một hơi. (SGtt-HĐ)

Rời xa ghe một khoảng, tôi nhìn lên ghe, đèn sáng choang từ dưới mặt nước nhìn rất rõ, tôi thấy rõ bọn ác thú man rợ tách một đứa bé ra khỏi tay một bà nào đó rồi liệng đứa bé tội nghiệp xuống biển. Tôi tiếp tục bơi xa và nhìn thấy tàu của bọn ác thú hải tặc đã húc cho chiếc ghe của những người tỵ nạn khốn khổ chìm hẳn.

Tôi quá kinh hãi không biết chuyện gì đã xảy ra sau đó nữa ! Mãi sau này khi qua đến trại Sikew và qua những lời kể lại của một bé gái 13 tuổi, tôi mới biết là những trẻ em quá nhỏ thì bị bọn ác thú hải tặc Thái Lan quăng xuống biển, còn bé gái đang lớn và tất cả phụ nữ thì bọn chúng bắt lên tàu bọn chúng và ngày đêm thay nhau hãm hiếp những nạn nhân nữ đáng thương. (Sài Gòn trong tôi)

Tôi vẫn tiếp tục bơi mà chẳng biết đi về đâu, mãi gần sáng gặp được tài công Thời (còn gọi là Chệt Lác) lưng bị chém một nhát búa, và ông Hùng bị một nhát búa ngang mang tai máu me còn rỉ ra.

Cả hai đang ôm một thùng nhựa đựng dầu 20 lít làm phao, tôi mệt quá ghé tay vịn vào nhưng cả hai năn nỉ tôi rời xa đi vì thùng dầu quá bé không đủ sức nổi cho ba người. Tôi thông cảm với họ và chợt nhớ ra vết thương của hai người máu đang rỉ ra và như vậy rất dễ làm mồi cho bọn cá mập hung ác.

Thế là tôi bơi đi và chợt nảy ra sáng kiến cởi chiếc quần dài thắt ống, lộn ngược làm phao, tôi dựa cổ vào đáy quần và cứ thế một vài giờ lập lại cách làm như vậy cho đến khoảng gần giữa ngọ ngày hôm sau. Nhìn xa xa thấy một vật mầu đen đen nhấp nhô, thế là tôi cố gắng lội đến và rất may vớ được thùng dầu từ chiêc ghe của chúng tôi.

Tôi vội ôm ngay vào ngực và thấy sung sướng lạ thường như vừa trút được một khối nặng nề mệt mỏi ra khỏi con người vậy. Nhìn quanh thấy kẻ ôm thùng, người bơi, người ôm ván, không biết ai là ai nhưng nhẩm đếm những điểm di động có vào khoảng 30 người. Tôi rất mừng vì còn được nhiều người sống sót, hoạt cảnh xẩy ra như thể chúng tôi đang chia từng nhóm bơi lội vậy. (SGtt-HĐ)

Có khá nhiều tàu đánh cá khoảng hơn mười chiếc không biết của nước nào đi ngang, nhưng họ tỉnh bơ nhìn chúng tôi như đang tắm biển vậy, có thể nói từng chiếc tàu đó nghe thấy tiếng kêu cứu não nề tuyệt vọng của chúng tôi trên mặt biển đều khoác tay từ chối.

(Khi đến trại chúng tôi được biết nếu họ cứu thì sẽ phiền đến họ vì phải khai báo, chụp hình chung với nhau theo luật Cao Ủy Tị Nạn để điều tra, và nhất là họ sợ bọn hải tặc nhận ra sẽ trả thù)

Chúng tôi cứ lênh đênh ngày đêm trên biển đến ngày thứ ba đã thấy lờ đờ vài ba xác chết và nhiều người bất động còn ôm thùng, ván, có một cái xác ngay sát gần bên tôi. Đến trưa, chợt một tàu đánh cá chạy lại gần lại một cặp vợ chồng.

Họ vớt vội người đàn bà, đó là chị Lên đang lả người bám vào ván, anh Vũ vội bám vào thành tàu để họ vớt lên thì bọn họ gỡ tay đẩy xô ra, nhìn xuống trông thấy tôi chị Liên vội la lên; “Hoàng ơi, giúp anh Vũ với !”.

Tôi chẳng giúp được gì, tôi cũng như anh ấy lều bều trên mặt nước, anh Vũ chỉ biết nhìn theo vợ, thẫn thờ như một cái xác không hồn.

Chiều đến sóng bắt đầu lớn, cha con ông Ba Vạn và cháu Hồng ôm thùng dầu bị dập vùi trong cơn biển động trông quá kiệt sức, đột ngột ông Ba Vạn thốt lên “Hồng ơi! Tao bỏ mày!”, thế là ông buông tay mất tăm.

Lúc này, chẳng mấy ai còn ai để ý đến ai nữa, tôi cũng như mọi người đều mê sảng, hoa mắt, có người thốt lên thấy cồn cát trước mặt, có kẻ thấy hàng dừa xanh mướt, kẻ thì thấy núi xanh thăm thẳm, người thấy cồn đất, còn tôi thì thấy bờ dừa và người đàn bà ngoắc tay như bảo tôi bơi vào, tôi bơi theo hướng tôi thấy, mạnh ai nấy lội theo hướng riêng. (SGtt-HĐ)

Tôi bơi rất lâu mà chẳng thấy đến gần, rồi người đàn bà hiện ra bảo tôi bỏ thùng mà bơi cho nhanh, tôi buông ra và ra sức bơi bằng tay, được vài phút cũng vẫn chẳng thấy bờ dừa đâu.

Chợt ôi như bừng tỉnh và cầu nguyện thì thấy cát biển, cây dưới nước, tôi đứng xuống rồi người tôi chìm hẳn và mê sảng, thấy như người nào cho ăn, tự nhiên tỉnh táo, mở mắt nhìn lại thấy mình đang chìm dần nên tôi hoảng hồn lội lên, một hồi mới nổi khỏi mặt nước.

Nhìn chung quanh toàn biển là biển, thì ra tôi đang mê man hoang tưởng, và kỳ lạ là không cảm đói khát chi, đêm hôm đó trải qua một đêm quả là kinh hãi.

Đến sáng tôi gặp được ba người lớn và ba trẻ em còn lại trên biển gồm người cha có đứa con sáu tuổi bị tách rời mẹ quăng xuống biển và vợ thì chúng bắt hãm hiếp, đứa bé chín tuổi con của anh ta, cô bé 13 tuổi có mẹ bị chúng bắt sang tàu hãm hiếp và hai người em nhỏ bị tách ra liệng xuống biển, cháu Hồng con ông Ba Vạn bị sóng dập kiệt sức buông tay, Từ Minh Tường, Thời (Chệt Lác).

Qua 5 ngày 4 đêm trên biển chúng tôi gặp một tầu sắt và một tầu đánh cá, họ dừng lại, chúng tôi cũng chẳng màng đến vì hàng trăm chiếc cũng đã qua đi như vậy. Thế nhưng họ đang vớt chúng tôi, tuy có muộn màng vì quá nhiều người kiệt lực trên biển, nhưng vẫn còn sống sót bảy người lớn nhỏ, tôi nhìn đồng hồ tay là 6 giờ 58 chiều. (SGtt-HĐ)

Nhìn họ nước da ngăm đen, quấn xà rông tôi không đoàn được họ là người nước nào, họ đang loay hoay nấu cháo cho chúng tôi ăn, uống từng chút như họ đã có kinh nghiệm cho những người vượt biển đói khát này rồi.

Họ chở chúng tôi và tiếp tục đi đánh cá, hơn một giờ sau đánh bắt được một con cá mập họ đem bỏ xuống hầm tàu, nó quậy ầm ầm, họ chỉ tay xuống hầm rồi chỉ chúng tôi như muốn nói sẽ bị cá ăn thịt nếu tụi tôi còn lêu bêu trên nước.

Tầu chở chúng tôi vào bờ khoảng 5 giờ sáng, họ ra dấu sẽ có cảnh sát tới giúp nhưng đừng nói số tàu của họ cứu, rồi họ vội quay tầu ra khơi (Sau này tôi mới biết vùng biển đó thuộc Mã Lai Á cạnh Thái Lan)

Khoảng nửa giờ sau, có cảnh sát đến, chúng tôi vẫn chưa rõ là người nước nào, một cảnh sát biết tiếng Việt chỉ vào một chiếc xe pick up truck và bảo chúng tôi “Lên xe đi” (Sài Gòn trong tôi).

Trên đướng đi họ hỏi chúng tôi có biết cô gái nào tên N. 13 tuổi không? Một anh nhận là cháu vợ, thế là họ trở về trạm cảnh sát và anh đã gặp được cô cháu gái thân xác ốm yếu, và nhất là đôi chân bước đi hai hàng trông đau đớn lắm. Gặp lại chúng tôi, cháu khóc nức nở kèm theo nỗi kinh hoàng ghê gớm trên khuôn mặt, chúng tôi cùng im lặng trong nỗi đau đớn chung.

Một chập sau đó cháu kể lại đã bị nhốt trên tầu 3 ngày đêm và bọn hải tặc liệng hết quần áo em mà đè ra thay nhau hãm hiếp, cháu khóc la hét đau đớn mà bọn chúng thì cứ hết đứa nọ đến đứa kia cho đến khi cháu không còn biết gì thì chúng xách liệng xuống biển cháu mới bừng tỉnh dậy.

Cũng may mắn là chỉ vài phút sau đó được tàu cảnh sát vớt. Anh ta hỏi thăm về vợ mình (là dì của cháu N), cháu cho biết là vẫn còn sống nhưng dì la hét suốt ngày đêm vì bọn họ hãm hiếp dì nhiều quá! thế là trong số 78 người ra đi, chỉ còn lại 8 người sống sót.

Sáng hôm sau một số người trong Cao Ủy Tị Nạn đến chích ngừa, chăm sóc cho bé N…Còn 7 người chúng tôi thì hình dáng gần như nhau, ai cũng lở loét khắp mình và mặt mũi, da sưng từng mảng, được thoa và uống thuốc trị liệu.

Tám người chúng tôi ở đó ba tháng rồi được làm hồ sơ đi trại Sikhew, 30 ngày sau được thanh lọc và tất cả chúng tôi được chấp thuận đi diện nhân đạo. Ở lại trại thêm 6 tháng nữa, riêng tôi định cư tại Hoa Kỳ theo diện đoàn tụ anh chị em ngày 20 tháng 10 năm 1992.

Mong rằng những câu chuyện đau thương này sẽ tạo khối đoàn kết mạnh hơn trong cộng đồng người Việt hải ngoại khắp thế giới. (Sài Gòn trong tôi – Hoàng Định)


 

“Cháu tôi chết, nhưng công lý cũng chết theo!”

Ba’o Tieng Dan

28/04/2025

Gia đình cháu Nguyễn Ngọc Bảo Trân

Kính gửi cộng đồng mạng và những tấm lòng nhân ái,

Hôm nay, trong nỗi đau không lời nào diễn tả được, gia đình chúng tôi viết những dòng này, khẩn thiết mong được sự quan tâm, chia sẻ và lan toả từ cộng đồng – để giành lại một điều thiêng liêng: Công lý cho cháu tôi – Nguyễn Ngọc Bảo Trân, đứa trẻ mới chỉ 14 tuổi đã bị cướp đi mạng sống trong oan khuất, và đến nay vẫn chưa được minh oan!

Vào sáng ngày 04/09/2024, tại ấp Vĩnh Lợi, xã Vĩnh Xuân, huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long, cháu Bảo Trân – một nữ sinh lớp 8, đang trên đường đi học như bao ngày – thì bất ngờ bị một chiếc xe tải mang biển số 84C-102.77 lấn sang phần đường của học sinh và cán chết cháu tại chỗ. Vụ việc kinh hoàng ấy đã cướp đi mạng sống của một đứa trẻ ngoan hiền, hồn nhiên và luôn mơ ước về một tương lai tươi sáng.

Thế nhưng, điều khiến nỗi đau của gia đình chúng tôi thêm gấp bội là cách mà cơ quan chức năng xử lý vụ việc. Sau một thời gian điều tra, Công an huyện Trà Ôn đã ra kết luận rằng: “Vụ việc không đủ yếu tố để khởi tố hình sự vì người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết” – và từ đó, không khởi tố vụ án, không truy cứu trách nhiệm bất kỳ ai.

Cháu tôi chết, nhưng công lý cũng chết theo!

Càng không thể chấp nhận nổi khi bản kết luận vô cảm ấy gần như đổ lỗi ngược lại cho cháu tôi – một đứa trẻ không có khả năng tự vệ, bị chiếc xe tải tông thẳng vào. Gia đình tài xế lại có quan hệ với những người có chức có quyền tại địa phương – và chính vì điều đó, vụ việc rơi vào im lặng, sự thật bị bóp méo, hiện trường bị dựng sai lệch, và mọi tiếng kêu cứu đều bị phớt lờ!

Suốt hơn nhiều tháng qua, gia đình chúng tôi đã nhiều lần đội đơn đi kêu oan – từ xã, huyện đến tỉnh – nhưng thứ nhận lại chỉ là sự lạnh lùng, từ chối và bao che. Chúng tôi đã mất đi một người thân yêu nhất – một đứa trẻ còn chưa kịp sống trọn tuổi học trò – mà đến cả một lời xin lỗi, một sự minh bạch từ công lý cũng không có!

Và rồi, bi kịch chồng chất bi kịch. Khi công lý bị bóp nghẹt, khi tiếng nói của người dân bị bỏ qua, điều tồi tệ nhất đã xảy ra: Bố của cháu Bảo Trân – người cha cả đời lặng lẽ nhưng yêu thương con vô bờ bến – trong tuyệt vọng và uất hận, đã mang theo khẩu súng, tìm đến người mà ông cho là đã gián tiếp khiến con mình thiệt mạng, nổ súng rồi sau đó tự sát “Tôi chết để đòi lại công bằng cho con gái tôi”.

Hành động ấy không phải là sự trả thù – mà là một tiếng gào thét cuối cùng của một người cha bị dồn đến đường cùng trong một xã hội mà công lý dường như không còn dành cho những người dân thấp cổ bé họng. Đó là hệ lụy đau lòng nhất khi sự thật bị chối bỏ, khi người mất không được minh oan, và người sống bị đẩy vào hố sâu của tuyệt vọng.

Chúng tôi xin cúi đầu cầu xin cộng đồng mạng, các cơ quan báo chí, các tổ chức bảo vệ trẻ em, và tất cả những ai còn tin vào công lý – hãy lên tiếng giúp gia đình tôi! Hãy chia sẻ câu chuyện này – để Nguyễn Ngọc Bảo Trân không ra đi trong oan khuất, để người cha đã chết không bị quên lãng, và để những kẻ gây ra nỗi đau này không thể mãi mãi trốn tránh trách nhiệm!

Chúng tôi không có tiền, không có quyền, không có người chống lưng – chúng tôi chỉ có nỗi đau và khát khao được sống trong một xã hội công bằng. Xin hãy giúp chúng tôi biến nỗi đau này thành hành động, để công lý không còn là điều xa xỉ đối với những người không quyền không thế.

Cháu tôi đã mất, bố cháu đang trong cơn nguy kịch, nhưng chúng tôi không thể để công lý cũng bị chôn vùi theo! Xin hãy giúp đỡ chúng tôi, lan tỏa câu chuyện này – để sự thật không bị dập tắt và người đã khuất được yên nghỉ!

Gia đình cháu Nguyễn Ngọc Bảo Trân

_______

Một số hình ảnh từ gia đình: