Bạn có nhớ người Nữ Tu này không?

Chuyện tuổi Xế Chiều – Công Tú Nguyễn 

Bạn có nhớ người Nữ Tu này không?

Đó là sơ Maria Nguyễn Thị Kim Hoa, người đã bảo vệ thành công Luận án Tiến sĩ Y khoa với đề tài “Nghiên cứu biến đổi gen trong chẩn đoán và điều trị bệnh bạch cầu cấp trẻ em tại Bệnh viện Trung ương Huế”.

Mình đã đăng bài về sơ hồi năm ngoái. Là một Nữ Tu Dòng Con Đức Mẹ Vô Nhiễm, sơ Kim Hoa đồng thời là Phó Trưởng khoa Ung bướu – Huyết học – Ghép tủy Trung tâm Nhi, Bệnh viện Trung ương Huế.

Sơ Kim Hoa được gọi là “Cô tiên của các bệnh nhi ung thư” bởi nhiều em nhỏ đã được sơ cùng các Y Bác sĩ Bệnh viện Trung ương Huế cứu chữa khỏi căn bệnh hiểm nghèo này. Là một chuyên gia hàng đầu về kỹ thuật ghép tế bào gốc tự thân (GTBGTT), sơ đã miệt mài nghiên cứu, ứng dụng phương pháp ghép tủy để giành giật sự sống lại cho các em.

Sơ Kim Hoa từng trực tiếp chủ trì những ca mổ ghép tủy cho nhiều cháu bé. Không chỉ vậy, với kinh phí mỗi ca mổ lên tới hàng trăm triệu đồng, quá tầm với những gia đình lao động nghèo miền Trung, sơ còn giúp vận động, tìm kiếm nguồn hỗ trợ từ nhiều nhà hảo tâm để giúp các em có chi phí chữa chạy. Không ít gia đình bệnh nhi đã coi sơ như Ân nhân của họ.

Là dân chuyên Toán tại Trường THPT chuyên Quốc học Huế, sơ Kim Hoa có ý định đi tu để phụng sự Chúa từ khi còn trẻ; mà ngành Y khoa thì rất hợp với tu sĩ nên sơ đã đầu tư thời gian cho việc học các môn “khối B” để thi vào Đại học Y dược Huế. Trở thành Bác sĩ, sơ được Bệnh viện cử đi đào tạo tại Mỹ, Nhật Bản, Singapore. Nhờ ơn Chúa và nhờ quá trình phấn đấu học hỏi không ngừng, sơ trở thành Tiến sĩ Nhi khoa đầu tiên của Bệnh viện Trung ương Huế.

Nói về sơ Kim Hoa, một gia đình bệnh nhi cho biết: “Cô Hoa là nữ bác sĩ tuyệt vời khó có từ nào diễn tả. Cô ấy khác rất nhiều những người mà vợ chồng em từng gặp. Ở cô Hoa mình cảm nhận cô ấy có một sự ấm áp, nhân từ, thân thiện rất khó tả. Không chỉ con của mình mà nhiều bé khác đang điều trị ở đây đều xem cô ấy như một người mẹ thứ hai, một vị thiên thần mang tình yêu thương đến cho con người, cho bọn trẻ.

    Nguồn: Chuoc Dang/Bao Nguyen Quang

Tự hào là con Thiên Chúa


 

Ông An Giang tông chó rồi giết luôn chủ chó

Ba’o Nguoi-Viet

June 19, 2025

AN GIANG, Việt Nam (NV) – Nghi can Chau Linh E, 31 tuổi, ở thị xã Tịnh Biên, tỉnh An Giang, bị bắt với cáo buộc chạy xe gắn máy tông phải chó nhà hàng xóm rồi dùng búa đánh bà này thiệt mạng.

Theo báo VNExpress hôm 19 Tháng Sáu, vào ba hôm trước, nghi can Linh E chạy xe gắn máy về đến gần nhà thì tông một con chó của hàng xóm, bà Nèang Ron, 50 tuổi. Bà Ron thấy vậy, ra đường chửi bới nam nghi can.

Nghi can Chau Linh E (trái) tại đồn công an. (Hình: Tiến Tầm/VNExpress)

Sau một hồi cự cãi qua lại, nghi can Linh E bực tức lấy một cây búa chẻ củi trong cốp xe đuổi chém bà hàng xóm.

Lúc đó, ông Chau Ao, cha bà Ron, chạy ra ngăn cản cũng bị nam nghi can cầm búa tấn công. Bà Ron thiệt mạng tại chỗ, ông Ao được đưa đi cấp cứu kịp thời nên giữ được mạng sống.

Nam nghi can bị công an bắt giữ gần hiện trường.

Trong một vụ án mạng khác liên quan đến việc nuôi chó, vào đêm 8 Tháng Sáu, nghi can Nguyễn Thị Cúc, 47 tuổi, ở tỉnh Vĩnh Long, sang nhà kế bên phàn nàn với bà hàng xóm 65 tuổi về chuyện con gái bà này thường xuyên dẫn chó đái ị trước cửa nhà mình, gây hôi thối.

Khi nghi can Cúc vừa quay về nhà, mẹ con bà hàng xóm kéo sang nói chuyện phải quấy, dẫn đến xô xát.

Bà cao niên 65 tuổi nắm tóc nghi can Cúc, đè xuống đất. Nữ nghi can sau đó dùng tay đánh vào đầu bà này đến khi nạn nhân bất tỉnh. Bà cao niên chết trên đường đi cấp cứu.

Hiện trường vụ án mạng xảy ra tại thị xã Tịnh Biên, tỉnh An Giang. (Hình: Tiến Tầm/VNExpress)

Đáng lưu ý, hầu hết ý kiến độc giả bên dưới bản tin về sự việc trên báo VNExpress đều tỏ ý bênh vực nghi can Nguyễn Thị Cúc.

Độc giả “Trancongthai1939” cho biết: “Chủ chó có lỗi thả chó phóng uế, đã không nhận lỗi lại còn sang đánh người hàng xóm tố cáo. Theo tôi, việc người hàng xóm bị đánh đau, oan ức và đánh trả là tự vệ chính đáng, không cố ý giết người.”

Độc giả “Bachminhtrieu45” nêu ý kiến: “Người ta đem chó qua cửa nhà mình để cho chó đi vệ sinh. Nếu là mình thì mọi người sẽ xử lý ra sao? Chủ nhà qua nhắc nhở là quá chuẩn mực rồi, không biết điều thì thôi còn kéo đến nhà người ra tay trước. Theo tôi thì nghi can phòng vệ chính đáng và vô tình gây chết người.” (N.H.K) [qd]


 

Tôi Không Còn Đau Đớn Nữa… Vì Tôi Không Còn Trông Đợi Nữa !

Kimtrong Lam

“Người ta đã bỏ tôi lại trong viện dưỡng lão… như một món đồ cũ không ai còn muốn giữ. Giờ thì món đồ cũ ấy đang làm ra bạc triệu.”

Tôi tên là Alejandro, 81 tuổi. Năm năm trước, các con tôi đưa tôi lên xe, nói là sẽ đưa đi xem một căn nhà ở vùng quê. Nhưng khi đến nơi, họ dừng xe trước một viện dưỡng lão. Tôi không khóc, cũng không phản đối… Tôi chỉ lặng lẽ im lặng.

Vài ngày trước đó, tôi đã bán ngôi nhà của mình để chia tiền cho các con. Tôi nghĩ mình làm thế vì tình yêu. Nhưng với chúng, tôi chỉ là người không còn giá trị. Một gánh nặng. Chúng bỏ đi không một lời từ biệt. Và tôi cũng chẳng bao giờ còn gặp lại nữa.

Viện dưỡng lão ấy không tồi. Có giường sạch, có bữa ăn, có y tá chăm sóc. Nhưng có một điều mà không ai để ý: ở đây là những trí tuệ từng rất rực rỡ – giờ chỉ còn lại sự lặng im vì bị bỏ rơi. Là bác sĩ đã nghỉ hưu, kỹ sư bị lãng quên, kế toán còn trí nhớ sắc bén. Ai cũng mang trong mình cô đơn, kỷ niệm… và một khát khao mãnh liệt được chia sẻ.

Chúng tôi bắt đầu tụ họp mỗi chiều. Chia sẻ ý tưởng, kể về những dự án đã từng làm – hay từng mơ nhưng chưa dám bắt đầu. Và từ đó, không ngờ, một “vườn ươm khởi nghiệp” tóc bạc đã ra đời.

Tôi xin phép được sử dụng một căn phòng trống. Với một chiếc tablet cũ, chút Wi-Fi và sự đóng góp của những người bạn già, chúng tôi bắt đầu xây dựng. Có người giỏi cây cảnh, người biết tài chính, người khéo tay làm đồ thủ công. Thế là chúng tôi tạo ra một thương hiệu hàng thủ công do người già sản xuất: xà phòng, khăn len, mứt, đồ gỗ tái chế…

Chúng tôi bán hàng online. Tháng đầu, thu về 500.000 peso. Một năm sau, 1 triệu mỗi tháng. Giờ đây, chúng tôi có 4 cửa hàng, một website, và hơn 30 cư dân làm việc với tất cả trái tim.

Gần đây, các con tôi liên lạc. Chúng đã xem một phóng sự về tôi trên truyền hình và muốn đến thăm. Chúng đến ăn mặc chỉn chu, tay mang đầy quà cáp. Tôi ôm lấy chúng, rồi nói rằng món quà quý nhất chính là việc các con đã bỏ tôi ở đây. Nhờ đó, tôi đã được tái sinh. Giờ đây, mỗi khi chúng rời đi, tôi không còn đau đớn nữa… vì tôi không còn trông đợi nữa.

Ở đây, tôi đã tìm được một gia đình – không sinh ra từ máu mủ, mà từ ý nghĩa. Và một “đế chế” được xây dựng từ những gì mà người khác đã vứt bỏ.

“Đôi khi, khi người ta ném bạn đi như rác… chính là lúc bạn chuẩn bị trở thành nguyên liệu quý cho một điều gì đó vĩ đại hơn rất nhiều.”

Alejandro Torres


 

KHO TÀNG – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Kho tàng của anh ở đâu, thì lòng anh ở đó!”.

“Trái tim con người được tạo ra cho những hứa hẹn về một kho tàng hạnh phúc, an toàn; cho những niềm vui mà nó mang lại. Nhưng vấn đề là bạn nên giao phó trái tim mình, con người mình cho loại kho tàng nào?” – Anon.

Kính thưa Anh Chị em,

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu chỉ ra loại ‘kho tàng’ mà bạn và tôi nên “giao phó trái tim và toàn thể con người mình”; đồng thời, Ngài cũng cảnh báo về một loại kho tàng mà chúng ta thường ‘tưởng như kho tàng’ vốn đưa đến hư mất.

Điều mà con người ‘tưởng như kho tàng’ là của cải vật chất vốn đang giằng xé trái tim và lòng dạ nó mỗi ngày. Đó là những gì thuộc về trần gian như của cải, địa vị, quyền lực hay danh vọng. Vậy mà những điều này có thể bị lấy khỏi chúng ta bất cứ lúc nào; và vào lúc chúng ta cần sự giúp đỡ của nó nhất – lìa đời – những ‘của cải’ này sẽ ngoảnh mặt. “Không có chiếc túi nào trong tấm vải liệm!” – Ngạn ngữ Tây Ban Nha; “Đừng bám víu vào những điều chóng qua, kẻo bạn sẽ đánh mất điều vĩnh cửu!” – Gioan Thánh Giá.

Là Kitô hữu, chúng ta có một ‘kho tàng’ duy nhất xứng tầm với trái tim; không bao giờ phản bội hay hư mất, và sẽ cùng chúng ta vượt qua nấm mồ để bước vào mái vòm sự sống vĩnh cửu. Kho tàng đó là Chúa Kitô và tất cả những hành động tốt đẹp chúng ta làm vì Vương Quốc Ngài. Đó là các việc lành phúc đức dành cho tha nhân được làm trong tình yêu Ngài. Hôm nay, ‘Kho Tàng’ ấy lên tiếng, “Kho tàng của anh ở đâu thì lòng anh ở đó!”.

Chúa Giêsu thúc giục chúng ta đặt niềm tin và sự an toàn của mình vào Ngài và chỉ một mình Ngài. Tuy nhiên, “tích trữ kho tàng trên trời” không chỉ là tích luỹ thật nhiều “việc lành” vì quỹ ‘tín dụng’ này cũng có thể mất rất nhanh khi chúng ta sa ngã hay để ma quỷ lợi dụng. Vấn đề quan trọng là làm sao bạn và tôi ngày càng phát triển thành ‘loại người’ thấm nhuần các giá trị và quan điểm Tin Mừng, nghĩa là, ngày càng nên giống Chúa Kitô. Đó không phải là vấn đề ‘làm’ hơn là vấn đề ‘là’, vấn đề ‘trở thành!’. Bên cạnh đó, bạn xây dựng kho tàng ấy bằng những gì bạn cho đi; đặc biệt, cho đi ‘Giêsu!’.

Anh Chị em,

“Kho tàng của anh ở đâu!”. Vậy kho tàng đích thực bạn và tôi đang vun quén là một ‘kho tàng thực’ hay chỉ là cái ‘tưởng như kho tàng?’. “Nhưng cha ơi, con là người làm việc, có gia đình, đối với con, thực tại quan trọng nhất là duy trì gia đình và công việc của con. Chắc chắn, điều này đúng và nó quan trọng! Nhưng sức mạnh nào đã gắn kết gia đình? Đó thực sự là tình yêu và Đấng gieo tình yêu vào lòng chúng ta – Chúa Kitô – Chính tình yêu của Ngài đã mang lại ý nghĩa cho những công việc nhỏ hằng ngày giúp chúng ta đối mặt với những thử thách lớn. Đây là kho tàng đích thực: tiến bước trong cuộc sống với tình yêu mà Chúa Kitô đã gieo vào lòng chúng ta, tình yêu của Thiên Chúa!” – Phanxicô.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, cho con hiểu rằng, của cải lớn nhất không nằm trong két sắt, mà trong linh hồn biết yêu – yêu Thiên Chúa và yêu người khác vì Ngài!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế) 

******************************************************

Thứ Sáu Tuần XI Thường Niên, Năm Lẻ

Kho tàng của anh ở đâu, thì lòng anh ở đó.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.   Mt 6,19-23

19 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : “Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, và kẻ trộm khoét vách lấy đi. 20 Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, và kẻ trộm không khoét vách lấy đi. 21 Vì kho tàng của anh ở đâu, thì lòng anh ở đó.

22 “Đèn của thân thể là con mắt. Vậy nếu mắt anh tốt, thì toàn thân anh sẽ sáng. 23 Còn nếu mắt anh xấu, thì toàn thân anh sẽ tối. Vậy nếu ánh sáng nơi anh lại thành bóng tối, thì tối biết chừng nào !”


 

Thánh Rômualđô, viện phụ (956 – 1027) – Cha Vương

Tạ ơn Chúa đã ban cho Bạn một ngày mới! Ước mong bạn cảm nhận được Chúa đang ôm bạn thật chặt. Hôm nay Giáo Hội mừng kính thánh Rômualđô, viện phụ (956 – 1027). Mừng bổn Mạng đến những ai chọn ngài làm bổn mạng nhé.

Cha Vương

Thứ 5: 19/6/2025

Thánh Rômualđô là một nhà quý tộc người Ý, được sinh khoảng năm 951 tại Ravenna, nước Ý. Khi lên 20 tuổi, Rômualđô bị sốc mạnh khi thấy thân phụ ngài giết chết một người đàn ông trong một cuộc đọ kiếm tay đôi. Rồi thánh Rômualđô vào tu trong đan viện Bênêđictô. Ngài quyết tâm sống cuộc đời ngay chính. Thánh Rômualđô cũng muốn sám hối thay cho hành vi bệ rạc của người cha. Đối với Rômualđô, môi trường và lối sống của đan viện thật mới lạ vì ngài đã quen với nếp sống sang trọng, xa hoa và vô công rỗi nghề ở gia đình. Nhưng dần dần, chàng quý tộc bị ảnh hưởng sâu sắc bởi gương sáng của nhiều đan sĩ. Rômualđô quyết tâm trở nên một đan sĩ. Ngài đã xin một ẩn sĩ tốt lành tên là Marinô dạy cho cách thức nên thánh. Cả Marinô và Rômualđô đã cố gắng dùng thời giờ mỗi ngày để ca ngợi, tôn vinh và yêu mến Thiên Chúa. Thân phụ của Rômualđô là ông Sêgiô đến quan sát lối sống của con trai mình. Ông bị đánh động bởi sự đơn sơ và tinh thần bỏ mình của người con. Sêgiô nhận thức rằng chắc chắn phải có một thứ hạnh phúc đặc biệt nào đó trong đan viện – bởi vì con trai ông đã tự tình chấp nhận vào sống ở đó. Và đó là điều Sêgiô đang cần. Ông đã từ bỏ mọi thứ của cải mình có và cũng bắt chước người con sống phần đời còn lại như một đan sĩ.

    Sau cùng, thánh Rômualđô thiết lập hội dòng Camalđôlêsêô Bênêđictô. Thánh nhân đi khắp nước Ý lập thêm các ẩn viện và các đan viện. Ở bất cứ nơi đâu, thánh Rômualđô cũng đều làm gương sáng cho các đan sĩ về lòng sám hối. Suốt một năm trời, mỗi ngày Rômualđô chỉ ăn chút ít đậu luộc. Rồi cả ba năm tiếp theo, thánh nhân chỉ dùng một ít thức ăn hầu nuôi sống mình. Nhờ những hy sinh này, thánh Rômualđô sống kết hợp mật thiết hơn với Thiên Chúa.

    Thánh Rômualđô về trời ngày 19 tháng Sáu năm 1027, tại đan viện Valđi Castrô. Ngài ở một mình trong đan phòng của ngài và qua đời cách lặng lẽ âm thầm. Chắc hẳn thánh Rômualđô đã thầm thĩ lời nguyện rất được ưa chuộng này: “Ôi, lạy Đức Chúa Giêsu dịu hiền! Chúa đáng yêu mến của lòng con! Chúa là niềm khoái cảm vui thích của các linh hồn thanh khiết! Chúa là đối tượng của mọi sự con ước ao!”

    Chúng ta hãy nài xin thánh Rômualđô giúp chúng ta biết quý trọng sự cầu nguyện và sự sống của Chúa Giêsu trong ta. Chúng ta cũng hãy nài xin thánh nhân ban ơn để chúng ta đủ sức thực hiện những việc thiêng liêng cách liên lỉ.

    Bài học chúng ta có thể học được từ cuộc đời của thánh Romualđô là cùng nhau giúp nhau nên thánh. 

(Nguồn: TGP Sài Gòn)

From Do Dzung

************************

Nên Thánh Giữa Đời – Xara Trần – (St: Sr Têrêsa)

50 năm kết thúc chiến tranh: Cuộc tranh luận chưa dứt giữa Phan Châu Trinh và Hồ Chí Minh

BBC News Tieng Viet

  • Tác giả,
  • Tiến sĩ Kevin D. Phạm (viết); Bùi Văn Phú (dịch)
  • Gửi cho BBC News Tiếng Việt từ Amsterdam, Hà Lan
  • 18 tháng 6 2025

Chủ điểm của bài viết này là tìm hiểu về các hệ tư tưởng chính trị tại Việt Nam từ đầu Thế kỷ XX cho đến cuộc cách mạng vào giữa Thế kỷ XX, qua đó cho chúng ta thấy hai ví dụ về phản ứng của người Việt đối với chủ nghĩa thực dân Pháp (1858-1954).

Tôi cho rằng các lý thuyết gia người Việt như Phan Châu Trinh (Phan Chu Trinh) và Hồ Chí Minh đã áp dụng truyền thống Nho giáo cùng với các hệ tư tưởng phương Tây để đưa ra tầm nhìn khác nhau về việc làm sao đưa dân tộc thoát khỏi ách thực dân. Các cuộc tranh luận của họ vào đầu thế kỷ XX nay vẫn còn mang tính thời sự đối với tranh luận về các hệ tư tưởng hiện đại.

Trong nghiên cứu gần đây về những chủ trương thoát thực dân của người Việt, tôi đã giới thiệu những tư tưởng chính trị Việt Nam vào lĩnh vực học thuật trong lý thuyết chính trị và đặt ra những câu hỏi như: Cuộc sống tốt đẹp là gì? Nên đặt ưu tiên cho những giá trị nào? Ai là thành phần lãnh đạo? Thế nào là một chính phủ tốt?

Ngoài việc đưa ra những đáp án cho những luận đề kinh điển nêu trên về “lý thuyết chính trị”, các nhà tư tưởng người Việt thời kỳ thuộc địa đã tìm câu trả lời cho những vấn đề khác như: Người châu Âu đã cai trị chúng ta như thế nào? Chủ nghĩa thực dân châu Âu có phải là quy luật tự nhiên, kẻ mạnh thống trị kẻ yếu, như những người theo chủ nghĩa Darwin xã hội thường nói không? Hay đó là hệ quả của chủ nghĩa tư bản như Lenin vẫn nói? Chúng ta nên làm gì với các giá trị truyền thống của mình trước sự du nhập những ý tưởng mới từ châu Âu? Khi kẻ thực dân hành hạ chúng ta vì không cùng chủng tộc, làm nhục hoặc bóc lột chúng ta, chúng ta nên phản ứng như thế nào? Làm thế nào để tạo nên sức mạnh và đoàn kết giữa chúng ta để chống lại chủ nghĩa thực dân hay làm cách mạng? Nói chính xác thì kháng chiến và cách mạng sẽ được tiến hành như thế nào? Mục tiêu là gì và phương pháp thực hiện nó ra sao? Nói cách khác, viễn cảnh tốt nhất để thoát khỏi nô lệ thực dân là gì?

Thành phần trí thức và giới hoạt động người Việt quan tâm đến những vấn đề nêu trên vốn có xuất thân từ truyền thống Nho giáo, một triết lý xã hội do Khổng Tử khởi xướng. Những người theo tư tưởng Không Tử tin rằng điều đáng giá nhất mà bất kỳ ai cũng có thể làm trong quãng đời của họ là rèn luyện nâng cao phẩm chất đạo đức, hay “đức hạnh”, để trở nên quan tâm hơn tới tha nhân. Họ tin rằng một người trở nên có đức hạnh hơn thì có thể thúc đẩy sự hòa hợp trong xã hội và tạo ảnh hưởng qua tấm gương tốt của mình (thay vì sử dụng vũ lực hoặc sự đe dọa).

 Tuy nhiên, mỗi lý thuyết gia trong số này đều có cách diễn giải riêng về Nho giáo, và trước làn sóng du nhập của các tư tưởng chính trị-xã hội từ phương Tây, họ có những ý tưởng khác nhau trong cách tổng hợp hay tìm thỏa hiệp giữa truyền thống Nho giáo với các hệ tư tưởng chính trị mới đến từ “phương Tây”, như chủ nghĩa tự do (một hệ tư tưởng chính trị nhấn mạnh đến quyền và tự do cá nhân), dân chủ, cũng như chủ nghĩa Mác. Họ đối chiếu giữa các truyền thống tri thức của nước ngoài để tìm ra những ý tưởng phù hợp với họ. Có rất nhiều nhà tư tưởng Việt đã làm điều này và chúng ta sẽ tìm hiểu về hai người trong số họ.

Nguyễn Ái Quốc tại đại hội Đảng Xã hội Pháp ở Tours vào năm 1920

Vào một buổi tối mùa đông năm 1919, tại căn hộ ở số 6 Villa des Gobelins thuộc quận 13 Paris, nhà yêu nước Việt Nam nổi tiếng Phan Châu Trinh đã có một cuộc tranh luận gay gắt với một học trò của mình – một thanh niên vô danh trạc tuổi con trai của ông. Người thanh niên trẻ này đã tỏ ra mất kiên nhẫn khi lập luận rằng thực dân Pháp đã làm nhục người Việt Nam trong hơn sáu thập kỷ vì thế đã đến lúc người Việt phải hành động trực tiếp bằng bạo lực. Nhưng ông Phan kêu gọi thận trọng:

“Anh muốn hai mươi triệu đồng bào ta phải làm gì khi trong tay không có vũ khí để chống lại vũ khí khủng khiếp của người Âu? Tại sao chúng ta lại tự sát vô ích để chẳng đi đến một kết quả nào cả?… Phải chăng tốt hơn là chúng ta đòi hỏi một cách mềm mỏng nhưng rất kiên quyết và với lòng kiên nhẫn, nhất là những quyền mà phẩm cách con người cho phép chúng ta đòi hỏi.”

Chàng trai trẻ trả lời:

“Dân An Nam đã chờ đợi thay đổi từ sáu mươi năm nay nhưng chính phủ [thực dân Pháp] không làm được gì đáng kể cho họ thỏa mãn. Nếu trong dân chúng có kẻ nào lên tiếng bày tỏ với nhà đương cục những yêu cầu và nỗi thống khổ của họ và để kêu xin những phương thuốc chống đỡ nỗi khổ đau họ phải gánh chịu, thì người ta trả lời họ bằng nhà tù, bằng lưu đày và tử hình. Nếu bác luôn tin cậy vào sự quan tâm của chính phủ để cải tiến tình trạng hiện nay thì bác sẽ phải đợi đến muôn đời.”

Thế giới về sau đã biết đến chàng trai trẻ tuổi này với cái tên Hồ Chí Minh. Trong căn phòng tối hôm đó có một mật vụ ngầm đã ghi âm cuộc đối thoại giữa hai người. Người này được lệnh chính quyền Pháp theo dõi Hồ Chí Minh vì bởi kể từ mùa hè năm ấy, ông đã gây nên cho họ những nghi ngờ.

Khi đó, ông Hồ đã gửi một bản kiến nghị mang vẻ chính thức đến các đại biểu tại Hội nghị Hòa bình Paris ở Versailles. Bản kiến nghị không yêu cầu độc lập, thay vào đó, nó chứa đựng các yêu cầu công nhận các quyền tự do căn bản cho người Việt ngay cả khi vẫn còn dưới sự cai trị của thực dân Pháp. Ông Hồ đã ký thay mặt cho Nhóm những người Việt Nam yêu nước mà ông và người thầy của ông, Phan Châu Trinh, sau đó nhận ra rằng các thỉnh cầu này đã không được quan tâm.

Qua những trích dẫn, cả Hồ Chí Minh và Phan Châu Trinh dường như đã thể hiện một quan điểm quen thuộc được công nhận, đó là về phẩm giá của con người: phẩm giá là thứ thừa hưởng ở mỗi con người riêng lẻ, nó là sự biện minh cho các quyền, và nó đòi hỏi sự công nhận của xã hội. Phan Châu Trinh nghĩ rằng người Việt Nam nên đòi từ người Pháp “những quyền mà phẩm giá con người cho phép chúng ta được có.” Hồ Chí Minh có quan điểm ngược lại, với lập luận rằng người Việt Nam phải buộc người Pháp công nhận phẩm giá của người Việt Nam.

Nhưng rồi cả hai bắt đầu nhận ra những hạn chế của quan điểm qui ước về phẩm giá. Biết rằng phẩm giá vốn có ở mỗi cá nhân không làm dịu đi nỗi đau khi chứng kiến sự phủ nhận phẩm giá của dân mình. Người Việt phải chờ bao lâu và phải “đòi hỏi” bao nhiêu lần thì thực dân Pháp mới chịu công nhận phẩm giá và quyền của họ? Nếu người Pháp không bao giờ làm vậy thì sao? Và nếu không có thực thể nào mạnh hơn Pháp để trừng phạt người Pháp hoặc buộc họ phải công nhận phẩm giá của người Việt Nam thì sao? Vậy phải làm gì? Câu trả lời hiển nhiên là kháng chiến và làm cách mạng.

Nhưng như đã đề cập ở trên, điều khó xác định hơn nhiều chính là hình thức cụ thể mà kháng chiến và cách mạng nên diễn ra như thế nào. Phan Châu Trinh và Hồ Chí Minh có tầm nhìn khác nhau về kháng chiến và cách mạng.

Năm 1925, Phan Châu Trinh trở về Việt Nam và có bài phát biểu về “Đạo đức và luân lý Đông Tây” ở Sài Gòn. Trong bài phát biểu, ông lập luận rằng Việt Nam bị Pháp đô hộ là vì người Việt yếu kém, xuất phát từ việc thiếu đạo đức Nho giáo đích thực. Sự yếu kém của người Việt là do sự suy đồi của vua quan Việt khi họ bóp méo tư tưởng Nho giáo để biện minh cho sự cai trị áp bức của họ. Chính điều đó khiến dân tộc bị che mắt để không hiểu đúng về đạo đức và luân lý Nho giáo đích thực. Điều này tạo ra sự yếu kém ở người Việt nên dễ bị khuất phục trước ngoại bang.

Phan Châu Trinh đã từng sống mười ba năm ở Pháp và ông nhận thấy người châu Âu phát triển hơn về mặt đạo đức xã hội. Ông lập luận rằng người Âu biết cư xử tử tế với đồng bào của họ vì “người bên Âu châu họ cũng tranh giành nhau dữ dội lắm, song giành nhau cũng ở trong vòng pháp luật mà thôi. Chí như công đức là giúp đỡ lẫn nhau, kính trọng quyền lợi cho nhau thì họ vẫn không bỏ.” Ngược lại, “lấy một việc đó mà so với người mình quanh năm trọn tháng chỉ lo cho cái xác thịt, cái tuổi già mà vẫn không xong thì cũng đủ xấu hổ rồi; huống hồ là nói đến việc xã hội nhân quần, họ hơn ta xa như thế thì làm sao ta không kính trọng họ cho được?”

Tóm lại, ông cho rằng người châu Âu có bản sắc “Nho giáo” hơn người Việt và điều này là do người châu Âu có truyền thống phản ứng lại chế độ quân chủ chuyên chế của họ bằng cách thúc đẩy “tự do” (ý ông là quyền của con người) và “dân chủ” (ý ông là “chính quyền theo pháp luật”).

Ông lập luận rằng nếu người Việt muốn tự cường và xây dựng phẩm giá dân tộc, họ nên từ bỏ truyền thống quân chủ của mình và thay vào đó áp dụng chủ nghĩa tự do và dân chủ từ châu Âu như một “phương thuốc”. Làm như vậy, ông lập luận, sẽ cải thiện đạo đức và luân lý của người Việt, từ đó cho phép tư tưởng Khổng Mạnh được phát huy trọn vẹn ở Việt Nam:

“Đem văn minh Âu châu về tức là đem đạo Khổng Mạnh về… Thế thì đem văn minh Âu châu về đã không hại gì mà lại còn làm cho rỡ ràng đạo Khổng Mạnh ra.”

Thông thường, những lý thuyết gia chính trị coi chủ nghĩa tự do của “văn minh châu Âu” là một sự đối lập với “Nho giáo.” Vậy làm sao Phan Châu Trinh có thể đưa ra lập luận này? Hóa ra là vì ông gạt bỏ sự tập trung của chủ nghĩa tự do vào quyền và tự do cá nhân, và tập trung diễn giải nó như một hệ tư tưởng đề cao quyền và tự do của người dân. Thông thường chúng ta có thể cho rằng việc hiểu sai các truyền thống ngoại lai là điều không tốt, nhưng Phan Châu Trinh cho thấy rằng việc diễn giải một cách tích cực – dù có phần lý tưởng hóa – các tư tưởng ngoại lai có thể là một phương thức sáng tạo như một “phương thuốc” làm sống lại các truyền thống đang tàn lụi của chính mình.

Bây giờ chúng ta hãy chuyển sang người học trò trẻ tuổi của Phan Chu Trinh, người sau này được biết đến với tên gọi Hồ Chí Minh.

Hãy trở lại với buổi tối năm 1919 ấy. Hồ Chí Minh, thất vọng với Phan Châu Trinh, lang thang qua những con phố của Paris, đến tòa soạn các báo để tìm cách phổ biến các yêu sách của mình, nhưng chẳng ai quan tâm, ngoại trừ những người theo Đảng Xã hội Pháp. Với sự cảm thông, họ đã mời ông đến các cuộc họp của họ.

Lúc bấy giờ, những đảng viên Xã hội Pháp đang theo dõi sát những diễn biến của cuộc cách mạng Nga, nơi mà chủ nghĩa cộng sản đang chuyển từ lý thuyết sang thực tiễn. Họ tranh luận xem liệu nước Pháp có nên theo hướng cải cách dần dần (evolution) hay đi theo người Nga, với một cuộc cách mạng hướng tới chủ nghĩa cộng sản. Nhưng điều quan trọng nhất đối với Hồ Chí Minh là sự áp bức đối với các dân tộc đang bị thực dân cai trị. Tại các cuộc họp này, ông nêu vấn đề là nếu quan tâm đến việc giải phóng người bị áp bức, tại sao không ai nói về chủ nghĩa thực dân?

Sau đó, trong các buổi họp này, có một ai đó đã trao cho Hồ Chí Minh một bản sao của “Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lenin. Mặc dù khi đó Hồ Chí Minh đã quen với những ý tưởng cộng sản, nhưng việc đọc Lenin là một bước ngoặt trong tư tưởng chính trị của ông. Đối với Hồ Chí Minh, Lenin đã đưa ra những lý luận thuyết phục nhất về vấn đề thực dân áp bức cũng như giải pháp cho những gì cần phải làm.

Hồ Chí Minh nổi tiếng là người đã tham gia vào việc thành lập Đảng Cộng sản Pháp vào tháng 12 năm 1920. Ông bắt đầu viết báo đăng trên các tạp chí, đưa ra lập luận rằng người Việt phải tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin và lén đưa các ấn phẩm này về Việt Nam. Đó là cách người ở trong nước đã được giới thiệu đến chủ nghĩa Mác.

Vào một ngày trong năm 1922, Hồ Chí Minh nhận được lá thư mang tính nhượng bộ của Phan Châu Trinh.

“…Anh cũng không ưa cái phương pháp khai dân khí, chấn dân khí, hậu dân sinh của tôi; còn tôi thì lại không thích cái phương pháp ngọa ngoại chiêu hiền đãi thời đột nội của anh và cả cái phương pháp bất hòa mà anh đã nói với anh Phan [Văn Trường] là tôi là hạng người hủ nho hủ cựu.

“Cái điều anh gán cho tôi đó, tôi chẳng giận anh tí nào cả, bởi vì suy ra thì tôi thấy rằng: tôi đọc chữ Pháp bập bẹ nên không am tường hết sách vở ở cái đất văn minh này… Tôi tự ví tôi ngày nay như con ngựa đã hết nước tế; tôi nói thế chẳng hề đem ví anh là kẻ tử mã lục thạch [Hoàng Xuân Hãn giải thích là ‘ngựa non háu đá’],…

“…Lần này tôi phải viết cái thơ này cho anh là tôi có cái hy vọng muốn anh nghe theo tôi mà lo cái đại sự… Theo ý tôi thì mình mà học hỏi lý thuyết hay, phương pháp tốt, tóm thâu được chủ nghĩa, có chí mưu cầu lợi quyền cho quốc dân đồng bào, thì đừng có dùng cái lối nương náu ngoại bang để rung chuông, gõ trống, mà phải trở về ẩn náu trong thôn dã, hô hào quốc dân đồng bào đồng tâm hiệp lực đánh đổ cường quyền áp chế, ắt là thành công…”

Sau đó Hồ Chí Minh rời Pháp sang Nga và Trung Quốc và rèn luyện trong nhiều năm để trở thành một nhà cách mạng trước khi trở về nước vào năm 1941 để lãnh đạo phong trào giành độc lập cho Việt Nam. Năm 1945, ông đọc Bản tuyên ngôn Độc lập và chính thức khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Nhưng người Pháp không nhượng bộ. Họ vẫn cố gắng tìm cách quay lại chiếm đóng Việt Nam, đẫn đến cuộc kháng chiến của người Việt và khơi mào cho Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất. Người Pháp cuối cùng thua ở Điện Biên Phủ năm 1954 và một năm sau thì người Mỹ vào Việt Nam.

Lính Pháp nhảy dù xuống Điện Biên Phủ trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất

Trong suốt những năm tháng chiến tranh, Hồ Chí Minh đã phát triển một lý thuyết cách mạng, theo kiểu tinh thần gia trưởng vì ông tin rằng Đảng Cộng sản tiền phong nên hành động như bậc “cha mẹ” của dân vì ông coi nhân dân như những đứa trẻ chưa phát triển cần được hướng dẫn về đạo đức và chính trị. Ông cho rằng lãnh đạo của Đảng phải là những “cha mẹ” khôn ngoan, nhân từ của các con.

Để trở thành “cha mẹ” tốt, Hồ Chí Minh lập luận rằng các lãnh đạo của Đảng phải trau dồi đạo đức cách mạng cho chính bản thân qua việc thường xuyên “phê và tự phê.” Chỉ khi đó họ mới có thể dẫn dắt quần chúng một cách hiệu quả trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Tuy nhiên, song với đó, ông cũng diễn giải lý thuyết cách mạng của mình là mang tính dân chủ. Ông nhấn mạnh rằng chính quyền là “đầy tớ” của dân và dân là “chủ của đất nước.” Như vậy, trong tư tưởng của Hồ Chí Minh, tập thể nhân dân vừa là người chủ của đất nước vừa là trẻ thơ cần có được dìu dắt về đạo đức.

Trung tâm của quan điểm này là quan niệm của Khổng giáo về tự tu dưỡng. Hồ Chí Minh tin rằng lãnh đạo phải thấm nhuần đức tính cách mạng. “Muốn làm cách mạng, trước hết phải cải tạo tâm hồn. Muốn cải tạo xã hội, trước hết phải cải tạo bản thân.” Đối với ông, đạo đức cá nhân và đạo đức xã hội là quá trình liên tục gắn kết với nhau – một quan điểm mà ông tiếp thu từ án thư Đại học của Khổng giáo, một tác phẩm đưa ra lập luận rằng bằng cách thay đổi bản thân, người ta tự động thay đổi thế giới: “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.”

Nếu như Phan Châu Trinh kết hợp Nho giáo với chủ nghĩa tự do, thì Hồ Chí Minh lại kết hợp Nho giáo với chủ nghĩa Mác-Lênin. Đối với Phan Châu Trinh, chủ nghĩa tự do nên được sử dụng để đạt được những điều tốt hơn của Nho giáo. Ngược lại, đối với ông Hồ, Nho giáo nên được sử dụng để bồi dưỡng đạo đức cách mạng để tiến tới chủ nghĩa cộng sản:

“…Những người An Nam chúng ta hãy tự hoàn thiện mình về mặt tinh thần bằng đọc các tác phẩm của Khổng Tử và về mặt cách mạng thì cần đọc các tác phẩm của Lenin!”

Hồ Chí Minh cho rằng đạo đức Nho giáo là tốt, nhưng chủ nghĩa thực dân Pháp đã ngăn cản người Việt thực hành đạo đức Nho giáo bằng cách áp bức họ qua bóc lột, rượu chè và thuốc phiện. Do đó, ông đã thúc giục lãnh đạo Đảng:

“Chúng ta có nhiệm vụ cấp bách là phải giáo dục lại nhân dân chúng ta. Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập. Tôi đề nghị mở một chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân bằng cách thực hiện: cần, kiệm, liêm, chính.”

Cần lưu ý, ở đây, “nhân dân” tiếp tục được xem như những “đứa trẻ” cần được giáo dục lại. Và cũng cần lưu ý bốn đức tính cốt lõi này (cần, kiệm, liêm, chính) có nguồn gốc từ đạo Khổng như thế nào. Đây là những gì ông gọi là “đạo đức cách mạng.”

Như chúng ta biết, Hồ Chí Minh và tầm nhìn của ông đã tiếp tục dẫn đường cho những người cộng sản Việt Nam vượt qua cuộc chiến tranh chống Pháp trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất (1945-1954), vượt qua cuộc chiến tranh với Mỹ và Việt Nam Cộng hòa trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai (1955-1975). Hệ tư tưởng chính thức của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày nay được gọi là “Tư tưởng Hồ Chí Minh”.

Trong khi đó, tư tưởng của Phan Châu Trinh dù đã từng truyền cảm hứng cho một số người nhưng lại rồi bị rơi vào quên lãng sau khi ông qua đời năm 1926. Tuy vậy, những nét chính về chủ nghĩa cộng hòa của ông đã xuất hiện ở miền Nam Việt Nam. Và ngày nay đang có sự hồi sinh tiềm năng và quan tâm đến tư tưởng của Phan Châu Trinh cũng như ông vẫn rất được kính trọng và ca ngợi ở xã hội Việt Nam đương đại.

Play video, “Chiến Tranh Việt Nam: Việt Nam Cộng Hòa thua do sự phản bội của Kissinger?”, Thời lượng 12,20

12:20

Chiến Tranh Việt Nam: Việt Nam Cộng Hòa thua do sự phản bội của Kissinger?

Trong căn hộ đó tại số 6 Villa des Gobelins vào buổi tối mùa đông năm 1919, cuộc tranh luận giữa Phan Châu Trinh và Hồ Chí Minh có vẻ quen thuộc với nhiều người trong chúng ta. Để đáp lại bất công, bóc lột, thống trị và sự phân biệt chủng tộc, chàng thanh niên tỏ ra mất kiên nhẫn và thúc giục hành động ngay trong khi người đàn ông lớn tuổi thì thận trọng và khuyên nhủ thực hiện những thay đổi chậm rãi và bền vững.

Nhưng chính trong căn hộ ấy, những hạt mầm đã được gieo xuống cho các cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, thứ hai và thứ ba. Trực giác con người cho thấy nếu những ai có lợi thế về quyền lực mà không nhận ra phẩm giá của những người ở vị thế yếu kém hơn và không đưa họ vào các cuộc thảo luận về lợi ích chung, thì những người yếu thế ấy sẽ tìm cách xây dựng phẩm giá của họ theo những cách khác – dù là bạo lực hoặc phi bạo lực, dù là phá hoại hay kiến tạo.

Vài tháng trước, tôi đã thăm Việt Nam, một đất nước dường như đang khởi sắc. Tôi đã đến viếng mộ Phan Châu Trinh và lăng Hồ Chí Minh và suy ngẫm về những tầm nhìn khác nhau của họ. Rõ ràng là cả hai đều được kính trọng ở Việt Nam, nhưng các bài phát biểu của lãnh đạo Việt Nam hiện nay cho thấy rằng tư tưởng của Hồ Chí Minh đã chính thức chiếm ưu thế so với tư tưởng của Phan Châu Trinh.

Dù vậy, tôi vẫn tự hỏi: Liệu đề xuất của Phan Châu Trinh về việc kết hợp các tư tưởng phương Tây về chủ nghĩa tự do và dân chủ với Nho giáo có còn phù hợp ở Việt Nam ngày nay không? Những lập luận do Phan Châu Trinh và Hồ Chí Minh đưa ra có còn hữu ích cho những ai đang quan tâm đến các câu hỏi đương đại như: Chính quyền Việt Nam hiện đang – hoặc nên – dựa trên cơ sở tư tưởng nào để xây dựng tính chính danh? Những tư tưởng nào định hướng (hoặc nên định hướng) cho những hoạt động của thanh niên? Về kiểm duyệt và giới hạn của tự do ngôn luận về chính trị? Và về bản sắc của cộng đồng người Việt hải ngoại (nơi rất nhiều người Việt như tôi lớn lên với cả tư tưởng “tự do” và đạo lý Nho giáo truyền thống)?

Hay, phải chăng, ngày nay, Việt Nam cần một hệ tư tưởng hoàn toàn khác? Những câu hỏi như vậy vẫn còn để ngỏ.

Tác giả Kevin D. Phạm là phó giáo sư/tiến sĩ về lý thuyết chính trị tại Đại học Amsterdam, chuyên về tư tưởng chính trị thế kỷ XIX và XX, với chú trọng vào dân chủ, tự do và cách mạng qua các nền văn hóa. Tác phẩm của ông, The Architects of Dignity: Vietnamese Visions of Decolonization – Những kiến trúc sư của phẩm giá: Những viễn kiến của người Việt về giải thoát khỏi ách thực dân (Nhà xuất bản Đại học Oxford, 2024), giới thiệu các nhà tư tưởng chính trị Việt, tiếp cận với những tranh luận về lý thuyết chính trị, chú trọng đến cách họ thách thức các quan niệm của phương Tây về phi thực dân hóa và phẩm giá. Nghiên cứu của ông được phổ biến trên các tạp chí như Philosophy and Global Affairs, The Review of PoliticsEuropean Journal of Political Theory.


 

HỒNG ÂN THÁNH THỂ – Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

LỄ MÌNH MÁU CHÚA GIÊ-SU

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

  (Suy niệm Lễ Mình Máu thánh Chúa)

Sứ điệp: Kết hợp nên một với Chúa Giê-su để được sống đời đời.

***

Sự sống quý hơn mọi báu vật trên đời

Trên cõi đời nầy, không gì quý bằng sự sống. Được sống vui, sống khỏe là mơ ước, là khát vọng mãnh liệt và thâm sâu nhất của con người. Vì thế, khi mắc những chứng bệnh nguy hiểm đe dọa mạng sống, người ta tìm cách chạy chữa với bất cứ giá nào, miễn là được khỏi bệnh và được sống.

Tuy nhiên, cuộc sống con người trên dương gian chỉ như bông hoa sớm nở tối tàn, có thể tan biến bất cứ lúc nào như sương, như khói…

Vì thế, ai cũng muốn sống lâu và tìm cách kéo dài tuổi thọ. Tuy vậy, con người không thể thắng được sự chết và sớm muộn gì cái chết cũng đến cướp đi sự sống của từng người trên dương gian.

Thiên Chúa thông ban sự sống đời đời   

Thiên Chúa là Cha của mọi người và Ngài hết lòng yêu thương họ. Ngài cũng là chủ của sự sống, là cội nguồn thông ban sự sống cho muôn vật, muôn loài.

Ngoài việc thông ban cho loài người sự sống đời nầy, Thiên Chúa còn muốn ban sự sống vĩnh cửu của chính Ngài cho con người, để họ được sống đời đời với Ngài, để họ được hạnh phúc vĩnh cửu như Ngài

Nhưng làm sao thực hiện được điều tuyệt vời nầy?

Muốn cho cành nho tiếp nhận được sự sống của thân nho, thì nó phải được tháp nối nên một với thân nho.

Muốn cho một bàn tay bị cắt lìa thân được tiếp nhận sự sống từ thân thể thì bàn tay đó phải được ghép nối vào thân thể, trở nên một với thân thể.

Vậy muốn cho loài người tiếp nhận được Sự Sống của Chúa Giê-su thì phải làm cho họ nên một với Chúa Giê-su.

Để thực hiện điều nầy, Chúa Giê-su lập nên bí tích Thánh thể, hiến ban Thịt và Máu Ngài, dưới hình bánh rượu, làm của ăn cho nhân loại, để những ai lãnh nhận Mình Máu thánh Ngài cách xứng đáng, thì được hòa nhập nên một với Ngài như giọt nước hòa trong chén rượu, được ở lại trong Ngài như lời Ngài phán:“Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì ở lại trong Tôi, và Tôi ở lại trong người ấy”(Ga 6,56).

Và những ai “ở lại trong Chúa Giê-su và có Chúa Giê-su ở lại với mình”, thì người đó là một với Chúa Giê-su và tất nhiên Sự Sống của Chúa Giê-su sẽ được thông ban cho người ấy.

Điều tuyệt vời là Sự Sống mà Chúa Giê-su thông ban cho những ai tiếp nhận Mình Máu Ngài không phải là sự sống sinh vật có thể bị lụi tàn theo năm tháng mà là Sự Sống vĩnh cửu không bao giờ tàn phai.

Đức Giê-su khẳng định điều nầy khi nói rằng: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh nầy, sẽ được sống muôn đời” (Ga 6, 51).

“Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời…” (Ga 6, 54).

Thế là thông qua việc tiếp nhận Mình và Máu Chúa Giê-su khi rước lễ, con người được nên “cùng một thân mình, cùng một dòng máu”[1] với Chúa Giê-su và do đó, Sự Sống thần linh của Chúa Giê-su sẽ được thông ban cho họ. Họ sẽ được sống đời đời với Chúa! Hạnh phúc biết bao!

Lạy Chúa Giê-su,

Chúng con cảm tạ Chúa đã ban cho chúng con cơ hội để hiệp thông nên một với Chúa, hòa tan trong Chúa như giọt nước hòa trong chén rượu và nhờ đó Sự Sống đời đời của Chúa được thông truyền cho chúng con.

Xin cho chúng con sốt sắng tham dự Thánh lễ hằng ngày để đón nhận hồng phúc vô cùng cao quý nầy. 

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

PHÚC ÂM: Lc 9, 11b-17 năm C

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu nói với dân chúng về nước Thiên Chúa và chữa lành những kẻ cần được cứu chữa. Vậy khi đã xế chiều, nhóm mười hai đến thưa Người rằng: “Xin Thầy giải tán dân chúng, để họ đi vào trong các làng mạc và trại quanh đây mà trú ngụ và kiếm thức ăn, vì chúng ta đang ở nơi hoang địa”. Nhưng Người nói với các ông: “Các con hãy cho họ ăn đi”. Các ông trả lời: “Chúng con chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá, trừ phi chúng con phải đi mua thức ăn cho cả đám đông này”. Số đàn ông độ năm ngàn. Người nói với các môn đệ rằng: “Hãy cho họ ngồi xuống từng nhóm độ năm mươi người”. Các ông đã làm như thế, và bảo tất cả ngồi xuống. Chúa Giêsu cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, nhìn lên trời, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và phân phát cho các môn đệ để các ông dọn ra cho dân chúng. Tất cả đều ăn no nê, và người ta thu lượm được mười hai thúng miếng vụn còn dư lại.  

[1] Trích từ bài giảng của thánh Lê-ô cả Giáo hoang

From: ngocnga_12 &  NguyenNThu


 

THẦN LƯƠNG – Lm. Giuse Trần Việt Hùng  

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

 Vào năm 1263, tại nhà thờ thánh Catherine, thành Bolsène nước Ý, có một linh mục trong khi dâng lễ, sau khi đọc lời truyền phép đã nghi ngờ về bánh và rượu trở thành Mình và Máu Chúa.  Xảy ra là Máu Thánh chảy ướt khăn thánh và khăn bàn thờ.  Đức Giáo Hoàng nghe tin và đã rước khăn thánh về để tạm tại nhà thờ Orviette.  Sau đó, xây nhà thờ để thờ kính Máu Chúa nơi Khăn Thánh này.  Ngày 8 tháng 9, 1264, Đức Giáo Hoàng Urbanô IV (1262-1268) đã ban hành tự sắc Transiturus, lập lễ kính Mình Máu Thánh Chúa Kitô và cử hành sau tuần 8 ngày của lễ Chúa Thánh Thần.  Thánh Tôma Aquinô đã sáng tác bài Pange Lingua và Adoro Te để tôn kính Mình Máu Thánh Chúa.

 Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ muôn loài và quan phòng mọi sự một cách lạ lùng.  Mọi thụ tạo trong hoàn vũ đều thay đổi mỗi giây phút.  Các loài có sự sống từ thực vật, động vật đến sinh vật đều theo một tiến trình phát triển, có sinh và có tử.  Trong mọi loài Chúa đã dựng nên, được phát triển và nẩy nở theo thời gian năm tháng tùy theo mỗi loại.  Nơi mọi loài có sự sống, đều phải hấp thụ dưỡng chất qua môi trường chung quanh để sinh tồn.  Có nghĩa mọi loài hiện hữu cần có ăn uống, hấp thụ, tiêu hóa, đào thải, phát triển, già nua và tiêu diệt.  Ăn uống là nhu cầu cần thiết để sống và sinh tồn.  Ngày xưa dân Do-thái lữ hành trong sa mạc trên đường về miền Đất Hứa, Thiên Chúa đã nuôi dân bằng Manna, thịt chim cút và nước nguồn.  Chúa đã nuôi dân suốt thời gian: Trong hoang địa, Người đã nuôi các ngươi bằng Manna mà cha ông các ngươi chưa từng biết tới (Đnl 8, 16a).  Manna lương thực nuôi dưỡng hằng ngày là hình ảnh của bánh trường sinh.

 Khi ra rao giảng tin mừng, Chúa Giêsu đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân.  Cả bốn phúc âm đều kể lại sự kiện biến hóa năm chiếc bánh và hai con cá nhỏ.  Chúa Giêsu đã cầm bánh và cá, ngước mắt lên trời, tạ ơn và bẻ ra trao cho các tông đồ và các tông đồ trao cho hơn năm ngàn người ăn no nê và còn dư thừa.  Chúa rộng ban một cách dồi dào dư giả.  Chúa Giêsu nhận biết các nhu cầu cả tâm linh lẫn thể xác của những người đang đi theo Chúa.  Chúa Giêsu đã dậy dỗ họ và đã nuôi dưỡng họ.  Nhưng chúng ta biết Chúa đến trần gian không nhằm đáp ứng mọi nhu cầu đòi hỏi về thân xác của con người.  Chúa làm phép lạ để minh chứng về sứ mệnh cứu độ của Chúa và để chuẩn bị tinh thần họ đón nhận của ăn cao quí hơn.  Đó chính là của ăn nuôi hồn và là thần lương tinh tuyền.  Chúa muốn dùng chính thân mình Ngài làm của ăn ban sự sống đời đời.

 Chúa Giêsu đã lập Bí tích Thánh Thể trong bữa tiệc ly, trước khi Ngài chịu chết.  Như đã hứa, Chúa Giêsu đã chọn bánh miến và rượu nho làm của ăn nuôi hồn.  Chúa Giêsu thiết lập Bí tích Thánh Thể: Ngài cầm lấy bánh, tạ ơn, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ và nói: Tất cả các con hãy nhận lấy mà ăn vì này là Mình Thầy, sẽ bị nộp vì các con.  Rồi Ngài cầm lấy chén rượu, tạ ơn, dâng lời chúc tụng, trao cho các môn đệ và nói: Tất cả các con hãy nhận lấy mà uống, vì này là chén máu Thầy, máu giao ước mới và vĩnh cửu, sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được ơn tha tội.  Và truyền: Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy.  Khi Chúa nói: Đây là Mình Thầy và đây là Máu Thầy, thì bản thể của bánh và rượu trở nên Mình và Máu Thánh Chúa.  Chúng ta hiểu Chúa Giêsu nói: Đây là Mình Thầy, chứ không phải là dấu chỉ của Mình Thầy.

 Chúng ta có thể nhận biết hình dáng bên ngoài của bánh và rượu như mầu sắc, mùi vị, hình thù và kích cỡ.  Trong Bí tích Thánh Thể, chúng ta không thể nhìn thấy Chúa Kitô với con mắt trần.  Chúng ta chỉ có thể nhìn với con mắt đức tin.  Chúng ta tin rằng Chúa Kitô hiện diện trọn vẹn trong hình bánh rượu, bởi vì Chúa đã sống lại và không còn chết nữa (Rm 6, 9).  Với quyền năng vô biên, Chúa đã biến đổi bánh và rượu trở nên Mình và Máu Thánh Chúa.  Chúng ta học biết chính Chúa đã tạo dựng vũ trụ muôn loài từ hư vô.  Chúa hóa bánh nuôi năm ngàn người.  Chúa biến nước thành rượu tại tiệc cưới Cana.  Chúa cho kẻ chết sống lại.  Chúa đã làm rất nhiều phép lạ để chứng minh quyền năng vô biên.  Bí tích Thánh Thể là sự lạ vượt trên tầm trí hiểu của con người.  Đây là mầu nhiệm của đức tin. 

Chúng ta có thực sự tin Chúa Giêsu ngự thật trong Bí tích Thánh Thể không?  Chúng ta có tin bánh và rượu thực sự trở nên Mình và Máu Thánh Chúa Kitô sau khi linh mục đọc công thức truyền phép trong thánh lễ không?  Trong cuộc thăm dò ý kiến (Gallup poll) mới đây về thái độ của một số người Công giáo về Bí tích Thánh Thể.  Kết qủa làm cho nhiều người Công giáo bị lo lắng xôn sao về một trong những niềm tin căn bản nhất của Giáo Hội.  Nói rằng chỉ có 30 phần trăm những người được hỏi ý kiến, tin là họ đã lãnh nhận Mình và Máu Thánh, linh hồn và thần tính của Chúa Giêsu Kitô dưới hình bánh và rượu trong khi rước lễ.

 Trải qua truyền thống của hai ngàn năm, lời Kinh Thánh và giáo huấn của Giáo Hội luôn dậy rằng Bí tích Thánh Thể chính là Mình và Máu của Giêsu Kitô, không còn là bánh và rượu bình thường.  Phúc âm thánh Gioan chương 6 đã nêu rõ: Bấy giờ, Chúa Giêsu nói với họ: Nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Người, các ngươi sẽ không có sự sống trong các ngươi (Ga 6, 53).  Chúa Giêsu nhấn mạnh về Thịt và Máu, chứ không phải chỉ là biểu tượng.  Vì có một số môn đệ nghe lời Chúa nói về ăn thịt và uống máu Ngài, họ đã không thể chấp nhận và đã bỏ đi.  Chúa Giêsu không kêu gọi các ông trở lại để giải thích rằng Ngài chỉ có ý nói một cách biểu trưng.  Chúa Giêsu xác tín lời thật: Ai ăn thịt và uống Máu Ta, thì có sự sống đời đời và Ta, ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết (Ga 6, 54).

 Thời kỳ Giáo Hội sơ khai đã khắc cốt ghi tâm những lời truyền này một cách rất cẩn thận.  Thánh Phaolô trong thơ gởi cho tín hữu thành Corintô đã làm rất sáng tỏ: Bất cứ ai ăn Bánh hay uống Chén của Chúa cách bất xứng, thì cũng phạm đến Mình và Máu Chúa (1Cor 11, 27).  Phaolô đã tin nhận bánh và rượu trở nên Mình và Máu Chúa Kitô thực sự.  Giáo Hội luôn luôn dạy rằng qua lời truyền phép của linh mục trong Kinh Nguyện Thánh Thể, bánh và rượu đã được biến đổi bản thể.  Mặc dầu hình dạng bề ngoài vẫn là bánh và rượu, nhưng bởi quyền năng của Chúa, bánh rượu đã trở nên Mình và Máu Thánh Chúa.  Làm sao chúng ta có thể hiểu biết điều này?  Đòi hỏi niềm tin.  Sau khi truyền phép, linh mục nâng Mình Máu Chúa và tuyên xưng: Đây là mầu nhiệm đức tin.  Là mầu nhiệm, giống như tình yêu, chúng ta không bao giờ hiểu thấu hoàn toàn.  Tất cả mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, thần tính của Chúa Giêsu, sự Chết và Sống lại của Chúa Kitô đều là những mầu nhiệm.

 Nhận lãnh Bí tích Thánh Thể, chúng được thông hiệp với Chúa và với nhau: Tấm bánh mà chúng ta bẻ ra chẳng phải là thông hiệp vào Mình Chúa đó sao? (1Cor 10, 16b).  Thánh Thể liên kết chúng ta nên một.  Thánh Phaolô diễn tả rất rõ: Vì có một tấm bánh, nên chúng ta tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể, vì hết thảy chúng ta thông phần cùng một tấm bánh (1Cor 10, 17).  Chúa Giêsu đã dùng của ăn cụ thể nuôi thân xác để biến đổi trở thành của ăn nuôi hồn.  Chúa hiện diện với đoàn con cái mọi nơi và mọi lúc qua Bí tích Thánh Thể trong Nhà Tạm.

 Lạy Chúa, với quyền năng vô biên, Chúa đã nuôi dưỡng chúng con bằng bánh hằng sống.  Xin cho chúng con biết chuẩn bị tâm hồn xứng đáng để lãnh nhận của ăn thiêng liêng và hồng phúc này.  Xin cho chúng con đáng hưởng phần gia nghiệp Chúa hứa ban: Ai ăn thịt và uống Máu Ta, thì có sự sống đời đời.

 Lm. Giuse Trần Việt Hùng

From:Langthangchieutim

Nguyễn Thị Mỹ Lynn, một tân tòng có đức tin tuyệt vời – Phùng Văn Phụng

 Phùng Văn Phụng

Trước hết con – đại diện của nhóm đọc kinh Lòng Chúa Thương Xót – xin chia buồn cùng anh Tâm, chị Liên, cháu Mẫn cùng toàn thể quý tang quyến.

Cách nay 4 năm, Lynn đến với đạo Chúa vào tháng 09 năm 2021 sau khi đã phát giác ra bịnh ung thư và đã được rửa tội vào mùa phục sinh năm 2022.

Trong lớp Tân tòng niên khóa 2021-2022 có tất cả 29 người ghi tên tham dự khóa học đạo trong vòng 9 tháng.

Đặc biệt có ba má Lynn và hai đứa con của Lynn cũng đã theo học đạo trong lớp tân tòng trên.  Lynn cũng là thành viên của nhóm đọc kinh “Cầu nguyện Lòng Chúa Thương Xót” ở Houston, Texas.

Năm nay Lynn đã được 43 tuổi.

Mặc dầu Lynn mới theo đạo nhưng Lynn hoàn toàn phó thác và tin tưởng vào Chúa. Một trường hợp rất đặc biệt với niềm tin tuyệt đối vào Chúa Giêsu.

*****

Đây là bức thơ của Lynn viết trước khi mất, (Lynn mất ngày 06-06-2025) để gởi cho tất cả những người thân yêu, đã đăng trong Facebook của Lynn như sau:

Lynh (Lynn) Nguyen is with Karen Tu Le and 18 others.

Hello tất cả mọi người, là Lynn đây…

Mình biết trong lòng mọi người Lynn rất là dễ thương, hiền lành, hòa đồng luôn luôn quan tâm đến mọi người xung quanh…

Lynn cảm ơn rất nhiều đến mọi người đặc biệt là gia đình Lynn 7 năm nay đã bỏ thời gian thăm Lynn, bên cạnh Lynn, động viên và cầu nguyện cho Lynn…

Trên thiên đàng, bận quá Lynn phải về phụ… Chúa đã gọi Lynn về với vòng tay ấm áp yêu thương của Chúa.

Mọi người ở lại giữ gìn sức khỏe nhen, Lynn đi lên thiên đàng đây…

Ý quên, trên thiên đàng Lynn sẽ cầu nguyện, phù hộ cho mọi người ở lại bình an, mạnh khỏe và hạnh phúc trong cuộc sống trần gian…vậy nha!!!!

Lynn Cười nè

Bye tất cả mọi người!!!!!

Hình ảnh của Lynn (Lynh) rất lạc quan yêu đời (từ facebook của Lynn)

Kết:

Lynn Cười nè

Bye tất cả mọi người!!!!! 

Hai câu nói trên đã biểu lộ niềm vui, hạnh phúc được về với Chúa yêu thương. “Lynn cười nè” chứng tỏ rằng Lynn đã cảm nghiệm sâu sắc câu nói: “Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời” của thánh Phanxicô Assisi.

Tôi rất thán phục và quý mến tinh thần lạc quan của Lynn, đã chịu đựng những đau đớn về thể xác trong thời gian điều trị bịnh ung thư suốt thời gian dài khoảng 7 năm qua.

Lynn nói, có lúc Lynn không thấy đường vì bị ảnh hưởng của bịnh ung thư làm mờ mắt.

Chỉ vài dòng ngắn gọn trên của Lynn, tôi đã thấy Lynn có niềm tin mãnh liệt vào lòng nhân từ, lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa tình yêu.

Hy vọng Chúa đã đón linh hồn Faustina Lynn về nước thiên đàng vĩnh cửu của Chúa rồi.

Tuy nhiên, bổn phận của chúng ta là vẫn tiếp tục cầu nguyện cho linh hồn Faustina Lynn.

Trong niềm an ủi và hy vọng của Chúa phục sinh, kẻ đi trước người đi sau, rồi chúng ta sẽ gặp lại nhau trong ngày sau hết.

Phùng Văn Phụng

Ngày 18 tháng 06 năm 2025

 BỮA ĂN CUỐI CÙNG – Truyện ngắn HAY

Chuyện tuổi Xế Chiều – Công Tú Nguyễn

Một sinh viên ra trường thất nghiệp đã lâu, không tìm được việc làm.

Sáng hôm đó, anh uể oải thức dậy, lục mãi trong ví chỉ còn 10 dollars cuối cùng. Anh rửa mặt thay đồ rồi lang thang trên phố, hy vọng tìm được bất cứ công việc gì có thể.

Nhưng đến đâu cũng chỉ nhận được những cái lắc đầu từ chối. Đến khi thấy đói, anh ghé vào một quán ăn nhanh để mua một phần ăn cuối cùng và ly soda.

Anh vừa lấy được phần ăn nóng hổi ngồi xuống bàn, chưa kịp cắn một miếng thì trước mặt anh bỗng xuất hiện một ông lão ăn xin dẫn theo 2 đứa cháu. Trông họ thật tồi tàn dơ bẩn và đói lả. Ông lão van xin anh vì ông cháu họ đã nhịn ăn gần cả tuần rồi. Những đứa trẻ thèm thuồng nhìn cái bánh hamburger anh đang cầm trong tay .

Chàng thanh niên nhìn lại mẫu bánh, anh cũng đói nhưng anh biết họ còn đói hơn anh. Anh cầm cả khay thức ăn đưa hết cho ông lão. Ông lão ăn xin cảm ơn rối rít, rồi lục trong túi xách rách nát đưa cho anh một đồng xu cổ và nói:

“Cảm ơn lòng tốt của anh, xin hãy nhận cho lòng biết ơn của chúng tôi”.

Anh chẳng biết làm được cái gì với đồng tiền cổ này, nhưng cũng nhận lấy nhét vào túi cho ông lão yên tâm.

Chàng thanh niên thất thểu bước ra khỏi quán. Giờ thì anh thật sự đã chẳng còn gì nữa. Không tiền, không việc, không hy vọng cùng cái đói đang gậm nhấm bao tử .. Anh đi xuống bờ sông, tìm một chỗ mát dưới gầm cầu, và định nằm đó cho đến khi được lên thiên đàng.

Khi loay hoay dọn dẹp xong chỗ nằm, chợt thấy một mẫu báo rách, anh cầm nó lên đọc. Trên báo có mẩu tin: một trung tâm mua bán đồ cổ rao thu mua tất cả những đồng tiền cổ với giá cao.

Anh moi trong túi ra đồng tiền khi nãy ông lão ăn xin đưa cho anh, ngắm nghía một hồi hy vọng biết đâu nó cũng giúp anh mua được vài thứ để nhét vào bụng. Nghĩ vậy nên anh bò dậy và cầm mẩu báo đi tìm địa chỉ.

Khi anh đến nơi và chìa tay đưa ra đồng tiền, một chuyên viên trong cửa hàng xem xong gọi ông chủ đến. Ông chủ đem ra một cuốn sách cũ to tướng, rồi cùng anh và người chuyên viên lục tìm mẫu đồng tiền anh đang có. Sau khi tra cứu niên giám kiểm tra mẫu đồng tiền đó, cả 3 người té ngửa khi biết nó có giá .. 3 triệu dollars.

Anh mất cả ngày hôm đó để hoàn tất thủ tục mua bán, và sáng hôm sau anh bước ra khỏi nhà với tư cách là người chủ tài khoản ngân hàng với 3 triệu đồng. Anh vui mừng chạy ngay đến quán ăn mà anh đã gặp 3 ông cháu ăn xin lần cuối.

Nhưng khi hỏi  toàn bộ nhân viên và ông chủ cửa tiệm,  không ai biết tung tích của ông lão ăn xin. Chỉ có một nhân viên đưa ra một mảnh giấy, nói là ông lão có viết để lại cho anh.

Anh mừng rỡ mở ra xem, hy vọng đây là tin nhắn giúp anh tìm được họ. Nhưng trên mảnh giấy chỉ vỏn vẹn có vài hàng:

“Cảm ơn lòng tốt của anh bạn trẻ. Anh đã cho chúng tôi tất cả những gì anh có khi anh đã không còn gì nữa. Vậy nên anh xứng đáng để nhận lại phần thưởng từ  Chủ Nhân Của Thiên Đường” …

Từ fb Chau Nguyen Thi  (st)


 

Nhưng con sói cái… thì không bao giờ quên

Thanhnguyen Thanhle

 Không lâu trước đây, tôi đọc được một câu chuyện về một người kiểm lâm tên Esteban, người từng cho một con sói cái gầy gò, đói khát ăn những mẩu thịt thừa. Ngày nào, con sói cũng rón rén tiến lại gần căn chòi gỗ của ông — đầy cảnh giác nhưng kiên quyết. Rồi một ngày, nó không đến nữa. Tuần này qua tuần khác trôi qua trong im lặng, cho đến khi bất ngờ, nó quay lại — nhưng lần này, nó không đi một mình. Hai chú sói con bé xíu lẽo đẽo đi bên cạnh.

Ngay lúc ấy, Esteban hiểu ra: thức ăn mà ông từng cho đi không chỉ dành cho con sói cái đó, mà còn dành cho những sinh linh bé nhỏ ẩn sâu trong rừng đang đợi mẹ chúng trở về.

Một lúc lâu, cả ba con sói đứng lặng lẽ trước căn chòi. Hai con nhỏ nép sát vào mẹ, còn con sói cái già thì nhìn Esteban — một ánh nhìn sâu thẳm, lâu dài, không cần lời nói. Trong khoảnh khắc ấy, nó cảm ơn ông từ tận nơi hoang dã nhất trong tâm hồn mình. Rồi nó cùng đàn con lặng lẽ quay đi, biến mất vào rừng sâu, hướng về những ngọn đồi mới, nơi chưa ai biết đến.

Esteban vẫn đứng đó, xô thức ăn còn trong tay, tim lặng lẽ tràn đầy, mắt ánh lên tia sáng. Bởi không phải ngày nào bạn cũng được một con sói cảm ơn vì đã cứu sống con của nó — chỉ bằng một ánh nhìn.

Đôi khi, loài vật nhớ rõ hơn con người.

Bởi con sói cái ấy không quên. Nó đã quay lại — và mang theo con mình, để cho chúng thấy người đã giúp chúng sống sót. Người không xua đuổi, không bắn giết, không đòi hỏi — chỉ lặng lẽ cho đi, không cần báo đáp, cũng chẳng cần lời cảm ơn.

Trong khi đó, có những con người lại dễ dàng quên cả những người đã sinh thành, nuôi nấng họ. Quên những bàn tay đã từng nâng họ dậy, những bờ vai từng gánh thay bao mỏi mệt. Họ quên, rồi nói: “Cần phải tiến về phía trước,” hay “Không có thời gian,” vì “cuộc sống bận rộn.”

Nhưng con sói cái… thì không bao giờ quên.

TG Thú Vị


 

Ông chồng đổ xăng dọa đốt nhưng gây cháy lớn ở Bình Dương

Ba’o Nguoi-Viet

June 18, 2025 

BÌNH DƯƠNG, Việt Nam (NV) – Một ông đến tiệm tóc ở phường Tân Đông Hiệp, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương, tìm vợ rồi xảy ra cãi vã nên lấy xăng dọa đốt, không ngờ ngọn lửa bùng lên cháy lớn.

Theo báo Dân Trí, khoảng 10 giờ 30 phút sáng 18 Tháng Sáu, ông Huỳnh Văn P., 33 tuổi, quê An Giang, mang can xăng đến tiệm spa ML (cũng là phòng tập yoga) trên đường ĐT 743C, phường Tân Đông Hiệp, thành phố Dĩ An, để tìm vợ đang làm đẹp tại đây.

Vụ cháy tiệm tóc và quán bún riêu ở phường Tân Đông Hiệp, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương. (Hình: Xuân Đoàn/Dân Trí)

Tại đây, giữa hai người sau đó xảy ra cãi vã.

Tức giận, ông P. đã tạt can xăng trước tiệm, dọa đốt vợ. Lúc này, ở sát vách tiệm spa là khu vực bếp của quán bún riêu. Bất ngờ, ngọn lửa bắt vào xăng gây bốc cháy tiệm spa, lan sang quán bún riêu bên cạnh và làm cháy một xe hơi, bốn xe gắn máy để phía trước hai tiệm.

Nhiều người hoảng loạn bỏ chạy bằng cửa sau. Nghi can đổ xăng bị bỏng nặng. Lửa bén vào người ông P. làm ông ta bị phỏng ở vai, chân và chạy ra đường kêu cứu.

Nhận được tin báo, Phòng Cảnh Sát Phòng Cháy Chữa Cháy Cứu Nạn Cứu Hộ Tỉnh Bình Dương điều động nhiều xe chữa cháy và lính cứu hỏa đến hiện trường dập lửa. Khoảng 15 phút sau, ngọn lửa được dập tắt.

Vụ cháy làm hư hỏng chiếc xe hơi, một số xe gắn máy và nhiều đồ đạc trong tiệm gội đầu và quán bún riêu.

Chiều cùng ngày, Công An Tỉnh Bình Dương lấy lời khai những người liên quan, khám nghiệm hiện trường để làm rõ dấu hiệu phạm tội của ông P.

Làm việc với công an, nghi can P. cho biết “chỉ đổ xăng dọa, chứ chưa châm lửa” và không biết vì sao lại cháy.

“Lúc ngọn lửa bùng lên, tôi và con gái cũng có mặt trong cửa tiệm spa, thấy lửa cháy to đành mở cửa sau chạy thoát thân, may mắn không bị thương, thường ngày P. ở nhà rất hiền lành, ít nói, nhưng không biết hôm nay sao lại như vậy,” mẹ vợ ông P. nói với báo Pháp Luật TP.HCM.

Hiện trường vụ cháy, ông giận vợ đổ xăng dọa nhưng xảy ra cháy lan. (Hình: Đình Trọng/Lao Động)

Liên quan đến hỏa hoạn, báo Lao Động hôm 18 Tháng Sáu dẫn tin từ Cục Cảnh Sát Phòng Cháy Chữa Cháy và Cứu Nạn Cứu Hộ Bộ Công An cho biết, trong năm tháng đầu năm 2025, Việt Nam xảy ra 1,497 vụ cháy, làm chết 39 người và bị thương 39 người, thiệt hại tài sản ước tính khoảng 138 tỷ đồng ($5.2 triệu) và 216 hécta rừng.

Ngoài ra, cả nước đã xảy ra 11 vụ nổ, làm năm người chết, 14 người bị thương. Thiệt hại tài sản ước tính khoảng 50 tỷ đồng ($1.9 triệu).

Cục Cảnh Sát Phòng Cháy Chữa Cháy phân tích, các vụ cháy chủ yếu xảy ra ở thành thị, chiếm 54.8%, còn lại là ở nông thôn.

Theo đó, có 539 vụ cháy nhà dân; 94 vụ cháy nhà ở kết hợp sản xuất, kinh doanh; 41 vụ cháy chung cư; 10 vụ cháy chợ; ba vụ cháy siêu thị, cửa hàng bách hóa; bốn vụ cháy quán bar, karaoke; 11 vụ cháy trụ sở làm việc; 216 vụ cháy kho, cơ sở sản xuất, kinh doanh; năm vụ cháy cơ sở giáo dục; ba vụ cháy cơ sở quốc phòng… (Tr.N) [qd]