2 thánh Tông Đồ Philipphê và Giacôbê – Cha Vương

Chúc bình an đến bạn và gia đình. Hôm nay 3/5 Giáo Hội mừng kính trong thể 2 thánh Tông Đồ Philipphê và Giacôbê. Mừng bổn mạng đến những ai chọn các ngài làm quan thầy nhé.

Cha Vương

Thứ 7: 03/05/2025

Thánh Philipphê là người xứ Bethsaida. Ông là một trong những người đầu tiên được Đức Giêsu kêu gọi. Chính ông đã mách cho Nathanael Tin mừng lớn lao này: “Đấng mà sách luật Môsê và các ngôn sứ nói tới, chúng ta đã gặp. Đó là ông Giêsu, người Nazareth”. Thấy bạn mình còn hoài nghi, ông đã giục: “Cứ đến mà xem”. Nathanael sau khi đã gặp Đức Giêsu và nghe Ngài nói thì đã tin. Philipphê đã xuất hiện nhiều lần trong Phúc âm: Lúc Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều; làm trung gian cho những người ngoại giáo muốn gặp Đức Giêsu. Philipphê cũng là người đã xin Đức Giêsu: “Lạy Ngài, xin chỉ cho chúng con thấy Cha, thế là đủ cho chúng con”. Người ta nghĩ rằng ông đã đem Tin mừng đến cho người Scythen sau ngày lễ Ngũ tuần và chết rất thọ ở Hiérapolis, tại Phrygie.

    Còn thánh Giacôbê mà chúng ta mừng kính hôm nay là Giacôbê hậu, con ông Alphê. Gọi là Giacôbê hậu để phân biệt với Giacôbê tiền, là con của ông Dêbêđê. Phân biệt này không mang ý nghĩa gì khác ngoài việc tránh sự nhầm lẫn. Khoa Thánh Kinh còn nghi ngờ không biết có phải Giacôbê hậu này có phải là “anh em của Đức Giêsu” và là tác giả của lá thư Giacôbê hay không? Nhưng Phụng vụ Rôma lại có sự đồng hoá và xác nhận. Trước khi các Tông đồ tản mác mỗi người một nơi, thì họ chỉ định thánh Giacôbê làm Giám mục Giêrusalem. Ngài là linh hồn của cộng đoàn Giêrusalem. Vì ngài đã làm cho nhiều người trở lại với Đức Giêsu nên bị bản án ném đá. Ngài đã chịu tử đạo đang khi quỳ gối cầu nguyện cho tên lý hình đang kết thúc đời Ngài bằng một thanh sắt giáng xuống trên người, trong thời điểm mừng lễ Vượt Qua. (Theo “Tự điển các thánh”, trang 268-269 và trang 159).

Noi gương thánh Philipphê và thánh Giacôbê, bạn có thể trở thành tông đồ của Chúa qua lối sống hằng ngày của mình hôm nay bằng cách làm những việc nhỏ với một con tim chân thành, với một thái độ cởi mở. Đây là một minh chứng hùng hồn và cụ thể nhất cho đức tin của mình đó. 

Xin thánh Philipphê và thánh Giacôbê, cầu cho chúng con.

From: Do Dzung

**************************

Mai Thảo, Thanh Sử – Hãy Theo Thầy

Đêm đó, tôi hiểu tình yêu đích thực là gì.-Truyện ngắn HAY

Chau Doan 

 Cha mẹ tôi đã kết hôn được 55 năm. Một buổi sáng, mẹ tôi đi xuống cầu thang để chuẩn bị bữa sáng cho cha, nhưng bà bị đau tim và ngã. Cha tôi cố gắng hết sức nâng mẹ dậy và gần như kéo bà lên xe tải. Ông lái xe với tốc độ tối đa, không tuân theo đèn giao thông, để đưa mẹ đến bệnh viện.

Khi đến nơi, đáng buồn là mẹ tôi đã không còn nữa.

Trong tang lễ, cha tôi không nói gì, ánh mắt ông lạc lõng và hầu như không khóc.

Đêm đó, các con của ông đã ở bên ông. Trong không khí đau buồn và hoài niệm, chúng tôi nhớ lại những kỷ niệm đẹp, và ông yêu cầu anh trai tôi – một nhà thần học – nói về nơi mẹ tôi đang ở lúc đó. Anh trai tôi bắt đầu nói về cuộc sống sau cái chết và suy đoán về nơi mẹ có thể đang ở.

Cha tôi lắng nghe chăm chú. Đột nhiên, ông yêu cầu chúng tôi đưa ông đến nghĩa trang.

“Cha!” chúng tôi đáp, “bây giờ là 11 giờ đêm, chúng ta không thể đến nghĩa trang ngay lúc này được!”

Ông cao giọng, ánh mắt đượm buồn: “Đừng cãi cha, xin đừng cãi lại người vừa mất đi người vợ 55 năm của mình.”

Chúng tôi im lặng đầy tôn trọng, không cãi thêm nữa. Chúng tôi đến nghĩa trang, dùng đèn pin để tìm đến mộ mẹ.

Cha tôi ngồi xuống, cầu nguyện và nói với chúng tôi: “Đó là 55 năm… các con biết không? Không ai thực sự có thể nói về tình yêu đích thực nếu chưa từng sống cả đời với một người.”

Ông dừng lại, lau mặt.

“Mẹ và cha đã cùng nhau trải qua những điều tốt đẹp và tồi tệ,” ông tiếp tục. “Khi cha đổi việc, chúng tôi cùng thu dọn đồ đạc khi bán nhà và chuyển đi. Chúng tôi chia sẻ niềm vui khi thấy các con trở thành cha mẹ, cùng nhau đau buồn trước sự ra đi của những người thân yêu, cùng cầu nguyện trong phòng chờ của một số bệnh viện, cùng nâng đỡ nhau trong đau đớn, ôm nhau mỗi ngày, và tha thứ cho những sai lầm.”

Rồi ông dừng lại và nói thêm: “Các con, tất cả đã kết thúc và cha hạnh phúc tối nay. Các con biết tại sao cha hạnh phúc không? Vì mẹ đã ra đi trước cha. Mẹ không phải chịu đựng nỗi đau và sự cô đơn khi chôn cất cha, khi bị bỏ lại một mình sau khi cha rời đi. Cha sẽ là người chịu đựng điều đó, và cha cảm ơn Chúa vì điều này. Cha yêu mẹ đến mức không muốn mẹ phải chịu khổ…”

Khi cha tôi nói xong, tôi và các anh em nước mắt lăn dài. Chúng tôi ôm cha, và ông an ủi chúng tôi: “Không sao đâu. Chúng ta có thể về nhà. Hôm nay là một ngày tốt.”

Đêm đó, tôi hiểu tình yêu đích thực là gì. Nó không chỉ là sự lãng mạn và tình dục, mà là hai người luôn ở bên nhau, cam kết với nhau… qua tất cả những điều tốt đẹp và tồi tệ mà cuộc sống mang lại.

Bình an trong trái tim các bạn.

Nguồn: Susan Arnold


 

ĐÊM TRƯỚC NGÀY 30/4/2024: BUỒN VÀ THƯƠNG CHO DÂN MÌNH NƯỚC MÌNH

Phêrô Nguyễn Văn Khải added 7 new photos from April 29, 2024 at 5:37 PM.

April 29, 2024

Lm. Phêrô Nguyễn Văn Khải DCCT

 Năm nào cũng vậy cứ những ngày này tôi khó ngủ. Nhớ đến nguyên nhân, diễn biến và hậu quả, đặc biệt là các nạn nhân của cuộc chiến 54-75 tôi càng thấy thương cho dân mình nước mình và càng giận những kẻ gây chiến là cộng sản Việt-Nga-Tầu.

Tôi thương cho những người lính của quân đội VNCS, trong đó có những người thân của tôi, có bố tôi, có chú tôi, có những người anh em của tôi, đã phải hy sinh tuổi trẻ, đã bỏ một phần máu thịt, hoặc bỏ cả mạng mình ở khắp bốn chiến trường A-B-C-D.

Vì họ đã bị tuyên truyền, đã bị tẩy não, đã bị nhồi sọ, đã bị lừa và bị lùa vào cuộc chiến khốc liệt! Họ đã bị đánh cắp tuổi trẻ và mạng sống mà rốt cuộc bản thân họ, gia đình họ và cả quốc gia dân tộc chẳng được lợi lộc gì! Chỉ có một số kẻ cơ hội, những kẻ đầu cơ chiến tranh là được lợi và họ vẫn tiếp tục hưởng lợi từ cuộc chiến này cho đến hôm nay.

Tôi thương cho những người lính của quân đội VNCH đã phải gồng mình bảo vệ một quốc gia tự do được Liên hợp Quốc công nhận, một chế độ dân chủ do người dân chọn lựa. Họ đã thắng trong từng trận đánh, nhưng đã thua trong toàn cuộc chiến, vì bị đồng minh phản bội và bỏ rơi trong khi đối thủ lại được Nga-Tầu hậu thuẫn quá mạnh.

Tôi thương cho các thương binh của VNCH bị hắt hủi, phải sống lay lắt, cơ cực và nhiều người chết một thân một mình. Thế mà đến cái tên gọi là Thương Phế Binh VNCH, nhiều người cũng không dám gọi và lại càng không dám đưa tay giúp đỡ, nhưng miệng thì vẫn ra rả xưng mình là bạn đồng hành của những người nghèo, những người bị loại trừ, những người bị bỏ rơi, etc.

Tôi thương cho những người cha người mẹ bị mất con, những người vợ mất chồng, những người chồng mất vợ, những người con mất bố, những anh chị em mất nhau, ở cả hai miền Bắc-Nam, cả bên cộng sản lẫn bên cộng hoà. Tôi thương cho bao nhiêu thiếu nữ Miền Bắc phải đi dân công hoả tuyến đến khi chiến tranh kết thúc thì đã quá lứa lỡ thì và phải sống côi cút vất vả và bệnh tật cả đời.  

Tôi thương cho những tín đồ, những tu sĩ của các tôn giáo, đã phải vào tù trước sau và vì cái ngày 30 tháng 4 ấy, trong đó có cha đỡ đầu của tôi, có bác của tôi; thậm chí có cha bị bắt và bị đánh chết trong tù chỉ sau mấy ngày giam giữ như cha xứ của tôi. 

Tôi thương cho hàng triệu công dân VNCH bị đảo lộn cuộc sống, cho hàng chục nghìn gia đình quân dân cán chính VNCH bị tan cửa nát nhà, mất tài sản, mất công ăn việc làm và thậm chí phải vào tù hoặc bị lưu đầy chốn rừng thiêng nước độc.

Tôi thương cho những người vượt biên vượt biển, lao vào cõi chết để tìm cõi sống, bao nhiêu người đã bỏ mình trên rừng dưới biển trên đường đi tìm tự do, bao nhiêu người đã bị cán bộ, công an và cướp biển trấn lột, bỏ tù, hãm hiếp và cướp bóc mà thương tích trong tâm hồn còn hằn sâu đến hôm nay.

Tôi thương cho đất nước mình, man rợ thắng văn minh, độc tài thắng dân chủ, ma quỷ nhảy lên làm thần phật, những kẻ bất tài thất đức thâu tóm quyền lực trong khi những kẻ có tâm có tài thì hoặc bị bỏ tù, hoặc bị quản chế, hoặc bị cô lập, hoặc bị loại trừ, hoặc đã phải bỏ nước ra đi…

Nỗi đau buồn của tôi có thể sẽ giảm thiểu ít nhiều, nếu Việt Nam nay có tự do và quyền con người được tôn trọng, nếu môi sinh không bị tàn phá, nếu người dân không bị đè đầu cưỡi cổ và bị móc túi bằng đủ cách khác nhau, nếu đạo đức luân lý không ngày càng xuống cấp bởi tham nhũng, dối trá và bạo lực, nếu các tôn giáo không bị kiểm soát và thao túng, nếu nhiều chức sắc và nhà tu hành không bị tha hoá trở thành tay chân của bạo quyền, etc.

Đằng này…!

Một chế độ thực tâm yêu nước và thương dân sẽ không tổ chức “mừng chiến thắng”, một chính quyền biết chữa lành vết thương chiến tranh sẽ không tiếp tục ăn mày dĩ vãng để chia rẽ và thống trị dân.

Tôi nghĩ người có nhân bản, có đạo đức, có hiểu biết không ai lợi dụng dịp này để đi du hý. Ai lại đi ăn mừng trên nỗi đau của người khác và trên cái mất mát của chính dân tộc mình?

Đến như chính ông Thủ tướng Võ Văn Kiệt, một lãnh tụ hàng đầu của cộng sản Việt Nam, một người có vợ con chết trong cuộc chiến mà ông là tác nhân còn biết nói hồi hơn 20 năm trước rằng 30 tháng 4 là ngày “triệu người vui thì cũng có triệu người buồn”.

Tôi đọc kinh và làm lễ cầu nguyện cho các nạn nhân trong cuộc chiến 54-75, những người đã qua đời cũng như những người còn đang sống, Bắc cũng như Nam, quốc gia cũng như cộng sản, chết trước cũng như sau 75, chết trên chiến trường, chết trên rừng dưới biển, cũng như trong các trại tập trung của cộng sản.

Tôi cầu nguyện cho những người vì yêu nước và thương đồng bào, vì dấn thân cho tự do dân chủ, cho quyền con người đang bị lưu đầy ở các nước hoặc đang còn bị giam cầm hiện nay trong các trại tù của chính quyền cộng sản.

Xin Chúa cho người chết được hưởng hạnh phúc thiên đàng cùng các bậc tổ tiên và xin cho người sống được tìm thấy ý nghĩa cuộc đời bất chấp những gian nan, khốn khó.

Tôi cũng cầu nguyện cho mọi người Việt Nam sớm được sống như là một con người được tôn trọng và yêu thương chứ không phải như một con vật bị bạo quyền lạm dụng, được sống như con cái của Đức Chúa Trời chứ không phải như nô lệ cho các thế lực đen tối, được có đủ tự do và điều kiện để xây dựng cuộc sống của mình như Chúa muốn và người mong.

Tôi cầu nguyện cho mỗi người thức tỉnh!

Lm. Phêrô Nguyễn Văn Khải DCCT


 

THẤY THẦY LÀ THẤY CHA – Lm. Đaminh Trần Công Hiển

Lm. Đaminh Trần Công Hiển

Được sống với Thầy, được nghe những bài giảng của Thầy về Chúa Cha, Philipphê nhận ra Chúa Cha là Đấng cao cả nhưng cũng rất tốt lành, là nguồn hạnh phúc, cho nên ông và các tông đồ khác đã ước ao được thấy Chúa Cha: Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện!  Qua đó, chúng ta thấy được tấm lòng khao khát tìm kiếm chân lý của Philipphê và các Tông đồ.

 Ước nguyện ấy lại được Chúa Giêsu đáp ứng một cách dễ dàng không ngờ: ai Thấy Thầy là thấy Cha!  Một ước vọng có vẻ cao sang nhưng lại được được đáp ứng quá nhanh chóng đến độ bất ngờ như thế, thực sự là một Tin vui hạnh phúc cho loài người chúng ta trên hành trình tìm kiếm chân lý, nhưng nhiều khi cũng vì quá dễ dàng, nên chân lý vĩ đại này lại thường bị bỏ quên.  Người ta thích đi con đường dài và  hiểm trở (để quan trọng hóa vấn đề) hơn là chọn con đường có vẻ quá đơn giản như thế.  Người ta đi tìm Chúa nơi nao trong khi Chúa ở rất gần, ở bên cạnh, ở trong lòng ta thì lại không biết, không thấy!  Người ta thích suy tư lý luận dài dòng phức tạp nhưng lại quên rằng Thiên Chúa của chúng ta và đường lối của Ngài lại rất đơn sơ. 

Có lẽ Philipphê và Giacôbê cùng các Tông đồ sau khi được Chúa dạy dỗ bài học hôm nay, đã ý thức để sống thân mật với Chúa hơn, lãnh nhận chân lý với niềm tin yêu, và sau này các Ngài đã đổ máu đào để làm chứng cho chân lý ấy. 

Đối với chúng ta hôm nay, chúng ta có khát khao tìm kiếm chân lý, tìm kiếm hạnh phúc đích thực không?  Có người vất vả đi tìm hạnh phúc tạm bợ, giả tạo nơi tiền bạc, danh vọng, lạc thú…; có người đi tìm ở triết thuyết này, đạo pháp kia; có người biết là phải đi tìm Chúa nhưng không biết tìm ở đâu!  Thì đây, Chúa Giêsu cho chúng ta câu trả lời đễ dàng đến bất ngờ:  Thầy là đường là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy.  Thì ra gặp Chúa Giêsu là gặp Chúa Cha nguồn Sự thật, thấy Chúa Giêsu là thấy Chúa Cha nguồn sự sống, yêu mến Chúa Giêsu là yêu mến chính Thiên Chúa là nguồn tình yêu.  Mà làm thế nào để tìm biết Chúa Giêsu? 

Nếu anh biết Thầy, anh cũng sẽ biết Cha.  Khổ nỗi, cho đến hôm nay nhiều người trong chúng ta vẫn chưa biết Chúa Giêsu, mặc dù ta mang danh là Kitô hữu, ta vẫn nghe Kinh Thánh mỗi ngày, vẫn rước Chúa mỗi ngày!  Nếu một người lương dân hỏi: Chúa Kitô là ai?  Có lẽ phần đông chúng ta cũng gặp khó khăn trong câu trả lời đấy!  Phải chăng đã đến lúc chúng ta cần nhìn lại cách sống đạo của chính mình, kẻo chúng ta cũng bị trách như Chúa Giêsu trách Philipphê: Thầy ở với anh bấy lâu mà anh không biết thầy ư?  Phải chăng chúng ta cần tiếp cận Kinh Thánh một cách ý thức hơn, dành thời giờ học hỏi Kinh Thánh nhiều hơn, để biết đọc, biết suy, biết cảm nếm, để chúng ta có thể gặp được Đức Kitô Phục sinh đang sống động trong từng trang, từng Lời Kinh Thánh và để chính Đức Kitô sống động trong cuộc sống thường ngày của ta.

 Nhiều anh chị em sau khi tham gia những khóa học Kinh thánh đã phải thốt lên: bây giờ tôi mới biết Đức Kitô là ai, bây giờ tôi mới cảm nghiệm tình Chúa yêu tôi như thế nào!  Trước đó họ vẫn đọc Kinh Thánh chứ, vẫn nghe Kinh Thánh, vẫn học giáo lý, vẫn nghe giảng dậy hàng ngày, nhưng có lẽ những hiểu biết, Đức Tin, lòng yêu mến có được chỉ là vay mượn, không đích thật là của mình, cho nên nó hời hợt, không có chiều sâu và dễ bị nghiêng ngả chao đảo khi gặp thử thách đau khổ.  Chỉ khi nào chính mình khám phá, trải nghiệm thì Đức Tin vào Đức Ki tô mới kiên vững, tình mến vào Chúa Kitô mới nồng nàn, và như thế chúng ta sẽ gặp được Chúa Cha là nguồn chân lý, bình an và hạnh phúc, và khi đó, chúng ta có thể làm được những điều như Chúa Giêsu đã làm, đó là làm nhân chứng cho Tin Vui phục sinh ở mọi nơi, để Chúa Cha được tôn vinh nơi Chúa con, để nhân loại được hạnh phúc trong Tình yêu của Chúa Ba Ngôi. 

Nguyện xin hai thánh Tông đồ Philipphe và Giacôbê cầu thay nguyện giúp để chúng con noi gương các Ngài, khao khát tìm Chúa, siêng năng học hỏi Kinh Thánh, rước Thánh Thể một cách ý thức hơn để chúng con thực sự găp được Chúa, có được cuộc sống thân mật với Chúa Kitô, từ đó chúng con trở thành nhân chứng sống động, dám sống và chết cho Tin mừng Phục sinh.  Amen! 

Lm. Đaminh Trần Công Hiển

From: Langthangchieutim


 

Tiểu khí của người nhỏ nhen.

Thái Hạo

 Anh em trong nhà, đánh nhau một trận, năm mươi năm sau còn ăn mừng chiến thắng. Đó là tiểu khí của người nhỏ nhen.

Người Mỹ đánh nhau, hai miền đều hạ vũ khí, không ai là kẻ thua trận, không ai bị sỉ nhục. Đó là phong độ của người quân tử: nhân văn và quảng đại. Không lạ khi Mỹ thành siêu cường.

Hòa giải chỉ có thể đến từ bên thắng cuộc. Thù hận hay ăn mừng, cả hai đều bít lối tương lai. Cờ quạt và lễ lạt chỉ chứng tỏ bụng dạ hẹp hòi, dân tộc không bao giờ lớn nổi.


 

2 đại sứ Việt Nam gây tranh cãi liên quan 30 Tháng Tư

Ba’o Nguoi-Viet

May 2, 2025

HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Mạng xã hội hôm 2 Tháng Năm dấy lên tranh cãi xoay quanh bài đăng của hai đại sứ Việt Nam đương nhiệm tại Đức và Liên Hiệp Quốc, liên quan 30 Tháng Tư.

Ông Vũ Quang Minh, đại sứ Việt Nam tại Đức, được nhìn thấy chia sẻ một bài đăng của Facebook “Tran Luong Son” về hành xử của cố Tổng Thống Abraham Lincoln sau nội chiến Hoa Kỳ, kèm bình luận bằng tiếng Anh: “Time for celebration. Time for reflection” (Thời để kỷ niệm. Thời để suy ngẫm.)

Bài đăng trên trang cá nhân của ông Vũ Quang Minh, đại sứ Việt Nam tại Đức, hiện đã xóa. (Hình: Chụp qua màn hình)

Bên dưới bài đăng, ông Minh trả lời bình luận của một người đọc: “[Nước] Đức may mắn thống nhất trong hòa bình, nhưng các chính sách hòa hợp và tái thống nhất hai miền cũng cho ta rất nhiều bài học. Vấn đề là ta có quan tâm học không và có tin rằng những bài học đó đáp ứng lợi ích lâu dài của dân tộc ta.”

Bài đăng và phản hồi của ông Minh được hiểu là cách ông ngầm tán dương chủ trương hòa giải sau 1975 phải được tiến hành chân thành, cũng như bày tỏ sự không tán thành việc Hà Nội tốn hàng trăm triệu đô la tiền thuế dân cho việc tổ chức diễn binh ở Sài Gòn, “ăn mừng” 50 năm ngày 30 Tháng Tư.

Tuy vậy, ông Minh sau đó đã xóa bài đăng mà không giải thích.

Ông Hà Quang Minh, nhà báo của tờ Công An Nhân Dân, bình luận trên trang cá nhân: “Cách ông Vũ Quang Minh, đại sứ Việt Nam tại Đức, chia sẻ quanh sự kiện 30 Tháng Tư rất đáng quan ngại về nhận thức chính trị của quan chức ngoại giao này. Đề nghị Bộ NG [Ngoại Giao] xem xét lại tư cách nhân sự của mình.”

Cùng thời điểm, mạng xã hội dấy lên nhiều ý kiến chỉ trích Đại Sứ Đặng Hoàng Giang, trưởng phái đoàn thường trực Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc, do ông này đăng hình ảnh Cờ Đỏ Sao Vàng ở Times Square (quảng trường Thời Đại), thành phố New York, hôm 30 Tháng Tư bị công luận phát giác là “hình chế.”

Tấm hình do ông Giang đăng tải sau đó được Báo Chính Phủ, Thông Tấn Xã Việt Nam, Facebook Thông Tin Chính Phủ, báo Tuổi Trẻ, VietnamPlus, Người Lao Động… và hàng loạt trang của giới dư luận viên đăng lại.

Hình “Cờ Đỏ Sao Vàng Việt Nam ở Times Square, New York hôm 30 Tháng Tư” do Đại Sứ Đặng Hoàng Giang, trưởng phái đoàn thường trực Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc, đăng trên trang cá nhân và gỡ bỏ sau khi bị phát giác là “hình chế.” (Hình: Chụp qua màn hình)

Vài giờ sau khi bị cộng đồng mạng tố cáo tấm hình “do AI (Artificial Intelligence – trí tuệ nhân tạo) chế ra,” các báo âm thầm gỡ đường dẫn mà không đăng lời cải chính, trong lúc ông Giang cũng khóa trang Facebook “Giang Dang” với hình “avatar” là một con mèo.

Nhiều Facebooker đặt câu hỏi về việc liệu ông Giang có bị phạt 7.5 triệu đồng ($288), tương tự trường hợp những người dân bị công an cáo buộc “đưa tin sai, gây hoang mang dư luận.”

Thậm chí, có những ý kiến đòi Bộ Ngoại Giao kỷ luật ông ta vì đăng tin giả.

Theo bản tiểu sử đăng trên trang web của Bộ Ngoại Giao Việt Nam, ông Đặng Hoàng Giang, 48 tuổi, có bằng cao học ngành Quan Hệ Quốc Tế do Học Viện Ngoại Giao ở Hà Nội cấp.

Trước khi làm trưởng phái đoàn thường trực Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc, ông Giang từng giữ ghế thứ trưởng Ngoại Giao. (N.H.K) [qd]


 

KHÔNG BAO GIỜ LẠC LỐI – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống!”.

“Người chọn nơi bắt đầu của một con đường, sẽ chọn nơi nó dẫn đến!” – H. E. Fosdick.

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa lễ kính hai thánh Philipphê và Giacôbê tông đồ chứng thực câu nói của Fosdick, “Người chọn nơi bắt đầu của một con đường, sẽ chọn nơi nó dẫn đến!”. Ai chọn Chúa Kitô, người ấy ‘không bao giờ lạc lối’ vì đã chọn đúng tuyệt đối. Ngài nói, “Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống!”.

Chúa Kitô là Thiên Chúa, cũng là con người! Vì thế, bước theo Chúa Kitô, bạn tìm thấy đường đến với Thiên Chúa; tin Chúa Kitô, bạn nhận ra lẽ thật là chính Thiên Chúa; chấp nhận Chúa Kitô, bạn có sự sống của Thiên Chúa! Là Kitô hữu, bạn không chỉ tuân theo một số quy tắc, một số tín điều; nhưng là đi theo một Con Người! Fulton Sheen thật gãy gọn khi nói, “Tất cả giáo lý là Chúa Kitô!”. Chúa Kitô là câu trả lời cho mọi vấn đề; vấn đề sự sống, sự chết; vấn đề bên kia cái chết và sự sống vĩnh cửu. Ai chọn Chúa Kitô sẽ ‘không bao giờ lạc lối’ vì đã chọn đúng đường – đúng đích – dẫn đến Thiên Chúa!

Philipphê nói, “Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha!”; Chúa Giêsu đáp, “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha!”. Một câu trả lời khá mơ hồ cho một người thực dụng; ấy thế, đó là câu trả lời không thể đúng hơn! Bởi lẽ, không ai thấy Thiên Chúa mà không chết, nên Con Thiên Chúa làm người để ai ‘thấy’ Ngài thì luôn ‘sống!’. Cốt lõi giáo lý về Nhập Thể là – giờ đây – “khuôn mặt” Thiên Chúa đã hiển hiện nơi Chúa Kitô. Thấy Chúa Kitô là thấy Chúa Cha, thấy sự sống, thấy thiên đàng. Rất nhiều điều kỳ diệu đang chờ đợi bên kia cuộc sống, nhưng chúng ta có thể hưởng nếm chúng trước trong Chúa Kitô. Ngài ‘mang trời xuống đất’ khi nhập thể; ‘mang đất lên trời’, khi đem chúng ta về ‘Nhà Cha’. Với tư cách con đường, Ngài đưa chúng ta đến với Chúa Cha; tư cách sự thật, Ngài mặc khải Chúa Cha; và tư cách sự sống, Ngài chia sẻ sự sống của Cha.

Một trùng hợp thú vị khi Phaolô – đến mấy lần – đề cập việc nhìn thấy Chúa Phục Sinh. Chúa Phục Sinh đã hiện ra “với ông Kêpha, rồi với Nhóm Mười Hai. Sau đó, Người đã hiện ra với hơn năm trăm anh em một lượt”; Ngài cũng hiện ra “với Giacôbê, với tất cả các tông đồ”; và sau cùng, với Phaolô như “một đứa trẻ sinh non”. Nhờ việc thấy Ngài, các tông đồ mạnh dạn đi đến tận cùng trái đất, rao giảng Tin Mừng Phục Sinh; “Tiếng các ngài vang dội khắp hoàn cầu!” – Thánh Vịnh đáp ca.

Anh Chị em,

“Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống!”. Mỗi ngày, đi trên con đường Giêsu, mỗi bước chân của chúng ta đã “chọn nơi nó dẫn đến” – Chúa Cha! Có Chúa Cha, bạn và tôi có tất cả; có thiên đàng, có sự sống hôm nay, có sự sống vĩnh cửu! Vậy Kitô hữu sẽ không còn gặp bất cứ vấn đề nào nữa sao? Có chứ! Vấn đề cuộc sống vẫn còn đó, nhưng vì Con Thiên Chúa đã đi qua mọi nẻo gian khó của nó, và trên đường, Ngài đã toàn thắng khi đánh bại thần chết; vì thế, Ngài có thể dẫn chúng ta đi, cứu thoát chúng ta ở bất cứ hoàn cảnh nào. Và chắc chắn, Ngài sẽ dẫn chúng ta đến cùng đích!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đường đời muôn hướng nhưng ‘không dẫn đến đâu’. Giúp con chọn đường Giêsu mỗi ngày; vì chọn Ngài, con sẽ ‘không bao giờ lạc lối!’”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế) 

**********************************************************

Thứ Bảy Tuần II Phục Sinh

Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh em chưa biết Thầy ư ?

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.   Ga 14,6-14

6 Khi ấy, đến giờ lìa bỏ thế gian mà về với Chúa Cha, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy. 7 Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người.”

8 Ông Phi-líp-phê nói : “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện.” 9 Đức Giê-su trả lời : “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Phi-líp-phê, anh chưa biết Thầy ư ? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói : ‘Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha’ ? 10 Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao ? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình. 11 Anh em hãy tin Thầy : Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy ; bằng không thì hãy tin vì công việc Thầy làm. 12 Thật, Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha. 13 Và bất cứ điều gì anh em nhân danh Thầy mà xin, thì Thầy sẽ làm, để Chúa Cha được tôn vinh nơi người Con. 14 Nếu anh em nhân danh Thầy mà xin Thầy điều gì, thì chính Thầy sẽ làm điều đó.


 

Thánh A-tha-na-xi-ô  (295- 373) – Cha Vương 

Đêm qua ngủ có ngon không? Đừng có ngáp ngủ nhé. Nếu có ngáp thì hãy thốt lên: “Lạy Chúa xin giúp con…” Hôm nay Giáo Hội mừng kính Thánh A-tha-na-xi-ô (296? – 373), Giám Mục Tiến Sĩ Hội Thánh. Xin Chúa chúc lành cho bạn và gia đình.

Cha Vương 

Thứ 6, 2PS: 02/05/2025

Cuộc đời Thánh A-tha-na-xi-ô đầy bôn ba vì tận tụy phục vụ Giáo Hội. Ngài là quán quân bảo vệ đức tin đối với sự lan tràn của lạc thuyết Arian. Sự nhiệt huyết của ngài được thể hiện trong các trước tác giúp ngài xứng đáng là Tiến Sĩ Hội Thánh.

    Sinh trong một gia đình Kitô Giáo ở Alexandria khoảng vào năm 295 và được giáo dục kinh điển, A-tha-na-xi-ô gia nhập hàng giáo sĩ và là thư ký cho Ðức Alexander, Giám Mục của Alexandria, và sau đó chính ngài được nâng lên hàng giám mục. Vị tiền nhiệm của ngài, Ðức Alexander, từng là người lớn tiếng chỉ trích một phong trào mới đang bành trướng ở Ðông Phương thời bấy giờ, đó là lạc thuyết Arian, họ khước từ thiên tính của Ðức Kitô và không coi Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa.

    Khi Ðức A-tha-na-xi-ô đảm nhận vai trò Giám Mục của Alexandria, ngài tiếp tục chống với lạc thuyết Arian. Lúc đầu, cuộc chiến dường như dễ dàng để chiến thắng và lạc thuyết Arian sẽ bị kết án. Nhưng thực tế thì trái ngược. Công Ðồng Tyre đã được triệu tập và vì một vài lý do không rõ ràng, Hoàng Ðế Constantine đã trục xuất Ðức A-tha-na-xi-ô đến miền bắc nước Gaul. Ðây là chuyến đi đầu tiên trong một chuỗi hành trình và lưu đầy có nét phảng phất như cuộc đời Thánh Phaolô.

    Khi Constantine từ trần, người con trai kế vị đã phục hồi quyền giám mục của Ðức A-tha-na-xi-ô. Nhưng chỉ được có một năm, ngài lại bị truất phế vì sự liên hiệp của các giám mục theo phe Arian. Ðức A-tha-na-xi-ô đã đệ đơn lên Rôma, và Ðức Giáo Hoàng Julius I đã triệu tập một công đồng để duyệt qua vấn đề và các khó khăn liên hệ.

    Trong bốn mươi sáu năm làm giám mục, ngài đã phải lưu đầy mười bảy năm chỉ vì bảo vệ tín điều về thiên tính của Ðức Kitô. Trong một thời gian, ngài được an hưởng 10 năm tương đối bình an để đọc sách, viết lách và cổ võ lý tưởng của đời sống đan viện mà ngài hết lòng tận tụy.

    Các văn bản và giáo lý của ngài hầu hết là các bài bút chiến, trực tiếp chống lại mọi góc cạnh của lạc thuyết Arian. Trong các văn bản của ngài về đời sống khổ hạnh, cuốn Ðời Sống Thánh Anthony được nhiều người biết đến và góp phần lớn trong việc thiết lập đời sống đan viện trên khắp thế giới Kitô Giáo Tây Phương.

    Sau một cuộc đời đức hạnh và chịu đau khổ gian nan nhưng vẫn trung kiên với Đức Tin Công giáo. Ngài là một vĩ nhân của thời đại đã an nghĩ đời đời trong Chúa vào ngày 2 tháng 5 năm 373. Thánh tích của ngài hiện còn ở San Croce, Venice, nước Ý.

    Thánh A-tha-na-xi-ô được tuyên dương là Tiến sĩ của Hội Thánh do Đức Giáo Hoàng Pius V năm 1568.

LỜI TRÍCH: Những khó nhọc mà Thánh A-tha-na-xi-ô đã phải đau khổ trong khi lưu đầy – trốn tránh, bỏ chạy từ nơi này sang nơi khác – nhắc nhở chúng ta về những gì mà Thánh Phaolô đã đề cập đến trong cuộc đời ngài: “Trong nhiều cuộc hành trình, gặp bao nguy hiểm trên sông, nguy hiểm do trộm cướp, nguy hiểm do đồng bào, nguy hiểm vì dân ngoại, nguy hiểm ở thành phố, ở sa mạc, ngoài biển khơi, nguy hiểm do những kẻ giả danh là anh em; trong vất vả mệt nhọc, qua những đêm không ngủ, qua sự đói khát, thường xuyên phải nhịn ăn uống, qua sự lạnh lẽo và trần truồng. Ngoài những điều này, tôi còn bị ray rứt hằng ngày vì sự ưu tư lo cho tất cả các giáo hội” (2 Corinthians 11:26-28). (Nguồn: Người Tín Hữu online)

Bạn đã và đang làm gì để giữ vững đức tin? Cái giá bạn phải trả là gì?

Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã cho thánh giám mục A-tha-na-xi-ô được can đảm đứng lên bênh vực niềm tin của Giáo Hội về thần tính của Đức Ki-tô, Con Một Chúa. Xin nhậm lời thánh nhân chuyển cầu mà ban cho chúng con biết nghe lời người giảng dạy, để ngày càng hiểu biết và yêu mến Chúa hơn. Chúng con cầu xin… 

(Lời nguyện trong kinh Thần Vụ)

From: Do Dzung

*******************************

Con Tin Chúa Ơi – Lm Duy Thiên

Kỹ Thuật Cuối Tuần:

Theo mạng SWN

Nhật Bản đã giới thiệu một khẩu súng đường sắt mà họ sẽ sử dụng để bắn hạ tên lửa siêu vượt thanh.

Vũ khí này bắn đạn với tốc độ 2.500 mét mỗi giây – gấp bảy lần tốc độ âm thanh – cho phép tấn công nhanh chóng các mối đe dọa của hỏa tiễn bay tốc độ cao mà các hệ thống thông thường phải vật lộn rất khó để chống lại.

Hình ảnh lưu trữ (tháng 1 năm 2017) cho thấy Súng điện từ do Văn phòng Nghiên cứu Hải quân Hoa Kỳ tài trợ tại phạm vi đầu cuối đặt tại Trung tâm Tác chiến mặt nước Hải quân Dahlgren Division, Virginia. (Pix qua SWNS)
Vào ngày 9 tháng 4 năm 2025, Phó Đô đốc OMACHI Katsushi (trong bộ đồ màu xanh), Tư lệnh Hạm đội Phòng vệ (COMSDFLT), đã đến thăm tàu JS ASUKA, để quan sát tình trạng mới nhất của Railgun. (Pix qua SWNS)

Không giống như các loại súng thông thường dựa vào chất đẩy nổ, súng đường sắt sử dụng lực điện từ để tăng tốc đạn, giảm rủi ro trên tàu và cho phép nhắm mục tiêu tầm xa hơn vào các mối đe dọa bay trên không và trên biển.

Phó Đô đốc Omachi Katsushi, Tư lệnh Hạm đội Phòng vệ, đã đến thăm tàu thử nghiệm JS Asuka trong tháng này để quan sát các cuộc trình diễn của hệ thống này.

Nó được phát triển bởi Cơ quan Mua sắm, Công nghệ & Hậu cần (ATLA), cơ quan mua sắm và công nghệ quốc phòng chính của Nhật Bản được thành lập vào năm 2015 trực thuộc Bộ Quốc phòng.

Vào ngày 9 tháng 4 năm 2025, Phó Đô đốc OMACHI Katsushi, Tư lệnh Hạm đội Phòng vệ (COMSDFLT), đã đến thăm tàu JS ASUKA, để quan sát tình trạng mới nhất của Railgun. (Pix qua SWNS)

Hải quân Hoa Kỳ đã tạm dừng chương trình Railgun Điện từ (EMRG) vào năm 2021 sau 16 năm phát triển và chi tiêu 500 triệu đô la, do những thách thức kỹ thuật như nhu cầu năng lượng cao và độ mòn nòng súng. Kể từ đó, họ đã chuyển trọng tâm sang công nghệ tên lửa siêu thanh và vũ khí năng lượng định hướng.


“*Phép màu” tình mẫu tử – Truyện ngắn HAY

My Lan Pham 

Một sản phụ người Pháp, 31 tuổi, từng là tình nguyện viên tại Bệnh viện Đại học Lille, đã khiến cả giới chuyên môn kinh ngạc khi trải qua ca sinh nở hiếm gặp đến mức được đăng tải trên Tạp chí Sản – Phụ khoa và Sinh học Sinh sản, một trong những tạp chí y khoa danh giá nhất châu Âu. Bài viết mang tựa đề “Một ca chào đời diệu kỳ” – và quả thật, không có hai từ nào chính xác hơn.

Ở tuần thai thứ 36, người mẹ này cảm nhận những cơn đau bụng bất thường nên đến Bệnh viện Jeanne de Flandre để kiểm tra. Các bác sĩ siêu âm và ghi nhận thai nhi đang ở ngôi mông, nước ối vẫn ổn định, mẹ không có dấu hiệu xuất huyết – mọi thứ dường như vẫn nằm trong tầm kiểm soát. Thế nhưng, những cơn đau ngày một dữ dội, liên tục và vượt qua ngưỡng chịu đựng của cô.

Linh cảm của các bác sĩ mách bảo có điều không ổn. Nghi ngờ sản phụ có thể bị rách động mạch chủ – một biến chứng cực kỳ nguy hiểm – họ quyết định đưa cô đi chụp CT. Kết quả khiến tất cả bàng hoàng: cô đã bị vỡ tử cung, với vết rách dài tới 10cm – một biến cố sản khoa có thể cướp đi sinh mạng của cả mẹ lẫn con nếu không được xử lý kịp thời.

Nhưng ngay khi cái chết tưởng như đã cận kề, sự sống lại lên tiếng – lần này, là từ chính thai nhi.

Không ai biết bằng cách nào, nhưng bé trai trong bụng mẹ đã xoay lưng lại đúng vị trí lỗ thủng trên thành tử cung – như một “cục hít sinh học” – bít kín lại vết vỡ, không để máu tràn ra ngoài. Các bác sĩ tin rằng chính hành động này đã giúp ngăn tử cung tiếp tục rách toạc, tạo điều kiện quý giá để đội ngũ y tế kịp thời thực hiện ca mổ bắt thai khẩn cấp.

Đứa trẻ chào đời nặng 2,52 kg, khỏe mạnh, cân đối – duy chỉ có một chi tiết khác thường: một khối u lớn nổi lên trên lưng em, như vết tích của hành trình “bảo vệ mẹ” thần kỳ. Ban đầu, các bác sĩ lo ngại sẽ phải can thiệp để xử lý phần mô lạ này. Nhưng rồi, như thể chưa từng tồn tại, cục u biến mất chỉ sau vài giờ đồng hồ.

Tiến sĩ Charles Garabedian – người trực tiếp theo dõi ca sinh – gọi đây là “một trường hợp đặc biệt của vỡ tử cung”, là bằng chứng sống động cho mối liên hệ sâu sắc giữa mẹ và con.

Người ta hay nói rằng: Suốt thai kỳ, người mẹ làm mọi cách để bảo vệ con. Nhưng đôi khi, chính đứa trẻ cũng đang âm thầm tìm cách bảo vệ lại mẹ mình – theo bản năng thuần khiết và mạnh mẽ nhất.

Bởi vì tình mẫu tử – luôn là điều kỳ diệu nhất mà tạo hóa từng tạo ra.

Họ gọi đó là một “phép màu” – nhưng thực ra, nếu tin vào sự gắn kết kỳ diệu giữa mẹ và con, bạn sẽ hiểu: đó là thứ tình cảm sâu thẳm vượt ra ngoài y học, vượt qua cả lý trí.

-Kiến thức thú vị-

Theo: babysitio

TokyoLife chia sẻ