Thánh lễ khai mạc triều đại mới: Giáo hoàng Lêô XIV chỉ trích sự thái quá chủ nghĩa tư bản, kêu gọi hòa bình cho Ukraina

RFI

Hôm nay, 18/05/2025, vào lúc 10 giờ (giờ Roma), tại quảng trường thánh Phê-rô, Thánh lễ khai mạc sứ vụ của Giáo hoàng Lêô XIV được cử hành. Trong bài phát biểu tại Thánh lễ, tân Giáo hoàng nhấn mạnh đến sự « đoàn kết » của Giáo Hội, kêu gọi « tình thân ái » hơn là « giam hãm người khác bằng sự thống trị, tuyên truyền tôn giáo hay bằng những phương tiện bạo lực ».

Đăng ngày: 18/05/2025 

Giáo hoàng Lêô XIV trong Thánh lễ khai mạc sứ vụ của Giáo hoàng Lêô XIV, tại quảng trường Thánh Phê-rô, Roma, ngày 18/05/2025.

Giáo hoàng Lêô XIV trong Thánh lễ khai mạc sứ vụ của Giáo hoàng Lêô XIV, tại quảng trường Thánh Phê-rô, Roma, ngày 18/05/2025.

Giáo hoàng Lêô XIV trong Thánh lễ khai mạc sứ vụ của Giáo hoàng Lêô XIV, tại quảng trường Thánh Phê-rô, Roma, ngày 18/05/2025. AP – Alessandra Tarantino

Minh Anh

Ngài mạnh mẽ lên án một nền kinh tế chủ nghĩa tư bản bóc lột thiên nhiên, bỏ rơi người nghèo và kêu gọi xây dựng « một thế giới mới ở đó ngự trị nền hòa bình ». Một thông điệp được cho là gây tiếng vang lớn khi có sự hiện diện của tổng thống Ukraina Volodymyr Zelensky và tổng thống Israel Isaac Herzog, hai lãnh đạo tại những nước bị đau xé bởi các cuộc chiến tranh.

Tham dự Thánh lễ có sự hiện diện của khoảng 100 ngàn tín đồ và  hai trăm phái đoàn quốc tế. Một buổi lễ mang tính biểu tượng cao cho vị tân giáo hoàng, gợi nhớ lại mối liên hệ của Ngài với thánh tông đồ Phê-rô trong suốt chiều dài lịch sử.

Từ Roma, thông tín viên Eric Sénanque tường thuật :

« Bắt đầu ngày mang tính biểu tượng này, chiếc xe đặc biệt chở Giáo hoàng đi một vòng quanh Quảng trường thánh Phê-rô. Lần đầu tiên, tân Giáo hoàng Lêô XIV sẽ chứng kiến một biển người, hơn 200 ngàn người, chào đón Ngài. Thánh lễ khai mạc triều đại Giáo hoàng này, trước hết, đánh dấu sự tiếp nối của giám mục Roma với Thánh tông đồ Phê-rô, vị Giáo hoàng đầu tiên trong lịch sử.

Trước khi Thánh lễ bắt đầu, tân Giáo hoàng Lêô XIV cùng với các Thượng phụ của các Giáo hội Công giáo phương Đông, xuống nhà nguyện Mộ Thánh Phê-rô nằm dưới bàn thờ chính của Vương cung Thánh đường, để cầu nguyện và xông hương. Sau đó, Ngài trở lại quảng trường trước Vương cung Thánh đường, bắt đầu thánh lễ.

Trong buổi lễ này, hai vật biểu tượng được trao cho tân giáo hoàng, gợi nhắc đến sứ vụ Phê-rô của Ngài : Đầu tiên là Dây Pallium, phẩm phục phụng vụ làm bằng lông cừu, tượng trưng cho những vết thương của chúa Giê-su, và là biểu tượng của Vị Mục Tử Nhân Lành. Thứ hai là chiếc “Nhẫn Ngư Phủ”, tượng trưng cho quyền linh của đức Giáo hoàng, gợi nhắc lời kêu gọi của chúa Ki-tô, “Hãy là người thả lưới”, luôn gắn liền với hình ảnh của Thánh Phê-rô.

Giáo hoàng Lêô XIV kết thúc thánh lễ với việc quay trở lại Vương cung Thánh đường để tiếp đón các phái đoàn đến từ khắp nơi trên thế giới tham dự thánh lễ khai mạc. Trong số này, có sự tham dự của phó tổng thống Mỹ JD. Vance, nữ tổng thống Pêru Dina Boluarte cùng nhiều lãnh đạo chính phủ và hoàng gia châu Âu. »


 

AI BẢO CHĂN TRÂU LÀ KHỔ? Phan Phát Huồn

Phan Phát Huồn

Cha Phêrô Phan Phát Huồn, DCCT (1926-2015), người quê giáo xứ Phường Đúc, Huế, nguyên Phó Giám đốc Nha Tuyên Úy VNCH và cũng là  người sáng lập và xây dựng nhà thờ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp tại Xóm Mới. 

Ngay từ khi vừa chịu chức linh mục ngài đã viết cuốn lịch sử Việt Nam Giáo Sử- tác phẩm đầu tiên về lịch sử GHCG Việt Nam từ ban đầu cho đến giữa thế kỷ XX.  

Tôi gặp ngài lần đầu ở Thái Hà dịp tết năm 1988 khi ngài vừa được trả tự do sau 13 năm trong ngục tù cộng sản. Vì Thái Hà là nơi ngài đã sống 7 năm khi còn làm thầy trước năm 1954, nên ngài cùng với cha Ngô Đình Thỏa và Đinh Ngọc Quế đã ở lại đây ăn tết với cha Vũ Ngọc Bích và tôi gần 1 tháng, trước khi về Sài Gòn. 

Năm sau -1989- tôi được cha Vũ Ngọc Bích gửi vào tu viện DCCT Sài Gòn ở đường Kỳ Đồng. Thế là chúng tôi lại có dịp chung sống với nhau. Bấy giờ công an cấm những người như ngài và tôi- không có hộ khẩu- ngủ qua đêm tại tu viện. Vì thế khoảng 8 gio mỗi tối tôi chở ngài về chỗ ngủ nhờ ở nhà 1 giáo dân và khoảng 4g45 sáng khi tôi đi qua chỗ ngài ở thì lại chở ngài đến tu viện. 

Trong mấy năm ở chung tại tu viện Kỳ Đồng, ngài kể cho tôi nghe nhiều chuyện đau khổ trong tù trong đó cũng có nhiều chuyện cười ra nước mắt. Tôi nhớ mỗi lần kết thúc một câu chuyện ngài lại nói: “Đó là chuyện tôi sẽ viết khi đáp máy bay xuống phi trường Washington!” 

Ngài đã viết thật. Năm 1991 ngài sang Hoa Kỳ theo diện HO và năm 1994 ngài đã xuất bản cuốn hồi ký có tựa đề là “AKA và Thập Giá. Ai thắng ai?”viết về 13 năm sống trong ngục tù cộng sản và gửi về VN tặng tôi một bản. Nhân dịp 30 tháng 4 tôi xin trích vài trang kể về hai “tai nạn” khi ngài đi chăn trâu lúc ở tù.

                                                       ***

(….) Chúng tôi chia tay nhau mà lòng đầy phấn khởi, và cũng vì phấn khởi mà tôi leo lên lưng trâu cỡi, tôi vừa cỡi trâu vừa nghêu ngao ca bài của Phạm Duy:

Ai bảo chăn trâu là khổ,

Chăn trâu sướng lắm chứ

Đầu tôi đội nón mê như lọng che.

Tôi vừa ca đến đây thì tôi nghe tiếng quen quen:

– Tụt, tụt, anh tụt khỏi lưng trâu ngay lập tức. 

Tôi nhận ra tiếng của cán bộ quản giáo của tôi. Tôi lanh lẹ cầm đuôi trâu tụt xuống khỏi lưng nó. Cũng lúc ấy cán bộ xông tới gần tôi, tôi nghĩ là ông ta muốn đánh tôi, tôi nói:

– Yêu cầu cán bộ đứng xa tôi 3 mét. 

Sở dĩ tôi nói như vậy vì trong nội quy của nhà tù, tôi không được đứng gần cán bộ 3 mét. 

Ông cán bộ đăm đăm nhìn tôi như muốn ăn sống tôi làm tôi nhớ lời trong thánh vịnh:

Tôi phải nằm giữa bầy sư tử, 

Loài thú ăn thịt người 

Nanh vuốt chúng là đầu tên mũi giáo,

Lưỡi thì sắt bén tựa gươm đao.

– Anh có biết anh là gì không?

– Thưa cán bộ tôi là Phan Phát Huồn.

– Phan Phát Huồn là cái thớ gì? Anh là tư sản là tanh hội là xấu xa, anh biết chưa?

Tôi không trả lời cho câu hỏi ấy. Ông cán bộ hỏi tôi tiếp:

– Anh có biết con trâu này là gì không?

– Thưa cán bộ có, về mặt sinh vật học con trâu này là một con vật có 4 chân thuộc loài có vú.

Nghe tôi nói có vẻ lạ tai, ông ta trợn đôi mắt tròn xoe rồi ông ta khạc nước bọt lên trên nền đất tỏ vẻ bất mãn:

– Cà chớn, ai lại không biết con trâu này có 4 chân thuộc loài có vú, cha cố gì mà ăn nói tục tĩu, điều mà anh cần phải nhớ, phải ghi lòng tạc dạ: con trâu này là một con trâu xã hội chủ nghĩa, và anh là tư bản chủ nghĩa, vậy mà anh dám đưa cái đít thối tha tư bản chủ nghĩa của anh, ngồi lên trên, cà lên trên lưng của con trâu xã hội chủ nghĩa. Láo.

Cán bộ nói câu ấy với tất cả tấm lòng thành của một cán bộ cộng sản lúc ông ta tưởng rằng lý thuyết của ông ta bị xúc phạm.

– Vậy bây giờ anh hãy tự xử lấy.

– Thưa cán bộ tôi chẳng biết phải tự xử làm sao cả. 

– Học tập như anh quá kém, làm sao lên lớp được, anh đem trâu xuống suối tắm, giải tỏa cho lưng nó sạch mùi xú uế. 

– Thưa cán bộ sáng hôm nay đài khí tượng cho biết tại Yên Bái là 5 độ C, đem trâu xuống suối tắm thì cả trâu lẫn người sẽ đều bị bệnh. Vậy tôi xin cán bộ cho phép tôi lấy lá khô xung quanh đây chùi lưng trâu với mục đích giải tỏa cho lưng trâu sạch mùi xú uế.

Cán bộ suy nghĩ chốc lát rồi trả lời ngắn gọn:

– Được! 

Thế rồi tôi hái lá khô chùi lưng trâu, vừa chùi vừa cười thầm trong bụng về cái công tác kỳ cục này. Sau đó tôi lại tiếp tục nghề chăn trâu của tôi. Một hôm cán bộ đến gần tôi và nói rằng:

– Anh Huồn, anh biết là sắp đến ngày quốc khánh mồng 2/9 không? Anh lựa con trâu nào coi được, trao cho nhà bếp làm thịt cho trại viên ăn.

Tôi lựa một con thật béo tốt và tôi để trong trí tôi, không cho ai hay biết. Tôi lựa một con thật béo là cốt ý cho anh em bồi dưỡng chứ không phải để mừng ngày 2/9 vì ngày ấy đối với tôi là một ngày toàn dân bắt đầu làm thân trâu ngựa để phục vụ cho một chế độ độc tài, độc đảng, độc ác.

Sáng mồng 2/9 tôi vào chuồng trâu để đưa con trâu tôi đã chọn trao cho nhà bếp làm thịt, thì nó nhìn tôi và tràn trụa nước mắt, thấy vậy tôi về trại cáo bệnh và tôi xin bác sĩ cho tôi nghỉ ngày hôm ấy, như thế tôi tránh được việc dẫn trâu đến lò sát sinh vì tôi không muốn chứng kiến cái cảnh đau thương dù là của một con vật.

Chiều đến chúng tôi được một bữa cơm thịnh soạn với thịt trâu, anh NSX linh mục tuyên úy Quân khu 3, bạn đồng nghiệp của tôi, nằm khít bên cạnh tôi, là người bạn giúp đỡ tôi trong suốt thời kỳ tôi đau ốm, chúng tôi cùng ngồi ăn chung với nhau suốt thời kỳ ở Yên Bái. Hôm ấy ăn món thịt trâu xong, tôi để xương vào đĩa định đem đi đổ thì anh NSX không cho và anh lấy hết đĩa xương ấy ngồi mút thật ngon lành, rồi một buổi chiều kia anh NSX đưa tôi lên bệnh xá nhận thuốc bổ của gia đình anh gởi và bắt tôi uống, có lẽ đó là cách anh trả xương trâu lại cho tôi! Anh em chúng tôi ở với nhau thật tình như thế đấy.

Lâu lâu các linh mục BĐH và mục sư ĐVL cũng ghé thăm tôi, và một hôm các anh đề nghị với tôi, tổ chức đại hội trâu, thật là một ý kiến tuyệt vời. Đến ngày ấn định chúng tôi cùng kéo nhau lên đỉnh núi cầu nguyện, để đàn trâu ăn cỏ dưới chân núi. Đứng trước cảnh trời bao la, một màu xanh biếc, chúng tôi cảm thấy tâm hồn nhẹ nhõm thư thái, và quên hết tất cả những nỗi lo âu, phiền toái của cuộc sống ở chốn nhà tù việt cộng âm u. Thế rồi không ai bảo ai, chúng tôi cất tiếng hát:

Chúa ơi cho con hầu kề, Gần bên Chúa luôn. 

Trí con đinh ninh một bề làm tôi Chúa luôn. 

Con quyết không bao giờ nguôi.

Theo Chúa con luôn không rời.

Chúa ơi cho con hầu kề gần bên Chúa luôn…

Chính lúc đó một tiếng từ trong bụi quát ra: 

– Làm gì có Chúa mà gần các anh, chính tôi, tôi đây, cán bộ nhân lực, cán bộ an ninh, tôi gần các anh đây, tôi bắt quả tang các anh bỏ giờ lao động, tập họp bất hợp pháp để hát những bài nhạc vàng, những bài dâm ô. Các anh xuống núi, lùa trâu về trại.

Anh Hiểu quay lui nói với tôi:

– Làm gì mà không chịu ngó trước ngó sau!! 

– ỡ rồi biết sao được. 

Lúc xuống núi tôi nhìn quanh quẩn nhưng không thấy đàn trâu của chúng tôi đâu cả, tôi đâm lo, người xưa nói thật đúng: Họa vô đơn chí, nhưng may cho tôi, tôi thấy được dấu chân trâu và tôi lần mò đi theo lối chân ấy, lúc tôi tới cuối ruộng mía, tôi thấy đàn trâu đang bị buộc ở đấy, bỗng trong ruộng mía một cụ già xông ra, tay cầm bó mía, vừa chạy vừa chửi:

– Mẹ kiếp nhà mày, chúng mày cho trâu ăn mía nhà ông. Ông phang cho vỡ sọ bây giờ.

Ông vừa chửi vừa chạy nhanh về phía tôi, vấp phải một hòn đá ông ngã lăn quay ra, miệng cạp phải đất, bó mía rơi khỏi tay ông nhưng miệng ông vẫn nói: “Ông phang vỡ sọ nhà mày”. 

Tôi chạy tới đỡ ông dậy, ông hơi trầy gối, tôi lấy thuốc đỏ trong túi tôi xức cho ông, vì khi chúng tôi đi lao động chúng tôi luôn mang theo thuốc đỏ và thuốc trị rắn cắn, đồng thời tôi xin ông cho tôi chuộc lại bầy trâu. Bây giờ ông không còn hung hăng nữa, ông chấp nhận đối thoại, ông hỏi tôi:

– Anh có gì mà chuộc?

– Cháu có áo tây gi.

– Áo tây gi là áo gì?

– Là áo chúng cháu đang mặc đây.

Ông nhìn chúng tôi một chốc rồi ông nói:

– Được, các anh trao cho tôi.

Chúng tôi cởi áo chúng tôi ra, xót xa như bị lột da vậy, vì đây là một gia tài đối với tù nhân như chúng tôi. Ông nhận lấy áo chúng tôi, xem đi xem lại rồi bảo tôi:

– Cả quần của các anh nữa.

Chúng tôi dành phải tụt quần trao cho ông, nhưng riêng đối với tôi, tôi còn một chiếc quần đùi, mà quần đùi của tôi chỉ còn khả năng che phía đằng trước. Lấy xong bộ đồ tây gi của 3 anh em chúng tôi, ông nhìn tôi và nói: 

– Áo lót của anh nữa!

Biết làm sao bây giờ, tôi cũng phải chiều lòng ông cởi chiếc áo lót duy nhất của tôi cho ông, sau đó thì ông đăm đăm nhìn tôi rồi ông hỏi tôi:

– Anh là công giáo à?

– Vâng cháu là công giáo và còn hơn thế nữa. 

– Hơn thế nữa nghĩa là gì? 

– Cháu là linh mục.

– Cháu là linh mục?

Nói câu ấy xong, tôi thấy một sự thay đổi rõ rệt trên nét mặt, đôi mắt ông trở nên đỏ ngầu, ông chấp hai tay lại và ông van nài tôi:

– Lạy cha, xin cha tha tội cho con, thưa cha thật tình là con không biết, lúc cha cởi áo thun ra, con thấy cha đeo thánh giá, con chỉ nghĩ rằng cha là một giáo hữu thường, con đâu có ngờ là linh mục.

Rồi ông gọi thằng con ông:

– Tuấn, mày đem nồi khoai ra đây cho tao.

Ông cụ già chẳng những hoàn lại cả bầy trâu cho chúng tôi, mà còn biếu chúng tôi một nồi khoai nóng hổi, thảo nào các em thường hát: Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!

Phan Phát Huồn

From: Truong Le


 

Thuyền phó tàu Titanic tiết lộ bí mật vĩ đại giấu kín nửa đời người

Lời hay ý đẹp Tuổi Trung Niên – My Lan Pham 

Thuyền phó tàu Titanic tiết lộ bí mật vĩ đại giấu kín nửa đời người, phương Tây họ văn minh hơn chúng ta từ rất lâu!

Nhân sinh như cõi mộng, dù cho người đó giàu có bao nhiêu hay nghèo kém cỡ nào, đứng trước sinh tử cũng đều chỉ là một sinh mệnh bé nhỏ. Quan trọng hơn, khi ấy người ta mới thật sự nhận ra điều quan trọng nhất của cuộc đời: Không phải vật chất, không phải quyền danh, càng không phải nhận lại điều gì cho mình mà là cho người khác, mà là lòng vị tha.

Đêm ngày 14/4/1912, một vụ tai nạn kinh hoàng đã xảy ra. Con tàu mang phong hiệu “không thể chìm” có tên Titanic đã đâm sầm vào một tảng băng trôi khổng lồ. Kết quả của vụ va chạm ấy là những con số và nỗi đau mà người ta không bao giờ muốn nhắc lại.

1.514 người đã thiệt mạng trong vụ đắm tàu kinh hoàng năm ấy. Nỗi đau đã khép lại hơn 100 năm, ngày nay, những gì người ta lưu lại về từ khóa “Titanic” có thể là: Vụ đắm tàu, thảm họa hàng hải nghiêm trọng nhất mọi thời đại hay mối tình lãng mạn của Jack và Rose, cũng có thể là tình ca bất hủ My heart will go on qua chất giọng cao vút của Celine Dion…

Tuy nhiên, hầu như tất cả đều không nhận ra, đằng sau bức màn đen tối của những nỗi đau và mất mát ấy là một kiệt tác vĩ đại của Lòng vị tha.

Charles Lightoller, khi ấy 38 tuổi, Thuyền phó thứ 2 trên con tàu Titanic, ông là người cuối cùng được kéo lên trên thuyền cứu hộ, cũng là người còn sống sót có chức vị cao nhất trên thuyền lúc đó.

Trở về từ cõi chết, sau rất nhiều năm giấu kín và im lặng, cuối cùng Charles quyết định viết 17 trang hồi ức, kể lại chi tiết vụ tai nạn kinh hoàng mà ông chứng kiến. Từng câu từng chữ của ông chưa bao giờ sống động và dồn dập đến vậy. “Chỉ cần tôi còn sống, tôi sẽ không bao giờ quên được cảnh tượng đêm đó!”

“Phụ nữ và trẻ em lên trước!”

Khi mệnh lệnh vừa vang lên, nhiều người rời thuyền cứu hộ, họ lặng lẽ bước ra phía sau châm điếu thuốc và hút. Charles không thấy bất kỳ một phụ nữ hay trẻ em có ý định bỏ lại những người đàn ông thân yêu của họ. Tất cả mọi người dường như rất bình tĩnh… trước cái chết… dù đó là một thương nhân nổi tiếng hay người hầu.

Khi chiếc thuyền cứu hộ đầu tiên được đưa xuống mặt nước, Charles đã hỏi một người phụ nữ họ Straw khi ấy đang ở trên boong tàu rằng: “Bà có muốn tôi đưa bà lên thuyền cứu hộ không?”

Người phụ nữ lắc đầu: “Không, tôi nghĩ vẫn là ở lại trên tàu thì tốt hơn”. Người chồng của bà hỏi: “Tại sao em lại không muốn đi lên thuyền cứu hộ?” Người phụ nữ mỉm cười trả lời: “Không, em vẫn muốn ở bên cạnh anh”. Cũng kể từ đây, Charles không bao giờ còn gặp lại đôi vợ chồng này lần nữa…

Astor đệ tứ (John Jacob Astor IV), một nhà kinh doanh, nhà phát minh, nhà văn nổi tiếng và là một trong những người giàu nhất thế giới lúc bấy giờ. Sau khi đưa người vợ mang thai 5 tháng tuổi lên thuyền cứu hộ, một tay dắt chó, tay còn lại châm điếu xì gà rồi hét to về phía chiếc thuyền cứu hộ đang trôi dần về nơi xa: “Anh yêu hai mẹ con”.

Thuyền phó đã ra mệnh lệnh cho Astor đệ tứ lên thuyền, nhưng ông kiên quyết trả lời rằng: “Tôi thích cách nói cơ bản nhất (bảo vệ phái yếu)!”. Sau đó, ông nhường chỗ của mình cho một người phụ nữ ở khoang hạng 3.

Vài ngày sau, khi bình minh vươn lên trên mặt biển Đại Tây Dương, đội cứu hộ tìm thấy thi thể ông trong tình trạng đầu bị chấn thương nghiêm trọng do đập vào ống khói. Khối tài sản của ông đủ để chế tạo 10 con tàu Titanic, nhưng Astor đệ tứ đã từ chối tất cả. Ông chọn cái chết để bảo vệ người thân yêu của mình, bảo vệ “phụ nữ và trẻ em” và bảo vệ nhân cách của mình.

Ben Guggenheim, một nhà tỷ phú, một nhân vật nổi tiếng trong ngành ngân hàng. Trong giờ phút nguy nan nhất, khi tất cả mọi người đang hối hả và vội vã, ông thản nhiên thay một bộ vest dạ hội sang trọng và tuyên bố: “Tôi phải chết thật trịnh trọng, như một quý ông”.

Trong lời nhắn ông gửi cho vợ viết: “Trên con tàu này, không có bất kỳ một phụ nữ nào vì anh cướp chỗ trên thuyền cứu hộ mà bị bỏ lại trên boong tàu. Anh sẽ không chết giống như một tên khốn, anh sẽ giống như một người đàn ông chân chính”.

Một thủy thủ đề nghị với Strauss, nhà sáng lập công ty bách hóa Macy của Mỹ, cũng là người giàu thứ hai thế giới rằng: “Tôi bảo đảm sẽ không ai phản đối một người già như ngài bước lên thuyền cứu hộ đâu”. Strauss nói: “Tôi sẽ không đi khi những người đàn ông khác còn đang ở lại”. Khi ông cố gắng khuyên giải bà Rosalie vợ của mình lên thuyền cứu hộ thì bà vẫn một mực từ chối. Bà nói: “Bao nhiêu năm qua, anh đi đâu là em theo đến đó, em sẽ cùng anh đi đến bất cứ nơi nào mà anh muốn đi”.

Sau đó, ông choàng lấy cánh tay của bà Rosalie, thong thả bước đến chiếc ghế trên boong tàu, ngồi xuống và chờ đợi giây phút cuối cùng của cuộc đời. Ngày nay, tại Bronx thành phố New York, người ta xây một tượng đài để tưởng niệm vợ chồng ông Strauss, trên đó khắc hàng chữ: “Tình yêu không thể nào nhấn chìm dù có nhiều nước biển hơn nữa”.

Một doanh nhân người Pháp tên Nahuatl đưa hai cậu con trai của mình lên thuyền cứu hộ, nhờ một vài người phụ nữ chăm sóc cho chúng, và mình thì từ chối lên thuyền. Sau khi hai đứa con trai được cứu sống, báo chí khắp nơi trên thế giới đều rầm rộ đăng hình ảnh của hai đứa trẻ này, cho đến khi mẹ của chúng từ hình ảnh nhận ra được chúng.

Trong giờ phút nguy kịch, Lydepas ôm chặt lấy người chồng mới cưới, không muốn thoát chết một mình. Vì bất đắc dĩ, chồng Lydepas phải đấm cô ngất xỉu, khi cô tỉnh lại thì đã thấy mình trên một chiếc thuyền cứu hộ đang trôi lênh đênh ngoài biển. Về sau, Lydepas cả đời không tái giá, sống độc thân để hoài niệm người chồng đã mất của mình.

Trong buổi họp mặt những người may mắn sống sót tại Lausanne nước Thụy Sĩ, bà Smith kể lại: “Lúc đó hai đứa con của tôi được bế lên thuyền cứu hộ. Vì quá tải nên tôi không thể lên thuyền nữa, một người phụ nữ ngồi trên thuyền cứu hộ khi ấy đã đứng dậy rời khỏi chỗ ngồi, rồi đẩy tôi lên và hét lớn với tôi một câu: ‘Ngồi đi, những đứa trẻ không thể thiếu mẹ!’.” Bà hối tiếc vì lúc đó đã không hỏi tên người phụ nữ đó.

Những người thiệt mạng trong vụ tai nạn này còn có tỷ phú Acid, nhà báo nổi tiếng Stead, Thiếu tá pháo binh Bart, kỹ sư Robble nổi tiếng v.v.. Họ nhường chỗ của mình trên thuyền cứu hộ, cho những phụ nữ nông dân không một đồng trên người.

Hơn 50 nhân viên cấp cao trên tàu Titanic, ngoài thuyền phó thứ hai Charles Lightoller chỉ huy cứu hộ may mắn sống sót, toàn bộ đều hết mình cứu người đến chết trong cương vị của mình.

Khoảng 2h sáng nhân viên điện báo số 1 John Philip nhận được mệnh lệnh bỏ tàu của thuyền trưởng, mọi người tự mình cứu mình, nhưng ông vẫn ngồi trong phòng thông báo, vẫn giữ tư thế phát tín hiệu SOS liên tục cho đến phút cuối cùng.

Khi đuôi tàu bắt đầu chìm xuống nước, Charles nghe thấy vào khoảnh khắc cuối cùng, khoảnh khắc của sinh ly tử biệt, những lời yêu thương vang lên: “I love you! I love you!”

Trong bức màn đêm đen tối nhuốm đẫm đau khổ và chia ly, tinh thần quý tộc nổi lên như ngọn đuốc rực sáng, khắc họa nên một tuyệt tác vĩ đại về nhân cách và đạo đức con người. Giáo dục lối sống không chỉ là lý thuyết; mà trong những hoàn cảnh thực tế, những bài học đạo đức ăn sâu vào tâm thức trở thành kim chỉ nam cho hành động của mỗi người.

Phụ nữ và trẻ em, những con người yếu đuối cần được tôn trọng và ưu tiên. Những người đàn ông lịch lãm không chỉ là kẻ nói lời hoa mỹ và tử tế trên bàn tiệc; mà ngay cả khi đối diện với thực tế rằng dù ngày mai tất cả đều trở thành vô nghĩa thì bài học về đạo đức và nhân cách hôm nay vẫn cần được thực hành một cách tuyệt đối.

Nhân sinh như cõi mộng, dù cho người đó giàu có bao nhiêu hay nghèo kém cỡ nào, đứng trước sinh tử cũng đều chỉ là một sinh mệnh bé nhỏ. Quan trọng hơn, khi ấy người ta mới thật sự nhận ra điều quan trọng nhất của cuộc đời: Không phải vật chất, không phải quyền danh càng không phải nhận lại điều gì cho mình mà là cho người khác, là vị tha.

Vị tha hàm chứa một sức mạnh vô tỉ, đã biến những con người xấu số trong cơn “bão biển” kinh hoàng năm ấy trở thành biểu tượng vĩ đại của tấm lòng thiện lương cao cả.

P/s: Những câu chuyện thế này theo các bạn có nên đưa vào sách giáo khoa không?

Hoàng Nguyên Vũ


 

Không có gì là thật ngoài cái chết – Truyen ngan

Trước khi qua đời ở tuổi 40 vì chứng bệnh ung thư dạ dày, nhà thiết kế và tác giả thời trang nổi tiếng thế giới “Crisda Rodriguez” đã viết:

  1. Tôi có chiếc ô tô thương hiệu đắt nhất thế giới trong ga ra của mình nhưng giờ tôi phải di chuyển bằng xe lăn.
  2. Nhà tôi có đầy đủ các loại quần áo hàng hiệu, giày dép và đồ có giá trị. Nhưng giờ cơ thể tôi được bọc trong một tấm vải nhỏ do bệnhviện cung cấp.
  3. Tôi có nhiều tiền trong ngân hàng. Nhưng giờ tôi không nhận được bất kỳ lợi ích nào từ số tiền này.
  4. Ngôi nhà của tôi giống như một cung điện nhưng giờ tôi đang nằm trên chiếc giường đôi trong bệnhviện.
  5. Tôi có thể đi từ khách sạn năm sao này sang khách sạn năm sao khác. Nhưng giờ tôi dành thời gian trong bệnhviện để di chuyển từ phòng xét nghiệm này sang phòng xét nghiệm khác.
  6. Tôi đã tặng chữ ký cho hàng trăm người nhưng giờ đây, ghi chú của bác sĩ là chữ ký dành cho tôi.
  7. Tôi có bảy người thợ làm tóc để trang điểm cho mái tóc của mình nhưng bây giờ – tôi không còn một sợi tóc nào trên đầu.
  8. Trên chuyên cơ riêng, tôi có thể bay đến bất cứ đâu tôi muốn. Nhưng bây giờ tôi cần sự giúp đỡ của hai người để dìu đến cổng bệnhviện.
  9. Dù có nhiều thức ăn nhưng bây giờ khẩu phần ăn của tôi chỉ là ngày hai viên và tối nhỏ vài giọt nước muối.

Ngôi nhà này, chiếc xe hơi này, chiếc máy bay phản lực này, đồ đạc này, rất nhiều tài khoản ngân hàng, rất nhiều danh vọng và tiếng tăm, không có cái nào phù hợp với tôi cả. Không gì trong số này có thể giúp tôi nhẹ nhõm. “Không có gì là thật ngoài cái chết.”.

CUỐI CÙNG THÌ ĐIỀU QUÝ GIÁ NHẤT CHÍNH LÀ SỨC KHỎE PHẢI KHÔNG ANH CHỊ?

Nguồn: Sưu tầm


 

Chồng bắt vợ bỏ thai để dễ bề đến với người khác…- Truyen ngan HAY

Chuyện tuổi Xế ChiềuCông Tú Nguyễn

Chồng bắt vợ bỏ thai để dễ bề đến với người khác, 7 năm sau cô dắt 2 con về, khiến chồng cũ điêu đứng…

Hà Nội tháng Ba, mưa xuân như sợi tơ rơi rả rích ngoài cửa kính. Trong căn phòng chung cư cao cấp trên phố Nguyễn Chí Thanh, Ngọc đứng chết lặng, tay siết chặt tờ phiếu siêu âm.

“Con chị chưa thành hình. Bỏ sớm đi. Tôi lo toàn bộ chi phí.”

Giọng người đàn ông trước mặt lạnh lùng đến mức xa lạ. Dũng – chồng cô, người từng quỳ xuống xin cưới bằng được, giờ đây đang thẳng tay ép cô bỏ đi giọt máu của hai người.

Ngọc không tin vào tai mình. Cô cứ ngỡ Dũng sẽ hạnh phúc khi biết tin. Nhưng không, ánh mắt anh ta trốn tránh, và rồi… một lời thú nhận như nhát dao cắm sâu vào tim:

“Tôi có người khác rồi. Em ấy đang mang thai. Nếu cô giữ lại đứa bé này, sẽ rối lắm. Cô nên hiểu.”

Đêm đó, Ngọc bỏ đi. Không một tiếng gào thét. Không một giọt nước mắt. Chỉ có nhịp tim đập loạn và bước chân lao vào màn mưa, mang theo một sinh linh còn đỏ hỏn trong bụng.

Ngọc đến Sài Gòn vào một buổi chiều oi ả. Cô đổi họ tên, thuê một căn phòng trọ nhỏ ở quận Tân Bình. Dưới cái tên “Trang”, cô bắt đầu lại – một mình với bụng bầu ngày càng lớn.

7 tháng sau, Ngọc sinh đôi. Hai bé trai, giống Dũng như đúc. Cô đặt tên hai con làNamvà Minh – một người trầm lặng, một người lanh lợi, như hai mảnh của chính trái tim cô.

Cuộc sống không dễ dàng. Ngọc làm nhân viên quán cà phê, sau đó chuyển sang phụ bếp, rồi bán hàng online. Cô chưa bao giờ kể về bố của hai đứa trẻ. Trong lòng, chỉ có một điều duy nhất:

“Mẹ sẽ không để các con thiếu tình thương. Nhưng cũng sẽ không để ai làm hại các con.”

7 năm sau. Một chiều thu Hà Nội, chiếc xe taxi dừng lại ở trước cổng công ty Dũng – giờ đã là CEO một tập đoàn bất động sản nổi tiếng. Ngọc bước xuống, tóc búi cao, áo sơ mi trắng, thần thái cứng cỏi.

“Em định làm gì?” – Mai, bạn thân cô hỏi, giọng lo lắng.

“Không phải trả thù. Chỉ là… muốn cho anh ta biết, thứ anh vứt bỏ năm xưa, giờ đã lớn lắm rồi.”

Ngọc gửi hồ sơ xin vào làm trong bộ phận marketing – tất nhiên là với tên giả. Năng lực của cô nhanh chóng khiến nhiều người nể phục, và chẳng bao lâu, cô được mời làm trợ lý cho Phó Tổng – người trực tiếp báo cáo lên Dũng.

Từng bước một, Ngọc bắt đầu “giăng lưới”. Cô điều tra những hợp đồng bất minh Dũng đang cố giấu. Bằng cách tiếp cận với trợ lý tài chính, cô lần ra một dự án ma trị giá hơn 30 tỷ. Nếu bị khui ra, Dũng có thể mất ghế.

Nhưng Ngọc không vội tung đòn. Cô quan sát. Lặng lẽ gieo tin đồn trong nội bộ. Rồi “vô tình” để rò rỉ dữ liệu tài chính ra bên ngoài.

Báo chí bắt đầu đưa tin. Ban quản trị họp khẩn. Dũng – người từng ngạo nghễ như vua, nay mặt tái mét vì các cổ đông quay lưng.

Một buổi tối, khi công ty tan ca, Ngọc đứng chờ Dũng trước sảnh. Gió lạnh thổi tung tà áo dài màu xám tro. Dũng nhận ra cô, đôi mắt trợn lên:

“Là… cô?”

“Anh quên nhanh thật. Tôi tên là Trang. Còn Ngọc – người anh từng bắt phá thai, đã chết 7 năm trước rồi.”

Dũng đứng sững. Cô đưa ra tờ giấy xét nghiệm ADN của hai đứa bé – bản sao cô giữ lại, chưa từng công khai.

“Chúng là con anh. Nhưng anh không cần nhận. Vì chúng chẳng cần một người cha như anh.”

Dũng bắt đầu tìm đến trường mẫu giáo nơi hai đứa bé học. Anh lén nhìn chúng qua ô cửa kính – ánh mắt vừa tiếc nuối vừa ăn năn.

Một hôm, Minh sốt cao, nhập viện. Dũng nghe tin qua bạn cũ của Ngọc, chạy đến giữa đêm.

“Tôi xin lỗi. Là tôi sai. Tôi không xứng đáng… nhưng tôi thật sự… muốn làm gì đó cho con.”

“Anh không cần chuộc lỗi. Con tôi đã có mẹ.”

Khi Minh tỉnh lại, thấy Dũng ngồi ngủ gục bên giường, cậu bé chỉ hỏi nhỏ:

“Chú là ai ạ?”

Dũng bật khóc, không trả lời nổi.

Một tháng sau, Dũng chủ động xin từ chức. Anh chuyển sang làm giảng viên quản trị ở một trường đại học, sống kín tiếng, không tái hôn. Còn Ngọc, tiếp tục nuôi dạy con, không nhắc gì về “chú Dũng” nữa.

Một ngày, Dũng gửi đến cho cô một lá thư tay – không xin lỗi, không mong tha thứ. Chỉ là:

“Cảm ơn em đã không biến các con thành công cụ trả thù. Nhờ em, tôi biết mình từng có cơ hội làm người cha tốt – dù chỉ trong giấc mơ.”

Ngọc đọc xong, đốt lá thư. Mắt nhòe đi trong làn khói mỏng. Cô thì thầm:

“Tôi tha thứ – không phải vì anh xứng đáng, mà vì tôi muốn được bình yên.”

Năm Minh vàNamlên mười, vào một buổi tối mùa đông, khi cả nhà đang ngồi xem chương trình truyền hình,Nam– cậu anh hay suy nghĩ – đột nhiên hỏi:

“Mẹ ơi, tụi con không có ba thật sao?”

Ngọc khựng lại, đôi tay đang gọt táo run lên một nhịp. Cô nhìn ánh mắt trong veo của con, rồi khẽ gật đầu:

“Có chứ. Ba các con từng là người mẹ yêu nhất. Nhưng vì mẹ làm sai điều gì đó… nên ba không ở bên các con được nữa.”

Minh – cậu em lanh lợi – chui vào lòng mẹ, hỏi lí nhí:

“Vậy… ba có biết tụi con không?”

Ngọc hít một hơi sâu.

“Biết chứ. Và ba rất yêu các con. Chỉ là… đôi khi yêu không đủ để người ta dũng cảm.”

Hai đứa nhỏ im lặng. Chúng không hỏi thêm. Nhưng Ngọc biết, sợi dây vô hình kia vẫn âm ỉ tồn tại trong lòng chúng. Dù cô có cố gắng đến đâu, thì vai trò của một người cha – dù chỉ là sự hiện diện – vẫn là điều các con khát khao.

Mười ba năm kể từ ngày Ngọc rời khỏi Hà Nội trong đêm mưa, cô nhận được cuộc gọi từ một người xa lạ:

“Chị Ngọc phải không ạ? Tôi là sinh viên của thầy Dũng. Thầy nhập viện do đột quỵ, trong người chỉ có một bức ảnh… là ảnh chị với hai bé.”

Ngọc đi như chạy đến bệnh viện. Hai đứa trẻ – giờ đã là hai chàng trai cao lớn, cùng theo sau. Trong phòng ICU, Dũng nằm lặng lẽ, cơ thể gầy sọp, tay trái co quắp, ánh mắt mờ đục dần.

Ngọc đặt bàn tay mình lên tay anh. Như năm xưa, nhưng giờ không còn giận, không còn đau, chỉ có một cảm giác sâu thẳm của người từng yêu sâu đậm.

“Em đến rồi đây. Nhưng không phải để níu kéo. Chỉ là để anh biết… chúng ta không còn oán nhau nữa.”

Minh bước lại gần giường, nhìn người đàn ông mà mẹ từng gọi là “ba”, rồi cúi đầu khẽ nói:

“Cảm ơn chú đã cho con cơ hội sống. Dù không bên nhau, nhưng… con không ghét chú đâu.”

Dũng rơi một giọt nước mắt. Cũng là giọt cuối cùng.

Tang lễ của Dũng diễn ra lặng lẽ. Không hoa, không vòng lớn. Chỉ có vài người học trò và những đồng nghiệp cũ. Ngọc để lại cho anh một bó hoa cúc trắng và một dòng chữ viết tay:

“Anh từng là sai lầm, cũng từng là ký ức đẹp. Em tha thứ rồi, thật lòng.”

Sau lễ tang, ba mẹ con lên xe trở về Sài Gòn. Trên đường, Nam quay sang mẹ:

“Mẹ, tha thứ có khó không?”

Ngọc mỉm cười, nhìn qua kính chiếu hậu – nơi bóng Dũng mờ dần phía xa.

“Rất khó. Nhưng nếu không làm được, mình sẽ mãi bị nhốt trong quá khứ. Tha thứ… không phải vì người kia xứng đáng. Mà vì chính mình xứng đáng được tự do.”

Hai mươi năm sau.Nam trở thành luật sư. Minh là nhà thiết kế đồ họa. Trong một buổi phỏng vấn truyền hình, khi được hỏi:

“Ai là người ảnh hưởng nhất đến cuộc đời anh?”

Nam chỉ cười, rồi đáp:

“Là mẹ tôi. Người phụ nữ đã tha thứ cho một kẻ không xứng đáng – để dạy chúng tôi bài học đầu tiên về lòng nhân và sự tự do.”

Bài và ảnh sưu tầm


 

Hòa hợp, hòa giải dân tộc tại Đức, Nam Phi và Việt Nam

Ba’o Nguoi-Viet

May 18, 2025 

Chuyện Vỉa hè

Đặng Đình Mạnh

Hòa hợp, hòa giải dân tộc là một quá trình phức tạp, đòi hỏi sự chân thành, minh bạch và cam kết lâu dài để hàn gắn những vết thương từ chiến tranh, từ chia rẽ chính trị, từ phân biệt chủng tộc, tôn giáo hoặc bất công xã hội để lại.

Người Việt tị nạn Cộng Sản tại Hoa Kỳ biểu tình đòi chế độ Hà Nội tôn trọng nhân quyền mỗi khi có lãnh tụ CSVN đến thủ đô Washington vận động chính trị. (Hình: Alex Wong/Getty Images)

Đức, Nam Phi và Việt Nam là ba quốc gia đã phải trải qua những cuộc xung đột sâu sắc kéo dài mới đi đến kết thúc. Trong đó, sự kết thúc của Đức và Nam Phi là một sự hòa giải có hậu và trọn vẹn. Nhưng với Việt Nam, sau 50 năm chấm dứt cuộc chiến tranh, thì sự hòa giải vẫn như chưa từng bắt đầu bao giờ.

Tất cả, hầu như đều tùy thuộc vào cách tiếp cận vấn đề và theo đó, cho ra những kết quả hòa giải rất khác nhau.

Bối cảnh lịch sử

Đức: Sau Thế Chiến Thứ II (1939-1945), Đức bị chia cắt thành Đông Đức (chế độ cộng sản) và Tây Đức (chế độ dân chủ tự do) trong bối cảnh Chiến Tranh Lạnh. Từ đó, chính quyền Đông Đức đã cho xây dựng bức tường ngăn đôi thủ đô Berlin (1961-1989). Bức tường không chỉ ngăn cách hai nước Đức, mà còn trở thành biểu tượng của sự chia rẽ ý thức hệ.

Sự sụp đổ của bức tường Berlin vào ngày 9 Tháng Mười Một, 1989, dẫn đến thống nhất, Đức đã đặt ra vấn đề hòa hợp, hòa giải dân tộc giữa Đông và Tây Đức. Đức không chỉ đối mặt với di sản chế độ Quốc Xã, chế độ Cộng Sản độc tài mà còn đối mặt với yêu cầu xây dựng một quốc gia dân chủ thống nhất, hàn gắn xã hội.

Nam Phi: Vào đầu thập kỷ 90, Nam Phi kết thúc chế độ Apartheid, chính sách phân biệt chủng tộc do người da trắng thiểu số áp đặt. Cuộc bầu cử dân chủ đầu tiên vào ngày 27 Tháng Tư, 1994, đã đưa Nelson Mandela trở thành tổng thống. Chế độ Apartheid đã để lại một di sản đầy bất công, bạo lực và hận thù giữa các cộng đồng người da trắng, da màu và các nhóm sắc tộc khác. Nam Phi đã phải đặt ra vấn đề hòa hợp, hòa giải nhằm tránh nội chiến và xây dựng, hàn gắn lại một xã hội đa sắc tộc.

Việt Nam: Ngày 30 Tháng Tư, 1975, Cộng Sản Việt Nam cưỡng chiến thành công miền Nam, đặt toàn bộ lãnh thổ dưới sự cai trị của chế độ độc tài. Tuy nhiên, sau khi thống nhất đất nước bằng chiến thắng quân sự, chế độ Cộng Sản đã không hề đặt ra vấn đề hòa hợp, hòa giải dân tộc. Trái lại, họ thực hiện chính sách đàn áp khốc liệt đối với hàng triệu đồng bào miền Nam đã từng tham gia phục vụ dưới chính quyền Việt Nam Cộng Hòa.

Chính sách trả thù đồng bào này đã làm sâu sắc thêm mối bất hòa giữa đồng bào ủng hộ chế độ dân chủ tự do với chế độc độc tài, vốn đã tồn tại từ khi phát sinh cuộc chiến tranh Việt Nam từ hai thập kỷ trước. Chính sách trả thù đồng bào đã gây hậu quả rất nặng nề về nhiều mặt cho xã hội Việt Nam. Hàng triệu người rời bỏ đất nước ra đi, hình thành cộng đồng người Việt hải ngoại. Trong nước, hòa giải dân tộc vẫn là thách thức lớn do chế độ Cộng Sản không thực hiện đối thoại cởi mở mà thay vào đó là sự đàn áp khốc liệt với người bất đồng chính kiến.

So sánh: Cả ba quốc gia đều phải đối mặt với chia rẽ sâu sắc: Đức về ý thức hệ và địa chính trị, Nam Phi về chủng tộc, Việt Nam về ý thức hệ trong cùng một dân tộc. Đức và Nam Phi chuyển đổi sang dân chủ, trong khi Việt Nam tiếp tục duy trì chế độ độc tài, ảnh hưởng lớn đến quá trình hòa hợp, hòa giải dân tộc .

Cách tiếp cận hòa giải

Đức áp dụng nhiều biện pháp hòa giải, có thể kể như:

-Thống nhất năm 1990: Chính phủ đầu tư tài chính để phát triển Đông Đức, san bằng chênh lệch kinh tế. Không thực hiện chính sách trả thù đồng bào Đông Đức. Thành lập các ủy ban điều tra sai phạm của chế độ Đông Đức (Stasi) và công khai sự thật.

-Dân chủ và đối thoại: Đức khuyến khích tự do ngôn luận, tạo không gian cho các ý kiến khác biệt, giảm căng thẳng khác biệt giữa Đông-Tây vào thời điểm vừa thống nhất.

Nam Phi thành lập Ủy Ban Sự Thật và Hòa Giải (TRC) vào năm 1995.

-Sự thật và tha thứ: TRC tổ chức các phiên điều trần công khai, nơi nạn nhân và thủ phạm chia sẻ. Thủ phạm thừa nhận tội ác có thể được ân xá nếu hành động vì động cơ chính trị.

-Công lý phục hồi: Tập trung vào hàn gắn thông qua đối thoại, thúc đẩy khoan dung tha thứ thay vì trừng phạt.

-Dân chủ: Nam Phi chuyển đổi sang chế độ dân chủ, đảm bảo quyền tự do và thực hiện các chính sách giảm thiểu bất bình đẳng.

Việt Nam: Chế độ Cộng Sản thực hiện hòa hợp, hòa giải dân tộc chủ yếu thông qua các phát biểu và diễn văn. Thực tế, chế độ Cộng Sản không làm điều gì để thực hiện cả, mà trái lại, họ nhất quán thực hiện hàng loạt chính sách làm sâu sắc hơn mối bất hòa, thậm chí khơi thêm hận thù giữa lòng dân tộc như trả thù, hạ nhục, trừng phạt người bất đồng chính kiến.

-Mới đây, tổng bí thư đảng Cộng sản là ông Tô Lâm kêu gọi hòa hợp, hòa giải dân tộc qua bài viết “Đất nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một” với những lời lẽ hết sức tốt đẹp như: “Chúng ta không thể viết lại lịch sử, nhưng chúng ta có thể hoạch định lại tương lai.” Tuy nhiên, chỉ sau đó ít ngày, chế độ Cộng Sản tổ chức một lễ kỷ niệm kết thúc cuộc chiến Việt Nam hết sức rầm rộ để tự ca ngợi mình và hạ nhục đồng bào là các cựu thù chính trị. Cho thấy, các nỗ lực hòa hợp, hòa giải từ chế độ Cộng Sản là hoàn toàn thiếu chân thành và thực chất.

-Chính sách cải tạo: Ngay sau cưỡng chiếm miền Nam thành công, chế độ Cộng Sản thực hiện chính sách trả thù thông qua danh nghĩa học tập cải tạo. Đẩy hàng trăm ngàn người miền Nam vào các trại cải tạo, thực chất là các trại giam mà không hề thông qua xét xử. Giam giữ họ từ vài tháng đến 20 năm tù. Gây tổn thương xã hội sâu sắc.

-Đàn áp bất đồng: Tiếng nói đối lập từ trong nước hoàn toàn bị bóp nghẹt, không có không gian cho đối thoại.

-Kinh tế: Đổi mới (1986) cải thiện một phần đời sống nhưng không đi kèm tự do chính trị, hạn chế niềm tin từ cộng đồng người Việt hải ngoại.

So sánh: Đức và Nam Phi sử dụng cơ chế minh bạch (Ủy Ban Stasi, TRC) và dân chủ để khuyến khích đối thoại, trong khi Việt Nam duy trì tư duy “bên thắng cuộc” để kiểm soát không gian chính trị, không thực hiện hòa hợp, hòa giải.

Ngày lễ kỷ niệm và ý nghĩa

Đức kỷ niệm Ngày Thống Nhất Đức 1990 (Tag der Deutschen Einheit) vào ngày 3 Tháng Mười hàng năm. Ngày này được tổ chức trang trọng nhưng mang tính hòa hợp, tập trung vào đoàn kết xã hội Đông-Tây và giá trị dân chủ. Các sự kiện bao gồm hòa nhạc, diễn văn, và triển lãm về lịch sử, nhấn mạnh tinh thần chung của toàn dân Đức, không phân biệt quá khứ.

Nam Phi kỷ niệm Ngày Tự Do (Freedom Day) vào ngày 27 Tháng Tư, đánh dấu cuộc bầu cử dân chủ đầu tiên không còn chế độ phân biệt chủng tộc vào năm 1994. Ngày này tôn vinh sự chấm dứt chế độ Apartheid và sự ra đời của một xã hội đa sắc tộc. Các hoạt động như diễu hành, lễ hội và diễn văn nhấn mạnh hòa giải, bình đẳng, và đoàn kết, dù vẫn có tranh cãi về bất bình đẳng kinh tế.

Việt Nam kỷ niệm Ngày Thống Nhất vào ngày 30 Tháng Tư, đánh dấu sự sụp đổ của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa năm 1975. Tuy nhiên, các lễ kỷ niệm thường mang tính phô trương, như diễu binh và tuyên truyền về chiến thắng, gây tổn thương cho những người từng ở phía đối phương. Thay vì thúc đẩy hòa hợp, các sự kiện này làm sâu sắc hơn sự chia rẽ, đặc biệt với cộng đồng người Việt hải ngoại.

So sánh: Ngày Thống Nhất của Đức và Ngày Tự Do của Nam Phi mang tính hòa hợp, tập trung vào đoàn kết và các giá trị chung, trong khi ngày 30 Tháng Tư của Việt Nam nhấn mạnh chiến thắng của một phía, làm sống lại vết thương chiến tranh. Đức và Nam Phi sử dụng ngày lễ để củng cố hòa giải, Việt Nam sử dụng ngày lễ để làm sâu sắc hơn sự chia rẽ dân tộc.

Kết quả

-Đức đạt thành công lớn không chỉ về kinh tế mà còn là sự gắn kết xã hội với Đông và Tây Đức hòa nhập, dù vẫn còn chênh lệch kinh tế. Đức quốc thống nhất trở thành cường quốc kinh tế, với xã hội dân chủ, tự do.

-TRC giúp Nam Phi tránh nội chiến, thiết lập sự thật lịch sử và dân chủ hóa xã hội. Nạn nhân được lắng nghe, thủ phạm thú nhận tội ác, tạo nền tảng cho sự hòa hợp, bao dung và tha thứ, không trả thù và trừng phạt. Tuy nhiên, bất bình đẳng kinh tế và vấn đề chủng tộc vẫn chưa hoàn toàn xóa nhòa.

Người Việt Nam vượt biên bằng thuyền đi tị nạn Cộng Sản nằm la liệt ở trung tâm tạm cư Hồng Kông năm 1979 chờ đi định cư tại một quốc gia thứ ba. (Hình: Evening Standard/Getty Images)

-Việt Nam, Sau 50 năm thống nhất, nhưng lòng người chưa từng thống nhất. Vấn đề hòa hợp, hòa giải dân tộc vẫn chưa đạt được. Cộng đồng người Việt hải ngoại giữ khoảng cách do thiếu niềm tin. Trong nước, người bất đồng chính kiến bị đàn áp, tham nhũng và bất công xã hội lan tràn khiến dân chúng không có niềm tin vào chế độ.

So sánh: Đức và Nam Phi đạt hòa giải ở mức độ cao nhờ dân chủ và minh bạch, trong khi Việt Nam bị kìm hãm bởi kiểm soát và thiếu đối thoại. Các ngày lễ của Đức và Nam Phi củng cố đoàn kết, nhưng ngày lễ của Việt Nam lại làm sâu sắc hơn sự chia rẽ.

Bài học cho Việt Nam

Từ Đức và Nam Phi, Việt Nam có thể học hỏi:

-Thừa nhận quá khứ: Lập ủy ban sự thật, tương tự TRC của Nam Phi hoặc Ủy Ban Stasi của Đức, để điều tra bất công sau 1975, như chính sách cải tạo, và khuyến khích đối thoại công khai.

-Đối thoại cởi mở: Trả tự do cho tất cả tù nhân chính trị, tạo không gian cho tiếng nói đối lập và cộng đồng hải ngoại, học từ tự do ngôn luận của Đức.

-Dân chủ hóa xã hội: Như Nam Phi, để xây dựng niềm tin.

-Tái định hướng ngày lễ: Biến ngày 30 Tháng Tư thành dịp hòa hợp, như Ngày Thống Nhất của Đức, tập trung vào đoàn kết dân tộc thay vì chiến thắng.

Tóm lại, sau 50 năm thống nhất đất nước, nếu chế độ Cộng Sản Việt Nam xây dựng một đất nước hùng cường, thịnh vượng, tự do, công bằng và dân chủ như Đức quốc hay Nam Phi đã làm được với thời gian hết sức ngắn ngủi, thì hòa hợp, hòa giải dân tộc đã không còn là vấn đề phải đặt ra cho Việt Nam nữa.

Kể cả, đối với cộng đồng người Việt hải ngoại cũng vậy, chế độ không cần phải đưa ra những lời kêu gọi họ góp sức đầu tư bằng công, bằng của để xây dựng đất nước, vì lẽ, một khi có niềm tin, họ sẽ tự nguyện làm điều đó mà không cần phải kêu gọi.

Đức và Nam Phi đều thành công trong vấn đề hòa hợp, hòa giải dân tộc nhờ minh bạch, sự thật và tha thứ, với các ngày lễ kỷ niệm củng cố đoàn kết. Việt Nam, để hòa hợp, hòa giải, cũng cần phải làm những điều tương tự như vậy, để biến ngày 30 Tháng Tư thành biểu tượng của đoàn kết dân tộc.


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Noi gương của bác

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

18/05/2025

Gần đây, qua biên khảo (Phê Bình Văn Học Thế Hệ 1932) của Linh Mục Thanh Lãng, tôi mới được biết thêm quan niệm vô cùng phóng khoáng của cụ Phan Khôi, về chuyện nữ quyền:

“Trong phụ nữ ta có nhiều người chồng chết, ở trong cảnh ngộ rất đáng thương, buồn rầu đủ mọi trăm thứ, vậy mà nói đến truyện cải giá, sợ mang tiếng, nhất định không thì thôi. Có người bóp bụng cắn răng cũng giữ được trót đời ; nhưng có người khôn ba năm dại một giờ, thì ra mang cái xấu lại còn hơn cải giá.

Lại thường thấy bà goá nào có máu mặt thì bọn điêu thoa trong làng trong họ lập mưu mà vu hãm cho, để mong đoạt lấy gia tài. Những sự đó đều là chịu ảnh hưởng của cái luật cấm cải giá mà ra ; vậy thì nó chỉ làm hại cho phong hoá thì có chớ có bổ ích gì đâu? Bởi vậy ta nên phế trừ cái luật ấy đi ; từ rày về sau, trong óc chúng ta, cả đàn bà và đàn ông Việt Nam đừng có cái quan niệm ấy nữa.” (Phụ Nữ Tân Văn số 95,13-8-1931).
“Cái luật cải giá” khắt khe của thời phong kiến tại Việt Nam – tiếc thay – đã không bị “phế trừ” mà còn trở nên khắt khe hơn, sau khi cuộc cách mạng vô sản thành công ở xứ sở này:

Ả Định mới hai mươi hai tuổi đã có ba đứa con, nhưng trông còn son lắm. Da trắng, má lúc nào cũng ửng hồng, ngực phây phây như cái thúng. Anh mất, ả nghĩ mình là người của Đoàn thể nên rất giữ gìn. Hơn nữa, gia đình ả có công với cách mạng từ lâu.

Bác Hoe Chu, bố chồng, tham gia Thanh niên cách mạng đồng chí hội từ năm 1927. Chồng của ả vào Đảng từ khi còn bóng tối. Về làm dâu, ả được bố chồng và chồng giác ngộ, cũng trở thành đảng viên…

Không may giữa đường đứt gánh tương tư. Giữ nếp nhà, ả mặc áo sổ gấu, đội nón không vành. Nhưng sức lực càng ngày càng căng ra… Tuy thế, ả vẫn tránh tất cả các trường hợp đàn ông cợt nhả khi gặp riêng trên đường làng…

Rồi đến một hôm, trong cuộc họp, anh Cu Kình liếc mắt nhìn ả, ả quay mặt đi. Cứ quay mặt mãi cũng không tránh được cái vòng vây tình ái của anh Cu Kình. Đôi má của ả càng ngày càng đỏ au như con gái dậy thì khiến anh mê như điếu đổ.

Anh đón gặp ả trên đường làng, gặp ngoài đồng, gặp ban ngày, gặp ban đêm. Rồi hai người hò hẹn nhau. Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén. Và ả có thai sau bảy năm giữ gìn. Đảng uỷ triệu tập ả lên trụ sở…

Khi nêu vấn đề khai trừ ả Định, có người gợi ý “chiếu cố quá trình tham gia cách mạng của gia đình”. Nhưng đồng chí bí thư diễn giải một cách kiên quyết:

“Tội quan hệ tình ái bất chính là tội rất nặng. Hơn lúc nào hết, trong hoàn cảnh hoà bình, xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay, Đảng ta phải thật trong sạch. Đảng viên đi trước làng nước theo sau… (Võ Văn Trực. Cọng Rêu Dưới Đáy Ao. Hà Nội: Nhà xuất bản Hội Nhà Văn và Công ty Văn Hoá & Truyền Thông Võ Thị, 2007. Bản điện tử do talawas chủ nhật thực hiện).
Cách “diễn giải” của “đồng chí bí thư” về “quan hệ tình ái, xem ra, có vẻ hơi xa (rời) với cuộc sống của “làng nước.” Sau những lũy tre xanh, người dân Việt vẫn cứ sinh hoạt theo nhịp thở, nhịp tim, và tiếng lòng của họ (thay vì theo ý Đảng) bất kể là vào thời bình hay thời chiến:

Những năm 1965- 1975 nhà mình sơ tán ở làng Đông. Nhớ nhiều người nhưng nhớ nhất anh Đa. Bây giờ kể chuyện anh Đa thôi, vì anh này hay nhất trong kí ức của mình về cái làng này.Anh Đa lùn, đen, xấu. Anh Diệu nói cái mặt thằng Đa chành bành giống cái l. trâu.

Anh Đa sống với mẹ già, sau mẹ chết anh ở một mình. Nhà nghèo quá, 24, 25 tuổi rồi hỏi cô nào cũng bị chê.

Anh con liệt sĩ, lại con một, khỏi đi bộ đội. Con trai trong làng ai lớn đều đi bộ đội hết, còn lại dăm ba anh tuổi như anh thôi, chỉ có anh là chưa vợ. Mẹ anh khóc lên khóc xuống, anh vẫn chẳng quan tâm đến chuyện vợ con. Cho đến khi mẹ anh chết anh vẫn độc thân. Mình hỏi anh sao anh không lấy vợ. Anh nói tao để vậy để đàn bà nó thèm…

Anh chỉ làm hai việc: đi đập lúa thuê và nơm cá bán lấy tiền. Cứ mùa lúa là anh đi đập lúa cho các gia đình có chồng con đi bộ đội, một đêm đập lúa được trả vài lon gạo. Thế cũng đủ sống, lại được tiếng giúp đỡ gia đình bộ đội…

Một đêm mình đi thăm túm lươn, hôm đó được nhiều, hơn chục con, mừng lắm hí hửng xách oi về thì gặp anh Đa đi từ nhà chị Thơm ra. Mình hỏi anh đi đâu, anh nói không.

Minh thấy anh mặc cái áo bộ đội dài gần đến gối (anh lùn mà). Nghi nghi, mình kéo vạt áo anh lên, chim cò phơi ra cả, hoá ra anh không mặc quần. Mình ngạc nhiên nói sao vào nhà người ta lại không mặc quần, anh cười phì một tiếng rồi bỏ đi.

Nhà chị Thơm một mẹ một con, chồng đi bộ đội, thằng cu con chị mới hơn 4 tuổi. Mình nghi lắm. Mình lẻn theo anh Đa. Anh Đa lại vào nhà chị Hà. Chị Hà có chồng hy sinh, vừa báo tử năm ngoái.

Chị vẫn say sưa sinh hoạt đoàn, biến đau thương thành hành động cách mạng, hăng hái phát biểu lý tưởng, hoài bão, tiên tiến, thi đua, quyết tâm, căm thù, phấn đấu…v.v. Bà con làng xóm khen lắm, vẫn nói với con gái con dâu: đó, sang nhà con Hà mà coi.

Mình vào sau hồi nhà chị Hà Tối quá không thấy gì, chỉ nghe chị kêu hệt như mèo kêu. Mình chặn anh Đa ở cổng nhà chị Hà nói em biết rồi nha. Anh Đa túm cổ áo mình nói mày nói tao giết.

Về sau, lần nào đi nơm anh vừa nơm suất của anh, vừa nơm suất của mình. Mạ mình toàn khen thằng Lập dạo này nơm cá giỏi. Hi hi.

Làng Đông có chừng 4-5 trăm nóc nhà, hơn 1 trăm nóc là nhà hoặc là vợ bộ đội hoặc là vợ liệt sĩ. Không biết anh Đa chui vào bao nhiêu nhà trong số 100 nóc nhà ấy, chỉ biết suốt cuộc chiến tranh 1965-1975, tối nào cứ đến 3-4 giờ sáng anh Đa lại mặc cái áo bộ đội dài đến đầu gối, không thèm mặc quần, đi hết nhà này đến nhà kia, 5 giờ sáng thì về.

Mình hỏi sao anh không mặc quần. Anh nói mặc mần chi, cởi vô cởi ra mệt. (Nguyễn Quang Lập. “Anh Cu Đa”. Ký Ức Vụn. Hội Nhà Văn: Hà Nội, 2011)
Một anh trai làng “lùn, đen, xấu” và “mặt  chành bành giống cái l. trâu” mà còn “bận” đến cỡ đó thì anh Ba Duẩn (“ngọn đèn cháy sáng 200 nến”, soi khắp Bắc/Nam) làm sao mà rảnh rang cho được:

Tháng 7-1986 Duẩn chết, dân đứng hai bên đường đếm mấy bà tổng goá. Chúng khẩu đồng từ bảo nhau cái bà tre trẻ mặc áo dài đen dắt đứa con be bé kia đứt đuôi là vợ tư! Ấy, chưa kể những bà bị gạt xuống nữa chứ. Cho lên cả thì khéo phải một hai xe nữa…

Ngày ấy nếu blogger nhiều như ba chục năm sau thì trên mạng cử là lũ lụt lời bình về sức mạnh tính dục của Lê Duẩn.

Rõ ràng là có nỗi sự riêng tư thầm kín của thân thích ông, sau cái chết của ông, vị hoàng đế đỏ từng làm run sợ và đau khổ biết bao con người. (Trần Đĩnh. Đèn Cù II, Westminster, CA: Người Việt, 2014).
Những vị “hoàng đế đỏ” kế tiếp (Đỗ Mười, Lê Khả, Nông Đức Mạnh) cũng đều là những nhân vật mà sinh hoạt tình dục của họ khiến cư dân mạng phải tốn không ít thời giờ bàn tán. Điều may mắn là đất nước đã bước vào “thời mở cửa” (chả còn phải giấu diếm gì, và muốn dấu cũng không thể được) nên không có tình nhân nào bị biến thành nạn nhân – kiểu xe tông bể sọ – như bà Nông Thị Xuân ngày trước nữa.

Cũng từ thời đổi mới, quan niệm về sinh hoạt tình dục của toàn dân rất nới (và rất mới) – theo thông tin của tờ Việt Báo: “Việt Nam Tỷ lệ nạo phá thai cao hàng đầu thế giới.”

Tờ Vietnamnet thì đưa ra một con số khiêm tốn và nhẹ nhàng hơn, chút xíu: “Hiện Việt Nam vẫn là nước có tỷ lệ nạo phá thai ở tuổi vị thành niên cao nhất Đông Nam Á và xếp thứ 5 thế giới.”

Tại sao Việt Nam lại đứng đầu thế giới, hay toàn khu vực về tỷ lệ nạo/phá thai như thế? Chắc tại ở những quốc gia khác không có một vị lãnh tụ đạo đức như Hồ Chí Minh nên dân chúng không phải học tập và làm theo tấm gương của Bác.


 

ÍT HƠN CHÚA – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

 Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Thần linh mặc lốt người phàm đã xuống với chúng ta!”.

“Tội thờ ngẫu tượng là tội thờ bất cứ thứ gì chỉ nên sử dụng, hoặc sử dụng bất cứ thứ gì chỉ nên tôn thờ!”. Những lời của thánh Augustinô đưa J. McMath đến kết luận, “Điều mà tôi sẽ cho đi bất cứ thứ gì để có và không nhận bất cứ thứ gì để mất là Thiên Chúa của tôi. Tôi không bao giờ tôn thờ một thứ gì đó ‘ít hơn’ Ngài!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa hôm nay tiết lộ một sự thật thú vị – dẫu là một sự thật rất hiển nhiên – nhưng lại khá bất ngờ. Rằng, con người luôn có xu hướng thờ ngẫu tượng – một thứ gì đó ‘ít hơn Chúa!’.

Tại Lystra, sau khi Phaolô chữa lành một người bại, một số dân thành kết luận, “Thần linh mặc lốt người phàm đã xuống với chúng ta!”. Họ gọi Phaolô và Barnaba là thần; thậm chí có ý định đem bò và hoa để tế hai ngài. Phaolô xé áo mình và nói, “Chúng tôi đây cũng chỉ là người phàm!” – bài đọc một. Thấy xu hướng ‘ngẫu tượng’ nơi họ, Phaolô chỉ cho họ biết phải tôn thờ ai – Chúa là Thiên Chúa và chỉ một mình Ngài, đừng thờ một thứ gì đó ‘ít hơn Chúa!’. Nói thay Phaolô, Thánh Vịnh đáp ca reo lên, “Xin đừng làm rạng rỡ chúng con, lạy Chúa, nhưng xin cho Danh Ngài rạng rỡ!”.

Một thứ gì đó ‘ít hơn Chúa’ có thể là một hệ tư tưởng, một chủ nghĩa, một thần tượng vốn có thể có một địa vị ‘gần như thần thánh’; và đôi khi, nó được sùng bái một cách mù quáng với những gì mà chỉ Thiên Chúa mới đáng có. Thờ ‘ngẫu tượng’ – tội căn bản – cội rễ của mọi tội lỗi. Chính sức hấp dẫn của một thực thể nào đó, một con người nào đó, vốn có thể trở nên chất xúc tác để con người mọi thời coi nó như thần thánh.

Có lẽ vì thế, trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói đến nhu cầu cấp thiết phải có một Thầy Dạy thiêng liêng, “Đấng Bảo Trợ sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại tất cả những gì Thầy đã nói với anh em”. Chính Chúa Thánh Thần – Thầy Dạy – sẽ ngăn ngừa chúng ta khỏi rơi vào ngẫu tượng; giúp chúng ta đánh giá sâu sắc hơn về mối tương quan mỗi người phải có đối với Thiên Chúa trên hành trình tiến về Nhà Cha.

Anh Chị em,

“Thần linh mặc lốt người phàm đã xuống với chúng ta!”. Dẫu không la lên như người Lycaonia; nhưng khuynh hướng tự nhiên của chúng ta là thần thánh hoá những gì làm vui thoả, dễ chịu. Nó dẫn chúng ta đến lối sống dễ dãi khi thoả hiệp với các giá trị thế tục; đó là những ngẫu tượng khiến chúng ta thở gấp, mê mải, mụ mẫm và ngơ khờ chạy theo. Bên cạnh đó, thuyết tương đối và chủ nghĩa tiêu thụ vẫn âm thầm hoặc công khai mê hoặc khiến chúng ta nuông mình ruổi theo mà không hay biết; từ đó, vô tình phá đổ các giá trị cao đẹp và linh thánh. Thấy trước điều đó, Chúa Giêsu đã ban Thánh Thần. Ước gì bạn và tôi biết đón nhận và yêu quý Quà Tặng vô giá này; đồng thời, ngoan nguỳ với Ngài, hầu không dễ phó mình cho việc tôn thờ một thứ gì đó ‘ít hơn Chúa!’.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, ‘ngẫu tượng’ thường làm con hao tổn, mỏi mệt và lầm lạc. Cho con ‘dễ dạy’ với Thánh Thần hầu chỉ tôn thờ một “Giêsu”, ‘Một Ai đó’ nhiều Chúa nhất!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế) 

**********************************************

Thứ Hai Tuần V Phục Sinh

Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an. Ga 14,21-26

21 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : “Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy.”

22 Ông Giu-đa, không phải Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, nói với Đức Giê-su : “Thưa Thầy, tại sao Thầy phải tỏ mình ra cho chúng con, mà không tỏ mình ra cho thế gian ?” 23 Đức Giê-su đáp : “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy. 24 Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy. Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy. 25 Các điều đó, Thầy đã nói với anh em, đang khi còn ở với anh em. 26 Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em.”


 

Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. (Ga 13:34) – Cha Vương

Ngày Chúa Nhật thật dễ thương và ngọt ngào hương vị của Chúa nhé.

Cha Vương

CN, 5PS: 18/5/2025

TIN MỪNG: Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. (Ga 13:34)

SUY NIỆM: Nếu Chúa Giê-su ban cho chúng ta “điều răn mới”, vậy điều răn cũ là gì? “Điều răn cũ” được tìm thấy trong Cựu Ước trong sách Đệ Nhị Luật. “Hãy yêu mến ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), hết lòng hết dạ, hết sức anh (em). (Đnl 6:5) Đây là một điều răn cơ bản. “Điều răn cũ” và “điều răn mới” không loại trừ lẫn nhau mà xây dựng trên nhau. Điều răn mới nhấn mạnh tình yêu sâu sắc mà Chúa đã thể hiện, trong khi điều răn cũ vẫn là một nguyên tắc nền tảng trong mọi điều răn. Chúa mời gọi bạn hôm nay hãy yêu thương nhau NHƯ Chúa đã yêu thương bạn, đừng yêu theo kiểu thế gian. Yêu như Chúa yêu là như thế nào? 

– Yêu đến tận cùng như Đức Giêsu dạy: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu” (Ga 15:13). Thánh Gioan diễn tả: “Đức Kitô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em” (1Ga 3:16).

– Tình yêu phải thể hiện trong việc làm: “Nếu các con giữ điều răn của Thầy”. Thánh Gioan diễn tả: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu nhau nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm” (1 Ga 3:16-18).

LẮNG NGHE: Vậy, anh em hãy bắt chước Thiên Chúa, vì anh em là con cái được Người yêu thương, và hãy sống trong tình bác ái, như Đức Ki-tô đã yêu thương chúng ta, và vì chúng ta, đã tự nộp mình làm hiến lễ, làm hy lễ dâng lên Thiên Chúa tựa hương thơm ngào ngạt. (Ep 5:1-2)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa Giê-su Phục sinh, xin dạy con cách yêu như Chúa đã yêu con.

THỰC HÀNH: Nhìn lại cách đối xử của mình với những người chung quanh coi có hợp với điều Chúa dạy không nhé.

From:Do Dzung

***************************

YÊU NHƯ CHÚA YÊU – Lm Thái Nguyên

Hãy tiếp tục đến thăm mẹ chúng ta, mẹ bị mù – Truyện ngắn

Trầm Mặc Huơng Lai

Một trong những đoạn văn đau đớn nhất tôi từng đọc trong văn học:

Khi mẹ tôi ly hôn và rời đi, cha tôi đã buộc chúng tôi không được đến thăm bà, và thời gian trôi qua khiến tôi dần quên đi sự hiện diện của mẹ và bắt đầu dần quen với một người mẹ kế khó chịu.

Anh trai tôi, người thường bỏ nhà đi một hai đêm, không mấy bận tâm đến những hình phạt đang chờ đợi khi trở về. Với những cú đá những cái tát tới tấp, anh thường giả vờ ngất xỉu, nhờ đó mà thoát khỏi việc tiết lộ nơi đã đến.

Là người bạn duy nhất của anh, nhưng anh cũng không bao giờ nói cho tôi biết mình đã đi đâu trong những ngày vắng mặt. Có lẽ vì tôi quá nhút nhát, thậm chí còn sợ cả cái bóng của chính mình.

Tôi nhớ có một ngày, anh tôi biến mất hơn ba ngày, và cha tôi giận dữ tột độ. Dưới ảnh hưởng của tâm trạng xấu của mẹ kế, cha đã trút lên anh mọi sự giận dữ. Trong vòng một giờ, anh tôi nằm sóng soài trên sàn phòng, máu chảy đầm đìa.

Chính vào lúc đó, tôi hiểu rằng sự cô đơn cũng có thể khiến tôi quên mất sự tồn tại của anh.

Một đêm lạnh, tôi tìm thấy dưới gối anh một bức thư, trong đó anh viết:

“Hãy tiếp tục đến thăm mẹ chúng ta, mẹ bị mù. Hãy tiếp tục chăm sóc mẹ dù cho có bị gì đi nữa, và đừng để mẹ cảm thấy rằng chúng ta đã rời xa .”

Bài viết của Ahhlem Dounia


 

Điều thực sự quan trọng là sự bình yên trong tim,…- Chau Doan 

Chau Doan 

 Khi bạn già đi, bạn bắt đầu nhìn cuộc sống theo một cách khác. Bạn dần hiểu rằng hạnh phúc thực sự không nằm ở số tiền bạn kiếm được, bằng cấp bạn có, hay ngôi nhà và chiếc xe của bạn lớn đến đâu. Đến một lúc nào đó, những thứ vật chất sẽ mất đi giá trị. Điều thực sự quan trọng là sự bình yên trong tim, niềm vui trong những ngày sống, và sự tĩnh lặng trong cuộc đời.

Khi còn trẻ, ta thường đuổi theo thành công, địa vị và sự giàu có. Ta nghĩ rằng những điều đó sẽ khiến mình hạnh phúc mãi mãi. Nhưng theo thời gian, ta học được rằng hạnh phúc thật sự đến từ những điều giản dị — như ngồi bên những người thân yêu, cười với nhau về những kỷ niệm cũ, hoặc chỉ đơn giản là tận hưởng một buổi tối yên bình ở nhà.

Gia đình và những người bạn chân thành trở thành kho báu quý giá nhất. Những người quan tâm đến bạn, ở bên bạn những lúc khó khăn, yêu thương bạn vì chính con người bạn — đó mới là những người thực sự quan trọng. Sự hiện diện và nâng đỡ của họ có giá trị hơn bất kỳ thứ gì tiền bạc có thể mua.

Bạn không còn khao khát có thêm nữa, mà bắt đầu biết ơn những gì mình đang có. Bạn nhận ra rằng có vài người bạn thật lòng còn quý hơn nhiều người bạn giả tạo. Một ngôi nhà nhỏ nhưng yên bình còn tốt hơn một căn biệt thự đầy căng thẳng. Và một trái tim đầy yêu thương còn quý giá hơn một tài khoản ngân hàng đầy tiền.

Khi có tuổi, bạn nhận ra những điều tuyệt vời nhất trong cuộc sống thực ra không phải là vật chất. Tình yêu, sự bình yên, lòng tốt và niềm vui giản dị mới là những điều mang lại hạnh phúc đích thực. Và đó chính là lúc bạn thật sự bắt đầu sống.

Cuối cùng, cuộc đời không phải là về những gì bạn sở hữu, mà là về cảm xúc bạn mang trong tim, những người bạn yêu thương, và cách bạn sống từng ngày.

— The Storyteller

Nguồn: The Storyteller