Trump dọa đánh thuế 50% hàng EU: Kinh tế toàn cầu tiếp tục chao đảo

Ba’o Dat Viet

May 24, 2025

Tổng thống Mỹ Donald Trump tiếp tục khuấy động sân chơi kinh tế toàn cầu khi ngày 23 Tháng Năm tuyên bố sẽ đề xuất mức thuế 50% đối với hàng hóa từ Liên minh châu Âu (EU), có thể bắt đầu áp dụng ngay từ đầu tháng tới. Động thái cứng rắn này được đưa ra trong bối cảnh chưa có bất kỳ thỏa thuận thương mại cụ thể nào giữa Washington với các đối tác lớn, khiến nền kinh tế toàn cầu càng thêm bất ổn.

Tờ Financial Times cùng ngày tiết lộ chính quyền Mỹ đang gây sức ép buộc EU đơn phương hạ thuế đối với hàng hóa Mỹ. Nếu không đạt được bước tiến trong đàm phán, Washington sẽ áp thêm mức thuế 20% nhằm trả đũa. Dù EU đã thống nhất một khung đàm phán, khoảng cách giữa hai bên vẫn còn rất xa, làm tăng nguy cơ xung đột thương mại leo thang.

Giới doanh nghiệp quốc tế đang cảm nhận sức ép rõ rệt từ những chính sách thuế bất định. Theo khảo sát mới nhất của tập đoàn tài chính Allianz (Đức) với 4.500 doanh nghiệp tại Trung Quốc, Mỹ và nhiều nước châu Âu – châu Á, gần 60% cho biết thương chiến đang gây tác động tiêu cực. Đáng chú ý, có tới 45% doanh nghiệp dự báo xuất khẩu sẽ sụt giảm nghiêm trọng, và 25% đang cân nhắc dừng sản xuất vì biến động thuế quan và tỷ giá.

Tại Mỹ, 54% doanh nghiệp tham gia khảo sát đã lên kế hoạch tăng giá sản phẩm để bù đắp chi phí thuế. Nếu điều này xảy ra, lạm phát tại Mỹ có thể tăng mạnh trong thời gian tới, làm suy yếu sức mua và gây thêm áp lực cho Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) trong điều hành chính sách tiền tệ.

Không dừng lại ở phương diện chi phí, các doanh nghiệp còn đang khẩn trương tìm tuyến đường vận chuyển mới để né thuế và hạn chế rủi ro. Họ cũng thắt chặt các điều khoản hợp đồng thương mại để phòng ngừa tổn thất do chính sách khó lường từ Washington.

Tại châu Á – Thái Bình Dương, viễn cảnh kinh tế cũng không sáng sủa hơn. S&P Global Ratings nhận định căng thẳng thương mại và chính sách thuế quan đang buộc các chuỗi cung ứng trong khu vực phải tái cơ cấu, làm gián đoạn dòng chảy thương mại vốn đã mỏng manh sau đại dịch. Bà Eunice Tan, Trưởng bộ phận nghiên cứu tín dụng tại S&P, cảnh báo rằng sự phân mảnh thương mại trong khu vực sẽ kéo theo làn sóng rút vốn đầu tư và tổn thương sâu hơn cho các nền kinh tế phụ thuộc xuất khẩu.

Kết quả kinh tế quý 1/2025 cho thấy những dấu hiệu rõ rệt của sự suy yếu. Nhật Bản ghi nhận tăng trưởng âm 0,7%, trong khi xuất khẩu ô tô – lĩnh vực chủ chốt – giảm gần 6% doanh thu trong tháng Tư do ảnh hưởng từ chính sách thuế Mỹ. Tại Đông Nam Á, 5 trong 6 nền kinh tế lớn nhất báo cáo tăng trưởng chậm lại so với cùng kỳ 2024, cho thấy đà phục hồi hậu COVID đang bị chặn đứng bởi một làn sóng bảo hộ mới.

Diễn đàn Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC) trong báo cáo mới nhất cũng hạ dự báo tăng trưởng khu vực xuống chỉ còn 2,6% trong năm nay – thấp hơn nhiều so với mức 3,6% của năm 2024. Dự báo cho năm 2026 cũng không khả quan, chỉ nhích nhẹ lên 2,7%. Tại Hàn Quốc, Viện Phát triển quốc gia đã hạ mức dự báo tăng trưởng năm nay từ 1,6% xuống còn 0,8%.

Trong bối cảnh thương mại toàn cầu chao đảo, sự trở lại mạnh mẽ của ông Trump trên chính trường Mỹ đang tạo nên làn sóng lo ngại không chỉ về thương mại mà còn về trật tự kinh tế quốc tế. Thế giới một lần nữa đối mặt với câu hỏi cũ: Liệu chính sách “Nước Mỹ trên hết” có đang đẩy phần còn lại của toàn cầu vào khủng hoảng?


 

 Khoảng Trống Cuối Cuộc Đời – Lưu An Vũ Ngọc Ruẩn- Truyen ngan HAY

 Lưu An Vũ Ngọc Ruẩn

Anh Phi, anh Ruẩn thân mến,

Thật là tội cho bà cụ có hai người con như trong truyện, họ đã không còn bản tính như của người VN, cho dù họ cũng chỉ mới rời VN chưa lâu, chừng 20 năm.

Nhân dịp hai anh đều đã và đang sinh sống bên Thụy Sĩ, xin cho hỏi thăm về chuyện sinh sống của người già bên Thụy Sĩ:

  1. bên Thụy Sĩ có bắt buộc con cái phải nuôi cha mẹ không?
  2. nếu con cái không muốn chăm sóc thì sao? … người già có được trợ cấp để vào sống trong viện dưỡng lão không?
  3. tôi đã hỏi thăm vài viện dưỡng lão gần nhà, giá tiền tùy theo tình trạng sức khỏe, không cần trợ giúp của người già như 0%,10%,25%,50%,… và giá phí xê dịch từ US$5,000 đến US$15,000/tháng (năm ngàn đô đến mười lăm ngàn đô mỗi tháng). Bên Thụy Sĩ phí tổn thế nào?

Phí tổn chăm sóc người già bên Mỹ cao quá, nên nhiều người già cũng đang tìm cách bung qua các quốc gia khác với chi phí thấp hơn, ví dụ như VN, Phi, Thái Lan, Mexico, Portugal, v.v.

Xin phép “ní nuận” một tí cho vui, chúng ta cứ tìm cách sống dai, rồi phải lo lắng, mệt nhọc với chuyện chăm sóc cho bản thân khi về già thì mệt quá, có thật sự đáng không?

Thế gian chúng ta đều biết rõ những thứ hữu hình thì không bền chắc theo thời gian, bà cụ trong truyện nếu hiểu rõ mọi chuyện đều có thể thay đổi, ngay cả tính tình con người, thì có thể không thất vọng quá như vậy mà tự hủy mình.  Quan trọng hơn hết là đừng bao giờ trông mong quá nhiều nơi người khác.

Cảm ơn hai anh đã chia sẻ.

NĐTrọng

************

 Qua người bạn thân cùng lớp, tôi quen với gia đình bác Chấn, một gia  đình gốc Tây học, giàu có và thế lực của miền Nam trước năm 1975. Bác có hai người con, một trai, anh Quang hơn tôi 3 tuổi, một gái, chị Yến hơn tôi 1 tuổi. Hai người con của bác đều theo học chương trình Tây.

 Sự quen biết của tôi với gia đình bác rất sơ sài, không bước xa hơn những lời chào hỏi xã giao thông thường hay vài câu hỏi tò mò về thân thế, gia đình và học hành của tôi trong những lần tôi theo người bạn đến nhà bác chơi.

Sau này khi vừa xong tú tài, trong một lần ghé thăm bác Chấn, tôi được biết hai người con của bác đã đi du học tại Thụy Sĩ ngay sau khi tốt nghiệp bậc trung học Pháp tại Sàigon. Còn tôi không có điều kiện nên học đại học trong nước, sau khi tốt nghiệp xuống Cần thơ dạy học, tôi không có dịp nào đến chơi nhà bác Chấn nữa. Đầu năm 1974, trước khi nhận học bổng tu nghiệp ở Nhật Bản, tôi được người bạn cho biết bác Chấn trai đã bị mất vì ung thư. Bác gái vẫn sống với vài người cháu họ xa ở căn nhà khá lớn, sang trọng ngày xưa ở đường Ngô Tùng Châu rất gần với trung tâm Sàigon.

Rồi với bao nhiêu đưa đẩy của thời cuộc, cuối năm 1979 tôi rời bỏ Nhật Bản vì tìm được việc làm đúng với chuyên môn ở thành phố Zürich, vùng nói tiếng Đức, miền bắc Thụy Sĩ. Sang Thụy Sĩ được khoảng một năm tôi lập gia đình với người bạn gái người Nhật mà tôi đã quen biết nhiều năm trong thời du học tại đó.

Một lần vào năm 1983 gia đình tôi xuống Genève thăm người bạn, ngẫu nhiên tôi gặp được chị Yến, cô con gái của bác Chấn. Chị cho biết chị và anh Quang đã tốt nghiệp xong đại học Genève từ lâu. Cả hai đang đi làm, vẫn sống ở Genève, nhưng kẻ ở đầu tỉnh, người ở cuối tỉnh, lại bận rộn với công việc làm cho nên cũng rất ít gặp nhau. Chị Yến cũng cho biết cả hai vẫn chưa lập gia đình nhưng sống chung với người yêu đều là người Thụy Sĩ. Tôi cũng hơi ngạc nhiên vì cả hai đều đã xấp xỉ 40 tuổi mà vẫn độc thân, nhưng không dám thắc mắc vì có lẽ lối sống Tây phương là thế.

Trong lần gặp nhau đó, tôi cho chị địa chỉ, số điện thoại của gia đình, ân cần mời chị và anh Quang nếu có dịp đến chơi, coi như tìm được người bạn xa xưa nơi xứ lạ quê người. Nhưng tôi có cảm tưởng chị không có vẻ hân hoan với lời mời vồn vã, chân thành của tôi lắm. Vô tình hay cố ý, chị cũng không cho tôi biết địa chỉ! Tuy nhiên tôi cũng chẳng bận lòng vì nghĩ họ đã sống và lớn lên với nền văn hóa Tây Phương từ ngày còn bé, sự lạnh lùng, cách biệt với những người không cần thiết là lẽ tự nhiên mà thôi.

Chỉ có vậy, lần gặp nhau như thoáng qua, đã được quên đi dễ dàng. Bất thình lình, khoảng gần 2 năm sau ngày chúng tôi gặp nhau thoáng qua, nhạt nhẽo đó, tôi nhận được điện thoại của chị cho biết bác Chấn gái đã được anh em chị bảo lãnh sang đoàn tụ, hiện đang sống với chị ở   Genève đã được khoảng một tháng rồi. Chị có nói với bác Chấn về gia đình chúng tôi, bác mong muốn mời gia đình tôi đến chơi để tâm sự. Đặc biệt trong cuộc điện thoại này chị rất thân thiện, thân thiện đến nỗi tôi có cảm tưởng chị năn nỉ chúng tôi đến chơi với mẹ chị, giúp bà vui mà quên đi nỗi nhớ quê hương khi chưa quen biết ai ở Genève.

          Sau đó, một buổi sáng sớm thứ bẩy cuối tuần,vợ chồng tôi lái xe xuống Genève, chúng tôi đến tạm trú nhà một người bạn cũng ở trong Genève, nghỉ ngơi, nói chuyện một lúc. Khoảng 2 giờ chiều chúng tôi mới đến nhà chị Yến thăm bác Chấn. Trong lần gặp gỡ này có cả anh Quang cùng với 2 người Thụy Sĩ là bạn trai và bạn gái của họ. Ngay khi bước vào nhà, sau vài câu chào hỏi thông thường, vợ chồng tôi đã nhận thấy ngay bầu không khí nặng nề giữa bác Chấn với 2 người con của bác cũng như với 2 người bạn trai gái của họ.Bác Chấn hoàn toàn bị tách xa trong cuộc sinh hoạt của hai người con và bạn của họ, dù ngôn ngữ Pháp với bác không thành vấn đề. Sau vài câu xã giao bình thường, nói chuyện vu vơ với chúng tôi, nhóm con của bác Chấn cũng tự tách rời.

Họ nói chuyện, cười đùa, âu yếm nhau trước mặt chúng tôi, chẳng có tí ngại ngần rồi dẫn nhau vào phòng bên cạnh đùa giỡn trong âm thanh của âm nhạc khá ồn ào. Họ để bác Chấn tiếp đãi trò chuyện với chúng tôi. Bác Chấn có vẻ ngượng ngùng, nhưng chúng tôi cố làm ra vẻ không để ý,coi như chuyện bình thường của giới trẻ Tây phương. Chúng tôi ân cần mời bác lên nhà chúng tôi chơi bất cứ lúc nào, có thể ở với chúng tôi cả tháng trời cũng chẳng sao vì nhà khá rộng lại có vườn riêng để ăn uống ngoài trời.

Bác tỏ vẻ rất cảm động với nhiệt tình của chúng tôi. Bác càng thích hơn khi thấy vợ tôi cầm chiếc áo len mà bác đang đan nửa chừng, tò mò xem ra chiều hiểu biết và đồng sở thích thêu thùa. Lúc sửa soạn ra về, vợ chồng tôi có ý gặp hai người con để chào từ giã, nhưng với tí chút ngần ngừ trong vẻ ngượng ngùng bác nói:

– Thôi, các cháu cứ về đi, bác sẽ nói với chúng nó sau!

Từ giã bác Chấn, chúng tôi trở lại nhà người bạn ngủ qua đêm, sáng hôm sau, ngày chủ nhật, sau khi ăn sáng với gia đình người bạn xong chúng tôi từ giã ra về. Chiều ý vợ, tôi lái xe đi một vài vòng thành phố Genève cho vợ tôi xem tí chút về thành phố, trước khi về lại Zürich. Đang lúc chạy xe tôi thoáng thấy bác Chấn ngồi ở chiếc ghế của một trạm xe bus. Dừng xe vào lề đường tôi chạy vội đến nói với bác:

– Bác Chấn, bác đi đâu vậy? Bác lên xe cháu chở cho.

Bác giật mình khi nhìn thấy tôi, nhưng ngay lúc đó cảm giác ngượng ngùng buồn bã hiện rõ trên khuôn mặt, trong ánh mắt khi bác nhìn tôi. 

Chẳng đợi cho bác trả lời tôi nói tiếp:

– Cháu đang định chạy lòng vòng xem thành phố đây, bác đừng ngại gì cả, cứ lên cháu chở đi mà!

Nói xong tôi cầm tay, kéo bác về hướng chiếc xe, nơi đó vợ tôi đang mở cửa xe chờ đợi. Ngần ngừ tí chút, nhìn tôi như gửi gấm nỗi buồn kín đáo, bác nói như muốn khóc:

– Bác có muốn đi đâu đâu! Ở nhà buồn và cô đơn quá cháu ạ, chịu không được!  Ngày nào bác cũng ra ngồi ở các trạm xe bus, xe điện để nhìn người ta lên xe, xuống xe cho đỡ buồn đó mà thôi!

Nghe bác nói, tôi ngẩn ngơ, nhìn bác trân trối! Câu trả lời của bác xót đau quá! Tôi có cảm nhận người đàn bà xấp xỉ tuổi 70 đang đứng tước mặt tôi có rất nhiều tâm sự buồn đau khó nói. Hình ảnh cuộc gặp mặt chiều hôm qua ở nhà cô Yến, con gái của bác lại hiện ra, trở về trong ký ức tôi! Tôi thoáng hiểu một phần nào nỗi buồn, cô đơn của bác. Nhân dịp gặp lại trong ngẫu nhiên này tôi muốn được nghe bác tâm sự, biết đâu tôi lại tìm được điều gì đó giúp bác giảm được nỗi buồn mà bác đang chất chứa trong lòng ?!

Nghĩ như vậy, tôi thân thiện khoác tay lên vai bác, khẩn khoản tôi nói:

– Bác cháu mình tìm một quán nước nào đó nói chuyện đi! Bác đừng ngại ngần gì cả, ngày hôm qua cháu muốn nói chuyện với bác nhiều mà chưa hết. Hình như sự nhiệt lòng của tôi và cũng có lẽ vì quá buồn, bác im lặng đi theo. Sau một lúc chạy lung tung, chúng tôi vào một quán nước bên ngoài hành lang của một khách sạn trên đại lộ Quai du Mont Blanc, bên kia đường là hồ nước Lehmann. Bầu trời trong xanh, ánh sáng ban mai chiếu rọi lên mặt hồ nhấp nhô tạo ra những dải sáng lấp lánh tuyệt đẹp của một buổi sáng nắng tốt. Bác Chấn đã khóc gần như suốt thời gian ngồi kể cho tôi nghe về lý do của bác khi lựa chọn rời xa VN, sang Thụy Sĩ định cư.

Một lựa chọn mà bác nghĩ rằng đã sai lầm, đang làm cho bác buồn đau vì cô đơn.  Bác cho biết, với lời khuyên nhủ rất hợp lý, chân tình của hai con, bác đã bán căn nhà của mình ở trong nước, tiền bán nhà cùng với tất cả tiền bạc,nữ trang mà bác đã dành dụm từ khi mới kết hôn, bác đã giúp 2  con, mua cho mỗi người một căn hộ ở Genève. Căn hộ mà chúng tôi đến thăm hôm qua là của Yến. Một căn khác cho Quang, nhưng đến nay dù đã hơn một tháng ở Thụy Sĩ nhưng bác vẫn chưa có dịp đến xem nó ra sao!

Trước khi rời bỏ quê hương sang Thụy Sĩ, bác nghĩ rằng, tuổi đã già, bệnh hoạn, sống chết không biết lúc nào, vì vậy nếu được sống với chính con của mình là một điều rất hợp lý, vẫn hơn sống với những đứa cháu họ ở Việt Nam. Đã thế bác nghĩ với khả năng thông thạo tiếng Pháp, có lẽ bác chẳng khó khăn trong việc giao tế với người địa phương. Thêm vào đó với sở thích đọc sách báo, thêu thùa cũng sẽ giúp bác che lấp được những lúc nhàn rỗi, cô đơn khi các con đi làm. Với ý nghĩ lạc quan như vậy bác đã chờ đợi từng ngày được ra đi đoàn tụ với hai con. Nhưng khi đến Thụy Sĩ, chỉ sau một tuần lễ đầu tiên bác đã nhận thấy mình sai lầm! Cái sai lầm ra ngoài tưởng tượng, tính toán    của bác. Dù thích đọc sách,thích thêu thùa nhưng bác chẳng có được hứng thú mà là được như mong muốn!

Bác được Yến, người con gái mà bác thương yêu nhất, đón về sống chung. Mấy ngày đầu tiên, Yến nghỉ làm việc, dẫn bác đi lo giấy tờ hành chánh, bảo hiểm sức khỏe đồng thời chỉ dẫn bác cách mua vé, xử dụng các phương tiện giao thông công cộng như xe bus, xe tram của thành phố. Yến cũng không quên hướng dẫn bác xử dụng các máy móc trong nhà như máy giặt, máy sưởi cùng với những việc làm trong tập thể chung cư.

Mấy ngày đầu tiên còn bận rộn với những học hỏi, làm quen với cuộc   sống mới nơi xứ lạ quê người,bác không có thời gian để cảm thấy cô đơn. Nhưng chỉ một tuần sau,mọi hoạt động đã được đưa vào thứ tự và đều đặn. Buổi sáng Yến vội vàng đi làm,chiều tối về nhà, mệt mỏi nên cô ta chẳng có thì giờ và hứng thú để nói chuyện với bác ngoài vài câu hỏi sức khỏe vu vơ. Đã thế Yến thường về với người bạn trai, họ lại quây quần với nhau trong phòng riêng, chẳng thèm để ý đến bác. Bác sống im lìm như một chiếc bóng thừa thãi trong căn hộ.

Mấy ngày đầu tiên, có lẽ vì món ăn lạ hay nể nang công lao nấu nướng của bác, Yến và người bạn trai còn về nhà ăn cơm tối. Nhưng chỉ được vài ngày, họ chẳng còn thú vị với món ăn của bác nữa. Yến nói với bác đừng nấu cơm cho họ, họ tự lo được. Từ đó Yến và bạn trai thường ăn cơm ở đâu đó trước khi về nhà khá muộn. Thỉnh thoảng Yến mua đồ ăn nguội, rượu bia mang về bày ra bàn, ăn uống, nói chuyện cho đến khuya rồi chẳng thèm thu dọn. Sáng hôm sau khi thức dậy, nhìn thấy đống bát đĩa bác lại phải lau chùi, thu dọn! Không nói ra nhưng bác Chấn đã có cảm tưởng mình là người hầu hạ trong nhà, không còn là người mẹ được   con đón sang để phụng dưỡng nữa. Còn anh Quang, con trai của bác, thỉnh thoảng cùng với cô bạn gái đến chơi, thoáng qua một vài giờ đồng  hồ nói chuyện vu vơ với bác rồi từ giã ra về, cũng chưa một lần nào chở bác đến nhà để biết cuộc sống của anh ra sao!

Đôi lần thấy bác buồn, than van với các con là cô đơn không bạn bè…  Yến khuyên bác hãy làm theo lối giải trí, tìm vui của người Thụy Sĩ khi về già, không có việc gì làm. Họ tìm cách tránh thời gian rảnh rỗi, cô đơn bằng cách mua vé tháng của thành phố cho xe bus, xe tram… rồi sáng đi, tối về. Ngày ngày dùng phương tiện giao thông đi từ phố này, sang phố kia ngắm nhìn người ta buôn bán ở các siêu thị hay các công viên của thành phố… Buổi trưa hay lúc mệt mỏi thì tạt vào những nhà ăn bình dân rẻ tiền trong các siêu thị uống cà phê hay ăn trưa.

Nghe lời đề nghị của cô con gái, bác đã hình dung khá rõ con đường sống của mình sẽ ra sao nếu còn sống nơi đây. Bác chợt hiểu ra rằng hai đứa con của bác thật sự đã là dân Thụy Sĩ rồi, chúng sống, chúng suy nghĩ và chúng giải quyết theo xã hội, con người Thụy Sĩ. Chúng không thể nào nhìn thấy hay cảm thấy nỗi buồn, cô đơn của bác được nữa. Nói đến đây, bác Chấn ngước nhìn tôi với đôi mắt nhòa lệ, buông tiếng thở dài buồn bã bác than thở:

– Có lẽ bác phải về lại VN cháu ạ, sống ở đây chắc bác sẽ chết vì cô tịch mà thôi. Mấy ngày trước bác có liên lạc với tòa lãnh sự VN ở Genève để hỏi về việc hồi hương. Theo bác không khó khăn lắm, nhưng cần nhiều thủ tục để lấy lại hộ khẩu của bác ở VN và nhất là chứng minh được sự bảo đảm về tài chánh cho sự sinh sống của bác khi hồi hương. Thấy tôi im lặng, bác buồn rầu nói tiếp:

– Hiện nay bác chẳng có gì ở VN nữa, nhà cửa đã bán, tiền bạc, nữ trang cũng không còn. Bác đúng nghĩa một người nghèo, già lão đơn độc nếu về lại quê hương thì sống làm sao đây?

Tôi buột miệng hỏi:

– Tại sao bác không nói với anh Quang, chị Yến trả lại cho bác một ít tiền để có thể về VN sinh sống? Theo cháu biết thì không cần quá nhiều đâu vì cuộc sống và nhà cửa ở VN vẫn còn rất rẻ.

Lắc đầu ra vẻ thất vọng, bác cho biết tiền bán nhà, bán nữ trang vừa rồi rất lớn so với xã hội VN nhưng có đáng bao nhiêu so với Thụy Sĩ! Bác đã chia cho hai con để giúp chúng mua nhà, theo bác biết thì 2 người con cũng còn phải mượn ngân hàng hơn một nửa mới có đủ tiền để mua 2 căn hộ. Hiện nay tiền lời ngân hàng cùng với chi phí dịch vụ cho chung cư như thang máy, điện nước, lau chùi, cắt cỏ, xúc tuyết, làm vườn… tất cả không phải nhỏ, chẳng thua gì tiền đi thuê nhà. Bác cũng đã bàn với 2 con để trả lại bác một số tiền cho bác mua một căn nhà nhỏ ở VN, nhưng coi vẻ không được vì chúng vẫn phải trả nợ ngân hàng mỗi tháng, chẳng dư dả để đưa cho bác được! Đã thế khi về VN tiền sinh sống, thuốc thang, bệnh viện khi ốm đau cũng không thể coi là chuyện bỏ qua mà không tính toán được!

Nhẩm tính lại cuộc sống ở VN, tôi nói với bác:

– Theo cháu nghĩ nếu hai người con của bác giúp bác mỗi tháng 200 quan Thụy Sĩ (thời điểm 1986) chắc bác sống không khó khăn lắm đâu!

Bác Chấn mỉm cười với tí cay đắng, bác trả lời:

– Cháu tưởng đơn giản như thế sao? Giả dụ mà chúng nó gửi cho bác 200 quan mỗi tháng thì cũng chỉ đủ cho sinh sống bình thường mà thôi. Còn lúc ốm đau, chi dụng cho việc thuê nhà, cho người quen, họ hàng để người ta vui vẻ mà săn sóc cho mình làm sao mà đủ?! Tuổi già của bác đâu có thể sống độc lập được, mà phải dựa vào người khác, nhất là lúc ốm đau. Dù là họ hàng, quen biết cũng phải có tiền cháu ạ! Không dễ dàng và đơn giản như cháu nghĩ đâu!

Nghe bác tâm sự, tôi đã đã tạm hiểu hoàn cảnh của bác. Đúng như vậy, cái sai lầm lớn nhất là bác đã bán nhà, thu dọn tài sản để gửi cho con mong được sống gần con. Điều này nghe ra nó đơn giản và hợp lý nhưthói thường của gia đình văn hóa VN. Nhưng với hai người con của bác,nếp sống, sự suy nghĩ của văn hóa Tây phương đã thấm sâu vào con người họ, nó không còn là đơn giản nữa! Tìm một giải quyết cho bác không dễ dàng, họa chăng một hay cả hai người con bác biết cảm thông nỗi cô đơn, buồn bã của mẹ mà chính họ tìm cách giúp đỡ mà thôi. Bác  không nói ra, nhưng tôi có cảm tưởng 2 người con bác không như bác chờ mong.

Trước khi chia tay tôi ân cần nhắc lại lời mời của gia đình tôi, bất cứ lúc nào bác có ý muốn đến nhà tôi chơi nhiều tuần, vài tháng, hoàn toàn không có gì khó khăn. Hình như nhìn rõ sự chân thành của tôi, bác vuốt nhẹ bàn tay vợ tôi mỉm cười và hỏi vợ tôi:

– Cháu có phiền lòng nếu bác đến nhà cháu chơi không?

Dù ngôn ngữ VN chỉ hiểu lõm bõm, nhưng vợ tôi cảm nhận hoàn toàn ý nghĩa lời nói của bác qua ánh mắt, khuôn mặt và cả dáng điệu chân thành trong giọng nói, nụ cười của bác. Vợ tôi đưa tay ra dấu thêu đan, lõm bõm câu tiếng Việt:

– Bác cứ đến chơi đi, có nhiều việc làm với nhau lắm, bác đừng lo!

Có lẽ đây là lần đầu tiên trong cuộc gặp gỡ bác hôm qua và cả hôm nay, tôi mới nhìn thấy nỗi buồn bã biến mất trên nét mặt của bác. Thay vào đó là niềm vui thoáng hiện trong ánh mắt, nụ cười của người đàn bà xấp xỉ 70 tuổi mà tôi cũng chỉ quen biết thoáng qua trong quá khứ….

Trở về lại Zürich đã cả tháng trời, tôi cũng chẳng có dịp liên lạc với bác nữa.Đôi lúc trong lúc thảnh thơi tôi cũng nghĩ đến bác. Tôi cho rằng với thời gian bác sẽ làm quen với những người VN khác, rồi cũng giống như mọi người, đâu cũng vào đó mà thôi. Nhưng bất thình lình vào buổi tối khi tôi đang ăn giở bữa cơm thì bác gọi đến. Với giọng nói

thều thào, chứa đầy buồn bã, chán nản bác cho biết hiện đang ở bịnh viện đã gần một tuần lễ nay. Tôi hỏi lý do, bác không nói rõ ràng lắm nhưng có lẽ liên quan đến tim mạch lại thêm bị trầm uất vì buồn bã, cô đơn mà ra.

Bác khóc qua điện thoại cho biết hai người con chỉ đến thăm bác một lần duy nhất vào ngày đầu tiên, sau đó vì bận rộn họ chỉ điện thoại hỏi thăm mà thôi. Tôi buông tiếng thở dài, nói vài câu an ủi bác, hứa sẽ chở vợ đến thăm bác vào ngày mai hay ngày kia! Có lẽ cảm nhận được ý nghĩa tiếng thở dài của tôi trong điện thoại, bác nói rất nhẹ:

– Cám ơn vợ chồng cháu, biết là làm phiền cháu nhưng bác muốn gặp lại các cháu lắm. Vợ chồng cháu cố đến với bác lần nữa nhé! Chắc bác khôngcó dịp gặp lại vợ chồng cháu nữa đâu!

Tôi nghe mà rụng rời, tưởng như bác muốn gặp chúng tôi để nói lời trối trăn! Tôi nói vài câu an ủi, nâng đỡ tinh thần bác rồi tôi hứa chắc ngay ngày mai sẽ xin nghỉ làm một ngày đến thăm bác.

Xế chiều hôm sau vợ chồng chúng tôi đến bệnh viện của tỉnh, căn phòng khá  rộng có 4 bệnh nhân. Chúng tôi đã giật mình đến độ nghi ngờ thị giác của mình khi nhìn thấy bác xơ xác nằm như đang ngủ. Chỉ hơn một tháng trời mà sắc diện của bác thay đổi quá mau! Khuôn mặt tái xanh, hốc hác như người bệnh lâu năm, cơ thể như bị thu nhỏ lại nằm ép  dính xuống tấm nệm của chiếc giường! Cánh tay trái khẳng khiu, tái xanh thò ra ngoài chiếc chăn, được nối với sợi dây truyền serum treo lủng lẳng trên chiếc giá bằng alumin trắng. Tôi nhẹ nhàng nắm lấy cổ tay xương xẩu của bác,bác giật mình tỉnh dậy. Nhìn thấy chúng tôi, sự vui mừng, cảm động hiện rõ trên khuôn mặt già nua trắng bệch. Bác gật đầu nhẹ, đáp lại lời chào hỏi của vợ chồng tôi, rồi thều thào:

– Cám ơn hai cháu đã đến thăm bác,mời hai cháu ngồi!

Bác cho biết mấy ngày trước tự nhiên bị mệt mỏi,chóng mặt rồi bị xỉu, ngã ngay ở trong bếp vào ban đêm. Yến nghe tiếng động của chiếc ghế bịđổ, chạy ra mới biết và chở bác đến bệnh viện. Qua kiểm nghiệm bác  sĩ cho biết do chứng suy tim đã có từ trước kèm theo thận hoạt động không bình thường gây tắc trách sự tuần hoàn dẫn đến chứng lậm độc máu.

Sau vài giờ đồng hồ tâm sự, bác kể cho chúng tôi nghe những ngày tháng cô độc, buồn chán càng lúc càng đè nặng lên bác vừa qua. Tôi lắng tai nghe nhưng cũng chỉ biết khuyên nhủ để nâng đỡ tinh thần bác mà thôi.Chúng tôi ở với bác mãi đến buổi chiều, khi từ giã, bác nói với vợchồng tôi trong nước mắt:

– Chắc bác và vợ chồng cháu không còn có dịp gặp lại nhau nữa đâu! Dù thế nào thì bác rất cảm động với lòng tốt của các cháu đã vì thương bác mà nghe tất cả những lời tâm sự của bác. Bác cũng không ngờ cuối đời mình lại cô độc và buồn đau như thế này. Con của bác vì bận rộn hay vì vô tâm mà quên săn sóc bác. Biết làm sao hơn là im lặng! Nhưng

ít ra vào lúc cuối đời này bác cũng có một niềm vui đó là có hai cháu để hàn huyên, tâm sự…

Bác nói với chúng tôi nhiều lắm, toàn là những câu nói đượm buồn và kín đáo than van! Tôi có cảm tưởng tinh thần bác hoàn toàn suy sụp, buông xuôi. Nỗi chán nản cùng cực của bác không những thể hiện trên khuôn mặt mà còn trong những lời nói như trăn trối với vợ chồng tôi.

Tôi cố gieo vào bác lòng tin về tài năng của y học Thụy Sĩ, họ sẽ mang lại cho bác sức khỏe và niềm vui. Tôi hứa chắc chắn khi bác khỏe mạnh tôi sẽ xuống chở bác lên chơi với gia đình tôi vài tháng. Bác nghe lời hứa của tôi trong trạng thái bâng quơ hình như kín đáo che giấu sự thất vọng ở trong lòng.

Sau khi từ giã ra về, tôi tạt vào phòng y tá trực của dẫy phòng bácnằm,ý định gặp người y tá nào đó nói với họ vài lời cám ơn, nhân tiện nhờ họ thông báo cho tôi biết ngay nếu có gì cần thiết. Thật may, tôi gặp được cô y tá trưởng, biết nói tiếng Đức,nhờ vậy mà vấn đề giao tiếp, nhờ vả của tôi dễ dàng hơn. Tôi cũng chẳng ngần ngại nói rõ với cô ta sự thật về hoàn cảnh không vui của bác cùng với sự nhạt tình, thiếu săn sóc của hai người con. Tôi mong cô ta cảm thương nỗi cô tịch của bác mà đặc biệt quan tâm. Tôi cũng không quên đưa cho cô ta số điện thoại, ân cần xin cô ta báo tin cho tôi biết ngay, bất cứ giờ nào, ban đêm hay ban ngày nếu có gì bất trắc, để tôi kịp đến thăm viếng hay giúp đỡ bác nếu cần.

Trở về nhà, vừa được 2 ngày, vào buổi sáng khi đang sửa soạn đi làm thì cô y tá trưởng từ bệnh viện Genève gọi đến. Tôi giật mình, linh cảm có gì không may xẩy đến cho bác rồi. Cô ta cho biết bác hiện đang ở khoa cấp cứu, trong tình trạng tuyệt vọng! Với tí chút ngập ngừng cô ta cho biết đêm hôm qua vào khoảng nửa đêm, khi mọi người an ngủ, bác đã dùng kéo cắt đứt sợi dây truyền serum, rồi để nguyên mũi kim trong mạch máu ở khủy tay cho máu chẩy ra ngấm vào chăn và đệm! Khi người y tá trực đêm biết thì bác đã rơi vào hôn mê. Bác sĩ khoa cấp cứu chobiết rất khó hy vọng cứu chữa vì bệnh nhân đã bị sẵn bệnh về tim mạch lại bị mất máu nên cơ thể rất yếu. Theo cô ta, nếu tôi đến bệnh viêntrước buổi trưa hy vọng có thể gặp được bác lần cuối cùng.

Dù bị vướng bận với việc làm, nhưng tôi cũng xin nghỉ, lái xe một mình xuống Genève hy vọng gặp được bác thêm một lần nữa. Trên đường đi, tôicầu mong sự kiện không phải quá bi đát như lời cô y tá nói với tôi.

Đến Genève,người đầu tiên tôi tìm gặp là cô y tá, cô ta cho biết bác đã mất ngay sau khi cô ta điện thoại cho tôi, hiện đang nằm ở một phòng riêng gần khu nhà xác của bệnh viện để làm thủ tục cần thiết trước khi đưa vào nhà xác của bệnh viện. Tôi thẩn thờ khi biết mình đến quá chậm để không gặp được bác lần cuối cùng!

Mở cửa bước vào căn phòng nhỏ ở cuối hành lang của dẫy nhà phụ được tách biệt với khu vực chính của bệnh viện,chỉ có một chiếc giường duy nhất trên đó bác Chấn đang nằm. Cặp mắt của bác nhắm lại, bình thản như đang trong giấc ngủ! Chỉ có khác là khuôn mặt của bác hốc hác làm cho đôi gò má nổi hẳn lên giữa màu xám, tái xanh xấu xí của làn da mặt. Tôi im lặng đặt nhẹ bàn tay lên thân thể, lên cánh tay xương xẩu của bác như muốn cảm nhận rõ hơn cái lạnh lẽo của cơ thể cũng như nỗi buồn đau, cô độc của tâm hồn bác lúc ra đi.

Cũng chính lúc đó, lời tâm sự của bác mấy ngày trước khi vợ chồng tôi đến thăm bác ở bệnh viện hình như vang nhẹ bên tai tôi: Bác đã lầm lẫn chọn lựa! Cái lầm lẫn đã làm cho bác mất tất cả!Mất nhà cửa,mất tiền bạc nữ trang và có lẽ mất cả hai đứa con của bác nữa! Bác đã không thể hình dung ra cuộc sống xa quê hương nó lại mang đến cho bác thất vọng và buồn đau đến như thế! Nhưng ân hận cũng đã muộn, chẳng còn giải quyết nào khác hơn là phải chấp nhận những ngày tháng cô liêu đang đến.

Nhưng bác tự hỏi bác có can đảm để chấp nhận nó suốt cuộc đời còn lạicủa bác hay không? Tôi đưa mắt nhìn qua khung cửa sổ, bên ngoài ánh nắng hoàng hôn đổ dài trên con đường trải đá sỏi trong khung viên của bệnh viện.Vài con chim nho nhỏ chuyền nhẩy trên cành cây làm rung động những bông hoa cuối mùa đã khô vì nắng gió còn sót trên những đọt cây… Không gian thật vô tư, im lặng, chẳng có gì khác lạ để cảmthương cho một người mẹ đã vượt xa biết bao nhiêu khoảng cách trời đất, rời bỏ quê hương đến nơi đây với hy vọng được sống gần những đứacon, tìm cho mình một niềm vui đoàn tụ. Nhưng cuối cùng phải mang lấy nỗi buồn đau, cô tịch mà về với hư vô!

Switzerland, Zuerich, 19/10/2024

Lưu An Vũ Ngọc Ruẩn

From: ctkd-k & NguyenNThu


 

NHÂN LOẠI ĐANG RẤT CẦN BÌNH AN GIÊSU – Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ

Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ

 Trong suốt chiều dài của lịch sử nhân loại, bình an luôn là khát vọng thiêng liêng và bất tận của con người.  Đây không chỉ là trạng thái không có chiến tranh, mà còn là điều kiện tiên quyết để con người sống và yêu thương nhau.  Quả thật, con người ở mọi nơi mọi thời luôn khao khát bình an, muốn sống tự do, hạnh phúc, không có chiến tranh.  Thế giới hòa bình giúp con người ngồi lại với nhau, bắt tay nhau xây dựng địa cầu.

 Trải qua bao thăng trầm, nhất là trong thế kỷ XX đầy biến động với hai cuộc chiến tranh thế giới và hàng loạt cuộc xung đột khu vực, nhân loại đã rút ra một chân lý không thể chối cãi: chiến tranh chưa bao giờ là lối thoát, hòa bình mới là đích đến. 

Thực tế cho thấy, chiến tranh dưới bất kỳ hình thức nào, luôn đi kèm với những hệ lụy, không chỉ tàn phá cơ sở vật chất, chiến tranh còn để lại những vết thương tinh thần kéo dài qua nhiều thế hệ.  Từ những thành phố đổ nát ở Ukraine, Dải Gaza, Sudan đến Yemen, Lebanon, Myanma…, hàng chục triệu người đã buộc phải rời bỏ nhà cửa, trở thành nạn nhân của các cuộc chiến mà họ không hề lựa chọn.

 Báo cáo mới nhất của Cao ủy Liên hợp quốc về người tị nạn cho biết, thế giới hiện có hơn 114 triệu người phải di tản, con số cao nhất trong lịch sử hiện đại.  Nạn nhân luôn là kẻ yếu người thua, dân thường, trẻ em và phụ nữ.

Giữa tiếng bom rơi và các loại máy bay tối tân gào rít trên bầu trời ở một số quốc gia, máu của người dân ở dải Gaza và ở Trung Đông cùng cuộc xung đột Nga – Ukraina kéo dài hơn 2 năm nay, đã và đang cướp đi hàng triệu người dân vô tội.

 Nền hòa bình của nhân loại đang bị đe dọa nghiêm trọng.  Những người có lương tri trên thế giới luôn theo dõi sát sao và kêu gọi các bên liên quan ngừng bắn để ngồi lại với nhau giải quyết thông qua đàm phán hòa bình. 

Trong bối cảnh đó, “bình an” càng trở nên có ý nghĩa.  Bởi lẽ, trong thế giới ngày nay, bình an không còn là điều hiển nhiên, mà là một lựa chọn có ý thức.  Bình an cần được nâng niu, trân trọng và gìn giữ Chúa đã nói với các tông đồ rằng: “Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con…” (Ga 14,27).  Thế giới hiện nay đang khao khát bình an của Chúa. 

Bình an của Đức Ki-tô

 “Bình an cho anh em!” (Lc 24,36) là lời đầu tiên của Chúa Giêsu sau khi sống lại và hiện ra với các môn đệ ngày thứ nhất trong tuần. 

Câu hỏi được đặt ra: Tại sao là ‘bình an’ mà không phải là giàu sang, tài giỏi, sức khỏe hay điều gì khác?

 Thưa, vì nếu con người có tất cả những thứ đó mà không có bình an thì coi như chẳng có gì.  “Bình an” là quà tặng cao quý của Thầy để lại cho các học trò trước lúc ra đi.  Đó cũng là “Bình an” sau khi sống lại Chúa Giêsu sẽ tặng cho các môn đệ đang cửa đóng then cài vì sợ hãi.  “Bình an” là điều các ông đang cần đến hơn bao giờ hết.  Thế nên, với nghĩa nặng tình sâu trong tình thầy trò, đang lúc các môn đệ ưu sầu lo lắng.  Chúa Giêsu nói với các ông: “Anh em đừng xao xuyến!  Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy” (Ga 14,1); “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy.   Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian.  Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi” (Ga 14,27).  Người ban cho họ bình an, sự bình an mà thế gian không thể ban tặng. 

Tại sao bình an của Chúa Giêsu thế gian không thể ban tặng? 

Thưa, vì Chúa Giêsu chính là bình an; là nguồn bình an, Người ban cho các các môn đệ chính bình an của Người, bình an nội tâm, bình an tuyệt đối, bình an vượt xa sự hiểu của con người.  Có bình an Giêsu, con người các ông hoàn toàn đổi mới, ngờ vực trở nên vững tin, nhút nhát nên người can đảm, sống cửa đóng then cài, nay đi rao giảng Chúa Giêsu chết bị chôn trong mồ đã sống lại hiển vinh, mà chính các ông làm chứng, không sợ chết. 

Bình An có tên là Giêsu

 Chúa Giêsu chính là bình an đích thực.  Có bình an của Chúa Giêsu đồng nghĩa với có chính Chúa, “Bình An Giêsu.”  Có được Bình An Giêsu người ta sẽ cảm nhận được tâm hồn thanh thản, thể xác lành mạnh, bình an cả xác hồn.  Bình an này hướng các môn đệ về mầu nhiệm cách chung, nhiệm cục cứu độ, chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể ban bình an này.

 Bình an nội tâm của con tim, của con người với chính mình và với Thiên Chúa.  Đây là sự bình an nền tảng nhất.  Không có sự bình an này, thì không bình an nào khác có thể tồn tại.  Chúa Giêsu đã chào các môn đệ: “Bình an cho các con,” Người cũng truyền cho các ông: “Vào nhà nào, trước tiên các con hãy nói: Bình an cho nhà này” (Lc 10, 5-6).

 Chúa Giêsu là chính sự bình an: “Thầy ban cho các con sự bình an của Thầy.”  Các ông chỉ có được khi tuân giữ lệnh Chúa truyền là “yêu thương nhau” (Ga 13, 34).  Về vấn đề này, Thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II nói: “Con đường của bình an chung cục phải đi qua trong tình thương và hướng tới việc tạo nên một nền văn minh tình thương.  Giáo hội chăm chú nhìn về Đấng là Tình yêu của Chúa Cha và Chúa Con và bất chấp mọi đe dọa không ngớt gia tăng, Giáo hội không ngừng hy vọng, Giáo hội không ngừng kêu cầu và phục vụ hoà bình của nhân loại trên trái đất” (Dominum et Vivificantem đoạn 67).

 Không thể có bình an nếu không có sự tha thứ.  Hãy tuân giữ luật yêu thương, và tha thứ cho nhau, ngay cả kẻ thù của mình (Mt 5, 44), thay vì luật báo thù.  Bạo lực sẽ dẫn đến bạo lực.  Báo thù không dẫn đến hoà bình.  Chỉ có tình thương mới đem lại bình an thực sự, vì Thiên Chúa là Tình yêu là nguồn bình an (Ga 4, 8, 16; Rm 16, 20). 

Lạy Chúa, xin thương ban cho Hội Thánh được hiệp nhất và bình an.  Amen.

 Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ

From: Langthangchieutim


 

Ngày mai, tôi ρhải đi viện dưỡng lão…

Chuyện tuổi Xế ChiềuCông Tú Nguyễn

 Không ρhải bất đắc dĩ, thì tôi cũng không muốn đi viện dưỡng lão đâu. Nhưng mà từ khi sinh hoạt hàng ngày không còn có thể tự xoay xở, mà con gái vừa làm việc bận rộn vừa ρhải chăm sóc cháu trai, không rảnh để quan tâm mình, đây dường như là sự lựa chọn duy nhất đối với tôi.

Điều kiện sống ở viện dưỡng lão không tệ: Một mình một gian ρhòng sạch sẽ, được lắρ các đồ điện đơn giản thực dụng, đầy đủ các loại ρhương tiện giải trí; đồ ăn cũng ngon miệng; ρhục vụ rất chu đáo, bày trí xung quanh cũng rất đẹρ.

Tuy nhiên giá cả đắt đỏ, tiền hưu của tôi nhất định không đủ trả. Nhưng tôi còn có nhà riêng của mình, đem bán nó đi, tiền cũng không còn là vấn đề nữa. Nhưng tài sản còn lại, trong tương lai tôi muốn để dành cho con cái. Con cái lại rất hiểu chuyện, chúng nói: “Tài sản của mẹ thì mẹ ŧùy ý sử dụng, không cần lo cho bọn con”. Số tiền còn lại đúng là tôi muốn chuẩn bị để vào viện dưỡng lão.

Sống trong nhà, kim chỉ cái gì cũng không thiếu, rương hòm, ngăn tủ, ngăn kéo đều đầy ắρ các loại đồ dùng. Quần áo bốn mùa, đồ dùng bốn mùa, chồng chất như núi; tôi thích sưu tầm, tem sưu tầm đã thành từng chồng lớn, ấm tử sa cũng đã hơn mười cái. Còn có rất nhiều vật linh tiпh cất giấu, nào là ngọc bích, hạt óc chó, vật trang sức. Đặc biệt là sách, cả một mặt tường là giá sách, chật kín đầy ắρ; rượu ngon thì Mao Đài, Ngũ Lương, rượu Tây cũng ρhải mấy bình.

Còn có nguyên bộ đồ điện gia dụng, dụng cụ nấu nướng, nồi niêu xoong chảo, củi gạo dầu muối, đủ loại đồ gia vị, nhét chật đầy ρhòng bếρ; còn hơn chục cuốn album ảnh, nhìn một ρhòng tràn đầy đồ vật, tôi cũng thấy ρhát rầu!

Viện dưỡng lão chỉ có một gian ρhòng, một cái tủ, một cái bàn, một giường, một ghế sô ρha, một tủ lạnh, một máy giặt, một TV, một bếρ điện từ, một lò vi ba, căn bản không có chỗ để lưu giữ của cải mà mình tích lũy.

Trong chớρ mắt, tôi đột nhiên cảm giác được, những của cải này đều là dư thừa, chúng cũng không thuộc về mình…

Tôi chẳng qua là nhìn một cái, chơi một chút, dùng một lát, chúng trên thực tế chỉ thuộc về thế giới này, những sinh mệnh lần lượt lướt qua ta, cũng chỉ là quần chúng.

Cố Cung là của ai, hoàng đế cho rằng là của trẫm đấy, nhưng bây giờ nó là của nhân dân, của xã hội, chỉ có thể trở thành lịch sử.

Tôi bỗng nhiên hiểu ra: Tại sao Bill Gates muốn đem cho toàn bộ tài sản của mình; tại sao Jack Ma tuyên bố muốn tặng toàn bộ đồ cất giữ cho viện bảo tàng? Đó là bởi vì bọn họ hiểu rồi: Tất cả vốn dĩ không ρhải của họ!

Bọn họ chẳng qua là nhìn một cái, chơi một chút, dùng một lát, sinh không mang theo, chết không mang đi, chi bằng tích đức làm việc thiện lưu lại ρhúc cho con cháu. Đó mới thật là sáng suốt!

Một ρhòng đồ đạc của tôi, thật muốn đem hiến tặng, nhưng lại không nỡ. Phải xử lý chúng trở thành một vấn đề khó khăn, con cháu lại chẳng dùng được bao nhiêu.

Tôi có thể tưởng tượng, lúc cháu mình đối mặt với những bảo bối tôi khổ tâm tích lũy thì sẽ đối xử thế nào: Quần áo chăn đệm toàn bộ đều vứt đi; hơn chục cuốn album quý báu bị đốt bỏ; sách bị coi như ρhế ρhẩm bán đi; đồ cất giữ không có hứng thú sẽ bị dọn sạch; đồ gỗ lim trong nhà không dùng, cũng sẽ đem bán giá rẻ. Giống như ρhần cuối Hồng Lâu Mộng: “Chỉ còn lại trắng xóa một mảnh, thật sạch sẽ!”

Tôi quay lại nhìn đống quần áo như núi, chỉ lấy vài bộ thích mặc; đồ dùng ρhòng bếρ chỉ chừa lại một bộ nồi niêu chén bát. Sách chọn lấy vài cuốn đáng đọc; ấm tử sa chọn lại một cái để uống trà. Mang theo chứng minh thư, giấy chứng nhận người già, thẻ y tế, hộ khẩu, đương nhiên còn có thẻ ngân hàng, vậy là đủ rồi!

Đây chính là toàn bộ gia sản của tôi ! Tôi đi rồi, từ biệt hàng xóm, đem trả ngôi nhà này lại cho thế giới này!

Đúng vậy, đời người chỉ có thể ngủ một giường, ở một gian ρhòng, dù nhiều hơn nữa đều là để nhìn chơi. Nhân sinh trên đời, quả thật không cần quá nhiều, đừng quá coi trọng vật chất, bởi vì tất cả cuối cùng đều ρhải trả lại cho thế giới này ! Chi bằng xem nhiều sách, ở bên cạnh người thân, yêu mến bạn bè bên cạnh, làm cho thế giới này bởi vì có tấm lòng yêu thươпg của bạn mà trở nên càng tốt đẹρ.

( Sưu tầm )


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Thời Phản Động

Ba’o Dan chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

22/05/2025

Từ khi có FB, tôi hay đọc tác giả Ngô Nhật Đăng nên biết rằng ông mở mắt chào đời ở Hà Nội hồi cuối thập niên 1950. Tôi thì sinh ra tại Sài Gòn, trước đó vài năm. Chút dị biệt này khiến cho chúng tôi sống trong hai xã hội khác nhau, và tham dự vào hai cuộc chiến (cũng) hoàn toàn khác.

Những dòng chữ Ngô Nhật Đăng viết về chiến tranh biên giới (Việt – Trung) đều hết sức sống động, và vô cùng chân thật. Ông giúp cho độc giả, nhất là những kẻ đã từng cầm súng, thấy rõ hơn cái thân phận của người lính trận. Ở nơi đâu (và thời nào) cũng thế, họ cũng đều sống khổ cực và chết dễ như chơi.

Ngô Nhật Đăng không chỉ viết về những tháng năm binh lửa. Ông am tường nhiều vấn đề và bao biện rất nhiều lãnh vực (chính trị, xã hội, khoa học, kỹ thuật, nhân sinh …) nhưng riêng về chuyện tình cảm ( Anh Hùng Với Mỹ Nhân) thì tôi e rằng tác giả không được khách quan cho lắm:

Mình quen biết nhiều các bác, các chú Nhân văn giai phẩm, thấy phu nhân của các vị ấy thật tận cùng lãng mạn. Nếu không có các bà chăm lo thì các ông ấy chết đói từ lâu rồi, nói gì đến chuyện phản kháng, phản động. Nuôi chồng, chăm con, xù lông lên dữ tợn như gà mái nếu có kẻ nào dám động đến đàn con của mình.

Thỉnh thoảng đến chơi, ví dụ như nhà chú Phùng Quán mình lại thích ngồi nói chuyện với cô Bội Trâm hơn, quan sát cách cô chăm sóc chú Quán mà cảm động. Rồi vợ bác Văn Cao, Lê Đạt, Bùi Xuân Phái, chị Mai của anh Lộc Vàng ….đúng là thuyền quyên sánh với anh hùng. Đổi lại, các vị ấy cũng tôn trọng nếu không nói là biết ơn các bà nội tướng của mình lắm. Luôn tương kính nhau, nhìn mà phát thèm.

Có “Hiền thê” được coi là thành tựu quan trọng nhất trong đời đàn ông. Một lần ngồi với ông bạn vong niên cũng là bậc trưởng thượng, ông bảo :

– Nước mình hết mỹ nhân rồi, vận nước suy nên làm ra như thế.

Mình ngạc nhiên nói :

– Thưa bác, đâu có vậy. Cháu thấy Việt Nam bây giờ ngày càng nhiều người đẹp đó chứ, đẹp hơn xưa nhiều lắm, hàng năm có đến cả chục cuộc thi hoa hậu, người đẹp đó thôi.

Ổng phẩy tay :

– Cậu còn nông cạn lắm, từ thượng cổ, trời đất đã định mỹ nhân chỉ dành cho anh hùng. Cậu xem các ông chồng của những “mỹ nhân” bây giờ có ai đáng mặt anh hùng không ?

Có thể đúng là “các ông chồng của những ‘mỹ nhân’ bây giờ không có ai đáng mặt anh hùng” (cả) nhưng như thế không có nghĩa là nước Việt không còn người hùng anh, và số “người đẹp” ở xứ sở này chỉ giới hạn vào những bóng hồng đã tham dự “vào mấy chục cuộc thi hoa hậu hằng năm” mà thôi.

Mới cách đây không lâu, hôm 01/01/2023, FB Bông Tuyết đã đưa lên mạng hình chụp chung của chính cô và vài người bạn đồng cảnh – Trịnh Nhung, Lê Bích Vượng, Bùi Thị Huệ – cùng với lời chú thích vô cùng sảng khoái (“Vợ ‘phản động’ xinh dã man ha..ha..ha…”) rồi nhận ngay được không ít những lời lẽ tán thưởng rất nhiệt tình:

  • Nguyễn Thanh Mai: “Xinh quá.”
  • Phạm Thị Xuân: “Xinh đẹp lắm em.”
  • Huynh Ngoc Chenh: “Đẹp thế này nên chúng nó âm mưu bắt mấy anh chồng đi nhốt hết.”
  •  Nguyễn Thu Nga : “Sao bọn ‘phản động’ chọn vợ giỏi thế nhỉ. Toàn giỏi giang xinh đẹp và vô cùng có văn hoá.”
  • Dũng Nguyễn: “Không phải vợ phản động ! Đây là vợ của những người đàn ông yêu nước!”

Thế “những người đàn ông yêu nước” này, những ông chồng của những phụ nữ (“xinh dã man”) trong bức hình trên là ai vậy?

Tôi may mắn và hân hạnh biết được danh tính của họ nên cũng (mau mắn) xin phép được thưa luôn, cho nó lẹ:

  • Nguyễn Lân Thắng, phu quân của bà Lê Bích Vượng, ông bị bắt giữ vào tháng 7 năm 2022 cho đến nay (vẫn chưa được xét xử) với cáo buộc: “làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.”
  •  Bùi Văn Thuận, phu quân của bà Trịnh Nhung, đang thụ án 8 năm tù giam và 5 năm quản chế, với cáo buộc “thường xuyên đăng các bài viết lan truyền thông tin xuyên tạc nhằm bôi nhọ Chủ tịch Hồ Chí Minh và các nhà lãnh đạo đảng, nhà nước khác của Việt Nam”.
  • Đỗ Nam Trung, hôn phu của cô Nguyễn Thị Ánh Tuyết, đang thụ án 10 năm tù giam và 4 năm quản chế, với tội danh “phát tán tài liệu chống nhà nước.”
  • Dũng Vova (Lê Văn Dũng) phu quân của bà Bùi Thị Huệ, đang thụ án 5 năm tù với tội danh: “tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.”

Những cáo buộc và tội danh (quen thuộc) này khiến tôi nhớ đến một mẩu đối thoại ngăn ngắn, giữa hai người tù – vào hồi cuối thế kỷ trước – trong tác phẩm Chuyện Kể Năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn:

– Vì sao anh bị vào đây? Tôi có tò mò quá không?

– Tôi bị bắt với tội danh “Tuyên truyền phản cách mạng”.

– Ở đây anh em gọi là tội nói sự thực.

Đó là một lời khen. Nói sự thực là một việc khó khăn, nguy hiểm. Từ xưa đến nay vẫn thế. Bao giờ cũng là một việc nguy hiểm. (Bùi Ngọc Tấn. Chuyện Kể Năm 2000, tập I. CLB Tuổi Xanh, Westminster, CA: 2000).

Khi Đảng chống bọn xét lại, Bùi Ngọc Tấn đi tù nhiều năm vì “tội nói thực.” Lúc Đảng chống bọn Nhân Văn, Phùng Quán chỉ vì “muốn là  nhà văn chân thật” nên phải chịu cảnh “cá trộm, viết chui, rượu chịu” gần suốt cuộc đời. Nay thì cái giá mà Nguyễn Lân Thắng, Bùi Văn Thuận, Đỗ Nam Trung, Dũng Vova … phải trả cho sự “chân thật” cũng nào có rẻ.

Mà đâu phải chỉ chừng đó mạng thôi. Mạng lưới Nhân Quyền Việt Nam (VNHR) cho biết hiện có gần 300 tù nhân lương tâm đang bị giam giữ, một phần ba là người bản địa, không ít kẻ phải nhận những bản án rất nặng nề. Họ chả phải là anh hùng sao?

Ở mảnh đất này, hào kiệt có bao giờ thiếu. Mỹ nhân cũng thế!

Đã thế, họ không chỉ “xinh dã man” mà còn tận tụy cũng “dã man” luôn. Tôi vẫn nhìn theo những bước chân của quý bà Nguyễn Chương (phu nhân của TNLT Trần Đức Thạch) Nguyễn Thị Nghiêm (phu nhân của TNLT Phạm Thành) Nguyễn Thị Kim Thanh (phu nhân của TNLT Trương Minh Đức) Lân Tường Thụy (phu nhân của TNLT Nguyễn Tường Thụy) …. khi họ lặn lội thăm chồng – lẽo đẽo trên mọi nẻo đường đất nước – mà không khỏi ứa nước mắt vì sự tảo tần, thương khó triền miên của những người phụ nữa này. Còn có hình ảnh nào đẹp hơn được nữa?

Nhà văn Ngô Nhật Đăng nhận xét là quý bà Nhân Văn “thật tận cùng lãng mạn.” Sự “lãng mạng tận cùng” này – có lẽ – cũng không hơn (hay không khác) những bà vợ tù nhân lương tâm ngày nay là mấy:

  • Trịnh Nhung (phu nhân của TNLT Bùi Văn Thuận) : “Mùa đông là mùa mà anh thích nhất, còn em vì thích anh mà cũng thêm yêu mùa đông.”
  • Đỗ Thu (phu nhân của TNLT Trịnh Bá Phương) : “Hôm qua ngày 10/2 tôi nhận được 2 niềm vui đó là trưa thì nhận được 2 bức thư của chồng… Cả tháng đợi mỗi thư của chồng về.”
  • Đỗ Lê Na (phu nhân của TNLT Lê Trọng Hùng) : “Trưa nay (lễ tình nhân thứ hai xa cách), bất ngờ nhận được thư chồng gửi về từ trại 6. Cầm thư mà lòng xen lẫn mừng vui và ngậm ngùi!”

T.S Mạc Văn Trang cảm thán: “Đất nước của những hòn VỌNG PHU sao cứ cắm vào dân tộc này mãi vậy hả Trời!”

Tôi hoàn toàn đồng tình với tâm cảm của ông nghè họ Mạc. Tuy thế, không ít lúc, vẫn trộm nghĩ thêm rằng: nhờ lúc nào cũng có vài trăm TNLT chật ních trong những nhà tù, cùng những hòn vọng phu luôn ở bên ngoài nên người Việt cũng đỡ ngượng ngùng khi nhìn vào mặt nhau, và họ còn có nơi để hướng tới – khi nghĩ đến tương lai của đất nước này!


 

Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy. (Ga 15:14)-Cha Vương

Xin Chúa đồng hành với bạn hôm nay và mãi mãi nhé. 

Cha Vương

Thứ 6, 5PS: 23/5/2025

TIN MỪNG: Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy. (Ga 15:14)

SUY NIỆM: Chuyện kể hồi đó thánh nữ Tê-rê-sa A-vi-la đang ở đan viện Tô-lê-đô. Ngày kia, đang khi đi trong đan viện, bỗng thánh nữ thấy một em bé khôi ngô. Thánh nữ ngạc nhiên dừng bước hỏi:

-Này em, em tên gì ?

Cậu bé không trả lời ngay, nhưng hỏi ngược lại:

-Thưa bà, vậy bà tên chi ?

Thánh nữ đáp :

-Tôi tên là Tê-rê-sa của Chúa Giê-su.

Cậu bé mỉm cười rất dễ thương nói :

-Còn tôi, tôi tên là…Giê-su của Tê-rê-sa!

Nói xong, cậu bé “Giê-su của Tê-rê-sa” biến mất.

    Nhân câu chuyện này, Đức Thánh Cha Gio-an XXIII ghi lại trong quyển nhật ký của Ngài mấy dòng tư  tưởng sau đây: “Tôi phải sống như thế nào để Chúa Giê-su cũng nói với tôi, như thuở xưa Ngài nói với thánh Tê-rê-sa thành A-vi-la : “Tôi là Giê-su của Tê-rê-sa”. Vậy tiên vàn, tôi phải là An-gê-lô của Chúa Giê-su trước đã…”

Nếu muốn trở thành những người bạn của Chúa Giê-su thì bạn phải sống thế nào đây? Hãy lắng nghe và thực hiện “lệnh truyền yêu thương” của Chúa.

LẮNG NGHE: Ai chuộng lòng thanh khiết và ăn nói dễ thương sẽ được vua nhận làm bạn hữu. (CN 22:11)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa Giê-su Phục sinh, xin đoái nhìn đến con người nhỏ bé yếu hèn của con và giúp con biết sống gắn bó mật thiết với Chúa trên mọi nẻo đường của cuộc sống.

THỰC HÀNH: Tập thì thầm, lặng lẽ trò chuyện với Chúa trong ngày nhưng người bạn thân nhất của bạn vậy. 

From: Do Dzung

TÌNH BẠN DIỆU KỲ – St: Nguyễn Hèn Mọn, CMF

PHẦN CÒN LẠI, NGÀI LO – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Nếu thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước!”.

“Một khi bị dồn vào đường cùng, rắn đuôi chuông sẽ tức giận tới mức tự cắn vào mình! Đó cũng là điều xảy ra nơi một người tích chứa sự căm ghét. Ôm chặt hận thù, người ấy nghĩ, họ đang ‘làm đau’ kẻ khác; nhưng tai hại lớn hơn là họ đang huỷ hoại chính mình. Tốt nhất, bạn đón nhận sự thù ghét, tìm dịp để yêu thương và phó thác cho Chúa. Phần còn lại, Ngài lo!” – E. Stanley Jones.

Kính thưa Anh Chị em,

‘Phần còn lại, Ngài lo!’. Trước một nền văn hoá chống lại Thiên Chúa, Chúa Giêsu vẫn “tìm dịp để yêu thương và phó mình cho Chúa Cha”. Trong Tin Mừng hôm nay, Ngài nói, “Nếu thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước!”.

Sứ vụ của càng mở ra, các thế lực chống đối Chúa Giêsu càng trở nên tồi tệ. Nhưng Ngài sẵn lòng ôm lấy thực tế nghiệt ngã đó. Ngài vẫn yêu thương giới biệt phái, yêu Giuđa, yêu Phêrô, yêu đến cùng cả những kẻ sẽ đóng đinh Ngài. Từ việc phó mình cho Cha – với tất cả sức mạnh – Ngài vượt qua tất cả. Ai trong chúng ta – ở một giai đoạn nào đó – cũng sẽ trải nghiệm gánh nặng này khi phải gặp những sự từ chối tương tự, cả khi chúng ta chỉ muốn làm điều tốt cho người khác. Đây là thời điểm bạn nên giống Chúa Giêsu nhất. Dĩ nhiên, thật không dễ, nhưng nếu được vậy, bình an và niềm vui sẽ ùa về; với điều kiện – như Chúa Giêsu – bạn phó thác tất cả cho Chúa; ‘phần còn lại, Ngài lo!’.

Và tình yêu luôn tìm kiếm giải pháp! Các tông đồ đã làm điều tương tự. Chỗ nào đón tiếp, các ngài lưu lại; chỗ nào tẩy chay, các ngài ra đi. Tại Đerbê, Lystra, được đón tiếp, Phaolô tiếp nhận Timôthê; sau đó, đi qua Phygia, Galat, Trôa và xuống Makêđônia – bài đọc một. Nhờ đó, Tin Mừng được rao giảng; tín hữu vui, dân ngoại mừng, “Hãy tung hô Chúa, hỡi toàn thể địa cầu!” – Thánh Vịnh đáp ca.

“Con đường của Kitô hữu là con đường của Chúa Kitô, không có con đường nào khác ngoài con đường Ngài đã chỉ ra với những hệ luỵ là bị thế gian căm ghét. Đó là lý do của những hận thù và khủng bố liên tục từ những ngày đầu tiên của Giáo Hội – và cho đến ngày nay – nhiều cộng đoàn Kitô trên thế giới đang bị bách hại!” – Phanxicô.

Anh Chị em,

“Hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước!”. Họ ghét Chúa Giêsu hơn ghét một tên gian phi vì Ngài nói cho họ sự thật về Thiên Chúa, về chính Ngài và về chính họ. Ngài chấp nhận tất cả và chỉ tìm dịp để yêu thương. Và tình yêu mạnh hơn sự thù ghét, mạnh hơn sự chết của Ngài đã chiến thắng để trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho nhân loại. Giữa một thế giới căm ghét Thiên Chúa; bạn cứ “tìm kiếm các giải pháp” để tiếp tục yêu thương, tiếp tục thứ tha. Và với sự trợ lực của Đấng Phục Sinh, sẽ không trở ngại nào là quá lớn; Ngài sẽ giúp bạn vượt qua tất cả. Điều quan trọng là tập trung vào việc mở mang Nước Chúa, tìm dịp để ‘xây cầu’, tín thác vào Chúa, ‘phần còn lại, Ngài lo!’.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để thế gian ghét con vì con dễ ghét; cứ để họ ghét con vì con dễ thương! Cho con cứ thương, dù bị ghét. Được thế, con khác nào Chúa mấy!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

***************************************

Thứ Bảy Tuần V Phục Sinh

Anh em không thuộc về thế gian, và Thầy đã chọn anh em khỏi thế gian.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.   Ga 15,18-21

18 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : “Nếu thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước. 19 Giả như anh em thuộc về thế gian, thì thế gian đã yêu thích cái gì là của nó. Nhưng vì anh em không thuộc về thế gian và Thầy đã chọn, đã tách anh em khỏi thế gian, nên thế gian ghét anh em. 20 Hãy nhớ lời Thầy đã nói với anh em : tôi tớ không lớn hơn chủ nhà. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em. Nếu họ đã tuân giữ lời Thầy, họ cũng sẽ tuân giữ lời anh em. 21 Nhưng họ sẽ làm tất cả những điều ấy chống lại anh em, vì anh em mang danh Thầy, bởi họ không biết Đấng đã sai Thầy.”


 

HẠNH PHÚC NÀO LỚN NHẤT-Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

(Suy niệm Tin mừng Gio-an (14, 23-29) Chúa nhật 6 Phục sinh năm C)

Sứ điệp: Được Ba Ngôi Thiên Chúa ở cùng là hồng phúc vô giá.                                                          ***

Cháu bé bất chợt thức dậy giữa đêm khuya, bóng tối dày đặc bao trùm… Cháu quơ tay tìm mẹ nhưng chẳng thấy đâu. Thế là cháu khóc thét lên, khóc trong sợ hãi, kinh hoàng, khóc mãi không ngừng… cho đến khi nghe tiếng mẹ à ơi vỗ về, cho đến khi có tay mẹ dịu dàng ôm ấp…

Được-mẹ-ở-cùng, bé cảm thấy an toàn và hạnh phúc trọn vẹn, không phải sợ hãi gì; hạnh phúc nầy không gì đánh đổi được. Dù là ngọc ngà, châu báu và tất cả mọi sự trên đời… không có gì bằng có mẹ ở kề bên!

Đứa con thơ được ở với người mẹ trần gian hèn kém, mỏng giòn và yếu đuối… mà còn được hạnh phúc đến thế, thì những ai được Thiên Chúa là Chúa tể trời đất, là Cha đầy quyền năng, là suối nguồn hoan lạc, là tình yêu vô bờ vô tận ở cùng… sẽ được hạnh phúc biết bao!

Thân phận chúng ta hôm nay cũng như thân phận đứa bé thơ cần có mẹ ở cùng. Sống trong đêm tối cuộc đời, đầy dẫy đau thương tang tóc mà sức người không thể vượt qua… chúng ta rất cần được Thiên Chúa ở cùng, để nâng đỡ, dìu dắt chúng ta vượt qua bão tố cuồng phong, gian nan chồng chất.

Nhưng vấn đề quan trọng là làm sao để được Thiên Chúa ở cùng?

Qua trích đoạn Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su chỉ cho chúng ta bí quyết để đạt được hồng phúc nầy: Đó là YÊU MẾN VÀ TUÂN GIỮ LỜI NGÀI.

Ngài nói: “Ai YÊU MẾN THẦY, thì sẽ GIỮ LỜI THẦY, Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. CHA THẦY VÀ THẦY SẼ ĐẾN VÀ Ở LẠI VỚI NGƯỜI ẤY” (Ga 14, 23).

Như vậy, hai điều kiện yêu mến và tuân giữ lời dạy của Chúa Giê-su là 2 ĐIỀU KIỆN TỐI CẦN THIẾT, nhờ đó, không những Chúa Giê-su, mà còn cả Chúa Cha, Chúa Thánh Thần đến ngự trị trong chúng ta. Thế là thân xác phàm hèn của chúng ta được trở thành cung điện của Thiên Chúa Ba Ngôi! Được hạnh phúc như thế quả là trên cả tuyệt vời!

Tiếc thay, còn rất nhiều người chưa khám phá được hồng phúc cao quý nầy, nên thay vì ra sức yêu mến và vâng lời Chúa dạy để được Chúa ở cùng, họ chỉ biết mơ ước và chiếm hữu những lợi lộc phù du mà lãng quên hồng phúc lớn lao là được ở cùng Ba Ngôi Thiên Chúa.

Lạy Chúa Giê-su,

Xin cho chúng con cảm nghiệm rằng: được Chúa ở cùng là hạnh phúc tuyệt vời không gì trên dương gian có thể sánh được, để từ hôm nay, chúng con dốc lòng yêu mến Chúa trên hết mọi sự và ra công tuân giữ mọi lời Chúa truyền dạy để đạt được hồng ân cao quý nầy. Amen.

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

******************************

Tin mừng Gio-an 14, 23-29

Khi ấy, Chúa Giê-su phán cùng các môn đệ rằng: 23″Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy. 24Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy. Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy.   25Các điều đó, Thầy đã nói với anh em, đang khi còn ở với anh em.   26Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em.

27Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi.   28Anh em đã nghe Thầy bảo: ‘Thầy ra đi và đến cùng anh em’. Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đi về cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy.   29Bây giờ, Thầy nói với anh em trước khi sự việc xảy ra, để khi xảy ra, anh em tin.


 

ĐƠN GIẢN THẾ THÔI

Nếu tôi dành cả ngày 

để phục vụ anh chị em mình

nhưng chẳng có nổi một ai nhìn nhận 

và cám ơn

vì những việc tốt tôi đã làm,

liệu tôi có tức tối mà dừng lại

việc phục vụ của mình?

 

Lẽ thường

Nếu có ai, một người thôi cũng được

biết ơn tôi đã sống tình nghĩa

điều đó sẽ làm tôi phấn chấn

và phục vụ 

với nhiều yêu thương hơn.

Điều Đức Giê-su muốn nói tới 

trong bài Tin Mừng tôi vừa đọc

không phải là có ai đó biết ơn tôi không

nhưng Người muốn tôi 

tìm xem 

động cơ thúc đẩy tôi làm những điều tốt ấy là gì:

Có phải tôi đang tìm cách 

khoe những công trạng của mình 

trước Thiên Chúa

để được Người khen thưởng?

 

Có lẽ

Đức Giê-su muốn nhắc tôi điều này: 

Khi phục vụ

con chỉ đơn giản 

đang làm 

những công việc bổn phận,

con phải làm.

 

Thế thôi!

From: ngocnga_12 & NguyenNThu

TRÙNG KHỚP Ý CHÍ – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

 Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em!”.

“Cho tôi 100 người yêu mến Thiên Chúa hết lòng và không sợ hãi gì ngoài tội, tôi sẽ đem cả thế giới về cho Chúa Kitô! Đó là những con người yêu thương, phục vụ đến chết mà không cần tính toán, không cần phân biệt, không sợ mất mát!” – John Wesley.

Kính thưa Anh Chị em,

Nếu đem ý tưởng của Wesley áp dụng vào lời Chúa Giêsu hôm nay, một câu hỏi bất ngờ có thể nảy sinh, “Như vậy, tình yêu bị điều khiển?”. “Không! Tình yêu không đơn thuần là một tình cảm; nhưng là một hành động của ý chí. Khi ý chí con người hành động trùng khớp với ý chí Chúa Kitô – ‘trùng khớp ý chí’ – nó có thể yêu như Ngài yêu mà không cần tính toán, không cần phân biệt, không sợ mất mát!” – Bênêđictô XVI.

Trong “Thiên Chúa Là Tình Yêu”, ngài viết, “Thiên Chúa không đòi hỏi chúng ta một cảm giác mà bản thân chúng ta không có khả năng tạo ra!”. Chúng ta không thể được lệnh “phải thích” ai đó, hoặc “phải lòng” ai đó; nhưng bạn và tôi có thể “chọn yêu” ngay cả kẻ thù của mình! Quan trọng hơn, một khi cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa dành cho mình, thì chính niềm vui “được yêu” đó sẽ cởi trói con tim chúng ta, khiến chúng ta muốn đáp lại tình yêu Ngài bằng cách yêu như Ngài yêu! “Nếu bạn tìm kiếm một mẫu gương của tình yêu: ‘Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình’ thì Chúa Kitô trên thập giá là một mẫu gương ngời sáng nhất. Và nếu Ngài đã hy sinh mạng sống vì chúng ta, thì sẽ không khó để chúng ta chịu đựng bất kỳ khó khăn nào phát sinh vì Ngài!” – Tôma Aquinô.

Tình yêu thương dẫn đến một sự ‘trùng khớp ý chí’ – “một cộng đồng ý chí và suy nghĩ”; nghĩa là tôi muốn biết bạn tôi đang nghĩ gì và mong muốn gì để tôi có thể chia sẻ những suy nghĩ đó và thậm chí, thoả mãn chúng! Tình yêu thương đó đã thể hiện trong Hội Thánh sơ khai. Các tông đồ đã đồng tâm nhất trí, “không đặt thêm một gánh nặng nào khác” cho những người trở lại; nói cách khác, họ không cần phải “cắt bì”, ngoài “mấy điều cần kíp” phải giữ – bài đọc một. Nhờ đó, các tín hữu reo mừng, “Lạy Thiên Chúa, trước mặt chư dân, con dâng lời cảm tạ!” – Thánh Vịnh đáp ca.

Anh Chị em,

“Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em!”. Chúa Kitô yêu thương từng người chúng ta trước bằng một tình yêu ‘không cần tính toán’; Ngài yêu mỗi người mà ‘không cần phân biệt’ chúng ta tốt hay xấu hoặc rồi sẽ xấu hơn; Ngài yêu chúng ta đến nỗi hiến trao cả thân mình mà ‘không sợ mất mát’ cho đến giọt máu cuối cùng. Xác tín được điều đó một cách sâu sắc, chúng ta mới có thể luôn mong ước cho mình có một ý chí trùng khớp với ý chí của Chúa Kitô, nên một với Ngài. Bấy giờ, con tim của chúng ta sẽ ‘cùng nhịp’ với con tim Ngài, thổn thức của Ngài sẽ là thổn thức của chúng ta. Và chính lúc đó, chúng ta mới có thể yêu như Ngài yêu, yêu cho đến cùng, cho đến dám chết cho người mình yêu.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, ước gì tim con trùng nhịp với tim Chúa, ý chí con trùng khớp với ý chí của Chúa. Và con không sợ hãi chi ngoài tội; nhờ đó, con đem thế giới về cho Chúa!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế) 

************************************************************

Thứ Sáu Tuần V Phục Sinh

Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.   Ga 15,12-17

12 Khi ấy, đến giờ lìa bỏ thế gian mà về với Chúa Cha, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : “Đây là điều răn của Thầy : anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. 13 Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình. 14 Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy. 15 Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết.

16 “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại, hầu tất cả những gì anh em xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy, thì Người ban cho anh em. 17 Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau.”


 

Thượng Viện Hoa Kỳ chuẩn bị trừng phạt Nga nếu không có tiến triển trong hòa đàm Nga – Ukraine

Theo các báo Hoa Kỳ

(Bloomberg) — Các đảng viên Cộng hòa tại Thượng viện cảnh báo Nga rằng họ chuẩn bị thông qua các lệnh trừng phạt nghiêm khắc nếu Tổng thống Vladimir Putin từ chối tham gia đàm phán ngừng bắn với Ukraine hoặc vi phạm thỏa thuận cuối cùng.

Ảnh: Lindsey Graham (Vitalii Nosach, RBC-Ukraine)© RBC-Ukraine

Theo các tác giả của dự luật, Thượng nghị sĩ Richard Blumenthal (Đảng Dân chủ) và Lindsey Graham (Đảng Cộng hòa), Thượng viện Hoa Kỳ sẵn sàng thông qua dự luật trừng phạt cứng rắn đối với Nga nếu Vladimir Putin không thể hiện mong muốn hòa bình trong vòng vài ngày.

Dự luật trừng phạt Nga vì cuộc xâm lược tàn bạo của nước này vào Ukraine đã nhận được 81 phiếu đồng bảo trợ tại Thượng viện Hoa Kỳ.

Các lệnh trừng phạt này sẽ được áp dụng nếu Nga từ chối đàm phán thiện chí về một nền hòa bình lâu dài với Ukraine hoặc tham gia vào các nỗ lực khác, bao gồm cả can thiệp quân sự, làm suy yếu chủ quyền của Ukraine sau khi hòa bình được ký kết. Luật này cũng thiết lập mức thuế 500% đối với hàng hóa nhập khẩu từ các quốc gia mua dầu, khí đốt, uranium và các sản phẩm khác của Nga.


 

Tin nóng: Thuyền Nhân tỵ nạn Việt được Đức Thánh Cha bổ nhiệm làm giám mục giáo phận San Diego

Thông Tấn Xã Công Giáo CNA

Đức Giáo hoàng Leo XIV hôm thứ năm đã bổ nhiệm Đức Giám mục Michael Pham làm giám mục của Giáo phận San Diego.

Cha Pham bắt đầu theo học tại chủng viện vào những năm 1990 tại Chủng viện St. Francis thuộc Đại học San Diego và hoàn thành chương trình đào tạo tại Chủng viện St. Patrick ở Menlo Park, nơi ông được trao bằng cử nhân thần học hệ thống và bằng thạc sĩ thần học.

Năm 2020, ông đã hoàn thành bằng cử nhân thần học tại Đại học St. Thomas Aquinas (Angelicum) ở Rome.

Đây là lần đầu tiên Giáo hoàng Leo XIV bổ nhiệm giám mục tại Hoa Kỳ kể từ khi được tấn phong làm giáo hoàng vào ngày 8 tháng 5 . 

Michael Phạm với Đức Giáo Hoàng Leo

Giám mục Phạm là người Mỹ gốc Á thứ ba và là giám mục người Mỹ gốc Việt đầu tiên lãnh đạo một giáo phận tại Hoa Kỳ.

Năm 1975, khi Phạm lên 8 tuổi, gia đình em đã lên một chiếc xà lan chở gạo rỗng để chạy trốn khỏi quân đội Bắc Việt đang tiến quân. Họ đã trải qua nhiều ngày trên biển, không có thức ăn cũng như nước uống. Ông đã bị say sóng khủng khiếp và nhìn thấy nhiều xác chết trên sàn xà lan khi ông rời khỏi hiện trường.

“Tôi nghĩ họ đang ngủ,” ông nói, “nhưng sau đó tôi nhận ra rằng họ đã chết.”

Giám mục mới đắc cử Phạm coi đó là “khoảnh khắc ân sủng” khi toàn bộ gia đình ông đều an toàn.

Ngày hôm sau khi họ cập bến, gia đình biết rằng Quân đội Bắc Việt đang trên bờ vực chiếm thành phố. Vì vậy, gần như ngay lập tức, họ đi xa hơn về phía nam. Họ sống ở một thị trấn nhỏ tên là Lam Sơn, nơi nghề nông và nghề đánh cá giúp họ có thể sống sót với một gia đình đông người. Vì cha ông có thể đánh cá, ông đã giúp gia đình rời khỏi Việt Nam.

 

Aerial Photography view west of St. Patrick's Seminary & University Menlo Park, San Francisco Bay Area. California, United States.

Năm 1980, cùng với chị gái và em trai, ông trốn sang Malaysia trên một chiếc thuyền nhỏ chở 119 hành khách.

Lênh đênh trên biển trong bốn đêm và ba ngày, ông kể rằng chiếc thuyền đã bị chính quyền Cộng sản truy đuổi, bị những con sóng lớn mà ông ví như trong phim “The Perfect Storm” đánh úp, và thậm chí còn bị cướp biển tấn công rồi lên tàu cưỡng đoạt. Một vụ va chạm với tàu cướp biển đã làm hỏng chiếc thuyền của những người tị nạn, mũi thuyền gần như bị tách làm đôi.

Thật kỳ diệu, các thuyền nhân đó đã được sống sót.

Anh, chị gái và em trai sống trong trại tị nạn ở Malaysia khoảng bảy tháng trước khi được một gia đình người Mỹ bảo trợ và chuyển đến Blue Earth, Minn., vào năm 1981. Vài tháng sau, một người chị gái khác cũng đến đó. Năm 1983, bốn anh chị em còn lại và cha mẹ anh đã đến.

Gia đình chuyển đến San Diego vào năm 1985 vì thấy thời tiết ấm áp hơn khi đến thăm họ hàng ở đó. Ông tốt nghiệp trường trung học San Diego và Đại học bang San Diego, nơi ông lấy bằng cử nhân Kỹ thuật. Ông bắt đầu học thạc sĩ Kỹ thuật, nhưng không hoàn thành vì Ngài quyết định theo ơn gọi để vào chủng viện.

Khi đang học năm thứ ba đại học, anh đã học một lớp triết học truyền cảm hứng cho anh suy nghĩ sâu sắc hơn về mục đích của cuộc sống và điều gì là quan trọng nhất. Sau khi tốt nghiệp và bắt đầu sự nghiệp với tư cách là một kỹ sư hàng không vũ trụ, anh cảm thấy “một sự trống rỗng nào đó”, giống như “một cái gì đó còn thiếu” trong cuộc sống của mình. Nhưng anh đã trải nghiệm niềm vui và sự bình an khi làm giáo lý viên tình nguyện tại giáo xứ của mình, Nhà thờ Good Shepherd ở Mira Mesa.

Mặc dù bắt đầu cảm thấy được kêu gọi làm linh mục, anh đã trì hoãn việc vào chủng viện vì cha mẹ anh ban đầu không ủng hộ ý tưởng này. Tuy nhiên, cuối cùng, anh biết rằng anh phải khám phá ơn gọi của mình hoặc anh sẽ hối hận.

Theo học tại Chủng viện St. Francis trực thuộc Viện Đại học San Diego. Ông hoàn tất văn bằng cử nhân thần học hệ thống và bằng thạc sĩ thần học.

 

Ngài được thụ phong linh mục tại Giáo phận San Diego vào ngày 25 tháng 6 năm 1999 và giáo xứ đầu tiên của ngài là phó xứ của Giáo xứ St. Mary Star of the Sea.

Ông đã từng là giám đốc ơn gọi giáo phận và là cha xứ của các giáo xứ Holy Family, St. Therese và Good Shepherd. Năm 2009, ông đã hoàn thành bằng thạc sĩ khoa học về tâm lý học. Năm 2020, ông đã hoàn thành bằng cử nhân thần học thánh.

Vào ngày 6 tháng 6 năm 2023, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã bổ nhiệm Cha Phạm làm phụ tá San Diego. Cha Felipe Pulido, lúc đó là cha sở phụ trách giáo sĩ và giám đốc ơn gọi của Giáo phận Yakima, Washington, đã được bổ nhiệm làm phụ tá cho San Diego cùng ngày. Lễ tấn phong linh mục của họ được tổ chức tại Nhà thờ St. Therese of Carmel vào ngày 28 tháng 9 năm 2023, họ được gia nhập hàng Giám mục phụ tá San Diego cùng với đức cha Ramón Bejarano, dưới quyền cai quản chung của Hồng y McElroy, khi đó là giám mục của San Diego. 

Giáo phận San Diego bao gồm các quận San Diego và Imperial ở Nam California và có diện tích khoảng 8.900 dặm vuông. Giáo phận có 96 giáo xứ và 13 cơ sở truyền giáo. Trong tổng số dân số hơn 3,4 triệu người, có gần 1,4 triệu người Công giáo.

A Brief History of The Diocese of San Diego - The Roman Catholic ...

A Brief History of The Diocese of San Diego - The Roman Catholic ...

Giám mục Phạm cũng đã có kinh nghiệm phục vụ trong hội đồng cố vấn, hội đồng tài chính giáo phận, hội đồng linh mục và hội đồng phó tế, cùng với các hội đồng khác. Ngài đã từng là đại diện của giáo phận cho các cộng đồng dân tộc và liên văn hóa, và là tổng đại diện.

Trong một cuộc bổ nhiệm khác vào thứ năm, Đức Leo đã bổ nhiệm một nữ tu làm người đứng thứ 2 trong bộ các dòng tu của Vatican.


Đây có thể là một chỉ dấu cho thấy ngài có kế hoạch tiếp tục nỗ lực của Đức Phanxicô nhằm
đưa nhiều phụ nữ hơn vào các vị trí đưa ra các quyết định tại Vatican.

Sơ Tiziana Merletti, cựu giám đốc Dòng Nữ tu Phanxicô phục vụ người nghèo, là luật sư giáo luật và hiện báo cáo với Sơ Simona Brambilla , người được Đức Phanxicô bổ nhiệm làm người phụ nữ đầu tiên đứng đầu một văn phòng quan trọng của Tòa thánh vào tháng 1.