Elon Musk chỉ trích mạnh mẽ dự luật chi tiêu của ông Trump: “Một quả bom nợ đang chờ nổ”

Ba’o Dat Viet

May 29, 2025

Tỉ phú Elon Musk vừa lên tiếng phản đối gay gắt dự luật chi tiêu mới được Hạ viện Mỹ thông qua theo đề xuất của Tổng thống Donald Trump, cho rằng đây là một bước đi sai lầm nghiêm trọng có thể đẩy nước Mỹ lún sâu vào khủng hoảng tài chính trong tương lai.

Phát biểu trên đài CBS hôm 27 Tháng Năm, Musk thẳng thắn bày tỏ thất vọng: “Thành thật mà nói, tôi rất thất vọng khi thấy dự luật chi tiêu khổng lồ này. Nó không chỉ làm tăng thâm hụt ngân sách mà còn làm suy yếu những nỗ lực cải cách bộ máy chính phủ mà Ban Hiệu quả chính phủ (DOGE) đang cố gắng thực hiện.”

Không chỉ nhắm vào quy mô khổng lồ của dự luật, Musk còn mỉa mai cách đặt tên dự luật – “One Big Beautiful Bill” (Một dự luật lớn và đẹp đẽ): “Tôi nghĩ một dự luật có thể lớn, hoặc có thể đẹp, nhưng không biết liệu nó có thể là cả hai hay không.”

Tỉ phú công nghệ cũng lên tiếng bênh vực DOGE – đơn vị cải tổ hành chính thuộc Nhà Trắng – khi cho rằng cơ quan này đang trở thành “vật tế thần” cho những thất bại vĩ mô. “DOGE chỉ đang trở thành kẻ chịu đòn cho mọi thứ. Một điều gì đó tồi tệ xảy ra ở bất cứ đâu, và chúng tôi bị đổ lỗi dù không liên quan gì.”

Dự luật mà ông Trump đề xuất, theo đánh giá của Văn phòng Ngân sách Quốc hội (CBO), sẽ khiến Mỹ gánh thêm khoảng 3.800 tỷ USD nợ trong những năm tới. Dự luật này bao gồm cắt giảm thuế, tăng chi tiêu quốc phòng, cải tổ chương trình y tế và giảm ngân sách năng lượng sạch – một gói chính sách được coi là tham vọng nhất trong nhiệm kỳ hai của ông Trump.

Tổng thống Trump ca ngợi dự luật là “một trong những văn kiện quan trọng nhất trong lịch sử nước Mỹ,” đồng thời nhấn mạnh rằng nó sẽ thúc đẩy tăng trưởng GDP lên mức 5,2%, đem lại lợi ích cho tầng lớp trung lưu và doanh nghiệp nhỏ.

Tuy nhiên, làn sóng chỉ trích đang lan rộng trong chính nội bộ đảng Cộng Hòa. Dân biểu Thomas Massie cảnh báo đây là “một quả bom nợ đang tích tắc,” còn Thượng nghị sĩ Ron Johnson thì kêu gọi viết lại dự luật để đưa chi tiêu liên bang trở về mức trước đại dịch, kèm theo điều chỉnh theo lạm phát và tăng dân số.

Trong khi đó, lãnh đạo Thượng viện John Thune cho biết phe đa số Cộng Hòa sẽ thúc đẩy việc cắt giảm thâm hụt mạnh mẽ hơn khi dự luật được chuyển lên Thượng viện trong thời gian tới.

Sự can dự của Elon Musk vào tranh luận lần này cho thấy mức độ quan ngại ngày càng tăng trong giới doanh nhân và công nghệ đối với những chính sách kinh tế thiếu kiểm soát chi tiêu. Trong bối cảnh nợ quốc gia của Mỹ đã vượt mốc 34.000 tỷ USD, bất kỳ gói chi tiêu nào thiếu tính toán đều có thể tạo ra hiệu ứng dây chuyền nghiêm trọng – không chỉ trong nước, mà cả trên thị trường tài chính toàn cầu.


 

Những Tỷ Phú Cam Kết Từ Thiện Hết Tất Cả Tài Sản Của Mình Cho Cộng Đồng

Nghĩ Giàu – Làm Giàu 

  1. Chuck Feeney – Người tỷ phú “vô hình”

Người sáng lập chuỗi cửa hàng miễn thuế Duty Free Shoppers, từng sở hữu khối tài sản hơn 8 tỷ USD. Ông âm thầm quyên góp toàn bộ tài sản của mình vào giáo dục, y tế và nhân quyền – đến mức khi qua đời năm 2023, ông chỉ còn vài triệu để sống giản dị trong căn hộ thuê nhỏ. Câu nói nổi tiếng của ông: “Tôi muốn tặng hết tiền khi còn sống – để được thấy tác động của nó.”

  1. Bill Gates – Tỷ phú đi đầu trong làn sóng từ thiện hiện đại

Ông cùng vợ cũ Melinda thành lập Quỹ Bill & Melinda Gates, chi hơn 100 tỷ USD cho các chương trình chống đói nghèo, bệnh tật và giáo dục. Gates cũng là người khởi xướng phong trào The Giving Pledge, kêu gọi giới siêu giàu cam kết cho đi ít nhất 50% tài sản. Riêng ông – tuyên bố sẽ cho đi 99% tài sản trong đời.

  1. Warren Buffett – “Huyền thoại phố Wall” nhưng sống như người bình thường

Buffett cam kết hiến tặng hơn 99% tài sản của mình – khoảng 150 tỷ USD – cho hoạt động từ thiện, phần lớn thông qua quỹ của Bill Gates. Dù là tỷ phú hàng đầu, ông vẫn sống trong căn nhà mua từ năm 1958, ăn sáng ở McDonald’s và đi làm bằng xe hơi cũ.

  1. MacKenzie Scott – Người phụ nữ thay đổi bộ mặt từ thiện toàn cầu

Vợ cũ của Jeff Bezos không chỉ nhận được khoản ly hôn trị giá 38 tỷ USD, mà còn lập tức cam kết cho đi gần hết số tiền ấy. Chỉ trong vòng vài năm, bà đã quyên góp hơn 19 tỷ USD cho hàng nghìn tổ chức nhỏ lẻ, hỗ trợ phụ nữ, giáo dục, cộng đồng thiểu số – với nguyên tắc: “Trao quyền mà không đòi hỏi sự công nhận.”

  1. Ông trùm mạng xã hội Mark Zuckerberg

Khi con gái đầu lòng tên Max ra đời vào năm 2015, Mark Zuckerberg cùng vợ là Priscilla Chan đã gây chú ý khi tuyên bố không để lại khối tài sản khổng lồ cho cô bé. Thay vì lập kế hoạch thừa kế hàng tỷ USD, hai vợ chồng quyết định thành lập tổ chức từ thiện mang tên Chan Zuckerberg Initiative – một dự án đầy tham vọng nhằm giải quyết các vấn đề toàn cầu như khoa học, giáo dục, năng lượng sạch và kết nối cộng đồng.

“Chúng tôi cam kết dành 99% số cổ phiếu Facebook mà mình sở hữu trong suốt cuộc đời để phục vụ cho sứ mệnh này. Dù biết rằng đóng góp của chúng tôi chỉ là một phần rất nhỏ trong bức tranh lớn, nhưng chúng tôi vẫn muốn dùng những gì mình có để góp phần thay đổi thế giới, cùng với hàng triệu con người đang nỗ lực mỗi ngày,” vợ chồng nhà sáng lập Meta bày tỏ.

#nghigiaulamgiau #typhu #tuthien


 

Đôi mắt của chị là 2 dòng lệ tuôn trào…Truyện ngắn HAY

Những Câu Chuyện Thú Vị – My Lan Pham 

Ở Mỹ, có một người phụ nữ bị gặp tai nạn giao thông. Khi đưa vào bênh viện cấp cứu thì phát hiện người phụ nữ đã trở thành người thực vật nhưng bên cạnh đó bác sị phát hiện cô ấy cũng đã mang thai được 3 tháng. Các bác sĩ đã truyền thức ăn nuôi sống đứa trẻ trong khi mẹ của bé vẫn hôn mê. Sau nửa năm thì cũng đến ngày đứa bé chào đời. Nhưng khó khăn lớn nhất ở đây là nếu các bác sĩ mổ để lấy đứa bé ra mà người mẹ tắt thở nửa chừng thì đứa bé cũng sẽ chết. Họ họp với nhau rất nhiều lần nhưng ko thể tìm ra cách tốt hơn. Cuối cùng họ quyết định vẫn mổ bắt bé ra. Trước khi mổ, vị bác sĩ kề vào tai người mẹ thì thầm : ” Hôm nay là ngày chúng tôi mổ để lấy đứa con của chị ra . Chị hãy ráng giữ hơi thở để con chị có thể chào đời.” và rồi họ tiến hành.

Quá trình mổ tiến hành thuận lợi, người mẹ vẫn duy trì hơi thở và may mắn khi đứa bé đã được cất tiếng khóc chào đời nhưng đó cũng là lúc người mẹ trút hơi thở cuối cùng ra đi mãi mãi. Các bác sĩ nhìn chị ngậm ngùi. Họ biết rằng chị đã cố gắng hơi thở cuối cùng vì đứa con bé bỏng của mình và đôi mắt của chị là 2 dòng lệ tuôn trào….

Đó là dòng lệ của sự vui mừng vì con mình chào đời nhưng cũng là dòng lệ đau buồn khi biết rằng mình phải vĩnh viễn ra đi, không một lần có thể ẵm con trong vòng tay, không thể chăm sóc nhìn con lớn khôn nữa…

Sưu tầm

My Lan Phạm


 

Anh em sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui. (Ga 16:20) – Cha Vương

Zui zẻ, bình an và hạnh phúc trong Chúa nhé.

Cha Vương

Thứ 5, 6PS: 29/5/2025

TIN MỪNG: Thật, Thầy bảo thật anh em: anh em sẽ khóc lóc và than van, còn thế gian sẽ vui mừng. Anh em sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui. (Ga 16:20)

SUY NIỆM: Thật khó khăn khi phải nói lời từ biệt. Từ người nói đến người nghe không tránh khỏi cảm giác ngậm ngùi. Để chuẩn bị cho sự ra đi của Chúa, Ngài nói với các môn đệ của Người rằng họ sẽ khóc lóc và than van, nhưng nỗi buồn của họ sẽ biến thành niềm vui. Trong cuộc sống bạn không thể nào tránh khỏi những đau khổ và buồn phiền. Nếu cuộc đời cho bạn một quả chanh, vậy bạn phải làm gì để biến nó thành ly nước chanh tuyệt hảo? Bạn hãy nhớ rằng Chúa Giê-su đã đến để mang những đau khổ của nhân loại vào trong thân thể Ngài và chỉ cho bạn cách vượt qua đau khổ bằng tình yêu và tín thác, bằng hy vọng và trung kiên. Nói cách khác, khi chết đi, Ngài mang lấy cái chết vốn là thuộc tính của thế gian vào trong thân thể Người, để khi sống lại, Ngài trả lại cho con người sự sống mới. Những đau khổ và cái chết thảm thương không phải là câu trả lời cuối cùng cho niềm tin Ki-tô Giáo nhưng là cánh cửa dẫn đưa ta đến sự sống vĩnh cửu. Đây là niềm vui của Tin Mừng cứu độ!— “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian. Phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa”. Ước gì, Đường Đau Khổ của Chúa Giê-su mở ra cho bạn con đường hy vọng để bạn tiến lên trên con đường nhân đức trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời. 

LẮNG NGHE: Chính Người đã khước từ niềm vui dành cho mình, mà cam chịu khổ hình thập giá, chẳng nề chi ô nhục, và nay đang ngự bên hữu ngai Thiên Chúa. (Dt 12:2b)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa Giêsu Phục sinh, với hết lòng tín thác vào tình yêu bao la của Chúa xin biến đổi những nỗi buồn của con trở thành niềm vui hôm nay. 

THỰC HÀNH: Nỗi buồn sầu của bạn trong lúc này là gì? Đọc 10 Kinh Kính Mừng và đặt hết lòng tin tưởng vào sự cầu bầu của Mẹ Maria. 

From: Do Dzung

***************************

ĐƯỜNG THẬP GIÁ…Ns Giang Ân

Tại sao bà lại nhận công việc khó khăn và thấp hèn này?-Truyện ngắn HAY

Chuyện tuổi Xế Chiều – 

Năm 1919. Nội chiến ở Liên Xô.

 Gần điền trang cũ của một gia đình Bá tước, có một trung đoàn Hồng quân dừng nghỉ đêm.

 Đêm khuya, nghe tiếng gõ cửa, nữ bá tước mở cửa và thấy một cô y tá đang đứng ở ngưỡng cửa.

– Chào bà, cô y tá nói, “Tôi vô tình nhìn thấy họ lập “Danh sách kẻ thù của nhân dân”.  Bà sẽ bị bắt vào đêm nay.  Nếu bà không chạy thoát thì bà sẽ bị bắn. “

– Tôi có thể chạy đi đâu được?  Tôi có hai con nhỏ, một đứa đang bị bệnh nặng.  Họ sẽ chặn bắt tôi ở ngay ngã tư đầu tiên.

– Tôi biết cần phải làm gì. Khi họ tới, tôi sẽ xưng bằng tên của bà. Như vậy họ sẽ bắn tôi và không tìm kiếm bà nữa.

– Sao cô lại làm điều này?!

– Tôi bị bệnh rất nặng khi còn nhỏ.  Và tôi đã thề với Chúa rằng nếu Chúa ban cho tôi sức khỏe thì tôi sẽ dâng mình cho Chúa.  Năm mười tám tuổi, tôi trở vào tu viện. Khi cách mạng đến, tu viện bị đóng cửa, các nữ tu sĩ bị giải tán. Tôi trở thành y tá cho những người Bolshevik.  Tuy nhiên, tôi cảm thấy rằng tôi chưa hoàn thành lời thề của mình…

– Xin bà hãy chấp nhận lời đề nghị của tôi.  Bà có con cái, bà cần cuộc sống trần thế hơn tôi. Đối với tôi, sự sống là Đấng Christ, và cái chết là có ích.

Nghe cô gái nói vậy, nữ bá tước bật khóc.

  Một năm đã trôi qua.  Người nữ y tá bị xử bắn, và nữ bá tước trốn thoát sang Pháp cùng các con. 

 Người phụ nữ có học thức và xinh đẹp xuất thân từ một gia đình quý tộc này đã nhận làm một công việc như một y tá tại một bệnh viện tỉnh lẻ. Dù nhận được những lời mời hấp dẫn cho những việc làm phù hợp, lương cao, nhưng bà đã từ chối tất cả.

Một nữ nhà báo Pháp đã phỏng vấn nữ bá tước Nga. Những lời nói của bà đã khiến người phụ nữ Pháp này vô cùng sốc.  “Tại sao bà lại nhận công việc khó khăn và thấp hèn này?”  nhà báo hỏi.

– Có một người con gái đã hy sinh cả cuộc đời của mình cho tôi và các con tôi.  Tôi biết rằng cô gái hiện ở với Chúa trên thiên đường, và đang nhìn tôi.  Tôi muốn cô ấy biết rằng cô đã không đổ máu cho cho hạnh phúc ích kỷ của tôi. Tôi cảm thấy rằng bằng cách nào đó tôi phải đáp lại hành động của cô gái đó, vì vậy tôi quyết định tiếp tục cuộc sống của cô.

Svi Doan st.& dịch


 

KHÔNG AI LẤY MẤT – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Niềm vui của anh em, không ai lấy mất được!”.

Trong “Cuộc Nổi Loạn Thánh”, “A Holy Rebellion”, Thomas Ice & Robert Dean đặt vấn đề, “Khi nào chúng ta hành động như Satan?”. Câu trả lời đơn giản là “Khi bạn và tôi đặt lợi ích bản thân trên lợi ích của Chúa Kitô; và khi chúng ta coi khổ đau và thử thách như một bế tắc, thất bại, thay vì coi đó như khúc dạo đầu cho một niềm vui không ai lấy mất!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Quan điểm của Thomas Ice & Robert Dean được gặp lại trong Lời Chúa hôm nay. Thông điệp Chúa Phục Sinh ngỏ với Phaolô, “Thầy ở với anh!” cũng là thông điệp Ngài gửi cho các môn đệ mọi thời; rằng, khổ đau, bắt bớ, chỉ là khúc dạo đầu cho một niềm vui ‘không ai lấy mất’.

Khi thúc giục Phaolô “Đừng sợ! Cứ nói đi, đừng làm thinh!”, Chúa Giêsu muốn xác nhận những gì rồi đây Phaolô sẽ chịu là có thật; việc người ta sẽ tìm cách bịt miệng Phaolô là có thật; việc chống lại lời Phaolô là có thật. Bởi thế, lý do Ngài bảo Phaolô “Đừng sợ!” là “Vì Thầy ở với anh; không ai tra tay hại anh được!”. Qua đó, Ngài cho biết cấm cách, tù đày Phaolô và các môn đệ Giêsu mọi thời sẽ chịu là những gì phải đến trước để chuẩn bị cho một niềm vui có tên ‘Nên Giống Thầy’. Và còn hơn thế, nó còn là niềm vui ‘không ai lấy mất’ khi Thiên Chúa được vinh quang; dân thành này rồi sẽ tuyên xưng cùng dân các thành khác; rằng, “Thiên Chúa là Vua toàn cõi địa cầu!” – Thánh Vịnh đáp ca.

Với bài Tin Mừng, khẳng định của Chúa Giêsu về những gì sẽ đến càng rõ nét hơn, “Anh em sẽ khóc lóc và than van”; nhưng Ngài kịp hứa – cũng một điệp khúc – “Thầy sẽ gặp lại anh em!”. Nghĩa là, “Thầy sẽ ở cùng anh em, ở với anh em, ở trong anh em!”. Và không thể tin được! Ngài dùng một hình ảnh sống động, thú vị, tưởng chừng như Ngài từng trải nghiệm, “Người phụ nữ sinh con rồi, thì không còn nhớ đến cơn gian nan nữa, bởi được chan chứa niềm vui vì một con người đã sinh ra trong thế gian”. Ngài bảo đảm sự hiện diện thường xuyên của Ngài sẽ giúp chúng ta vượt qua bất cứ nghịch cảnh nào vốn cũng chỉ là khúc dạo đầu cho một niềm vui ‘không ai lấy mất’, niềm vui có Ngài kề bên!

 Anh Chị em,

“Thầy ở với anh!” – như một tước hiệu mới – cũng là điều Thiên Chúa thường hứa với những ai Ngài gọi. Khi sai Môsê đi giải phóng dân, ông hỏi một đàng, Chúa trả lời một nẻo, “Con là ai mà dám ra trước Pharaô?” – “Ta sẽ ở cùng ngươi!” – một tên mới của Môsê! Trong biến cố Truyền Tin, “Mừng vui lên, Đấng đầy ân sủng, Chúa ở cùng bà!”. Mỗi Thánh Lễ, chúng ta chào nhau, “Chúa ở cùng anh chị em!”, “Và ở cùng cha!”. “Chúa ở cùng chúng ta” quả là một sự thật đáng vui mừng. Vì thế, bao khốn khổ, đớn đau Chúa Giêsu chịu, kể cả cái chết trên thập giá… tất cả chỉ là để chuẩn bị cho một niềm vui lớn hơn, “Niềm Vui Phục Sinh”. Và còn hơn thế, “Niềm Vui Phúc Kiến” bên Cha đời đời, vốn đã xuất hiện ở cuối chân trời mà chúng ta đang hướng về – Chúa Nhật Chúa Thăng Thiên!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, Chúa đang cầm trên tay triều thiên long lanh của con; vì thế, mọi ‘thánh giá mềm cứng’ đời con chỉ là khúc dạo đầu cho một niềm vui không bao giờ mất!”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

*************************************

Thứ Sáu Tuần VI Phục Sinh

Niềm vui của anh em, không ai lấy mất được.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.   Ga 16,20-23a

20 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : “Thật, Thầy bảo thật anh em : anh em sẽ khóc lóc và than van, còn thế gian sẽ vui mừng. Anh em sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui. 21 Khi sinh con, người đàn bà lo buồn vì đến giờ của mình ; nhưng sinh con rồi, thì không còn nhớ đến cơn gian nan nữa, bởi được chan chứa niềm vui vì một con người đã sinh ra trong thế gian. 22 Anh em cũng vậy, bây giờ anh em lo buồn, nhưng Thầy sẽ gặp lại anh em, lòng anh em sẽ vui mừng ; và niềm vui của anh em, không ai lấy mất được. 23a Ngày ấy, anh em không còn phải hỏi Thầy gì nữa.”


 

50 Năm – Còn Đó Nỗi Buồn – Phạm Tín An Ninh     

Phạm Tín An Ninh                   

    

     Ngày 24.2.2025 tại Đại Hội Đồng LHQ, Hoa Kỳ đã quay lưng trước đồng minh NATO cùng hầu hết các quốc gia thuộc thế giới tự do, chính thức đứng về phía Nga, Iran, Bắc Hàn, và những nước thân CS, bỏ phiếu chống lại nghị quyêt lên án Nga gây chiến tranh xâm lược Ukraine, nhân dịp thế giới kỷ niệm 3 năm ngày Vladimir Putin xua quân vào lãnh thổ Ukraine. Sau đó, cả thế giới lại bàng hoàng, khi vị Tổng thống thứ 47 của Hoa Kỳ đã tỏ ra thân thiện với kẻ thù Nga, ca ngợi, bênh vực tên đồ tể Putin trong khi hết lời mạt sát, nhục mạ TT Zelensky, người đồng cấp, từng là đồng minh thân tín của Hoa Kỳ. Đã vậy, Tổng thống Mỹ còn đòi phải được khai thác khoảng sản, đất quý, tài sản quốc gia của Ukraine để trừ vào số tiền viện trợ trước đây. Có lẽ đây là nguyên nhân tiềm ẩn đưa đến cuộc tranh luận gay gắt, trở thành trận cải vã nặng nề ngay tại Tòa Bạch Ốc, giữa TT Zelensky của Ukraine và TT D.Trump cùng PTT J.D Vance của Hoa Kỳ vào ngày 28.2.2025, trước sự chứng kiến của các cơ quan truyền thông hiện diện cùng cả thế giới qua màn ảnh truyền hình. Sau khi “mời” TT Zelensky cùng phái đoàn tùy tùng ra khỏi Phòng Bầu Dục, TT Trump cũng đã quyết định ngưng tức khắc mọi viện trợ quân sự cũng như cung cấp tin tức tình báo, nhằm áp lực Ukraine phải nhanh chóng ngồi vào bàn hội nghị theo sự sắp xếp của Hoa Kỳ. Đến hôm nay, kết quả hội đàm tuy chưa chính thức ngã ngũ, nhưng ai cũng đã nhìn thấy trước số phận của Ukraine!

Sự kiện này xảy ra đúng vào thời điểm người Việt chuẩn bị tưởng niệm 50 năm, ngày kết thúc cuộc chiến Việt Nam. Chính xác hơn là ngày Miền Nam Việt Nam hay nước VNCH bị CS Bắc Việt cưỡng chiếm, cũng với sự phản bội tương tự của đồng minh Hoa Kỳ, khi Mỹ và Bắc Việt đã cùng bắt tay thỏa thuận ký kết hiệp định mạo danh Hòa Bình vào ngày 27.1.1973 tại Paris, quyết định số phận của VNCH, quốc gia chính trong cuộc chiến nhưng bị áp lực để (gần như) phải đứng bên lề. Trong các cuộc hội đàm, phái đoàn VNCH bị xếp ngồi ngang hàng với (cái gọi là) Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam, trong khi ai cũng biết đó chỉ là đám tay sai, con rối do CSBV nặn ra.

Vẫn biết rằng, quyết định của nước lớn đối với đồng minh luôn tùy thuộc vào quyền lợi của chính đất nước họ, tuy nhiên điều đau lòng là cung cách hành xử khi quay lưng, phản bội lại những người từng một thời nhận là bạn, cùng sống chết bên nhau. Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu, ngày 29.4.1975, tại Đài Loan, ngay sau đêm đầu tiên bị áp lực phải rời khỏi nước, khi trả lời cho một đại diện của chính phủ Mỹ, cũng đã lên tiếng trong ngậm ngùi, cay đắng “Làm kẻ thù của Mỹ thì rất dễ, nhưng làm bạn rất khó”

Ukraine và VNCH bị đồng minh Hoa Kỳ bỏ rơi khi cuộc chiến đấu của hai quốc gia này có cùng một đích: tự vệ, chống lại quân xâm lược. Chỉ khác là trong cùng tình huống này, Ukraine có nhiều may mắn hơn VNCH. Bởi cuộc chiến Việt Nam kéo dài quá lâu, có hơn 58.000 quân nhân Mỹ tử trận, một số khác bị bắt làm tù binh, đẩy phong trào phản chiến tại Hoa Kỳ ngày một dâng cao, đỉnh điểm vào tháng 5/ 1970, đã có đến 4 triệu sinh viên thanh niên liên tục xuống đường, gây bạo động, một số đã bị cảnh sát bắn chết. Thời điểm này đại đa số dân chúng Mỹ, qua lưỡng viện quốc Hội, không còn ủng hộ cuộc chiến Việt Nam. Cũng phải thẳng thắn để thừa nhận, trên thực tế quân dân VNCH đã không chiến đấu hết lòng và dũng cảm bằng Ukraine, và các cấp lãnh đạo, đặc biệt vị tổng thống của họ rất xứng đáng. Ngoài ra, Ukraine vẫn còn được đa số dân chúng Mỹ ủng hộ, quan trọng hơn, được Tổ Chức Hiệp Ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) và gần như toàn bộ Âu Châu luôn hết lòng, sát cánh. Trong khi ở vào thời điểm (trước và sau) Hiệp định Paris ký kết, VNCH gần như cô thân độc mã. Cùng lúc bị Mỹ bỏ rơi, các đồng minh khác như Úc, Nam Hàn, Thái Lan, kể cả Phi Luật Tân cũng đều theo Mỹ, quay lưng!

***

Vào thời gian này, đơn vị chúng tôi đang hành quân tảo thanh tại khu vực Kontum – Tây Nguyên, sau khi vừa liên tục tạo các chiến thắng lẫy lừng, đánh tan các lực lượng hùng hậu thuộc Mặt Trận B-3 của tướng CS Hoàng Minh Thảo. Với khẩu hiệu “sinh Bắc tử Nam”, CSBV chuyên áp dụng chiến thuật biển người, đẩy đám bộ đội, đa phần là thanh niên, sinh viên miền Bắc bị cưỡng bách nhập ngũ, như những con thiêu thân lao theo sau các trận địa pháo, để bằng mọi giá phải chiếm được căn cứ Charlie của Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù,  mở cánh cửa ngõ xua chiến xa T-54 với hỏa tiễn tầm nhiệt của Liên Xô, tràn ngập BTL Tiền Phương SĐ22BB tại Tân Cảnh, chiếm cứ một vùng Bắc Kontum. Sau đó, một lực lượng Cộng quân hùng hậu hơn, gồm Sư Đoàn 320, Sư Đoàn 2 (sau này tăng cường thêm Sư Đoàn 968 từ Lào sang), cùng 4 trung đoàn biệt lập 66, 95, 20, 24, Trung đoàn Đặc công 400, 2 trung đoàn Pháo,  6 tiểu đoàn Phòng không và 1 tiểu đoàn Tăng T-54… tràn xuống phía Nam nhằm thôn tính thành phố Kontum, trong ý đồ tiến chiếm Pleiku, nơi có bản doanh của BTL/QĐII/VNCH hầu dùng làm bàn đạp tràn xuống đồng bằng, duyên hải, nhưng chúng đã bị thảm bại trước một lực lượng VNCH, với chỉ duy nhất mỗi Sư Đoàn 23 BB cùng 3 tiểu đoàn Pháo Binh và 1 chi đoàn chiến xa M-41 cơ hữu, đặc biệt được Không quân (giai đoạn đầu có B-52 của Hoa Kỳ) yễm trợ. Điều này đủ để chúng tỏ khả năng chiến đấu của Quân Lực VNCH.

Ngay trong trận chiến đầu tiên tại tuyến Tây Bắc Kontum, vào sáng ngày 14.5.1972. cả hai Trung đoàn 28 và 64 của Sư Đoàn (Thép) 320 CS cùng 1 tiểu đoàn xe tăng bị tiêu diệt, làm cho cả sư đoàn có tiếng, kỳ cựu này bị kiệt quệ, không còn khả năng chiến đấu. Sau đó chỉ đúng 10 ngày, sáng sớm ngày 24.5.72. trong trận tấn công cùng lúc vào Tòa Giám Mục,  Bệnh Viện 2 Dã Chiến và vòng đai phi trường Kontum,  cả Trung đoàn 52 thuộc Sư Đoàn 2 (Quảng Đà) mới tăng cường từ vùng Quảng Nam vào, bị đánh tan, đã phải giải thể. Một số lớn cán binh của Trung đoàn 141 thuộc sư đoàn này bị bắt và ra hồi chánh. (Những thất bại này CSBV đã phải công nhận qua chính các hồi ký, quân sử của họ)

Chiến thắng Kontum vào Mùa Hè 1972 của đơn vị chúng tôi ở Quân Đoàn II, cùng lúc với Bình Long ở Quân Đoàn III và QuảngTrị ở Quân Đoàn I đã bẻ gãy ý đồ thôn tính VNCH của CSBV, khi lợi dụng việc Hoa Kỳ vừa rút hết quân về nước, đồng thời cắt giảm tối đa quân viện cho VNCH, sau chiêu bài “Việt Nam Hóa Chiến Tranh”.

Nhưng rồi Hiệp Định Paris ngày 27.1.1973 như một trận gió chướng tàn độc, cuốn trôi hầu hết những chiến công mà chúng tôi đã phải trả bằng biết bao máu xướng để đạt được, cùng lúc làm tiêu hao hào khí mà quân sĩ đơn vị chúng tôi vừa dâng cao trong men say chiến thắng. Hiệp định Paris mà Hoa Kỳ và Bắc Việt đã thỏa hiệp, ký kết trên nỗi đau thương, phẫn uất cùng thân xác của những người lính khốn khổ chúng tôi, chính là huyệt mộ do chính Hoa Kỳ đào lên nhằm chôn sống quân lực và cả quốc gia đồng minh VNCH sau đó.

Ủy Ban Nobel Hòa Bình NaUy năm 1973 đã phải vô cùng xấu hổ và ân hận khi có một quyết định vội vã, sai lầm, trao giải cho Henry Kissinger và Lê Đức Thọ. Bị cả thế giới và nhiều dân biểu NaUy phản đối, một số thành viên bất mãn rút tên ra khỏi Ủy Ban. Sau đó chính Lê Đức Thọ đã phải từ chối nhận giải, vì hơn ai hết, chính cá nhân ông ta và cả Bộ chính trị Đảng CS đều biết trước là sẽ không hề có hòa bình, bởi họ đã mưu đồ từ trước, không hề tôn trọng hiệp định mà chỉ lợi dụng những kẻ hở có toan tính, để đẩy mạnh cuộc chiến nhằm sớm cưỡng chiếm Nam Việt Nam.

Hiệp định mang tên Hòa Bình, nhưng kỳ thực chỉ là hình thức ngưng bắn kiểu “da beo”, để các lực lượng CSBV không phải rút về Bắc mà được tiếp tục hiện diện hợp pháp tại các phần đất mà chúng vừa lấn chiếm, cùng lúc Hoa Kỷ cắt hết viện trợ quân sự cho VNCH để đổi lấy tù binh, trong khi CSBV vẫn được Trung Cộng, Liên Xô cùng khối CS gia tăng tối đa viện trợ. Lợi dụng tình hình này, CSBV đã ào ạt chuyển đại quân, chiến xa, vũ khí, đạn dược, nhiên liệu vào chiến trường miền Nam theo đường mòn Hồ Chí Minh, và một số từ Lào sang để gia tăng cường độ các cuộc tấn công, trong khi chúng tôi phải chiến đấu trong những điều kiện vô cùng khó khăn, thiếu thốn, từ quân số, vũ khí, đạn dược, nhiên liệu, đến mọi phương tiện khác.

Hồi tưởng thời gian này, tôi bỗng thấy đồng cảm và thấm thía với tâm trạng của người lính trẻ Paul Bäumer, nhân vật chính trong “All Quiet On The Western Front” (Mặt Trận Miền Tây Vẫn Yên Tĩnh), tác phẩm viết về chiến tranh nổi tiếng của nhà văn Đức, Erich Maria Remarque, mặc dù tình huống tương tự đã xảy ra từ thời Đê Nhất Thế Chiến, hơn 55 năm trước:

“Ngày tháng trôi qua. Mùa hè 1918 này là mùa hè đẫm máu và kinh hoàng nhất. Thời gian giống như những thiên thần đang bay lượn trên vùng hủy diệt một cách không thể hiểu nổi. Dường như ai cũng biết rằng chúng tôi sẽ phải thua trong cuộc chiến này. Nhưng rất ít ai nói ra điều ấy. Chúng tôi đang bị đẩy lui. Chúng tôi không còn đủ quân số, không đủ tiếp liệu, đạn dược để có khả năng phản kích sau cuộc tổng công kích này. Duy chỉ có các chiến dịch hành quân là còn đang tiếp diễn – và những cái chết sẽ vẫn còn tiếp tục…”

Là những người trực tiếp chiến đấu, cận kề quân sĩ, chúng tôi đã phải xót xa, đau đớn đến dường nào khi chứng kiến đồng đội của mình ngã xuống mỗi ngày trong tình trạng tức tưởi, oan khiên như thế!

                   

                    (Trên đường ra trận – ảnh từ Internet)

Hơn mười năm phục vụ trong một đơn vị Bộ Binh bình thường, nhưng chúng tôi chưa hề một lần chiến bại, ngay cả những trận chiến gay go, đẫm máu nhất, với lực lượng địch đông gấp nhiều lần và vũ khí tối tân hơn, điễn hình như trận chiến Kontum. Vậy mà bỗng dưng chúng tôi trở thành những người bại trận. Bi thảm và tủi nhục hơn là dù có “gãy súng”, “buông súng” hay không, chúng tôi cũng bị thuộc về bên phía “đầu hàng” theo lệnh của ông tướng mới lên làm tổng thống ba ngày, nhân danh Tổng Tư Lệnh. Sau này, có người bảo ông làm đến đại tướng mà ngây thơ, nghe theo lời dụ dỗ, móc nối của ai đó và một người em ở phía bên kia, tin Cộng sản sẽ thành lập “chính phủ ba thành phần” Có người lại bảo ông giành chức tổng thống chỉ để làm một điều duy nhất – đầu hàng. Cũng có người bênh vực, bảo nhờ ông đầu hàng nên tránh được một cuộc tắm máu, và có đủ thời gian cho một số người kịp chạy đến Subic Bay hay đảo Guam, sang Mỹ sớm. Là những thằng lính khốn khổ nhất, năm tháng chỉ ở trong núi rừng, dưới các giao thông hào, ngộp thở với tiếng bom đạn cùng bao nhiêu thứ lệnh lạc chiến trường, chúng tôi đâu có biết gì về chính trị bẩn thỉu, nhất là các biến cố dồn dập, hỗn độn trong những ngày tháng cuối cùng tại thủ đô Sài gòn.

Trong chiến tranh, thắng bại dù sao cũng là lẽ thường tình. Cuộc nội chiến Mỹ 1861-1865, Nam quân đã đầu hàng Bắc quân, và trong Đệ Nhị Thế Chiến, nước Nhật hùng mạnh đã phải đầu hàng quân đội đồng minh, sau khi hai quả bom nguyên tử do Mỹ thả xuống thành phố Hiroshima và Nagasaki. Kẻ chiến thắng đã hành xử văn minh, nhân bản như thế nào, cho dù các cuộc chiến ấy cũng vô cùng tàn khốc, cướp đi rất nhiều sinh mệnh của hai bên – cả dân lẫn lính. Nhưng cuộc bại trận của chúng tôi sao mà phẫn uất và đau đớn quá.

Bị đồng minh phản bội, bỏ rơi trong đành đoạn, tức tưởi. Thua một kẻ địch không đáng để thua. Một chế độ tự do nhân bản, văn minh, phồn thịnh lại phải đầu hàng một chế độ man rợ, nghèo nàn, lạc hậu. Có lẽ trong lịch sử chiến tranh Đông-Tây, chưa từng có những người lính nào ở phe thắng trận lại ngồi khóc ở vệ đường trên phần đất vừa mới chiếm được – như trường hợp nhà văn bộ đội CS Dương Thu Hương và nhiều người khác nữa– bởi nhận ra mình bị lừa dối, uổng phí cả một thời trai trẻ để đi “giải phóng” một miền đất tự do, văn minh, nhân bản, giàu có, hạnh phúc gấp vạn lần “miền Bắc xã hội chủ nghĩa” của mình.

Đến hôm nay, cuộc chiến oan nghiệt ấy đã kết thúc vừa đúng nửa thế kỷ. Hầu hết những dấu tích chiến tranh trên quê hương đã bị “bên thắng cuộc” chôn xóa, hủy diệt, ngoại trừ một số rất ít được chọn lọc, tô son thiếp vàng, trưng bày trong các viện bảo tàng, nhằm để tô vẽ, tuyên truyền. Trong số chứng tích còn sót lại là những nấm mồ xác xơ của hàng vạn tử sĩ miền Nam, nằm trong các nghĩa trang tiêu điều hoang phế, bị kẻ chiến thắng đập phá, hủy hoại, nhục mạ. Thực ra, họ rất muốn phá hủy hoàn toàn cho sạch hết chứng tích cuộc chiến mà chính họ đã làm hoen ố lịch sử dân tộc một thời, như đã từng san bằng, giải tỏa một số các nghĩa trang quân đội ở các tỉnh miền Trung, nhưng sở dĩ một số ít nghĩa trang lớn còn sót lai, dù trong tình trạng bị phá hủy, thay tên gọi (như NTQĐ Biên Hòa trở thành một nghĩa trang dân sự địa phương lạ lẫm nào đó), chỉ nhằm để kiếm lợi trong các cuộc tuyên truyền, thương lượng, đổi chác với Hoa Kỳ cùng Thế Giới Tự Do, và cũng để gạt gẫm, lừa mị đồng bào miền Nam hầu ngụy tạo một chút gì cái “tình dân tộc” trong chiêu bài “hòa hợp hòa giải”.

                   

Mới đây, có người phát hiện Nghĩa trang Sư Đoàn 22BB hoang phế nằm lẫn khuất trong một vùng núi rừng Bình Định. Cây cỏ và cả rác rến gần như che lấp hàng ngàn mộ phần tử sĩ rêu phong. Một số đồng đội, nhà hảo tâm trong và ngoài nước cùng hô hào đóng góp, nhờ một số các anh chị em còn nặng tấm lòng với miền Nam trong nước tiếp tay, phát quang, sơn sửa, kẻ lại tên tử sĩ và dựng lại các tấm bia gãy đổ. Vậy mà, sau đó họ đã bị chính quyền CS đe dọa, ngăn chặn, gây bao phiền muộn. Kế hoạch trùng tu “kín” một số nghĩa trang hoang phế khác trong vùng cũng vì đó mà đành phải hủy bỏ.

                      

 Hàng vạn trại tù vội vàng được dựng lên sau tháng 4/1975, trên khắp mọi miền đất nước, nhằm đày ải, hành hạ, giết dần mòn gần một triệu quân cán chính, trí thức, văn nghệ sĩ, kể cả nhà sư và linh mục miền Nam. Giờ hầu hết những trại nằm trong rừng sâu, núi thẳm đã biến mất, một số trại tù lớn ở các thành phố thì đã được nâng cấp, sửa sang để trở thành những trại giam lớn của tỉnh hay cấp nhà nước. Tuy nhiên cứ thi thoảng người dân lại phát hiện một số nấm mồ “tù cải tạo” nằm sâu trong núi rừng Lào Cai, Yên Bái hoang vu, giờ chỉ còn mỗi tấm bia xám xịt rêu phong, lẫn khuất dưới cỏ cây từ gần 50 năm trước.

                       

             (Mộ tù cải tạo trong rừng núi Yên Bái – ảnh từ youtube)

Một chứng tích đau lòng khác, những thương binh VNCH  bị đối xử tệ hại, đang phải sống từng ngày khốn cùng trong nước, Phần đông, theo thời gian đã chết do nghèo đói, bệnh tật. Số còn lại cũng đã già nua, sống lây lất trên các vỉa hè góc phố. Vậy mà họ vẫn không yên với một chế độ thiếu vắng tính nhân bản, tình tự dân tộc, luôn nặng hận thù. Với nghĩa tình cùng lòng tri ân của những đồng đội, đồng bào từ hải ngoại và cả trong nước, vận động gom góp gởi về, qua các vị Linh mục nhân từ thuộc Dòng Chúa Cứu Thế Sài gòn, để các vị tổ chức mỗi năm một, hai lần buổi họp mặt “Bên nhau đi nốt cuộc đời”, như là một chút ủy lạo trong tinh thần huynh đệ chi binh và biết ơn những người đã hy sinh một phần thân thể, vậy mà chính quyền CS cũng đã tìm mọi cách gây khó khăn, đe dọa, ngăn chặn cấm đoán, để cuối cùng phải hủy bỏ.

                     

                    Thương phế binh VNCH – ảnh Dân Làm Báo)

Chứng tích quan trọng và sinh động hơn, là sự hiện diện của hơn 5 triệu người Việt đã phải bỏ nước ra đi, đang sống lưu vong trên khắp mặt địa cầu. Sau tháng 4.1975, cả một miền Nam “thua cuộc” đã nhanh chóng trở thành một vùng đất chết, khốn cùng, bi thảm. Người dân có cảm giác như bị lưu đày ngay trên chính quê hương mình. Tương lai chỉ còn là những cơn ác mộng. Thời ấy, mọi người chỉ còn biết nhìn ra biển khơi mênh mông để ước mơ một sự đổi thay nào đó ở phía bên kia chân trời mịt mờ vô định. Và còn gì đau đớn hơn khi con người nghĩ tới chuyện phải bỏ quê hương ra đi lại là một niềm khát vọng! Trong suốt lịch sử thăng trầm của dân tộc, chưa có thời kỳ nào mà người dân phải bỏ cả quê hương, nhà cửa, mồ mả ông bà cha mẹ để vượt thoát ra đi trong cái chết. Chính quyền CS từng tuyên truyền, bôi xấu họ là bọn phản quốc chạy theo chân đế quốc nhằm tìm chút bơ thừa sữa cặn, để rồi không lâu sau đó lại âu yếm, chiêu dụ, gọi họ là những “khúc ruột ngàn dặm”, những “sứ giả”của quê hương, dân tộc. Thực chất, các cộng đồng người Việt tỵ nạn trên hầu hết các quốc gia tự do – mà chính quyền CS vẫn luôn xem là “các thế lực thù địch”- đa phần đã thành công vượt bậc tại các quốc gia định cư, thế hệ con cháu thành đạt trên đủ mọi lãnh vực, từ giáo dục, khoa học kỹ thuật, chính trị, quân sự, văn học, âm nhạc. Đó là những đóng góp rất tích cực cho các quốc gia đón nhân họ, nhưng cũng là những chất xám quý báu mà chính quyền CS trong nước hằng mơ ước.

Trong suốt 50 năm, kẻ chiến thắng đã cố tình biến miền Nam, vùng đất tự do văn minh hạnh phúc xinh đẹp một thời, trở nên nghèo nàn, khốn khổ hơn so với cái nôi “cách mạng” miền Bắc, nhưng rồi dù có bị đàn áp, bần cùng hóa. phân biệt đối xử đến đâu, người miền Nam vẫn luôn giữ được văn minh, nhân bản, và đất miền Nam vẫn luôn đáng yêu, đáng sống. Đã có hằng triệu triệu người dân miền Bắc bỏ quê cha đất tổ tìm vào đất phương Nam, mong được đổi đời. Mật độ dân số miền Nam, đặc biệt tại Sài gòn ngày một đông đúc, có khi gấp gần 5 lần so với tháng 4.1975, nhà cửa, cao ốc thi nhau dựng lên bừa bãi, đến nỗi nhiệt độ trở nên nóng bức trong cả mùa đông, và nhiều con đường phố đã trở thành sông, chỉ sau một cơn mưa, dù không lớn lắm. Ngay cả các tỉnh Cao Nguyên, miền Trung, giờ cũng đầy những người miền Bắc bỏ xứ vào đây lập nghiệp, giành nương chiếm rẫy của những người Thượng, vốn từng bao nhiêu đời khai sơn phá thạch, sống chết ở đây.

50 năm, nền giáo dục “xã hội chủ nghĩa” lạc hậu, xuống cấp đã làm cho bao thế hệ học trò trở nên thua kém rất xa so với thế giới chung quanh. Đến nỗi một cô giảng viên trường Đại học sư phạm (Thái Bình) đã công khai trong một chương trình trên truyền hình Hà Nội, rằng “Tự Lực Văn Đoàn là một gánh cải lương, và ông Nhất Linh là ca sĩ cổ nhạc”. Tệ hại và tủi nhục hơn là tình trạng tha hóa trong ngành giáo dục, kể cả thầy giáo và hoc trò, Chuyện thầy giáo gạ tình, hiếp dâm nữ sinh cũng như chuyện học trò, kể cả nữ sinh, đánh nhau và đánh luôn cả thầy cô giáo, gần như là chuyện thường tình.

Đặc biệt, ngôn ngữ Việt (cả tiếng nói lẫn chữ viết) bị biến cải một cách tùy tiện, ngốc nghếch, kể cả muốn Tàu hóa như trường hợp ông giáo sư tiến sĩ Bùi Hiền nào đó. Lịch sử (và môn Sử học) được dựng lên từ bao điều dối trá. “Anh hùng Lê Văn Tám” được xây tượng đài, đặt tên cho các con đường lớn, công viên, trường học, bắt học trò cả nước phải học tập, noi gương như một vị anh hùng. Thực chất, lại là một người không hề có thật, mà chỉ là nhân vật tưởng tượng trong một phim truyện của đạo diễn Phan Vũ, nhằm để tuyên truyền. Thực chất, lại là một người không hề có thật, mà chỉ là nhân vật tưởng tượng trong một phim truyện nhằm để tuyên truyền. Chính ông GS Trần Huy Liệu, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử VN đã thú nhận với GS Phan Huy Lê, nhân vật Lê Văn Tám là do mình “dựng” nên và nhờ GS Phan Huy Lê sau này khi đất nước yên ổn, nói lại giùm, lỡ khi đó ông Trần Huy Liệu không còn nữa.  (GS Phan Huy Lê: Trả lại sự thật hình tượng Lê Văn Tám, Khoa Đông phương học). Và ông Phan Huy Lê đã công bố sự thật này vào tháng 2 năm 2005,  nên người dân trong nước đều biết câu chuyện gian dối lừa mị này, vậy mà đảng và nhà nước vẫn không hề một lời lên tiếng.

50 năm, nền văn học “xã hội  chủ nghĩa” còn lại những gì, ngoài mấy trăm bài thơ nịnh Bác của đám văn nô, tiêu biểu cỡ Tố Hữu “Ta bên người, người tỏa sáng trong ta/ Ta bỗng lớn bên Người một chút…” hay “ Xta-lin ơi!/Hỡi ôi Ông mất, đất trời có không?/Thương cha, thương mẹ, thương chồng/Thương mình thương một, thương Ông thương mười), cùng các bản nhạc “đỏ”: Bác đang cùng chúng cháu hành quân, Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây,Tiếng Chày Trên Sóc Bam Bo,  Năm Anh Em Trên Một Chiếc Xe Tăng, Cô Gái Vót Chông… mà đám văn công hát đi hát lại trong mấy ngày lễ lớn, và tất nhiên chẳng ai còn muốn nghe, với họ có khi đó chỉ là một cách “tra tấn” thính giác của con người!

Nhưng 50 năm với những bản tình ca miền Nam, một thời bị cho là nhạc vàng, cấm đoán, đến nỗi có người hát (như Toán Xồm, Lộc Vàng) đã từng bị đàn áp,  tù đày để người phải bỏ mình, người thì gần cả một đời khốn đốn, giờ lại làm mê mẫn say đắm mọi người lớn nhỏ, kể cả những “đồng chí lãnh đạo”, công an, bộ đội, từ Nam ra Bắc, từ thành phố cho đến các hang cùng ngõ hẻm, vùng sâu vùng xa, Mà oái ăm thay, đa phần những bản nhạc tình ca này lại viết rất đẹp về lính VNCH, người lính “bên thua cuộc”.

Trong một bài tiểu luận viết vào ngày 1.1.2022, dưới nhan đề “Níu một thời, giữ một đời”, nhà văn Ban Mai, một trí thức trẻ của chế độ (giảng viên tại Trường Đại Học Quy Nhơn) đã viết:

“Việt Nam, sau năm 1975 kết thúc chiến tranh giữa hai miền Nam – Bắc. Hòa bình đã đến sau mấy thập niên tang tóc vì bom rơi, đạn nổ.

Thế nhưng, người Miền Nam đã không thể tưởng tượng nổi, tiếp sau đó là một thảm cảnh kinh hoàng… Trầm trọng hơn nữa: Sự xơ xác tinh thần của trí thức Miền Nam không còn được tự do trình bày suy nghĩ, không còn được tự do hấp thụ tri thức nhân loại. Thay vào đó là những đợt học tập chính trị triền miên, theo một định hướng duy nhất: Chủ nghĩa Marx.Tất cả sách báo, văn học nghệ thuật bị tịch thu tiêu hủy, nền văn chương Miền Nam hoàn toàn bị bôi xóa. Giống như thời man rợ của Tần Thủy Hoàng năm 210 trước công nguyên…

Bắt đầu sau năm 1975, những thế hệ sinh ra và lớn lên ở Việt Nam không hề biết đã từng có một nền văn học nghệ thuật Miền Nam vô cùng gía trị với nhiều thể loại “trăm hoa đua nở”, đề cao tự do, dân chủ, với ý thức khai phóng, nhân bản, theo kịp trào lưu thế giới…

Bên trong nước, mấy năm gần đây có một bạn trẻ Nguyễn Trường Trung Huy ở Sài Gòn cũng dày công sưu tầm Văn học Miền Nam và bộ sưu tập của bạn ngày một đồ sộ đáng cho ta kinh ngạc, đó là một kỳ công. Tôi tin rằng, trên đất nước Việt Nam này có nhiều người thầm lặng âm thầm tìm kiếm, lưu giữ một nền văn chương nhân bản mà ta tưởng rằng đã chết sau năm 1975. Ngày nay, giới nghiên cứu văn học trong nước đang ngày càng tìm kiếm để nghiên cứu, mới đây trong một đề thi luận văn bậc trung học phổ thông, có một giáo viên đã đem bài thơ “Ta về” của Tô Thùy Yên cho học sinh bình giảng, với những câu thơ đầy tính nhân văn:

“Ta về như lá rơi về cội

Bếp lửa nhân quần ấm tối nay

Chút rượu hồng đây xin rưới xuống

Giải oan cho cuộc biển dâu này”.

(Tô Thùy Yên là một sĩ quan VNCH, từng bị tù đầy qua nhiều trại giam trong gần 13 năm, sau tháng 4.1975)

Tuy đây chỉ mới là một hành động đơn lẻ nhưng đó là một tín hiệu vui.

 Tôi tin rằng, sẽ không còn bao lâu nữa dòng Văn chương Miền Nam (1954-1975) sẽ được đưa vào giảng dạy chính thức trong nhà trường, nó xứng đáng được trả về với đúng vị trí của nó trong tiến trình phát triển văn học Việt Nam hiện đại, không ai và không một thể chế nào có thể bôi xóa một thời đại lịch sử của nước nhà. Giữ gìn, bảo tồn và chia xẻ Văn học Miền Nam cho đời sau là trách nhiệm của chúng ta, của tôi và các bạn những người yêu tiếng Việt, những người yêu văn chương Việt Nam”

Một vị giáo sư khác trong nước, chuyên nghiên cứu về Văn Học Việt Nam đã khẳng định “Trong hai thập niên 1955-1975, nếu không có Văn Học Miền Nam, thì nền Văn Học Việt Nam xem như không hề có, hoặc chẳng có gì cả!”

Nhà thơ, nhà giáo cũng là nhà báo nổi tiếng miền Bắc, Hoàng Hưng, trong bài viết “Về ảnh hưởng của Văn hóa miền Nam (VNCH) sau 1975”, sau khi hết lời ca ngợi lối sống, văn hóa, văn học miền Nam, đã kết luận:

“…nhìn một cách tổng thể, toàn bộ đời sống miền Nam, trong đó có đời sống văn hoá, văn học, trong 45 năm qua đã dần dần “giải phóng” người dân miền Bắc khỏi cái nhà tù lớn trong đó con người bị buộc phải giả tạo, “gồng mình” hoặc bị mê hoặc mà mù quáng tuân phục trong thời chiến và theo “định hướng XHCN….

Đến nay nó vẫn tiếp tục đóng góp vào tiến trình “giải Cộng” gian lao của đất nước! Chắc chắn sẽ đến một ngày, đất nước chứng kiến một cuộc phục hưng văn hoá, văn học, đi tiếp con đường mà văn hoá, văn học miền Nam đã đi. Con đường Tự Do, Nhân Bản, Hội Nhập Quốc Tế.”

Sau 50 năm, tất nhiên đất nước cũng đã có những đổi thay nhất định. Cơ sở hạ tầng, đặc biệt tại các đô thị có nhiều phát triễn, đời sống người dân ở đây có khá hơn so với nông thôn. Tuy nhiên trên thực tế, Việt nam vẫn còn tụt hậu khá xa so với nhiều nước chung quanh. Chính ông TBT Tô Lâm mới đây đã công khai tuyên bố: “Cách đây 50 năm vào những năm 1960-1970, Singapore chỉ mong được sang Bệnh viện Chợ Rẫy (Sài gòn) để chữa bệnh, giờ thì ta lại ước mơ được vào khám bệnh ở Singapore.”

Theo thống kê của IMF (International Monetary Fund/Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế), lợi tức tính theo đầu người ở Việt Nam cho năm 2025 là 4,986 Mỹ kim (Mk), trong khi ở Singapore là 93,956 Mk, và so với hầu hết các quốc gia Đông Nam Á khác, mức sống của người dân Việt nam đều rất thấp:

-Hàn Quốc(Nam Hàn): 37,675 Mk

-Nhật Bản               :  35,611 Mk

-Đài Loan               :  34,944 Mk

-Malaysia               :  14,423 Mk

-Thái Lan               : 7,754 Mk

Tệ hơn, Việt nam còn thấp hơn nhiều so với cả Mộng Cổ (Mongolia), một nước chỉ có đồng cỏ và sa mạc, với lợi tức trung bình của người dân năm 2025 ở đây là: 7,576 Mk.

Điều đặc biệt đáng chú ý hơn là trong hầu hết các quốc gia Đông Âu, mới giã từ chế độ CS khoảng 30 năm nay, người dân đều có lợi tức cao hơn nhiều so với Việt Nam (4,896 Mk).

-Tiệp Khắc (Czech Republic) = 33,038 Mk

-Hung Gia Lợi (Hungary)   = 25,703 Mk

-Ba Lan (Poland)                 = 25,040 Mk

-Lỗ Ma Ní (Romani)           = 21,570 Mk

-Bảo Gia Lợi (Bulgari)       = 18,456 Mk

Tuy vậy, chủ trương làm “kinh tế thị trường (với cái đuôi) theo định hướng XHCN” thực tế cũng đã làm giàu nhanh chóng cho hầu hết tầng lớp đảng viên, gia đình và phe nhóm, đưa họ sớm trở thành những nhà tư bản “đỏ”, đào thêm cái hố ngày càng sâu giữa giai cấp giàu (đảng) và nghèo (dân). Điều này hoàn toàn trái ngược mục tiêu “đấu tranh giai cấp” mà đảng CS từng hô hào; đấu tố, giết hại dã man hàng mấy vạn người vô tôi trong “Cải Cách Ruộng Đất”, lộ rõ chiêu trò lừa gạt “giải phóng miền Nam”, và hiện nguyên hình một đám thảo khấu khi chủ trương “tiêu diệt tư sản mại bản” rất tàn độc ngay sau khi cướp được miền Nam.

Sự làm giàu bộc phát (và bất chính) của tầng lớp tư bản đỏ này đã kéo theo hiện tượng xuống cấp từ Giáo Dục, Văn Hóa, Y Tế, tha hóa về Đạo Đức, Xã Hội và cả Tôn Giáo. Đặc biệt nhất là vấn nạn thối nát, tham nhũng – tất nhiên ngay trong hàng ngũ đảng CS, kể cả những lãnh đạo cao cấp nhất, từ hàng tướng lãnh, thứ bộ trưởng, thủ tướng đến cả chủ tịch nước – như là một thứ quốc nạn không còn thuốc chữa. Chức quyền được chuyền tay theo kiểu “cha truyền con nối”, “gia đình trị” của thời phong kiến. Đảng đứng trên pháp luật, thu tóm mọi quyền lực, tài sản quốc gia. Đảng viên sống phè phởn giàu sang trên đầu những người dân cùng khốn. Đám con cháu, những “hạt giống đỏ”, được đưa sang du học tại các trường tư nổi tiếng ở các nước tư bản, tất nhiên bằng tiền của nhà nước hoặc từ tham nhũng, chuẩn bị cho các vai trò kế vị.

Một ông thủ tướng (sau đó là chủ tịch nước) từng mở miệng khoe khoang “Việt nam bây giờ đang là một đất nước đáng sống nhất, cái cột đèn ở hải ngọai mà có chân thì cũng đã chạy hết về VN” (sic!). Trong khi ấy, hàng vạn cô con gái phải bỏ cha mẹ, người tình sang làm vợ cho những ông già bệnh hoạn, tàn tật ở tận Đài Loan, Nam Hàn, như một thứ nô lệ, kể cả nô lệ tình dục. Nhiều cô không liên lạc được với gia đình, Một số bị giết chết hoặc bị bán vào các động mãi dâm. Tại một số nước Á châu, báo chí công khai quảng cáo dịch vụ “mua vợ Việt Nam” với giá bằng một món đồ chơi rẻ mạt. Trong lịch sử dân tộc, dù có những giai đoạn lệ thuộc khó khăn, nhưng không có thời kỳ nào mà thân phận những người con gái, đàn bà Việt Nam lại rẻ rúng và thê lương như thế. Chính quyền đã “xuất khẩu” hàng vạn, hàng trăm ngàn người lao động đi khắp thế giới, ngay cả những nước nghèo ở tận châu Phi, nhằm kiếm sống và kiếm thêm ngoại tệ cho nhà nước. Đã vậy vẫn cứ tiếp tục những dòng người tìm mọi cách trốn khỏi Việt nam, để một số phải chết ngạt trong những chiếc xe đông lạnh, kín mít, một số phải sống trong núi rừng, trồng á phiện và bị bắt, vì không có quốc gia nào chấp nhận để dung thân. Một sự kiện đáng xấu hổ, khi nhóm chín người tháp tùng chuyên cơ của bà Chủ tịch Quốc Hội Nguyễn Thị Kim Ngân trong chuyến viếng thăm “hữu nghị” Hàn Quốc, vào đầu tháng 12.2018, đã bỏ trốn khi vừa mới bước chân lên đất khách. Đó là chưa kể một số ra nước ngoài chỉ để ăn cắp, làm gái điếm, đến nỗi cái “hộ chiếu” Việt nam đã từng trở thành nỗi ô nhục.

Sau đúng 50 năm, tại Sài gòn, trước cả mấy tháng, nhà nước CSVN đang chuẩn bị rầm rộ mừng ngày “Thống Nhất”, thao dượt một cuộc diễn binh rất qui mô mà tốn phí dự trù hằng chục triệu Mỹ kim, vẫn với lời ca “thề phanh thây uống máu quân thù” vẫn với các khẩu hiệu “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, hừng hực không khí kiêu ngạo, hận thù. Trong khi ấy, đã có những anh bộ đội có mặt trong đoàn quân giải phóng ngày nào, theo chân nhà văn Dương Thu Hương (ngồi khóc ở vệ đường, khi nhận ra mình bị lừa gạt để chém giết đồng bào, hủy hoại cả một miền Nam nhân bản, văn mình, giàu đẹp) giờ cũng đã tột cùng ăn năn hối hận, như trường hợp cựu cán binh Bình Ngọc với bài thơ “Xin Lỗi Tháng Tư!”:

Thời trai trẻ, gác bút nghiên, gác mọi ước mơ …lên đường ” đánh Mỹ!”

Cây súng trên vai, máu đỏ trong tim!

Mụ lí trí! Hùng hục vượt Trường Sơn.

Đêm nghỉ, ngày đi, giày vẹt gót , áo sờn vai thấm lạnh!

Mẹ còng lưng vắt kiệt sức, mỏi mòn, thao thức đợi con về!

“Ba mươi tháng Tư” Bên Thắng cuộc, hả hê

Con trở thành kẻ “kiêu binh!” trong đoàn “quân Giải phóng!”

Nhưng! Ba mươi tám năm sau con vô cùng thất vọng!

Không hiểu mình đi Giải phóng cho ai?

Chễm chệ trên cao, toàn những kẻ bất tài!

Đáy xã hội, nhiều “dân oan!” mất đất.

Những nghịch lý, tai ương…chồng chất!

Khoảng cách “sang, hèn” cứ rộng mãi ra.

Người ở “quê” không còn tha thiết với “ao nhà”.

Tràn vào Miền Nam “ngoạ, chiếm, xâm canh…từ núi, rừng, chợ búa, thị thành, lầu cao, gác tía ….!”

Đi đâu, ở đâu cũng gặp toàn người “ngoài ấy”.

Nhà cửa, ruộng vườn ngoài ấy họ bỏ hoang???

Quê Hương tôi, tên thật đẹp (làng Vàng).

Cũng có đình, chùa, bờ xôi, ruộng mật!

Không hiểu vì sao nhiều người “bỏ tất” để vào Nam chen lấn, đua đòi?

Riêng tôi!

Đã mấy năm nay, tôi đã làm kẻ “chạy trốn!”

Trốn khỏi “sai lầm” những năm, tháng …đã đi qua!

Mỗi tháng Tư về tôi lại nhớ vào Nam!

Xin lỗi ! “tháng Tư!”

Xin lỗi ! Miền Nam, những việc tôi đã làm!

Xin lỗi tất cả!

Cả những người “bên thua cuộc!”

Biết sao được !

Mọi người chúng ta sinh ra, đâu có thể chọn được thời cuộc

Nhưng! Lẽ đời, Đen, trắng phải phân minh!

Xin lỗi! “tháng Tư!”

Hãy tha thứ cho mình! Rất chân thành, chứ không phải lời giả dối.

Hay trường hợp của Trần Đức Thạch, cựu phân đội trưởng trinh sát, Tiểu đoàn 8, Trung đoàn 266, Sư đoàn 341, Quân đoàn 4, qua các bài thơ

Tạ Lỗi Miền Nam

Tôi sinh ra ở miền bắc

Không hình dung ra giặc thế nào

Người ta hô hào

Phải căm thù giặc…?

Người ta dạy tôi là người miền bắc

Phải biết thương yêu đồng bào miền nam

Bà con ruột thịt đang lầm than

Dưới gót giày của Mỹ Diệm…

Những người con nông dân thật thà như đếm

Mặc áo lính vai khoác súng lên đường

Hồn nhiên tin là đi bảo vệ tổ quốc quê hương

Đánh đuổi quân xâm lược…

Thống nhất đất nước

Mới ngớ ra “Quân ta đánh dân mình

Miền nam giàu và dân sống văn minh

Không đói khát vật vờ như dân miền bắc…”

Hận ngút trời đứa nào lừa tuổi xuân tôi coi dân mình là giặc!

Sám Hối

Thế hệ chúng tôi tội lỗi ngập đầu

Nhìn con cháu lòng muôn hổ thẹn…

Thế hệ chúng tôi một thời chinh chiến

Thắng lợi mang về là xua đuổi văn minh

Thắng lợi mang về là làm khổ dân mình

Để đểu cáng lên ngôi gây tội ác

Thế hệ chúng tôi hoàn toàn lầm lạc

Quên dân tộc mình theo chủ nghĩa Mác Lê Nin

Bệnh hoạn tư duy méo mó cách nhìn

Gieo thù hận trong lòng con cháu

Thế hệ chúng tôi đổ bao xương máu

Chẳng ý nghĩa gì khi dân tộc điêu linh

Chẳng ý nghĩa gì khi đất nước tanh bành

Lãnh thổ giang sơn bị ngoại bang gậm nhắm

Thế hệ chúng tôi cuộc đời cay đắng lắm

Mất chính mình mang tội ác với tương lai

Riêng những người lính miền Nam, sau nhiều năm bị tù ngục, đọa đầy, nhiều gia đình ly tán, lưu lạc khắp bốn phương trời, nếu còn sống sót giờ cũng đã trên dưới 80, nhưng vết thương từ cuộc chiến bất hạnh ấy vẫn mãi luôn âm ỉ trong lòng. Một quãng đời trai trẻ, những vinh nhục, những đớn đau tức tưởi trong giờ khắc phải buông súng, cùng những món nợ máu xương chưa trả được cho đồng đội anh em, rồi cùng sẽ xót xa theo họ về cõi vô cùng.

Xin được đồng cảm với tâm sự của một đồng đội đàn anh, nhiều năm chiến đấu bên nhau, từng là một cấp chỉ huy trẻ tuổi, thao lược:

“Tuổi đời chồng chất, sức khỏe và những hăng say của tuổi thanh xuân ngày tháng nguội dần. Tôi thấy cuộc sống mình hụt hẫng hoang mang. Mỗi năm lại vắng thêm đồng đội và rồi một ngày nào đó, cũng sẽ tới lượt mình. Điều tự nhiên này, thực chất chẳng phải là nỗi ưu tư bởi vì đó là quy luật. Nhưng điều làm tôi suy ngẫm là ý nghĩa về cuộc đời của chính mình, thế hệ chúng ta, qua những việc đã làm, những đau thương đã trải…thực sự là gì, hoặc chẳng là gì hết?”

 Phạm Tín An Ninh

Cuối tháng 4-2025  

From: haiphuoc47& NguyenNThu


 

KHÔNG CÓ KẾ HOẠCH HẬU THUẪN – Lm. Mark Link, S.J.

Lm. Mark Link, S.J.

Chúa Giêsu trao cho các môn đệ nhiệm vụ hoàn tất công trình của Người bằng cách chia sẻ Tin Mừng cho toàn thể thế giới.

Có một huyền thoại xưa về việc lên trời của Đức Giêsu.  Theo huyền thoại này, khi Đức Giêsu đến thiên đường, thân thể của Người vẫn còn các vết thương của khổ hình thập giá.

Chân tay của Người vẫn còn mang vết đinh.  Cạnh sườn Người vẫn còn dấu vết của cây giáo.  Lưng của Người vẫn còn các vết sẹo vì roi vọt, và đầu của Người vẫn còn các thương tích vì gai nhọn.

Khi các thánh trên trời nhìn thấy các dấu vết này, họ phủ phục trước mặt Chúa Giêsu.  Họ bàng hoàng khi thấy sự đau khổ Người đã gánh chịu.  Sau đó thiên thần Gabrien đứng lên nói với Chúa Giêsu:

“Lạy Chúa, sự đau khổ mà Ngài gánh chịu ở thế gian thật lớn lao chừng nào!  Nhưng tất cả mọi người dưới thế có biết và có cảm kích những gì Ngài đã kinh qua vì họ, và yêu thương họ như thế nào không?”

Chúa Giêsu trả lời:

“Ô, không! Chỉ có một ít người ở Palestine biết điều đó.  Phần còn lại thì không nghe biết gì về ta.  Họ không biết ta là ai.  Họ không biết ta phải đau khổ thế nào, và ta yêu thương họ thế nào.”

Thiên thần Gabrien bàng hoàng khi nghe thế. Sau đó người nói với Chúa Giêsu:

“Làm thế nào những người còn lại ở dưới thế có thể biết về sự đau khổ và tình yêu của Ngài?”

Chúa Giêsu nói:

“Trước khi từ giã, ta có nói với Phêrô, Giacôbê, và Gioan, và một vài người bạn của họ, là hãy đi nói với toàn thể thế giới về ta.

“Họ nói với nhiều người mà họ có thể.  Những người ấy, đến lượt họ, sẽ nói với người khác.  Theo cách ấy, sau cùng toàn thể thế giới sẽ biết về tình yêu của ta dành cho họ.”

Bấy giờ thiên thần Gabrien lại càng bối rối hơn nữa.  Vì thiên thần biết loài người dễ thay đổi chừng nào.  Người biết họ dễ quên chừng nào.  Người biết họ dễ hồ nghi chừng nào.  Do đó người quay sang Chúa Giêsu và nói:

“Nhưng, lạy Chúa, nếu Phêrô, Giacôbê, và Gioan mệt mỏi hay thất bại thì sao?  Nếu họ quên Ngài thì sao?  Nếu họ bắt đầu có những hồ nghi về Ngài thì sao?

“Và ngay cả khi không có điều gì xảy ra, nếu những người được nghe họ nói trở nên thất vọng thì sao? Nếu họ quên đi thì sao?  Nếu họ bắt đầu có những hồ nghi về Ngài thì sao?

“Ngài không nghĩ đến các điều này hay sao?  Ngài không có một kế hoạch hậu thuẫn hay sao – nếu trong trường hợp?”

Chúa Giêsu trả lời:

“Ta có nghĩ đến tất cả những điều này, nhưng ta quyết định không có một kế hoạch hậu thuẫn.  Đây là kế hoạch duy nhất ta có.

“Ta trông nhờ vào Phêrô, Giacôbê, và Gioan không làm ta thất vọng.  Ta trông nhờ vào những người mà họ nói không làm ta thất vọng.”

Hai mươi thế kỷ sau, Chúa Giêsu vẫn không có kế hoạch nào khác.  Người trông nhờ vào Phêrô, Giacôbê, và Gioan, và họ đã không làm Người thất vọng.  Người trông nhờ vào những người mà các tông đồ nói với họ, và họ đã không làm Người thất vọng.  Và giờ đây Chúa Giêsu trông nhờ vào chúng ta.

Lễ Thăng Thiên là một trong những lễ quan trọng nhất của niên lịch phụng vụ.

Đó là ngày mà chúng ta cử hành việc Chúa Giêsu trở lại với Chúa Cha.

Chúng ta có thể so sánh Lễ Thăng Thiên với việc chuyền gậy từ lực sĩ này sang lực sĩ kia trong cuộc chạy đua tiếp sức.

Vào ngày này 2,000 năm trước, Chúa Giêsu đã chuyền chiếc gậy công việc của Người cho ông Phêrô, Giacôbê, và Gioan.  Sau đó, đến lượt họ chuyền gậy này sang những người sau họ.  Lần lượt, những người này chuyền gậy cho chúng ta.  Và giờ đây đến lượt chúng ta chuyền gậy cho những người khác.

Nói về thực tế, điều này có nghĩa gì?

Có phải nó có nghĩa chúng ta hãy ra đi và rao giảng về Chúa Giêsu, như các ông Phêrô, Giacôbê, và Gioan đã làm?  Có phải điều đó có nghĩa hãy đặt loa phóng thanh trong các thương trường và nói với mọi người về Chúa Giêsu?

Nó có thể có nghĩa như thế cho một số người, nhưng với hầu hết chúng ta nó có nghĩa căn bản hơn việc này.  Nó có nghĩa cơ bản hơn.  Nó có nghĩa sống lời giảng dạy của Chúa Giêsu ngay trong đời sống của mỗi người chúng ta.

Cách bắt đầu rao giảng về Chúa Giêsu cho thế gian là bắt đầu rao giảng về Chúa Giêsu cho chính mình.  Một ngạn ngữ Trung Hoa có nói:

“Nếu có điều đúng trong tâm hồn, sẽ có sự mỹ miều trong con người.
Nếu có sự mỹ miều trong con người, sẽ có sự hài hòa trong gia đình.
Nếu có sự hài hòa trong gia đình, sẽ có trật tự trong quốc gia.
Nếu có trật tự trong quốc gia, sẽ có hòa bình trên thế giới.”

Cách mở đầu rao giảng về Chúa Giêsu cho thế gian là bắt đầu sống lời Chúa trong cuộc đời mình.  Một khi chúng ta bắt đầu thi hành điều này, thông điệp của Chúa Giêsu sẽ bắt đầu gợn sóng trong thế giới.  Và nếu có đủ Kitô Hữu làm điều này, gợn sóng đó sẽ trở nên một cơn thủy triều, và thủy triều đó sẽ thay đổi mặt đất trong một phương cách mà chúng ta không bao giờ mơ tưởng có thể được.

Đây là thông điệp của buổi lễ hôm nay.  Đây là thách đố mà các bài đọc hôm nay đề ra cho chúng ta. 

Chúa Giêsu trông nhờ vào chúng ta.

Hãy kết thúc với những lời của Chúa Giêsu nói với các môn đệ trong Bài Giảng Trên Núi.  Trong ánh sáng của những gì chúng ta vừa nói, những lời này có một ý nghĩa đặc biệt.  Chúa Giêsu nói:

“Các con giống như muối cho toàn thể nhân loại.  Nhưng nếu muối mất vị mặn của nó, không cách chi làm cho nó mặn lại.  Nó trở nên vô dụng, bị quăng ra ngoài và người ta chà đạp lên.

“Các con giống như ánh sáng cho toàn thế giới.  Một thành xây trên núi thì không thể che giấu được.  Cũng thế, ánh sáng của các con phải chiếu tỏa trước mọi người, có như thế họ sẽ thấy những điều tốt lành các con làm và ngợi khen Cha các con ở trên trời.” (Mt 5:13-16).

Lm. Mark Link, S.J.

From: Langthangchieutim

RỒI SẼ HÂN HOAN – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

 Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Anh em sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui!”.

Trong “Niềm Vui Của Các Thánh”, Jean Pierre de Caussade chỉ ra bí quyết để xua tan lo lắng và u buồn, “Mỗi ngày, bạn hãy ‘phó thác’ quá khứ cho lòng thương xót của Thiên Chúa; ‘phó mặc’ tương lai cho sự quan phòng của Ngài; và ‘phó dâng’ hiện tại cho tình yêu Ba Ngôi. Được như thế, bạn sẽ nghiệm ra rằng, niềm vui luôn chiếm ưu thế, linh hồn bạn rồi sẽ hân hoan như các thánh đã hân hoan!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa hôm nay đề cập nỗi buồn và niềm vui; nhưng vì niềm vui luôn chiếm ưu thế nên sau những muộn phiền lo lắng, các môn đệ của Chúa Giêsu ‘rồi sẽ hân hoan!’.

Chúa Giêsu nói đến u buồn của các môn đệ vì sự ra đi của Ngài; nhưng sau đó, Ngài nói, “nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui” – niềm vui “lại thấy Thầy”. Lần đầu đến Côrintô, Phaolô được cặp đôi Aquila và Priscilla tiếp; họ cho ông một chỗ ở, một việc làm. Và còn nhiều hơn thế! Về sau, qua các thư, Phaolô tiết lộ, họ còn có những ‘căn phòng’ tương tự ở Êphêsô, Rôma, nơi các tín hữu học và dạy giáo lý, chia sẻ Lời Chúa và cử hành Thánh Thể. Bạn sẽ ngạc nhiên khi nhớ lễ “Hai thánh dệt lều Aquila và Priscilla” mừng vào ngày 8/7 hàng năm! “Họ là các giáo dân đã hiến tặng “đất tốt” cho việc phát triển đức tin” – Bênêđictô XVI. Nhờ họ, “Chúa đã mặc khải ơn Người cứu độ trước mặt chư dân” – Thánh Vịnh đáp ca. Phaolô và các giáo đoàn sơ khai hẳn đã trải nghiệm sự ‘hiện diện đầy ủi an’ của Chúa Phục Sinh qua họ.

Ở đây, chúng ta có một hình ảnh tuyệt vời về những gì mà Giáo Hội được kêu gọi để trở thành. Đó là một ‘cộng đồng các kẻ tin’ vốn sẵn sàng nâng đỡ nhau, đặc biệt những lúc khó khăn; một sứ vụ mà chúng ta – ở bất cứ thời điểm nào – trong mọi đấng bậc cùng chia sẻ, dù là nam hay nữ, trẻ hay già, độc thân hay lập gia đình. Đó là sứ vụ mà Thánh Thần luôn thúc đẩy, truyền cảm hứng, để mỗi người trở nên sự ‘hiện diện đầy ủi an’ của Chúa Phục Sinh cho người khác. Nhờ đó, ai ai cũng có thể trải nghiệm ‘Chúa là nguồn vui’; giữa bao khó khăn, mỗi người ‘rồi sẽ hân hoan’ nhờ sự bổ trợ của các thành viên khác.

Anh Chị em,

“Nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui!”. “Giêsu Nguồn Vui” luôn nhịp bước bên chúng ta, Ngài không cất đi những khốn khổ trên hành trình, nhưng luôn hiện diện để bạn và tôi đi trọn con đường Ngài đi. Vấn đề là chúng ta có biết ‘phó thác’ quá khứ cho lòng thương xót của Thiên Chúa; ‘phó mặc’ tương lai cho sự quan phòng của Ngài; và ‘phó dâng’ toàn thể hiện tại cho tình yêu Ba Ngôi? Tắt một lời, nếu Chúa Phục Sinh luôn ‘chiếm chỗ’ ưu tiên ở trung tâm cuộc sống chúng ta, chúng ta ‘sẽ lại thấy Ngài’. Thấy Ngài trong kinh nguyện; thấy Ngài trong Thánh Thể; thấy Ngài trong Lời, và nhất là thấy Ngài trong những con người mà chúng ta phục vụ hay những con người đang tiếp sức cho chúng ta. Đó là những thành viên của Hội Thánh – hoặc ngay cả – chưa gia nhập Hội Thánh.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, để có thể chia sẻ ‘Giêsu Nguồn Vui’ cho những ai vui ít buồn nhiều, cho con nhận ra sự ‘hiện diện đầy ủi an’ của Chúa trong từng phút giây ngày sống của con!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)   

***********************************************************

Thứ Năm Tuần VI Phục Sinh

Anh em sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.   Ga 16,16-20

16 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : “Ít lâu nữa, anh em sẽ không còn trông thấy Thầy, rồi ít lâu nữa, anh em sẽ lại thấy Thầy.”

17 Bấy giờ vài người trong nhóm môn đệ của Đức Giê-su hỏi nhau : “Người muốn nói gì khi bảo chúng ta : ‘Ít lâu nữa, anh em sẽ không trông thấy Thầy, rồi ít lâu nữa, anh em sẽ lại thấy Thầy’ và ‘Thầy đến cùng Chúa Cha’ ?” 18 Vậy các ông nói : “’Ít lâu nữa’ nghĩa là gì ? Chúng ta không hiểu Người nói gì !” 19 Đức Giê-su biết là các ông muốn hỏi mình, nên bảo các ông : “Anh em bàn luận với nhau về lời Thầy nói : ‘Ít lâu nữa, anh em sẽ không trông thấy Thầy, rồi ít lâu nữa, anh em sẽ lại thấy Thầy’. 20 Thật, Thầy bảo thật anh em : anh em sẽ khóc lóc và than van, còn thế gian sẽ vui mừng. Anh em sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui.”


 

Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.” (Mt 5:8) – Cha Vương

Hôm nay Chúa ao ước bạn có một quả tim đơn sơ và trong sạch đó. Bạn có thể làm Chúa hài lòng được không?

Cha Vương

Thứ 4: 28/05/2025 

TIN MỪNG: Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.” (Mt 5:8)

HOA QUẢ THỨ 12: Khiết Tịnh (thanh khiết, đức thanh sạch) là thói quen tiết chế ham muốn tình dục vì lý do chính đáng. (Theo Thánh Thomas Aquino và triết gia Aristotle)

SUY NIỆM: Trong xã hội mà những phim ảnh đồi truỵ đang len lỏi vào từng ngõ nhách của môi trường sống của con người một cách quá dễ dàng thì thật là nguy hiểm quá. Có những người ôm cái iPhone/iPad của mình trong phòng riêng hoặc trong mền đến nỗi mặt mũi họ phờ phạc ra, họ quên ăn quên ngủ. Mình không giám kết án họ đã xem gì hoặc chơi những trò chơi gì nhưng đây là nỗi lo âu rất lớn của các bậc phụ huynh và các nhà giáo dục. Khi con người đã không kiềm chế được ham muốn dục vọng của mình như—tình dục, chè chén, chơi bời, dâm đãng, bài bạc… thì việc giáo dục về đức khiết tịnh lại càng trở nên cấp bách. Con người sẽ bị mất đi nhân tính và họ quên đi những việc họ đang làm hoàn toàn trái ngược với ý định của Thiên Chúa. Do đó đức kiết tịnh rất cần thiết để giúp con người biết tự chủ hoặc chế ngự các đam mê để được bình an hạnh phúc, nếu không thì họ sẽ trở thành nô lệ của những đam mê và trở nên bất hạnh. Sống khiết tịnh là nhiệm vụ của mỗi người tuỳ theo mỗi ơn gọi. Có ba hình thức sống khiết tịnh: khiết tịnh của bậc hôn nhân, khiết tịnh của người góa bụa và khiết tịnh của kẻ đồng trinh. Giáo Hội không ca tụng lối sống này mà loại bỏ lối sống khác. Hiển nhiên, như hoa quả của Chúa Thánh Thần, khiết tịnh không phải là điều người ta có thể đạt đến nếu không muốn bỏ công cầu nguyện hay nỗ lực. Quả ngọt trên cây thường xuất hiện sau cùng. Vì thế, để là hoa quả  của Thánh thần, đòi hỏi một quá trình vun trồng thật tốt trong ơn nghĩa Chúa. Để bắt đầu sống khiết tịnh trong thế giới với đủ loại cám dỗ, bạn phải có một đời sống nội tâm mạnh mẽ; kết hiệp với Chúa qua việc ăn chay hãm mình, tham dự Thánh Lễ thường xuyên và lãnh nhận các bí tích sẽ là những việc cần thiết cho những ai muốn đạt được nhân đức này.

LẮNG NGHE: Thánh Phaolô viết: “Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu. Chúng ta hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương. Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thoả mãn các dục vọng” (Rm 13:12-14).

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa Thánh Thần là hơi thở của hồn con, xin tạo cho con một quả tim trong sạch, với đôi mắt trong ngần và thanh khiết để con chiêm ngưỡng vinh quang của Chúa.

THỰC HÀNH: Xoá bỏ những kênh YouTube không lành mạnh. 

From: Do Dzung

**************************

Quả Tim Trong Sạch – Thánh Vịnh 50

Quốc tế đồng loạt kêu gọi trả tự do cho nhà báo Phạm Đoan Trang

Ba’o Dat Viet

May 28, 2025

 HÀ NỘI — Nhân ngày sinh nhật lần thứ 46 của nhà báo độc lập Phạm Đoan Trang (25 Tháng Năm, 1978), bốn tổ chức nhân quyền quốc tế đã lên tiếng yêu cầu nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam trả tự do ngay lập tức và vô điều kiện cho bà – người đang thụ án 9 năm tù vì các hoạt động ôn hòa, phản biện xã hội.

Trong một tuyên bố chung, các tổ chức gồm Phóng Viên Không Biên Giới (RSF), Ủy Ban Bảo Vệ Nhà Báo (CPJ), Hội Văn Bút Hoa Kỳ (PEN America) và Sáng Kiến Pháp Lý Việt Nam (LIV) nhấn mạnh rằng tình trạng giam giữ bà Trang là “không thể chấp nhận được” và kêu gọi cộng đồng quốc tế gia tăng áp lực để Hà Nội chấm dứt sự đàn áp đối với giới làm báo độc lập.

“Xuyên qua các bài viết nghiêm túc và với sự can đảm khác thường, Phạm Đoan Trang là biểu tượng cho cuộc đấu tranh vì quyền được biết và tự do báo chí tại Việt Nam. Việc bà bị cầm tù là điều không thể dung thứ,” bà Aleksandra Bielakowska, Giám đốc Vận động khu vực Châu Á – Thái Bình Dương của RSF tuyên bố. Bà cũng nhấn mạnh tình trạng sức khỏe đáng lo ngại của bà Trang sau gần 5 năm bị giam giữ, và yêu cầu nhà chức trách phải cho bà tiếp cận đầy đủ các dịch vụ y tế độc lập.

Bà Phạm Đoan Trang bị bắt vào Tháng Mười, 2020 tại Sài Gòn, sau nhiều năm bị theo dõi và sách nhiễu vì các bài viết phản ánh hiện thực xã hội Việt Nam dưới sự cai trị của một chế độ độc đảng. Bà bị tuyên án 9 năm tù vào cuối năm 2021 với cáo buộc “tuyên truyền chống nhà nước” – một điều khoản mơ hồ trong Bộ luật Hình sự Việt Nam, lâu nay bị giới quan sát quốc tế xem là công cụ để dập tắt tiếng nói bất đồng.

Trước khi bị bắt, bà Trang là một trong những tiếng nói nổi bật nhất trong giới báo chí độc lập tại Việt Nam. Bà là đồng sáng lập Luật Khoa tạp chí – một trang báo mạng chuyên cung cấp kiến thức pháp lý và chính trị cho công chúng – và là tác giả của nhiều tài liệu hướng dẫn người dân tự bảo vệ quyền lợi hợp pháp. Năm 2019, RSF vinh danh bà với giải thưởng “Tự do báo chí.” Một năm sau, Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ trao tặng bà danh hiệu “Phụ nữ can đảm toàn cầu.”

Bà Trang là hiện thân của thế hệ trí thức trẻ, dám lên tiếng trước bất công, đấu tranh ôn hòa vì quyền con người, và chấp nhận mọi hiểm nguy – bao gồm cả tù đày – để đòi hỏi một xã hội công bằng, minh bạch hơn.

Việc bà bị giam giữ tiếp tục gây phẫn nộ trong giới hoạt động quốc tế, vốn lâu nay vẫn chỉ trích tình trạng đàn áp tự do ngôn luận tại Việt Nam. Các tổ chức nhân quyền cho rằng bản án dành cho bà Trang là bằng chứng rõ ràng cho thấy chính quyền Cộng sản Việt Nam đang bóp nghẹt quyền tự do biểu đạt, bất chấp những cam kết với cộng đồng quốc tế.

Thông điệp từ tuyên bố chung là rõ ràng: Phạm Đoan Trang không nên ở trong tù. Việc bà bị giam giữ không chỉ là một sự bất công cá nhân, mà còn là lời cảnh báo đáng sợ về tình trạng tự do báo chí đang bị đe dọa nghiêm trọng tại Việt Nam. Và nếu cộng đồng quốc tế tiếp tục im lặng, những tiếng nói như của bà Trang có thể sẽ mãi mãi bị bịt kín sau song sắt.