QUÊ NGHÈO – Phạm Duy – THÁI THANH – BP
httpv://www.youtube.com/watch?v=JPCEiqDKs20&feature=em-uploademail

Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em (Mt 5,44)
httpv://www.youtube.com/watch?v=JPCEiqDKs20&feature=em-uploademail
Tay Trái của Chúa (La Main Gauche de Dieu)
Vũ Huy Thiện
11/30/2012
Nhân đọc bài “La Main Gauche De Dieu” của bạn Huyền trong Đặc San Hè ATN 2011, bất giác bao nhiêu kỷ niệm đều thức dậy trong tâm tư, mà bấy lâu vẫn ấp ủ trong lòng:
Buổi trưa hôm ấy, một ngày trời âm u ảm đạm, đứng trước cảnh núi rừng trùng
trùng điệp điệp của vùng rừng núi Hoàng Liên Sơn, và sau khi hoàn thành xong
chỉ tiêu ấn định của cán bộ cai tù, tôi ngồi xuống nghỉ chân vài phút. Vừa ngồi
xuống, thì kìa, phía dưới trước mặt, một cái nón lá cũ tả tơi, cùng với mấy
miếng quần áo cũ rách mà ai đó đã để lại, Bất thần trong tôi, bùng lên cái ký
ức về anh chàng phi công Mỹ trong phim nói tiếng Pháp với tựa đề: “La Main
Gauche de Dieu”, được trình chiếu tại rạp Rex Sài gòn khoảng năm 1969 hay 1970
(không nhớ rõ lắm): trong mơ tưởng, tôi như thấy rõ anh ta đang lượm lên cái áo
chùng thâm của vị linh mục xấu số, anh mặc vào người để giả làm một Linh Mục,
rồi ung dung tới một giáo xứ nhỏ bé nơi vùng rừng núi này. Tôi mỉm cười thấy
anh đã hoàn thành tốt tác vụ của một linh mục chủ chăn, đã biến giáo xứ này
thành một nơi sầm uất thờ phượng Chúa.
Tự so sánh anh chàng Phi công với chính mình: anh chàng phi công này giống tôi
ở chỗ, là người công giáo, là một quân nhân, đã từng là chú bé giúp lễ, còn
tôi, tôi cũng là người công giáo, cũng là một quân nhân, đã từng là chú bé giúp
lễ; nhưng tôi hơn anh ta nhiều vì tôi đã từng được Giáo Hội Công giáo nuôi
dưỡng và dậy dỗ để trở thành linh mục, và nếu không tura (danh từ để chỉ những
người tu xuất), thì chắc chắn giờ này đây tôi đã là linh mục thứ thiệt rồi. Anh
trong hoàn cảnh giáo xứ không có linh mục, tức là không có cánh tay Mặt của
Thiên Chúa, vì thế, bất đắc dĩ anh trở thành cánh tay trái của Thiên Chúa, anh
đã thành công. Bây giờ đến lượt tôi, cũng trong hoàn cảnh không có linh mục,
không có cánh tay phải của Chúa nơi trại giam này. Phải làm gì bây giờ? Tôi có
thể thành công như anh ta không?
Tôi thầm thĩ cầu xin: “Lạy Chúa, xin cho con biết ý Chúa, biết mình phải làm
gì?” tôi liền thề hứa với Chúa: “Lạy Chúa, con xin hứa cố gắng hết sức sống đẹp
lòng Chúa và làm những gì Chúa muốn”. từ trong tận đáy lòng tôi có tiếng:
“ngươi có còn “chối” Ta nữa không? Ngươi có “hứa Lèo” không đây?”
Chả là vì vào năm 1948, khi quân Pháp tấn công miền Bắc, mọi người phải tản cư,
nhà xứ Yên Mỹ trong đó có tôi cũng tản cư. Trên đường khi đang cùng đi với một
nữ tu để tới “lán” (danh từ chỉ những căn lều nơi tản cư), tôi bị một tên công
an bắt giữ, họ dẫn đi suốt buổi chiều và đêm hôm đó tới một nhà tù có lẽ từ
thời Pháp để lại, nó kín cổng cao tường và xây kiên cố.
Vừa bước vào cánh cửa nhỏ bên hông, tên công an đứng sẵn, nắm ngực tôi, ấn vào
cánh cổng lớn bằng gỗ, tôi vội vàng kêu lên: “Giêsu…Ma…”
“Mày kêu Giêsu hả?” tên công an nạt to.
Tôi vội chối ngay: “thưa không ạ.” Đấy là lần chối Chúa mà suốt đời không bao
giờ tôi có thể quên được. Và đấy cũng là kinh nghiệm đau thương của cả cuộc đời
tôi.
Được dẫn vào một căn phòng nhỏ tường cao, không có cửa sổ, không có gì khác
trong phòng ngoài tấm phên đan bằng nứa vuông vít chứng 2 mét mỗi bề, được nằm
chung với một thanh niên, mà mãi tới sáng tôi mới biết anh ta là một thanh niên
công giáo thuộc giáo xứ Nội Bài.
Đêm ấy tôi không thể chợp mắt vì sợ hãi, lo âu… Ngồi dậy đọc kinh, sau khi đọc
hết năm chục kinh mùa thương, tôi cầu khấn Mẹ Hằng Cứu Giúp và hứa với Mẹ khi
được tha về,hằng ngày sẽ đọc ít là năm chục kinh…
Hai ngày sau được tha về, giữ lời hứa được ít ngày, rồi ba bảy hai mốt ngày,
lời hứa ấy đã thành lời “Hứa Lèo”. Đó là lý do mà tiếng lương tâm vừa cảnh giác
tôi.
Giật mình trở lại với thực tại, tôi đứng dậy đi về trại giam với quyết tâm lần
này không hứa lèo nữa.
Thế rồi từ hôm ấy, cùng với một nhóm anh em công giáo trong trại tù Hà Tây,
chúng tôi thường chia sẽ với nhau câu chuyện người phi công Mỹ này và về vai
trò của mình, bàn tay trái của Chúa. Còn phần mình, ước ao được trở thành ngón
tay út của “La Main Gauche De Dieu”. Nhờ đó, chúng tôi gặt hái được những thành
quả đáng mừng, nhiều người chưa biét Chúa bây giờ họ đã học đạo và đã chịu Phép
Rửa để trở thành Kitô hữu, nhất là trường hợp đặc biệt sau đây:
LỄ ÐỒNG TẾ RỬA TỘI TRONG TRẠI TÙ CỘNG SẢN Hà Tây.
Câu Chuyện khó tin, nhưng có thật. Chắc ai cũng biết rằng trong chế độ vô thần
cộng sản, họ không công khai tuyên bố cấm đạo, nhưng trên thực tế, họ làm đủ
mọi cách, và dùng đủ mọi phương tiện có thể, để hủy diệt hay cấm cản các hoạt
động của đạo Công giáo. Đấy là nói về xã hội bên ngoài. Vâng, còn trong các
trại tù thì hoàn toàn không thể có các hoạt động tôn giáo với họ được. Thế
nhưng, nó đã xẩy ra ngay trong trại tù Hà Tây gần Hà Nội. Rất nhiều lần và
nhiều anh em Tân tòng đã được rửa tội. Thường là kín đáo và bởi những giáo dân
chúng tôi thực hiện.
Hôm ấy đúng ngày lễ nghỉ, tất cả các tù nhân được nghỉ lao động. Trong không
khí vui vẻ, mọi người đang tu tập từng nhóm nhỏ để chuyện trò, uống nước trà,
hút thuốc “lào” thứ thuốc thông dụng nhất trong tù. Thì trong góc của căn buồng
phụ, một nghi lễ Rửa Tội đã diễn ra. Ðây là một nghi thức Rửa Tội đặc biệt
trong trại tù Hà Tây, một buổi lễ vô tiền khoáng hậu. Vâng , nó quá đặc biệt vì
:
– Tôi chưa hề nghe ai nói đến một thánh lễ đồng tế trong nhà tù cộng sản,
– hơn nữa đây lại là một thánh lễ đồng tế do 3 linh mục và có kèm theo nghi lễ
rửa tội.
Nhóm tổ chức chúng tôi đã liên lạc được với 3 Linh mục tuyên úy mới được đưa về
đây, xin các ngài tới cử hành các nghi thức Thánh lễ và ban Bí tích rửa tội cho
một tù nhân.
– Chủ Tế: Cha Nguyễn Văn Bỉnh (gốc Giáo phận Bắc Ninh),
– Ðồng tế: Cha Phan Quốc Túy (gốc điạ phận Phát Diệm, đội trưởng đội Tuyên Úy)
và Cha Hưởng
-Tín hữu tham dự khoảng mươi người gồm các bạn bè của anh Lý, trong đó có Anh
Nguyễn Hữu Thế (hiện ở Atlanta), Anh Hà Lý Luận hiện đang ở Kansas và tôi…,
người được Anh Lý chọn làm Bõ Đỡ Đầu…
Sau khi nguyện kinh, nghi lễ rửa tội cho anh Võ Minh Lý bắt đầu.
Cha Bỉnh chủ tế đã đổ nước trên đầu anh Vicentê đệ Phao Lô Võ Minh Lý với nghi
thức thật đơn giản, vì sợ công an họ biết, sẽ gặp rắc rối, tuy nhiên, chúng tôi
ai nấy đều cảm thấy rất sốt sắng, và cảm động.
Tiếp theo sau Bí Tích Rửa tội là Thánh lễ đồng tế.
Thánh lễ đã cử hành khá trang nghiêm và đơn giản.
Thánh lễ vừa chấm dứt, nước trà, bánh keo được dọn ra để mừng cho Anh Lý, anh
nguyên là Giám Ðốc phòng tình báo đường dây Bắc Việt thuộc Phủ Tổng Thống Việt
Nam Cộng Hoà, hiện nay anh và vợ con đang ở Sarcramento California.
Kể từ hôm ấy, anh đã là một Kitô hữu, một chứng nhân nhiệt thành của Chúa Giêsu
Kitô.
Cảm ơn Chúa, thánh lễ chấm dứt một cách suông sẻ, không một rắc rối nào xẩy ra.
Nhưng trong khi chúng tôi đang vui vẻ uống trà và thưởng thức bánh kẹo thì được
tin báo cho biết, một viên công an trực trại đang đi vào, (trước thánh lễ chúng
tôi bố trí 2 trạm gác: 1 tại cổng khu vực, và một tại ngay trước cửa sổ của căn
phòng này), y đi từ cổng khu vực, rảo bước nhanh qua một sân rộng, không nói năng
hay hỏi han ai điều gì mà vào thẳng cửa buồng lớn bên ngoài rồi vào tới chỗ
chúng tôi đang ngồi. Mọi người đều im lặng khi viên công an xuất hiện.
Y hỏi: “Các anh lày đang nàm gì ở đây”.
Anh Hà Lý Luận (có biệt danh là Nhái) đáp: “Hôm nay ngày nghỉ chúng tôi gặp
nhau uống nước trà, hút thuốc!”
Viên công an ra lệnh: “giải tán ngay, còn Anh Túy , Anh Hưởng và anh Bỉnh (ba
cha tuyên úy) về ngay buồng của các anh…cứ ninh tinh…nàm thì nười… ninh tinh
thì giỏi”.
Cha Túy đáp: “Chúng tôi uống nước xong về ngay”
Viên công an: “Không được, phải về ngay nập tức.”
Thế là mọi người giải tán trong niềm tri ân Thiên Chúa vì – công an đã được tin
trễ, nên khi mọi nghi lễ chấm dứt và đã sang tới phần mừng vui, tiệc trà thì họ
mới tới .
Cảm tạ Chúa nhiều hơn nữa vì khi được tha về, anh Lý đã kiên trì giữ vững đức
tin và anh còn đưa cả vợ anh và hai con cùng chịu phép rửa tội tại một xứ đạo
tại California. Mùa hè năm 2007 có dịp sang California , tôi đã ghé thăm Anh
tại Sacramento, ở chơi với Anh hai ngày. Những ngày này, tôi thật vui mừng vì
thấy hạt giống đức tin của Anh đã truyền đạt cho các con Anh, vì cứ mỗi tối
trước khi đi ngủ, tôi thấy các con Anh đều chạy đến trước bàn thờ đọc vài ba
kinh gì đó rồi mới đi ngủ. Thấy thế lòng tôi hân hoan một nỗi vui mừng không thể
tả nổi… Nỗi vui mừng càng tăng khi tôi cũng được gặp lại Anh Triệu Huỳnh Võ
cũng ở gần đó, Anh nguyên là Thứ Trưởng Thông Tin Chiêu Hồi của Chế độ Việt Nam
Cộng Hoà, và Anh Võ cũng đã là một người theo Chúa trong tù, Anh và vợ con cũng
Anh theo Chúa. Cảm tạ ơn Chúa muôn ngàn lần…..
Bây giờ đây chúng tôi Nhóm bạn hữu luôn cầu nguyện cho Anh Lý và thành thật
chúc mừng anh. Ðặc biệt nguyện xin Thiên Chúa đổ tràn muôn ơn lành hồn xác
xuống cho anh và gia đình để luôn xứng đáng là Con Dân Chúa trong mọi hoàn cảnh
của cuộc sống.
(Hồi ký của người tù cải tạo Vũ Huy Thiện)


30 Tháng Tư, ngày định mệnh.

Cha Stêphanô Chân Tín vừa qua đời lúc 16:15, ngày 01.12.2012
Đăng bởi pleikly lúc 6:02 Chiều 1/12/12
VRNs (01.12.2012) – Sài Gòn – ChaChân Tín vừa qua đời lúc 16:15, ngày 01.12.2012, tại Nhà hưu dưỡng – Tỉnh DCCTN, số 38 Kỳ Đồng, Sài Gòn.
Sau đây là thông tin chính thức từ Văn phòng Tỉnh DCCT VN, VRNs xin kính chuyển đến quý vị độc giả gần xa. Kính xin quý vị cầu nguyện cho cha Chân Tín và loan tin cho những người cần biết.
———
CHA STÊPHANÔ NGUYỄN TÍN (CHÂN TÍN), DCCT
Sinh ngày 15.11.1920, tại làng Vạn Xuân, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên-Huế
Ngày 02.08.1944: Khấn lần đầu trong DCCT
Ngày 06.06.1949: Lãnh sứ vụ Linh mục
được gọi về nhà Cha lúc 16g15 ngày 01 tháng 12 năm 2012, hoàn tất hành trình 92
năm ở trần gian, 68 năm tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế, 63 năm thi hành sứ vụ Linh mục.
Thánh lễ nhập quan cử hành lúc 16 giờ 30, ngày Chúa Nhật 02.12.2012.
Nghi thức di quan cử hành lúc 21 giờ 00, thứ Hai 03.12.2012.
Thánh lễ an táng cử hành lúc 6 giờ 00, thứ Ba 04.12.2012, tại Đền Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Sài Gòn.
Địa chỉ: 38 Kỳ Đồng, Phường 9, Quận 3.
Điện thoại: (08) 38437715, Ext. 105
Email: dcctvn@gmail.com
Hoả táng tại Bình Hưng Hoà.
Xin hiệp lời cầu nguyện cho Cha Stêphanô Chân Tín.
Xin miễn phúng viếng vòng hoa các loại.
Khoa học và Đức tin, hai phân tử sơ đẳng trong cuộc sống con người
Đăng bởi pleikly lúc 1:23 Sáng 1/12/12

VRNs (01.12.2012) – Avvenire – Phỏng vấn giáo sư Ugo Amaldi, vật lý gia thuộc Trung Tâm Nghiên Cứu Năng Lượng Nguyên Tử Âu châu ở Genève bên Thụy Sĩ
Ngày 16-11-2012 giáo sư Ugo Amaldi, chuyên viên vật lý thuộc Trung tâm nghiên
cứu năng lượng nguyên tử Âu châu ở Genève bên Thụy Sĩ, đã nhận Giải thưởng quốc
tế về nền văn minh công giáo tại Viện bảo tàng công dân Bassano del Grappa tỉnh
Vicenza, bắc Italia. Lý do giải thưởng là vì ”tình yêu đối với khoa học và tình
yêu đối với đức tin”.
Giáo sư Ugo Amaldi sinh năm 1934, đậu tiến sĩ Vật lý năm 1957 tại đại học Roma và chuyên nghiên cứu trong lãnh vực gia tốc các phân tử. Từ năm 1960 giáo sư thuộc nhóm các khoa học gia của Trung tâm nghiên cứu năng lượng nguyên tử Âu châu tại Genève bên Thụy Sĩ. Từ năm 1982 giáo sư cũng dậy môn vật lý nguyên tử tại đại học Milano bắc Italia. Giáo sư cũng là tác giả của nhiều sách và các bài khảo luận liên quan tới khoa học và đức tin, và trong các năm qua đã tham dự nhiều hội nghị và các cuộc thảo luận về đề tài khoa học và đức tin. Sự kiên trì của giáo sư đã giúp hoàn thành việc xây dựng Trung tâm quốc gia xạ trị ung thư (CNAO) khánh thành ngày 15
tháng 2 năm 2010 tại Pavia.
Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phỏng vấn giáo sư về tương quan giữa khoa học và đức tin.
Hỏi: Thưa giáo sư Amaldi, khoa học có gì để dậy cho đức tin không?
Đáp: Các khoa học nghiên cứu các hiện tượng thiên nhiên, và trong
các sự kiện chúng không có gì để nói với đức tin. Tuy nhiên, các khoa học gia
có đức tin và những người đặt câu hỏi liên quan tới đức tin cảm thấy sự cần
thiết phải sát nhập đức tin vào quan điểm vật lý về thế giới một cách mạch lạc.
Mà khi làm như vậy họ phải đương đầu với các câu hỏi trong lãnh vực biên giới
giữa vài khẳng định của Kitô giáo và những gì họ biết liên quan tới thế giới
thiên nhiên. Đây là các khó khăn mà đôi khi những người không phải là các nhà
khoa học cũng có thể được soi sáng.
Hỏi: Giáo sư có thể đơn cử một thí
dụ cụ thể không?
Đáp: Vâng. Điểm trước hết liên quan tới vấn đề cái chết và sự khổ
đau. Theo đức tin kitô chúng là hậu qủa của tội lỗi. Nhưng một khoa học gia thì
coi cái chết và sự khổ đau là một điều cần thiết. Bởi vì nếu không có chúng,
thì cũng sẽ không có sự tiến triển, và hậu qủa là cũng sẽ không có tiến triển
của con người khôn ngoan với trí thông minh của nó. Đó là hai điều xem ra không
đồng ý với nhau. Đàng khác, người ta không thể không ngạc nhiên đối với sự phức
tạp và cái luận lý nằm ở bên dưới đa số các hiện tượng tự nhiên này, và điều
này là một rộng mở cho sự siêu việt đối với một khoa học gia có đức tin.
Hỏi: Tại sao trong cuộc tranh luận giữa khoa học và đức tin đã hầu như không có gương mặt của Đức Kitô, thưa giáo sư?
Đáp: Thật vậy và rất tiếc là trong các cuộc tranh luận ấy Đức Giêsu đã hầu như không bao giờ xuất hiện. Người ta thích nói tới Thiên Chúa Tạo Hóa hơn, là Đấng đã duy trì vũ trụ hiện hữu. Người ta không bao giờ gắn liền gương mặt của Chúa Kitô với các hiểu biết của các khoa học gia, và người ta cũng không bao giờ gắn liền các sự hiểu biết với Chúa Thánh Thần, mà như là khoa học và sự khôn ngoan thì thật là đúng đề tài. Nhưng tôi nghĩ lý do là nơi sự kiện tương quan cá nhân mà tín hữu có đối với Chúa Kitô koàn toàn khác hẳn với tương quan vô bản vị mà nhà khoa học có với các hiện tượng thiên nhiên, mà ông nghiên cứu. Họ di chuyển trên các bình diện khác nhau. Trái lại, Thiên Chúa Tạo Hóa gắn liền chặt chẽ với thiên nhiên, là đối tượng nghiên cứu học hỏi của khoa học gia.
Hỏi: Thưa giáo sư Amaldi, các cuộc thảo luận ngày càng thường xuyên về tương quan giữa khoa học và đức tin có khiến cho một tâm thức bén nhậy mới được chín mùi trong thế giới khoa hoc không?
Đáp: Kinh nghiệm riêng cho tôi biết rằng cuộc thảo luận này chỉ được coi là hay bởi những người đặt vấn đề đức tin, cả khi họ là những người không tin. Các người bất khả ngộ, và các người vô thần tiếp tục khó chịu coi tương quan giữa khoa học và đức tin là vô ích.
Hỏi: Trong cuốn sách cuối cùng tựa đề ”Ngày càng gần nhau hơn” giáo sư giải thích các lý do, qua đó các nhà vật lý học làm cho các phân tử gia tốc, có đúng thế không?
Đáp: Vâng, một cách nòng cốt có ba lý do. Thứ nhất để ngày càng
nghiên cứu trong chi tiết thế giới hạ nguyên tử; thứ hai, để tạo ra trong các
va chạm giữa các phân tử, các phân tử mới không hiện hữu trong thế giới bao
quanh chúng ta, nhưng chúng hiện hữu trong một phần tỷ giây sau vu nổ khai
nguyên vũ trụ, hầu nghiên cứu các tương quan gắn liền với các phân tử làm thành
vật chất. Và lý do thứ ba có lẽ là lý do hấp dẫn nhất được chỉ huy bởi ước muốn
tái dựng lại sự tiến triển của vũ trụ bắt đầu từ một phần tỷ giây ấy, hầu minh
giải sự hình thành các vì sao và các dải ngân hà đã xảy ra bao tỷ năm sau đó.
Hỏi: Thưa giáo sư, ngày mùng 4 tháng 7 năm nay 2012 Trung tâm nghiên cứu năng lượng nguyên tử Âu châu ở Genève bên Thụy Sĩ đã loan báo một khám phá ngoan mục. Đó là khám phá gì vậy?
Đáp: Người ta đã chứng minh được sự hiện hữu của một lãnh vực, một phương thế vô vật chất làm đầy toàn không gian, tác động trên nhau với các phân tử đi qua nó bằng cách làm cho vài phân tử chậm lại hơn các phân tử khác, và vì thế cung cấp cho chúng khối lượng lớn hơn hay nhỏ hơn.
Sự hiện hữu của lãnh vực này đã được minh chứng khi quan sát các dao động được định vị trí của nó, được tạo ra trong sự va chạm của các phân tử Higgs. Vì thế đối với các nhà vật lý các phân tử này gọi là Bossone Higgs, là một phương tiện, chứ không phải là mục đích nghiên cứu của họ. Một phương tiện cho phép khẳng định rằng không gian được hoàn toàn làm đầy bởi một môi trường, mà chúng tôi gọi là môi trường Higgs, nghĩa là cái gì trao ban khối lượng cho các phân tử.
Hỏi: Nói một cách cụ thể, đó là điều trao ban khối lượng cho thân thể của tôi và thân thể của giáo sư, có phải thế không?
Đáp: Vâng. Nếu các điện tử electron xoay quanh các hạt nhân của
thân thể tôi có một khối lượng và không bao giờ ngừng xoay, thì là bởi vì có
môi trường Higgs. Nếu thân xác tôi bị hủy bỏ, thì nó sẽ vỡ tan tành.
Hỏi: Vào năm 1992 giáo sư đã thành lập tổ chức Tera để chữa trị bằng các phản xạ adronic. Nó có nghĩa là gì thưa giáo sư?
Đáp: Mỗi năm có 120.000 người Ý được xạ trị với các tia hồng ngoại
tuyến X, nghĩa là được xạ trị chống lại các bệnh ung thư. Cùng với giải phẫu và
hóa trị, xạ trị là phương pháp chữa các bệnh ung thư. Tuy nhiên, các điện tử
proton và ion Carbon có khả năng chính xác hơn các tia hồng ngoại X, và vì thế
chúng cứu các tế bào và các cơ phận lành mạnh ở rất gần các tế bào ung thư. Đây
là điều xảy ra trong 10% các trường hợp. Năm 2003 Tổ chức Tera đã hoàn thành
tại Pavia dự án một máy tăng tốc các proton và ion Carbon. Được chế tạo bởi
”Trung tâm quốc gia xạ trị ung thư Italia” (CNAO) và ”Học viện quốc gia vật lý
nguyên tử Pavia” (INFN), máy này đã trị liệu cho một bệnh nhân ung thư đầu tiên
hồi tháng 9 năm 2011, và dự trù sẽ trị bệnh cho khoảng 1.000 bệnh nhân mỗi năm.
Hiện nay còn qúa sớm để có các số liệu kiểm chứng hiệu qủa của nó. Nhưng đây là
một lãnh vực trong đó người Nhật đã đi tiên phong, và trên toàn thế giới hiện
nay chỉ có một trung tâm khác như trung tâm tại Pavia đó là trung tâm
Heidelberg bên Đức.
Linh Tiến Khải
Radio Vatican – Tiếng Việt
Hạnh Các Thánh Tháng 12
1/12 – Chân phước Gioan Vercelli (khoảng năm 1205-1283)

Ngài sinh gần Vercelli, Tây Bắc Ý. Không biết rõ về cuộc đời ngài lúc đầu. Ngài vào Dòng Đa Minh hồi thập niên 1240 và giữ các chức vụ lãnh đạo trong niều năm. Ngài được bầu làm tổng đại diện Dòng Đa Minh năm 1264, ngài phục vụ gần 20 năm. Ngà nổi tiếng có nghị lực và giản dị, thường đi bộ tới thăm các cơ sở Dòng Đa Minh, thúc giục các tu sĩ sống vâng lời và giữ hiến pháp Dòng.
Ngài được 2 vị giáo hoàng trao trọng trách đặc biệt. ĐGH Grêgôriô X giúp ngài
và các tu sĩ Dòng Đa Minh để giúp ổn định nước Ý đang gặp rắc rối với nước
khác. Ngài được mời phác thảo chương trình Công đồng Lyon II năm 1274. Tại công
đồng này ngài đã gặp Giêrônimô Ascoli (sau là ĐGH Nicôla IV), lúc đó là tổng
đại diện Dòng Phanxicô. Thời gian sau, hai vị này được Rôma phái đi điều đình
vấn đề liên quan vua Philip III của Pháp. Một lần nữa, chân phước Gioan
Vercelli có thể biểu hiện tài thương thuyết và kiến tạo hòa bình.
Sau Công đồng Lyon II, ĐGH Grêgôriô X giao cho ngài nhiệm vụ rao truyền lòng
sùng kính Thánh danh Chúa Giêsu. Ngài yêu cầu mỗi nhà nguyện của Dòng Đa Minh
đều có bàn thờ tôn sùng Thánh danh Chúa Giêsu, và thành lập những nhóm chống
lại việc báng bổ và coi thường. Tới cuối đời, ngài được giao trách nhiệm làm
giáo phụ Giêrusalem, nhưng ngài từ chối. Ngài vẫn là tổng đại diện Dòng Đa Minh
cho đến khi qua đời.
2/12 – Chân phước Rafal Chylinski (1694-1741)

Ngài sinh gần Buk, thuộc vùng Poznan tại Ba Lan, tên thật là Melchior. Ngài tỏ ra đạo đức rất sớm, nên gia đình gọi ngài là “tu sĩ nhỏ”. Sau khi học xong tại ĐH Dòng Chúa Cứu Thế ở Poznan, ngài gia nhập kỵ binh và và được thăng cấp sĩ quan trong vòng 3 năm.
Năm 1715, ngài vào Dòng Phanxicô ở Kraków, lấy tên dòng là Rafal, và 2 năm sau
được thụ phong linh mục. Sau khi làm mục vụ ở 9 thành phố, ngài tới Lagiewniki
(miền Trung Ba Lan), và ở đây 13 năm. Ở đâu ngài cũng nổi tiếng là giản dị,
giảng hay, đại lượng. Mọi người noi gương hy sinh của ngài. Ngài chơi đàn harp,
đàn lute và mandolin để hòa theo các bài thánh ca phụng vụ. Tại Lagiewniki,
ngài phân phát lương thực và quần áo cho người nghèo.
Sau khi qua đời, mộ ngài được nhiều khách hành hương kính viếng ở Ba Lan. Ngài
được phong chân phước tại Warsaw năm 1991.
3/12 – Thánh Phanxicô Xaviê, Linh mục, Bổn mạng các xứ
truyền giáo (1506-1552)

“Nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống thì nào có lợi gì?” (Mt 16:26). Lời này cứ lặp đi lặp lại trong đầu vị giáo sư triết học đang có triển vọng thăng tiến nghề nghiệp tại các học viện. Nhưng không để ý lắm tới lời nói đó, vì lúc đó
ngài là giáo sư trẻ mới 24 tuổi, dạy tại Paris.
Bạn thân của ngài là thánh Inhaxiô Loyola đã kiên trì thuyết phục và ngài đã theo
Chúa Kitô. Ngài theo hướng dẫn của thánh Inhaxiô, và năm 1534 ngài gia nhập
cộng đoàn nhỏ (nay là Dòng Chúa Cứu Thế). Tại Montmartre, họ cùng khấn Khó
nghèo, Khiết tịnh và Làm tông đồ theo chỉ thị của ĐGH.
Ngài thụ phong linh mục tại Venice năm 1537, sau đó ngài đi tàu tới Lisbon rồi
đi Đông Ấn, cặp bến tại Goa, Tây duyên hải Ấn Độ. Ngài dành nhiều thời gian ở
Ấn Độ, và làm giám tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế mới thành lập của tỉnh dòng Ấn Độ.
Đi đâu ngài cũng sống với những người nghèo khổ nhất, chia sẻ lương thực và ở
những nơi nghèo khhó với họ. Ngài dành nhiều thời gian cho người nghèo và người
bệnh, nhất là người phong cùi. Ngài thường không có thời gian ngủ hoặc đọc kinh
nhật tụng nhưng, theo thư ngài viết, ngài rất vui.
Ngài đến các đảo ở Malaysia, rồi sang Nhật. Ngài học tiếng Nhật đủ để giảng đơn
giản với dân chúng, để hướng dẫn họ, rửa tội cho họ, và lập các hội truyền
giáo. Ở Nhật, ngài muốn đến Trung quốc nhưng dự định này không bao giờ hiện
thực vì ngài qua đời trước khi thỏa ước nguyện. Di hài ngài hiện nay còn ở Nhà
thờ Chúa Giêsu Nhân lành tại Goa.
4/12 – Thánh Gioan Damascô, Giáo phụ (676?-749)

Đa số cuộc đời ngài ở tại tu viện Thánh Sabas, gần Giêrusalem. Ngài sinh tại Damascô, học thần học và cổ điển. Sau một thời gian, ngài vào dòng Thánh Sabas.
Ngài nổi tiếng về 3 lĩnh vực. Thứ nhất, bài trừ ngẫu tượng; thứ nhì, luận
thuyết (Luận thuyết Exposition of the Orthodox Faith là bản tóm lược các
giáo phụ Hy Lạp, và ngài là giáo phụ cuối cùng, và được coi là bộ Tổng luận
Thần học của Đông phương); thứ ba, ngài là một trong các thi sĩ nổi tiếng của
Giáo hội Đông phương. Ngài rất tôn sùng Đức Mẹ, các bài giảng của ngài về Đức
Mẹ đều rất nổi tiếng.
5/12 – Thánh Sabas, Ẩn tu (trước năm 439)

Ngài sinh tại Cappadocia (nay là Thổ Nhĩ Kỳ), là một trong các giáo phụ của Palestine và được coi là một trong những vị sáng lập đời sống tu trì Đông phương.
Tuổi thơ ngài không hạnh phúc, ngài bị lạm dụng và phải bỏ trốn vài lần, cuối
cùng xin tị nạn trong một tu viện. Gia đình thuyết phục ngài trở về, nhưng ngài
nhất quyết đi tu. Tuy còn trẻ nhưng ngài có tiếng nhân đức.
Lúc 18 tuổi, ngài đi Giêrusalem, tìm cách sống cô tịch. Ngài được coi là người
hoàn toàn sống ẩn tu. Mới đầu ngài sống trong tu viện, ban ngày làm việc, ban
đêm cầu nguyện. Lúc 30 tuổi, mỗi tuần ngài được phép sống 5 ngày trong một hang
động hẻo lánh để cầu nguyện và đan rổ rá. Cố vấn của ngài là thánh Euthymiô.
Sau khi thánh Euthymiô qua đời, thánh Sabas chuyển tới sa mạc gần Giêricô.
Nngài sống vài năm ở đây trong một hang động gần suối Cedron. Ngài ăn cỏ dại
mọc trên đá. Thi thoảng có người đem cho ngài ít thực phẩm khác, còn nước uống
phải đi khá xa mới có.
Khi đã ngoài 50 tuổi, ĐGM thuyết phục ngài chịu chức linh mục để phục vụ và
lãnh đạo tu viện. Khi làm viện phụ của một cộng đoàn lớn, ngài cảm thấy mình có
ơn gọi sống ẩn tu. Vào các mùa Chay, ngài đi xa một thời gian. Khi thấy nhà
dòng gặp khó khăn, ngài giúp đỡ nhiều.
Ngài đi khắp Palestine, rao giảng đức tin và đem được nhiều người về với giáo
hội. Lúc 91 tuổi, theo lời của giáo phụ Giêrusalem, ngài tới Constantinople.
Ngài bị bệnh, ngay khi vừa trở về thì ngài qua đời tại tu viện ở Mar Saba. Ngày
nay, tu viện này vẫn có các tu sĩ Chính thống giáo Đông phương sống ở đó.
6/12 – Thánh Nicôla, Giám mục Tiến sĩ (qua đời năm 350?)

Cả Giáo hội Đông phương và Tây phương đều tôn kính ngài. Sau Đức Mẹ, ngài là vị thánh được các họa sĩ Kitô giáo vẽ chân dung nhiều nhất. Theo lịch sử, ngài là giám mục GP Myra, thuộc Lycia, một tỉnh của Tiểu Á.
Có nhiều truyện về ngài đầy màu sắc xuyên suốt nhiều thế kỷ. Truyện nổi tiếng
về ngài có thể liên quan đức bác ái đối với người nghèo, những người không thể
cho con gái mình của hồi môn khi đến tuổi kết hôn. Không muốn thấy họ bị ép làm
gái mại dâm, thánh Nicôla lấy vàng trao cho các bà mẹ để họ cho con gái làm của
hồi môn đi lấy chống. Qua nhiều thế kỷ, truyền thuyết này ảnh hưởng tập tục
tặng quà nhau vào ngày lễ kính ngài. Tại các nước nói tiếng Anh, ngài được coi
là Ông già Noel.
7/12 – Thánh Ambrôsiô, Giám mục Tiến sĩ (340?-397)

Một trong các nhà viết tiểu sử thánh Ambrôsiô cho rằng, vào ngày phán xét, người ta vẫn phân chia thành 2 phe: những người khâm phục ngài và những người không ưa ngài.
Khi Nữ hoàng Justina tìm cách lấy 2 giáo đường của Công giáo và trao cho những
người theo tà thuyết Arian (*), ngài đã thách thức các quan triều đình xử tử
ngài. Mọi người ủng hộ ngài ngay trước mặt quân lính. Trong cuộc bạo động, ngài
vừa khuyến khích vừa trấn tĩnh dân chúng hát những bài thánh ca mới để mê hoặc
họ với những giai điệu Tây phương.
Khi tranh luận với hoàng đế Auxentius, ngài nói: “Hoàng đế ở trong Giáo hội,
chứ không ở trên Giáo hội”. Ngài công khai khiển trách hoàng đế Theodosius vì
đã sát hại 7.000 người vô tội. Hoàng đế đã ăn năn đền tội. Thánh Ambrôsiô là
người chiến đấu, được sai tới Milan với tư cách thống đốc Rôma. Ngài gây ảnh
hưởng và hoán cải thánh Augustinô.
Thánh Augustinô nhận thấy thánh Ambrôsiô có tài hùng biện hơn những người đương thời. Các bài giảng của thánh Ambrôsiô thường dẫn chứng gương mẫu của Cicero, tư tưởng của ngài đã ảnh hưởng các nhà tư tưởng và các triết gia đương thời.
Ngài không ngại trích dẫn các tác giả ngoại giáo.
Các bài giảng, bài viết và đời sống của ngài cho thấy ngài là người khác thường
có liên quan các vấn đề thời đó. Đối với ngài, nhân đạo là điều quan trọng.
Ảnh hưởng của thánh Ambrôsiô đối với thánh Augustinô rất nhiều. Cuốn Tự Thuật
(Confessions) của thánh Augustinô cho thấy điều đó. Do đó mà thánh Monica yêu
quý thánh Ambrôsiô như thiên thần của Chúa đã hoán cải con trai bà. Chính thánh
Ambrôsiô đã đặt tay trên vai thánh Augustinô khi đến giếng rửa tội để gia nhập
Công giáo.
————————–
(*) Arianism: Thuyết của Arius, thế kỷ IV, cho rằng chỉ
có Thiên Chúa là bất biến và tự hữu, nhưng Ngôi Con không là Thiên Chúa mà chỉ
là phàm nhân. Thuyết này từ chối thiên tính của Chúa Giêsu. Công đồng Nicaea
(AD 325) đã kết án Arius và tuyên bố “Ngôi Con đồng bản thể với Đức Chúa Cha”.
Thuyết Arian được nhiều người bảo vệ tiếp 50 năm sau, nhưng cuối cùng cũng sụp
đổ khi các hoàng đế Kitô giáo của Rome Gratian và Theodosius lên ngôi. Công
đồng Constantinople đầu tiên (năm 381) phê chuẩn Tín điều của Công đồng Nicê và
cấm thuyết Arian. Tà thuyết này vẫn tiếp tục trong các bộ lạc ở Đức suốt thế kỷ
VII, và các niềm tin tương tự được duy trì đến ngày nay bởi tổ chức Nhân chứng
của Giavê (Jehovah’s Witnesses) và bởi một số người theo thuyết Nhất Vi Luận
(Unitarianism), tương tự Tam Vị Nhất Thể, tức là Một Chúa Ba Ngôi.
8/12 – Đức Mẹ Vô Nhiễm

Trong Giáo hội Đông phương, lễ Đức Mẹ được thụ thai có từ thế kỷ VII, truyền sang Tây phương hồi thế kỷ VIII. Thế kỷ XI, lễ này chính thức có tên là Vô nhiễm. Thế kỷ VIII, lễ này trở nên phổ biến trong Giáo hội hoàn vũ.
Các giáo phụ và các Tiến sĩ Giáo hội coi Đức Maria là vị thánh vĩ đại và thánh
thiện nhất, nhưng vẫn cho rằng Đức Mẹ khó mà vô nhiễm tội truyền. Và rồi năm
1854, ĐGH Piô IX đã công bố tín điều Đức Mẹ Vô nhiễm. Thánh Bênađô và thánh
Thomas Aquinas cũng không thể coi là sự biện hộ thần học đối với giáo huấn này.
Hai tu sĩ Phanxicô là William Ware và chân phước Gioan Duns Scotus đã giúp phát
triển thần học này. Họ chỉ ra rằng ơn Vô nhiễm của Đức Maria làm nổi bật công
cuộc cứu độ của Chúa Giêsu. Nhân loại được khỏi Nguyên tội khi lãnh nhận Bí
tích Thánh tẩy. Ở Đức Maria, công việc của Chúa Giêsu rất mạnh để ngăn ngừa.
9/12 – Thánh Juan Diego, Thị nhân (1474-1548)

Hàng ngàn người quy tụ tại Nhà thờ Đức Mẹ Guadalupe ngày 31-7-2002 để tham dự lễ phong thánh cho thị nhân Juan Diego, người đã được Đức Mẹ hiện ra hồi thế kỷ XVI.
Chân phước GH Gioan Phaolô II đã gọi vị thánh này là người Ấn Độ giản dị và
khiêm nhường, chấp nhận theo Kitô giáo nhưng không từ chối gốc Ấn Độ. Trong số
hàng ngàn người tham dự có 64 nhóm người gốc Ấn Độ ở Mexico.
Mới đầu thánh nhân được gọi là Cuauhtlatohuac (Đại bàng biết nói), và tên ngài
vĩnh viễn được gắn liền với Đức Mẹ Guadalupe (Đức Mẹ Hoa Hồng, lễ kính ngày
12-12) vì ngài được Đức Mẹ hiện ra tại đồi Tepeyac ngày 9-12-1531. Ngài cho
biết những hoa hồng gom từ vạt áo đã hóa thành Đức Mẹ Guadalupe.
Trong chuyến thăm mục vụ tới Mexico năm 1990, chân phước GH Gioan Phaolô II đã
phong chân phước cho thị nhân Juan Diego, và được phong hiển thánh 12 năm sau.
10/12 – Chân phước Adolph Kolping, Linh mục (1813-1865)

Hồi thế kỷ XIX, tại Đức nổi lên hệ thống nhà máy đã thu hút nhiều người tuôn về các thành phố, và họ gặp những thử thách mới đối với đức tin. LM Adolph Kolping là người hướng dẫn mục vụ cho họ, hy vọng họ không bị mất đức tin Công giáo như đã xảy ra với nhiều công nhân khác ở Âu châu được công nghiệp hóa.
Ngài sinh tại làng Kerpen, làm thợ đóng giày vì gia đình khó khăn. Sau đó ngài
đi tu và thụ phong linh mục năm 1845, ngài hướng dẫn các công nhân trẻ ở
Cologne, thành lập ca đoàn, năm 1849 hội này phát triển thành Hội Công nhân Trẻ
(Young Workmen’s Society), một chi nhánh của hội này bắt đầu tại St. Louis,
Missouri, năm 1856. Sau 9 năm, có hơn 400 Gesellenvereine (công đoàn) được
thành lập trên khắp thế giới. Ngày nay nhóm này có hơn 400.000 thành viên ở 54
quốc gia.
Thường được gọi là Hội Khôi Bình (Kolping Society – quen gọi là Gia Đình Khôi
Bình), chú trọng việc thánh hóa đời sống gia đình và chân giá trị của việc lao
động. LM Kolping hoạt động để cải thiện điều kiện sống cho công nhân. Ngài và
thánh Gioan Bosco ở Turin đều quan tâm làm việc với giới trẻ. Ngài nói với
những người theo ngài: “Nhu cầu của thời đại sẽ dạy các bạn biết phải làm
gì. Điều đầu tiên tìm được trong cuộc sống và điều cuối cùng cần nắm giữ là đời
sống gia đình, đó là điều quý giá nhất mà người ta không nhận ra”.
Ngài và chân phước Gioan Duns Scotus được an táng tại Minoritenkirche, thuộc
Cologne. Cơ quan điều hành Hội Khôi Bình quốc tế đặt tại đây. Các thánh viên
Khôi Bình đã tới Rôma từ Âu châu, Mỹ châu, Phi châu, Á châu và Úc châu để dự lễ
phong chân phước cho LM Kolping năm 1991, dịp kỷ niệm 100 năm Tông thư Rerum
Novarum (Tân Sự, nói về trật tự xã hội) của ĐGH Leo XIII. LM Kolping cũng
có công góp phần chuẩn bị cho tông thư đầy tính cách mạng xã hội này.
11/12 – Thánh Damasô I, Giáo hoàng (305?-384)

Đối với thư ký của ngài là thánh Giêrônimô, thánh Damasô là “người vô song, hiểu biết Kinh thánh, tiến sĩ Giáo hội, yêu quý đức khiết tịnh”.
Thánh Damasô hiếm khi nghe những lời khen như vậy. Ngài đấu tranh với chính
trị, các tà thuyết, không được lòng các giám mục và Giáo hội Đông phương muốn
phá triều đại giáo hoàng của ngài.
Ngài là con của một linh mục Công giáo La Mã, có thể là người Tây Ban Nha, ngài
bắt đầu với cương vị phó tế tại nhà thờ của người cha, rồi làm linh mục ở một
nơi mà sau đó là đền thờ San Lorenzo (Thánh Lôrensô) ở Rôma. Ngài phục vụ giáo
hoàng Liberiô (352-366) và theo ngài đi đày.
Khi ĐGH Liberiô qua đời, thánh Damasô được chọn làm giám mục thành Rôma, nhưng ít người bầu và tấn phong phó tế Ursinô làm giáo hoàng. Cuộc tranh luận giữa
thánh Damasô và ngụy giáo hoàng (antipope) nổ ra chiến tranh dữ dội giữa 2 giáo
đường, xúc phạm đến các giám mục Ý. Tại công nghị, thánh Damasô kêu gọi mọi
người chấp nhận hành động của ngài nhân dịp sinh nhật. Các giám mục trả lời: “Chúng tôi quy tụ đến đây vì sinh nhật của ngài, chứ không kết án một
người chưa biết”. Những người ủng hộ ngụy giáo hoàng còn kết án ngài
phạm trọng tội – có thể liên quan tình dục – cuối năm 378. Ngài phải tự thanh
minh trước tòa án dân sự và công nghị giáo hội.
Khi làm giáo hoàng, ngài sống giản dị, tương phản với các giáo sĩ Rôma, và ngài
cương quyết tố cáo và chống lại tà thuyết Arian (*) và các tà thuyết khác. Sự
hiểu sai về thuật ngữ Tam vị Nhất thể (Chúa Ba Ngôi) của Rôma đã đe dọa mối
giao hảo với Giáo hội Đông phương, ĐGH Damasô là người tương đối thành công
trong việc xử lý tình huống này.
Trong triều đại giáo hoàng của ngài, Kitô giáo được công bố là tôn giáo chính
của quốc gia Rôma (năm 380), và tiếng Latin là ngôn ngữ phụng vụ. Nngài khuyến
khích thánh Giêrônimô nghiên cứu Kinh thánh nên mới có bản Vulgate (bản phổ
thông), bản dịch Kinh thánh bằng tiếng Latin được Công đồng Trentô (12 thế kỷ
sau) tuyên bố là “xác thực khi đọc chung, khi thảo luận và giảng dạy”.
———————–
(*) Arianism: Thuyết của Arius, thế kỷ IV, cho rằng chỉ
có Thiên Chúa là bất biến và tự hữu, nhưng Ngôi Con không là Thiên Chúa mà chỉ
là phàm nhân. Thuyết này từ chối thiên tính của Chúa Giêsu. Công đồng Nicaea
(AD 325) đã kết án Arius và tuyên bố “Ngôi Con đồng bản thể với Đức Chúa Cha”.
Thuyết Arian được nhiều người bảo vệ tiếp 50 năm sau, nhưng cuối cùng cũng sụp đổ khi các hoàng đế Kitô giáo của Rome Gratian và Theodosius lên ngôi. Công đồng
Constantinople đầu tiên (năm 381) phê chuẩn Tín điều của Công đồng Nicê và cấm
thuyết Arian. Tà thuyết này vẫn tiếp tục trong các bộ lạc ở Đức suốt thế kỷ
VII, và các niềm tin tương tự được duy trì đến ngày nay bởi tổ chức Nhân chứng
của Giavê (Jehovah’s Witnesses) và bởi một số người theo thuyết Nhất Vi Luận
(Unitarianism), tương tự Tam Vị Nhất Thể, tức là Một Chúa Ba Ngôi.
12/12 – Đức Mẹ Guadalupe (Đức Mẹ Hoa Hồng)

Thế kỷ XVI, một người Ấn Độ nghèo tên là Cuauhtlatohuac được rửa tội nên có tên là Juan Diego. Ông là một người góa vợ, 57 tuổi, sống ở một ngôi làng nhỏ gần TP Mexico. Sáng Chúa nhật ngày 9-12-1531, ông đã được Đức Mẹ hiện ra trên đường đi dự lễ.
Khi ông đi bộ ngang qua đồi Tepeyac thì ông nghe tiếng nhạc hay như tiếng chim
líu lo. Một đám mây sáng xuất hiện có một cô gái Mỹ mặc áo dài như công chúa Aztec.
Đức Mẹ nói với ông bằng tiếng Ấn Độ và bảo ông đến gặp ĐGM Juan de Zumarraga,
Dòng Phanxicô, GP Mexicô. ĐGM liền cho xây một nhà nguyện ngay tại nơi Đức Mẹ
hiện ra.
ĐGM nói với ông Juan Diego xin Đức Mẹ cho một dấu hiệu. Lúc đó, người chú của
Juan Diego bệnh nặng nên ông tránh gặp Đức Mẹ. Đức Mẹ bảo đảm với ông rằng
người chú sẽ khỏi bệnh và trao những bông hồng cho ông đựng vào vạt áo để đem
về cho ĐGM.
Trước mặt ĐGM, ông mở vạt áo ra, những đóa hồng rơi xuống đất và bao quanh chân
ông và tạo thành hình Đức Mẹ như ông đã nhìn thấy ở đồi Tepeyac. Đó là ngày
12-12-1531.
13/12 – Thánh Lucia, Trinh nữ Tử đạo (qua đời năm 304)

Bạn bè của thánh nhân thắc mắc về sự can trường của Lucia. Có lần một người thợ mộc bị lính La Mã đóng đinh, Lucia tin rằng người đàn ông này sống lại. Người thợ mộc đó là Đức Giêsu Kitô. Nước Trời đã tạo dấu ấn sâu đậm trong lòng Lucia với những lời nói và việc làm của Chúa Giêsu. Để thể hiện niềm tin, Lucia đã khấn giữ đồng trinh.
Trinh khiết trước hôn nhân là lý tưởng La Mã cổ, hiếm thấy nhưng không bị kết
án. Lucia biết rõ tính anh hùng của các vị tử đạo trinh khiết nên luôn trung
thành và sống theo gương của người thợ mộc Giêsu, Con Thiên Chúa.
Hồi đó, Lucia là cô gái xinh đẹp, có người nói yêu đôi mắt đẹp của Lucia, thế
là thánh nhân móc mắt mình cho người đó vì muốn giữ mình trọn đời đồng trinh vì
Nước Trời. Thánh Lucia là bổn mạng của những người mù và khiếm thị.
14/12 – Thánh Gioan Thánh giá, Linh mục Tiến sĩ (1541-1591)

Cuộc đời ngài là chuỗi nỗ lực anh dũng. SỰ điên rồ của thập giá được ngài nhận biết: “Ai muốn theo Tôi, hãy vác thập giá mà theo Tôi” (Mc 8:34). Mầu nhiệm Vượt qua khiến ngài được coi là nhà cải cách, thi sĩ thần bí và thần học gia.
Ngài là tu sĩ Dòng Camêlô và thụ phong linh mục năm 1567, lúc 25 tuổi. Ngài gặp
thánh Teresa Avila và yêu thích luật Dòng Camêlô. Ngài cùng thánh Teresa cải
cách dù bị chống đối, bị hiểu lầm, bị hành hạ, bị tù đày. Ngài nhận biết Thánh
giá là chính xác. Ngài trải nghiệm cái chết của Chúa Giêsu khi ngài ngồi trong
bóng tối hết tháng này qua tháng khác tại một phòng nhỏ hẹp, ẩm thấp, và chỉ
cầu nguyện với Chúa. Có nhiều thi sĩ, nhiều nhà thần bí, nhưng ngài là thi sĩ
thần bí.
Cả đời ngài sống Mầu nhiệm Thánh giá. Ngài qua đời lúc 49 tuổi – cuộc đời ngắn
ngủi nhưng viên mãn.
15/12 – Chân phước Maria Frances Schervier, Trinh nữ (1819-1876)

Bà sinh trong một gia đình đàng hoàng ở Aachen (lúc đó do Prussia cai trị, trước đó là Aix-la-Chapelle của Pháp). Bà chăm lo gia đình sau khi người mẹ qua đời và có
tiếng là thương người nghèo. Năm 1844, bà vào Dòng Phanxicô. Năm 1845, bà và 4
người bạn lập dòng chăm sóc bệnh nhân và người già. Năm 1851, Dòng Tiểu muội
Người nghèo Thánh Phanxicô (một trong các tên gốc) được giám mục phê chuẩn,
cộng đoàn này phát triển rất nhanh. Cơ sở đầu tiên thành lập tại Hoa Kỳ năm
1858.
Bà đến Hoa Kỳ năm 1863 và giúp các chị em chăm sóc các thương binh trong cuộc
nội chiến. Bà lại đến Hoa Kỳ năm 1868. Bà đã khuyến khích khi Philip Hoever
chuẩn bị thành lập Dòng Huynh đệ Người nghèo của Thánh Phanxicô.
Khi bà qua đời, có 2.500 thành viên trên khắp thế giới. Họ tham gia mở các bệnh
viện và Nhà dưỡng lão. Bà được phong chân phước năm 1974.
16/12 – Chân phước Honoratus Kozminski (1825-1916)

Ngài sinh tại Biala Podlaska (Siedlce, Ba Lan), học kiến trúc tại Trường Nghệ Thuật ở Warsaw. Khi ngài gần 16 tuổi thì mồ côi cha. Bị nghi ngờ tham gia nổi loạn, ngài bị tù từ tháng 4-1846 tới tháng 3-1847. Năm 1848, ngài vào Dòng Phanxicô. Sau 4 năm,
ngài được thụ phong linh mục. Năm 1855, ngài giúp chân phước Maria Angela
Truszkowska thành lập Dòng nữ Felicia.
Ngài làm người gác cổng ở tu viện Warsaw năm 1860. Ngài tận tụy rao giảng, linh
hướng và giải tội, đồng thời tích cực làm việc với Dòng Ba Phanxicô.
Cuộc nổi dậy chóng Nga hoàng Alexander III năm 1864 thất bại dẫn đến cuộc đàn
áp các nhà dòng ở Ba Lan. Các tu sĩ Dòng Phanxicô bị trục xuất khỏi Warsaw và
phải đến sống tại Zakroczym, tại đây ngài tiếp tục sứ vụ và bắt đầu thành lập
26 dòng nam và nữ. Các tu sĩ khấn nhưng không mặc áo dòng và không sống chung,
họ hoạt động như các tu hội đời ngày nay. Có 17 nhóm vẫn còn là hội dòng ngày
nay.
Các tài liệu viết của ngài gồm 42 cuốn bài giảng, 21 cuốn tập hợp các thư, có
tới 52 tác phẩm về thần học khổ hạnh (ascetical theology), về lòng sùng kính
Đức Mẹ Maria, về lịch sử, về mục vụ – không kể nhiều tài liệu về các hội dòng
ngài đã thành lập.
Năm 1906, nhiều giám mục muốn tái tổ chức các nhóm này dưới quyền mình (sic!),
nhưng chân phước Honoratus cương quyết giữ độc lập, nhưng ngài vẫn thúc giục
các hội dòng vẫn vâng lời giáo hội.
Một người đương thời nói: “Ngài luôn bước đi với Chúa”. Năm 1895, ngài được bổ
nhiệm làm Tổng đại diện (Commissary General) Dòng Phanxicô ở Ba Lan. Ngài tới
Nowe Miasto, rồi qua đời và an táng tại đây. Ngài được chân phước GH Gioan
Phaolô II phong chân phước năm 1988.
17/12 – Thánh Ladarô

Ladarô là bạn của Chúa Giêsu, em trai của Matta và Maria, là người được Chúa Giêsu quý mến và được Ngài cho sống lại sau khi đã chết ba ngày.
Người ta cho rằng ngài đã viết lại những gì ngài thấy ở kiếp sau khi ngài được
Chúa Giêsu cho sống lại. Một số người nói ngài theo thánh Phêrô tới Syria. Có
người nói ngài và 2 người chị đến sống ở Cyprus. Tại đây, ngài qua đời lần thứ
hai sau khi làm giám mục 30 năm.
Một nhà thờ được xây dựng dâng kính ngài ở Constantinople và một ít thánh tích
của ngài được chuyển về đó năm 890. Truyền thuyết Tây phương nói ngài tới Gaul,
làm giám mục ở Marseilles, chịu tử đạo sau khi hoán cải một số người và ngài
được an táng trong một hang động. Di hài ngài được chuyển về Autun năm 1146.
Khoảng năm 390, một phụ nữ hành hương tên Etheria nói chuyện với đoàn người
hành hương vào thứ Bảy trước lễ Lá tại ngôi mộ mà thánh Ladarô sống lại. Ở Tây
phương, Chúa nhật lễ Lá được gọi là Dominica de Lazaro. Thánh Augustinô cho
chúng ta biết rằng ở Phi châu, Phúc âm về việc sống lại của Ladarô được đọc
trong thánh lễ Chúa nhật lễ Lá.
18/12 – Chân phước Antôn Grassi, Linh mục (1592-1671)

Cha ngài qua đời khi ngài mới 10 tuổi, nhưng ngài thừa hưởng lòng súng kính Đức Mẹ Loreto từ người cha. Hồi nhỏ, ngài thường tới nhà thờ cầu nguyện và vào dòng lúc 17 tuổi.
Khi là sinh viên ngành mỹ nghệ, ngài có tiếng trong dòng là “tự điển sống” vì
hiểu Kinh thánh và thần học rất nhanh. Một thời gian ngài khổ sở vì lưỡng lự,
nhưng ngài thoát khỏi từ lúc ngài dâng thánh lễ đầu tiên. Từ đó, ngài sống bình
an.
Năm 1621, lúc 29 tuổi, ngài bị sét đánh khi đang cầu nguyện trong nhà thờ Đức
Mẹ Loreto, ai cũng nghĩ ngài không thể sống nổi. Nhưng vài ngày sau, ngài hồi
phục và nhận ra rằng ngài hết bị chứng khó tiêu. Người ta đem quần áo bị cháy
sém của ngài dâng cho Đức Mẹ Loreto để tạ ơn. Quan trọng là ngài cảm thấy cuộc
đời mình hoàn toàn thuộc về Chúa. Năm nào ngài cũng hành hương tới Loreto để tạ
ơn Đức Mẹ.
Ngài chú ý lắng nghe hối nhân khi ngài giải tội, nói vài lời và khuyên làm việc
đền tội, ngài nói bằng chính tiếng nói của lương tâm. Năm 1635, ngài được bầu
làm bề trên Dòng Fermo Oratory. Nhiệm kỳ 3 năm, nhưng lần nào ngài cũng tái đắc
cử cho đến khi ngài qua đời. Ngài là người trầm lặng, dịu dàng, không hề nghiêm
khắc. Ngài luôn khuyên mọi người sống như vậy.
Khi lớn tuổi, ngài có khả năng biết về tương lai, ngài thường dùng khả năng này
để cảnh báo hoặc khuyên nhủ người khác. Nhưng ngài cũng gặp thử thách. Ngài khó
giảng vì bị mất mấy cái răng, rồi ngài không giải tội nữa vì yếu sức, chỉ quanh
quẩn trong phòng. Đức TGM hàng ngày đến trao Mình Thánh cho ngài. Một trong
những hành động cuối cùng của ngài là hòa giải được 2 người đối lập nhau dữ
dội.
19/20 – Chân phước Urbanô V, Giáo hoàng (1310-1370)

Ngài đắc cử giáo hội năm 1362. Khi các hồng y không thể tìm được người cho vị trí quan trọng này, họ quay ra chú ý một “người lạ”: Thánh thiện và đáng kính.
ĐGH Urban V đã chứng tỏ họ chọn lựa đúng. Ngài là tu sĩ Dòng Biển Đức và là nhà
giáo luật, sống tâm linh và thông minh. Ngài khiêm nhường và giản dị, điều đó
khiến ngài luôn được nhiều người quý mến. Ngài cương quyết cải cách Giáo hội và
các dòng tu. Triều đại GH của ngài kéo dài 8 năm, nhưng có một thời gian ngài
phải ở Avignon (Pháp). Hoàn cảnh khó khăn nên ngài không đạt được những mục
đích cao nhất trong việc tái nối kết Giáo hội Đông phương và Tây phương.
Với cương vị giáo hội, ngài tiếp tục sống tu luật Biển Đức. Trước khi qua đời
năm 1370, ngài xin được rời dinh thự giáo hoàng về sống với người em trai để có
thể từ biệt những người bình thường mà ngài đã giúp đỡ.
20/12 – Thánh Đa Minh Silos, Linh mục (khoảng năm 1000-1073)

Ngài không là người sáng lập Dòng Đa Minh, nhưng có chuyện liên quan kỳ lạ.
Ngài sinh tại Tây Ban Nha khoảng năm 1000 trong một gia đình nông dân. Hồi nhỏ
ngài phải lao động ngoài đồng ruộng, nên ngài sống âm thầm. Ngài tu Dòng Biển
Đức và thụ phong linh mục, rồi giữ nhiều chức vụ lãnh đạo. Sau khi tranh chấp
với nhà vua về tài sản, ngài và 2 tu sĩ khác bị đi đày. Rồi họ lập dòng mới.
Dưới sự lãnh đạo của ngài, dòng này trở nên nổi tiếng tại Tây Ban Nha, nhiều
người được chữa lành.
Khoảng 100 năm sau khi ngài qua đời, một phụ nữ trẻ hành hương tới mộ ngài.
Ngài đã hiện ra với phụ nữ này và đoan chắc chị sẽ sinh con trai. Phụ nữ này
tên là Joan Aza, con trai của phụ nữ này sinh ra và trưởng thành, thanh niên
này tên là Đa Minh (Dominic) – người sáng lập Dòng Đa Minh như chúng ta thấy
ngày nay.
Sau nhiều năm, di hài thánh Đa Minh Silos được đưa về hoàng cung bất kỳ lần nào
Nữ hoàng Tây Ban Nha trở dạ sinh con. Việc này kết thúc năm 1931.
21/12 – Thánh Phêrô Canisiô, Linh mục Tiến sĩ (1521-1597)

Ngài là người đa tài, sống gương mẫu và phát triển tài năng theo Kinh thánh vì Chúa. Ngài là nhân vật quan trọng trong thời Cải cách ở Đức, giữ vai trò chính và thường được gọi là “vị tông đồ thứ hai của Đức” so với thánh Boniface.
Lúc 19 tuổi, ngài có bằng đại học của ĐH Cologne. Không lâu sau ngài gặp Peter
Faber, đệ tử đầu tiên của thánh Inhaxiô Loyola, và cuộc đời ngài đã thay đổi từ
khi vào Dòng Tên.
Ngài thụ phong linh mục năm 1546, và nổi tiếng với những bài viết về thánh
Cyril Alexandria và thánh Leo Cả. Ngoài ra ngài còn thích làm việc tông đồ,
thăm viếng các tù nhân và các bệnh nhân.
Năm 1547, ngài dự vài khóa họp Công đồng Trentô. Ngài dạy tại vài trường đại
học, cùng thành lập nhiều đại học và chủng viện. Ngài viết sách giáo lý giải
thích về đức tin Công giáo theo cách mà người thường cóa thể hiểu được – thời
đó rất cần cách đó.
Ngài có tiếng về giảng thuyết, và khéo hòa giải các giáo phái. Ngài còn viết
những lá thư phê bình các vị lãnh đạo Giáo hội – nhưng có cách nói yêu
thương và cảm thông. Lúc 70 tuổi, ngài bị đột quỵ, nhưng vẫn rao giảng và viết
lách cho tới khi qua đời tại Nijmegen (Ba Lan) ngày 21-12-1597.
22/12 – Chân phước Jacopone da Todi (qua đời năm 1306)

Ngài sinh trong gia đình Benedetti quý tộc ở TP Todi, Bắc Ý. Ngài là luật sư và kết hôn với Vanna, một phụ nữ đạo hạnh và đại lượng. Vanna đã giúp chồng ăn năn đền tội. Có lần Vanna năn nỉ Jacopone tham gia thi đấu công khai. Vanna ngồi chung với các phụ nữ quý tộc khác và khán dài bị sụp. Vanna bị chết. Jacopone buồn lắm, nhất là khi biết vợ đeo thắt lưng để đền tội cho chồng. Từ đó, Jacopone quyết thay đổi cuộc đời.
Ngài phân phát tài sản cho người nghèo và vào Dòng Ba Phanxicô, ăn năn đền tội
nghiêm ngặt. Ngài viết nhiều bài thánh ca (hymn) nổi tiếng bằng phương ngữ.
Lúc 68 tuổi, ngài bị vạ tuyệt thông và bị tù, dù ngài biết mình vô tội. Mãi 5
năm sau, thời ĐGH Bênêđictô XI, ngài mới được giải vạ. Ngài coi cảnh tù đày như
việc đền tội. Trong thời gian đó ngài viết bài thánh ca Stabat Mater bằng tiếng
Latin nổi tiếng.
Ngày 24-12-1306, ngài cảm thấy cái chết gần kề. Lúc đó ngài ở trong Dòng Thánh
Clara khó nghèo với một người bạn là chân phước Gioan La Verna. Cũng như thánh
Phanxicô, chân phước Jacopone chào đón “Chị Chết” bằng một bài thánh ca nổi
tiếng của ngài khi người ta đang dự thánh lễ nửa đêm Giáng sinh.
23/12 – Thánh Gioan Kanty, Linh mục (1390?-1473)

Sau khi học xong đại học ở Kraków, Ba Lan, ngài thụ phong linh mục và là giáo sư thần học. Có nhiều người ganh ghét nên ngài phải đi giữ xứ ở Olkusz. Ngài sống khiêm nhường và cố gắng, nhưng vẫn không được lòng giáo dân. Nhưng cuối cùng ngài đã khiếnhọ tâm phục khẩu phục. Sau một thời gian, ngài trở lại Kraków và dạy Kinh thánh cho đến hết đời.
Ngài thương người nghèo, ngài dành tiền bạc và thời gian cho họ. Ngài ít ngủ,
nằm trên nền nhà, ăn ít, không ăn thịt. Ngài hành hương tới Giêrusalem và Rôma.
Được cảnh báo về sức khỏe nhưng ngài vẫn sống khổ hạnh.
24/12 – Giáng sinh tại Greccio

Theo truyền thuyết, chính thánh Phanxicô Assisi đã làm hang đá đầu tiên tại Greccio, thuộc Trung Ý, năm 1223.
Thánh Phanxicô nhớ lần tời Belem vài năm trước đó, nên ngài quyết định làm hang
đá, đó là hang Greccio. Ngài tìm một đứa bé, một con bò và một con lừa đứng gần
bên máng cỏ. Người ta nghe nói và kéo đến, người thì cầm đuốc, người thì cầm
nến. Chính thánh Phanxicô giảng trong thánh lễ đêm đó.
Thomas of Celano, người viết tiểu sử thánh Phanxicô, nói rằng thánh Phanxicô
“đứng trước máng cỏ… với lòng yêu thương và niềm hạnh phúc vô cùng…” Với thánh
Phanxicô, mừng lễ giản dị là nhớ lại cảnh khó nghèo của Chúa Giêsu Hài Đồng,
Đấng cứu độ đã làm người nghèo vì chúng ta, một Giêsu làm người thực sự.
Đêm nay, khi cầu nguyện bên hang đá, chúng ta hãy cảm tạ Lòng Thương Xót của
Chúa và hãy nhớ đến những người nghèo và những người đau khổ trên khắp thế
giới…
25/12 – Đại lễ Giáng sinh

Hôm nay Giáo hội tập trung vào Vương Nhi Giêsu, Thiên Chúa làm người, để chúng ta được hạnh phúc, bình an và hy vọng. Bên Bé Giêsu có Cha Mẹ Ngài là Đức Mẹ Maria và Đức Thánh Giuse, có cả những mục đồng đại diện cho giới lao động nghèo khó.
Ngày Con Chúa giáng trần làm người, đất trời được giao hòa, nhân phẩm nhân loại
được phục hồi. Thật hạnh phúc biết bao khi những tội nhân chúng ta được trắng
án và được trở thành con cái của Thiên Chúa, đó là mầu nhiệm đức tin. Hãy mở
rộng lòng yêu thương để đón tiếp nhau chân thành:
Vinh danh Thiên Chúa trên trời
Bình an dưới thế cho người thiện tâm
26/12 – Thánh Stêphanô, Tử đạo tiên khởi (qua đời năm 36 ?)

Những gì chúng ta biết về thánh Stêphanô được tìm thấy trong sách Công vụ Tông đồ, chương 6 và 7, đủ để chúng ta biết ngài là con người thế nào: “Thời đó, khi số môn đệ thêm đông, thì các tín hữu Do Thái theo văn hoá Hy Lạp kêu trách những tín hữu Do Thái bản xứ, vì trong việc phân phát lương thực hằng ngày, các bà goá trong
nhóm họ bị bỏ quên. Bởi thế, Nhóm Mười Hai triệu tập toàn thể các môn đệ và
nói: “Chúng tôi mà bỏ việc rao giảng Lời Thiên Chúa để lo việc ăn uống, là điều
không phải. Vậy, thưa anh em, anh em hãy tìm trong cộng đoàn bảy người được
tiếng tốt, đầy Thần Khí và khôn ngoan, rồi chúng tôi sẽ cắt đặt họ làm công
việc đó. Còn chúng tôi, chúng tôi sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ Lời Thiên
Chúa”. Đề nghị trên được mọi người tán thành. Họ chọn ông Stêphanô, một người
đầy lòng tin và đầy Thánh Thần, cùng với các ông Philípphê, Pơrôkhôrô, Nicanô,
Timôn, Pácmêna và ông Nicôla, một người ngoại quê Antiôkhia đã theo đạo Do
Thái. Ông Stêphanô được đầy ân sủng và quyền năng, đã làm những điềm
thiêng dấu lạ lớn lao trong dân. Có những người thuộc hội đường gọi là hội
đường của nhóm nô lệ được giải phóng, gốc Kyrênê và Alêxanria, cùng với một số
người gốc Kilikia và Axia, đứng lên tranh luận với ông Stêphanô. Nhưng
họ không địch nổi lời lẽ khôn ngoan mà Thần Khí đã ban cho ông.” Bấy giờ, họ
mới xui mấy người phao lên rằng: “Chúng tôi đã nghe hắn nói lộng ngôn xúc phạm
đến ông Môsê và Thiên Chúa”. Họ sách động dân và các kỳ mục cùng kinh sư, rồi
ập đến bắt ông và điệu đến Thượng Hội Đồng. Họ đưa mấy người chứng gian ra khai rằng: “Tên này không ngừng nói những lời phạm đến Nơi Thánh và Lề Luật. Vì
chúng tôi đã nghe hắn nói rằng Giêsu người Nadarét sẽ phá huỷ nơi này và thay
đổi những tục lệ mà ông Môsê đã truyền lại cho chúng ta”. Toàn thể cử toạ trong
Thượng Hội Đồng đều nhìn thẳng vào ông Stêphanô, và họ thấy mặt ông
giống như mặt thiên sứ” (Cv 6:1-5, 8-15).
Chỗ khác, sách Công vụ cho biết: “Được đầy ơn Thánh Thần, ông đăm đăm nhìn
trời, thấy vinh quang Thiên Chúa, và thấy Đức Giêsu đứng bên hữu Thiên Chúa.
Ông nói: “Kìa, tôi thấy trời mở ra, và Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa”. Họ
liền kêu lớn tiếng, bịt tai lại và nhất tề xông vào ông rồi lôi ra ngoài thành
mà ném đá. Các nhân chứng để áo mình dưới chân một thanh niên tên là Saolô. Họ
ném đá ông Stêphanô, đang lúc ông cầu xin rằng: “Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy
hồn con”. Rồi ông quỳ gối xuống, kêu lớn tiếng: “Lạy Chúa, xin đừng chấp
họ tội này”. Nói thế rồi, ông an nghỉ” (Cv 7:55-60).
27/12 – Thánh sử Gioan, Tông đồ

Thiên Chúa kêu gọi, con người đáp lại. Ơn gọi của thánh Gioan và người anh Giacôbê được mô tả sơ sài trong Phúc âm, cùng với thánh Phêrô và người anh Anrê: “Đi một quãng nữa, Người thấy hai anh em khác con ông Dêbêđê, là ông Giacôbê và người em là ông Gioan. Hai ông này đang cùng với cha là ông Dê-bê-đê vá lưới ở trong thuyền. Người gọi các ông. Lập tức, các ông bỏ thuyền, bỏ cha lại mà theo Người” (Mt 4:21-22).
Thánh Gioan gọi mình là “người môn đệ được Chúa yêu” (x. Ga 13:23; 19:26;
20:2), the one who reclined next to Jesus at the Last Supper, and the one to
whom he gave the exquisite honor, as he stood beneath the cross, of caring for
his mother. Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Đức
Giêsu nói với thân mẫu: “Thưa Mẹ, đây là con của Mẹ”. Rồi Người
nói với môn đệ: “Đây là mẹ của anh”. Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà
về nhà mình (Ga 19:26-27).
Theo chiều sâu Phúc âm, thánh Gioan thường được coi là “chim đại bàng của thần
học”, bay trên vùng cao mà các thánh sử khác không có. Chúa Giêsu gọi hai anh
em thánh Gioan là “con của sấm sét”. Khó giải thích chính xác nhưng có 2 gợi ý.
Thứ nhất, theo thánh Matthêu, mẹ của các ngài xin cho 2 con ngồi bên phải và
bên trái Chúa trong Vương quốc của Chúa Giêsu. “Đức Giêsu bảo: “Các người
không biết các người xin gì! Các người có uống nổi chén Thầy sắp uống không?”
Họ đáp: “Thưa uống nổi”. Đức Giêsu bảo: “Chén của Thầy, các người sẽ uống; còn
việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Cha Thầy
đã chuẩn bị cho ai, thì kẻ ấy mới được. Đức Giêsu gọi các ông lại và
nói: “Anh em biết rằng thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những
người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Giữa anh em thì không được như
vậy: Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn
làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em. Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20:22-24, 27-28).
Lần khác, “Đức Giêsu nhất quyết đi lên Giêrusalem. Người sai mấy sứ giả đi
trước. Họ lên đường và vào một làng người Samari để chuẩn bị cho Người đến.
Nhưng dân làng không đón tiếp Người, vì Người đang đi về hướng Giêrusalem. Thấy
thế, hai môn đệ Người là ông Giacôbê và ông Gioan nói rằng: “Thưa Thầy, Thầy có
muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu huỷ chúng nó không?” Nhưng Đức
Giêsu quay lại quở mắng các ông” (x. Lc 9:51-55).
Dịp lễ Phục sinh, Maria Mađalêna “đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ,
rồi về báo cho các môn đệ”. Ông Phêrô và môn đệ kia liền đi ra mộ. Cả hai
người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước.
Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. Ông Simôn
Phêrô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở
đó (Ga 20:2-6). Thánh Gioan “đã thấy và đã tin” (Ga 20:8).
Gioan và Phêrô bị bắt và bị tống ngục, “nhưng trong đám người nghe lời giảng,
có nhiều kẻ đã tin theo, chỉ riêng số đàn ông đã lên đến chừng năm ngàn” (Cv
4:13).
Thánh Gioan đã viết Phúc âm “khác” nhất so với các Phúc âm nhất lãm, các thư và
sách Khải huyền. Ngài đã thấy Chúa Giêsu vinh quang trong các biến cố cuộc đời.
Trong Bữa Tiệc Ly, thánh Gioan còn được tựa đầu vào ngực Chúa Giêsu. Phúc âm
theo thánh Gioan là vinh quang của Chúa Giêsu.
28/12 – Các thánh Anh hài

Hêrôđê là vua Giuđê, ông sợ người khác “đụng chạm” đến ngai vàng của mình. Ông là một chính khách bậc thầy và là một bạo chúa thâm độc. Ông đã giết vợ, giết người anh em và chồng của em gái.
Mt 2:1-18 kể chuyện này: Khi Đức Giêsu ra đời tại Bêlem, miền Giuđê, thời
vua Hêrôđê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giêrusalem, và hỏi:
“Đức Vua dân Do Thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người
xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người. Nghe tin ấy, vua
Hêrôđê bối rối, và cả thành Giêrusalem cũng xôn xao. Nhà vua liền triệu tập tất
cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Ki-tô phải
sinh ra ở đâu. Họ trả lời: “Tại Bêlem, miền Giuđê, vì trong sách ngôn sứ, có chép
rằng: Phần ngươi, hỡi Bêlem, miền đất Giuđa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất
của Giuđa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ítraen dân Ta sẽ ra đời. Bấy giờ
vua Hêrôđê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao
đã xuất hiện. Rồi vua phái các vị ấy đi Bêlem và dặn: “Xin quý ngài đi dò hỏi
tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến
bái lạy Người”. Nghe nhà vua nói thế, họ ra đi. Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở
phương Đông, lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại. Trông
thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng. Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà
Maria, liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và
mộc dược mà dâng tiến. Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hêrôđê
nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình.
Hêrôđê đã “nổi điên” và ra lệnh tàn sát hết các bé trai ở Bêlem từ 2 tuổi trở
xuống”. Thật khủng khiếp, đúng như lời tiên báo của ngôn sứ Giêrêmia: “Ở
Rama, vẳng nghe tiếng khóc than rền rĩ: tiếng bà Rakhen khóc thương con mình và
không chịu để cho người ta an ủi, vì chúng không còn nữa” (Mt 2:18).
29/12 – Thánh Thomas Becket, Giám mục (1118-1170)

Ngài là người mạnh mẽ, bị dao động một thời gian, nhưng rồi biết mình không thể theo điều xấu và ngài đã trở thành thánh tử đạo. Ngài là Tổng giám mục TGP Canterbury, bị giết trong nhà thờ chính tòa ngày 29-12-1170.
Khi còn làm giám mục phó TGP Canterbury, ngài được vua Henry II (bạn của ngài)
chọn làm chưởng ấn Anh quốc lúc 36 tuổi. Khi vua Henry cảm thấy lợi thế nếu
chọn ngài làm TGM Canterbury, ngài đã cảnh báo nhà vua không được xâm phạm Giáo
hội. Khi ngài được tấn phong tổng giám mục năm 1162, ngài từ chức chưởng ấn và
thay đổi cách sống!
Rắc rối bắt đầu. Vua Henry vẫn tiếm quyền Giáo hội và ra Hiến pháp Clarendon,
không cho giáo sĩ trực tiếp với Rôma. Nhưng thánh Thomas Becket phản đối Hiến
pháp, trốn sang Pháp và bị đi đày 7 năm. Khi trở về Anh quốc, ngài biết mình sẽ
bị giết, vì ngài đã từ chối lệnh vua. Vua Henry đã hét lên: “Không ai có thể
làm cho ta khỏi rắc rối vì tên giáo sĩ này sao?”. Và 4 hiệp sĩ đã giết ngài
ngay trong nhà thờ chính tòa Canterbury. Ngài vẫn là thánh nhân anh hùng nêu
gương cho thời đại của chúng ta.
30/12 – Thánh Egwin, Giám mục (qua đời khoảng năm 717)

Ngài là tu sĩ Dòng Biển Đức, được tấn phong giám mục GP Worcester, Anh quốc. Ngài nổi tiếng là yêu thương trẻ mồ côi và người góa bụa, luôn phân xử công bình. Tuy nhiên ngài không được lòng các giáo sĩ. Họ thấy ngài quá nghiêm khắc, còn ngài chỉ muốn cố gắng sửa sai những việc lạm dụng và ra quy luật thôi. Khi ngài tới Rôma trình bày trường hợp của ngài với ĐGH Constantine, ngài được xem xét và trắng án.
Trên đường trở về Anh quốc, ngài lập tu viện Evesham, nay là nhà dòng Biển Đức
nổi tiếng từ thời Trung cổ. Nhà dòng này dâng kính Đức Maria.
Ngài qua đời tại nhà dòng này vào ngày 30-12. Sau đó, nhiều phép lạ được coi là
nhờ sự can thiệp của ngài: Người mù được thấy, người điếc được nghe, người bệnh
được khỏi.
31/12 – Thánh Sylvester I, Giáo hoàng (qua đời năm 335)

Nói đến vị giáo hoàng này, chúng ta nghĩ ngay tới sắc lệnh Milan, sự nổi bật của Giáo hội đối với các hầm mộ, các đại giáo đường như đền thờ Thánh Gioan Lateran, đền thờ Thánh Phêrô và các đền thờ khác, Công đồng Nicê và các sự kiện quan trọng khác. Nhưng đa số các sự kiện này được hoàng đế Constantine hoạch định hoặc tạo ra.
Rất nhiều truyền thuyết có về vị giáo hoàng này, ngài làm giáo hoàng vào thời
điểm quan trọng nhất, nhưng rất ít điều trở thành lịch sử. Chúng ta biết chắc
rằng triều đại giáo hoàng của ngài kéo dài từ năm 314 tới khi ngài qua đời năm
335. Đọc lịch sử, chúng ta chắc chắn rằng chỉ có con người mạnh mẽ và khôn
ngoan mới có thể duy trì sự độc lập của Giáo hội trước hoàng đế Constantine.
Nói chung, các giám mục vẫn trung thành với Giáo hội, và có những lúc phải xin
lỗi ĐGH Sylvester I vì đảm trách các dự án quan trọng của Giáo hội khi thúc
giục hoàng đế Constantine.
Thomas Aquinas TRẦM THIÊN THU
(Chuyển ngữ từ BeliefNet.com, Saints.sqpn.com, AmericanCatholic.org, Catholic.org)
nguồn: Anh chị Thụ Mai & Ngọc Nga gởi
7 thói quen của người tin vào Chúa
TRẦM THIÊN THU
Tiểu sử các thánh cho thấy các ngài luôn đặt niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa. Có những câu chuyện về hành trình trong đời sống Kitô giáo: Nam và nữ, trẻ và già, giaó sĩ và giáo dân,… Nhưng tất cả đều có điểm tương đồng trong việc sống kết hợp mật thiết với Thiên Chúa. Đây là vài điểm nổi bật:
1. Chấp nhận đau khổ
Một trong những điểm nổi bật trong chuyện đời Tu sĩ Yun là người bị bách hại ở Trung quốc, được thuật lại trong cuốn “The Heavenly Man” (Người Đàn Ông Trên Trời). Sau khi bị hành hạ nhiều tuần bằng đủ kiểu: Bị điện giật, bị bỏ đói, bị đánh đập, bị kim xỏ vào móng tay, rồi bị căng chân tay ra treo trên cao, nhưng ngài vẫn không nao núng. Ngày hôm sau, ngài bị bỏ vào xà lim, nhưng ngài xin cho ngài cuốn Kinh thánh – một ý tưởng kỳ lạ. Ngài nài xin mãi, người ta cũng ném cho ngài cuốn Kinh thánh.
Ngài viết: “Tôi quỳ xuống và khóc, tạ ơn Chúa ban cho món quà đó. Tôi không thể tin được là mơ ước của tôi lại thành hiện thực! Không tù nhân nào được phép giữ Kinh thánh hoặc bất kỳ thứ gì liên quan Kitô giáo, nhưng thật lạ, Thiên Chúa đã ban cho tôi cuốn Kinh thánh! Quá đó, Thiên Chúa cho tôi biết rằng dù kế hoạch độc ác của loài người dành cho tôi, nhưng Ngài vẫn không quên tôi và vẫn kiểm soát cuộc đời tôi”.
Những người tin vào Chúa như Tu sĩ Yun vẫn có cách nhìn trong suốt về sự đau khổ. Họ cho đau khổ không là điều tồi tệ nhất. Họ tập trung vào việc KHÔNG PHẠM TỘI chứ không phải KHÔNG ĐAU KHỔ. Họ muốn chính mình và người khác cùng vào Nước Trời.
2. Chấp nhận cái chết
Những người tin vào Chúa luôn có cái nhìn tập-trung-vào-Nước-Trời. Họ nghĩ tới sự vĩnh hằng chứ không chú ý ngày tháng theo lịch. Mục đích của họ không là kéo dài thời gian trên thế gian, mà muốn mình và người khác càng mau về trời càng tốt. Nếu Thiên Chúa rút ngắn cuộc đời họ ở thế gian thì họ chấp nhận ngay.
Câu chuyện về sự thoát chết kỳ lạ của Lm Goldmann trong Thế chiến II có một câu hỏi: “Nếu người ta không thoát chết thì sao?”. Lm Goldmann đã chỉ có thể trả lời bằng cách nói rằng Thiên Chúa cứu ngài thoát chết. Mà nghĩ cho cùng thì rồi ai cũng một lần chết. Phúc lành đã cứu ngài thoát chết để ngài cóthể tiếp tục sứ vụ là đem Tin Mừng tới cho những người Đức quốc xã. Cuối cùng ngài qua đời khi đang hoạt động ở Nhật, và chấp nhận rằng Thiên Chúa đem đến điều tốt lành khi ngài qua đời, mặc dù ngài chưa hoàn thành công việc.
3. Hằng ngày hẹn hò với Chúa
Chưa có ai tin vào Chúa mà lại không dành thời gian cầu nguyện hằng ngày. Họ thích cầu nguyện hằng ngày bất kỳ khi nào có thể, có khi hằng giờ. Hằng ngày họ tập trung vào việc cầu nguyện ngay cả khi nói chuyện với người khác hoặc làm việc, và đó
là cầu nguyện liên lỉ. Nhất là mỗi sáng thức dậy, họ tập trung dành cho Chúa
những giây phút đầu ngày trước khi làm bổn phận hằng ngày.
4. Khi cầu nguyện, lắng nghe nhiều hơn nói
Chúa Giêsu nhắc nhở khi cầu nguyện: “Khi cầunguyện, anh em đừng lải nhải như dân ngoại; họ nghĩ rằng: cứ nói nhiều là được nhận lời” (Mt 6:7). Ngài là người ít nói nên không muốn ai nói nhiều. Mẹ Angelica “bị” một người đàn ông đặt chiếc đĩa trước cửa xin 600.000 USD, khi ông ta trở lại mà không có thì sẽ rắc rối. Mẹ chạy vào nhà nguyện để cầu nguyện, và người đàn ông kia không bao giờ trở lại nữa. Mẹ cầu nguyện không vì ý muốn riêng, mà vì Mẹ nhận biết kế hoạch của Thiên Chúa.
5. Hạn chế chia trí
Trong những câu chuyện về “Người Buôn Lậu Của Chúa” (God’s Smuggler),
tác giả muốn nói về cách mà công việc của Tu sĩ Anrê vẫn tiếp tục trong thế kỷ
21 này: “Tôi chẳng coi việc chờ đợi là sự kỳ cục, dù điều đó làm gián đoạn cuộc điện đàm với người khác. Kỹ thuật làm chúng ta không thể tiếp cận nhu cầu và áp lực. Chúng ta phải im lặng và ưu tiên lắng nghe tiếng Chúa”. Thời gian im lặng là lúc chúng ta có thể khai hóa sự tĩnh lặng nội tâm và chờ gợi ý của Chúa Thánh Thần.
6. Xin cầu nguyện
Người ta có những câu chuyện dài về cách Thiên Chúa hành động trong cuộc đời họ là thường nói qua những người bạn đạo đức, gia đình tốt lành và các giáo sĩ thánh thiện. Nếu họ nhận biết Thiên Chúa kêu gọi họ, nhất là nếu điều đó quan trọng, họ sẽ xin các
Kitô hữu uy tín cầu nguyện cho họ về vấn đề đó để nhận biết Ý Chúa.
7. Hoàn toàn mau mắn vâng lời Chúa
Những người tin vào Chúa luôn lắng nghe trong thinh lặng. Khi xác định được Ý Chúa, họ hoàn toàn mau mắn vâng lời. Chính Đức Mẹ cũng đã ngại khi biết mình sẽ thụ thai trong khi mới đính hôn, nhưng khi nghe sứ thần Gabriel giải thích và biết được Ý Chúa, Đức Mẹ xin vâng ngay: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1:38). Kinh thánh đã xác định: “Vâng lời trọng hơn của lễ” (1 Sm 15:22 và Tv 50:8-9). Đó là Ý Chúa thể hiện qua con người vậy.
Lạy Chúa Trời, chúng con đang cùng cả Giáo hội sống trong Năm Đức Tin, xin thêm đức tin cho chúng con, xin dạy chúng con biết lắng nghe Tiếng Chúa và mau mắn thi hành Ý Chúa.
Lạy Chúa Trời, xin đến cứu con, muôn lạy Chúa, xin mau phù trợ! (Tv 70:2), vì chúng con luôn khát khao Ngài.
Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU
(Biên soạn từ Conversion Diary)
nguồn: Maria Thanh Mai gởi
Anh Liu – một tài xế hành nghề “xe ôm” tại Jimo, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc đã
bị các nhân viên cảnh sát cảnh cáo vì không hề có giấy phép lái xe và điều
khiển xe gắn máy khi đã bị cụt hai tay. Các sĩ quan cảnh sát đã buộc anh Liu
phải dừng xe khi thấy anh chở khách quá tải, nhưng họ thật sự sốc khi thấy anh
đã bị cụt cả hai tay mà vẫn có thể điều khiển xe một cách dễ dàng.
Anh Liu đã bị cụt cả hai tay khi mới 10 tuổi do điện giật. Bố mẹ anh đã gửi anh tới
một rạp xiếc địa phương để “học nghề”, và tại đó anh đã được đào tạo để có thể
điều khiển xe gắn máy mà không cần phải có đầy đủ cả hai tay. Tại cơ quan cảnh
sát, anh Liu thừa nhận rằng rạp xiếc trước đây anh từng làm đã giải tán và anh
buộc phải quay sang làm nghề lái xe chở khách để kiếm sống, và hơn 10 năm nay,
anh chạy xe trong khi không hề có bất cứ loại giấy phép nào. Các sĩ quan cảnh
sát đã quyết định không phạt tiền, nhưng họ buộc anh Liu phải dừng ngay công
việc này, bởi nó có thể gây nguy hiểm cho anh và cho cả các hành khách nữa.
http://us.24h.com.vn/noel-2011-c64e2022.html cực
đỉnh
Nhìn ngắm tấm thiệp Giáng sinh đẹp đẽ trên đây, ít người có thể tưởng tượng rằng
chúng được vẽ bằng chân. Đây là các tác phẩm của Peter Longstaff (48 tuổi), một
nghệ sĩ Anh đã bị cụt cả hai tay. Những tấm thiệp của Peter Longstaff được anh
thể hiện rất sinh động, lúc thì mô tả những ngọn nến lung linh, khi lại mang
hình ảnh một con hươu ở xứ sở thần thiên trong mùa đông lạnh giá…
CON CHỒN và VƯỜN NHO
Tác giả: Thanh Thanh
Chuyện ngụ ngôn kể rằng: Một con chồn muốn vào một vườn nho, nhưng vườn
nho lại được rào dậu cẩn thận. Tìm được một chỗ trống, nó muốn chui vào nhưng
không thể được. Nó mới nghĩ ra một cách: nhịn đói để gầy bớt đi.
Sau mấy ngày nhịn ăn, con chồn chui qua
lỗ hổng một cách dễ dàng. Nó vào được trong vườn nho. Sau khi ăn uống no nê,
con chồn mới khám phá rằng nó đã trở nên quá mập để có thể chui qua lỗ hổng trở
lại. Thế là nó phải tuyệt thực một lần nữa.
Thoát ra khỏi vườn nho, nó nhìn và suy nghĩ: “Hỡi vườn nho, vào trong nhà ngươi
để được gì?Bởi vì ta đã đi vào với hai bàn tay không, ta cũng trở ra với hai
bàn tay trắng”.
Khi bước vào trong trần thế này, con người muốn mở rộng bàn tay để chiếm trọn mọi sự. Khi nhắm mắt xuôi tay cũng đành phải ra đi với hai bàn tay trắng mà thôi.
………….
Một nhà vua kia trước khi chết dặn rằng: “Lúc chết, khi đặt vào quan tài, thì
nhớ khoét hai lỗ và để hai bàn tay của Trẫm ra bên ngoài nhé, để cho mọi người
thấy là ta không đem theo được thứ gì cả”.
Ai chẳng biết thế, nhưng không hiểu sao mọi người cứ tích góp thật nhiều. Đến
độ phải dành dật, mất cả tình nghĩa, đến cả sát hại lẫn nhau nữa.
Cuộc sống con người đáng lẽ phải hưởng được thật nhiều hạnh phúc, thì lại bận
tâm cho sự đời. Lòng trí trở nên rối bời, khắc khoải, chờ đợi, tìm kiếm, nắm
giữ, mất đi, buồn khổ, thất vọng, chán đời, trách Chúa.
Thiên Chúa không dựng nên con người để hành hạ, đoạ đày, nhưng là để hưởng, như
Ađam Eva xưa. Thế mà con người đâu có hài lòng, lại muốn hơn muốn nữa, cuối
cùng chính họ tự làm khổ mình. Và “cái đang có cũng bị lấy đi”. Chúa dạy
là:“Hãy làm giàu kho tàng ở trên trời, nơi mối mọt không làm gì được”.
Dường như cái tâm lý chiều sâu cũng là định luật bù trừ thì phải. Xưa nguyên tổ
đánh mất, thì nay ta tìm cách lấy lại. Lấy lại bằng bất cứ giá nào. Nên càng cố
ra sức tích tích trữ thật nhiều. Và coi đó như một bảo đảm cho đời mình. Và khi
con người vất vả gom góp, thì lúc phải chia sẻ, lìa bỏ càng khó và đau xót hơn
nhiều.
Thánh Phaolô tông đồ nói: “Thưa anh em, thời gian chẳng còn bao lâu nữa. Vậy từ
nay ai có vợ hãy sống như không có; ai khóc lóc hãy làm như không khóc; ai vui
mừng như chẳng vui mừng; ai mua sắm hãy làm như không có gì cả; kẻ hưởng dùng
của cải đời này, hãy làm như chẳng hưởng. Vì bộ mặt thế gian này đang biến đi”
(1Cr 7,29-30).
Về đạo đức, ta được động viên là hãy làm thật nhiều việc thiện, lập nhiều công
đức để được Chúa thưởng công.
Nhưng về mặt tu đức, ta lại được nghe rằng hãy gỡ bỏ mọi thứ hành trang, để
mình trở về số không. Số không nguyên tuyền tốt lành thuở ban đầu khi Thiên
Chúa dựng nên. Chính lúc này ta thực sự nhận lãnh mọi sự tốt lành Chúa đã sắm
sẵn.
Như Đức Giêsu, Ngài có tất cả, nhưng rồi lại tháo gỡ tất cả. Từ là Chúa, quyền
uy, oai phong, hoàn hảo, tốt lành, giàu có, đến sức sức khoẻ, thời gian, tài
đức, và cuối cùng là sự sống. Ngài đã thực sự trở nên số không khi bị treo trên
thập giá. Và chính lúc này, Thiên Chúa Cha tỏ cho biết thế nào là vinh quang,
thế nào là tất cả.
Nếu con người biết cái thực thực ảo ảo của thế gian, mà can đảm đi ngang qua
tất cả, thì sẽ gặp được Thiên Chúa, Đấng là tất cả.
Thanh Thanh
=====
BÀN TAY PHẢI CỦA CHÚA GIÊSU

Tại một nhà thờ bên Tây ban nha, có một tượng thánh giá cổ rất đặc biệt. Cánh
tay trái của Chúa Giêsu vẫn còn đóng vào gỗ, nhưng cánh tay phải thì rời ra và
đưa đến phía trước trong tư thế ban phép lành.
Người Tây ban nha kể về nguồn gốc của tượng thánh giá này như sau: Có một tội
nhân đến xưng tội với cha xứ ngay dưới cây thánh giá. Như thường lệ, mỗi khi
giải tội cho tội nhân có quá nhiều tội nặng, Linh mục này tỏ ra rất nghiêm
khắc. Ngài ra việc đền tội nặng cũng như ngăm đe nhiều điều.
Tội nhân ra về, lòng cảm thấy nhẹ nhàng. Nhưng tính nào tật ấy, không bao lâu,
người đó sa ngã lại. Lần này, sau khi anh xưng thú tội, vị Linh mục lại đe dọa
như sau: “Đây là lần cuối cùng tôi giải tội cho ông”.
Nhiều tháng qua đi, tội nhân lại đến quì dưới chân Linh mục cũng bên dưới cây
thánh giá và lại xin ơn tha thứ một lần nữa. Nhưng lần này, vị Linh mục đã dứt
khoát, và trả lời: “Ông đừng có đùa với Chúa. Tôi không thể ban phép giải tội
cho ông nữa”.
Nhưng lạ lùng thay, khi vị Linh mục vừa khước từ tội nhân, thì bỗng ông nghe
một tiếng thì thầm từ bên thánh giá. Bàn tay phải của Chúa Giêsu bỗng được rút
ra khỏi thánh giá và ban phép lành cho hối nhân. Vị Linh mục nghe được tiếng
thì thầm như sau: “Chính Ta là người đã đổ máu ra cho người này, chứ không phải
ngươi”.
Từ đó, bàn tay phải của Chúa Giêsu cứ ở mãi trong tư thế ấy, như không ngừng
mời gọi con người đến để ban ơn tha thứ.
(Trích trong sách Lẽ sống)
Nhìn vào thập giá, con thấy tội trần gian. Nhìn vào thập giá, con thấy tội của
con. Chối từ hồng ân, tuôn tràn từ Thiên Chúa, sống trong đam mê, chống lại
tình yêu. Đan tâm phản nghịch, đóng đinh Chúa từ nhân (lời bài hát Tình yêu
Thập giá).
Nhìn vào thập giá, ta biết Thiên Chúa đã chứng tình yêu vĩ đại thế nào.
Nhìn vào thập giá, ta biết rõ tình yêu lớn lao vô cùng của Chúa và biết rõ cái
phũ phàng của nhân loại.
Nhìn vào thập giá, ta biết được Thiên Chúa không bỏ rơi con người, mà còn mở
đường và cho ta cơ hội trở về. Vì thế, ta đừng sợ hãi, mà hãy can đảm nhìn lên
Chúa Giêsu, không phải để than phiền, trách móc hay thất vọng, nhưng là hối lỗi
ăn năn, và đừng đóng đinh Chúa lần nữa.
Nhìn vào thập giá, với cánh tay dang rộng, thì biết rằng dù con người có giết
Ngài, Ngài vẫn không khép kín từ tâm, đóng cửa bịt lối, mà tiếp tục dang rộng vòng
tay yêu thương để ôm lấy nhân loại.
Nhìn vào thập giá, ta sẽ cảm nếm được thế nào là ơn tha thứ của Ngài.
Nhìn vào thập giá, lời mời gọi khẩn thiết của Chúa là các con hãy tha thứ cho
nhau. Càng tha thứ nhiều, ta càng cảm nếm được ơn tha thứ của Chúa nhiều.
Nhìn vào thập giá, ta biết rằng chính Ngài là Đấng đổ máu ra vì con người, Đấng
duy nhất có quyền kết án hay tha bổng, chứ không phải do bác ái của con người.
Nhìn vào thập giá con thấy được tình yêu. Nhìn vào thập giá con người thấy được
hồng ân. Chúa từ trời cao, quên mình là Thiên Chúa. xuống nơi dương gian sống
vì tình yêu. Hy sinh thân mình chứng minh Chúa tình yêu. (lời bài hát Tình yêu
Thập giá)
Nhìn vào thập giá, ta biết đường đi lối về của mình trong hành trình tìm kiếm
Tình Yêu.
Nhìn vào thập giá, ta biết được sức mạnh của tình yêu. Đàng sau thập giá là
hình bóng của vinh quang. Muốn có vinh quang phải đi xuyên qua thập giá.
Nhìn vào thập giá, ta thấy bầu trời tình yêu được mở ra cho mọi người chiêm
ngắm và đi vào.
Nhìn vào thập giá, con đường tuyệt vọng biến thành hy vọng, sự chết biến thành
sự sống, thất bại trở nên thành công, khờ dại trở thành khôn ngoan, tương đối
biến thành tuyệt đối, bất hạnh biến thành hạnh phúc, lo sợ trở thành vững tin,
nhút nhát trở thành can đảm, khép kín trở nên cởi mở, ích kỷ thay bằng vị tha,
cố chấp thay bằng bao dung, lười biếng thay bằng hăng say, và sẵn sàng chiến
đấu vì chân lý và sự thật, nhờ sức mạnh của cây thập giá.
Nhìn vào thập giá, ta biết được sức mạnh của sự dữ đã bị bẻ gẫy tan tành.
Nhìn vào thập giá, ta biết trời cũ đất cũ thay bằng trời mới đất mới. Nơi toàn
là ánh sáng vinh quang. Nơi không còn bất cứ áp lực nào có thể đe doạ ta được.
Nơi không còn phải lo miếng cơm manh áo hay nhà cửa, tiền bạc hay nghề nghiệp,
bệnh tật hay chết chóc… Vì mọi thứ tốt lành vĩnh cửu đã được dành sẵn cho ai
bước vào.
Nhìn vào thập giá, ta biết cửa hoả ngục bị đập tung, và cửa thiên đàng đã mở
toang.
Thì này con đây khấn xin khấn xin nơi Ngài. Xin Ngài dủ thương tha thứ muôn tội
khiên, và dìu đưa con vào suối nguồn hồng ân.
Vì thế, nói đến thập giá là nói đến Chúa Giêsu. Nói đến Chúa Giêsu là nói đến
thập giá.
Nếu ta đi tìm một Giêsu không thập giá, ta sẽ gặp toàn thập giá, mà không thấy Giêsu.
nguồn: Maria Thanh Mai gởi
Kiên Nhẫn – Kiên Cường: Cậu Bé Glen Cunningham
Br. Huynhquảng
Hôm nay, mục Sống Đẹp xin được nêu tấm gương của cậu bé Glen Cunningham nhằm
giới thiệu chủ đề mới: Kiên Nhẫn – Kiên Cường. Qua bốn chủ đề mà chúng ta đã
cùng nhau học hỏi: Tha Thứ Hòa Giải, Xây Dựng Hiệp Nhất, Sống Hiện Tại, và Đơn
Sơ Chân Thật, thì đây là lúc chúng ta cùng nhau trao đổi về chủ đề Kiên Nhẫn –
Kiên Cường. Vì thực ra, để có thể tha thứ, xây dựng hiệp nhất, sống hiện tại,
sống chân thật, tất cả đều đòi hỏi một sự kiên nhẫn không ngơi nghỉ.
Cậu Bé Glen Cunningham
Khi mới bảy tuổi, đôi chân của Glen Cunningham bị phỏng nặng do một vụ thảm
họa. Theo nhận xét của bác sĩ, cậu bé Glen sẽ không bao giờ đi lại bình thường
được. Các bác sĩ đề nghị cưa chân cậu bé nếu muốn cậu được sống sót. Như thế,
vấn đề bây giờ không còn là chuyện khi nào đôi chân của Glen được bình phục,
nhưng là sự sống của cậu bé. Những ngón chân trái dần dần bị hao mòn đi; chân
phải dần dần ngắn hơn chân trái. Với kinh nghiệm đau đớn trong bản thân và
chứng kiến cơ thể mình tàn lụi dần, Glen quyết tâm với lòng mình là không đầu
hàng với số phận. Hằng ngày cậu tập những động tác theo hướng dẫn của bác sĩ
chỉ nhằm với ý chí rằng: Cần làm những gì cần phải làm trước khi mình không bao
giờ còn cơ hội để làm. Với ý chí tích cực kiên cường ấy, ba năm sau, cậu tự đi
mà không cần dùng nạng. Xa hơn, cậu đã tập chạy và không ngừng chạy khi có thể.
Năm 1938, Glen làm cho cả thế giới kinh ngạc khi phá kỷ lục thế giới với 4 phút
4.4 giây trong đường chạy một dặm.
Ca dạo tục ngữ Việt Nam truyền dạy rằng: “Nước chảy đá mòn; có công mài
sắt có ngày nên kim.” Và đúng là như vậy, Glen Cunningham như mẫu gương để
khơi niềm hy vọng cho chúng ta, dù trong hoàn cảnh nào, nếu chúng ta quyết chí
vươn lên, một ngày nào đó, thành quả sẽ đến với chúng ta. Nhìn vào những người
như Glen Cunningham, phần nào ta tìm thêm nghị lực để tiếp tục tiến tới và tiếp
tục hoàn thiện chính mình, và để tiếp tục đi đến cùng đích của đời mình.
Kiên cường, can đảm (fortitude, fortitudo) là một đức tính rất được đề cao
trong nền triết lý văn minh Hy Lạp. Theo triết gia Aristotle (A-ris-tot),
“Kiên cường là đức tính của những người không tỏ lộ sự sợ hãi khi họ dám
chết cho lý tưởng cao thượng.” Nhưng đức tính (virtue, arete) này cần phải
có quá trình tập luyện bền bỉ. Mẫu gương cho những cái chết cao thượng là những
người chiến sĩ anh dũng hy sinh cho quê hương, cho dân tộc. Nhưng theo triết
gia Plato, kiên cường không chỉ được hiểu là can đảm chết cho những lý tưởng
cao đẹp, nhưng còn là “sự chiến đấu với những khát vọng thú vui.” Tức
là phải chiến đấu với chính con người của mình. Còn theo triết gia Cicero (45
B.C), “Kiên cường không gì khác hơn chính là thái độ tinh thần có khả năng
chịu đựng mọi nguy hiểm dù phải chịu cực nhọc đau đớn, nhưng đồng thời không để
cho sự sợ hãi tiếp cận gần ta.” Tóm lại, sự can đảm kiên cường không chỉ
là hành động anh hùng, nhưng còn là sự kiên nhẫn tập luyện chịu đựng gian khổ
để làm chủ con người mình để dám chết, nếu khi cần, cho lý tưởng cao đẹp, và
dám sống mỗi ngày nhằm nâng cao giá trị con người của mình.
Jean-Jacques Rousseau phát biểu rằng, “Kiên nhẫn thì cay đắng, nhưng trái
của nó lại ngọt ngào.” Và quả đúng như vậy, hạt giống chỉ có thể nảy mầm
khi nó liên tục âm thầm tự lột lớp vỏ của mình ra. Như thế, kiên nhẫn đòi hỏi
sự kiên cường và can đảm. Kiên cường ở đây không chỉ là thực hiện những việc
lớn lao, nhưng quan trọng hơn chính là làm những việc nhỏ bình thường hằng ngày
với ý chí hoàn thiện chính mình. Dù làm những việc nhỏ, nhưng sự kiên trì hành
động từng ngày cũng đủ làm ta phải trả giá cho sự đau đớn, mất mát và từ bỏ
những điều thân thiết.
Thưa bạn, trong bài đầu tiên về chủ đề Kiên Nhẫn – Kiên Cường, tôi mời bạn ví đời
mình như là một người thợ xây. Mỗi ngày chúng ta dù làm việc gì (học hành, rèn
luyện nhân đức, thao luyện, cầu nguyện), chúng ta hãy coi như chúng ta đang đặt
một viên gạch lên bức tường của đời mình. Bức tường ấy có chắc chắn hay không,
có thẳng hàng hay không, có đẹp hay không đều lệ thuộc vào từng viên gạch chúng
ta đặt vào nó. Nếu mỗi một ngày chúng ta chỉ được quyền xây một viên gạch, thì
chúng ta cũng nên cẩn thận và kiên nhẫn cho từng viên gạch ấy. Và cũng nếu hôm
nay mình không thể đặt viên gạch vào bức tường của mình, thì mãi mãi chỗ ấy sẽ
là chỗ trống. Nếu một bức tường có nhiều lỗ hổng, càng xây lên cao, nguy cơ sụp
đổ của nó càng lớn. Và cũng vậy, nếu hôm nay tôi không kiên nhẫn và kiên cường
thi hành phận vụ của tôi, thì lỗ hổng vẫn còn đó, không ai giúp cho tôi được.
Vâng, kiên nhẫn thì cay đắng, nhưng trái của nó lại ngọt ngào!