Không thấy mới gọi là tin

Không thấy mới gọi là tin

Ðức tin là gì? Nói một cách cho dễ hiểu thì đức tin nghĩa là tôi tin vào điều mà khoa học và những giác quan không kiểm chứng hoặc không hoàn toàn kiểm chứng được. Ví dụ như tôi tin có Chúa là vì tôi cảm nghiệm có một bàn tay vô hình nào đó luôn che chở phù trì tôi trong cuộc đời, dù rằng tôi không thể chứng minh cho mọi người thấy được điều đó. Tôi tin tôi có linh hồn bất tử bởi vì mỗi khi làm một điều gì xấu, tôi cảm thấy lương tâm áy náy và bất an, trong khi một điều tốt thường đem lai cho tôi một tâm hồn binh an thanh thản. Tôi nghĩ, nếu tôi phải nhìn thấy Chúa, nghe tiếng Chúa nói, đụng chạm đến Ngài y như các môn đệ ngày xưa rồi tôi mới tin, thì đó chưa hẳn là đức tin đúng theo nghĩa của nó. Nếu chính mắt tôi nhìn thấy Chúa hiện ra, tôi nghe lời Chúa nhắn nhủ, và tôi đụng chạm tà áo Ngài thì tôi không còn là tin nữa mà là tôi đã gặp Ngài và biết Ngài.
 
Trong bài Phúc Âm Chúa Nhật Thứ Hai Sau Phuc Sinh, Ông Tôma đòi gặp Chúa Giêsu, nhìn thấy những lỗ đinh, và thọc ngón tay vào cạnh sườn Ngài rồi thì mới tin. Chỉ có vậy mà muôn đời ông bị gán cho một biệt danh là “kẻ cứng tin.” Kể ra thì cũng hơi oan cho ông, vì nếu tôi được đặt vào hoàn cảnh của ông, chưa chắc tôi đã tin mà có khi còn cho các môn đệ là những kẻ dễ bị lừa. Một điều rất quan trọng nơi đức tin của Tôma là lần thứ hai Chúa hiện ra với ông sau tám ngày. Trong lần này,
không những ông tin vào Ðức Kitô, mà ông còn tuyên xưng một niềm tin tuyệt hảo, có giá trị cứu độ, “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi” (Gioan 20:28). Trong bốn Phúc Âm, chỉ có vài người đạt được niềm tin cỡ như Tôma hôm nay: Ðó là lời ông Phêrô tuyên tín “Thầy là Ðức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sông” (Mt, 16:16) và lời thốt lên của viên sĩ quan nhìn lên Chúa chết trên thập giá, “quả thật! người này đúng là Con Thiên Chúa” (Mc, 15:39). So sánh ba lời tuyên tín trên, ta thấy lời của Toma đạt được đỉnh cao vào bậc nhất, “Lạy Chúa tôi! Lay Thiên Chúa của tôi” (Gioan 20:28). Nếu Tôma không “nghi ngờ” một chút nào cả thì chưa chắc ông đạt đến một đức tin như thế. Có thể sau khi ông nghe những lời tường trình về việc Chúa hiện ra và đàm đạo với các môn đệ, ông suy đi nghĩ lại con người Giêsu mà ông theo đuổi bấy lâu nay. Cũng có thể ông bị dằn vặt với đức tin của ông vào Ðức Kitô Phục Sinh. Nhưng chính trong sự suy nghĩ bằng khối óc, sự đắn đo và chiến đấu với niềm tin của ông về Ðức Kitô, mà ông đã đạt được, tiếng Anh gọi là “come to believe,” một niềm tin cao nhất về Ðức Kitô Phục Sinh.
 
Ta nên biết rằng Tin Mừng Gioan thường nhấn mạnh đến dấu lạ và niềm tin đạt được qua những dấu lạ đó. Ðan cử như là trường hợp của ông Nicôdemô đã đàm đạo với Chúa suốt đêm, để rồi ông có cảm tình hơn với Chúa và sau này ông đã bênh vực và táng xác Chúa. Chị phụ nữ Samaria cũng thế, đã lắng nghe và tâm sư với Chúa và rồi đức tin của chi đã triển nở đến độ chạy đi loan báo cho mọi người về Ðức Kitô. Rồi đến anh mù từ thủa mới sinh đã vất vả chiến đấu với niềm tin của mình cho dù bị các niên trưởng và giới lảnh đạo chửi mắng và kết án, và ngay cả cha mẹ cũng từ bỏ anh. Lạ lung thay, anh đã đạt được đỉnh cao của niêm tin vào Chúa Kito đến độ cúi xuống bái lạy Ngài.
 
Vậy thì việc Tôma không tin ngay vào những lời các môn đệ không nhất thiết một là điều xấu, cũng như chúng ta nghe về phép lạ này phép lạ kia từ người này hay người nọ. Thỉnh thoảng chúng ta cảm thấy thắc mắc và hơi nghi ngờ về môt điểm nào đó trong việc thực hành đạo. Có lúc chúng ta chứng kiến nhiều biến động trong tâm hồn cũng như trên thế giới như là tai sao người lành gặp đau khổ trong khi kẻ ác cứ sống phây phây và ta tự hỏi “Không biết có Chúa không.? Sao tôi đau khồ qúa?”
 
Những thắc mắc và câu hỏi kiểu như thế trong thử thách không hẳn là xấu, mà có khi lại cần thiết nữa. Ðiều quan trọng là chúng ta vẫn tin vào Chúa và biết cách dùng những ân huệ Chúa ban để hiểu thêm những điều mình tin. Chúa cho chúng ta khối óc và những giác quan thì phải đem ra mà sử dụng. Phải có tinh thần học hỏi, phải suy niệm, đôi lúc cũng phải có sự chiến đấu nôi tâm. Ðức tin phải từng trải và phải chịu đau đớn cũng như Ðức Mẹ dưới chân thập giá; cũng như Abraham đem con một lên núi tế lễ; và như ông Gióp khổ sở vì mất con cái nhà cửa và chịu lở loét bênh tật.  Đặc biệt nhất là như Chúa Giêsu chịu khổ nạn và đau đớn trên thánh gía đến nổi phài thốt lên, “Lạy Chúa tôi; lạy Chúa Trời tôi; sao Chúa bỏ tôi.” 
 
Chắc chắn những nhân vật này có một đức tin rất vững chắc bởi vì họ đã chịu thử thách đến tận cùng và họ đã trở thành những anh hùng của đức tin.  Họ là sự ứng nghiệm của câu ca dao nổi tiếng Việt Nam, “Lửa thử vàng. Gian nan thử đức.”
 
 
 
Lm Trịnh Ngọc Danh

Tình Anh Lính Chiến Biệt Động

Tình Anh Lính Chiến Biệt Động

Tác giả: Nguyễn Khắp Nơi

Chồng sắp cưới của em tên Tốt, ảnh với anh Thân ở cùng xóm với em.
Lớn lên, ảnh thương em, đòi ba má ảnh qua nhà em xin cưới.
Em thấy ảnh tảnh tình hổng có hạp với em nên không chịu, nhưng ba má ảnh cứ đeo theo em nói riết hà, anh Tốt cũng theo em hoài, luôn hai ba năm trời như vậy
đó, làm cho em cũng thấy tội nghiệp ảnh. Cuối cùng, em suy nghĩ, thấy mặc dù hổng hạp, nhưng ảnh cũng có thành tâm, nên em chịu lấy ảnh. Bữa làm đám nói, em có rao trước với ảnh rằng:

“Anh quen tui từ nhỏ, anh biết tánh tui rồi, tui nói gì thì tui làm cái nấy. Anh nói thương tui bảo bọc được đời của tui thì tui chiụ. Nhưng hễ tui
thấy anh làm hổng đúng như vậy, tui . . .bỏ anh liền đó.”

Anh Tốt thề sống thề chết là sẽ yêu thưong lo lắng cho em suốt đời, ba má ảnh cũng chịu làm chứng, nên em chịu làm đám cưới với ảnh. Nhà em ở bên sông, nhà ảnh ở bên chợ, nên bữa đám cưới, nhà ảnh rước dâu bằng ghe.Ảnh với em và đám bạn bè ngồi chung một chiếc ghe chèo đi trước, phía nhà trai một chiếc, nhà gái một chiếc đi theo sau. Bạn bè em ai cũng chúc mừng em lấy được chồng xứng đôi, biết thương mình. Đoàn ghe cưới chèo đi ngon lành, sắp tới nhà trai rồi, hai bên bờ bà con lối xóm đứng tụ dài dài coi đám cưới, vui lắm.

Tài công sửa soạn tấp ghe vô, anh Tài lo đốt pháo mừng, tụi bạn bè em phần vui
vẻ, phần sợ pháo rơi trúng cháy quần áo, nên chộn rộn đứng lên đứng
xuống. Ngay lúc đó, có một chiếc ghe máy chạy ngang, chiếc ghe lớn mà lại chạy mau nữa nên làm sóng lớn đánh ào lên ghe cưới, nước lọt vô tùm lum,
chiếc ghe muốn lật. Tụi em la hoảng quá chừng, kiếm đồ múc nước ra, nhưng ghe đám cưới đâu có đồ múc nước, lính quýnh một hồi, chiếc ghe bị lật luôn.Tụi em đều là dân quê, đứa nào cũng biết lội, nhưng mấy đứa con gái tụi em bữa đó hổng làm sao mà lội hết mình được, vì đứa nào cũng bận áo dài gài bông đeo nữ trang tùm lum hết.Phần em còn nhiều hơn nữa, có đôi khoen tai má em mới cho, lại chiếc cà rá đám nói rộng rinh muốn sút nên em hổng dám đụng mạnh, chỉ ráng thả nổi chờ có ai cứu. Em nghe trên bờ người ta đứng coi la lối chỉ chỏ um xùm:

“Cô dâu bị chỉm, cô dâu bị chìm, cứu cô dâu cho mau . . .”

Em thấy anh Tốt đang lội ở đằng trước, em la lên:

“Anh Tốt, cứu em . ..”

Ãnh dòm lại thấy em đang chới dới mà ảnh làm như hổng thấy em hổng nghe tiếng em kêu, ảnh cứ lội riết vô bờ.

Đám con gái tụi em ráng đập tay đập chân, đứa nào cũng la cầu cứu om xòm. Em đưa tay lên ngoắc anh Tốt một lần nữa, la thiệt lớn:

“Anh Tốt . . . Cứu em . . . Em lội hổng nổi, bị chìm rồi nè . . .”

– Em há miệng lớn quá, bị nước vô miệng hụt hơi chìm luôn, thôi chết cho rồi.

Bất ngờ, em thấy có bàn tay của ai đó kéo em lên, rồi ôm lấy em mà lội vô bờ.

Lên tới bờ, em muốn xỉu nhưng cũng ráng dòm coi anh Tốt ở đâu? Coi ảnh có bị gì hông?

Em thấy anh đang đứng trên bờ lo cởi giầy cởi áo lau người thì cũng đỡ lo.

Bà con lối xóm đi coi thấy em được cứu, người ta mừng quính, la lên:

“Cô dâu được cứu rồi .. . Cô dâu xỉu rồi, mau đem vô nhà đám cứu tỉnh . . .”

Lúc đó ghe hai bên nhà trai nhà gái cũng cặp bến được rồi, ông bà già ảnh cũng nhào lên, đỡ em vô nhà đám.

Ba má em lo đi lấy khăn quấn cho em, kiếm quần áo khác cho em thay, hỏi em có
sao hông?

Bà con chòm xóm cũng bu lại hỏi thăm em.

Em chờ hoài mà hổng thấy anh Tốt đâu hết trơn, làm em tủi thân, em khóc quá
chừng.

Chuyện chèo ghe chìm xuồng ở xứ này, bữa nào cũng có, nhưng em thấy rõ ràng anh Tốt không có lo cho em, ảnh chỉ lo cho mình ên ảnh thôi.

Chính cái miệng ảnh nói sẽ lo cho em suốt đời, vậy mà thấy em bị chìm xuồng, bỏ
luôn hồng thèm cứu; đã vậy, em lên tới bờ cũnghổng thèm chạy lại hỏi thăm coi
em có bị gì hông?

Người gì mà ác nhơn ác đức quá trời đi. hỏi sao em không buồn cho được.

Một hồi sau, cả hai gia đình tụ tập lại hết rồi, anh Tốt cũng đã thay đồ mới rồi, lúc đó ảnh mới tới hỏi thăm em.

Em có hỏi ảnh:

“Anh có thấy tui bị chìm hông? Anh có nghe tui kêu anh cứu tui hông?”

Ảnh trả lời tỉnh như không:

“Anh thấy, nhưng nghĩ rằng em biết lội, tự lội vô bờ được, đâu cần anh lo đâu!

Mà hồi sau cũng đã có mấy người nhảy xuống cứu em đưa lên bờ rồi nên anh mới lo đi thay đồ đặng lát nữa làm đám cưới tiếp…

Sao em không đi thay đồ đi mà còn ngồi đó, để trễ giờ rồi.”

Em giận quá chừng là giận, nói với ảnh:

“Anh lo cho tui cái kỉểu đó đó hả? Anh đã hổng cứu tui, giờ còn bắt lỗi tui sao hổng đi thay đồ hả?

Nếu không có người ta cứu tui, tui chết chìm rồi, lấy ai cho anh làm đám cưới…”

Em vô trong nhà thay đồ, lấy bộ đồ thường ra bận, chứ hổng chịu bận đồ mới.

Tới khi ba má ảnh đứng lên chào bà con rồi kêu em ra lạy bàn thờ ông Tổ, em một
mình đứng lên nói với ba má ảnh và ba má em nói với chòm xóm:

“Thưa ba má, các bác các dì, bữa nay là đám cưới của con với anh Tốt. Hồi làm đám nói, con có thưa với ba má và anh Tốt, ảnh phải bảo bọc được đời con thì con mới ưng ảnh. Bữa nay, con bị chìm xuồng, con kêu ảnh cứu con, ảnh hổng thèm cứu con, lo lội lên bờ mình ên. Tới khi con được cứu lên bờ rồi, ảnh cũng hổng thèm tới thăm, dòm ngó coi con còn sống hay chết.

Hên là con được người ta cứu, chứ nếu không, con chết mất rồi, đâu còn đứng đây mà làm đám cưới.

Cũng hên là con thấy cái bản mặt của ảnh ra sao[chân diện mục] trước khi làm đám cưới.

Người như ảnh, làm sao lo cho con, bảo bọc được đời con?

Con xin ba má hai bên, bỏ qua cái đám cưới này đi.”

Em day qua anh Tốt, nói với ảnh:

“Anh Tốt, bữa đám nói, anh hứa lo cho tui, bảo bọc đời tui. Vậy mà bữa nay, tui bị chìm xuồng, anh lo mình ên anh, hổng thèm cứu tui, cũng hổng thèm dòm coi tui sống chết ra sao. Tui . . . hổng lấy anh nữa đâu.

Nè, cà rá của anh nè, tui trả lại cho anh đó.”

Em nói một hơi, anh Tốt đứng xụi lơ, ba má ảnh cứng họng ngồi một đống, hổng nói được một tiếng.

Tới khi thấy em trả lại cái cà rá, ổng bả hoảng quá, chạy lại ôm em, khóc:

“Con ơi, con thương ba má đi, ai đời đám cưới mà nói gì tùm lum vậy.

Vợ chồng có gì mai mốt đóng cửa chỉ biểu nhau, làm gì mà con làm dữ vậy con.

Thôi con bớt giận đi, làm đám cưới cho rồi đi!”

Ba má em thấy em đứng sững, hổng thèm trả lời ba má ảnh. Ổng bả hổng hiểu cho em còn nổi giận la em:

“Mày dám từ hôn bữa nay hả? Thằng Tốt nó thấy mày được cứu rồi thì nó lo đi thay đồ chứ còn gì nữa mà bắt lỗi nó.

Mày mà hổng chịu làm đám cưới bữa nay, tao . . .từ mày luôn đó!”

Em hổng nói gì thêm, xá ba má ảnh, ba má em rồi bỏ đi về.

Bà con lối xóm bu theo em, người thì nói em có lý, chồng cỡ đó bỏ đi là phải, người thì nói em xui xẻo quá. . . tùm lum hết.

Em cứ lặng thinh bỏ đi một nước.

Đang đi, chợt em thấy mặt thằng Thìn, em mới hỏi nó:

“Mày có thấy hồi nãy. .. ai cứu tao hông?”

Thằng Thìn chỉ người con trai đứng kế bên, đang cởi cái áo lính vắt nước cho khô:

“Thằng này nè.”

Em nhìn người con trai, xụp xuống lạy ảnh một lạy:

Tui thiếu anh một mạng đó.”

Rồi đứng lên đi ra bờ sông kiếm ghe về nhà.

                                     + + + + + + +  +

Kể tới đó, Lan nắm tay Hải, cười như mắc cở.

Hải tiếp lời vợ:

“Thiếu úy biết hông, bữa đó, tiểu đoàn được về hậu cứ nghỉ, cho đi phép 24 tiếng. Em về Cần Thơ hổng kịp nên đi theo thằng Thìn về nhà nó chơi.

Về tới nhà, ba má thằng Thìn cho hay bữa nay con Lan kế bên làm đám cưới. Thằng Thìn nói với em:

“Vậy là trúng mối rồi, tao với mày đi. . . ăn ké cho vui.”

Nó dẫn em ra bờ sông, dòm nhà trai nhà gái rước râu bằng ghe, cũng ngồ ngộ.

Đang coi thì thấy có chiếc ghe máy chạy ngang, làm sóng lớn lật chìm luôn chiếc
ghe cô dâu.

Em thấy người ta bị té dồn cục dưới nước, lội lủm chủm, có người lội không nổi,
muốn chìm, em kêu thằng Thìn:

“Mau cứu người ta, cởi giầy ra lẹ lên. . .”

Em và thằng Thìn nhào xuống sông lội một hơi, thấy một cô coi bộ muốn chìm lỉm, em lội tới đỡ đưa cô vào bờ rồi lội trở ra phụ thằng Thìn cứu thêm người khác.

Tới khi tất cả đã được cứu rồi, tụi em mới lên bờ, cởi áo cởi vớ lau mặt lau
người chờ khô. Đang đứng xớ rớ, tự nhiên có một ai đó tới kế bên xụp xuống lạy
em một lạy, làm em hoảng quá, nhẩy nai, hổng hiểu chuyện gì hết?

Khi cô đó đi rồi, thằng mới cho em hay:

“Mày hổng nhớ hả? Con nhỏ đó là . . .cô dâu đó. Nó bị chìm xuồng, chính mày cứu nó đưa vô bờ đó. Thằng rể cũng bị chìm xuồng cùng với cô dâu, nhưng lo lội vô bờ mình ên, hổng lo cho nó, nó tức quá, lên tới bờ, nó . . .từ hôn, hổng thèm lấy thằng đó nữa.

Nó mới đi ngang, hỏi tao ai cứu nó? Tao chỉ mày, nên mới xụp lạy mày cám ơn cứu mạng đó.”

Quần áo khô đỡ rồi, tụi em thả bộ ra chợ ăn uống đầy một bụng, tính đi về nhà thằng Thìn ngủ một giấc, ngày mai đi trình diện tiểu đoàn, lội tiếp.

Về ngang qua chòm câygần bờ sông, thằng Thìn chợt thấy có bóng người đang ngồi chu hu dựa gốc cây.
Nó thọc cùi chỏ em:

“Giờ này mà còn ai ngồi bờ sông coi bộ buồn hiu dzậy! Tới coi coi. . .”

Tới gần, thằng Thìn dòm gái một hồi, cái mặt nó cũng buồn hiu, nói nhỏ với em:

“Coong nhỏ Lan chớ ai, con nhỏ cô dâu hồi sáng đó.

Chắc nó đang buồn vì đám cưới của nó hổng xong nên mới ra đây ngồi đó.

Mình tới nói với nó vài tiếng cho nó đỡ buồn đi, chứ để nó buồn, nó dám . .
.nhảy sông chết, uổng công mày cứu nó hồi sáng.”

Tụi em tới nơi nói chuyện, Lan dòm thằng Thân một cái rồi dòm tiếp ra mé sông, hổng muốn nghe mà cũng hổng trả lời trả vốn gì hết.

Một hồi sau Lan mới nói tâm sự của mình ra: buồn vì tưởng lấy được người chồng
xứng đáng bảo bọc được cuộc đời của mình, ai dè đụng chuyện mới biết anh ta
chết nhát chỉ biết lo cho thân mình.

Lan buồn vì tình duyên mắc cở với chòm xóm, lại bị cha mẹ từ, cô muốn bỏ xứ mà
đi cho rồi nhưng lại sợ ba má buồn nên hổng biết làm sao.

Em mới khuyên Lan:

“Cô đừng có buồn ba má. Tại ba má cô thương cô, lo cho tương lai của cô vậy thôi.

Ai cũng có số mạng, biết đâu sau này anh Tốt suy nghĩ lại, sẽ biết thương biết
lo cho cô.”

Lúc đó Lan mới ngó qua em, hỏi em:

“Anh là ai… mà bữa nay đi ngang đây dzậy?

Anh hổng quen hổng biết gì tui, khi không nhảy xuống cứu tui . . .chi dzậy?

Anh coi bộ . . .gan cùng mình đó.

Hồi nãy, tôi có . . .xá cám ơn anh rồi đó, anh nhớ hông?”

Em trả lời Lan:

“Thấy ai bị nạn thì mình cứu, đâu có cần quen biết gì đâu.

Đánh trận với Việt cộng, sống chết mỗi ngày mà tui còn hổng ngán thì nhằm nhò chi mấy cái lẻ tẻ cứu người đó mà cô phải cám ơn tui. . .Kế đó, em mới nói cho Lan biết em tên gì ở đâu…

Em nói một hồi, hổng biết nói gì thêm, ngồi lặng thinh.

Lan nghe tới hết, cũng ngồi làm thinh.

Thằng Thìn chạy đi đâu mất tiêu, chỉ còn em với Lan ngồi đó.

Lan ngồi một hồi, ngó lên nhìn em, vui vẻ cười nói:

“Ngộ há! Anh dám nhảy xuống sông cứu tui, lại nói . . .nhằm nhò chi.

Tui. . . phục anh thiệt đó.

Bộ anh hổng có biết ba má anh là ai hết hả? Buồng quá dzậy!

Sao hổng. . . lấy dzợ đi, có người lo cho anh?”

Em cũng cười lớn, nói với Lan:

“Tui như cục đá từ trên trời rớt xuống, hổng có bà con, hổng có cha mẹ gì ráo. . .

Cái mạng cùi của tui, tui còn lo hổng xong, nói chi tới lấy dzợ. Tui bây giờ là
. . .Tứ Hải Giai Huynh Đệ, đâu cũng là nhà, có mấy thằng bạn lính là dzui
rồi, hổng cần gì khác hết.”

Hai đứa cùng cười thiệt là vui. Lan lại ngồi bó gối suy nghĩ một hồi nữa, chợt nói với em:

“Anh Hải à, tui. . .thiếu anh một mạng, mà tôi cũng. . . phục anh lắm.

Anh mới là người có thể
bảo bọc cho đời tui . . .

Tụi . . .chịu anh đó . ..Anh . . .chịu . . . tui
hông?

Em nghe cổ nói, mới dòm kỹ lại cổ. Lan coi bộ trắng trẻo, dễ thương. . .

Mà cổ coi bộ cũng là. .. thứ thiệt, dám nói dám làm.

Hổng ưa ai thì dám nói hổng ưa mà thương ai thì cũng dám nói là thương.

Em chịu thứ con gái như vậy, chứ hổng thích cái thứ nhỏng nhẽo làm chảnh.

Em dòm Lan, nắm tay Lan, từ từ nói:

“Tui có mình ên, không bà con chòm xóm, cuộc đời chưa biết đi về đâu, Lan dám . . .chịu tui hả?”

Lan cũng nắm lấy tay em, nói:

“Em phục ai thì lấy người đó. Anh là người hổng nói
nhưng mà dám làm
. Em chịu anh là như vậy đó.”

Em vẫn còn ngại ngùng, nói với Lan:

“Anh hổng có ba má đứng làm đám cưới, ba má em. . . có chịu hông?”

Lan nhìn em, trả lời liền:

“Hễ mình thương nhau là có ông Trời chứng giám. Mấy cái chuyện nhỏ đó, để em lo cho.”

Vậy là tụi em hứa với nhau.

Lan dẫn em về ra mắt ông bà già:

“Thưa ba má, đây là anh Hải, người cứu con hồi sáng.

Tụi con gặp nhau, nói chuyện với nhau hạp lắm, rồi tụi con. . . thương nhau.
Con muốn . . . lấy ảnh.”

Ba má Lan cùng với bà  con đã mời dự đám cưới hồi sáng đã tụ tập về nhà đông đủ, chưng hửng nhìn tụi em.

Một hồi sau, ba má Lan mới nói:
“Mới hồi sáng đây, mày từ hôn với thằng Tốt, giờ đem đứa khác về đây đòi cưới?

Bộ tụi bay quen biết với nhau trước, rồi . . .dàn cảnh chọc tức ba má hay sao
đây? ”

Hai đứa em ngồi xuống nói chuyện với ba má suốt buổi chiều.

Anh Hải thưa ngày mai sẽ về Tiểu đoàn làm đơn xin cưới vợ. Chừng nào được phép, sẽ tổ chức đám cưới, mời ba má bà con lối xóm.

Ba má em hổng biết làm sao nhưng thấy anh Hải hiền lành dễ thương, có gan cứu tử em thì ba má em cũng
đành chấp nhận.

Sẵn đồ ăn tiếp nhà trai còn dư hồi sáng, ba má em dọn ra, mời bà con . . .ăn cưới luôn, vui hết sức vậy
đó.

Sẵn ba má em đang vui, em cũng xin ổng bả cho em theo anh Hải về đơn vị xin chỗ ở, mai mốt được cấp nhà ở, sẽ làm đám cưới luôn.

Em đưa Lan về nhà dượng Há, dượng của Lan, và cũng là Tiểu đội trưởng của tụi em, đặng nhờ ổng giúp đỡ.

Vừa mới bước vô, dượng Há nắm cứng lấy hai người lính, giọng nói lạnh tanh:

“Tụi bay đi đâu mà tao kiếm quá trời hổng ra. Tiểu đoàn phải đi hành quân gấp, đang cho Quân cảnh đi kiếm hết tụi bay về đó, vô trại với tao liền đi. Còn con Lan, sao mày lại đi chung với hai cái thằng trời đánh này?”

Lan nghe ông dượng la lối om xòm, hoảng quá, vội vàng chỉ em nói với dượng:

“Dượng à, anh Hải . ..là chồng mới của con đó.
Con . . .ưng ảnh, ba má con cũng chịu rồi, tụi con tới gặp dượng đặng nhờ dượng
làm đơn xin phép cho ảnh làm đám cưới với con đó.”

Dượng Há đứng chết trân dòm hai đứa tụi em.Dì Há nghe la lối, cũng ở phía sau chạy lên.Khi nghe Lan nói, dì Há cũng đứng chắp tai sau đít dòm hai đứa tụi em, rồi cười nói:

“Hai đứa tụi bay như dzầy mới xứng. Chứ mày lấy cái thằng Tốt gà chớt đó mà coi sao cho đặng!”

Dượng Há lúc giờ mới chêm vô:

“Thấy ghe bay bị chìm, tao cũng có nhảy xuống cứu bay, lên tới bờ, nghe mày từ hôn thằng Tốt, tao . ..chịu lắm.

Thằng chồng gì mà thấy con vợ bị chìm, sợ chết hổng dám cứu, lên tới bờ cũng
hổng thèm dòm.

Thứ chết nhát đó, đem bỏ trôi sông cho rồi chớ lấy làm chồng sao được.

Khi thấy mày đi dzìa, tao thấy cái đám cưới coi như là hổng có nữa, nên tao
cũng dắc dì mày đi dzìa luôn.

Thằng Hải trọc này thì được lắm, nhưng mà nó đâu có bao giờ đi cua gái đâu, mà cũng hổng phải dân Bạc Liêu mình, sao mà mày . . .dzớc được nó hay dzậy?

Mà thôi, trễ giờ rồi, xe GMC sắp lại đây rồi đó, tụi bay vô trại hết đi, mai mốt gặp ông Thiếu úy Nam, muốn gì thì nói dzới ổng.”

Em nghe ổng hối, không biết tính làm sao:

“Nhưng mà còn con dzợ của con đây, con đâu biết để nó ở đâu bây giờ?”

Dượng Há cũng hổng biết làm sao, gấp quá rồi:

“Thì. . . đi hết vô trại đi, rồi tính sau.”

Em kiếm trong ba-lô bộ đồ Biệt Động đưa cho Lan bận vô, lấy đôi giầy và cái nón sắt cũ của dượng Há mang vô, coi cũng . . .ngầu lắm.

Lan khoái chí đi tới đi lui ngắm mình trong gương.

Vừa xong là xe nhà binh chạy lại gôm hết tụi em vô trong trại.

Lan di theo tụi em hành quân từ bữa đó, tới mấy bữa sau mới lên trình diện
Thiếu úy Nam, ổng la tụi em quá trời, nói phải trả Lan về hậu cứ trong chuyến
tiếp tế tới. . .

Nghe xong câu chuyện tình của Hải và Lan, tôi mỉm cười nhìn cả hai:

“Câu chuyện tình thật đẹp. Hai người thật xứng đôi vừa lứa.

Anh chúc cho hai em thương nhau trọn đời, sống với nhau suốt đời suốt kiếp.

Anh chỉ ghé đây có bữa nay, mai lại đi nữa rồi, có thể không có dịp gặp lại hai
em nữa đâu.

Hai em có muốn anh giúp chuyện gì không? Anh sẽ ráng làm trong khả năng của
anh.”

Hải và Lan nhìn nhau, một lúc sau, Hải ấp úng nói:

“Thiếu úy, tụi em mới gặp Thiếu úy, tự dưng. . . có cảm tình với Thiếu úy nhiều lắm.

Sẵn Thiếu úy hỏi, tụi em hổng dám, nhưng ngày mai tụi em làm đám cưới, nhỏ nhỏ
thôi, Thiếu úy có thể. . . làm anh lớn của em, đại diện bên nhà trai, đặng tụi
em làm đám cưới, được không Thiếu úy?”

– Được quá đi chứ!

TÌNH LÍNH THÌ PHẢI . ..TÍNH LIỀN.

+  +  +

Đoạn chót của câu chuyện “Tình Anh Lính Biệt Động”

Ngày 10 tháng 4 năm 2010,

Chào Thiếu úy mạnh giỏi.

Vợ chồng em kiếm được Thiếu úy, thiệt là mừng hết sức. Tụi em hổng thể ngờ là có ngày kiếm ra Thiếu úy đó chớ.

Sau bữa đám cưới của tụi em, em có hỏi xin địa chỉ để mai mốt còn liên lạc, Thiếu úy trả lời là hổng biết mình sẽ đi tiểu đoàn nào thì làm sao mà có KBC cho được, chỉ cần nhớ địa chỉ của tụi em thôi, để mai mốt tính . . .

Ngày 30 Tháng Tư năm 1975, cả tiểu đoàn của em còn đang hành quân, nghe đầu hàng, tụi em buồn muốn chết. Sau đó nghe tin các Sĩ quan của tiểu đoàn bị đi học tập hết, tụi em coi như là không còn hy vọng gì có ngày mai trở lại.

Ở Bạc Liêu khó sống quá, vợ chồng em lên Cần Thơ, em lo chạy xe ôm, vợ em bán quán.

Vào khoảng năm 1989, có một bữa, em chở người ta đi ngang một công sở, em thấy rất nhiều người tóc vàng tóc đỏ, da trắng da đen, mắt xanh biển mắt xanh lá cây giống như em, đang đứng xếp hàng. Em cũng chạy vô coi, thì ra chỗ đó làm hồ sơ cho con lai lính Mỹ đi Mỹ. Em đâu có biết mình lai cái giống gì? Ba mình là
ai? Nhưng cũng làm gan xếp hàng đại. Khi làm hổ sơ cho em, người ta chỉ hỏi em
tên gỉ? Rồi hẹn ngày tới khám sức khỏe.

Em về nhà nói cho con vợ hay, vợ em nó mừng quá, nhưng mà lại nói là . . . hổng chắc, vì em đâu phải con lai Mỹ đâu. Em cũng nghĩ như vậy nên không để ý tới chuyện đó nữa. Tới bữa khám sức khỏe, em cũng đi cho biết. Người ta chỉ nhỏ thuốc vô tóc của em, vô mắt của em để coi em có nhuộm tóc hay là có nhuộm con ngươi hay không mà thôi, chứ hổng hề hỏi ba em là Mỹ hay là cái giống gì?

Khoảng ba tháng sau, em nhận được thơ, nói rằng em được chấp nhận đi Mỹ với vợ và hai đứa con. Em như đang ở trên trời rớt xuống đất, hổng tin được chuyện như vậy có thể xẩy ra.

Rồi tụi em được đi Mỹ  thiệt!

Vợ chồng em được gia đình người bảo trợ tới định cư ở tiểu bang Minesota. Hai đứa em lo cho hai đứa nhỏ đi học, tụi em cũng đi học luôn. Con vợ em nó lanh lắm, học một hồi nó nói tiếng Mỹ còn giỏi hơn em nữa. Gia đình người bảo trợ có một hãng nuôi gà, bán gà và trứng gà. Tụi em cũng thích nuôi gà, nên theo học nghề này. Thấy tụi em siêng năng, nên ông bà bảo trợ nhận cho tụi em làm và chỉ dẫn cho em từng chút. Tới khi ổng bả về hưu, giao nguyên cái farm cho tụi em coi, lần hồi bán luôn cái farm cho tụi em. Cuộc sống của tụi em từ đó được thoải mái,
vững vàng.

Một bữa, em vô trong internet đọc truyện, em thấy người nào đó tên Nguyễn Khắp Nơi có viết chuyện “Cà Phê Nha Chuẩn Úy?” trong đó có nhắc tới thời gian ba người Sĩ quan Biệt Động Quân đi thực tập ở Tiểu Đoàn 42 của tụi em. Em nghi một trong ba người đó  là Thiếu úy, em kêu vợ em cho nó đọc lại cho chắc ăn. Tụi em đọc tới đọc lui ba bốn lần, chắc chắn là có Thiếu úy ở trỏng, nên đã theo địa chỉ trong báo Việt Luận mà hỏi thăm.

Thiếu úy gởi email trả lời cho tụi em. Đúng là Thiếu úy Đen, người đã làm đại diện nhà trai cho em lấy vợ. Tụi em mừng quá trời, coi như ông Trời có mắt cho tụi em được gặp lại Thiếu úy.

Thiếu úy nói trong thơ, cỡ tháng 5 năm 2011 Thiếu úy sẽ đi thăm mẹ ở Canada, sẵn dịp sẽ đi thăm bạn bè ở Los Angeles, tụi em mừng quá, vội vàng gởi thơ lại liền, xin địa chỉ hotel của Thiếu úy đặng mua vé máy bay đưa hết cả nhà tới trình diện Thiếu úy. Giờ này mới là tháng 1 năm 2011, còn lâu lắm, tụi em mong sao cho chóng tới ngày đó đặng gặp lại Thiếu úy.

Cầu chúc Thiếu úy mạnh giỏi, giữ gìn sức khỏe.

Lê Văn Hải & Lê thị Lan.

NGUYỄN KHẮP NƠI

 

 

 

Lời chứng của Trần Tân

Lời Chứng Về Ơn Chúa Thánh Linh Trong Khoá Tĩnh Tâm Houston Texas

Sat, 15/10/2011 – 12:36

 Trong các ngày 19 đến 21 tháng 12 vùa qua, Giáo Xứ Đức Kito Ngôi Lời Nhập Thể dã dược hưởng môt kỳ tĩnh tâm mùa Vọng rất tuyệt vời. Cha Bùi Công Minh linh hướng khóa học với sự cộng tác của Cha Mai Khải Hoàn, cha Lãm, Cha Hùng , cha Tâm và Các Anh Chị thuộc phong trào Canh Tân Đặc Sủng, đến từ California. Đã có khoảng 500 người tham dư, trong số đó, có nhiều nhóm giáo dân đến dự khóa từ các tiểu bang : Louisiana, New Orlean, New York, Oaklahoma, Florida,…

 Thưc ra thì mươi năm trước đây, Giáo xứ Đức Kito Ngôi Lời Nhập Thể cũng đã được Chúa Thánh Thần thương, qua Phong Trào Thánh Linh, còn gọi là Phong Trào Canh Tân Đặc Sủng ban xuống rất nhiều hồng ân, có thể kể cụ thể môt ơn lớn lao trong quá khứ, đó là Chúa Thánh Thần đã thu phục về cho Chúa Cha một người chàng thanh niên đẹp trai, học giỏi, ham vui, thờ ơ truyền đạo và làm từ người ấy thành môt Linh mục trẻ trung, tài giỏi, nhiệt thành đi khắp nơi rao giảng về Chúa. Người thanh niên đó là Cha Lãm. Thoạt đầu, chỉ vì chở mẹ đi dự tĩnh tâm khóa Thánh Linh, anh sinh viên Lãm đã “bị” Chúa gọi và nhờ Chúa Thanh Linh chiếm ngự, anh đã mê Chúa ngày một cao độ hơn, anh chia tay với người bạn gái của mình, cuối cùng, anh đi theo Chúa vào chủng viện tu, bỏ lại trường luật ở Florida sau lưng, để sống trọn vẹn cho Chúa mà thôi.

 Trong mùa Phục Sinh 2008, Cha Đinh thanh Sơn, cũng đã về Giáo xứ Đức Kitô Ngôi Lời Nhập Thể giảng tĩnh tâm về Chúa Thánh linh và cầu nguyện chữa lành. Trong dịp này có khoảng năm người được chữa lành bệnh trong đó có một
Chị tên Loan cầu nguyện cho anh rể đang ở Việt Nam, anh này bị viêm tai trong rất nặng đang chuẩn bị lên bàn mổ để cắt bỏ phần viêm mủ sưng phồng ảnh hưởng tới não làm nhức đầu dữ dội. Chi đang cầu nguyện cho anh mình thì cha Sơn loan báo cho cộng đoàn biết có một bệnh nhân ở xa vừa được Chúa chữa lành. Quả nhiên ngày hôm sau Mẹ của chị Loan phone từ VN sang, bác cho hay anh con rể đã hết đau nhức trong tai và đầu vào lúc sáng ( trùng vào thời điểm chị Loan cầu nguyện cho anh). Bác sĩ ngoại khoa, trong khi khám chuẩn bị mổ đã thấy bệnh nhân tự nhiên lành bệnh tai và không cần mổ nữa.

 Chương trình tĩnh tâm vọng Giang sinh, tại Giáo Xứ Đức Kito Ngôi Lời Nhập Thể, bắt đầu vào lúc 6 giờ chiều thứ sáu, Chăng đàng Thánh giá với phần hình ảnh sống động về cuộc tử nạn của Chúa Jesus, những cảm nghiệm cụ thể qua việc ngươi tham dự tụ động đóng đinh tội lỗi mình lên thánh giá Chúa bằng những chiếc búa nhỏ, tự viết tên người mình chưa tha thứ lên tấm khăn trắng dùng tẩm liệm thân xác Chúa, cầm trong tay những khúc cây gai mà có thể khi xưa Chúa đã bị mang trên đầu Ngài …Ngày thứ Bảy và Chúa Nhật được dành để ca tụng và làm chứng về Chúa.

Kỳ tĩnh tâm này, Chúa đã ban những ơn đặc biệt nào cho Công đoàn? Có vô số ơn Chúa Thánh Linh đã ban ra:

– Chúa Thánh Thần cho mọi người tham dự đều được ơn yêu mến Chúa một cách sốt sắng, mọi người tham dự đều cảm thấy lòng nhẹ nhõm và hăng say hát ca tụng Chúa, đặc biệt là họ ca tụng Chúa, nghe về Chúa, cầu nguyện, liền tù tì từ 9 giờ sáng đến 10 giờ đêm, trừ giờ cơm 1 tiếng đồng hồ lúc trưa và chiều mà thôi. Nhưng họ đã không thấy nhàm chán. Thật là một ơn diệu kỳ Chúa ban vì bình thường ta không thể cầm lòng cầm trí cầu nguyện được quá 1 giờ, thế mà, ở đây, mọi người cứ vui sướng ca, múa mừng Chúa không dứt.

 – Có những bác đã 73 tuổi, lên chia sẻ rằng chưa bao giờ được Chúa Thánh Thần đến viếng thăm như lần này. Lòng Bác cứ dâng tràn một niềm vui sướng nhẹ nhàng như hình ảnh Thiên Đàng đang đến vậy.

 – Có ba Bác đã lên chia sẻ rằng ngày xưa các bác tối kỵ múa hát khi cầu nguyện, thế mà nay cứ vui mừng nhảy múa như em bé vậy. Tình yêu Chúa và niềm vui cứ dâng tràn trong lòng. Chúa Thánh Thần đã đổ lòng yêu mến Chúa vào trong tim mọi người.

 – Có một Bác không muốn tỏ ra mình đầu phục Chúa, không muốn bị Chúa đụng vào người nhưng Chúa đã làm cho Bác nằm ngửa người ra, và bao trùm bác trong ánh sáng nóng ấm của Chúa Thánh Linh. Nay thì bác tin là mọi người đều cần phải đầu phục Chúa để được thuộc về Chúa cách trọn vẹn và được yêu mến Chúa một cách thâm sâu.

 – Đã có hơn 50% tham dự viên đươc Chúa cho 1, 2 phút nghỉ ngơi trong Chúa, (nằm nghỉ trong an bình) trong số đó có hai em bé, nhiều bạn trẻ.

 – Đã có một số Anh Chị được ơn cầu nguyện bằng tiếng lạ. Họ chia xẻ rằng, Thần khí Chúa đã cùng cầu nguyện với họ, mang vác những ưu tư của họ: Thần khí đã cất lên lời ngợi khen Chúa Cha và than thở thiết tha, Thần khí khẩn nài tình yêu Cha chiếm ngự sự chia rẽ, sự đam mê xấu, sự yếu đuối của con người

 – Một thiếu nữ giận cha mẹ, giận trách Chúa, thách đố Chúa trong quá khứ, nhưng nay đã được ơn sốt sắng và cảm thấy tin Chúa, yêu Chúa dạt dào và sẵn lòng tha thứ cho những kẻ làm thiệt hại cho mình.

 – Và còn các ơn chữa lành khác nữa…

Về phần con Chúa đã mở mắt, cho con thấy Chúa gần gũi con rất cận kề. Ngài vẫn đang chiến đấu ngày đêm để dành lấy linh hồn con. Thần khí Chúa thao thức, hoạt động mãnh liệt dường nào “để cầu thay nguyện giúp cho ta”. Chúa Thánh Linh có cho con cảm nghiệm được rằng, vì sao mà các thánh tử đạo lại có thể yêu mến Chúa và sẵn lòng chết cho Chúa trong cực hình tra khảo như vậy. Vì Thánh Linh đã đổ vào lòng các thánh một lòng yêu mến nồng nàn đến độ các Ngài quên cả thân mình. Như lời thánh Phaolô: “ Tình yêu Chúa thiêu đốt tôi”. Lòng mến của Thánh Linh có thể làm cho con người vượt qua được sợ hãi và đau đớn.

 Những đặc sủng mà CHÚA THÁNH LINH đổ xuống trên mọi người dự khóa kể ra không thể hết được nên chúng tôi chỉ nêu lên vài nét tiêu biểu mà thôi. Xin cảm ơn Quý Cha, các anh chị trợ tá và ca đoàn. Xin cảm ơn Đức Ông, Cha phó, Hôi đồng Giáo xứ,cộng đoàn dân Chúa giáo xứ Ngôi lời đã giúp đỡ, lo lắng việc ăn uống rất chu đáo cho tất cả mọi
người trong ba ngày của khóa học với tinh thần xả kỷ đầy yêu thương. Xin Chúa chúc lành cho quí cha và tất cả quý vị.

 Phanxicô Tân Trần

Bán Lược Cho Sư

 Bán Lược Cho Sư

http://www.youtube.com/watch?v=ZrnSeTbf7dY&feature=related

 Một công ty nọ muốn tuyển người bán hàng giỏi đã trao cho mỗi người trong hàng trăm ứng viên, 100 chiếc lược và đề nghị họ đến các chùa để bán. Cái oái oăm là ở chùa sư đã xuống tóc, làm gì có nhu cầu sử dụng lược. Mà không có nhu cầu thì sao bán được hàng. Hàng trăm người đã ra đi nhưng hầu hết bó tay.

Tuy thế có 3 người bán được hàng. Người thứ nhất mang lược đến chùa vừa chào hàng đã bị các vị sư mắng là diễu cợt họ. Nhưng anh này vẫn cắn răng chịu đứng cầu xin họ mua lược. Cuối cùng, một vị sư thương tình mua giùm một chiếc lược. Người thứ hai, sau khi đi vòng quanh một ngôi chùa trên núi, tóc bị gió thổi tung xác xơ, anh ta xin gặp sư trụ trì.

Ðược gặp, anh ta chắp tay niệm “nam mô” và thưa rằng: Trên núi cao gió thổi mạnh, các thiện nam tín nữ đến đây dâng hương mà tóc tai rối bù, e không thành kính trước cửa Phật. Xin nhà chùa chuẩn bị một vài chiếc lược để trước lúc dâng hương các phật tử chải tóc cho gọn gàng, không bù rối. Nghe anh ta nói có lý, sư trụ trì đồng ý mua lược. Nhà chùa có 10 lư hương nên mua 10 chiếc lược cho anh ta. Còn người thứ 3, anh ta đến thẳng ngôi chùa lớn nhất vùng quanh năm hương khói nghi ngút.

Anh xin gặp thượng toạ trụ trì mà thưa rằng: “Bạch thầy, chùa ta lớn nhất vùng, ngày nào cũng có hàng trăm tín đồ đến thắp hương. Phàm là người dâng hương, ai cũng có tấm lòng thành cúng quả. Chùa lớn như chùa ta, thiết tưởng cũng nên có chút tặng phẩm khuyến khích người làm việc thiện. Con có mang theo ít lược của công ty. Thầy có thư pháp hơn người, xin viết lên lược 3 chữ “Lược tích thiện” làm tặng phẩm. Món quà này thật nhiều ý nghĩa”. Nhà chùa nghe ra, cũng hứng thú và mua liền 100 chiếc lược làm quà.

Như vậy, trong 3 người bán lược cho sư, công ty đánh giá họ thế nào?

Người thứ nhất thuộc mẫu bán hàng cổ điển, cần cù nhẫn nại và kiên trì. Người thứ hai có năng lực quan sát, suy đoán sự việc, dám nghĩ dám làm. Còn người thứ ba, anh ta nghiên cứu phân tích kỹ nhu cầu và tâm lý của đám đông, có ý tưởng tốt, lại có giải pháp cụ thể nên đã mở ra một thị trường tốt cho sản phẩm. Ðây xứng đáng là người bán hàng giỏi của công ty. Anh ta đã được tuyển mộ làm phụ trách bán hàng.

Nhờ có “Lược tích thiện” làm quà tặng mà một đồn mười, mười đồn trăm, dân chúng đổ về đây dâng hương rất đông, danh tiếng chùa càng lừng lẫy và phương trượng chùa đã ký hợp động mua hàng nghìn chiếc lược của công ty. Rõ ràng, ở một nơi tưởng như không có nhu cầu, nếu chịu khó quan sát, phân tích các mối quan hệ, sẽ có thể phát hiện nhu cầu hoặc tìm cách kích cầu để bán hàng.

Do vậy HÃY LUÔN THỬ THÁCH NĂNG LỰC CHÍNH MÌNH TRƯỚC NHỮNG VẤN ĐỀ TƯỞNG CHỨNG KHÔNG THỂ GIẢI QUYẾT ĐƯỢC, BẠN SẼ TẠO RA SỰ ĐỘT PHÁ!

Vấn đề khó ở chỗ là tìm không ra được “nguyên nhân bản chất” của vấn đề. Khi hiểu được vấn đề chính, chúng ta cần một ý tưởng để “hóa giải”. Do vậy làm gì cũng cần hiểu 2 vấn đề:

1. Nguyên nhân đích thực là gì?

2. Ý tưởng (giải pháp) để thực hiện?

Nguồn: www.yume.vn

Phúc thay những người không thấy mà tin

           Phúc thay những người không thấy mà tin  (Ga.20;29) 

                                                                                  Fx. Đỗ Công Minh (Gx Lộc Hưng)

         Lạy Chúa,

        Bài Tin Mừng Chúa nhật thứ hai Phục sinh hôm nay, Chúa cho con có dịp soi rọi niềm tin của con vào Thiên Chúa và Hội Thánh Người.

          Đọan Tin mừng thuật lại việc Chúa hiện ra với các tông đồ đã qúa quen thuộc với con. Lời Chúa nói với ông Tô-Ma chúng con vẫn thường nói cho nhau nghe:”Phúc cho kẻkhông thấy mà tin” mỗi khi có ai còn nghi ngờ về một điều nào đó  “khó tin mà có thật “ hôm nay. Rồi chúng con cũng còn mạnh miệng phê phán Tô-Ma ngày ấy là người cứng lòng vì đã có đến 10 người làm chứng Chúa đã sống lại và hiện ra, nhưng ông vẫn không chịu tin, dẫn đến thái độ lên án anh chị em: “cứng lòng như Tô-Ma “.

          Ngày hôm nay, con đang sống trong một xã hội mà ở đó hằng ngày xảy ra biết bao điều giả dối, lừa lọc.Trên các phương tiện truyền thông biết bao tin tức, sự kiện “ảo” được loan báo. Những chiêu quảng cáo hấp dẫn nhưng không có thật diễn ra một cách công khai. Rồi trong quan hệ giữa người với người, bao lời hứa hão của người trên đối với kẻ dưới, những lời thề thốt của người này với người kia không được thực hiện, khiến cho câu nói :”thấy mới tin “ hay :”Nói vậy nhưng không phải vậy” trở thành câu nói quen thuộc trên môi miệng con người thời đại.

          Con có tin Chúa đã sống lại ?

          Con có tin có Chúa thật ?

          Trong đời sống đạo, con tự nhận mình là người tin Chúa, con vẫn tuyên xưng mỗi khi tham dự Thánh lễ Chúa nhật và lễ trọng. Nhưng những lời tuyên xưng ấy nào có ý nghĩa gì nếu cuộc đời con không thay đổi từ sự Phục sinh của Chúa. Lòng tin của con nếu không có những hành động cụ thể đi kèm hầu biến đổi đời con, thay đổi thái độ sống của con, theo gương Chúa, nơi anh chị em đang cùng sống với con, thì dù có được Chúa hiện ra như Người đã hiện ra với TôMa, tận mắt nhìn thấy Chúa, tận tay xỏ vào lỗ đinh nơi bàn tay Chúa chưa chắc con đã sống niềm tin ấy được .

          Xin cho con, trong cuộc sống mỗi ngày luôn biết minh chứng niềm tin của mình. Con thật có phúc vì chưa thấy được Chúa hữu hình, nhưng con tin và chính niềm tin ấy sẽ giải thóat con khỏi mọi sự dữ, giúp con trở nên người con yêu dấu của Chúa.

 AMEN.

Sản Phẩm Làm Nail Có Chất Độc Gây Ung Thư

Sở Kiểm Soát Chất Độc California Cảnh Báo: Sản Phẩm Làm Nail Có Chất Độc Gây Ung Thư  (Trích từ Việt báo)

Hóa chất độc được tìm thấy trong nhiều sản phẩm ngành nail mà đã được cho là không có chất độc trước đây, theo một phúc trình mới của tiểu bang cho biết, nâng cao mối quan ngại về sự an toàn cho các thợ làm nail.

Quản trị của tiệm nail tại thành phố Brea, Phuoc Dam cố gắng mua các sản phẩm đánh bóng móng không có chất độc. Ông ấy muốn làm cho tiệm nail của ông có không khí trong lành và những người thợ làm việc cho ông đeo găng tay khi cần thiết.

Dù có những nỗ lực, ông Dam nói rằng ông vẫn còn lo ngại về những ảnh hưởng lâu dài của các sản phẩm làm nail cho những người thợ. Vợ ông, một người làm móng tay trong tiệm, đã bị nhức đầu và chóng mặt.

Dam, 58 tuổi, là một người di dân Việt Nam đã làm kinh doanh 25 năm, nói rằng, “Tôi thực sự quan ngại cho sức khỏe của tất cả những người làm việc trong tiệm, và đặc biệt cho vợ tôi.”

Ngành nail, có mặt khắp nơi tại California, nơi mà các khách hàng có thể làm móng tay, móng chân, và những dịch vụ khác nhanh chóng và rẻ tiền. Có klhoảng 120,000 thợ nail có giấy phép hành nghề trong 48,000 tiệm nail trên toàn tiểu bang. Khoảng 4/5 là phụ nữ Việt Nam.

Hiện nay, vấn đề an toàn trong các tiệm nail lôi cuốn sự chú ý của các giới chức tiểu bang. Sở Kiểm Soát Chất Độc của Tiểu Bang [California] được mong đợi sẽ công bố phúc trình hôm Thứ Ba cho thấy hóa chất độc trong nhiều sản phẩm ngành nail mà đã từng cho là không có độc hại. Nghiên cứu, dựa trên mẫu nhỏ của các sản phẩm từ các nhà phân phối tại Vùng Vịnh, tập trung 3 loại hóa chất được biết như là “3 chất độc”:  formaldehyde, toluene và dibutyl phthalate. Khám phá đối với các hóa chất này cho thấy có sự liên hệ tới bệnh ung thư và hư thai, theo phúc trình của tiểu bang cho biết.

Debbie Raphael, giám đốc sở, cho biết rằng, các kết quả làm ngạc nhiên và cho thấy rằng tiểu bang cần phải làm việc sát hơn nữa với các nhà sản xuất để bảo đảm các mức độ chính xác, và với nhiều luật lệ để ấn định sản phẩm có an toàn hay không cho khách hàng và thợ làm nail.

Nhà khoa học nghiên cứu làm việc tại Học Viện Ngăn Ngừa Ung Thư của California là người nghiên cứu về kỹ nghệ làm nail  Thu Quach nói rằng có rất ít luật lệ của những nhà sản xuất sản phẩm nail.

Ông Dam tại Brea nói rằng ông và người cháu, là chủ tiệm, sẽ tiếp tục cố gắng giữ hơn một chục thợ an toàn. Nhưng ông cũng cho biết thật hữu ích nếu ông có thể biết sản phẩm nào là độc và cái nào không độc bởi vì không thể  bỏ hết mọi hóa chất. Ông phát biêu “Chúng tôi không có chọn lựa ngoại trừ sử dụng chúng.”

Hue Nguyên, 58 tuổi, đã làm móng tay tại Vùng Vịnh kể từ năm 2004. Vì là một người di dân thì nghề nail rất dễ học và không cần tiếng Anh nhiều. Nhưng không lâu sau khi bà bắt đầu làm việc, bà Nguyễn bắt đầu cảm thấy  choáng váng và nhức đầu. Và vào năm 2008, bà được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú. Bà nói qua người thông dịch rằng, “Tôi nghĩ nó có liên quan tới các hóa chất.” Bà cho biết thêm là bà khỏe mạnh trước khi làm nghề nail.

49 bí quyết để sống vui khoẻ.

49 bí quyết để sống vui khoẻ.

1. Hãy ngủ 7 tiếng đồng hồ mỗi ngày.
2. Hãy uống nhiều nước.
3. Hãy ăn thêm rau trái tươi và bớt thực phẩm chế biến.
4. Hãy dùng bữa sáng như ông hoàng, bữa trưa như người nhà giàu và bữa tối như người ăn xin.
5. Mỗi ngày, hãy đi bộ 10-30 phút. Trong lúc đi, hãy giữ nét mặt tươi vui.
6. Hãy mỉm cười và cười lên nhiều hơn nữa.
7. Hãy giải trí nhiều hơn.
8. Hãy dành thời gian vui đùa nhiều hơn với những người trên 70 tuổi và dưới 6 tuổi.
9. Hãy đọc nhiều sách hơn.
10. Đừng phí sức và thời gian quý báu ngồi lê đôi mách. (nghe chuyện người khác, rồi mách lại.)

11. Hãy biết tận hưởng trọn vẹn một ngày.
12. Hãy dẹp bỏ tất cả những gì không tốt, không đẹp hoặc không làm cho bạn vui.
13. Hãy làm điều bạn cho là đúng để tâm hồn luôn thư thái.
14. Hãy dành thời gian để suy niệm, tập yoga và cầu nguyện. Đó là những phương thế thêm sức cho ta hằng ngày trong cuộc sống tất bật này.
15. Hãy sống với 3 C: Chân tình, Cởi mở và Cảm thông với mọi người.
16. Đừng có ý tưởng tiêu cực hoặc làm điều bạn không thể kiểm soát được. Thay vào đó, hãy tập trung sức lực vào giây phút hiện tại.
17. Hãy làm hòa với quá khứ để nó không làm hỏng được hiện tại của bạn.
18. Hãy quên những chuyện quá khứ. Đừng nhắc lại những lỗi lầm cũ của vợ hay chồng bạn. Như thế chỉ làm lung lay hạnh phúc hiện tại mà thôi.
19. Đừng so sánh đời mình với đời người khác. Bạn không thể biết được tất cả những gì xảy ra trong cuộc đời của họ đâu. Cũng đừng so sánh vợ hay chồng bạn với kẻ khác.
20. Thèm muốn chỉ làm uổng phí thời gian. Bạn đã có tất cả những gì cần thiết cho mình.

21. Hãy nhớ rằng bạn là duy nhất và không ai giống bạn cả.
22. Và hãy tin rằng sự hiện hữu của bạn trên đời là một món quà cho cả thế giới.
23. Đừng quan tâm đến những gì người khác nghĩ về bạn, đó không phải là chuyện của bạn.
24. Hãy ý thức rằng cuộc đời như trường học và bạn đang ở đó để học tập. Những vấn đề chỉ như các bài toán đố được đưa ra trong chương trình học, được giải xong rồi biến mất. Nhưng bài học rút ra thì sẽ giúp ích cả đời.
25. Đời quá ngắn, vì vậy không nên uổng phí thời gian giận ghét ai. Đừng để lòng giận ghét làm bạn sống khó chịu bực bội vô ích nhé.
26. Đừng cho mình là người quan trọng. Có người nào khác cho bạn là quan trọng đâu.
27. Bạn không cần phải thắng mọi tranh luận. Hãy đồng ý là bạn không đồng ý.
28. Hãy tha thứ mọi sự cho mọi người.
29. Hãy nhớ rằng dù cho hoàn cảnh có tốt hay xấu đến đâu đi nữa, thì nó cũng sẽ thay đổi.
30. Đừng làm quá sức. Hãy biết gìới hạn của mình.

31. Khi bạn đau ốm, công việc đâu chăm sóc gì được cho bạn, nhưng bạn bè thì sẽ làm được việc đó. Hãy luôn giữ liên lạc với nhau bạn nhé.
32. Hãy ý thức rằng tình bạn là một sự đầu tư khôn ngoan.
33. Hãy năng thăm hỏi những người thân trong gia đình.
34. Mỗi ngày, bạn hãy làm cho người khác một cái gì đó tốt đẹp.
35. Hãy đếm những điều làm bạn hạnh phúc. Đ ừng đếm những điều phiền muộn.
36. Không gì làm lãng phí sức lực của mình hơn là ngồi một chỗ và lo lắng về hàng tá chuyện.
37. Hãy biết rằng nếu bạn có hàng tá câu hỏi, thì trong chính bạn cũng có hàng tá câu trả lời.
38. Hãy biết rằng bạn sẽ vượt qua được mọi thứ, dù cho có khó khăn đến đâu.
39. Đừng tự tạo giới hạn cho chính bản thân mình.
40. Những quyết định cũng không kém phần quan trọng như những cơ hội mà bạn có.

41. Hãy sống thanh thản, đừng tiếc nuối điều gì.
42. Đừng biến bất cứ điều gì trở nên trầm trọng.
43. Hãy nhận ra rằng chẳng có điều gì là trễ cả.
44. Hãy nhớ rằng nhiều thứ sẽ ra đi mãi mãi và không bao giờ trở lại.
45. Hãy thực hiện những điều bình dị bằng cách phi thường nhất.
46. Hãy nhớ rằng với một tình yêu nhỏ bạn có thể đi cả một quãng đường dài.
47. Hãy luôn có ước mơ và hy vọng trong cuộc sống.
48. Hãy vươn đến đỉnh cao, ước mơ và khát vọng của chính mình.
49. Và hãy nhớ rằng điều tốt nhất luôn đến sau.

Thánh Stanislaus

Thánh Stanislaus

(1030 – 1079)

 Bất cứ ai đọc lịch sử Ðông Âu đều phải biết đến tên Stanislaus, vị giám mục thánh thiện nhưng bi thương của giáo phận Krakow. Cùng với các Thánh Tôma More và Tôma Becket, ngài thường được nhớ đến vì sự chống đối quyết liệt của ngài đối với một chính phủ hung bạo và bất chính thời ấy.

 Thánh Stanislaus sinh trong một gia đình quý tộc ở Szczepanow gần Krakow. Ngài theo học các trường Công Giáo ở Gniezno, sau đó ở thủ đô Ba Lan, và ở Balê. Ngài thụ phong linh mục ở Gnesen và được bổ nhiệm làm tổng phó tế và người thuyết giáo của Ðức Giám Mục Krakow, là nơi tài hùng biện và gương mẫu của ngài đã giúp nhiều người thực sự hoán cải đời sống, trong đó có cả hàng giáo sĩ. Ngài trở thành giám mục của Krakow năm 1072.

 Trong cuộc viễn chinh chống với Ðại Ðế Duchy của Kiev, Ðức Stanislaus bị dính líu đến tình hình chính trị ở Ba Lan. Nổi tiếng là người thẳng thắn, ngài tấn công những hành động xấu xa của vua và người dân, nhất là các cuộc chiến bất chính cũng như các hành động vô luân của Vua Boleslaus II vì ông đã cướp vợ của một nhà quý tộc.

 Lúc đầu nhà vua tự ý xin lỗi và bày tỏ sự ăn năn sám hối, nhưng sau đó lại trở về con đường cũ. Ðức Stanislaus tiếp tục công khai chống đối bất kể những hăm dọa về tội phản quốc và tử hình. Sau cùng ngài đã ra vạ tuyệt thông nhà vua và từ chối cử hành Thánh Lễ mỗi khi có sự hiện diện của ông. Ðiên lên vì tức giận, nhà vua ra lệnh quân lính hạ sát vị giám mục. Khi binh lính từ chối không tuân phục, chính tay ông đã giết Ðức Stanislaus trong khi ngài cử hành Thánh Lễ trong một nhà nguyện ở ngoại ô thành phố.

 Ðức Stanislaus là biểu hiệu của tinh thần dân tộc Ba Lan. Ngài được Ðức Giáo Hoàng Innôcentê IV phong thánh năm 1253 và được đặt làm quan thầy chính thức của Krakow.

Lời Bàn

 Thánh Gioan Tẩy Giả, Tôma Becket, Tôma More và Stanislaus là một vài ngôn sứ dám tố giác sự thối nát của những người có địa vị. Các ngài đã theo chân Ðức Giêsu Kitô, là người vạch ra sự sa đọa luân lý của các nhà lãnh đạo tôn giáo thời ấy. Ðó là một công việc đầy nguy hiểm đòi hỏi sự can đảm sống chứng nhân cho Tin Mừng.

 Lời Trích

    “Những người khao khát muốn có quyền bính để có thể áp đặt luật lệ, mệnh lệnh và kiểm soát người khác, thì chính họ là những người sống vô kỷ luật và không kiềm chế” (Thánh Tôma More, Một Ðối Thoại Về Sự Tiện Nghi).

Đời sống khá giả có thể nguy hiểm cho sức khỏe

“Con số 22.5% người Việt Nam trên 65 bị tiểu đường loại 2 ở Hoa kỳ không làm ngạc nhiên chút nào. Ông Việt Kiều Hải Ngoại sáng chế ra những thức ăn nhiều bôt tinh chất hay mỡ với số lượng kinh hoàng như bánh mì Ba Lẹ, chiêu với cà phê sữa đặc Ông Thọ hay Borden 30% đường nguyên chất. Xong rồi tráng miệng bằng chè đường.” 

“Chúng ta không cần biết tới khuyến cáo Bộ Y Tế Mỹ, vẫn khư khư bám lấy gạo Thái Lan Nàng Thơm cho khoái khẩu. Chúng ta không cần biết vì không muốn biết.”

 Người ta nói có cả thảy bốn thứ Việt Kiều, thứ này không chơi với thứ kia. Việt Kiều Đông Âu không liên lạc gì với Việt kiều Tây Âu và Mỹ Châu. Việt Kiều Xuất Khẩu Lao Động ở Đông Nam Á không cần biết tới Việt Kiều liều mạng kiếm đường sinh sống ở Cam Bốt hay Thái Lan. 

Nhưng Việt Kiều tại Bắc Mỹ , Châu Âu và Úc Châu có một sắc thái đặc biệt, một nếp sống đặc biệt khác hẳn lối sống ông cha ngày trước. Họ sống trong môt xã hội khá giả (Affluent Society) cả về vật chất lẫn tinh thần ông cha họ từ xưa không bao giờ được hưởng. 

Xã hội Âu Mỹ có những nông dân vô cùng hữu hiệu, chỉ 3% dân số mà nuôi được cả nước và hàng trăm triệu dân thế giới. Có những nhà kinh doanh và công nhân sáng tạo nhất thế giới, làm ra của cảì rẻ và tốt thừa thãi cho cả xã hội. Việt Kiều những nơi đó không bao giờ lo rét vì thiếu quần áo, không bao giờ lo không có phương tiện đi lại kiếm việc làm, ai muốn mặc gì thì mặc, muốn đi đâu thì đi. Và nhất là muốn ăn gì thì ăn, ăn bao nhiêu cũng được.. 

Ai cũng muốn ăn ngon mặc đẹp.Nhưng ăn ngon có cái nguy hiểm của nó nhất là khi ở những nước sống lâu quá tuổi 60 mới nhìn thấy hậu quả. 

Việc đầu tiên là cơm chúng ta ăn. Ở Mỹ hay Châu Âu hay Úc Châu, dân Việt vẫn coi cơm là cơ bản. Dân Á Châu là vậy, di dân sang Mỹ hay Úc họ vẫn coi cơm là món ăn chính, bánh mì không thể thay thế. Vì ăn cơm chặt bụng, no lâu và tiêu hóa dễ chịu hơn bánh mì vì cơm có số lượng nước liên kết chặt chẽ với bột, amylose hay amylopectin. 

Và cơm là phải cơm trắng dẻo như Nàng Thơm hay Jasmine Thái Lan hay Kyoto Nhật Bản. Và phải hai bát mỗi bữa tức là phải 300 hay 400gr cơm một bữa.. 

Ngày xưa tổ tiên chúng ta chọn gạo là đúng vì khí hậu nhiệt đới không thể trồng lúa mì, lúa mì đòi hỏI khí lạnh nhiệt độ 17 độ C. Trồng gạo hai vụ rất lợi cho kinh tế và nhất là hột gạo có những chất bổ vô cùng hấp dẫn cả về phẩm chất cũng như số lượng. 

Nhưng tiếc thay bao nhiêu chất bổ tập trung vào vỏ cám ngoài hạt và oái oămhơn nữa, cám có nhiều chất lipoproteins rất bổ nhưng mau chóng bị chất enzyme lipase trong cám oxy hóa và trở nên khét không dự trữ được. Các cụ chỉ có cách giã gạo cho bớt cám rồi ăn hạt, cám cho heo ăn. Tuy vậy bao gạo cũng không tồn trữ trữ lâu được, phải đến thế kỷ thứ 19, khi Pháp sang làm nhà máy xay lúa mới giải quyết được vấn đề kinh tế, làm sao tồn trữ được bao gạo hàng năm, dùng máy xay cho trắng sạch gạo rồi đánh bóng “Polish” hạt gạo nhẵn và đều. Cám bị loại hết cho heo ăn. Nhưng tai hại cho sức khoẻ con người nhất là dân “khá giả” hay “trưởng giả”, may cho dân nghèo vẫn ăn gạo đỏ hay “gạo Lức muối mè”. 

Hạt gạo đã xay máy và đánh bóng chỉ còn chất bột starch mà lúc đó là tinh bột “Refined Starch” nó có đặc điểm của nó. Nó cũngnhư các Refined Starch từ lúa mì, nó không còn chất xơ (Fiber) tập trung trong cám, nó mất đi 67% Vitamin B3, 80% Vitamin B1, 90% Vitamin B6, một nửa số Manganese, môt nửa số Phosphorus, 60% Sắt Iron, 100% Fiber, và tất cả những fatty acids cần thiết. Mất. tất cả Selenium, Magnesium. Đến nỗi theo Luật Hoa Kỳ gạo sản xuất ở Hoa Kỳ phải cho thêm B1, B2 và Iron nhưng cho thêm không thể nào bằng thiên nhiên. 

Brown Rice, gạo đỏ cũng được sản xuất ở Hoa Kỳ nhưng không phảI là dễ dàng, phải vô hiệu hóa chất enzyme lipase trong cám nếu không chỉ vài giờ sau là gạo hư. Phần nhiều người ta dùng nhiệt độ 80 độ C xấy khô nhưng gạo đỏ cũng chỉ tồn trữ được 6 tháng. 

Khi đã xay vỡ vỏ thóc ngoài cùng, còn lại lớp cám Bran và nhân Germ, xay nữa và mài nữa thì mất lớp Aleurone (rất nhiều chất mỡ rất cần thiết, essential fats). Nhưng như vậy mới tồn trữ được hột gạo trông rất trắng rất đẹp, ăn ngon vì mềm và thơm, nhưng chỉ còn bột Refined Starch. 

Nghiên cứu của Đại Học Tufts, Boston Massachusetts cho biết tinh bột Refined Starch được hấp thụ ở ruột rất nhanh và nằm đó dưới tình trạng mỡ, mỡ xung quanh ruột, gan và vùng xương chậu pelvis. Trông không mập, bụng không phệ nhưng có một lượng mỡ quan trọng trong vùng bụng xung quanh ruột .. Có thể người coi ốm chứ không mập. 

Đại học Tufts nghiên cứu một số người ăn bánh mì trắng tinh bột so với một số người ăn bánh mì có bran có fiber. Sau 1 năm rưỡi, những người ăn bánh mì tinh bột thấy dây thắt lưng phải nới thêm ( ½ inch mỗi năm). Có vẻ đường hấp thụ thì Insulin đẩy vào tồn trữ ngay trong những tế bào mỡ xung quanh ruột. Và những người đó có nguy cơ bị bệnh tiểu đường loại 2, Diabetes type 2, đường trong máu glycemia cao hơn nhóm ăn bánh mì nâu có bran.
Sau đó nước Mỹ thay đổi cách ăn uống, khẩu hiệu White Bread Round Waist (Bánh trắng bụng tròn) do Bộ Y tế (Dept of Health and Human Services) tung ra và các siêu thị (Super Market) thay đổi bộ mặt tại gian hàng bánh mì. Bánh mì trắng vẫn còn bán nhưng không được trắng lắm vì FDA ra lệnh ít nhất phải 51 % xơ (Fiber) trong bánh mì. Và vô số bánh mì có chứ W tức là Whole grain không được Refined Starch nữa. 

Và nay người ta biết tại sao. Các tế bào mỡ vùng xung quanh ruột rất quan trọng trong vai trò điều hòa bằng tín hiệu (signaling), sản xuất nhiều hormons, cytokines đi hoạt động ở nhiều bộ phận vùng bụng như Pancreas. Một cytokine khích động NF-KB pathway làm chất Insulin không còn hữu hiệu nữa. Insulin Resistance (Chống lại Insulin là định nghĩa của Diabetes type 2) 

Tiểu đường loại 1 là Pancreas không sản xuất được Insulin hay sản xuất rất ít, phần nhiều người trẻ do di truyền hay cơ thể tự hủy hoại autoimmunity sau khi nhiễm siêu vi trùng ở Pancreas. Tiểu đường loại 2 là sản xuất Insulin nhưng không hữu hiệu tại các tế bào chính địa bàn hoạt động của Insulin không nhận ra Insulin nữa. Insulin có nhiệm vụ là mở chìa khóa cửa các tế bào mỡ, gan và bắp thịt cho đường trong máu vào tồn trữ. Đầu tiên là các tế bào Beta của pancreas cũng không nhận ra Insulin, mất chức năng Feedback điều hòa. Bệnh nhân tiểu đường loại 2 phần nhiều là có tuổi trên 45 khi Insulin và Pancreas bắt đầu thấm mệt. Và người trẻ cũng bi bệnh này nếu quá mập hay ăn quá nhiều đường, số lượng Insulin không cáng đáng nổi. 

Con số 22.5% người Việt Nam trên 65 bị tiểu đường loại 2 ở Hoa kỳ không làm ngạc nhiên chút nào. Ông Việt Kiều Hải Ngoại sáng chế ra những thức ăn nhiều bôt tinh chất hay mỡ với số lượng kinh hoàng như bánh mì Ba Lẹ, chiêu với cà phê sữa đặc Ông Thọ hay Borden 30% đường nguyên chất. Xong rồi tráng miệng bằng chè đường. Nhiều gia đình ông tiểu đường, cháu béo phì vì bà chiêu đãi mỗi tối môt bữa chè. Ở Việt Nam cũng vậy từ 10 năm nay giai cấp giầu có cũng béo phì và tiểu đường như hải ngoại. Béo phì ảnh huởng tới genes, bố mẹ béo thì con cũng vậy. 

Khi đường trong máu cao thì chỉ có 2 cách chữa chạy, phần nhiều là phải thực hiện cả hai; bỏ đường, bỏ bột tinh chất và cử động bắp thịt (exercise). Nếu không ăn kiêng thì không thuốc nào trị nổi. Có nhiều thực vật có khả năng hạ đường một chút (chúng tôi đã thử một số) như Okra đậu đũa, lá xương rồng, lá dứa, lá ổi, đậu đen, tỏi ta ngâm rượu v.v… nhưng không thay thế nổi insulin và nhất là ăn kiêng (diet). Không thay thế nổi các thuốc hypoglycemiants tác dụng trên pancreas hay gan hay ruột. 

Khi đường trong máu lên tới con số trên 126mg/dl khi nhịn đói lúc sáng sớm thì bắt đầu bênh tiểu đường. Và đầu tiên đi nha sĩ vì đường cao đưa đến nhiễm trùng mọi nơi trên cơ thể, đặc biệt là răng và lợi. Trong mồm có môt số lượng lớn vi trùng, 30 thứ vi trùng nhiều thứ ta chưa biết tên. Nhiễm trùng răng lợi đưa đến nhiễm trùng nơi xa xôi như tim (endocarditis) và thận (pyelonephritis)
Khi đường trong máu lên cao, nó tác hại nhẹ nhàng nhưng liên tục tới mọi tế bào đặc biết là tế bào nội mạch (endothelial) trên màng trong các mạch máu.Tế bào bị hư hại và atherosclerosis xuất hiện, cholesterol và calcium đóng mảng (Atheroma Plaque) mở đường cho máu đang chảy bị đông lại (thrombosis). Basement membrane của mạch máu dày thêm nhưng không vì thế mà chắc chắn thêm. Trái lại yếu đi máu thoát vào chảy máu ngay trong thành của mạch. Mạch tắc thiếu dinh dưỡng thiếu oxy cho mọi cơ và bộ phận bị chi phối. Mọi bộ phận từ óc tới ngón chân bị ảnh hưởng, nhưng tai hại nhất là tim, thận, thấu kính (lens) và võng mạc (retina) tại mắt, và tế bào thần kinh. Mọi mạch máu bị ảnh hưởng, từ động mạch lớn, trung và nhỏ. Người bị tiểu đường nếu thoát được bệnh tim mạch (Cardiovascular accident heart attack), đột quỵ (cerebro vascular accident stroke) thì tương lai họ là thận suy phải thường xuyên lọc máu (dialysis). Và cuối cùng là tắc tĩnh mạch sâu ở chân (deep vein theombosis), cuối cùng phải cắt chân. Chất đường glucose không được dùng hết cho sản xuất năng lực, còn một số chất thải được phân hóa theo glycosalisation bằng hai hệ thống. Hệ thống không cần enzyme, đường dính với protein và từ từ thành những chất trung gian như Schiff base, Amodari products (???) tỷ lệ thuận với đường trong máu. Vì vậy bác sĩ theo dõi tình trạng đường bệnh nhân bằng cách đo Hemoglobin A1C và biết tình trạng trong 6 tuần hay 2 tháng vừa qua, đo đường glycemia chỉ cho biết tình trạng ngày hôm nay mà thôi. Hemoglobin A1 C người thường từ 4 đến 5, tới 5.7 là tình trạng “tiền tiểu đường” hay Prediabetic, 7 là tiểu đường không còn kiểm soát nổi. 

Khi chúng ta trình diện tại phòng mạch bác sĩ với tình trạng tiểu đường loại 2 phải chờ đợi một khuyến cáo, ông bác sĩ nào cũng vậy “anh hay chị phải giải quyết cái gánh nặng dư 5 hay 10 ký quá mức thì thuốc mới hữu hiệu”. Anh chị ăn ít đi và tập thể dục nhiều lên”. Nói thì dễ mà làm thực khó. Một cuộc chiến đấu gay go và cam khổ cả năm hay cả đời lúc thắng lúc bại. 

Glycemic Index (GI) là một chỉ số đo số lượng của món ăn về phương diện đường, ăn xong phần nhiều là 50 gr 2 tiếng sau đo đường trong máu, so với 50 gr đường nguyên chất Glucose. Đo diện tích (Area under curve) giữa đường cong và trục X (thời gian, t, số giờ) và tính nếu bằng glucose là GI 100. Nếu chỉ bằng phần mười diện tích đường cong Glucose thì GI là 10. Nếu món ăn được hấp thụ ngay qua ruột như glucose thì GI cao 100 hay gần như vậy. Nhưng nếu món ăn được hấp thụ dần dần một cách nhịp nhàng như trường hợp có nhiều xơ (fiber) thì GI thấp chỉ 10 hay 20. 

Tùy món ăn trong ruột được phân hóa nhanh hay chậm, nhịp nhàng hay không, cách kết hợp của chất bột với

xơ, với phân tử protein và mỡ, tùy theo chất bột starch ra sao như bột gạo chất amylose cứng có GI thấp, chất amylopectin dẻo thì GI cao. GI gạo trắng cao hơn GI gạo nâu khá xa. Tùy theo số lượng Protein trong món ăn, số lượng organic acid. Ví dụ có dấm thì GI thấp hơn, có mỡ và fiber thì dạ dày chậm mở hơn. Bánh mì nâu GI thấp hơn bánh mì trắng nhưng nếu cho enzymes vào cho dẻo thì GI lên cao ngay. Trái cây và rau có GI đặc biệt thấp nhưng vài trái cây như soài theo kinh nghiệm cá nhân tôi thì GI cao. 

Còn về số lượng thì dùng Glycemic Load. Có món ăn rất ngọt nhưng nhiều nước không thể so với món ăn ngọt nặng về đường. Và còn tùy theo khẩu phần (serving) là bao nhiêu, ông Mỹ hay Châu Âu khẩu phần bánh mì trắng là 30-50 gr, ông Việt Nam bánh mì Ba Lẹ tới 300 gr, mập là cái chắc. Cơm trắng ông Mỹ hay ông Úc tính khẩu phần chỉ 150gr cơm, ông Việt Nam hai bát nhỏ là 200 gr rồi. 

Glycemic Load là tính theo phưong trình GL= GI x số lượng gr đường trong khẩu phần chia cho 100. Glycemic Load từ 1 đến 10 là thấp, 10 là trung bình, 20 là cao. Vấn đề ăn uống không thể trông cậy vào ai, phải tự mình lo cho thân mình. Không thể lúc nào cũng ăn môt mình một mâm theo sách vở. Món ăn phải hợp khẩu vì mình ăn không ngon thì không thể nhịn lâu được. Biết bao trường hợp thành công một thời gian rồi đâu vào đó. Phải biết Glycemic Index và Glycemic load của từng món, ăn cho đủ không thể ăn đói.. 

Glycemic load cao nhất là cơm nếp rồi tới cơm hay cháo đặc trắng rồi tới cơm hay cháo đặc gạo nâu vì có cám. Bánh mì bagel trắng GL cao nhất là 28, baguette của Pháp GL 15. Bánh mì whole wheat chỉ có 9, whole grain bread chỉ có 7, Cơm Gạo Jasmine được dân Việt Kiều ưa chuộng cao kỷ lục về cả GI lẫn GL. Chúng ta bị mập béo tiểu đường là lẽ dĩ nhiên. Chúng ta không cần biết tới khuyến cáo Bộ Y Tế Mỹ, vẫn khư khư bám lấy gạo Thái Lan Nàng Thơm cho khoái khẩu. Chúng ta không cần biết vì không muốn biết. 

Nghiên cứu từ Đại Học Harvard đăng trong American Journal of Nutrition. Nghiên cứu 12 năm liền với 74,000 nữ điều dưỡng cho thấy càng ăn nhiều chất xơ fiber thì càng bớt cân. 

Gạo trắng mất đi 45% trọng lượng hat nguyên thủy khi mất vỏ Bran cám, nguy hại không phải chỉ về vấn đề đường mà thôi. Nguy hiểm hơn nữa là mất rất nhiều dinh dưỡng không thể thay thế được. Mớ mỡ xung quanh ruột và tràn ra máu Triglycerides cao rất khó giải quyết vì thiếu nhiều công cụ để phân hủy mỡ. Khó giải quyết vì nằm sâu trong bụng, xa các bắp thịt chân và tay. 

Muốn giải quyết lớp mỡ phải cần tới hàng ngàn phản ứng Enzyme phân hóa và trao đổi hàng ngàn metabolites. Phải cần nhiều loại enzymes chống oxydation các fatty acids. Cám Bran có 120 chất antioxydants, có đầy đủ sinh tố (Vitamins) chỉ trừ có Vitamin D và C. Có đầy đủ các loại phytosterols, Beta sitosterols, fibers, Vitamin E Complex, đầy đủ các loại B Complex B1 B2, B3 ngay cả Vitamin B15 hiếm có. Có Enzyme Q 10, nhất là Omega 3, Omega 6 fatty acids, không có thì không thể giải quyết được  Triglycerides cao trong máu. Omega 3 fatty acids trong dầu cá fish oil dùng để trị mỡ Triglycerides cao trong máu đã được các bác sĩ dùng từ lâu, 3 viên mỗi viên 1000 mg Omega 3 fatty acids có thể giảm lượng Triglycerides 300 hay 350mg/dl xuống 150 trong vòng vài tháng. 
Tiếc thay một phần lớn những chất bổ đó bị hủy nếu đun sôi trong 45 phút. Tiếc thay cám gạo “mỏ vàng chất bổ” dùng để làm cám nuôi heo. 

Dầu trong cám chứa nhiều Antioxydants hơn mọi thứ dầu thực vật khác, , Vitamin E tocopherol, tocotrienol và nhất là oryzanol (2417 phần trong 1 triệu), hơn hẳn cả về lượng cũng như phẩm dầu đậu soybean, bắp corn, canola, cotton seed, sunflower. 

Có Enzyme thì phải có Co Enzyme. Cám cho ta đầy đủ số lượng Manganese, Selenium, Magnesium.Mn là Coenzym cho nhiều phản ứng antioxidant. Nhiều phản ứng phát sinh năng lượng, phân hóa và sản xuất proteins, fatty acids, cholesterol, metabolites cho sex hormons và mediators cho tế bào thần kinh. 
Selenium quan trọng không kém, phối hợp chặt chẽ với xơ trong tiêu hóa và chống oxydation. Đặc biệt chống ung thư (?), phối hợp với Glutathion, sinh tố E. 

Magnesium phối hợp chặt chẽ với Ca, được gọi là Calcium channel blocker thiên nhiên, không thể thiếu trong mọi phạm vi hoạt động của Ca như xương, thần kinh, và bắp thịt. Vì thế gạo trắng tinh chúng ta ăn thiếu những dinh dưỡng cần thiết. Gây cho chúng ta những vấn đề như tiểu đường loại 2. Không thể giải quyết được nạn Việt kiều tiểu đường loại 2 nếu không đi vào nguyên nhân như người Mỹ đã làm. Không dễ đâu vì người Mỹ cũng có một số nhất định vẫn ăn bánh mì trắng. Dân Việt cũng như dân Á Châu khác có vẻ cứ ăn gạo ngon, bệnh tật tính sau, 

Nam Minh Bách – Virginia Jan 2012

Chân Phước Innocent ở Berzo (1844-1890)

 Sinh năm 1844 ở gần Brescia thuộc phía bắc nước Ý, Innocent xin gia nhập dòng Capuchin Phanxicô khi 30 tuổi và đã là một linh mục triều. Ngài giữ chức vụ phó giám đốc đệ tử viện và sau đó là cha giám tập.

 Cha Innocent có biệt tài giúp đỡ các người trẻ theo đuổi ơn gọi tu trì trong đời sống dòng Phanxicô. Ngài yêu mến họ và ngược lại họ rất quý trọng ngài. Ngài kêu gọi sự hãm mình phạt xác, nhất là gìn giữ miệng lưỡi, nhưng ngài biết sự kỷ luật bề ngoài chỉ là giả dối nếu không có sự hãm mình bên trong.

 Vị tu sĩ khắc khổ này từ trần ngày 3 tháng Ba 1890, khi mới 45 tuổi, vì bị bệnh cúm khi trên hành trình rao giảng. Ngài được Ðức Giáo Hoàng Gioan XXIII phong chân phước năm 1961. Những phép lạ được ghi nhận trong tiến trình phong thánh

Chân Phước Giacôbê Oldo (1364-1404)

  Giacôbê, sinh năm 1364, là người gốc Lodi gần Milan. Nhờ buôn bán phát đạt, cả hai vợ chồng Giacôbê đắm mình trong mọi thú vui trần thế. Ngày kia, trong một đám tang của người bạn thân, khi nhìn vào huyệt sâu Giacôbê nhận thức rằng một ngày nào đó mình cũng sẽ chết. Ông tự hỏi linh hồn mình sẽ đi đâu, và sau đó ông quyết tâm thay đổi đời sống. Giacôbê ăn năn sám hối, đi xưng tội và sau đó gia nhập Dòng Ba Phanxicô.

Trong khi đó, bà mẹ ruột ông Giacôbê lại ngăn cản vợ ông thay đổi đời sống theo gương chồng. Nhưng một ngày kia, bà được thấy chính bà và con bà phải ra trước tòa Thiên Chúa. Thị kiến ấy đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến nỗi bà thay đổi lối sống cũng như khuyên cô con dâu noi gương chồng. Và cả hai đã gia nhập dòng Ba Phanxicô. Dinh thự của họ trở thành nơi cầu nguyện và nơi luyện tập nhân đức.

 Sau khi vợ chết, ông Giacôbê trở thành linh mục và gia tăng việc hãm mình đền tội. Nhiều khi mỗi tuần ông chỉ ăn có một lần, cũng như không ăn thịt và không uống rượu. Sau cùng, vị giám mục phải ra lệnh cho ông phải ăn uống tối thiểu ba lần một tuần.

 Dân chúng cảm kích trước lời rao giảng ăn năn sám hối của Cha Giacôbê. Nhiều người từ bỏ lối sống trần tục, và ngay cả gia nhập đời sống tu trì.

 Cha Giacôbê có ơn tiên tri, nhiều lần đã tiên đoán đúng các cuộc chiến xảy ra. Ngay cả cái chết của mình, ngài cũng tiên đoán đúng. Và bảy năm sau khi từ trần, người ta tìm thấy xác ngài còn nguyên vẹn.

ĐẠO CHÚA VỚI LUÂN HỒI

                                                                                           tác giả PHÙNG VĂN HOÁ

 Trong giới trí thức Phương Tây ít năm gần đây, người ta háo hức chạy theo Phật Giáo và tỏ ra rất hâm mộ Thuyết Luân Hồi vì cho rằng chỉ có nó mới có thể giải quyết được rốt ráo vấn đề sinh tử, tử sinh của con người. Trước tình hình không mấy sáng sủa đó, những người tha thiết với việc bảo vệ Đức Tin Công Giáo không  thể thờ ơ. Mới đây, để chuẩn bị cho Đại Lễ Phục Sinh, Đức Hồng Y Godfried Daneels, Tổng Giám Mục Malines ( Bỉ ) đã cho phổ biến Thư Mục Vụ mang tựa đề “Bên kia cõi chết” trong đó ngài  nhấn mạnh những khác biệt căn bản giữa Đức tin Kitô Giáo vào sự Phục Sinh và niềm tin vào Luân Hồi” ( KinhThanhvn.com ).

 Để có thể nhận ra  sự khác biệt ấy là như thế nào, thiết nghĩ cũng cần nên biết quan điểm của Thư Mục Vụ về cả hai lãnh vực Phục Sinh và Luân Hồi.

Về  sự Phục Sinh được đề cập thì đây không phải sự Sống Lại của Đức Kitô nhưng là của mọi con người sau khi chết. “Cái chết không có nghĩa là sự  kết  thúc của hữu thể nhân loại, họ vẫn tiếp tục sống bên cạnh Thiên Chúa là Đấng đưa họ vào mãi mãi  trong cuộc  sống mới cùng với một thân xác được tôn vinh, tất cả những điều này vì cái chết và sự Phục Sinh của Đức Kitô. Đấng không ở lại trong mồ nhưng quyền uy  Thiên Chúa đã làm cho Ngài về lại  cõi sống” ( KinhThanhvn.org ).

 Còn đây là  cái hiểu về Luân Hồi: “Sau khi chết, hữu thể nhân loại trở về lại cuộc sống dương thế nhưng là trong một thân xác khác. Tiến trình này thay đi đổi lại một số lần không xác định được, như vậy có khả năng “làm lại cuộc đời” ( KinhThanhvn.org ).

      Ta có thể tóm kết sự khác biệt ấy  thế này:

Phục Sinh  dược hiểu  như là con người chỉ sống có một kiếp sống. và sau khi chết đều được về sống bên cạnh Thiên Chúa. Còn Luân Hồi thì phải trải qua vô số kiếp không thể xác định.

Lập luận sau khi chết, con người đều được phục sinh còn được khẳng định thêm một lần nữa: “Sau cuộc sống trần thế này, cuộc sống duy nhất và không còn tái hiện nữa. Thiên Chúa  sẽ hồi sinh chúng ta, mỗi người theo cách cá nhân như Người đã làm cho Con của Người. Vì Người yêu mỗi người chúng ta theo từng cá thể, và tất cả chúng ta trong mắt Người đều mang một danh tính duy nhất. Chúng ta  không phải là một hạt ngọc trai ở vòng cổ gồm những cuộc tái sinh  không ngừng diễn ra để rồi không ngừng tiến đến cái chết. Cái chết  đã bị Đức Kitô  đánh bại một lần cho tất cả. Vì thế chúng ta được giải thoát khỏi sự chết và khỏi mọi sự luân hồi” ( KinhThanhvn.org ).

 Vấn đề có hay không sự khác biệt giữa Phục Sinh và Luân Hồi sẽ được bàn tới sau. Nhưng nếu bảo rằng Đức Kitô đến để giải thoát tất cả  khỏi sự chết và khỏi mọi sự luân hồi là điều không thể chấp nhận. Tại sao ? Bởi như thế  là chẳng hiểu một chút chi cả về Phục Sinh lẫn Luân Hồi.

      Đức Kitô đến cõi thế như  lời Ngài  nói, mục đích là để rao giảng Tin Mừng Nước Trời ( Lc 4, 42 – 43 )  và Nước Trời ấy là nước mầu nhiệm nội tại, cần phải hết sức nỗ lực mới có thể vào “Luật pháp và tiên tri đến Gioan là hết. Rồi từ đó Tin Mừng Nước Trời  được rao giảng và ai nấy đều phải nỗ lực mà vào” ( Lc 16, 16 ).  Chúa đến rao giảng Tin Mừng Nước Trời là để cho ta biết tìm đường mà  “VÀO” ( Thể Nhập ), chứ làm gì có cái chuyện cứu tất cả  ra khỏi luân hồi ?

 Luân Hồi là một luật và luật này bao quát trong cả hai lãnh vực vô tình cũng như hữu tình. Quả đất xoay quanh cái trục nghiêng của  chính nó, đồng thời quanh mặt trời. Phía hướng về mặt trời  thì sáng, phía bị khuất thì tối. Hết tối lại sáng, hết sáng lại tối, đó là luân hồi. Ngoài ra còn có bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông xoay vần đắp đổi, đó là luân hồi. Hạt gieo xuống  nảy mầm thành cây, cây ra hoa kết quả, quả lại được gieo xuống  để nảy mầm thành cây, đó là luân hồi. Thở ra  rồi lại hít vào, hít vào rồi lại thở ra, đó là luân hồi.

 Đấy là trong giới vô tình, còn trong giới hữu tình thì luân hồi lại gắn liền với nghiệp báo gọi là nghiệp báo luân hồi. Tạo nghiệp thiện sẽ được  quả thiện, tạo nghiệp ác sẽ gặp quả ác v.v… Luân hồi là một định luật mà hễ đã là luật thì không bao giờ có thể thay đổi.  Đức Kitô đến không phải để  phá luật: “Chớ tưởng Ta đến để phá luật pháp hoặc ngôn sứ. Ta đến không phải để phá đâu nhưng là để kiện toàn” ( Mt  5, 17 ).

Vả lại, chính Chúa cũng công nhận luật luân hồi  khi Ngài ám chỉ việc Ngôn Sứ Elia tái sinh nơi Gioan Baotixita ( Mt 17, 10 – 13 ).  Chúa đến không phải để phá luật  nhưng kiện toàn, nghĩa là  Ngài đem lại  cho việc thi hành luật một giá trị mới,  đó là  thể nhập ( VÀO )  Nước Trời ở nơi mỗi một tâm hồn.

 Điều kiện thiết yếu cho việc  thể nhập ấy, trước hết là cần phải tái sinh. Đức Kitô nói  với Nicôđêmô:  “Quả thật, Ta nói cùng ngươi, nếu ai không tái sinh thì không thể  thấy được Nước Trời” ( Ga 3, 3 ). Tái sinh là sinh lại, đồng thời cũng tức là Phục Sinh. Chúa nói bất cứ ai  cũng phải tái sinh mới  vào được Nước Trời,  chứ không phải hễ cứ chết là  được  phục sinh về sống bên cạnh Thiên Chúa đâu ?  Phục sinh  tức là tái sinh nhưng nghĩa tái sinh của Đạo Chúa hoàn toàn không phải là luân hồi.

       I.  Phân biệt  tái sinh và luân hồi nghiệp quả

      Tái sinh theo như ý của Chúa muốn nói là điều rất khó để mà tiếp nhận. Sau khi  nghe Chúa  nói con  người cần phải tái sinh mới thấy được Nuớc Trời  thì Nicôđêmô nêu ngay thắc mắc: “Người đã già thì làm sao sinh ra được ? Có thể nào vào lòng mẹ lần thứ hai mà sinh ra được  nữa sao ? ( Ga 3, 4 ).  Trước câu hỏi hết sức ngớ ngẩn ấy, Đức Kitô  một lần nữa  quả quyết và lần này giải thích có phần rộng rãi hơn: “Nếu người nào chẳng bởi nước và Thánh linh mà sinh thì không thể vào Nước Trời được. Hễ chi sinh bởi xác thịt là xác thịt, hễ chi sinh bởi Thánh Linh là Thánh Linh. Chớ lấy làm lạ vì cớ Ta đã nói với các ngươi.  Các ngươi cần phải tái sinh,  gió muốn thổi đâu thì thổi, ngươi nghe tiếng nó nhưng chẳng biết nó đến từ đâu và đi đâu. Hễ người nào sinh bởi Thánh Linh thì cũng như vậy” ( Ga 3, 5 – 8 ).

Việc tái sinh của mỗi một tín hữu cần phải được thực hiện thông qua Bí Tích Rửa Tội. Phép Rửa này có người thắc mắc, vừa mới sinh ra thì nào đã có tội tình gì  đâu mà phải… rửa ?  Nghe vậy xem chừng có lý, thế nên có ai đó đề nghị  thay  cho rửa tội  thì nên gọi là nghi lễ nhập đạo.  Thế nhưng giải như  vậy là chưa hiểu được tính chất sâu xa của Bí Tích mà chính Chúa cũng đã lãnh nhận  bởi Gioan Tiền Hô: “Song Gioan  ngăn cản mà rằng: Chính tôi cần Ngài làm phép rửa mà Ngài lại đến cùng tôi sao ? Chúa đáp: Bây giờ hãy làm đi, vì chúng ta đáng phải hòan tất  mọi điều công chính như thế” ( Mt 3, 13 – 15 ). Chúa chịu phép rửa  nơi Gioan  không phải là để làm gương cho chúng ta về sau nhưng như Ngài nói: “chúng ta”, ám chỉ Ngài và Gioan  đáng phải hoàn tất điều công chính ấy. Cần nên nhớ chỉ khi Chúa chịu phép rửa xong lên khỏi mặt nước  thì tầng trời mới mở ra, “Ngài thấy Thánh Linh của Đức Chúa Trời  ngự xuống như  chim bồ câu đậu trên Ngài và này có tiếng từ trời phán: Đây là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng” ( Mt 3, 16 – 17 ).

 Chúa là Đấng hoàn toàn vô tội mà cũng chịu phép rửa, điều ấy  cho chúng ta  thấy việc tái sinh  bởi nước và Thánh Thần quan hệ biết chừng nào cho phần rỗi linh hồn  của mỗi người. Mặc dù Bí Tích Rửa Tội mang một dấu ấn không thể phai mờ trong tâm hồn người tín hữu.  Thế nhưng rất có thể đó chỉ là một thứ hình thức  lễ nghi  chẳng đem lại một kết quả nào nếu ta không thực sự tái sinh tức sống lại phần linh hồn.

Con người ( chúng sinh ) không ai lại không bởi tội mà sinh và sinh bởi tội như thế  là sinh trong sự chết. Tội nguyên tổ như đã biết đó là tội phân biệt thiện ác ( x. St 2, 9 ).  Mỗi khi tâm khởi phân biệt là tâm đi vào cõi chết: “Một mai ngươi ăn ắt hẳn phải chết” ( St 2, 17 ).  Tâm khởi phân biệt là đã bước vào cõi chết. Ngược lại, bỏ tâm phân biệt đi thì lại được vào cõi sống ( Tái sinh ). Như vậy tính chất sâu xa của việc tái sinh  trong Đạo Chúa  tức là bỏ đi tâm phân biệt. Điều này trái ngược hẳn với  luân hồi củng có nghĩa là tái sinh nhưng  tái sinh trong nghiệp.

       Luân Hồi trong phạm vi chúng hữu tình luôn gắn  với nghiệp thế nên  gọi là luân hồi nghiệp báo ( Báo ứng ). Hiểu như vậy thì Luân Hồi  là sự trở đi trở lại  của nghiệp  mà nhân của nó là  vô minh.  Đức Phật Thích Ca  sau 21 ngày đêm tham thiền nhập định  đã giác ngộ  được chân lý của sự khổ và  nguyên nhân gây ra cho nó bao gồm trong mười hai duyên gọi là Thập Nhị Nhân Duyên  ( Vô Minh, Hành, Thức,  Danh Sắc, Lục Nhập, Xúc, Thọ,  Ái, Thủ, Hữu, Sinh, Già,  Chết ).

 Vì Vô Minh nên phát sinh dục vọng ( Hành ). Do nơi dục vọng mà nhận  biết ( Thức ). Từ chỗ nhận biết ấy mà có cái gọi là Tâm và Thân ( Danh Sắc ). Thân tâm bao gồm ngũ quan và  ý  thức ( Lục nhập ). Năm giác quan cùng với ý  thức  là sáu cánh cửa để tiếp xúc  với ngoại vật ( Xúc ). Có tiếp xúc thì có lãnh nhận ưng chịu ( Thọ ). Ưng chịu phát sinh sự yêu thích ( Ái ). Yêu thích thì muốn nắm giữ ( Thủ ) Nắm giữ đi liền với sở hữu, quyết giữ lấy ( Hữu ). Từ chỗ giữ lấy đó mà sinh  đi sinh lại  trong luân hồi lục đạo ( Thiên, nhân, Atula, ngạ quỷ, súc sinh, địa ngục ) ( Sinh ).  Hễ đã có sinh thì phải có già và chết ( Chết ).

 Thập nhị nhân duyên diễn ra trong một vòng tròn khép kín, cái này làm nhân cho cái kia  và ngược lại vì vậy mà gọi nó là luân hồi hay vòng tử sinh, sinh diệt. Vòng sinh tử xét trong một kiếp sống  thì gọi  là phần đoạn sinh tử. Còn xét trong tính chất sâu xa của nó thì mười hai nhân duyên ấy cũng chỉ gồm thâu trong một niệm  gọi là Nhất  Niệm Vô Minh.

Trong con mắt phàm tục thì thấy  con người ta sinh ra  sống trên đời này một thời gian vắn dài nào đó rồi thì ai ai cũng phải chết, và khi chết rồi thì mờ mịt chẳng biết đi đâu, về đâu. Nhưng với con mắt của những bậc đại giác thì  kiếp sống ấy chỉ là những niệm tưởng tiếp nối, niệm này nối tiếp  niệm kia  và nếu còn ở trong vòng vô minh thì sẽ không bao giờ có thể dứt. Tôn giáo có mặt là để đem lại sự giải thoát. Thế nhưng sự giải thoát ấy cần phải được nhận thức đó là thoát ra khỏi sự vô minh ở nơi chính mình.

       II.  Con  đường  chuyển  hóa  của Đạo  Chúa

      Có một sự thực  nhưng rất khó để mà nhận biết, đó là con người cứ nghĩ rằng mình sống với thân thể nhưng thật ra là sống với tư tưởng. Ta  ví  tư tưởng  là  người tài xế,  còn thân thể  là chiếc xe hơi. Khi nhìn chiếc xe, thấy nó chạy bon bon chỗ này chỗ kia, quẹo trái quẹo phải, đối với người có trí khôn thì ai cũng phải nghĩ đó là do người tài xế ngồi bên trong điều khiển. Người ta chỉ nhìn  thấy chiếc xe  chứ không thấy tài xế nhưng khi xe chạy  thì biết liền trong xe có người cầm lái. Ngược lại đối với người thiểu năng tâm trí hoặc ở rừng sâu núi thẳm mới ra phố lần đâu  thấy xe chạy liền cho rằng  đó là cái xe nó chạy. Xe chạy biết ngay là có người điều khiển là người có trí khôn, ngược lại là dại là khờ.

Hiểu như vậy thì hết thảy chúng ta những con người  trần mắt thịt này  đều là dại hết bởi lẽ không hề biết phân biệt tư tưởng và người tư tưởng. Mặc dầu vậy, nói có tư tưởng và người tư tưởng  thì cũng chẳng đúng. Tại sao ? Bởi phân biệt như thế  thì cũng  chẳng khác nào công nhận có một chủ thể cho tư tưởng. Chủ thể ấy chính là “Cái Tôi”. Nếu tôi là chủ thể của tư tưởng  thì đáng lẽ ra tôi có thể điều khiển được  tư tưởng, muốn nó vui liền được vui, muốn nó hướng thượng thì liền hướng  thượng v.v…

Thực tế thì đâu phải vậy, biết bao lần khi ta đọc kinh  dự lễ nghe giảng không muốn chia lòng chia trí  hoặc… ngủ gật mà nào có được đâu ? Nhiều khi ta chẳng muốn uống rượu say xỉn  nhưng rồi bạn bè lôi kéo  lại say lại xỉn, vợ con mè nheo bực cả mình… Về ý tưởng này Thánh Phaolô  đã có một câu nói rất ư chính xác: “Vì lòng muốn ở nơi tôi  nhưng quyền lực làm điều thiện thì lại không có. Cho nên điều thiện tôi muốn thì  tôi lại không làm. Còn điều ác không muốn thì tôi lại làm. Song nếu tôi làm điều tôi không muốn  thì chẳng còn phải là tôi làm điều đó nữa, bèn là tội lỗi ở trong tôi” ( Rm 7, 18 – 20 ).

       Không muốn nhưng lại cứ làm, điều ấy chứng tỏ tôi  không phải là chủ sở hữu của tư tưởng. Nói cách khác, chính tội lỗi nó làm chủ chứ không phải là tôi.  Tội lỗi làm chủ tức là nghiệp xấu nó dẫn dắt vào con đường mà mình không hề muốn. Nghiệp có thể ví  nó như một tên độc tài, nó bắt làm gì thì phải làm. Tuy nhiên nghiệp không từ trên trời rớt xuống, cũng không phải ở dưới đất chui lên mà nó  là do  chính  mình tạo nên.

Một  tên nghiện rượu,  ma túy chẳng hạn thì có ai bắt ép nó phải uống phải chích choác đâu ? Có lẽ ban đầu nó cũng thấy rượu là cay là đắng nhưng một khi đã nghiền nó rồi  thì làm nô lệ cho nó, không uống thì nó hành cho vật vã khốn khổ… Nghiệp là do mình tạo nhưng không phải cứ có nghiệp là xấu, nhưng có nghiệp xấu ác thì cũng có nghiệp thiện lành. Tạo nghiệp xấu ác phải lãnh quả xấu ác.  Trái lại tạo nghiệp thiện lành  sẽ được quả thiện lành. Quan trọng ở chỗ là phải làm cách sao  để tạo ra được nghiệp thiện nghiệp lành,  đó mới là vấn đề.

Chúng ta đọc tiếp lời Thánh Phaolô để thấy được câu trả lời:  “Vậy tôi thấy trong tôi có luật này, khi tôi muốn làm điều thiện thì điều ác lại cặp theo. Vì theo người bền trong  tôi vẫn vui thích luật pháp của Đức Chúa Trời. Nhưng tôi  thấy trong chi thể tôi  có một luật khác chiến đấu với luật trong tâm trí tôi bắt tôi làm nô lệ  cho luật của tội lỗi vẫn ở trong chi thể tôi. Ôi ! Tôi là người khốn khổ biết dường nào. Ai sẽ giải cứu tôi khỏi thân thể của sự chết này ? Cảm tạ Đức Chúa Trời đó là nhờ Giêsu Kitô Chúa chúng ta. Như vậy chính mình tôi lấy tâm trí phục luật pháp của Đức Chúa Trời nhưng lấy xác thịt phục luật pháp của tội lỗi” ( Rm 7, 21 – 25 ).

Qua những lời phải nói là tâm huyết của Thánh Phaolô, một con người được ơn Chúa cho trở lại, đã cho thấy cuộc đời  tín hữu chúng ta luôn là một cuộc chiến cam go giữa hai thế lực thiện ác mà nếu không có ơn Chúa thì không một ai có thể lướt thắng.  Mỗi người là một ông vua nhưng là một thứ vua ươn hèn, không cai trị nổi đám quan quân tướng sĩ ( mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý ), mặc chúng tác yêu tác quái, muốn ăn ngủ, chơi bời, nói năng  nghĩ tưởng thế nào cũng được.  Biết đó là không hay không tốt  nhưng bởi trót  đã để cho chúng lấn quyền nên đành bất lực buông trôi.

Trong tất cả đám quần thần đó thì Ý  Thức là quan trọng nhất, công  rất nhiều nhưng tội cũng  lắm ( Công vi thủ, tội vi khôi ). Cứ nắm được Ý là nắm đầu được tất cả, nhưng để nắm được Ý  thì nhất định là phải có phương pháp và phương pháp ấy chính là sự chuyển hóa tâm thức.  Tâm ta từ vô lượng kiếp do bởi ảnh hưởng của tội nguyên tổ là tội phân biệt thì nay  phải nhất quyết  chuyển nó thành Tâm Vô Phân Biệt. Chúa dạy  yêu người thì đừng có phân biệt  người thân kẻ thù ( Mt 5, 43 – 44 ). Làm phúc bố thí thì đừng cho tay trái biết việc tay phải làm ( Mt 6, 3 – 4 ).  Bao lâu còn sống với Tâm Phân Biệt  thì còn quanh đi quẩn lại trong vòng tử sinh sinh tử  rất khó để mà thoát ra khỏi nó.

 Điều khó ấy tự sức con người  không một ai có thể, nhưng  nếu biết cậy dựa vào Ơn Chúa  thì lại được, bởi vì “Ơn Ta đủ cho ngươi, vì quyền năng của Ta nên trọn trong sự yếu đuối” ( 2Cr 12, 9 ).

PHÙNG VĂN HÓA