Một câu chuyện thật cảm-động – 48 năm tìm nhau

Một câu chuyện thật cảm-động – 48 năm tìm nhau

Ngã ba Thạch Trụ (huyện Mộ Đức, Quảng Ngãi), 10h47 sáng 18/10, một người đàn ông xuống xe khách ôm chầm lấy một phụ nữ khóc nức nở. Nhiều người đi đường đứng lại và không cầm được nước mắt.

Họ là hai anh em ruột mồ côi, lạc mất nhau đã 48 năm.

Nước mắt của đợi chờ sau 48 năm gian truân, lưu lạc - Ảnh: Hữu Khá

Nước mắt của đợi chờ sau 48 năm gian truân, lưu lạc –

Ảnh: Hữu Khá

Cả đêm hôm trước bà Võ Thị Tới không ngủ. Sáng sớm 18-10, bà cùng chồng ra ngã ba Thạch Trụ chờ chuyến xe chở ông Võ Văn Tiếp từ Đà Nẵng vào. Xe dừng ở ngã ba đường, Tiếp – Tới, hai anh em mồ côi từ lúc mới chào đời, gặp nhau trong nước mắt sau dọc dài gian khó quãng đời lưu lạc…

Cháy nhà… mất em

Chuyến xe hôm ấy từ Đà Nẵng vào Quảng Ngãi như chở cả một đời lưu lạc về với hai anh em. Ông Tiếp bước lên xe tay run run khi điện thoại liên tục nhận được cuộc gọi từ Quảng Ngãi giọng nôn nóng “anh tới chưa”?. “Anh đang gần tới rồi em” – ông Tiếp nói xong, mặt nhìn ra phía cửa xe giấu đi dòng nước mắt đang tuôn dài.

Họ lạc mất nhau năm 1964, chỉ ít lâu sau ngày ba mẹ lìa trần. “Sáng ấy, cha mẹ tôi ra đồng thì bị trúng đạn chết. Lúc này tôi mới chập chững lên ba. Em gái tôi mới biết bò dưới nền đất” – ông Tiếp ngậm ngùi. Sau ngày kinh hoàng đó, hai đứa trẻ lăn lóc về
nhà người cô ruột. Sống cơ cực với người cô chỉ được ít lâu. Một hôm vào ngày
đầu hè, giữa lúc chập choạng tối, Tiếp cầm đèn vào góc nhà tìm em. Dại dột bỏ
đèn bên mép cửa, ngọn lửa bén mái tranh. Hoảng sợ, Tiếp lôi xịch em gái ra núp
ngoài bụi tre. Căn nhà cháy rụi thành tro cũng là phút giây hai đứa chia lìa.

Đêm đó, hai đứa lạc mất nhau. Em gái được bà ngoại ẵm về nuôi nấng. Còn Tiếp lại lăn lóc theo bước đường tha phương cầu thực của người cô về vùng Hòa Liên, huyện Hòa Vang, Đà Nẵng. Ở với cô được một thời gian nữa, Tiếp được cho đi ở đợ chăn trâu. Tiếp lớn lên với mấy đứa bạn chăn trâu hàng xóm. Mười ba tuổi, Tiếp đã vào rừng oằn lưng gánh củi về. Đêm xuống chui vào căn nhà sát chuồng trâu để qua bao mùa gió rét thấu xương.

Ở đợ đến năm 1982, khi ấy Tiếp tròn tuổi 22. Đứa trẻ chăn trâu không cha mẹ đã bắt đầu nhận ra thân phận của mình. Tiếp muốn ra đi, đi khỏi làng. Từ đó, trong căn chòi nhỏ bên mép chuồng trâu không đêm nào Tiếp ngủ được. Giữa đêm dài lạnh buốt với thao thức “đi khỏi làng”. Nhưng đi về đâu và lấy gì mà đi cứ dằn vặt mãi. Càng suy nghĩ, Tiếp càng bế tắc. Thả trâu trên đồng, Tiếp tranh thủ đi mót lúa. Gần năm trời
Tiếp dồn được nửa thùng phuy lúa, đem bán. Chiều hôm trước bán được lúa là sáng
hôm sau anh giã từ bạn bè lên đường không để lại một dấu tích.

Mùa hè năm 1982, con đường vào Nam của Tiếp dừng lại ở vùng Trảng Bom (Đồng Nai). Đến nơi, ngày ngày Tiếp đi làm thuê cho người ta, tối đến căng bạt bên vệ đường nằm ngủ. Như trời sắp đặt, năm năm sau Tiếp gặp một cô gái mồ côi, bén duyên vợ chồng. Họ sống với nhau trong cơn đói khó, có hai mặt con.

“Tôi còn một người anh”

Còn Tới, về sống với ngoại. 16 tuổi, ngoại mất. Tới lên đường đi tìm anh nhưng hành trang mang theo chỉ là cái tên của người anh trai. Ban đầu Tới dạt lên Tây nguyên nhưng không lần ra manh mối. Cô xuôi về vùng núi Tánh Linh (Bình Thuận) làm thuê kiếm tiền nuôi ước mơ tìm anh. Đường đời khốn khó cũng chắp nối những mảnh đời vỡ vụn lại với nhau.

“Anh  ơi, đưa cha mẹ về nhà”
Cha  mẹ ông Tiếp, bà Tới chết không mồ mả. Bao năm nay bát nhang được gửi lên  chùa. “Mấy năm nay, cứ đến ngày 12-6 âm lịch, vợ em làm mâm cơm đặt trước sân  nhà khấn vái rồi khóc ngất” – ông Quang kể với ông Tiếp. “Anh ơi, mai mốt mình đưa cha mẹ về nhà anh. Cha mẹ chết đã không mồ mả, bát nhang để trên chùa lạnh lẽo lắm” – bà Tới đổ nhào vào người ông Tiếp lại khóc.

Tới gặp một chàng trai cũng mồ côi cha mẹ từ lúc 2 tuổi, không anh em, quê ở Quảng Ngãi lạc bước vào Bình Thuận. “Nhiều đêm vợ tôi nằm khóc nức nở. Cô ấy bảo còn người anh trai nhưng không biết sống hay chết. Thương vợ, nhưng cơm con ăn còn chưa đủ biết lấy tiền đâu đi tìm” – ông Quang, chồng bà Tới kể. Thương anh đến cháy lòng, bà Tới không tìm thấy anh nhưng vẫn nuôi hi vọng anh mình còn sống. Có hôm ra xã làm giấy tờ, Tới điền vào lý lịch “tôi còn một người anh”. Khi người công an bảo
phải ghi rõ anh họ tên gì, ở đâu, Tới bảo “không biết” rồi cúi xuống bàn ôm mặt
khóc.

Còn ông Tiếp, cuộc đời nghèo túng và sự mặc cảm cản bước đường ông trở lại xóm chăn trâu. Con đường tìm em xa mịt mù. Đã bao lần ông dự tính tìm em nhưng bất thành. Rồi một hôm, bất ngờ có một người khách lạ xuất hiện. Tiếp đứng sững người, nước mắt trào ra khi trước mặt mình xuất hiện một người bạn. Tiếp gọi lớn “thằng Vân chăn trâu”, rồi hai người ôm chặt lấy nhau. Vân dưới Sài Gòn lên tìm bạn. Thấy ông Tiếp nghèo khó, từ đó mỗi lúc rảnh rỗi ông Vân hay lên xuống Trảng Bom giúp ông
Tiếp. Rồi một ngày đầu tháng 10-2012, ông Vân lên Trảng Bom chơi. Gặp lại bạn,
ông Vân nói: “mình về tìm lại mấy đứa chăn trâu coi thử nó sống chết răng rồi”.
Hai đứa con gái ông Tiếp đứng bên thấy cha khóc, đêm đó động viên ông phải trở
về. Sáng hôm sau đứa con gái lớn chạy đi mua cho cha bộ đồ mới.

Cuộc gặp nghẹt thở

Về chốn cũ xã Hòa Liên (Đà Nẵng), mọi thứ đã đổi thay. Mấy đứa bạn thuở chăn trâu giờ trên tuổi 50. Chiều hôm ấy họ đứng chết lặng nhìn nhau, nhận ra nhau qua vết sẹo trên mặt. Đêm xuống, cạn chén rượu mừng ngày gặp lại. Đến giữa khuya khi chén rượu đã tàn, sương đêm xuống. Bỗng nhiên Tiếp ngẩng mặt lên trời dốc ngược cạn ly rượu, ôm mặt khóc đau đớn: “Tau còn đứa em gái, không biết nó còn hay chết ở phương nào”. Mấy người bạn động viên ông Tiếp giờ đi tìm em cũng như lạc vào đêm tối, bởi người em lưu lạc 48 năm không để lại dấu tích gì, biết bắt đầu từ đâu. Vậy
mà giữa đêm tối như nói trong cơn say, ông Điều, một bạn nối khố thời chăn trâu, vừa khóc vừa nói hồn nhiên như đứa trẻ: “Thôi mi đừng khóc nữa, mai tau dẫn đi tìm…”.

Câu nói như động viên bạn hóa ra lại bắt đầu một cuộc tìm kiếm, gặp gỡ kỳ lạ. Sáng hôm sau, ông Điều chở bạn đến xã Hòa Tiến, bởi hồi chăn trâu nghe loáng thoáng quê ngoại ông Tiếp ngày xưa ở đó. Họ đi tìm em nhưng chẳng có thông tin gì ngoài tên cha mẹ mình đã chết, không di ảnh, không mồ mả.

Đến đầu làng, ông Tiếp dừng xe tấp vào quán nước gặp một bà lão. Ông Tiếp nói với bà lão tên cha mẹ mình. Bất ngờ bà bảo “vợ chồng nhà nó chết trẻ, bỏ lại hai đứa con nhưng không biết hai đứa đó giờ sống chết ra sao”. Ông Tiếp run rẩy mừng rỡ khi nghe bà lão nhắc đến đó, ông hỏi tới tấp: “Vậy giờ bà có biết dưới làng còn ai thân thích không, con là con trai…”. . Bà lão chỉ tay về phía cuối làng nói: “Con đi về
dưới kia, mợ con còn sống”. Giữa trưa nắng Tiếp bỏ chạy một mạch về làng. ông
đứng trước một bà cụ tuổi đã gần 80 nói “con là Tiếp đây”. Bà lão sửng sốt, quệt mắt chằm chằm nhìn vào ông Tiếp rồi bảo: “Tiếp, Tiếp… con còn sống hả con”. Ngay lập tức bà lão nói như sét đánh vào tai ông Tiếp: “Con còn đứa em gái, con Tới nó lấy chồng về sống trong Quảng Ngãi”. Đứng giữa sân nhà giữa trưa đứng bóng, ông Tiếp nhìn lên trời khóc như đứa trẻ.

Tin ông Tiếp trở về, phút chốc đã đến tai người em. Chỉ ít phút sau, máy điện thoại ông đổ chuông với số lạ. Đầu dây bên kia chỉ kịp nói “em Tới đây” rồi khóc, khóc nghẹn ngào. Sáng hôm sau ông đón xe vào Quảng Ngãi. Đứa em gái cũng ra đứng ở ngã ba đường chờ ông. Chiếc xe khách vừa trờ tới ngã ba Thạch Trụ, ông Tiếp bước xuống. Phía bên kia đường một phụ nữ lao ra siết chặt bấu víu vào vai ông khóc ngây dại: “Anh đi đâu mà không tìm em”.

Hữu Khá

nguồn: Chị Helen Hương Nguyễn gởi

 

4 cách truyền giáo

4 cách truyền giáo

Tác giả RYAN EGGENBERGER

TRẦM THIÊN THU
Bạn là người Công giáo và sống yêu thương. Bạn muốn chia sẻ Tin Mừng với những
người quen biết, chẳng hạn các đồng nghiệp. Đó là sống dồi dào trong Đức Giêsu
Kitô nơi Giáo hội Công giáo và là điều tốt lành!
Chúng ta thường nghe nói rằng người Công giáo và người Kitô giáo gây phiền
toái, thúc ép, và cực đoan. Điều này chỉ đúng trong một số ít trường hợp, còn
đa số chúng ta đều là những người thân thiện bình thường.
Tuy nhiên, hành động thân thiện khả dĩ chấp nhận không miễn trừ chúng ta đối
với việc chia sẻ Tin Mừng. Thật vậy, đó là một trong số ít điều mà chúng ta
thực sự phải làm theo lệnh Chúa Giêsu truyền: “Hãy đi và làm cho muôn dân trở
thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh
Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28:19-20).
Có nhiều cách để chia sẻ Tin Mừng mà không thúc ép, gây phiền toái và cực đoan.
Mục đích là tạo cơ hội để chia sẻ niềm vui về Đức Giêsu Kitô. Cách tốt nhất là
“làm bạn với ai đó và đem người đó đến với Đức Kitô”. Hãy thử thực hiện những
cách loan truyền Tin Mừng sau đây:
1. Sống hiền lành và hòa đồng
Người hiền lành vui vẻ sẽ thu hút nhiều người khác. Bạn có thể sống vui vẻ và
hòa đồng ở mọi nơi mà không gây phiền toái cho ai. Hãy vui cười và sống tích
cực. Hãy mặc lấy Đức Giêsu Kitô để nhìn mọi người và mọi thứ bằng con mắt đức
tin.
Điều này không có nghĩa là bạn phải tỏ ra ngây ngô. Điều xấu có thể xảy ra,
chẳng hạn như đau khổ. Nhưng đối với những người nhìn bằng con mắt đức tin và
hiểu biết giáo huấn của xã hội, đau khổ có thể trở thành vinh quang của Thiên
Chúa. Niềm vui trong Chúa là sức mạnh của chúng ta. Người ta sẽ “thắc mắc”
không hiểu sao bạn lại sống lạc quan trong gian khó như vậy. Đó là tín hiệu
tốt!
2. Yêu thương tha nhân
Đó có thể là điều cũ kỹ gây nhàm chán, nhưng đó lại chính là mệnh lệnh của Đức
Kitô: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh
em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh emThầy ban cho anh em một
điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy
đã yêu thương anh em” (Ga 13:34).
Làm sao chúng ta có thể yêu thương tha nhân như Chúa Giêsu yêu thương chúng ta?
Có thể chúng ta cho là khó vì không hợp lý. Điều Chúa Giêsu đã làm trên Thập
giá vì chúng ta là điều không thể lý giải theo trí tuệ của nhân loại: Chúa
Giêsu chịu chết hoàn toàn vì người khác, tức là chúng ta. Như vậy chúng ta cũng
phải sống hết mình vì tha nhân. Tại sao? Chúng ta đã được Chúa thương xót thì
chúng ta có trách nhiệm và bổn phận phải thương xót tha nhân. Đó là công lý!
3. Phát triển các mối quan hệ
Nhiều người không có những người bạn đúng nghĩa, theo cách nói của người Việt là
ít “bạn” mà nhiều “bè”. Đó là một thực tế. Đặc biệt là nam giới, thường chỉ ăn
nhậu với nhau vậy thôi, chứ thực sự chưa hẳn là bạn.
Bạn bè với nhau có thể do cùng mục đích, cùng quan điểm, cùng sở thích,… Thực
ra ai cũng có thể là bạn của nhau, dù khác nhau về niềm tin tôn giáo, nghề
nghiệp, sở thích,… nếu có lòng nhân đạo, tình yêu thương. Tình yêu thương vô
điều kiện, mà tình bạn là một dạng yêu thương, thế nên tình bạn không đòi hỏi
gì cả.
4. Khuyến khích người khác sống tốt
Nhân chi sơ tính bổn thiện. Sinh ra ai cũng có bản chất tốt. Chúng ta luôn phải
cố gắng vươn lên để đạt được điều tốt nhất, và phải nỗ lực tuân theo các giáo
huấn của Chúa trong mọi hoàn cảnh, cùng đích là Nước Trời. Lên trời một mình là
ích kỷ, nên chúng ta phải kéo người khác cùng lên. Thánh Phaolô nói: “Trong
cuộc chạy đua trên thao trường, tất cả mọi người đều chạy, nhưng chỉ có một
người đoạt giải. Anh em hãy chạy thế nào để chiếm cho được phần thưởng” (1 Cr
9:24).
TRẦM THIÊN THU
(Chuyển ngữ từ IgnitumToday.com)
nguồn: Maria Thanh Mai gởi

Vấn đề lương tâm

Vấn đề lương tâm
Đăng bởi cheoreo lúc 3:13 Chiều 5/12/12
TRẦM THIÊN THU

VRNs (05/12/2012) – Sài Gòn- Tôi có anh bạn lớn hơn tôi 10 tuổi. Chúng tôi gặp nhau hằng tuần cùng uống cà-phê và phiếm đàm nhiều chuyện – từ tôn giáo đến xã hội, từ giáo dục tới kinh tế, từ giao tế xã hội tới đạo hiếu gia đình,… Thậm chí chúng tôi trao đổi cả về cuộc đời và sự chết.

Khoảng 10 năm trước, xe tôi hư, muốn sửa xe mà không quen ai, sợ gặp thợ “vô tâm” làm ẩu và “chém đẹp”. Đứa cháu nói có ông già sửa xe trên khúc đường gần tới nhà
thờ, và nó “láy” một câu: “Ông ấy khó tính lắm”.
Một lần, hai lần, rồi nhiều lần. Tôi đến “ông già” để sửa xe. Cứ thế thành quen,
rồi thân. Tôi nói với đứa cháu: “Có thấy ông ấy khó tính gì đâu!”. Cứ khoảng
hai hoặc ba tuần tôi không ghé là ông lại nhắc: “Lâu quá không ghé, tưởng đi
đâu xa rồi chứ. Nói thật lòng, không thấy Đông ghé tôi cũng thấy nhớ”. Tôi ghé
tiệm sửa xe của anh có khi không sửa xe mà chỉ để phiếm đàm sự đời, tâm sự với
nhau cho quên “khổ ải trần gian” vậy thôi.
Có lần anh nói: “Có những người giàu, buôn bán lấy lời thẳng tay. Có khi lời gấp
đôi, gấp ba lận. Mà không phải người bình thường đâu, họ là con cha cháu ông
đó. Mình nghèo thật, nhưng sửa xe cho khách mà lấy mắc hơn một vài ngàn, đêm
nằm suy nghĩ thấy áy náy lắm. Áy náy thật chứ không giỡn nha”. Tôi cười: “Vậy
chứ sao. Có lẽ vậy nên họ giàu. Mình nghèo có khi còn bị cho là chảnh”.
Đó là vấn đề lương tâm. Có người áy náy vì chuyện rất nhỏ, nhưng có người không hề
áy náy vì chuyện lớn. Lương tâm mỗi người đều có những mức độ khác nhau: Đúng
đắn hay sai lệch? Trong sáng hay chai lì? Còn thức hay đã ngủ? Và người ta
thường “chua cay” nói: Lương tâm không bằng lương tháng. Vâng lương tâm có răng
đâu mà cắn rứt!
Tin tức cho biết: Trên đường Bùi Thị Xuân (Q. 1, TPHCM), hai xe máy va quẹt chưa
xảy ra nguy hiểm nào, nhưng chỉ vì một lời nói không lọt tai mà một thanh niên
đã hung hãn giết hai người chết tại chỗ. Nghe TIN mà TỨC. Do đó mà người ta gọi
là… tin tức.
Rồi trên xe buýt chạy tuyến QL 13 đi Bình dương, một đạo tặc “hai ngón” bị bà già
ngăn cản liền đâm vào mặt bà. Hai thanh niên thấy vậy nên ra tay nghĩa hiệp
cũng bị hắn đâm, một anh bị đâm vào lưng và một anh bị đâm vào đùi.
Đọc báo Tuổi trẻ mà… giật mình, không thể tưởng tượng nổi khi các “cô chiêu, cậu
ấm” của các đại gia còn xài sang hơn “công tử Bạc Liêu” xưa: Họ điểm tâm sáng
vài trăm triệu đồng VN, buổi tối họ vào các bar chi khoảng vài ngàn USD. Với
họ, như vậy là… chuyện nhỏ, và như vậy mới chứng tỏ “đẳng cấp”!
Nhưng, tháng 8/2010, anh lái tàu hỏa tên Thức – với 20 năm kinh nghiệm – đã nhanh chóng quyết định dùng cách khác để thắng đoàn tàu khi gặp sự cố, dù anh biết
nguy hiểm cho tính mạng mình. Anh bị trọng thương, dập nát hai chân và dập lá
lách, nhưng anh đã cứu sống hơn 300 hành khách. Lái tàu có cách thắng khác
không nguy hiểm cho mình, nhưng có thể nguy hiểm cho cả đoàn tàu. Anh đã chọn
phần nguy hiểm về phần mình. Anh có vợ và con gái. Nhà nghèo, chiếc xe máy cũng
chưa mua được, nhưng anh Thức vẫn hoàn toàn là con người vĩ đại với một lương
tâm trong sáng.
Giữa đêm tối bao phủ dày đặc, một que diêm lóe sáng cũng đủ để người ta nhìn thấy.
Cũng vậy, một động thái dù rất nhỏ cũng đủ người khác nhận ra. Muốn giỏi một
ngoại ngữ, người ta cần đan quyện cả 4 kỹ năng: Nghe, Nói, Đọc (hiểu), Viết.
Cuộc sống cũng cần các kỹ năng tương tự vậy. Hymans nói: “Giá trị mỗi con người
tùy thuộc lý tưởng cao hay thấp mà mình theo đuổi”.
M. Blanchecotte nói: “Hãy tưởng như mình sắp chết và hãy hành động như mình bất
tử”. Quả thật, trong con người luôn có sự giằng co mãnh liệt, do đó “nghĩ đúng,
nói đúng, vậy cũng chưa đúng, mà còn phải làm đúng” (Lachausser). Cuộc sống
phải tích cực và dứt khoát, không được tiêu cực hoặc lừng khừng, vì Chúa nói:
“Ngươi hâm hẩm, chẳng nóng chẳng lạnh, Ta sẽ mửa ngươi ra khỏi miệng Ta” (Kh
3:16).
Nói đến lương tâm là hiểu ngầm có sự giằng co trong mỗi con người. Điều quan trọng
là chúng ta chứng tỏ bằng chính hành động cụ thể, đừng nghĩ rằng “vắng mợ thì
chợ vẫn đông”. Chân phước Nữ tu Teresa Calcutta đã chia sẻ: “Chúng ta cảm thấy
những gì chúng ta làm chỉ là một giọt nước trong đại dương. Nhưng đại dương sẽ
ít đi vì thiếu giọt nước đó” (We ourselves feel that what we are doing is just
a drop in the ocean. But the ocean would be less because of that missing drop).
Lạy Chúa, xin tạo cho chúng con trái tim trong sạch, lương tâm trong sáng, và giúp
chúng con can đảm hành động. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô,
Thiên Chúa của chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU

Ba bài giảng sám hối

Ba bài giảng sám hối

(Mùa Chay, tháng 4/1990)

Nhà thờ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp – DCCT

(đường Kỳ Đồng, Sài Gòn)

 

Bài giảng thứ hai

Sám hối tập thể Giáo hội

nguồn: chuacuuthe.com

Hôm qua, ta đã đề cập đến sám hối cá nhân: thường ta dựa vào lề luật để xét mình và sám hối (Mười điều răn Thiên Chúa, Sáu điều răn Hội thánh). Tôi đã lưu ý anh chị em việc sám hối dựa trên căn bản của một Kitô hữu: lời gọi nên hoàn hảo của Chúa Kitô và ba chức năng của Kitô hữu (tư tế, ngôn sứ và vương đế).

Hôm nay, ta đề cập đến sám hối tập thể Giáo hội dựa trên mầu nhiệm và sứ mạng của Giáo hội.

1. Mầu nhiệm Giáo hội:

Trong Hiến chế về mầu nhiệm giáo hội, Công đồng Vatican nói: “Ánh  sáng thế gian chính là Đức Kitô, do đó Giáo hội phải phản chiếu ánh sáng ấy cho muôn dân, khi rao giảng Tin mừng cho mọi người. Giáo hội là bí tích của Chúa Kitô, vừa là dấu hiệu, vừa là phương tiện để mật thiết kết hợp với Chúa và hợp nhất nhân loại với nhau. Vì thế giáo hữu phải biết rõ đặc tính và sứ mạng Chúa Kitô đã giao phó cho Giáo hội”.

Ý Chúa Cha là cứu độ mọi người: Thiên Chúa muốn nâng mọi người lên tham dự đời sống Thiên Chúa. Con người sa ngã, Chúa Kitô cứu độ. Thiên Chúa muốn những ai tin Chúa Kitô hợp thành Giáo hội. Chúa Kitô lập Giáo hội. Chúa Thánh thần hoàn tất.

Giáo hội nhiệm thể Chúa Kitô: Chúa Kitô là đầu. Một thân mình, nhiều chi thể. Đòi hỏi sự thống nhất trong sự khác biệt các chi thể trong Giáo hội có cố gắng xây dựng sự hợp nhất và tôn trọng sự khác biệt các chi thể.  Để cho Chúa Kitô là đầu lãnh đạo Giáo hội qua lời Ngài không bị bóp méo. Tôntrọng giám mục, không thể cho một đoàn thể nào trong Giáo hội dựa vào quyền lực để điều khiển sinh hoạt của Giáo hội. Tinh thần Đức Kitô hay tinh thần thế gian chạy theo chiều gió chi phối Giáo hội? Giáo hội là một thân thể có phần vô hình và hữu hình, ta làm gì để phát triển? Có phấn đấu để có điều kiện phát triển?

2. Sứ mạng của Giáo hội

+ Chức năng tư tế:

Giáo hội là dân riêng mới của Thiên Chúa, với giao ước mới trong Máu Chúa Kitô, Thượng đế, trao quyền cho hàng Giáo phẩm, ngoài chức tư tế cộng đồng của toàn thể tín hữu và của mỗi tín hữu như đã nói hôm qua.

Giáo hội Việt Nam đã làm gì, đã phấn đấu như thế nào để thực hiện chức năng tư tế của hàng giáo phẩm?

Để bảo đảm chức năng tư tế ta cần:

+ Đào tạo linh mục: tự do lập chủng viện, chọn giáo sư, chọn chủng sinh, chọn chương trình đào tạo.

+ Thuyên chuyển linh mục coi xứ, phong giám mục, linh mục.

+ Tổ chức phụng tự, thánh lễ, cầu kinh có được tự do chưa? Đã phấn đấu như thế nào?

Phải nói đến nay, ta chưa phấn đấu đủ, không phải âm thầm năn nỉ ỉ ôi, mà công khai cho dư luận biết.

+ Chức năng ngôn sứ:

Tự do rao giảng Tin Mừng, giáo lý tân tòng, trẻ em? sách vở báo chí? Kinh Thánh? Giáo hội Việt Nam có nói thẳng nói thật với chính quyền về những vi phạm tự do tôn giáo? Có lên tiếng bênh vực nhân quyền, dân quyền? Hiến chế về Giáo hội trong thế giới ngày nay nói: “Nỗi vui mừng và niềm hy vọng, những buồn khổ và mối lo âu của con người hôm nay, cách riêng của những người nghèo và tất cả những ai đang đau khổ, đó cũng là vui mừng và hy vọng, đau buồn và lo âu của môn đệ Chúa Kitô: Không có gì liên quan đến nhân loại mà không  có tiếng vang trong cõi lòng tín hữu Chúa Kitô. Cộng đồng Kitô hữu gồm những con người, được họp lại trong Chúa Kitô, được Chúa Thánh Thần hướng dẫn trên đường về nước Cha, họ mang sứ điệp cứu độ phải được gửi đến cho tất cả Cộng đoàn tín hữu cảm thấy thực sự và sâu xa liên đới với con người lịch sử nhân loại.”

Trong tinh thần phục vụ con người, Giáo hội Việt Nam cần xét mình lại xem mình có thực sự và sâu xa liên đới với con người Việt Nam hôm nay.

Người Việt Nam hôm nay hy vọng và lo âu cái gì? Họ lo âu trước tình trạng xã hội tan rã trên mọi phương diện: trong đó họ bị tước đoạt những quyền căn bản của con người và người dân. Con người sinh ra bình đẳng và tự do, có tất cả những quyền căn bản của con người mà Thiên Chúa ban cho họ, thêm vào đó ngày 10/12/1948 Liên Hiệp Quốc đã ra Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền có đoạn nói như sau:

“Xét rằng thừa nhận phẩm giá cố hữu những quyền bình đẳng và bất khả nhượng của con người trong đại gia đình thế giới là đặt nền tảng cho tự do, công lý và hòa bình thế giới.”

“Xét rằng vì không biết rõ và khinh miệt nhân quyền nên loài người đã có những hành động dã man đối với lương tâm và xét rằng sự tiến tới một thế giới trong đó nhân loại sẽ được hưởng tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng và tự do sinh sống không phải sợ hãi và thiếu thốn, đã được tuyên bố là nguyện vọng cao cả nhất của con người.”

“Xét rằng điều tối cần là nhân quyền phải được pháp luật che chở, nếu muốn cho loài người không bao giờ phải dồn đến phương tiện nổi loạn, để chống lại sự tàn bạo và áp bức… Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc công bố bản Tuyên ngôn Quốc tế này như là một lý tưởng chung cho các dân tộc và các quốc gia phải tiến tới.”

Tiếp đó bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền đưa ra 30 điều về nhân quyền:

– Quyền được hưởng tự do và an ninh cá nhân (3),

– Quyền không bị hành hạ hay ngược đãi, bị đối xử hay trừng phạt một cách vô nhân đạo, làm hại phẩm cách con người (5),

– Quyền được bình đẳng trước pháp luật, được pháp luật bảo vệ (7),

– Quyển khỏi bị bắt bớ, bị lưu đày một cách trái phép (9),

– Quyền được xét xử bình đẳng trước một tòa án vô tư và độc lập (10),

– Quyền được coi như vô tội khi bị truy tố mà chưa có tòa xét xử với bằng chứng để buộc tội (11),

– Quyền không được xúc phạm trái phép đến đời tư, gia quyến, nhà ở, thư từ (12),

– Quyền được tự do di chuyển và trú ngụ bất cứ nơi nào trong nước họ và quyền tự do rời bỏ bất cứ nơi nào, kể cả xứ mình, hoặc trở về xứ mình
(13),

– Quyền tự do kén chọn một quốc tịch theo ý muốn (14),

– Quyền tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng (18),

– Quyền tự do bày tỏ ý kiến, tự do tìm kiếm, thu nhận và truyền bá những quan niệm và ý tưởng của mình (19),

– Quyền tự do hội họp và lập hội để theo đuổi mục tiêu hòa bình và không bắt buộc ở trong một hội nào (20),

– Quyền bầu cử tự do (21),

– Quyền hưởng an sinh xã hội (22),

– Quyền làm việc, quyền tự do lựa chọn việc làm của mình, quyền hưởng số lương phải chăng và đủ để bảo đảm cho mình và cho gia đình một đời sống xứng đáng với phẩm giá con người, mọi người có quyền lập và gia nhập nghiệp đoàn để bảo vệ những quyền lợi của mình (23),

– Quyền hưởng một mức sống đầy đủ cho sức khỏe và hạnh phúc của mình, của gia đình mình, quyền hưởng tiện nghi giáo dục, y tế (25),

– Quyền cha mẹ lựa chọn giáo dục cho con cái (26)…

Giáo hội Việt Nam trong đó có Hội đồng Giám mục Việt Nam, các giám mục địa phận, các linh mục, tu sĩ và giáo dân, Giáo hội Việt Nam đã làm gì, đã lên tiếng khi thuận khi nghịch, khi âm thầm khi công khai, để người ta trả lại những quyền căn bản của con người cho con người Việt Nam hôm nay?

Phải nói là đau lòng khi thấy Giáo hội quá âm thầm chịu đựng và không dám nói thẳng, nói thật. Có nói âm thầm không, chắc cũng có, nhưng như  đi xin ân huệ, năn nỉ ỉ ôi, trả giá, còn công khai thì thật là hiếm. Còn có ông vỗ ngực đại diện giới công giáo đã vung vít tuyên bố một câu nghe xanh rờn như một lời tuyên xưng đức tin vào Đảng Cộng sản Việt Nam, tại buổi họp khoáng đại của Quốc hội (7/7/1976): “Tôi xin phép nói lên tâm tình của một linh mục công giáo (…), báo cáo chính trị (của Quốc hội) càng làm ta xác tín thêm hơn nữa rằng con người mới, xã hội mới mà mọi người đều mơ ước, mà mọi người tin vào Chúa Kitô mãi mơ ước, con người mới đó, xã hội mới đó không thể có được, nếu không có Đảng Lao động Việt Nam (Đảng CSVN), đội tiền phong của giai cấp công nhân lãnh đạo và tổ chức.”

Không biết linh mục ấy đã ân hận chưa? Có lẽ đã ân hận, vì những gì mắt thấy tai nghe, không thể mù, không thể điếc được thì phải nhức nhối lắm.Nhưng có sám hối chưa? Chưa thấy. Đã công khai nói như thế nào, thì sự sám hối cũng phải công khai.

Một vị ‘yêu nước’ khác lại tuyên bố nào là Nước Thiên Chúa đã đến với chế độ CSVN, nào là Đảng CSVN tạo điều kiện cho ta giữ đạo. Đó là những lời nịnh bợ vô liêm sỉ, khi Giáo hội đang bị bóp chết bằng cách giới hạn đào tạo linh mục, đóng cửa các nhà đào tạo tu sĩ, cấm in sách vở báo chí Công giáo, việc dạy giáo lý bị giới hạn, việc thờ phụng có nơi làm khó dễ, linh mục đi lại giảng đạo nơi khác bị cấm đoán, các hội đoàn tông đồ giáo dân, công tác xã hội giáo dục bị loại bỏ.

Còn một vài vị trong hàng lãnh đạo của Giáo hội Việt Nam hoặc ngây thơ vô tội, hoặc có tính toán, nên người ta ‘cho phép’ cái không cần ‘xin phép’ thì cuống quít coi như ân huệ và khen lấy khen để ông nào đó như câu: “Người  tốt lắm, người chân thành lắm.” Trên đất nước này, người ta coi mọi nhân quyền và dân quyền là ân huệ ngưởi ta có thể ban cho, có thể giới hạn, có thể mở rộng, có thể rút lại. Họ coi họ hơn cả Thiên Chúa – Thiên Chúa ban cho con người tự do và không bao giờ rút lại, kể cả khi còn người phản bội Ngài, đóng đinh con của Ngài. Giáo hội phải đòi hỏi người ta trả những quyền căn bản của con người, chứ không có vấn đề xin xỏ, năn nỉ, ỉ ôi.

+ Chức năng vương đế:

Giáo hội Việt Nam phải phấn đấu để thực thi quyền phục vụ con người và Thánh Kinh gọi là quyền vương đế. Phục vụ người nghèo, người đau khổ, người bị bóc lột, người bị áp bức. Một mục sư như Martin Luther King đã bị ám sát ở Hoa Kỳ vì bảo vệ quyền người da đen, chống phân biệt chủng tộc. Giám mục Roméro và sáu linh mục dòng Tên đã bị ám sát ở Salvador vì bênh vực những người  áp bức. một hồng y như Wyszynski ở Balan đã gặp nhiều khó khăn vì bênh vực Giáo hội, một hồng y khác như Tomasek ở Tiệp Khắc đã phấn đấu cho Giáo hội như lời ngài tuyên bố trước 200 ngàn người biểu tình tại Praha ngày 21/11/1989 và đã được đọc tại các nhà thờ ngày chủ nhật 26/11/1989.

Sau khi đề công chúa Anê miền Bohêmia của Tiệp Khắc vừa được Đức Giáo chủ Gioan Phaolô II phong lên hiển thánh là một người tuy tu trong một đan viện vì lòng mến Chúa yêu người, nhưng không ngừng ở cạnh dân mình trong những giờ phút vinh quang cũng như trong những lúc tủi phận, Đức hồng y Tomasek nói:

“Về phần tôi, tôi không thể nào tỏ ra xa lạ với định mệnh quốc gia chúng tôi và toàn thể đồng bào đất nước tôi. Tôi không thể im lặng trong lúc tất cả anh chị em đang hợp lực với nhau để phản đối những bất công mà anh chị em phải chịu từ 40 năm nay, người ta không thể duy trì lòng tín nhiệm đối với giới lãnh đạo quốc gia không muốn nói sự thật và đối bỏ các quyền tự do của nhân dân với truyền thống có từ hàng ngàn năm nay, những quyền này vẫn được coi là những quyền bình thường trong những quốc gia trẻ trung hơn trong đất nước ta.”

Rồi ngài kể lại bao nhiêu lần Giáo hội gởi đến Nhà nước những lời khiếu nại nhưng Nhà nước đã làm ngơ, Giáo hội tiếp tục lệ thuộc Nhà nước theo những điều hạn chế được áp đặt trên Giáo hội thời Staline. Trong việc cai quản giáo phận, các giám mục hoàn toàn lệ thuộc Nhà nước và lời nói quyết định trong vấn đề này dường như vẫn là lời nói của cơ quan mật vụ, những cuộc hội họp của các giám mục và linh mục đều bị cản trở vì sự hiện diện của các đại diện Nhà nước trong các buổi họp, bầu không khí thiếu tự do, các tín hữu trưởng thành cũng như con cái họ và nhất là các bạn trẻ công giáo thật khó thở…

Tình trạng đau buồn tương tự như thế cũng xảy ra trong các lãnh vực khác của đời sống, trong lãnh vực văn hóa, thông tin.

Rồi ngài kết luận: “Tôi muốn ngỏ lời với tất cả anh chị em trong giờ phút quyết liệt này của lịch sử của chúng ta. Không ai trong anh chị em được đứng ngoài lề. Hãy lên tiếng hợp với tất cả công dân Tiệp Khắc, cùng với những người thuộc sắc tộc khác, dầu họ là tín hữu hay không có ngưỡng. Quyền tự do tín ngưỡng không thể tách rời khỏi những quyền dân chủ khác, tự do là điều không thể phân chia được.”

Những lời tuyên bố trên đây của Đức Hồng y Tomasek làm cho tôi suy
nghĩ. Và tôi cũng để cho anh chị em suy nghĩ, sau khi tôi đã phân tích tình
trạng thiếu phấn đấu của Giáo hội Việt Nam cho tự do tôn giáo và cho nhân quyền
và dân quyền của người dân Việt nam hôm nay. Mong rằng Giáo hội Việt nam
sẽ sám hối về những điều thiếu sót đó.

Để kết thúc, tôi đưa ra lời nói cuối cùng của hồng y Tomasek trong buổi mít tinh kể trên. Ngài nói : “Tôi xin chấm dứt nơi đây với những lời đã từng vang dội đã lâu trong lịch sử của chúng ta: Với sự trợ giúp của Thiên Chúa, số phận của chúng ta ở trong tay chúng ta. “Amen”.

 

Lm. Chân Tín

Thánh Gioan Đamas, Tiến sĩ Hội Thánh

Thánh Gioan Đamas, Tiến sĩ Hội Thánh

Ngày 4/12

Thánh Gioan Đamas sinh tại Đamas vào khoảng năm 675. Cha ngài giữ một chức vị quan trọng trong triều đình và chính ngài lúc đầu cũng theo đuổi những vinh quang trần thế trước khi theo tiếng gọi trời cao (710). Ngài bỏ mọi sự, lên đường tìm một cuộc đời trầm lặng trong tu viện thánh Sabas tại sa mạc Giuđa và ngài đã sống ở đó cho đến mãn đời. Là thầy dòng, rồi linh mục, ngài đã chuyên tâm nghiên cứu thần học và giảng thuyết. Những suy tư của ngài đã tạo được một ảnh hưởng lớn tại Tây Phương cũng như Ðông Phương. Nhưng tác phẩm danh tiếng nhất của ngài là ba tập Minh Giáo (726-730) bênh vực việc tôn kính ảnh tượng, chống lại những ngăn cấm của hoàng đế Léon Isaurien và Constantin V. Ngoài ra, chúng ta còn lưu giữ được những bài giảng của ngài về Ðức Mẹ và ngài xứng đáng với danh hiệu “Tiến sĩ thần học về Ðức  Maria”. Ngài chủ trương: Là Mẹ Thiên Chúa hằng sống, Ðức Maria cũng phải
được đưa về trời… Hơn nữa, ngài còn là một thi sĩ, và những sáng tác của ngài thường được dùng trong phụng vụ Ðông Phương. Tư tưởng của ngài là những chất liệu giúp chúng ta suy nghĩ về mầu nhiệm nhập thể, Thiên Chúa yêu thương loài người.

Nguồn: Vietnamese  Missionaries in Asia
Maria  Thanh Mai gởi

 

ÁO DA,

ÁO DA,

Mẹ tặng cha cho chiếc áo da,
Mặc bốn mùa qua vẫn đẹp ra,
Thân con ấm lạnh cùng năm tháng,
Giữ mãi tình yêu đậm nét ngà…
Ngày đêm chải chuốt cho thêm sáng,
Nắng cháy mưa dầm chẳng dám than,
Băng rừng vượt dốc qua đồi núi,
Áo vẫn liền da thật mượt mà…
Đời con khắng khít cành liền lá,
Sống chết bên nhau chẳng nở xa,
Đồng lòng hợp tác không chia rẽ,
Áo mặc muôn ngày… áo Mẹ Cha…
Liverpool.3/12/2012.
Song Như.
Kính gởi Quý Thầy Cô và các bạn LVC.

Con Lu nhà tôi

Con Lu nhà tôi

Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích

Trong ba chú chó mới sinh, bà dì ở Ðà Lạt cho tôi một con và được chọn ưu tiên. Cả ba đều là chó đực nên chỉ cần lựa con nào có bộ lông đẹp nhất là đủ. Khi tôi ngồi sà vào ổ của ba chú chó chưa mở mắt, chợt con có màu lông xám, hai đốm vàng trên lưng ngúc ngoắc đầu đánh hơi bò về phía tôi. Nó đưa cái mõm mũm mĩm, ươn ướt ủi vào bàn chân của tôi. Cái đuôi cũn cỡn ngoe nguẩy như loài chuột xạ…

Hai tuần lễ sau tôi ghé thăm dì. Bầy chó đã mở mắt đang ngậm vú mẹ. Khi nghe
tiếng tôi trốc trốc, chú chó lông xám ấy bỏ vú mẹ bò vào lòng tôi. Dù màu lông
không nổi bật như hai con kia nhưng tôi thích cái tính thân thiện của nó ngay
từ giờ phút đầu.

Mang chó về nhà, con tôi chê màu lông nhớp nhem rồi tự động đặt tên là Lu. Dù
mới một tháng tuổi, nhưng khi rời chó mẹ về nhà tôi, Lu ít khi kêu đêm như
những chú chó con khác. Ban đầu cho Lu bú bằng bình sữa, rồi cho ăn sữa đặc đổ
vào đĩa. Chỉ ba tháng sau là Lu lớn như thổi.

Lai lịch của dòng họ nhà Lu cũng ly kỳ lắm. Jolie là tên mẹ của Lu, giống chó xù Nhật Bản, nhỏ con, chân thấp, dáng đi lũn cũn. Nó hay qua nhà láng giềng đùa giỡn với anh chàng berger to con, tai vểnh, đôi chân sau vạm vỡ. Một hôm, lũ trẻ đến trước nhà Dì tôi kêu giật giọng rằng là con Jolie bị con chó berger của ông Tư Ðợi tha đi khắp khu vườn. Dượng tôi hốt hoảng chạy sang. Những tưởng con berger đã cắn chết con xù của nhà dượng.. Nào ngờ cảnh tượng lạ lùng rất khó tin đã xảy ra: Con berger lẹo với Jolie nhỏ hơn nó gấp mấy lần. Vì là phần kết thúc sau “cuộc mây mưa” của loài chó, cho nên hắn tha con cái còn mắc cứng phía sau đuôi. Hai chân sau của con Jolie bị treo hỏng trên cao chỉ còn cái mõm và đôi chân trước bị kéo lê trên đất. Nàng kêu toáng lên khiến chàng đâm hoảng na chạy khắp vườn như na cái đuôi của mình trở nên nặng chình chịch. Kết quả cuộc tình giữa hai “chủng tộc”, nàng Jolie đẻ ra ba chú chó lai. Nhờ vậy mà đời con của nàng không còn mang dáng dấp thấp lè tè của loài
chó xù nữa.

Con Lu lớn lên bộ lông ngày càng đẹp. Màu xám của mẹ pha màu vàng của bố mướt mượt như nhung. Hai đốm vá màu vàng đậm nằm hai bên hông, thoạt trông như yên ngựa. Dù không to con lớn xác như bố nhưng con Lu cũng vượt trội hơn đám chó nhà. Chân cao, dáng đi oai vệ như loài hổ. Hai vai rộng, u thịt nổi vồng lên khi nó bước đi. Cặp mắt ánh lên màu lửa như có thần lực. Ðàn chó hàng xóm gặp Lu là cụp đuôi chạy dài. Sau này, những lần đi săn giải trí loanh quanh ở những khu đồi còn an ninh, tôi mới nhận biết loài chồn, loài thỏ thấy Lu là hồn xiêu phách lạc, đứng chôn chân tại
chỗ. Mỗi lần con tôi đi học về là dành nhau ôm Lu vào lòng. Tình cảm giữa chó
và người không hề phân biệt. Ngoài cái khứu giác bẩm sinh độc đáo của loài chó
có thể đánh hơi hàng mấy dặm, thính giác con Lu còn phân biệt được tiếng xe
quen thuộc của tôi từ xa. Nó nghểnh mõm, ve vẩy đuôi chạy ra trước sân. Nhìn cử
chỉ đó là nhà tôi đoán biết tôi sắp về đến nhà. Lu cạ vào chân tôi từ lúc xuống
xe đến khi tôi vỗ về âu yếm nó mới chịu đi nơi khác. Lu cũng cảm nhận khá nhạy
bén lúc tôi buồn bực hay giận hờn. Những lúc ấy nó nằm khoanh tròn nhìn tôi với
ánh mắt buồn xo. Ðến khi tôi vui vẻ trở lại là Lu chạy đến cạ lưng vào người và
liếm tay tôi như để hòa đồng niềm hân hoan với chủ.

*

Sau ngày “gẫy gánh 75”, tôi lên đường trình diện ban Quân quản thị xã. Tôi mang theo mười ngày gạo cùng ít đồ dùng, từ biệt vợ con với bao âu lo trong lòng. Khi bước ra khỏi cửa, con Lu cứ luấn quấn cản bước chân, tôi trực nhớ đến nó liền cúi xuống ôm Lu vào lòng. Ánh mắt ươn ướt buồn thiu của nó nhìn tôi chẳng khác gì đôi mắt của vợ tôi rươm rướm lệ. Lu liếm vào mặt tôi như quyến luyến từ biệt chủ phải đi xa lâu ngày. Trong tù, nhớ lại ánh mắt con Lu, tôi hiểu ra rằng loài chó còn có một giác quan đặc biệt, cảm tính rất nhạy bén về thái độ và tâm trạng của người gần gũi nó. Những tưởng mười ngày nửa tháng rồi quay về, nào ngờ cách biệt gia đình với thời gian dài hun hút. Tôi nhớ con Lu cũng tương tự như nhớ các con tôi. Nỗi lo ngại của tôi là lương thực ngày một khó khăn làm sao vợ tôi chạy đủ bữa cho đàn con bốn đứa lại thêm miệng ăn con chó.

Một ngày nọ, nhà tôi lên trại tù thăm, cho biết chú Dương Thái Lân, con của bà cô Út tôi từ Bắc về Nam có ghé thăm gia đình. Chú ấy bảo con Lu có cốt tướng nòi săn, muốn xin nó về đơn vị nuôi để săn mồi cải thiện thịt tươi. Lân là vai em nhưng lớn tuổi hơn tôi nhiều. Ði bộ đội từ trước 1954, sau tập kết ra Bắc được sang Tiệp Khắc học ngành cầu đường. Hiện là thủ trưởng đơn vị Công binh sửa đường ở Cao nguyên. Vợ tôi nhất quyết không cho con chó, lấy lý do phải qua ý kiến của chồng.

Một hôm, quản giáo trại gọi tôi lên văn phòng ban giám đốc. Một anh bộ đội mặc
áo quần đại cán ngồi trong phòng tiếp khách tay cầm một tờ tạp chí cuốn tròn.
Anh cán bộ thấy tôi vào, liền hỏi:

– Nguyễn Tấn đấy à?

Tôi ngập ngừng:

-Thưa vâng.

-Tôi là Dương Thái Lân.

Tôi à lên một tiếng để tỏ rằng mình biết hắn là ai. Thực ra, qua 21 năm ở Bắc
và mấy năm đi bộ đội Vệ Quốc Ðoàn làm sao tôi nhớ nỗi cái khuôn mặt ngày xưa
của thằng em con bà cô Út. Ðưa tờ báo cuốn tròn cho tôi, hắn bảo:

– Ngày trước anh cũng viết sách, làm báo dữ dằn đấy nhỉ?

Tôi mở cuộn báo thì ra là tờ Bán nguyệt san Quyết Tiến. Ðó là tạp chí do tôi trách nhiệm biên tập trước 75 do cơ quan USAID của Hoa Kỳ yểm trợ ngân khoảng
để in ấn phân phát cho các đơn vị Ðịa phương quân và Nghĩa quân.

Lân bảo:

– Tôi có đọc trong đó truyện dài “Nhật Ký Bích Phương” của anh viết đăng nhiều kỳ về Tết Mậu Thân 68. Viết bạo đấy chứ, theo đúng sách lược tuyên truyền chống cách mạng của Mỹ Ngụy.

Tôi giật mình và cảm thấy bất an.. Hắn đưa tay ra hiệu lấy lại cuốn tạp chí rồi
lên tiếng:

– Tôi có ghé nhà thăm chị Tấn. Giai đoạn này mà trong nhà còn nuôi con chó kiểu
tiểu tư sản. Anh không sợ cặp mắt của quần chúng hay sao?

Tôi than thở:

– Thời gạo châu củi quế,
nhà tôi phải chạy gạo cho bốn miệng ăn, nhưng vì nuôi nó từ lúc mới sinh nên
tình cảm gắn bó như thành viên trong gia đình.

Hắn ngắt lời:

– Tôi có đề nghị với chị cho tôi mang con chó đó về đơn vị để đỡ bớt khẩu phần
ăn cho gia đình nhưng chị bảo phải qua ý kiến anh. Mới nhìn là tôi biết nó thuộc giống chó săn quý hiếm và có thể chống lại cả thú dữ.

Tôi bực mình trước cái lối điếm lỏi, nhưng cố nén giọng:

– Nếu chú thích con chó thì về hỏi nhà tôi, quyền quyết định ở bà ấy.

Tôi đứng lên chào hắn rồi đi thẳng xuống trại.

*

Ðến kỳ thăm nuôi sau, bà xã tôi báo tin chú Lân đến nhà bắt con Lu đi rồi. Bỗng
dưng mắt tôi như nhòa sương, lòng xót thương con Lu vô hạn. Từ ngày vào tù, tôi
nghi ngờ tất cả những gì người ta nói. Giờ đây Lân bảo đem Lu về nuôi hay ăn
thịt chỉ có trời biết. Thấy mắt tôi rưng rưng ngấn lệ, vợ tôi an ủi:

– Lũ con mình cơm không đủ ăn mà phải nhường cho chó một ít, lòng em cũng xót
xa lắm. Nó thiếu ăn nên cả đêm chạy rông kiếm mồi đến sáng mới về nhà. Lông nó
ướt nhớp nháp, đầy bùn. Biết đâu có cơm bộ đội dư thừa thân nó sẽ mập ra. Mình
có giữ lại một thời gian sau cũng bị người ta đập chết làm thịt thôi. Xã hội
bây giờ thiên hạ ghiền thịt chó lắm, anh có biết không?

Hết giờ thăm nuôi, tôi đứng vào hàng. Nhìn đôi mắt nhòa lệ của vợ khiến lòng
tôi xót xa vô cùng. Cả đêm hôm đó hình bóng con Lu cứ chập chờn trong giấc ngủ.
Tôi mơ thấy đôi mắt buồn rười rượi của Lu nhìn tôi trong ngày ra đi như báo
hiệu rằng nó không còn dịp gặp chủ nữa. Cái cảm giác man mác êm êm của lưỡi nó
liếm vào mặt, vào cổ, giờ đây tôi vẫn không quên. Niềm tin gắng gượng nhỏ nhoi
vào lời hứa của thằng em con bà cô là xin con Lu để canh chừng thú dữ và săn
mồi. Vả lại, cái công khó của Lân đã lặn lội đường xa đến trại cải tạo để gặp
tôi nên cũng an ủi phần nào.

 

“Xã hội bây giờ thiên hạ ghiền thịt chó lắm, anh có biết không?”

Nguồn: vietnamaaa.numeriblog.fr

Ba tháng sau, vợ tôi với khuôn mặt hớn hở báo với tôi con Lu không còn ở với chú Thái Lân nữa. Tôi ngạc nhiên hỏi dồn. Nàng kể:

– Cách đây một tuần lễ, chú ấy bất thần đột nhập vô nhà mình không giữ kẽ như những lần trước. Chú dáo dác nhìn trước nhà, nhìn sau nhà, cả cái phòng ngủ của vợ chồng mình chú cũng ghé mắt quan sát. Ðột nhiên Lân hỏi:

– Con Lu có chạy về đây không chị?

Em sững sờ hỏi:

– Nó ở với chú mà?

– Tức lắm chị ơi, Lân ngồi vào cái ghế đặt ngoài hiên, nói tiếp: “Trước khi đi công tác Hà Nội, tôi gởi Lu cho chị nuôi lo ăn hàng ngày. Không ngờ các đồng chí trong đơn vị
lợi dụng lúc tôi vắng nhà, bắt con Lu làm thịt đánh chén. Chúng bỏ con chó vào
bao bố dìm xuống nước. Khi mở bao ra con chó không còn thở nữa. Họ yên chí ngồi
chờ nồi nước đang nấu cho thật sôi để cạo lông. Ca nước sôi đầu tiên tưới vào
lưng con Lu, bất ngờ nó vùng dậy chạy đi mất dạng. Lập tức các đồng chí ấy cầm
súng lùng sục các ven rừng nhưng chẳng thấy nó đâu nữa. Tôi yên chí con Lu sẽ
trở lại nhà chị vì nó vừa khôn vừa có sức mạnh khác thường. Tôi đánh giá thành
tích săn bắt mồi của con Lu rất cao. Nó thường xuyên bắt được chuột đồng, thỉnh
thoảng chồn hoặc thỏ. Mình có chất tươi thêm vào bữa ăn nên tôi quý nó lắm. Kể
xong, Lân đi ra xe xách vào một bao cát đựng đầy gạo, bảo:

– Ðây là số gạo tiêu chuẩn tôi đi công tác còn thừa, chị nhận cho các cháu bồi
dưỡng và thêm phần cho con Lu. Nếu nó có trở về đây xin chị báo tin cho tôi
biết.

Lân ra đi được một ngày.

Hôm sau, lúc chạng vạng tối, cả nhà đang ăn cơm, con Lu không biết từ đâu chạy
xồng xộc vào nhà, mình nó ướt đẫm mồ hôi. Trên lưng một vết phỏng to bằng bàn
tay lột hết lớp lông và đã bắt đầu làm mủ. Lũ con mình ôm con Lu vào lòng mừng
rơi nước mắt. Cả nhà phải nhịn một phần cơm cho nó. Loáng cái là nó vét sạch
đĩa cơm độn sắn. Lu ve vẩy đuôi, đưa lưỡi liếm từng người trong gia đình như để
điểm lại những người thân. Mấy đứa con mang Lu ra giếng chà xát xà phòng, tắm
rửa, bắt sạch ve vắt bám vào da. Em khui bình thuốc Peniciline rắc lên vết phỏng.
Chờ đến tối, em mang Lu về gởi cho ông bà ngoại vì biết thế nào chú Lân cũng
trở lại tìm chó. Ðêm đó, Lu cứ theo chân em đòi về, thằng Doãn phải ngủ nhà
ngoại để giữ con Lu ở lại. Em vuốt ve vỗ về:

– Con phải ở lại đây với ngoại. Lu không được theo mẹ về nhà, người ta sẽ đến
bắt con đi, biết hông?”. Lu vểnh tai nghe lời em dặn nên ngoan ngoãn nằm
trong lòng của Doãn mà không còn hậm hực đòi về nữa.”

Từ đó, hễ thấy người nào mặc áo quần xanh lá cây vào nhà là Lu chui dưới gầm
giường chìa đầu ra, nhe răng gầm gừ. Chỉ cần một cú giậm chân là đủ để nó phóng
ra vồ ngay. Sau lần thoát chết, con Lu nghi ngờ hầu hết mọi người, chỉ trừ gia
đình tôi và ông bà ngoại. Tính thân thiện của con Lu giờ đây không còn nữa.
Loài chó rất trung thành với chủ nhưng khi bị một lần đối xử tàn nhẫn với nó là
bỏ nhà đi luôn.

Gia đình ông bố vợ tôi tuy ở thị trấn nhưng vì là vùng đất đai đã tạo mãi từ trước khi trở thành thị tứ nên nhà cửa vườn tược rộng thênh thang. Tiếp giáp với vườn cây ăn trái là cánh đồng mía, nay thuộc hợp tác xã nông nghiệp. Lu không bao giờ ra trước
đường phố mà chỉ lùng sục trong vườn cây, ruộng mía sau nhà tha hồ bắt chuột,
chim chóc, rắn rít. Nó sống như một tử tù thoát ngục. Nó biết ngoài xã hội loài
người đang nhìn nó một cách thèm thuồng. Họ chỉ chờ cơ hội là biến thân xác nó
thành miếng nhừ, miếng mận.

Ngày ra tù, tôi vào thăm ông bà nhạc gia. Khi vợ chồng tôi vừa đến cổng nhà,
con Lu đánh hơi được từ trong nhà phóng ra chồm lên người tôi. Với sức nặng của
nó đã khiến tôi té ngồi xuống đất. Người nhà ngỡ con Lu tấn công kẻ lạ mặt nên
vội la lên: “Bố đấy Lu, tránh ra!” Nhưng không. Nó xoải hai chân trước đứng trên đùi tôi rồi đưa lưỡi liếm trên khắp mặt mày, tai cổ của tôi. Qua cơn hốt hoảng vì cú ngã bất ngờ, tôi hiểu ra con Lu đang mừng chủ. Tôi liền ôm chầm lấy nó rồi người và chó lăn lộn trên nền sân xi-măng. Cha mẹ vợ tôi vui mừng thấy con rể được ra tù. Hàng xóm đứng nhìn cảnh người vật ôm nhau, họ không tránh khỏi xúc động trong lòng.

Sáu tháng sau, nhà tôi sắp xếp cho tôi và thằng con trai lớn một chuyến vượt
biển. Tôi phải xin hộ khẩu ở nhà bà dì tận làng An Vĩnh gần mũi Ba-Tâng-Gâng.
Tôi có tên trong tổ hợp đánh bắt cá bằng lưới mành với ông dượng và mấy người
em bà con. Tôi dắt con Lu theo để tránh cặp mắt của láng giềng và tránh luôn
chú Lân bất thần đến nhà bắt gặp nó. Trước một ngày tới điểm hẹn, vợ tôi dẫn
thằng Doãn, con trai đầu lòng của tôi xuống nhà bà dì để chuẩn bị lên đường.
Sáng hôm sau, nhà tôi mang con Lu lên xe lam trở về nhà.

Ðêm 30 tháng hai âm lịch, trời không trăng nhưng rừng sao trên trời đủ soi rõ
đường đi trên bãi cát trắng lờ mờ. Hơi nước biển mát lạnh cùng với ngọn gió tây
thổi lồng lộng làm cho đám người trốn trong các bờ bụi rét run cầm cập. Họ cố
dõi mắt về hướng biển. Mười giờ… mười một giờ… đến mười hai giờ ba mươi
khuya, ánh đèn pin từ gành đá chợt nháy sáng báo hiệu ghe con đã đến. Tốp đầu
tiên gồm bốn người lần lượt tiến ra gành đá. Tiếp theo là hai cha con tôi cùng
hai người ở cánh bắc cũng xuất hiện. Cuộc “ra quân” âm thầm nhưng
đúng theo thứ tự ấn định. Còn mười phút nữa mới đến tốp cuối cùng. Bỗng, phía
sau làng có tiếng chân người chạy rầm rập rồi tiếng súng nổ loạn xạ. Toán đầu
quay trở lại chạy tản mác vào xóm. Hai người cánh bắc cũng thế. Riêng tôi chạy
băng qua gành rồi luồn vào lùm cây đước. Thằng Doãn, trước khi đi tôi đã dặn dò
kỹ lưỡng. Nếu họ bắt được là cứ khai đi một mình đừng để liên lụy đến Ba. Toán
du kích chia nhau chạy lùng trong xóm. Một du kích đuổi theo Doãn, đến gần bìa
làng hắn chộp được cổ con tôi. Thằng bé la toáng lên: “Thả tôi ra, thả tôi
ra”. Anh du kích xách thằng bé lên cao. Tay chân nó không ngừng giẫy giụa.
Chợt, một bóng đen từ trong hàng dừa phóng ra nhảy chồm lên bám vào cổ anh du
kích. Con chó! Tôi thầm kêu lên. Nó tấn công khá bất ngờ khiến anh ta đánh rơi
cây súng và buông thằng nhỏ để đánh vật với con chó. Anh ôm đầu con chó nhưng
răng chó càng lúc càng lún sâu vào cổ như con quỷ Dracula đang hút máu người.
Hắn kêu cứu. Một lúc sau mới có đồng đội đến tiếp sức. Con chó cũng vừa nhả ra
chạy vào trong xóm. Một loạt súng của người mới đến bắn đuổi theo. Tôi nghe
tiếng ăng ẳng của chó từ trong xóm vọng ra. Một nghi ngờ thoáng qua, chẳng lẽ
con Lu ? Nhưng tôi yên tâm ngay bởi con Lu đã được vợ tôi dẫn về nhà trong ngày
hôm trước. Núp trong đám cây đước tôi quan sát đầy đủ cảnh chó và người vật
nhau. Con chó xuất hiện trong bóng đêm chớp nhoáng như loài sói vồ mồi. Hình
ảnh con chó ngoạm cổ anh du kích, tôi liên tưởng đến ma cà rồng đội lốt chó để
hút máu người. Nhưng dù ma hay chó tôi cũng thầm cảm ơn nó đã giải cứu cho con
tôi và giải thoát được bao nhiêu người.

Tôi về đến nhà lúc tờ mờ sáng nhờ chiếc xe Honda thồ đi kiếm khách sớm. Tắm rửa thay áo quần xong, chợt nhớ đến con chó. Tôi hỏi vợ:

– Con Lu đâu?

Bà ấy bảo:

– Khi xe lam vừa đến ngả ba quốc lộ, con Lu vọt xuống xe chạy ngược theo con
đường về hướng biển. Em nghĩ nó trở lại với anh và con. Nếu có điều gì không
may xảy ra cho nó thì em biết làm sao bây giờ. Tôi nhìn vợ buông tiếng thở dài:

– Thôi rồi!

Tôi nghĩ ngay đến tiếng kêu đau đớn của chó vang lên sau tiếng súng. Con Lu có thể chết vì loạt đạn bắn theo. Tôi cảm thấy đau xót vô cùng.

Chờ trời tối hẳn, dì tôi mướn xe Honda thồ đưa Doãn về với chúng tôi. Vợ tôi ôm
con vào lòng, khóc thút thít:

– Giờ con đã thoát được về đây với mẹ cùng các em. Từ nay trở đi, đói no, chết
sống mẹ nhất quyết không để gia đình ta chịu cảnh phân ly.

Doãn nhìn tôi hỏi:

– Ba có thấy con Lu không?

Chẳng đợi tôi trả lời, Doãn quả quyết:

– Lúc ông du kích buông con ra, trước khi chạy trốn, con có quay lại nhìn thấy
con Lu đang ngoạm cổ ông ấy.

– Như vậy là con Lu đã chết vì loạt đạn, không còn nghi ngờ gì nữa. Tôi kết luận. Các con tôi đứa nào cũng rưng rưng nước mắt. Tôi an ủi:

– Dù sao thì mình đã dành tình thương và chăm sóc Lu như con trong gia đình. Nó
có chết cũng là cái chết có ý nghĩa, một nghĩa cử vô cùng cao quý của loài chó
không khác gì con người.

*

Cả nhà đang say ngủ. Ðột nhiên, tôi nghe tiếng cào sột soạt vào cánh cửa trước.
Im ắng một hồi lâu, tiếng cào lại nổi lên lần nữa. Ghé mắt nhìn ra ngoài, tôi
chẳng thấy gì cả. Chỉ có bóng đêm bao trùm và sương mù dày đặc phủ đầy trời.
Tôi thiếp đi một chốc. Tiếng sột soạt nổi lên lần thứ ba. Lần nầy lâu hơn và ở
ngay cánh cửa hông. Tôi vội bật đèn lên, hé cửa nhìn ra. Hốt hoảng, tôi kêu
lên:

– Em ơi, con Lu trở về.

Cửa mở toang, Lu đi khập khiễng vào nhà. Tôi ôm Lu vào lòng và nước mắt tôi
tuôn trào. Tôi khóc vì vui mừng và khóc vì thương nó quá đỗi. Bầy con tôi xúm
vào quấn quýt bên Lu. Máu khô bê bết trên mông và đùi trái của nó. Một viên đạn
ghim vào đùi sau, rất may là không đụng xương. Tôi rửa sạch vết thương bằng
rượu cồn, xoa thuốc đỏ rồi băng kín vết thương lại.

Từ năm 1986 chính sách đổi mới, thị trấn quê tôi bắt đầu có sinh khí trở lại.
Chẳng bao lâu sau, nơi đây buôn bán sầm uất. Cửa hàng tư nhân được mở ra tranh
đua cùng với cửa hàng quốc doanh. Ðời sống có phần dễ thở hơn.

Sau trận chiến biên giới Việt Trung năm 1979, Dương Thái Lân và cả đơn vị công
binh được điều động đến vùng thượng du Bắc Việt. Vì thế con Lu sống thoải mái
với chúng tôi không còn lo lắng gì nữa.

Ðến tháng 7 năm 1991, gia đình tôi lên đường đi Mỹ theo diện tỵ nạn HO8. Con Lu
cũng vừa tròn 18 tuổi. Nó đã quá già chỉ lẩn quẩn trong nhà. Nhưng khi có khách
đến là nó vẫn không quên chạy vào gầm giường.

Ngày gia đình tôi vào Sài Gòn để lên máy bay, tôi cho Lu theo đến ga xe lửa
cùng với bà con đưa tiễn. Khi còi tàu hụ từ xa, Lu đứng dậy sủa vang cả khu vực
nhà ga. Trước khi lên tàu, mỗi người trong gia đình chúng tôi đều thay nhau ôm
Lu vào lòng, rưng rưng, lưu luyến. Khi tiếng còi báo hiệu tàu chuyển bánh, con
Lu nhìn đoàn tàu rồi tru lên một tràng dài. Ðây là tiếng tru lần đầu tiên trong
cuộc đời 18 năm của nó. Tôi rùng mình. Tiếng tru thật áo não tưởng chừng như
lời trối trăng vĩnh biệt của Lu nhắn gởi.

Con Lu không chịu về nhà nữa. Nó lẩn quẩn ở khu vực nhà ga cho đến một ngày vào mùa Ðông rét buốt, Lu nằm chết bên đường rầy xe lửa, nơi mà chúng tôi đã ôm hôn nó trước khi bước lên tàu. Nguồn: mt.gov.vn

Khi qua Mỹ rồi, chúng tôi được thư nhà cho biết, con Lu không chịu về nhà nữa. Nó lẩn quẩn ở khu vực nhà ga cho đến một ngày vào mùa Ðông rét buốt, Lu nằm chết bên đường rầy xe lửa, nơi mà chúng tôi đã ôm hôn nó trước khi bước lên tàu.

Hay tin Lu chết, con tôi ôm nhau khóc. Nước mắt chảy ròng ròng như khóc thương
một người thân đã ra đi vĩnh viễn. Riêng tôi thầm nghĩ: “Cũng may là nó đã
quá già yếu, thân chỉ còn da bọc xương nên được chết toàn thây. Dù muốn dù
không nhân viên nhà ga cũng phải chôn xác Lu ở một nơi nào đó trong lòng đất.
Ðất mãi mãi ấp ủ thân xác nó và ngàn vạn năm sau biết đâu bộ xương của Lu sẽ
hóa thạch tồn tại mãi trên mảnh đất Việt Nam .”

Tôi khóc âm thầm trong đêm như khóc cho đứa con của tôi còn để lại quê nhà nay
không còn nữa. Suốt mấy đêm liền tôi nghĩ về Lu như nghĩ về một con người quả
cảm và thủy chung.
nguồn: Anh Nguyễn văn Thập gởi

nguồn: motgocpho

Nạn buôn trẻ em qua một nhân chứng và cũng là nhà họat động

Nạn buôn trẻ em qua một nhân chứng và cũng là nhà họat động
Thanh Trúc, phóng viên RFA, Bangkok
2010-02-04
nguồn: RFA
Vấn nạn buôn bán trẻ vào đường mãi dâm mà điểm phát xuất là từ Việt Nam hay từ Kampuchia, với điểm đến là những quán gái những ổ mãi dâm trá hình bên  Campuchia, được trình bày nhiều lần dưới nhiều hình thức trên mục Đời Sống Người Việt Khắp Nơi.
AFP photo
Em bé gái Việt Nam được cứu thóat khỏi một nhà chứa
Vết thương không lành
Càng tìm hiểu Thanh Trúc càng không dám quả quyết mình đã đi tới cùng đích của vấn đề, bởi theo yêu cầu của các tổ chức ngoài chính phủ thì rõ ràng từ bản chất sự việc được trình bày đã có cái giới hạn nhất định của nó, trong lúc đã đi, đã tới và đã thấy thì thực tế và sự cảm nhận ở trên mức độ  kinh hoàng đau xót hơn. Đó cũng là nỗi khó khăn của những tổ chức NGO ngoài chính phủ đang hoạt động công khai hay bán chính thức ở Xứ Chùa Tháp.
Hơn một lần Thanh Trúc từng hứa cùng quí vị là ngày nào còn những nạn nhân khốn khổ và nhỏ tuổi sa vào những cái bẫy tăm tối âm u bên xứ  Chùa Tháp  hoặc bất cứ nơi đâu, ngày ấy vết thương còn nhỏ máu vẫn phải được khơi lại.
Trở lại với mục Đời Sống Người Việt Khắp Nơi, linh mục Martino, một tiếng nói , một nhà hoạt động tích cực trong công việc phòng chống tệ nạn buôn bán trẻ vào đường mãi dâm, đặc biệt tập trung vào trẻ em Việt Nam, trình bày cùng quí vị về chuyến đi Kampuchia vừa hoàn tất,  về tổ chức One Body Village, Một Thân Hình, tổ chức phi chính phủ ở Hoa Kỳ đã âm thầm làm việc bao năm qua ở Kampuchia. Những nỗi khó khăn , nếu không muốn nói là khổ tâm, những cái được cái mất, của One Body Village nói riêng và những tổ chức ngoài chính phủ nói chung liên quan đến nổ lực phòng
chống tệ nạn thiếu nhi mại dâm ở đất nước Kampuchia.
Mục đích của chúng tôi là giúp trẻ em Việt Nam đang làm nô lệ tình dục ở Kampuchia và Việt Nam. Tại Kampuchia và Việt Nam chúng tôi có những căn nhà để nuôi dạy cũng như để cứu các em cũng như làm những công việc liên quan mà có thể ngăn chận tệ nạn đó.Nhưng mà đối với chính phủ Việt Nam và Kampuchia thì chúng tôi không có một cái tên tuổi gì cả.
Lần này mình qua bên đó dự tính là đi sáu ngày nhưng chúng tôi đã trở về trước một ngày bởi vì, không biết là dùng chữ thất bại hay thành công. Trên một góc nhìn nào đó thì chúng tôi đã thất bại, có nghĩa là chúng tôi quay trở lại những chỗ mà năm ngoái chúng tôi đi cũng như đã mười năm nay chúng tôi đi, thì gần như những chỗ đó không còn gì. Những  quán xá đó, những cái ổ , những động điếm những quán cà phê không còn đó nữa.
Cái thất bại là chúng tôi nghĩ nhưng có thể đó cũng là niềm vui, có thể là đã có quá nhiều người  nói đến thành họ đóng những cái ổ đó và phải di chuyển ra những chỗ khác.
Chúng tôi chỉ tìm được ở đó một chỗ mới, tôi đi vào đó thì cũng chỉ có vài em mà thôi. Nhưng mà trong  lần này tôi về thì cũng giống như năm ngoái, tức là khó mà đào sâu những gì mình có thể làm được. Chúng tôi thất bại là  không làm được cái gì nhiều cho các em, nhưng mà trên phương diện khác chúng tôi thành công, chúng tôi
nghĩ họ đã biết
Biến hình đổi dạng chứ không chết
Như vậy thì chắc  phải có một kết quả tốt đẹp nào đó rồi, cớ sao vẫn còn điều gì ưu tư khắc khoải trong từng lời nói của linh mục Martino? Mời quí vị nghe ông chia sẻ tiếp:
Mình nghĩ nó như vầy, tức là nó bị  động , quốc tế lên án rất nhiều. Giống như kỳ này mình đi mình chụp được rất nhiều hình, những bảng quảng cáo khắp nơi để bảo vệ trẻ em, những bảng quảng cáo trên những chiếc xe “túc túc” dọc hai bên đường, những cái áo của người dân. Thì quốc tế nhảy vô rất nhiều, tôi nghĩ là tiếng nói của quốc tế đánh vang cho nên họ phải rút lui ra phía đằng sau. Nói chung chúng ta đừng hy vọng là nó chết, nó tạm thời trở nên khó
và nó nằm im đó thôi.

Trẻ em thậm chí được rao bán trên internet
Trẻ em thậm chí được rao bán trên internet
Đến lúc này thì những trở ngại của các tổ chức ngoài chính phủ ở Kampuchia mới được hé lộ:
Tháng Mười tháng Mười Một năm 2009,  một số tổ chức phi chính phủ của nước mà có liên quan đến việc giúp các trẻ em đó thì đã bị chính phủ Kampuchia đóng cửa, họ kết án mình vô những cái tội đại khái là phản động, họ đuổi mình ra khỏi nước Kampuchia.
Mình không nói chuyện trực  tiếp với các tổ chức phi chính phủ đó nên không dám trả lời một cách rõ ràng. Nhưng theo cái nhìn của mình là người bên trong mười  một năm nay tiếp tục những công việc đó  thì mình nghĩ nó như vầy: bởi vì chúng ta đã làm những tiếng vang quá lớn. Những tổ chức đó cũng như tổ chức của chúng tôi,
tổ chức Một Thân Hình, đã làm những tiếng vang quá lớn và họ bị ảnh hưởng quá
nhiều trước quốc tế. Họ phải đuổi chúng tôi ra
Chẳng hạn như những cái nhà chúng  tôi nuôi các em , đại khái mỗi nhà chúng tôi gởi mấy em thôi, cái nỗi buồn lớn nhất, cái thật sự đau xót của chúng tôi là lần này chúng tôi trở về thì bốn  cái nhà ở Kampuchia và cả bốn người  đứng đầu đã bị bắt. Các em của tôi tản mát khắp nơi, các con cái của chúng tôi chưa, đang ngồi nói chuyện đây mà cảm thấy rất đau khổ là con cái của chúng tôi tản mát khắp nơi và tôi chỉ có thể liên lạc được với một đứa con trong tất cả những đứa  chúng tôi
nuôi.
Sẽ là một cuộc chiến không ngừng
Nếu được cứu về mà nay tản mát khắp  nơi thì có thể nói theo nhận định của các tổ chức ngoài chính phủ là các em đã và đang có nguy cơ rơi trở lại vào con đường cũ:
Không phải nguy cơ nữa mà điều đó  đang xảy ra bây giờ với những đứa con của mình. Đó là cái niềm đau  không phải chỉ những người  trong tổ chức Một Thân Hình mà tất cả những tổ chức phi chính phủ nào đã bỏ nhiều thời giờ, công sức, tiền bạc, thời gian  và cả tình yêu của mình vào đó. Đó là nỗi đau mà chắc chắn không có viên thuốc nào có thể xóa được

Cô Sina Vann một nhân chứng sống của nạn buôn bán trẻ em
Cô Sina Vann một nhân chứng sống của nạn buôn bán trẻ em, nói chuyên ở Washington DC
Đó là công việc của linh mục Martino và One Body Village ở Kampuchia mười  mấy năm nay mà chừng như bây giờ đang bị khựng lại.
Chúng tôi gắng làm cái gì có thể làm  được, chúng tôi liên lạc với một hai xơ ở bên Kampuchia, ngồi xuống nói chuyện để xem chúng tôi có thể qua tay họ để làm được những gì.
Trở về Việt Nam, về những vùng có  nguy cơ cao nằm sát biên giới Kampuchia, nơi mà chỉ một phút làm ngơ một giờ quên lãng một đứa bé nhiều đứa bé bị đẩy qua  đất nước bên kia với giá vài trăm đô như Sina Vann Nguyễn Thị Bích đã kể cho quí vị nghe trong bài trước.
Đa số dân quê ở đây nghèo thật là nghèo, linh mục Martino xác nhận. Từ lâu, tổ chức One Body Village Một Thân Hình Hình giúp cha mẹ nghèo ở Việt Nam bằng cách hổ trợ phương tiện để họ buôn bán nhỏ lẻ, kiếm huê lợi hầu bảo đảm  cái ăn cái mặc hàng ngày cho mình và cho con cái, để họ đừng phải mang con đi bán cho người ta.
Theo Free The Slaves, Giải Phóng Nô  Lệ, một tổ chức phi chính phủ ở Hoa Kỳ, hiện toàn thế giới có hai mươi bảy triệu nô lệ thực thụ, một phần ba trong số này là trẻ em, là những nô lệ tình dục nhỏ tuổi.
Những nạn nhân khốn khổ này, Free The Slaves khẳng định, phải vắt kiệt sức lực nhỏ bé của mình ra để phục vụ những ông những bà chủ bất lương , những khách mua hoa bệnh hoạn mà  không được trả lương, cũng không biết đường nào để chạy trốn cái cảnh bạo hành lạm dụng mà các em phải hứng chịu.
Nhưng rồi Free The Slaves Giải Phóng Nô Lệ vẫn đoan chắc một điều là nhân loại có thể chấm dứt tệ nạn nô lệ tình dục kinh khủng đó.  Linh mục Martino nói ông đồng ý với nhận định của tổ chức Free The Slaves, là ánh sáng chắc chắn ở cuối đường hầm.
Nhưng con đường hầm đó rất là dài mà chúng ta mỗi người phải thắp  lên ánh sáng. Giống như chạy marathon vậy đó, là người này thắp rồi người bên cạnh tiếp tục thắp và ánh sáng cuối đường hầm nó vô cùng sáng. Nhưng điều đó hoàn toàn tùy thuộc vào tôi vào chị vào tất cả những người đang nghe. Khi mỗi người  chúng ta nghe được và thắp lên một ngọn nến thì tôi tin tưởng chắc chắn không phải là một hy vọng mà là một bảo đảm rằng trong một ngày rất gần chuyện đó không còn nữa.
Vừa rồi là linh mục Martino, người  đang phấn đấu không mệt mỏi trong công việc phòng chống tệ nạn buôn trẻ Việt Nam vào đường nô lệ tình dục.
Thanh Trúc kính chào tạm biệt quí vị.

Ta như kẻ hoài nghi đành bỏ cuộc

Ta như kẻ hoài nghi đành bỏ cuộc

Đăng bởi cheoreo2 lúc 5:00 Sáng 5/12/12

nguồn: chuacuuthe.com

VRNs (05.12.2012) – Úc Đại Lợi – Suy niệm Lời Ngài đọc vào Chúa Nhật thứ Hai Mùa Vọng năm C 09.12.2012

“Ta như kẻ hoài nghi đành bỏ cuộc,”

“Ngôn ngữ buồn, khánh kiệt cửa tim đau”

(Dẫn từ thơ Vương Ngọc Long)

Lc 3: 1-6

Hoài nghi chăng, chuyện hoàng-đế rất thượng thừa, nơi đất trời lồng lộng xứ nhà vua. Chẳng ngờ vực, thánh sử nay trình thuật việc Chúa tin tưởng dân con hết mọi người, nên vẫn dạy.

Thánh Luca trình thuật lời dạy của Chúa vào cuối thế kỷ thứ nhất hoặc ở đầu thế kỷ thứ hai sau Công nguyên. Cũng có thể, thánh nhân trình thuật từ vùng Tiểu Á, nay là Thổ Nhĩ Kỳ. Thánh sử trình và thuật cho dân ngoại nay thành tín hữu chuyên chăm sống cuộc sống gắn bó, có thực thi lời dạy của Chúa. Bởi, dân gian trong vùng vẫn quen sùng bái thần-hoàng-đế cai-trị toàn đế-chế.

Đế chế La Mã thế-kỷ đầu, có dân gian mọi người qui về một mối, vẫn coi Augustus như thần-linh mặc xác phàm. Công đầu của ông, tuy chính-trị, vẫn kết hợp được mọi người để họ có cùng thần linh, hệ-thống giá trị rồi đưa vào truyện kể thời ấu thơ của ông. Những là: mẹ ruột cưu mang ông theo cách lạ kỳ; và, khi sinh ra ông đã được gọi là vua-cha cai quản cả đế quốc.

Ngày sinh ra, đã có mục đồng quẩn quanh xướng hát, tụng ca thật rôm rả. Ngày sinh ra, ông đã được mọi người coi như “Tin vui/mừng” cho mọi người. Bởi, trẻ Augustus được ca tụng như cha-già dân-tộc, đấng cứu tinh toàn thế giới và còn được coi như lãnh chúa, của đế-chế. Thế nên, ông được mọi người coi như đấng bậc đem hoà bình rất mới đến với dân con thời đó. Và, ông còn được coi như thế tử của Đức Chúa Ông, cũng rất mừng.

Năm lên 12, ông đã chứng tỏ mình có khả năng siêu việt, rất dị  biệt, chẳng ai sánh tày. Hoàng-đế Augustus tuy băng hà vào năm 14 sau Công nguyên, nhưng cung cách tư-duy/xử thế của ông vẫn được nối tiếp qua các  hoàng-đế, hệt như thế. Cuối thế kỷ đầu, hoàng đế Domitian lại cũng truyền lệnh cũng một kiểu như thế với dân con mọi người cả với người dấn bước theo Đức Kitô cũng sùng bái chính ông ta.

Nghe chuyện trên, hẳn người Công giáo chúng ta đều kinh khiếp. Kinh và khiếp, là bởi ta quen đọc Phúc Âm Đạo mình thấy ngôn từ cùng ý tưởng ở truyện kể vốn chỉ nên áp dụng độc quyền cho Thiên Chúa và Đức Kitô thôi ư? Không hẳn thế. Truyện kể ấy, đã thành chuyện thường ngày ở La Mã và nhiều nơi, lại vẫn được kể bằng ngôn từ/tình tiết rất thân quen. Nó đã trở thành kho tàng quí báu nơi ngôn ngữ doanh thương/mậu dịch với người ngoài, từ lâu.

Và, thánh Luca đã thuật lại Tin Mừng của Chúa đúng vào thời hoàng đế Domitian hoặc sau đó, lúc mọi người bên Đạo đều chối từ sùng bái thần-hoàng, nên tuẫn tiết. Và, sách Khải Huyền thánh Gioan cũng được viết vào thời này, đã cho thấy thứ ngôn ngữ được khuất kín để rồi con dân Chúa sẽ còn gặp rắc rối hơn trước nhiều.

Thánh Luca, lại có lập trường chính-trị chống lại việc thờ bái thần-hoàng, chống cả Hoàng-đế lẫn tôn giáo của riêng ấy. Thánh sử biết ngọn ngành ngôn ngữ “thánh” là để chỉ Hoàng-đế La Mã mà thôi. Nhưng, thánh sử không dùng lời lẽ thánh thiêng ấy để chỉ ông ấy mà cốt để nói về Đức Giêsu, là Chúa mọi người, không chỉ người của đế quốc La Mã, thôi.

Thánh sử nói: sùng bái thần-hoàng không thể là đường lối để ta áp dụng, mà chỉ có niềm tin vào Đức Giêsu Kitô mới xứng đáng để ta làm thế. Thuật lại Tin Mừng như thế, thánh Luca đã tìm được chỗ đứng xứng đáng cho Đức Giêsu để Ngài ngự trị trong cung lòng rộng mở của người La Mã cũng như Hy Lạp, thời đó.

Với thánh Luca, niềm tin không chỉ dựa trên những gì là đặc biệt, hoặc ngoại lệ thôi.

Thành thử, muốn cho mọi người dễ chấp nhận đường lối tư duy rất mới này, thánh Luca nghĩ: ông phải sử dụng các truyện kể phổ cập về hoàng đế Augustus vào lúc đó và ông đã xây dựng truyện kể song hành về Đức Chúa, rất Giêsu. Thánh-sử viết về Đức Giêsu theo kiểu đó, là cốt đem đến cho Đức Chúa một cung cách theo kiểu tiểu sử tương tự như hoàng-đế Augustus từng có, nhưng thánh-nhân còn muốn nhấn mạnh hơn tính chất rất “con người” của Đức Giêsu, về sự thật. Chứ, không chỉ mối tính chất rất thánh thiêng của Chúa, thôi.

Người đọc lâu nay nghe rất quen hai chương đầu ở Tin Mừng thánh Luca, đặc biệt là trình thuật về thời khắc có Giáng sinh, như mùa này. Điều mà thánh sử Luca còn muốn nhấn mạnh hơn nữa là định vị Đức Giêsu là Đấng duy nhất chỉ mình Ngài mới xứng hợp mọi danh dự lâu nay con người vẫn dành cho Hoàng đế.

Các truyện do thánh-sử kể cho ta nghe trước khi kể về cung cách Chúa Giáng Hạ -và cả truyện kể về thánh Gioan Tẩy Giả nữa- thánh Luca đều bắt đầu bằng câu: “Số là vào những ngày thời Hêrôđê, vua xứ Giuđê…” (Lc 1: 5) Nhưng khi kể về việc Chúa Giáng Hạ, thánh-nhân lại viết những giòng chữ như: “Trong những ngày ấy, Hoàng đế Augustus ra sắc chỉ ban hành lệnh kiểm tra toàn thể thiên hạ…”(Lc 2: 1) là thánh-sử muốn nối kết Đức Giêsu là người Do-thái với truyện hoàng-đế Augustus, là người La Mã. Nên, ở đây ta cũng thấy khó mà hiểu nổi lệnh kiểm tra này theo tính sử học. Bởi, làm sao khi ấy mấy ai có được khả năng khiến bắt mọi người trong đế quốc và trên toàn thế giới lúc đó lại có thể về nơi mình sinh hạ để kiểm tra được?

Thánh Gioan Tẩy Giả, như phụng vụ hôm nay có trích dẫn, cũng ở trong tình huống chính trị hệt như thế. Ta cứ nghĩ, rằng: thánh-nhân đây chỉ thực hiện một cuộc thanh tẩy giản đơn như đang làm ở nhà thờ nơi đây, lúc này thôi. Nhưng kỳ thực, thánh-nhân đã không làm như thế. Thánh nhân chỉ mỗi tụ họp mọi người về với giòng sông Gio-đan rồi dẫn họ đi vào giòng chảy rồi hụp lặn ở đó như động thái tẩy sạch bụi trần rồi bước qua sông để về đất miền đầy hứa hẹn mà đòi cho được đất miền của mình, do Chúa hứa tặng. Sự thể là, đất miền ở nơi đó lâu nay bị chiếm hữu và dân quân La Mã đã trụ trì, cũng khó đòi. Thánh Gioan khi ấy chỉ là nhân vật lịch sử rất chính trị. Thánh nhân, là đấng bậc sáng chế ra các nghi thức mang tính chính trị ở trong đó.

Thánh Luca, nay lại nói lên một ẩn dụ hàm ngụ tính chất “chính trị của Đạo Chúa” rất chính đáng bằng những lời ca mà thánh-sử gửi đến với ta ngang qua Đức Mẹ, là Mẹ của Chúa, đang lúc cưu mang Chúa, là Đấng cứu độ muôn dân. Và, Mẹ cũng qua đó đi vào với “chính trị” của Thiên Chúa, Giáo hội ta gọi đó là bài ca “Xin Vâng”. Qua bài này, Mẹ đã nói lên rằng Thiên Chúa sẽ làm một số việc ngang qua Con của Mẹ, là Đức Giêsu. Một số việc, bao gộp toàn bộ ý định của Thiên Chúa, trong đó có hành xử:

· Làm tan tác lũ kiêu căng

· Hạ kẻ quyền năng khỏi ngôi báu

· và suy tôn những người khiêm hạ

· Đói khó Ngài cho no phỉ sự lành

· Giàu sang Ngài xua đuổi về không

Một số việc, không là những ý tưởng đạo đức, sốt sắng, mà là thứ “thuốc nổ” rất chính trị. Là, khó khăn của mọi thời, như:

· Lòng tự hào, kiêu hãnh;

· Kẻ quyền năng thiếu công bằng và sự bất công;

· Sự bức bách người khiêm hạ ở dưới thấp;

· Áp lực từ kẻ giàu sang chỉ muốn chất chồng thêm của cải..

Các vấn đề như thế vẫn trải dài nơi Tin Mừng thánh Luca và nhất là  hai chương đoạn nói về thuở thơ ấu của Hài Nhi Giêsu. Chương đoạn đó không dành cho trẻ nhỏ, mà là thứ chính trị lớn cho người đứng tuổi. Bởi, với Giáng sinh, chỉ hiện thực khi nào ta ta đem nền chính trị lớn của Đạo tháp nhập vào với cảnh trí thế giới, mới được.

Bởi, Tiệc Thánh Thể ta tham gia, đều có nghĩa như một cam kết, rằng: các nhà cầm quyền phải nhận ra rằng: của cải/tiền bạc trên thế giới đều thuộc mọi người dân trong đó và phải phân phối đều cho họ. Phải dành ưu tiên phân phát cho người bị bỏ rơi ngoài xã hội và người đói khát nghèo hèn cần thức ăn. Thế mới là món quà Giáng Sinh xứng hợp. Đúng ra, đó không phải là quà cáp hay quà tặng, mà là công nhận quyền lợi căn bản của con người. Quyền làm người. Thành thử, mùa Vọng là mùa nên sắp xếp suy tư mang tính đợi chờ có lợi cho người không được liệt kê trong danh sách những người được hưởng thụ.

Hiểu được thứ chính trị nhà Đạo rất chờ đợi, cũng nên ngâm lại lời thơ trên, rằng:

 

“Ta như kẻ hoài nghi đành bỏ cuộc.

Ngôn ngữ buồn, khánh kiệt của tim đau.

Ta vắt cạn tận cùng trong nỗi nhớ.

Bóng Em về, tha thướt quẩn quanh đâu.”

(Vương Ngọc Long – Đêm Nguyệt Quỳnh)

Hoài nghi hay bỏ cuộc, vẫn cứ chờ. Chờ, ngày Chúa đến Ngài sẽ “tha thướt”, “quẩn quanh”, “trong nỗi nhớ”. Nhớ rồi, ta sẽ cương quyết rao truyền thứ chính trị nhà Đạo rất nhân đạo, nhẹ nhàng của dân con. Mãi mãi.

 

Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh

Mai Tá luợc dịch

Cha Stêphanô Chân Tín với những năm bị quản thúc

Cha Stêphanô Chân Tín với những năm bị quản thúc

Đăng bởi cheoreo lúc 1:00 Sáng 5/12/12
nguồn: chuacuuthe.com

VRNs (05.12.2012) – Sàigòn – Sau 3 bài giảng sám hối vào Mùa chay năm 1990 tại Đền Đức Mẹ HCG Sàigòn, cha Stêphanô Chân Tín, DCCT đã bị nhà cầm quyền quản thúc 3 năm tại xã Cần Thạnh, huyện Cần Giờ. Chính trong thời gian khó khăn tại đây, Thiên Chúa đã chọn ngài cho một sứ vụ mới.

Trong thánh lễ đặt viên đá đầu tiên xây dựng nhà thờ An Thới Đông tại huyện Cần Giờ (27.3.2004), trong bài diễn văn, cha Stêphanô Chân Tín kể lại như sau: “Đầu thập niên 80, một người trong xã thuộc ấp An Hòa là anh Nguyễn Văn Bạc bị đưa đi học tập cải tạo. Trong trại anh gặp những người Công giáo tốt. Anh được giới thiệu đến DCCT Sàigòn. Tại đây, cha Bạch Văn Lộc cùng thầy Đỗ Minh Hạo đã nhận giúp anh học Giáo lý. Sau đó, các anh chị Legio từ Sàigòn tới An Thới Đông để chia sẻ, nâng
đỡ đời sống đức tin của anh và tiếp tục dạy giáo lý cho gia đình anh, cho bà mẹ
và vợ chồng con cái người em trai của anh tất cả là 13 người. Con đã ban bí tích Rửa tội cho họ vào tháng 6.1993. Sau đó, cùng một hai thầy DCCT và một số anh chị em Legio xuống chia sẻ với bà con giáo dân vào mỗi Chúa nhật hàng tuần. Công việc phân chia một cách đơn giản. Con thăm hỏi chung mọi người và cử hành phụng vụ tại nhà anh Bạc. Các thầy phụ trách giáo lý dự tòng trong một gia đình khác. Các anh chị Legio thì tới từng gia đình để thăm hỏi, tiếp cận và giúp đỡ mọi chuyện trong chừng mực có thể được.

Tới đầu năm 1997, chính quyền địa phương phát hiện ra công việc hoạt động của con và các anh chị Legio. Công việc dạy giáo lý và cử hành phụng vụ với phẩm phục tại gia bị nghiêm cấm. Đức Cha Nicôla Huỳnh Văn Nghi cho phép không mang lễ phục để dâng lễ.

Chuyện học giáo lý cũng vẫn được tiếp tục, số người xin gia nhập dự tòng mỗi ngày một gia tăng. Chính quyền không cho tụ tập đông người thì bà con tụ tập học giáo lý tại các gia đình ngoài Công giáo. Một thời gian sau, đến lượt các gia đình này cũng xin theo Đạo khi họ nhận ra niềm vui của những người dự tòng và giáo lý tốt đẹp của Chúa. Sự khó dễ của chính quyền lại hóa ra duyên cớ khiến hạt giống đức tin được gieo vãi trên diện tích rộng hơn và số người đón nhận đức tin mỗi ngày một gia
tăng.” (Lịch sử DCCT, Lm. Rôcô Nguyễn Tự Do)

Với nhiều người, cha Stêphanô Chân Tín là một linh mục trí thức có những tư tưởng phản biện sâu sắc, luôn lên tiếng bênh vực Giáo hội, bảo vệ quyền con người trước những bất công, trước việc phẩm giá con người bị xúc phạm dù trong bất cứ chế độ nào. Bên cạnh đó cũng có rất nhiều anh chị em giáo dân, đặc biệt là những anh chị em giáo dân tại An Thới Đông biết tới cha như là một linh mục tận tụy với những công việc dạy giáo lý, ban các Bí tích cho những người muốn tin theo Chúa.

Đường lối của Thiên Chúa thật kỳ diệu. Trong những năm tháng tưởng chừng như khó khăn nhất của cuộc đời, Thiên Chúa lại xếp đặt để cha Stêphanô Chân Tín có thể loan báo Tin Mừng một cách trực tiếp như Hiến pháp của Dòng mời gọi.

Trong bài giảng thánh lễ  nhập quan cho cha Stêphanô Chân Tín, cha Giuse Hồ Đắc Tâm, Bề trên tu viện DCCT Sàigòn nói: “Người trí thức xem cái tước tiến sĩ thần học là đỉnh cao của cuộc đời cha Chân Tín. Còn trong Nhà dòng xem vị trí Giáo sư thần học và chức Giám đốc Học viện DCCT ở Đàlạt là đỉnh cao của đời tu của ngài. Nhưng Thiên Chúa không xét xử dựa trên những chuyện đó. Có lẽ đỉnh cao của cuộc đời ngài là thời gian ngài bị quản thúc ở Cần Thạnh. Vì chính thời gian đó mở đầu cho công cuộc truyền giáo của ngài ở vùng An Thới Đông. Từ chỗ chỉ một vài người theo Đạo,
đến nay vùng truyền giáo này đã có hơn 500 anh chị em theo Đạo. Như thế, chúng
ta mới thấy ơn Chúa đã làm nơi ngài trong thời gian mà người ta cho là tù ngục.”

Những năm bị quản thúc, Thiên Chúa đã chọn cha Stêphanô cho một sứ vụ mới

Những người con An Thới Đông về dự lễ tang người cha đã sinh ra mình trong đức tin

Giáo phận Sàigòn tự hào về điểm truyền giáo An Thời Đông mà Thiên Chúa đã dùng cha Stêphanô để khởi đầu

Cha Stêphanô gắn bó với giáo điểm An Thới Đông từ năm 1990-1997. Hiện nay giáo điểm này đã có hơn 500 giáo dân

PV.VRNs

Vấn đề đau khổ

Vấn đề đau khổ

Tác giả: Trầm Thiên Thu

Tại sao có đau khổ? Đó là một câu hỏi rất cũ mà vẫn hoàn toàn mới. Và chắc hẳn chẳng ai có thể trả lời “thấu tình đạt lý” để ai cũng khả dĩ “tâm phục khẩu phục”.

Đau khổ là Tứ Diệu Đế của Đức Phật: Sinh là khổ, Lão là khổ, Bệnh là khổ, và Khổ là khổ. Ông thấy có nhiều thứ đau khổ nên ông đã giác ngộ để có thuyết nhà Phật. Vấn nạn “tại sao có đau khổ?” là câu hỏi về lý do chúng ta chịu đau khổ, loại hàng đầu trong cuộc sống, vì ít nhiều gì thì ai cũng trăn trở suốt ngày thâu đêm, chỉ có người điên hoặc sống thực vật mới không trăn trở và không đau khổ. Nhưng nếu có thể “vắt chân lên trán” thì cũng không tìm ra nguyên nhân chính xác nhất. Theo ý nghĩa nào
đó, tôn giáo là nỗ lực của con người muốn trả lời câu hỏi này và muốn giải quyết vấn nạn này.

Không ai lại không đau khổ. Sinh ra chưa biết gì đã khóc. Vui sao lại khóc? Phải chăng “khóc” là tiên báo  đau khổ? Khóc giống nhau ở tình trạng “chảy nước mắt”, nhưng khóc vì vui sướng thì không “nức nở” và “nhức nhối” như khi khóc vì đau khổ. Và chúng ta thường nói câu cửa miệng: “Đời là bể khổ!”. Phải chăng khổ-ải-trần-gian là “phần cứng” đã được cài đặt mặc định như một định-luật-muôn-thuở?

Xét theo khoa học, nước mắt cũng có lợi là “làm vệ sinh” mắt, vì chất muối mặn giúp sáng mắt và chữa lành các tổn thương nhẹ của mắt. Người chịu đau khổ nhiều nhất là Chúa Giêsu, nên chính Ngài đã chúc phúc cho những người-chịu-đau-khổ:

“Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an” (Mt 5:5), và chính Ngài cũng đã thực sự phải chịu đau khổ nhiều (x. Mc 8:31; Lc 17:25). Đồng thời Ngài còn cảnh
báo những người-sống-ung-dung-vui-sướng: “Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ
bây giờ đang được vui cười, vì các ngươi sẽ phải sầu khổ khóc than”
(Lc 6:25). Ngài đề cao sự đau khổ, vậy đau khổ không như chúng ta nghĩ. Rồi Ngài còn căn dặn và xác định: “Đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (Mt 6:34).

Vâng, ngày nào cũng có cái khổ của ngày đó – không thiếu, không thừa, mà luôn “vừa đủ”. Không ai có thể diệt khổ. Càng tránh khổ càng gặp khổ, càng cố diệt khổ càng thêm khổ. Cách thoát khổ tốt nhất là “đi xuyên qua đau khổ”, như kiểu “dĩ độc trị độc” vậy.

Nhưng đôi khi chúng ta thiếu hiểu biết, hiểu lệch lạc hoặc thiếu công bằng khi nhận định về đau khổ. Thấy một người chịu đau khổ – chẳng hạn bị tai nạn, nếu chúng ta quý mến người đó thì chúng ta nói là “thánh giá Chúa trao”, còn nếu chúng ta không ưa người đó thì chúng ta nói đó là “Chúa phạt”. Rõ ràng có sự thiên vị từ trong suy nghĩ của chúng ta. Nhưng tất cả là “để giữ vững kế hoạch Thiên Chúa đã tự do chọn
lựa, mà chọn không dựa vào việc người ta làm, nhưng dựa vào ý muốn của Thiên
Chúa” (Rm 9:10-12).

“Tại sao có đau khổ trên thế gian?” là câu hỏi cơ bản nhưng cũng rất trừu  tượng. Nhưng đau khổ lại là một khái niệm cụ thể, vì hằng ngày chúng ta vẫn phải đối mặt với đau khổ ở nhiều dạng và nhiều mức độ: Bệnh tật, tai nạn, căng thẳng, vất vả lao động, lo lắng, bị hiểu lầm, bị chê trách, bị ghen ghét, thất nghiệp,… Không thể liệt kê hết đau khổ trong cuộc sống. Đau khổ hầu như vượt qua tầm hiểu biết của con
người.

Thánh Ý Chúa quá mầu nhiệm! Đau khổ là một trong những kế hoạch của Thiên Chúa. Chúng ta chấp nhận đau khổ không phải do “bị triệt buộc” mà do “đức tuân phục”, nhờ vậy mà đau khổ trở thành đường dẫn đến Ơn Cứu Độ. Chúa Giêsu đã khuyên người ta chịu đau khổ: “Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy” (Mt 7:13-14).

Người ta coi đau khổ là điều phải tránh. Họ tránh đau khổ bằng cách nỗ lực tối đa, cố gắng tách mình ra khỏi thế giới, vì thế giới bị coi là nguyên nhân gây đau khổ.
Người Công giáo coi đó là một trong ba đại thù. Người ta còn tránh đau khổ bằng
cách làm ngược lại, bằng cách tích lũy của cải và tìm kiếm những niềm vui ở mức
tối đa. Dù khác nhau, nhưng việc tránh đau khổ vẫn là nguyên lý tột đỉnh để
chúng ta áp dụng.

Ở một góc nhìn khác thì đau khổ thuộc lĩnh vực đức tin Công giáo, đau khổ là thập giá. Chúa Giêsu nói: “Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy” (Mt 10:38), và Ngài xác định: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16:24). Theo đó, đau khổ không là điều cần tránh. Thực sự là chúng ta cố gắng làm giảm đau khổ của người khác, nhưng giáo lý làm nên đức
tin duy nhất thì đau khổ mang tính cứu độ. Đối với người Công giáo, đau khổ là phương thế để thánh hóa bản thân, là đền tội mình, cầu nguyện cho tha nhân và cứu các linh hồn, là cách tiếp cận Thiên Chúa và chia sẻ đau khổ của Chúa Giêsu Kitô – Đấng đã chịu chết vì toàn nhân loại.

Đau khổ là “chướng ngại vật” mà mọi người đều cố gắng tránh, giảm thiểu hoặc cách ly, nhưng chính đau khổ lại là “chìa khóa vạn năng” để mở cánh-cửa-cứu-độ. Phải có mức can đảm cao thì người ta mới khả dĩ chấp nhận và chịu đau khổ một cách ngoan cường – dù là đau khổ  tinh thần hoặc thể lý. Chứ theo bản năng nhân loại thì không ai đủ sức chịu đựng. Thật vậy, theo nhân tính, Chúa Giêsu cũng đã lo sợ đến
toát mồ hôi trong Vườn Dầu: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải
uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha”
(Mt 26:39).
Con ngưới rất yếu đuối và luôn sợ đau khổ.

Nhưng một lúc sau, Ngài đã vượt qua nỗi sợ nên thân thưa: “Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng Ý Cha” (Mt 26:42). Nỗi sợ vẫn đeo bám Ngài đến nỗi trước khi trút hơi thở, Ngài lại phải thốt lên: “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mt 27:46; Mc 15:34). Đau khổ lúc đó lên tới mức tột đỉnh ở nơi Ngài, huống chi chúng ta!

Đôi khi chúng ta thiếu bản năng nhìn thấu nỗi đau khổ. Điều này có thể tạo ra “điểm mù” khi chúng ta nói về tình yêu, lòng trắc ẩn, lòng thương xót, hoặc an tử (cách làm người khác chết êm dịu – mercy killing, euthanasia). Điều này rất quan trọng khi
chúng ta cân nhắc mà không thấu hiểu nỗi đau khổ.

Những căn bệnh trầm kha ở giai đoạn cuối và các chứng rối loạn gen thường là cách biện hộ để áp dụng biện pháp an tử hoặc phá thai. Không vì mục đích của Chúa thì đau khổ trở nên vô nghĩa, hóa gánh nặng, là điều khủng khiếp, và đau khổ lại chồng chất thêm đau khổ. Do đó, cuộc đời càng trở nên ảm đạm!

Thực sự vấn đề đau khổ không thể nào có câu trả lời thỏa mãn theo lý lẽ của con người. Hiểu được và có thể chấp nhận đau khổ thì người ta phải nhờ ánh sáng khôn ngoan của Thiên Chúa. Phúc Âm là Tin Mừng cho chúng ta. Chính những đau khổ chúng ta cố gắng chịu đựng có thể đem chúng ta đến với Ơn Cứu Độ. Thánh Gióp và nhiều vị thánh khác đã minh chứng hùng hồn về mối liên quan chặt chẽ giữa sự đau khổ và Ơn Cứu Độ. Trừ thánh Gioan, các Thánh tông đồ và các Thánh tử đạo càng minh chứng rõ ràng hơn về mối quan hệ đó khi các ngài hiên ngang chịu tan xương nát thịt. Như vậy, đau khổ là điểm son chứ không đáng nguyền rủa.

Đau khổ liên quan Đức Tin, nói theo người đời là lòng tin hoặc niềm tin.

Trong số những người không có  niềm tin tôn giáo vẫn có những người có tính chịu đựng hoặc nhịn nhục. Nếu họ không tin vào cái gì đó cao hơn hoặc vô hình thì họ cần gì cam chịu như vậy? Với người có niềm tin tôn giáo thì rõ ràng hơn: Họ chịu đau khổ vì vâng lời dạy của Đức Kitô, để đền tôi mình, để đền tội thay người khác, và để cứu các linh hồn. Đó mới là Đức Tin chân chính, chứ cứ “đường đường chính chính” thì chẳng ai sợ ai, chưa biết ai ăn ai, vì người khỏe ỷ sức mạnh thì người yếu cũng biết
dùng mưu lược.

Lạy Thiên Chúa, xin ban Thần Khí Chúa để chúng con có thể hiểu giá trị của đau khổ mà can đảm đi xuyên qua đau khổ. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa của chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU