2. When in doubt, just take the next small step. (Khi nghi ngại, hãy từ từ mà tiến.) 3. Life is too short. Don’t waste time hating anyone.
(Cuộc đời quá ngắn ngủi. Đừng phí thỉ giờ ghét bỏ ai làm gì.)
4. Only friends and family will be present in sickness. Stay in touch.
(Đau ốm, chỉ có gia đình và bạn bè bên cạnh. Nhớ gần gũi.) 5. Pay off your credit cards every month. (Hãy trả hết nợ thẻ tín dụng mỗi tháng.) 6. You don’t need to win every argument. Agree to disagree. (Khi tranh luận, hơn thua không đáng kể. Nên chấp nhận bất đồng.)
7. Crying is good, but it’s more healing crying with friends. (Khóc cũng tốt, nhất là khi khóc với bạn bè.) 8. Release your children when they become adults, its their life now. (Buông tay với con cái trưởng thành. Chúng có cuộc sống riêng.) 9. Save for retirement starting with your first pay cheque. (Để dành cho tuổi về hưu ngay với số tiền lương đầu tiên.) 10. When it comes to chocolate, resistance is futile. (Để ý sự cám dỗ)
11. Make peace with your past so it won’t screw up the present. (Hãy làm lành với quá khứ để hiện tại được yên ổn.) 12. It’s OK to let your children see you cry. (Con cháu thấy mình khóc đâu có sao/)
13. Don’t compare your life to others. They have different journeys. (Đừng đem đời mình so với ai đó; đời mỗi người mỗi khác) 14. Never be in a secret relationship.
(Đừng bao giờ dính vào một mối quan hệ bí mật) 15. Everything can change in the blink of an eye.
(Mọi chuyện ở đời có thể thay đổi trong chớp mắt)
16. Take a deep breath. It calms the mind.
(Hít thở sâu giúp tinh thần ổn định)
17. Get rid of anything that is neither useful, beautiful, nor joyful.
(Hãy gạt bỏ những gì vô ích, xấu xa, buồn bã)
18. What doesn’t kill you really makes you stronger.
(Điều gì không giết ta được sẽ giúp ta mạnh hơn) 19. It’s never too late to have a happy childhood.
(Sống lại như trẻ con lần nữa cũng không phải là trễ quá)
20. For whatever you love in life, don’t take no for an answer. (Những gì yêu quí trên đời, ta đều phải ráng đạt cho được) 21. Today is special. Enjoy it. (Ngày hôm nay là ngày đặc biệt. Phải tận hưởng nó) 22. Your belief of your being right doesn’t count. Keep an open mind. (Cứ tin mình luôn luôn đúng là bậy. Phải có đầu óc cỏ̉i mỏ̉) 23. No one is in charge of your happiness but you. (Hạnh phúc của mỗi người là mối lo riêng của người đó) 24. Forgive everyone everything. (Hãy tha thứ tất cả cho mọi người) 25. What other people think of you is none of your business.
(Đừng bận tâm về nhận xét của ai đó đối với mình)
26. Time heals almost everything. Give time time.
(Thời gian hàn gắn gần như mọi sự. Xin cho thời gian có thì giờ)
27. However good or bad a situation is, it will change. (Tình thế dù tốt hay xấu, rồi cũng thay đổi)
28. Don’t take yourself so seriously. No one else does. (Đừng quá nghiêm khắc với bản thân. Ai cũng vậy thôi)
29. Believe in miracles.
(Hãy tin vào phép lạ)
30. Your children get only one childhood. (Con cái chúng ta chỉ có một thời trẻ trung) 31. Envy is a waste of time.
(Đừng ganh tị. Mất thì giờ vô ích)
32. It’s OK to yield. (Làm được bao nhiêu cũng tốt)
33. Life is a gift.” (Cuộc sống là một món quà)
34. Friends are the family that we choose.
Một con người, một bác sĩ, một tín hữu (về Bác Sĩ Trần Hữu Ngoạn)
Trần Thị Quỳnh Giao – FMM
Viết về Bác Sĩ Trần Hữu Ngoạn đối với tôi là một cuộc trở về, trở về với quá khứ của một con người cũng như trở về với chính mình. Một con người trước đây đầy quyền lực trong một xã hội quyền thế. Với chính mình vì phải làm một cuộc ngoảnh mặt với những biến cố ít nhiều đã gây nhức nhối một thời… để tìm về một cái gì sâu thẳm hơn còn dấu kín trong lòng người, để có thể vươn cao hơn cái tầm thường của bản tính nhân loại và qua đó khám phá được Chân Lý tiềm ẩn nơi họ. Chân Lý đó chính là sự hiện diện của Thiên Chúa trong sâu thẳm của lòng người vì “con người là đường đi của Giáo Hội” mời gọi ta tôn trọng và yêu thương.
Cần nói thêm là những gì tôi viết ra đây phần rất lớn là do những lần tâm sự của hai Ông Bà. Có thể có những điều báo chí đã biết và viết về Bác Sĩ, nhưng những chia sẻ sau đây dành cho Hiệp Thông là hoàn toàn những chia sẻ thâm tình mà Bác Sĩ và Chị đã gởi gắm vào tôi “ước mong một ngày kia Soeur Quỳnh Giao có dịp viết về mình với những tâm tư thầm kín sâu thẳm nhất của tôi dành cho Soeur”. Giờ đây với Hiệp Thông, tôi lại có dịp viết về Bác Sĩ và Chị Yến.
I. CON NGƯỜI
Bác Sĩ Trần Hữu Ngoạn người gốc làng Nghĩa Đỏ, huyện Từ Liêm. Sinh ra trong một gia đình nghèo khó ở ngoại thành Hà Nội. Cha mẹ không có cơ may học hành, không thể hướng nghiệp gì cho chàng trai trẻ. Học hết phổ thông, anh Ngoạn nộp đơn xin vào Đại Học Y Hà Nội. Năm đó là năm 1955. Ngày nộp đơn, bạn bè cũng như cha vợ tương lai ngăn cản và nài xin con gái “cố gắng khuyên Ngoạn nên đổi nghề khác chứ làm nghề ấy khổ lắm!”. Nhưng sau lần đi khuyên ấy, người bị thuyết phục lại là con gái cụ, bởi “em yêu anh nên muốn điều anh muốn”. Nhắc lại chuyện xưa, Chị Yến cười nói: “Em nói, nhưng anh ấy có nghe đâu, lại còn bảo: ‘Em ủng hộ anh nhé!’ Nói sao đây, kệ anh!”
Tháng 2, 1962, tốt nghiệp y khoa, với lời thề Hippocrate, Bác Sĩ Ngoạn nắm tấm bằng trong tay và mới cưới vợ chưa đầy 1 tháng, sống với vợ vỏn vẹn chừng 10 ngày để biền biệt đi mãi, chàng Bác Sĩ trẻ 27 tuổi Trần Hữu Ngoạn lại làm cho ông cha vợ một phen ‘sốc’ lần nữa khi xung phong vào làm Bác sĩ ở khu điều trị phong Quỳnh Lập. Chị Yến tâm sự: “Lúc đó em được 18 tuổi. Để em khỏi bịn rịn khóc lóc, anh ấy chờ em đi dạy, viết lại mấy chữ đặt ở bàn nước rồi khoác balô lên đường. Em không hề được hưởng hạnh phúc lâu dài với anh. Đến giờ Soeur biết không gần hơn 35 năm chung sống, anh chỉ ở với em tổng cộng nhiều lắm hơn 18 tháng!”
Một điều thú vị mà có lẽ nhiều người không biết, Bác Sĩ Ngoạn là một người Hà Nội ham mê âm nhạc từ nhỏ. Khi chứng kiến niềm vui rạng rỡ của Bác Sĩ dịp đi Mỹ dự một Hội Nghị Phong quốc tế năm Bính Thìn, Bác Sĩ khoe một trong những “thắng lợi” của chuyến đi này: “Một bác sĩ Mỹ tặng toàn bộ tác phẩm của Beethoven trong cuốn băng có chất lượng thu thanh tuyệt hảo: về hưu sẽ thưởng thức cái thú nghe những băng nhạc ấy trên căn gác nhỏ thanh tịnh chứ!” Có lần, để tưởng nhớ 200 năm ngày sinh của Beethoven, Bác Sĩ đã vượt qua bom đạn trở về Hà Nội chỉ để mời bạn bè yêu thích nhạc đến nhà làm một cuộc kỷ niệm nho nhỏ về nhạc sĩ vĩ đại này. Tại Qui Hòa, Bác Sĩ có cho làm một khu du lịch với hình một chiếc đàn, được hỏi vì sao lấy chiếc đàn này Bác Sĩ: “Vì còn trẻ tôi đã chơi đàn này và nhạc sư của tôi là thầy Đỗ Tình”. Khi trốn vợ đi phục vụ trại phong, Bác Sĩ đã để lại cây đàn violon và niềm vui tinh thần vật chất để đến với người bệnh phong.
Bác Sĩ Trần Hữu Ngoạn được mang nhiều tên khác nhau làm nên CON NGƯỜI được nhiều người qúy trọng và thương yêu: “Người Bác Sĩ ‘điên khùng’ và mặc cảm. Người Bác Sĩ thích dây dưa với hủi. Một người khùng đang yêu. Người của người bất hạnh. Người của lòng nhân ái. Người ‘xúc cảm với bệnh nhân phong’. Người ta chỉ ‘xúc cảm’ với cái đẹp, với nghệ thuật, với người đẹp! Một Nhà Khoa Học với tấm lòng nhân hậu. Vì sự nghiệp, Bác Sĩ là một trong số ít nhân viên không có gia đình ở gần. Hầu hết các Bác Sĩ trại là những nhân viên địa phương, có nhà trong thành phố; hết giờ làm việc thì về với gia đình. Cuộc đời Bác Sĩ, hơn 31 năm vào nghề cũng bằng từng ấy năm sống xa vợ con. Nhiều bạn bè khoa học có tầm cỡ cũng khuyên Bác Sĩ nên xin về với vợ con để họ bớt bị thiệt thòi, nhưng Bác Sĩ không nỡ bỏ bệnh nhân. Bác Sĩ kể: “Một lần mình được Bộ Trưởng Y Tế mời đến họp. Đã lâu không gặp ông Bộ Trưởng, nên khi gặp ông liền nói: Ah! Anh Ngoạn ơi ! Thường khi gặp ông lớn thì người ta xin 3 điều: một cho tăng lương, hai cho tăng chức, ba cho về ở gần gia đình. Anh nên xin một điều gì cho anh”. Bác Sĩ trả lời: “Lương đối với tôi tương đối đủ sống! Chức thì anh biết rồi đó, đối với tôi chỉ là một trò cướp giựt dơ bẩn. Còn về ở gần gia đình, thì người thầy thuốc ưu tiên là người của bệnh nhân”, và Bác Sĩ đã không xin gì.
Một sự kiện lớn khác minh họa cho con người không tham quyền hành mà chỉ chú tâm phục vụ người xấu số. Tháng 8 năm 1995, Liên Hiệp Bệnh Viện Phong Quốc Tế (International Leprosy Union) của Ấn Độ bầu chọn Bác Sĩ Trần Hữu Ngoạn lãnh giải thưởng quốc Tế Ghandi. Bộ Trưởng Y Tế liền lệnh cho Bác Sĩ và các cơ quan nhanh chóng làm hồ sơ để kịp đi. Bác Sĩ Ngoạn trả lời trong một bức thư đề ngày 9 tháng 10 năm 1995: “Tôi công tác phục vụ bệnh nhân phong đã lâu, thấy người bệnh đang còn bao nỗi khổ mà bản thân mình vì nhiều lý do cũng chưa phục vụ họ được nhiều lắm. Từ nay đến cuối đời, tôi sẽ để tâm trí phục vụ họ nhiều hơn nữa. Khi nào thấy mình xứng đáng với giải thưởng lấy tên là Gandhi, lúc đó được Bộ cho phép làm hồ sơ nhận giải thưởng thì tôi vô cùng sung sướng và thanh thản”. Sau đó qua các cơ quan y tế và Vụ Hợp Tác Quốc Tế, Bác Sĩ Bộ Trưởng gởi kèm ít chữ sau đây cho Bác Sĩ Ngoạn: “Rất thông cảm với sự khiêm tốn của anh. Đề nghị anh làm hồ sơ để nhận vì vinh dự của đất nước, ngành và cá nhân. Sau này anh dùng số tiền đó cho cá nhân hoặc cho sự nghiệp đều có lợi cả. Nên làm sớm cho kịp”. Với bức thư này, Bác Sĩ đã rất ưu tư, tìm đến gặp tôi mong được soi sáng. Tôi chân thành góp ý nên đi, để nhiều bệnh nhân được nhờ. Bác Sĩ bèn nổi nóng, cho tôi biết: “Quỳnh Giao có biết Bộ Trưởng nói gì với tôi không? Anh nhận đi, một phần dành cho anh và phần còn lại cho Bộ” (giải thưởng là 30.000 USD). Tôi buộc phải trả lời: “Người đáng nhận giải thưởng này nhất, là các Nữ Tu Phan Sinh và các bệnh nhân của họ”. Và Bác Sĩ đã không làm hồ sơ nhận giải thưởng trên. Nhiều nhà báo sau đó đến phóng vấn Bác Sĩ và muốn biết vì lý do gì mà Bác Sĩ không nhận. Bác Sĩ trả lời: “Nhiều năm sống và làm việc bên cạnh những người tu hành của dòng tu này mới biết họ có một lẽ sống đặc biệt. Họ chấp nhận cuộc sống khổ hạnh, tự nguyện làm những việc thiện một cách âm thầm để phục vụ những người bất hạnh. Họ không muốn những lời ca tụng. Cuộc sống của họ tuân theo một nguyên tắc thật đơn giản: “bàn tay trái không được biết việc làm của bàn tay phải và ngược lại”. Nhiều tấm gương của dòng tu này đã được nhiều bệnh nhân truyền tụng. Họ kể về soeur Charles Antoine, nguyên là giám đốc trại, có lần đến thăm nơi ăn ở của bệnh nhân, thấy một hố xí bị tắc mà không ai dám dọn, Bà liền thọc tay xuống và moi từ dưới lên những mảnh giẻ mà họ đã vô ý vứt xuống.
II. SỰ NGHIỆP
1. Quỳnh Lập :
Quỳnh Lập là trại phong lớn nhất miền Bắc với 2.600 bệnh nhân sống trong những mái nhà tranh tre lụp xụp, nghèo nàn. Thời còn sinh viên, thực tập tại Quỳnh Lập, Bác Sĩ chia sẻ: “Có lẽ khơi nguồn tôi đến với các bệnh nhân phong là từ nỗi đau đớn tinh thần của họ, sự mặc cảm sâu sắc của họ trước sự kỳ thị ghê gớm của xã hội, và cả tấm lòng qúy người cách kỳ lạ của họ nữa đã khiến tôi phải suy tư rất nhiều”.
Bác Sĩ tiếp: “Ngày còn là sinh viên thực tập, tôi đã chứng kiến cảnh người đi khám bệnh, biết mình bị phong là về nhà tự tử. Ngay cả ngành Y cũng đã làm cho người ta sợ vì những quy định kỳ cục: thư từ của bệnh nhân gởi ra ngoài phải được đóng dấu: ‘đã hấp chín’; có nơi người bệnh chỉ được nói chuyện với người thân qua một lớp kính chắn. Nơi tôi làm việc (Quỳnh Lập) nhân viên y tế làm ở khu vực riêng cách bệnh nhân mấy cây số! Khắc phục một tâm lý sai lầm còn gay go hơn tìm ra cách chữa một căn bệnh. Việc làm đầu tiên của tôi để chống lại tâm lý ấy là tự động vào sống chung với bệnh nhân. Sau khi nhận trách nhiệm giám đốc tôi quyết định đưa khu làm việc vào sát khu bệnh; lấy một số bệnh nhân đã được khỏi làm nhân viên”.
Trở lại Quỳnh Lập với chức Giám Đốc, lần này không còn có thể trốn vợ như trước bởi đã 40 tuổi và là cha của ba con: hai trai một gái, sợ vợ ngăn cản, ông mặc cả rằng: “Cho anh đi 10 năm nữa, năm em 40 tuổi thì anh về Hà Nội”. Trở lại chỗ cũ, tất cả chỉ là tang hoang vì bom đạn đã tàn phá ngôi làng. Hơn 200 bệnh nhân chết, chỉ còn lại vài người trong túp lều tranh lụp xụp. Không nhà cửa, nhiều người tìm về các hang núi sống như người rừng. Tất cả phải làm lại. Vừa xây nhà, ông vừa phải đi đến từng hang núi tìm và đem bệnh nhân về.
Qua tiếp xúc với họ, Bác Sĩ hiểu thêm rằng người phong sống một cuộc đời đau đớn về thể xác và tinh thần, bị người đời và cả gia đình xa lánh. Những bệnh nhân khỏi bệnh nhưng không được xã hội đón nhận, Bác Sĩ bố trí việc làm cho họ và đấu tranh cho sự bình đẳng của họ.
2. Quy Hòa :
Có thể nói giờ đây không ai mà không biết đến tên tuổi của Bệnh Viện Hansen Quy Hòa, Quy Nhơn thuộc Hội Dòng Phan Sinh Thừa Sai Đức Mẹ. Được thành lập từ năm 1932, Quy Hòa càng ngày phát triển và nhiều bệnh nhân từ xa xin đến được chữa trị. Bệnh Viện cũng đã đón tiếp những nhà thơ, những ca sĩ, tu sĩ, được chọn làm nơi quay những chuyện films với những cảnh núi đồi biển cả hùng vĩ, thơ mộng. Mặc dù việc quản lý Bệnh viện gặp vô vàn khó khăn.
Chấp nhận làm giám đốc bệnh viện, Bác Sĩ Trần Hữu Ngoạn chấp nhận khoảng cách tình cảm giữa vợ chồng con cái, gia đình kéo dài thêm hàng ngàn cây số! Bác Sĩ không có ‘mộng ước làm quan’, một đời chỉ mong sao góp phần giảm bớt nỗi đau, đem lại hạnh phúc cho người bệnh và nghiên cứu thực hiện những công trình khoa học cùng với Viện Dịch Tễ Hà Nội nghiên cứu vi trùng qua kính hiển vi điện tử và hợp tác với các nhà khoa học Pháp, Hà Lan, Bỉ cùng nghiên cứu về bệnh phong.
Ngày nay với tiến bộ y học, người ta có thể chữa trị bệnh phong theo phương pháp đa hóa trị liệu, chứ không đơn thuần dùng DDS như trước đây. Ngay trong Quy Hoà, Bác Sĩ dành riêng một khu vực điều trị cho những người mắc bệnh mới vào, chữa cho khỏi rồi cho họ ra về với cộng đồng. Bác Sĩ thường đi Tây Nguyên giúp người bệnh có những kiến thức cần thiết để có khả năng phát hiện bệnh sớm.
Nhận làm giám đốc Quy Hòa từ năm 1985 đến 2001, Bác Sĩ muốn biến khu bờ biển tuyệt đẹp này thành khu du lịch. Ông nghĩ điều này sẽ giúp quan niệm của ông là xóa bỏ dần sự ngăn cách giữa người bệnh và xã hội, đồng thời nâng cao thu nhập cho nhân viên. Vì vậy phải làm lại con đường vào Quy Hòa lâu năm bị mưa lũ xói lở. Con đường dài 2.600m. Khi Bộ đồng ý đầu tư cho trại làm lại con đường đèo, nhiều chủ đầu tư đã đến xin ông cho họ làm theo hình thức khoán gọn công trình, trong đó ông được 12% giá trị công trình, (12% là món tiền không nhỏ). Cơ quan giao thông dự trù 700 triệu. Bác Sĩ Ngoạn nhờ người thiết kế và cho những người dân làng phong còn sức khoẻ thi công, vừa tạo việc làm, có thu nhập và quan trọng hơn, giúp người bệnh xóa bỏ mặc cảm. Cuối cùng chi phí chỉ lên 140 triệu! Không được ăn thì đạp đổ: đơn kiện ông bay đi khắp nơi, vu cáo là ông không trong sáng trong vấn đề tiền bạc, ăn chặn tiền từ thiện, tha hoá về tư tưởng… và một ngày kia, cũng chẵn 10 năm làm giám đốc, một lần nữa ông nhận quyết định thôi làm giám đốc “vì không đủ khả năng làm quản lý” và nhận nhiệm vụ mới: chuyên viên của Vụ Điều Trị kiêm tạp vụ.
Bác Sĩ đã nếm đủ vinh quang và cay đắng của cuộc đời, của một cơ chế bất công, dành giựt quyền hành. Hai lần làm Giám Đốc, hai lần bị cách chức không có lý do!
Giữa hai làn ‘bom đạn’, Bác Sĩ Ngoạn được gọi về Hà Nội làm ở khoa Da Liễu Bệnh Viện Bạch Mai vẫn là Bác Sĩ điều trị phong.
3. Biến cố 23 tháng 10 năm 1984 tại Phú Khánh
Đó là biến cố của lòng nhân ái, liên đới với bệnh nhân mà mình phục vụ đồng thời cũng là một biến cố khoa học dũng cảm của một con người yêu thương bệnh nhân thật sự: Vào ngày ấy Bác Sĩ Ngoạn có dịp ghé thăm bệnh Viện Da Liễu Nha Trang. Trong đó có vài giường chứa bệnh phong. Nhân viên y tế có thái độ kiêng kỵ, tách biệt rõ rệt với bệnh nhân, Bác Sĩ giải thích nhưng nhân viên không tin, ông bèn nói: “Các cô cậu có muốn tớ tiêm trực tiếp trực khuẩn Hansen vào mình tớ không?”; “Được vậy thì thuyết phục chúng em ngàn lần hơn các tài liệu y khoa”.
Cuộc thí nghiệm được bắt đầu với sự chứng kiến của các giới chức khoa học, Giám Đốc Viện Pasteur Nha Trang, Tiến Sĩ vi trùng học Nguyễn Thị Thế Trâm và nhiều bác sĩ chuyên khoa của bệnh viện. Lúc đó có hai bệnh nhân phong, thể ác tính, 25 và 12 tuổi. Bác Sĩ Ngoạn đã lấy 200 milligramme u phong ở dái tai của người bệnh, được sự kiểm tra phân chất của các nhà khoa học chuyên môn có mặt. Mầm bệnh được lấy từ những vết lở loét trên cơ thể bệnh nhân. Bệnh phẩm, sau khi được nghiền nát, hòa với nước muối sinh lý, lọc lấy phần “tinh túy” và kiểm tra có đủ trực khuẩn có thể gây bệnh. Như vậy Bác Sĩ Ngoạn đã đưa vào cơ thể mình hàng tỷ trực khuẩn bằng nhiều đường: nhỏ vào mũi, uống và tiêm vào hai khủy tay và hai dái tai là những nơi trực khuẩn này dễ phát triển. Dám làm điều đó chỉ vì tin vào mình, tin vào kiến thức của nhân loại và đồng thời cũng chứng minh là bệnh phong không lây nhiễm và qua đó đánh tan mặc cảm cho bệnh nhân và xích xã hội lại gần hơn với họ. Với biến cố này Bác Sĩ Ngoạn đã chiếm lòng mọi người, đặc biệt các bệnh nhân.
4. Vụ Điều Trị của Bộ
Về đây Bác Sĩ vẫn tiếp tục nghiên cứu và giúp đỡ bệnh nhân qua những lần đi đây đó trên quê hương tìm thăm bệnh nhân và xem cách điều trị hữu hiệu hơn nữa.
III. VỚI NHỮNG GIÁ TRỊ PHÚC ÂM
1. Một lòng yêu thương người bệnh phong
Những điều đã nói trên chắc chắn đã cho thấy lòng tận tụy yêu thương bệnh nhân phong hiếm có nơi CON NGƯỜI này. Nhưng tôi cũng không thể bỏ qua một sự việc khác, mà đối với chúng ta là những Kitô hữu và Tu sĩ, chúng ta đã làm được chưa?
Trong cuộc đời bình thường, Bác Sĩ là một con người giản dị, lạc quan, rất biết cười và cười thoải mái, đặc biệt khi tôi chọc “quê”. Chị nhà cứ nói: “Sao anh Ngoạn khi nào mà có Soeur Giao chọc ghẹo thì anh cười thoải mái và cười “hết mình“. Một cô gái Hà Nội duyên dáng, dễ mến, là giáo viên cấp II, lấy một anh chàng Hà Thành như Bác Sĩ Ngoạn, mê nhạc, khôi hài, lạc quan, phúc hậu, là mẫu người mà vợ anh xưa kia hằng ao ước, mà bây giờ vẫn còn là thần tượng của chị… lại chấp nhận, vì người bệnh phong để sống xa vợ con suốt một quãng đời dài! Cuộc sống vợ chồng, được ở bên nhau là điều hết sức tự nhiên mà cũng khước từ cho tha nhân. Đến với thế giới bệnh phong để chữa bệnh cho những người hằng tuyệt vọng.
2. Một tấm lòng thẳng thắn tìm về chân lý
Vì tâm hồn trong sáng, nên khi gặp các nữ tu, Bác Sĩ qúy trọng và tín nhiệm “bởi họ sống trong sạch hết mình, không bon chen, lừa lọc… Tư tưởng vô thần và hữu thần ở đây không có nghĩa gì cả, cao nhất trong đạo lý làm người là yêu thương tận tụy đối với nhau”. Bác Sĩ trả lời khi bị vu khống là thiên về tôn giáo!
Trong xã hội hiện thời, khi cuộc sống không còn chuẩn mực thước đo, khi nghĩa cử tốt đẹp còn hiếm, khi tiền là tất cả và giả dối lan tràn khắp phố phường, ngành nghề, ở mọi cấp bậc, khi người ta bịa đặt xấu xa để vu cáo nhau, lại dễ làm người ta tin hơn là nói thật những điều tốt đẹp, tìm được một viên ngọc qúy thật là vất vả. Và Bác Sĩ Ngoạn là mẫu người của lòng trong sáng, thẳn thắng, không ham danh lợi. Một tấm lòng như thế chỉ có thể hướng về chân lý, chuẩn bị đón nhận hồng ân của Sự Thật, là Thiên Chúa.
3. Một con người liêm chính, khiêm tốn và khắc khổ
Mấy năm cuối cùng làm việc ở Vụ Điều Trị, ông sống lặng lẽ, hoàn thành công việc của một công chức liêm chính. Thời gian còn lại, ông cố gắng tập họp tư liệu để viết quyển: “Bệnh phong, lý thuyết và thực hành – Tóm Tắt” dày 600 trang được in tại nhà Xuất Bản Y Học.
Lần kia, trong một cuộc gặp mặt cuối năm giữa Bộ Trưởng Đỗ Nguyên Phương với anh em cơ quan Bộ, sau khi nhận bó hoa do công đoàn cơ quan tặng, Bộ Trưởng nói rằng, chính Bác Sĩ Ngoạn là người xứng đáng nhận bó hoa này. Lúc này nhiều người mới biết hai người cùng là bạn học ở Đại Học Y Hà Nội! Đó cũng là lần duy nhất ông được “vua biết mặt, chúa biết tên!” Vì nguyện vọng của ông sau khi nghỉ hưu là làm tình nguyện viên y tế để giúp đồng bào dân tộc ít người ở các vùng nghèo nàn lạc hậu còn nhiều khó khăn về y tế, nên Bộ Trưởng Bộ Y tế đã viết ngày 28 tháng 9 năm 1998:
“…Tôi thật sự rất cảm kích và hoan nghênh tinh thần xung phong tình nguyện của anh. Cá nhân tôi cũng như tập thể lãnh đạo Bộ Y Tế, luôn đánh giá cao công lao đóng góp của anh liên tục trong nhiều năm qua, cũng như hiện nay đối với sự nghiệp chăm sóc bảo vệ sức khoẻ nhân dân nói chung, đối với công tác phòng chống và thanh toán bệnh phong nói riêng là một nghĩa cử cao đẹp, là tấm gương rất đáng học tập”. Suốt cuộc đời, Bác Sĩ Ngoạn không hề nhận về cho mình một thành tích nào mà chỉ lẳng lặng đi tìm phục vụ người xấu số.
“Vị ẩn sĩ” liêm chính, khiêm tốn này cũng sống rất khắc khổ, ít nói. Ngồi trong xe đi công tác đây đó, đôi khi mở miệng chỉ để nói: “Ai cần mở cửa sổ thì cứ mở, tôi chịu lạnh quen rồi”. Hành lý đi đường của ông lẹp xẹp dù mới đi Mỹ đi Pháp về. Đôi dép thì mòn gót, te tua, ăn mặc đơn giản: có lẽ gia tài của ông không quá ba bộ áo quần. Được hỏi qua Mỹ hay Pháp có mua sắm gì cho mình không, Bác Sĩ trả lời: “Không, không sắm gì, chỉ xin được một lô quần áo cho khu điều trị. Mua cho vợ con vài món… Của ăn đường dài chỉ một ổ bánh mì khô, hoặc vài bánh biscuit!. Bác Sĩ nói: “Mình đã chuẩn bị sống thích nghi với hoàn cảnh khó khăn nhất. Mình có thể ăn thật ít, thật khổ, có khi nhịn cả ngày cũng được. Nếu bị bệnh thông thường mình không hề uống thuốc mà để bệnh tự hết. Mình không có nhu cầu gì lớn cho bản thân. Nếu không tập một sức đề kháng như vậy, không sống với bệnh nhân và đồng bào dân tộc được đâu”. Không hút thuốc, không rượu chè café, bia chỉ uống một lon khi cần. Nếp sống khắc khổ bản thân của ông, đã gặp nhiều điều không mấy dễ chịu trong công việc. Có những người không thích cách sống khổ hạnh, liêm khiết của ông; không thích ông có vẻ tán dương tinh thần làm việc tận tụy của các bà soeur “vì suốt đời cống hiến cho người bệnh, tới lúc chết vẫn không cho phép ai nhắc đến việc làm của mình”. Đó là tác phong và y đức của một người quả là hiếm có trong thời buổi này.
IV. CHẶNG DỪNG CHÂN
Tâm hồn màu mỡ ấy đã sẵn sàng để đón nhận hồng ân Thiên Chúa ban. Sau đây tôi chỉ xin kể lại sự kiện Bác Sĩ Ngoạn chọn Chúa làm lẽ sống.
Tuy rất có nhiều cảm tình với các chị em Phan Sinh phục vụ tại Quy Hòa, nhưng Bác Sĩ chưa hề một lần nói lên ý nguyện “theo” Chúa của mình. Nghỉ hưu, Bác Sĩ vẫn tiếp tục đi đây đó giúp bệnh nhân phong và về lại sống với gia đình một nếp sống bình thường. Ba cháu, hai trai là Bác Sĩ với hai cô con dâu cũng là bác sĩ và một gái, Kế Toán. Thời gian gần đây, bị bệnh, Bác Sĩ thường xuyên ở nhà hơn. Được vợ chăm sóc chu đáo và tận tụy hết mình. Nhờ có công tác tại Hà Nội, tôi lui tới thăm Bác Sĩ, mang nặng trong tâm hồn một ước vọng dày vò: là làm sao cho Bác Sĩ Ngoạn phải nói lên lời ưng thuận “theo” Chúa, rõ ràng, dứt khoát. Trước đó tôi đã có vài giờ giáo lý cho Bác Sĩ và có dịp tặng ông video về Đức Mẹ Lộ Đức và Thánh Phanxicô Assisi. Bác Sĩ đã bị ấn tượng nhiều, suy tư nhiều và càng trầm lặng hơn. Sau đó vài tháng, ra Hà Nội đến thăm Bác Sĩ, tôi vui mừng nhận thấy ở vách tường đối diện với cửa đi vào nhà, một bức tranh vừa quen thuộc vừa lạ kỳ. Quen thuộc vì vị thánh trong bức tranh ví tựa như Chúa Giêsu quỳ gối trong Vườn Cây Dầu. Kỳ lạ vì hình tượng vẽ lại là hình tượng của Thánh Phanxicô. Sau đó được biết là chính Thánh Phanxicô, một bức tranh mà Bác Sĩ rất thích được ai đó tặng và nói là Thánh Phanxicô Nghèo Khó”. Mình khổ nhiều vì bức tranh này, chị Quỳnh Giao có biết không? Người ta cứ hỏi hình này là ai? Sao không treo hình Bác nơi chính của căn nhà?
Một tháng trước khi đi Anh Quốc, tôi tự vạch cho chính mình một kế hoạch là khi đi công tác Hà Nội tôi sẽ dành một tuần và liên tiếp đến dạy giáo lý mỗi ngày cho Bác Sĩ. Từ thứ hai đến thứ năm hay thứ sáu, tôi muốn Bác Sĩ sẽ nói lên lời ưng thuận công khai đó với tôi. Tôi cầu nguyện nhiều. Tôi vẫn hiểu một người tự trong thâm tâm muốn theo Chúa đã là người “Công Giáo”, là người “có đạo” rồi. Nhưng sao tôi vẫn mơ ước thấy Bác Sĩ đón nhận Bí Tích Thanh Tẩy và mang tên Phanxicô. Mỗi lần bắt đầu giờ giáo lý, tôi thường hỏi han sức khoẻ và ngày sống của hai ông bà, sau đó là một giờ giáo lý. Bác Sĩ lắng nghe chăm chú, thỉnh thoảng hỏi đôi câu. Đến ngày thứ năm vẫn không thấy gì, thứ bảy tôi phải bay về TP.HCM. Sáng thứ sáu đó, tôi đến, lòng thổn thức âm thầm. Lần này, ngồi xuống, Bác Sĩ không để cho tôi nói trước, ông làm một mạch không ngừng, người vốn ít nói: “Tôi muốn được nhận lãnh Bí Tích Thanh Tẩy. Một ngày của Đức Mẹ. Sớm nhất v.v”. Tôi hỏi: “Vậy chị có chịu không?”; “Không chịu tôi cũng làm! Nhưng nhà tôi từ trước vẫn để tôi tự do trong việc này. Bà thì theo Phật rồi đó. Chúng tôi không vô thần đâu!” Sau khi kê ra danh sách các ngày lễ của Đức Mẹ, và được giải thích, Bác Sĩ và tôi ưng thuận chọn ngày 8.12.2003. Sau đó vì Bác Sĩ có chút vấn đề sức khoẻ nên chúng tôi dời lại vào ngày 1 tháng Giêng 2004, lễ Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Bác Sĩ muốn làm tại Quy Hòa để “thanh tẩy những vết nhơ ô uế mà một số người đã gây ra trên đất thánh này…, và hôm đó tôi sẽ đứng ra công khai tuyên xưng đức tin của mình trước các thành phần của cơ quan và bệnh viện”. Đức TGM Hà Nội được hay biết, đề nghị để ngài chủ sự trao ban Bí Tích và chủ tọa Thánh Lễ. Năm đó là Năm Truyền Giáo. Bác Sĩ vui mừng ra mặt vì Ngài đã đến thăm Bác Sĩ hai lần, dịp Noel, Phục Sinh và còn chụp hình với Bác Sĩ, điều làm Bác Sĩ hãnh diện và khoe với mọi ngừơi.
Biến cố vĩ đại này mà mình đang sống và chứng kiến lúc bấy giờ có quá nhiều điều vui đến từ quá nhiều điểm mà lòng tôi ước mơ ôm ấp từ những tháng qua. Lẽ nào niềm vui lớn lao này mà Thiên Chúa trao ban, lại được hưởng dễ dàng như vậy mà không một chút hy sinh, không chút phó thác vào quyền năng của Ngài sao? Ngài mời gọi ai đấy phải dâng hiến, dâng hiến trong tin tưởng, trong âm thầm khiêm tốn như chính cuộc đời đã được sống và Ngài xin một không gian thoáng, rộng, để thể hiện Ý của Ngài theo cách thức riêng của mình? Cả hai, chúng tôi chờ ngày vui lớn của Đại Gia Đình Giáo Hội.
Một ngày nọ, chị Nguyễn Thị Triệu, cựu Giám Tỉnh của chúng tôi gọi tôi và thông báo cho biết là tôi phải ra Hà Nội ngay “vì chỉ có em mới ngăn được Bác Sĩ. Bác Sĩ không chịu nghe ai cả, chị Yến qùy lạy xin em đó!”. Thì ra có biến cố vì “ước muốn này”.
Không hiểu làm sao “người khác” biết rõ chuyện này để người con gái sau thời gian nghỉ phép vì sanh nở, đi làm lại thì bác sĩ giám đốc “đề nghị cho nghỉ tiếp, cứ nghỉ dài dài”. Sau nhiều lần trao đổi, cô ta được hỏi “bố sắp theo đạo phải không?”. Người con cả là bác sĩ, trước đây được du học tại Mỹ chăm lo học hành nên lần này được đi tiếp để trình luận án cũng gặp khó khăn rằng: “Gia đình cháu có bác sĩ nhiều mà chưa ai đóng góp gì cho đất nước” và nhiều chuyện khác…
Phần Bác Sĩ Ngoạn vẫn một mực giữ ý định không thay đổi. Bạn bè, Linh mục, các Soeurs góp ý nên nhường bước để vợ con không bị gì. ĐTGM/HN cũng khuyên lơn, nhưng Bác Sĩ nghĩ “tôi không có gì để mất. Tôi chỉ được thêm thôi!…” Chị Yến thì lạy lục xin tôi góp ý với Bác Sĩ, – dù tôi cũng đã phải buộc lòng đi ngược lại với ước nguyện ban đầu của mình – Bác Sĩ trầm ngâm một hồi và nói: “Soeur đề nghị làm tại cộng đoàn của Soeur ở Nam Định, như thế có vẻ lén lút, mà đây không có gì phải lén lút cả!” Chị Yến lại nài nỉ thảm thương với tôi: “Một đời em đã làm theo ý chồng. Em và con đã không sợ gì cả để cho anh đi con đường đúng đắn của anh. Nhưng giờ đây đụng đến tương lai con cái, em xin chị nói với anh. Mai này êm xuôi, anh sẽ thể hiện ý nguyện của anh và lòng em vẫn hoàn toàn toại nguyện”. Bác Sĩ đã miễn cưỡng chấp nhận lùi lại ngày trọng đại đó.
Và tôi đã từ giã Bác Sĩ và gia đình, tạm vắng trong một thời gian xa quê hương. Từ xa, tôi nhận được tin, ngày kia, Bác Sĩ Trần Hữu Ngoạn đã nhận lãnh Bí Tích Thanh Tẩy từ một người âm thầm trao ban hồng ân lớn lao là được làm Con Thiên Chúa và Giáo Hội. Buồn hay vui lúc đó? Tôi chỉ biết là mình cảm thấy rất tiếc vì lời tuyên xưng ngôn sứ bị chặn đứng bởi sự hời hợt vội vã của một hình thức bên ngoài mà ta thường quá lưu tâm thay vì đi sâu vào chiều kích ngôn sứ và có tính Giáo Hội của một Bí Tích như Bí Tích Thanh Tẩy: tuyên xưng đức tin của một người vào một Con Người, nói lên cho mọi người biết mình chọn Con Người ấy vì mình tin tưởng phó thác đời mình cho Người đó. Và việc làm này được Giáo Hội chứng giám, phê chuẩn và chấp nhận. Còn niềm vui nào hơn niềm vui được làm Con Thiên Chúa và được Giáo Hội nuôi dưỡng, đón nhận. Và vì vậy, sự kiện này đáng ra phải được công khai và công nhận.
Giờ đây, với cuộc sống bệnh tật, có thời gian gẫm suy và lặng tĩnh bên cạnh người vợ tuyệt vời, kiên nhẫn và yêu thương chăm sóc, Bác Sĩ Ngoạn cảm thấy tâm hồn thanh thản nhiều lắm, vẫn còn cười đùa mỗi khi tôi đến, nhưng “vẫn tiếc nuối cái gì đó làm lòng chưa hoàn toàn được toại nguyện”. “Cái gì đó” phải chăng là vai trò Ngôn Sứ mà mỗi người tín hữu có nhiệm vụ thể hiện?
Khi còn trò chuyện được, tôi có lần hỏi Bác Sĩ, nếu muốn truyền đạt điều gì đó thiết yếu mà Bác Sĩ tâm niệm nhất, thì Bác Sĩ sẽ nói điều gì? Ông trả lời: “Hãy đến với những người không ai đến, hãy cho những người không ai cho. Hình như đó là một câu trong Kinh Thánh”.
Một cuộc đời dầy đặc yêu thương, nghiêm khắc với chính mình và biết cười tươi, hoàn toàn thoải mái với những câu nghịch ngợm khôi hài của người khác, đặc biệt khi bị chọc quê. Một cuộc đời cho đi mà không tính toán, không tìm lợi danh. Hình như đó là cuộc sống mà Thầy Chí Thánh ước muốn cho môn đệ mình.
WHĐ (10.05.2012) / LPJ – Theo tin từ trang web vaticaninsider.it của Italia, chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về Văn hóa, Đức hồng y Ravasi nói rằng ngài muốn tổ chức “Sân Chư dân” tại Jerusalem.
Trong một cuộc phỏng vấn đăng trên trang vaticaninsider.it, Đức hồng y Ravasi cho biết ngài muốn tổ chức “Sân Chư dân” tại Jerusalem, vì nơi đây hẳn là “một khởi điểm lý tưởng” cho cuộc đối thoại giữa người tin và người không tin. Đức hồng y nói: “Tôi rất vui mừng tổ chức một cuộc gặp gỡ ở Jerusalem với các nhà trí thức và các nghệ sĩ Do Thái giáo, Kitô giáo và Hồi giáo, vì người Do Thái và người Công giáo cùng chia sẻ nhiều giá trị chung”. Và cả hai tôn giáo này đang phải đối mặt với mối lo về “sự bành trướng của chủ nghĩa thế tục hóa của xã hội”. Thực tế là, như Đức hồng y nhận định, “ngày nay, đối với nhiều người, biết Thiên Chúa hiện hữu hay không cũng chẳng quan trọng”. Đó cũng là khẳng định của cha Pizzabella, Quản thủ Thánh Địa khi được hỏi về điều này. Ngài nói ở Thánh Địa “có ít người vô thần hơn những người không tin”. Nhấn mạnh tầm quan trọng của việc chuẩn bị cho sự kiện này để không rơi vào nguy cơ chỉ là một “cuộc họp mang tính hàn lâm”, cha Pizzabella quả quyết một “Sân Chư dân” tại Jerusalem “có thể là một thúc đẩy rất quan trọng cho việc suy tư và gặp gỡ với những người tin”.
Được Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI khởi xướng, “Sân Chư dân” là một cơ cấu của Giáo Hội Công giáo nhằm đối thoại với người không tin. Tên gọi này có liên quan trực tiếp đến Sân Chư dân ở Đền thờ Jerusalem, là một khu vực bên ngoài của Đền thờ cũ dành cho dân ngoại. Dưới sự bảo trợ của Hội đồng Tòa Thánh về Văn hóa do Đức hồng y Ravasi làm Chủ tịch, Giáo Hội muốn qua đó củng cố ý muốn giao tiếp với những người coi tôn giáo là điều xa lạ và với những ai có thể muốn tiếp cận một Đấng mà họ không biết. Được chính thức tổ chức vào tháng Ba 2011, “Sân Chư dân” lần đầu tiên đã diễn ra tại Paris. Ngay sau đó là tại Bucarest, Firenze, Barcelona và Tirana… và lần gần đây nhất tại Palermo, Sicilia. Mỗi lần hoạt động đều quy tụ các danh nhân văn hóa và tôn giáo, người tin và người không tin, nhằm đề cập đến các vấn đề cụ thể của mỗi quốc gia. Đây là một cách truyền thông tốt đẹp của Mẹ-Giáo Hội trước khi diễn ra Thượng Hội Đồng Giám Mục về Tân Phúc Âm hóa vào cuối năm nay.
Chúa Giêsu vinh hiển về trời, còn chúng ta phải hiên ngang vào đời để làm chứng về Đức-Kitô-chịu-chết-và-phục-sinh, về Tình Yêu Vô Biên của Thiên Chúa, về Lòng Thương Xót của Ngài. Chúa Giêsu về trời là bảo chứng chắc chắn chúng ta cũng sẽ được về trời. Với hy vọng đó, chúng ta có thể can đảm và kiên trì vượt biển-đau-khổ-trần-gian để cặp Bến Bình An Thiên Quốc.
Theo sách Công vụ Tông đồ (Cv 1:1-11), Chúa Giêsu đã dạy bảo các Tông đồ mà Ngài đã tuyển chọn nhờ Thánh Thần. Ngài còn dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các ông thấy Ngài vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình: Trong 40 ngày, Ngài đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Chúa.
CHÚA VỀ TRỜI
Một hôm, đang khi dùng bữa với các Tông đồ, Đức Giêsu truyền cho các ông không được rời khỏi Giêrusalem, nhưng phải ở lại mà chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa, điều mà anh em đã nghe Thầy nói tới, đó là “ông Gioan thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần”. Bấy giờ những người đang tụ họp ở đó tò mò hỏi: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ít-ra-en không?”. Chắc là các ông cũng muốn “thơm lây” gì đó, vì con người vẫn nuôi hy vọng “một người làm quan, cả họ được nhờ”. Nhưng Chúa Giêsu thản nhiên: “Anh emkhông cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Ngài ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1:7-8).
Nói xong, Ngài được cất lên ngay trước mắt các ông, khiến các ông chưng hửng và ngơ ngẩn. Lúc đó có đám mây quyện lấy Ngài, khiến các ông không còn thấy Ngài nữa. Bó tay! Đang lúc các ông còn đăm đăm nhìn lên trời phía Ngài đi, bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh và nói: “Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Ngài lên trời” (Cv 1:11).
Chúa đi rồi chắc hẳn các ông buồn lắm, và cũng có thể “trách yêu” là sao Thầy đi mà không nói trước. Các ông cũng có thể buồn vì từ nay không còn Đại Sư Phụ thì không biết xoay xở thế nào. Con người mà! Đại Sư Phụ biết lắm, thế nên Ngài đã hứa ban Chúa Thánh Thần để đủ tự tin mà hành động vì Chúa: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Ngài ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1:8). Tất nhiên, Ngài hứa gì thì luôn thực hiện đúng.
Từ khi phục sinh, Chúa Giêsu không còn nhân tính mà chỉ còn thiên tính. Ngài ẩn hiện thoăn thoắt. Nay Ngài lại về trời, nghĩa là chúng ta cũng chắc chắn sống lại và về trời với Ngài. Vì thế: “Vỗ tay đi nào, muôn dân hỡi! Mừng Thiên Chúa, hãy cất tiếng hò reo! Vì Đức Chúa là Đấng Tối Cao, Đấng khả uý, là Vua Cả thống trị khắp địa cầu” (Tv 47:2-3). Đồng thời, chúng ta “hãy đàn ca, đàn ca lên mừng Thiên Chúa, đàn ca lên nào, đàn ca nữa kính Vua ta!” (Tv 47:7). Thật vậy, “Thiên Chúa là Vua toàn cõi địa cầu”, nên chúng ta phải “dâng Ngài khúc đàn ca tuyệt mỹ”. Tất nhiên những gì là tuyệt vời nhất thì phải được dành cho Thiên Chúa, vì “Thiên Chúa là Vua thống trị chư dân, Thiên Chúa ngự trên toà uy linh cao cả” (Tv 47:9).
Vui mừng là biểu hiện có Chúa trong tâm hồn, nghĩa là chúng ta đang được Chúa Thánh Thần tác động. Chúng ta được tràn đầy ơn Chúa Thánh Thần, đủ can đảm đi giữa bầy sói mà không hề run sợ…
CHÚNG TA VÀO ĐỜI
Thánh Phaolô nói: “Tôi là người đang bị tù vì Chúa” (Ep 4:1a). Tự nhận là “tù nhân của Chúa” nên Thánh Phaolô không ngại nói: “Tôi khuyên nhủ anh chị em hãy sống cho xứng với ơn kêu gọi mà Thiên Chúa đã ban cho anh chị em. Anh chị em hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại; hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau. Anh chị em hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí đem lại, bằng cách ăn ở thuận hoà gắn bó với nhau” (Ep 4:1b-3). Ai cũng được Thiên Chúa kêu gọi, mỗi người mỗi trách nhiệm, mỗi người một loại “nén”, vấn đề là dùng những “nén” đó bằng cách nào và với mục đích gì. Không ai có quyền tự cho rằng “nén” của mình “có giá” hơn “nén” của người khác. Trước mặt Chúa, mọi người đều bình đẳng!
Bằng nhau ư? Đúng, vì “Thiên Chúa không thiên vị người nào. Hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Ngài tiếp nhận” (Cv 10:34). Vả lại, như Thánh Phaolô nói: “Chỉ có một thân thể, một Thần Khí, cũng như anh chị em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hy vọng” (Ep 4:4). Đặc biệt là “chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa” (Ep 4:5). Thế thì sao không bình đẳng? Đúng là “chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người”, nhưng “mỗi người chúng ta đã nhận được ân sủng tuỳ theo mức độ Đức Kitô ban cho” (Ep 4:7). Đó là điều mầu nhiệm, trí tuệ loài người không thể phân tích hoặc giải nghĩa thấu tình đạt lý.
Thánh Phaolô dẫn chứng rất lạ: “Có lời Kinh Thánh nói: Ngài đã lên cao, dẫn theo một đám tù; Ngài đã ban ân huệ cho loài người” (Ep 4:8). “Đám tù” đó là chúng ta chứ còn ai trồng khoai đất này nữa, vì chúng ta đều là những tử tù được Đức Kitô chịu chết để giải thoát chúng ta khỏi chốn-lao-tù-tội-lỗi-trầm-luân. Thánh Phaolô đặt vấn đề: “Ngài đã lên nghĩa là gì, nếu không phải là Ngài đã xuống tận các vùng sâu thẳm dưới mặt đất? Đấng đã xuống cũng chính là Đấng đã lên cao hơn mọi tầng trời để làm cho vũ trụ được viên mãn” (Ep 4:9-10). Hai động thái trái ngược là “lên” và “xuống”, nhưng hai động thái đó đều do chính Đấng-đã-chết-và-sống-lại thực hiện.
Ý Chúa quá mầu nhiệm: “Chính Ngài đã ban ơn cho kẻ này làm Tông Đồ, người nọ làm ngôn sứ, kẻ khác làm người loan báo Tin Mừng, kẻ khác nữa làm người coi sóc và dạy dỗ” (Ep 4:11). Vì thế mà tạo nên xã hội, cộng đoàn. Ai cũng làm giám đốc thì lấy đâu có công nhân? Ai cũng làm tổng thống thì lấy đâu nhân dân? Nếu vậy, ơn gọi “làm nhỏ” có khi còn quan trọng hơn ơn gọi “làm lớn” đấy. Vì Chúa Giêsu đã xác định: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người” (Mc 9:35). Ngài luôn bảo người ta “làm nhỏ” chứ không khuyên ai “làm lớn”, nhưng người ta thích làm ngược lại. Đừng khinh suất hoặc ảo tưởng! Thánh Phaolô giải thích: “Nhờ đó, dân thánh được chuẩn bị để làm công việc phục vụ, là xây dựng thân thể Đức Kitô, cho đến khi tất cả chúng ta đạt tới sự hiệp nhất trong đức tin và trong sự nhận biết Con Thiên Chúa, tới tình trạng con người trưởng thành, tớitầm vóc viên mãn của Đức Kitô” (Ep 4:12-13). Đó là cả một chu-trình-vào-đời của bất kỳ ai.
Chúa Giêsu sai mọi người vào đời khi Ngài nói: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án”(Mc 16:15-16). Ai thật và ai giả cũng được Ngài nói trước: “Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khoẻ” (Mc 16:17-18).
Thánh Máccô kể: “Nói xong, Chúa Giêsu được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. Còn các Tông Đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng” (Mc 16:19-20). Và cho đến ngày nay, nhiều người cũng đã và đang “vào đời” như thế: Nói về Chúa, sống chứng nhân, sống gương mẫu, làm việc tốt, tha thứ cho người ghét mình, nghĩ tốt về người khác, rao truyền Tình Yêu Chúa, thực thi Lòng Chúa Thương Xót,…
Lạy Chúa, xin thêm cho chúng con ba đức đối thần (tin, cậy, mến) và các đức đối nhân để chúng con làm hành trang vào đời theo lệnh truyền của Đức Giêsu Kitô, Con Một của Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Đại Sư Phụ Giêsu, Thiên Chúa Cứu Độ của chúng con. Amen.
Tại nhà thờ chánh tòa Wurzburg trong miền Baviere, Tây Ðức, có một tượng thánh giá rất nổi tiếng được tạm trổ vào khoảng thế kỷ 14. Trên những tượng thánh giá, thông thường đôi tay Chúa Giêsu giang ra và bị đóng vào gỗ giá. Riêng đôi tay của Chúa Giêsu trên tượng thánh giá tại nhà thờ chánh tòa Wurzburg thì khác hẳn: thay vào bị giang ra và bị đóng vào gỗ giá, hai cánh tay của Chúa lại khoanh trước trái tim như thể đang ôm vào lòng một người nào đó.
Người dân địa phương truyền tụng rằng trong cuộc chiến tranh tôn giáo giữa tin lành và công giáo vào giữa thế kỷ 17, một người lính chống công giáo đã vào nhà thờ này. Nhìn thấy trên đầu Thiên Chúa có một triều thiên bằng vàng, anh sinh lòng tham, bắc thang leo lên để đánh cắp. Khi anh vừa đưa tay tháo gỡ triều thiên thì đôi cánh tay của Chúa Giêsu bỗng được tháo gỡ. Chúa Giêsu giang tay ôm trọn lấy anh vào lòng, với tất cả trìu mến. Người lính chết lịm trong vòng tay âu yếm của Chúa Giêsu.
Người ta tìm thấy xác của anh dưới chân thánh giá!
Kể từ ngày đó, hai cánh tay của Chúa Giêsu không còn giang ra và bị đóng vào lỗ đinh nữa, nhưng được khoanh trước trái tim trong tư thế đang ôm chầm lấy một người nào đó.
Du khách nhìn lên thập giá đều có cảm tưởng như ánh mắt của Chúa Giêsu nhìn mình và nghe có tiếng thì thầm: “Ta không hề kết án con”.
“Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài”, đó là chân lý cơ bản nhất trong Kitô giáo. Tất cả cuộc đời của Chúa Giêsu, cái chết của Ngài trên thập giá: đó là ngôn ngữ qua đó muốn nói với chúng ta rằng Ngài yêu thương chúng ta, yêu thương đến nỗi sẵn sàng để cho Người Con Một của Ngài chết thay cho chúng ta.
Thiên Chúa yêu thương con người: điều đó không có nghĩa là Ngài yêu thương con người một cách trừu tượng, yêu thương con người như một đám đông hay như một con số. Thiên Chúa yêu thương con người bằng một tình yêu cá biệt, nghĩa là mỗi người chúng ta đối với Ngài như thể là người duy nhất hiện hữu trên trần gian này. Mỗi người là một lịch sử, mỗi người chiếm trọn tình yêu của Chúa.
Thiên Chúa yêu thương tôi, nghĩa là Ngài chỉ muốn điều thiện cho tôi. Ðiều thiện ấy có thể vượt khỏi suy tính, đo lường của tôi. Do đó, cho dẫu có gặp trăm nghìn đớn đau, vất vả, chúng ta cũng hãy tin rằng Thiên Chúa đang yêu thương chúng ta. Ngài yêu thương tôi đến độ làm mọi cách để cho mọi sự đều quy về điều thiện hảo cho tôi. Một cơn bệnh, một sự thất bại, một cái chết, một sự mất mát và ngay cả tội lỗi: tất cả đều là những cơ may để Ngài ban cho tôi một ơn phúc cao cả hơn.
Thánh Isidore là quan thầy của các nông dân và làng quê. Ðặc biệt, ngài là quan thầy của Madrid, Tây Ban Nha, và của Hội Nghị Ðời Sống Công Giáo Thôn Quê Hoa Kỳ.
Khi lớn tuổi, ngài làm công cho gia đình ông Gioan de Vergas, một địa chủ giầu có ở Madrid, và trung thành làm việc cho đến mãn đời. Isidore kết hôn với một thiếu nữ đạo đức và chính trực mà sau này bà được tuyên xưng là thánh Maria de la Cabeza. Hai người có được một con trai nhưng chẳng may cậu chết sớm. Cả hai ông bà tin rằng ý Chúa không muốn hai người có con, do đó họ quyết định sống khiết tịnh cho đến suốt đời.
Isidore là người đạo đức thâm trầm bẩm sinh. Ngài thức dậy từ sáng sớm để đi lễ và dành thời giờ trong những dịp lễ lớn để đi viếng các nhà thờ ở Madrid và vùng phụ cận. Trong khi làm việc, ngài luôn chuyện trò với Thiên Chúa. Khi bị các đồng nghiệp cho rằng ngài trốn tránh nhiệm vụ qua việc tham dự Thánh Lễ hằng ngày, lấy nhiều thời giờ để cầu nguyện, v.v., Isidore trả lời rằng ngài không còn lựa chọn nào khác hơn là tuân theo Ông Chủ tối cao. Truyền thuyết kể rằng, một sáng kia khi ông chủ đến cánh đồng để bắt quả tang Isidore trốn việc đi nhà thờ, ông thấy các thiên thần đang cầy cấy nơi khu ruộng của Isidore.
Isidore còn nổi tiếng là thương người nghèo và cũng thường để ý đến việc chăm sóc loài vật.
Isidore từ trần ngày 15 tháng Năm 1130, và được phong thánh năm 1622, cùng với các Thánh I-nhã, Phanxicô Xaviê, Têrêsa và Philip Nêri.
Lời Bàn
Chúng ta có thể tìm thấy nhiều sự ứng dụng nơi vị lao công thánh thiện này: Công việc lao động có phẩm giá; sự thánh thiện không bắt nguồn từ địa vị xã hội; sự chiêm niệm không lệ thuộc vào học thức; đời sống thanh bạch là con đường dẫn đến sự thánh thiện và hạnh phúc.
(Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu.)
(1 Ga 4,8)
tác giả: Phùng văn Phụng
Câu chuyện 1:
Tuần rồi tôi có nhận được E.mail của người bạn nội dung như sau:
Tin khẩn: Cha qua đời con ở đâu?
Hải quân Trung tá Nguyễn thiện Nhựt (Noel) khóa 3 sĩ quan hải quân (Đệ Nhị Bắc Giải) từ trần tại bịnh viện Corner Stone (Houston) hơn hai tuần lễ nhưng không có thân nhân đến nhận xác. Được biết Niên Trưởng Nguyễn thiện Nhật có hai người con ở Cali nhưng không ai biết địa chỉ..
Xin Quý vị, Quý Niên trưởng và Chiến Hữu vui lòng giúp đỡ tìm kiếm…
Trước năm 1975 Trung tá Nhựt đã phục vụ trong binh chủng hải quân của quân lực Việt nam cộng hòa. Tôi không biết Trung tá Nhựt có đi “cải tạo” không hay là ông đã di tản qua Mỹ trong những ngày cuối tháng tư năm 1975.Tại sao có những người cao niên sống ở nước Mỹ gặp nhiều chuyện buồn đến như vậy?. Con cái không thường xuyên thăm hỏi cha mình, cha bịnh, cha mất mà không hay biết.? Đạo làm người bình thường thăm hỏi cha mẹ khi ốm đau cũng không có. Nếu là người công giáo, chắc là người con đã quên điều răn thứ tư trong 10 điều răn của đạo Chúa là “Thảo kính cha mẹ” cũng như quên lời thánh Phao lô đã dạy: “Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ … để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này”. (Ep 6:1-3)
Câu chuyện 2:
Tự tử tập thể ngay tại truờng.
*Ba em nữ sinh Nguyễn thị Mỹ Hạnh, Lê thị Bích Loan, Nguyễn thị Cẩm Nhung học cùng lớp 7A trường trung học cơ sở (THCS) Phan Chu Trinh, xã Đắk Sắk, huyện Đắc Mil, tỉnh Đắc Nông. Cả ba là bạn thân nhau cùng học khá, giỏi. Ba em này rủ nhau tự tử vào sáng ngày 17 tháng 3 năm 2012 vừa qua ngay tại trường.
*Trong năm nay, cuối tháng 2 vừa qua, một nữ sinh lớp 12 Trường Trung học phổ thông Lê Hồng Phong (Nam Định) bất ngờ thắt cổ tự tử tại khu ký túc xá của trường. Cũng cùng thời gian ấy một học sinh có học lực khá của trường THPT bán công Đông Hưng (nay là trung học phổ thông Đông Quan, Thái Bình) đã nhảy từ lầu 2 xuống sân trường tự tử chỉ vì lý do rất bình thường là bị cô giáo môn toán mắng.
*Ngày 9-2 em H. học sinh lớp 9 trường THCS xã Cẩm Đền huyện Cẩm Giang 2 Hải Dương chỉ vì lén lấy trộm chiếc quần jean của cửa hàng bán quần áo. Khi bị bắt quả tang, cửa hàng gọi gia đình đòi 300,000 đồng. Thế là em H. nhảy sông tự tử.
*Khoa cấp cứu bịnh viện Nhi đồng 2 ở Sài gòn ngày 29 tháng 2 đã cứu sống một nữ sinh lớp 8 trong tình trạng nguy kịch vì uống hai vĩ thuốc panadol 500mg (20 viên) để tự tử. Lý do em buồn vì cô giáo đối xử với em không công bằng, gia đình không cho em xài điện thoai di động.
*Em L.T.D. học sinh lớp 11 trường Dân tộc nội trú, huyện Điện Biên Đông, ăn lá ngón chết chỉ vì hờn mát trước câu nói của bố “Con dùng điện thoại phải giữ cẩn thận nếu làm hỏng bố không có tiền sửa cho con đâu!”… (Trong bài Hội chứng chán sống và hội chúng khỏa thân của Văn Quang, Thời báo số 281 ngày 30-03-2012)
*Theo nhà báo Bùi Tín trong bài “Người khổng lồ bệnh hoạn đăng trong đài VOA ngày 02-4-2012, thì mỗi năm Trung Quốc có 287.000 người tự tử (thống kê năm 2000). Mỗi ngày Trung Quốc có 3.500 vụ phá thai.
Hiện tượng tự tử của các em, các cháu còn nhỏ tuổi đã làm cho ông bà, cha mẹ phải suy nghĩ, do tình trạng tâm lý ích kỷ, chỉ nghĩ đến cá nhân, chỉ nghĩ về mình, do gia đình và xã hội đã dạy dỗ như thế nào đối với các em?. Chắc chắn là các em thiếu một đời sống tinh thần, thiếu một đời sống tâm linh, thiếu mục đích sống, không biết sống để làm gì? Các em không được dạy cần biết sống yêu thương, bác ái, sống vì người khác mà người gần gủi nhất là cha mẹ và bà con chòm xóm vv.. Nếu các em được dạy dỗ biết sống bác ái, biết sống cho tha nhân, có lẽ các em chắc đã không có hành động nông nổi như vậy.
Còn con số tự tử đáng báo động ở Trung Quốc đủ cho chúng ta thấy khủng hoảng niềm tin nơi con người thời nay. Thiếu tin tưởng vào Thiên Chúa toàn năng, vào đời sau vĩnh cửu con người mất phương hướng, không biết sống để làm gì, do đó tình trạng bơ vơ, chán sống thúc đẩy con người tự tử chăng?
Truyện thánh Gióp trong Cựu Ước
Truyện thánh Gióp kể rằng ông là người kính sợ Thiên Chúa và xa lánh điều ác. Ông có 7 người con trai và ba người con gái. Ông có một đàn gia súc gồm 7 ngàn chiên dê, ba ngàn lạc đà, năm trăm đôi bò….
Vậy mà một ngày kia … trong lúc bò của ông cày ruộng, lừa cái ăn cỏ bên cạnh. Dân Sơva đã xông vào cướp lấy chúng, dùng gươm giết chết hết các đầy tớ…
Người Can đê chia thành ba toán ập vào cướp lấy lạc đà chúng dùng gươm cũng giết hết các đầy tớ của ông.
Rồi có một trận cuồng phong từ bên kia sa mạc thổi thốc vào bốn góc nhà, nhà sập xuống đè trên đám trẻ, các con của ông, họ đang ăn uống chết hết…
Bấy giờ ông Gióp trỗi dậy xé áo mình ra, cạo đầu, sấp mình xuống đất, sụp lạy và nói:
“ Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng. ĐỨC CHÚA đã ban cho,
ĐỨC CHÚA lại lấy đi: Xin chúc tụng danh ĐỨC CHÚA!” . Satan hành hạ ông Gióp khiến ông mắc phải chứng ung nhọt ác tính từ bàn chân cho đến đỉnh đầu. Ông ngồi giữa đống tro lấy mảnh sành mà gãi. Khi bà vợ ông trách móc ông và nói với ông : “Ông hãy nguyền rủa Thiên Chúa và chết đi cho rồi.:” Nhưng ông Gióp đáp lại: …”Chúng ta đón nhận điều lành từ Thiên Chúa, còn điều dữ lại không biết đón nhận sao?” Ông Gióp không buông một lời nào trách móc phạm đến Thiên Chúa.
Nếu tin vào Thiên Chúa như thánh Gióp thì con người sẽ có thể chịu đựng được những khó khăn vui vẻ chấp nhận những thử thách trong đời sống hàng ngày.
Câu chuyện 3:
Chưa đầy 16 tuổi đã quay phim sex với người tình.
Cô giáo của trường THPT Ngô Gia Tự (Vĩnh Phúc) nghi ngờ khi thấy các học sinh lớp 10 của trường chuyền tay nhau chiếc điện thoại trong giờ học, cô giáo đã thu giữ chiếc điện thoại này.
Kiểm soát chiếc điện thoại trong giờ học cô giáo mới tá hoả khi nhìn thấy trong điện thoại cảnh “nóng” dài 30 phút của một nữ sinh chưa đủ 16 tuổi với bạn trai. Nhân vật nữ trong clip là em N.T.A. (sinh năm 1996) học sinh lớp 10 của trường Ngô Gia Tự này.
Người tình, nhân vật nam trong clip sex này là P.V.C. sinh năm 1991 ở tại xã Xuân Lộc, huyện Lâp Thạch.
.. Điều đáng nói clip quay cảnh nóng trên đã nhanh chóng được chia sẻ qua con đường điện thoại với tốc độ kinh hoàng. Rất nhiều học sinh của trường đã lưu lại trong điện thoại để chụm đầu xem, bàn tán…thú vị!!!
Một chuyện khác khó tin và khôi hài hơn là em Chu Thị D…học lớp 12, trường THPT Diễn Châu 2 (Nghệ An) đang ngồi học trong lớp bất ngờ kêu đau bụng và được mọi người đưa đi bịnh viện: 15 phút sau nữ sinh dưới sự giúp đỡ của các bác sĩ đã sinh hạ một bé gái. Sự việc xảy ra sáng ngày 11 tháng 3 vừa qua.(trong bài báo Hội chứng chán sống…đã dẫn)
Trách nhiệm cho những việc làm đáng tiếc trên thuộc về ai? Gia đình (ông bà cha mẹ) hay xã hội (bà con chòm xóm, thầy cô giáo dạy học các em) hay nhà cầm quyền (có quan tâm lo lắng, làm gương mẫu trong đời sống hằng ngày) để các em bắt chước noi theo.
Các em không biết Thiên Chúa là ai, không còn biết kính sợ Thiên Chúa nữa thì điều gì các em cũng có thể làm được cả. Còn cha mẹ chỉ lo làm ăn kiếm tiền, không quan tâm đến đời sống tâm linh cho chính mình và cho con cái vì “không ai vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được”. Khi cha mẹ chỉ biết lo kiếm tiền, bỏ bê con cái, không lo dạy dỗ chúng sống có lý tưởng, biết yêu thương cha mẹ, anh chị em, biết yêu mến tha nhân, người đồng loại thì những vấn nạn trên càng xảy ra nhiều hơn nữa..
Tôn giáo, tình yêu thương lẫn nhau… đã vắng bóng trong các gia đình này chăng?
Những vấn nạn này làm cho những ai quan tâm đến giáo dục giới trẻ, đạo đức xã hội, tương lai dân tộc đáng suy gẫm?
Thánh Pancratius là vị tử đạo thời tiên khởi mà chúng ta biết rất ít về ngài. Truyền thuyết nói rằng ngài sinh vào cuối thế kỷ thứ ba và được người chú ở Rôma nuôi dưỡng sau khi cha mẹ mất sớm. Sau đó, hai chú cháu theo Kitô Giáo. Trong thời gian cấm đạo của Hoàng Ðế Diocletian, Pancratius bị chặt đầu năm 304, lúc ấy ngài mới 14 tuổi.
Ngài được chôn trong một nghĩa địa mà sau này mang tên của ngài. Thánh Pancratius được nước Anh đặc biệt sùng kính vì Thánh Augustine ở Canterbury đã dâng hiến một nhà thờ ở đây cho Thánh Pancratius, và thánh tích của ngài được tặng cho vua xứ Northumberland.
Lời Trích
“Chúng sẽ bắt bớ và ngược đãi anh em, nộp anh em cho các hội đường và nhà tù, và chúng sẽ điệu anh em đến trước mặt vua quan vì danh Thầy. Ðó là cơ hội để anh em làm chứng. Hãy nhớ rằng, đừng lo nghĩ cách bào chữa, vì chính Thầy sẽ cho anh em tài ăn nói khôn ngoan khiến tất cả các địch thủ không tài nào chống đối hay bắt bẻ được” (Luca 21:12-15)
“Thư Gửi Con” là tâm tình của người mẹ muốn được chia sẻ cùng đứa con trai độc nhất của mình. Lời của người mẹ thật chân tình và tha thiết như muốn được trải lòng cùng con, với những ước mong con hiểu đời mẹ và luôn sống mãi đời Hiến Dâng Phục Vụ. Đừng nặng lòng lo cho Mẹ, cũng như đừng để trái tim hồng nào xâm chiếm trái tim con, ngoài Chúa.
Tình yêu đáp đền tình yêu. Những tâm tình của người mẹ chẳng rơi vào quên lãng, mà trái lại được trân trọng yêu thương và được nâng lên thành một thứ tình cao quý thiêng liêng: Tình mẹ, tình Chúa muôn đời.
Những tâm tình của người con dành cho mẹ cũng thật chân tình, tha thiết, yêu thương và rất thật, như đã thấu hiểu nỗi lòng người mẹ, chia sẻ với mẹ những vui-buồn-đắng-cay trong đời… Lời thiết tha của con vẫn là lời kinh nguyện, thánh lễ dâng lên Chúa cầu cho mẹ sống đời hạnh phúc yên vui. Và xin mẹ cũng khẩn nguyện cho đứa con hư dại và bất hiếu này sẽ mãi mãi trung thành trong lý tưởng Ơn gọi – rao truyền chân lý, phục vụ yêu thương.
Sài Gòn, ngày…tháng…năm
Thư Gởi Mẹ
Mẹ kính yêu,
Lời đầu tiên của con dành cho mẹ là lời thăm hỏi trong Chúa, nguyện cầu cùng Mẹ Maria và lời chào trong thánh phụ Giuse.
Cám ơn mẹ thật nhiều, nhiều lắm! Vì đã nhớ đến con, viết thư thăm con và chia sẻ những nỗi niềm buồn vui trong cuộc sống cùng con. Nỗi buồn xa quê nhà chỉ mong có vậy…
Mẹ ơi ! Con đã đọc được thư của mẹ rồi, không chỉ đọc một lần thôi, mà cứ đọc đi đọc lại, đọc đến độ thuộc từng con chữ. Càng đọc, con càng cảm thấy thương mẹ và yêu mẹ nhiều, thật nhiều! Vâng, con biết tình mẹ thật bao la vô bờ bến, đến độ đại dương có lớn, có sâu, có rộng đến mấy cũng không sánh bằng tình mẹ dành cho con. Con nhớ đến ngày xa xưa ấy, những tháng ngày mà mẹ con mình ấp ủ bên nhau, cùng nhau trốn tránh nắng mưa bụi đời, cùng nhau chia sẻ kiếp đời gian dối, cùng nhau vượt thác trèo đồi… Gian khổ biết chừng nào mà mẹ vẫn bồng bế con trên đôi tay gầy yếu. Biết bao thương đau mà mẹ hứng chịu.
Đúng, đời mẹ là một chuỗi dài nước mắt. Con biết, con biết chứ! Từ nhỏ mẹ đã côi cút, lớn lên làm tôi thiên hạ, và rồi cũng như bao nhiêu người phụ nữ khác, ước mơ có một mái ấm gia đình. Mẹ đã đến với bố con. Nhưng đâu ngờ, hạnh phúc nó lại không mỉm cười với mẹ. Mẹ rơi vào cái vòng luẩn quẩn của biển đời gian dối, khổ ải, chán trường, tuyệt vọng.
Những lúc như thế mẹ đã muốn đập đổ và phá huỷ tất cả : “Hôn nhân, cuộc đời và ngay cả mạng sống nữa…”, nhưng vì con, lo cho con mà mẹ đành hy sinh vượt lên tất cả: bất chấp khổ đau, quên đi sầu luỵ, vượt qua cái vòng luẩn quẩn của biển đời gian dối ấy. Con nhớ lại những tháng ngày mà mẹ gánh chịu những trận đòn thê lương, cuồng dại của bố con trong cơn say mà con còn rùng mình khiếp sợ. Vậy mà mẹ vẫn chấp nhận và gánh chịu tất cả.
Ôi, mẹ của con, mẹ không chỉ khổ đau, tan nát về những lời chửi rủa, mắng nhiếc cay nhiệt, những cú đấm – đá tàn ác, dã man, mà còn đau khổ tan nát hơn nữa, là người, mà cả cuộc đời của mẹ đã đặt cả niềm tin, tình yêu và hạnh phúc của mình và coi đó là chỗ dựa tinh thần duy nhất của đời mẹ. Vậy mà mẹ cũng không có. Ước mơ vẫn chỉ là mơ ước. Niềm vui, tình yêu và hạnh phúc nó cứ vẫy chào mẹ. Một ngày bình yên trong đời mẹ cũng không.
Con nghĩ người phụ nữ đau khổ, bầm giập, tan ná, bi thương nhất trên cuộc đời này có lẽ là Mẹ của con. Người chịu đựng và hy sinh nhất cũng là mẹ. Mẹ là người con yêu thương và quý trọng nhất trong cuộc đời này. Mẹ là dòng suối dịu hiền của đời con, là cánh chim đưa con vào đời, là bóng mát cho đời con trú ẩn. Mẹ là tất cả. Nhờ mẹ, vì mẹ mà con có ngày hôm nay…
Tình thương và dấu ấn của mẹ ngày càng sâu đậm nơi tiềm thức của con theo thời gian. Dù cho cuộc sống có đổi thay, thời gian có thoi đưa, nhưng con luôn nhớ đến mẹ, hướng về mẹ và gọi tên mẹ. Những lúc trống trải của cuộc đời, những lúc trời buồn gió lạnh, những lúc thất vọng ê chề, con cũng muốn buông xuôi tất cả. Nhưng nhớ đến mẹ lại là động lực để con tiến bước. Tiếp bước để đáp đền công ơn mẹ. Tiếp bước để đi trọn Lý Tưởng. Mẹ đã chẳng nói cuộc đời của mẹ chỉ có hai người đàn ông: Bố con và con đó sao? Và biết đâu những đau khổ, phiền lụy mẹ chịu lại sinh hoa trái là con?
Nhưng mẹ ơi, Ơn gọi và cuộc đời huyền nhiệm lắm. Có nhiều lúc con tự hỏi bao đau khổ mẹ chịu sao không phải là ai khác mà là mẹ? Phải chăng mẹ đến với bố con trong đau khổ ấy mà con có mặt trong cuộc đời? Một con người yếu đuối và tội lụy như con liệu có theo Chúa làm môn đệ Ngài được chăng? Mẹ mong mỏi nơi con và đặt nhiều niềm hy vọng, nhưng con không làm được điều mẹ ước mong thì sao? Sự thực, có lúc con mệt mỏi, chán chường và để đời mình như đám lục bình trôi sông đấy mẹ ạ. Nhưng con nghĩ đến tình Chúa yêu con và nhất là nghĩ đến những hy sinh của mẹ, con lại gắng mình tiếp bước cho trọn hành trình dang dở, dẫu đường đời còn dài, nhiều gian nan và thử thách đang đợi phía trước. Con cũng lắng lo và sợ lắm, nhưng con tin có mẹ và con tin vào sức mạnh của Chúa. Chỉ có thế thôi mẹ ạ. Và giả như điều xấu nhất có thể xảy ra…, thì con vẫn mãi là con của mẹ.
Vâng, con biết tất cả những gì mẹ làm là vì bố con và con. Mẹ đã sống trọn nghĩa vẹn tình, con biết chắc chắn và tin rằng Chúa không bao giờ quên mẹ đâu! Ngài sẽ bù đắp cho mẹ tất cả. Giờ đây, bố con đã đi xa, nhưng con luôn tin tưởng ở trên bầu trời trong xanh nào đó bố đang thầm nguyện cầu cho mẹ. Còn con, nơi không gian nhỏ bé của tu viện này, luôn nhớ đến mẹ, cầu nguyện cùng Chúa cho mẹ sống đời hạnh phúc bình yên, trọn vẹn, như mẹ đã sống trọn vẹn với bố con và con. Tất cả con xin gửi trao cho Chúa, Đấng an bài mọi sự.
Mẹ ơi! Màn đêm đã chìm vào sâu. Trời oi bức khiến giấc ngủ của con đêm nay không thành. Trằn trọc suy nghĩ về mẹ và đường đời Ơn gọi, con ngồi viết những dòng tâm tình này đến mẹ như những dòng chia sẻ sâu xa nhất của con trai dành cho mẹ. Vâng, con muốn viết thật nhiều, nhưng ngọn đèn leo lét báo hiệu thời gian, con xin khép lại trên trang giấy này, cầu chúc mẹ nơi phương trời ấy giấc ngủ bình yên và tình thương của Chúa ấp ủ, chở che mẹ suốt cả cuộc đời. Xin mẹ cũng nhớ đến và cầu nguyện cho đứa con bất xứng và hư dại này. Con xin gởi lại đây với tất cả những gì là yêu nhất, qúy nhất, thương nhất.
Con xa nhớ, có phải đây là lần đầu tiên mẹ viết thư cho con không nhỉ? Nhận được thư chắc con ngạc nhiên lắm? Vì như có lần mẹ nói với con: Mẹ cũng ngại viết, nhưng chắc con cũng bận học, nên thôi thì có chuyện gì cần gấp lắm mẹ mới biên vài chữ thôi nhé! Đọc thư mà có thấy mẹ viết lủng củng, linh tinh gì thì cũng thông cảm cho mẹ.
Hạnh phúc của mẹ con mình thật quá ít ỏi, hiếm hoi. Con thấy đấy, cuộc đời mẹ là một chuỗi dài nước mắt: Nhỏ thì côi cút, lớn lên thì đi làm thuê làm mướn, rồi gặp bố con, những tưởng hạnh phúc sẽ mỉm cười với mình, nào ngờ gia đình rơi vào vòng túng quẫn, việc làm ăn đổ bể, bố con chán nản rồi sinh rượu chè… tánh nết của bố đổi khác quá, càng ngày càng đoạ ra nghiện ngập, mất hết ý chí, nhu nhược, niềm tin vào cuộc sống và cả Chúa nữa cũng chẳng còn. Sau mỗi lần bố đi nhậu về là mỗi lần mẹ con mình phải “chạy loạn”, rồi đòn rồi vọt, đánh đấm…
Nhớ lại những ngày đầy nước mắt ấy mẹ lại rùng mình khiếp sợ. Mẹ nhớ nhiều lúc mẹ muốn đạp đổ, muốn phá huỷ tất cả: hôn nhân, cuộc đời và ngay cả mạng sống bản thân, nếu như mẹ không nghĩ đến con và còn cố giữ cho mình một chút niềm tin, hy vọng. Mẹ vẫn còn tin vào giá trị thiêng liêng của Bí tích mà mẹ đã lãnh nhận trong ngày mẹ đứng trước cộng đoàn Dân Chúa và thề nguyền: “Tôi, Maria Nguyễn Trần T.M., nhận anh Giuse Nguyễn Hoàng T.L. làm chồng, và hứa sẽ giữ lòng chung thuỷ với anh, khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi mạnh khoẻ cũng như lúc yếu đau, để yêu thương và tôn trọng anh mọi ngày suốt đời tôi”.
Mẹ chỉ còn biết nhìn lên Chúa và Đức Mẹ của mẹ để mà cầu xin, để mình còn can đảm, nghị lực để trung thành, chung thuỷ. Con đường đau khổ mà mẹ đã đi qua ngẫm lại cũng còn có Chúa ở bên giữ gìn, bảo ban và có con ở bên để an ủi mẹ. Mỗi lần nhìn vào khuôn mặt ánh mắt tự tin đầy sức sống của con là mẹ lại gắng gượng tiếp tục xây dựng cuộc đời, chăm sóc bố con. Đến giờ phút lâm chung bố mới chịu lãnh các phép; khi đó mẹ mới an lòng là Chúa đã nhận lời cầu xin của mẹ – cầu cho bố con tỉnh ngộ tìm lại cho mình đức tin, mong cứu được phần hồn. Trong hơi thở cuối cùng, bố con thì thào xin lỗi vì những khổ đau mà bố đã gây ra cho mẹ con mình. Những lời của một người sắp chia ly vĩnh viễn cõi trần này thì thảng thốt, chân thành và thật, mẹ tin như thế và tha thứ cho bố con. Thôi thì tha thứ để cho người hấp hối được an lòng nhắm mắt ra đi, còn kẻ ở lại thì bớt áy náy con ơi! Mẹ mong con cũng tha thứ và cầu nguyện cho bố!
Giờ đây, bố con đã ra đi, con cũng đã đủ khôn lớn mẹ mới dám tỏ bày cho con sự thật: trong quãng đời đau khổ đó, lúc mà bố con tàn tạ, người chẳng ra người, mẹ cũng có lúc như xiêu lòng, nghiêng tới một sự bảo bọc của “đối tượng” khác mà không phải là bố con.
Con yêu quý của mẹ ơi! Mẹ tin tưởng là con hiểu và thông cảm cho những tâm sự, tình cảm rất con người trên đây của mẹ. Nhưng con hãy yên tâm và đừng hoài công thắc mắc về “đối tượng” ấy. Mẹ viết thư nói lên sự thật này không phải ý tứ báo trước rằng con sẽ có bố dượng đâu! Giờ mẹ quyết rằng: Cuộc đời mẹ chỉ có hai người đàn ông: Bố con và Con thôi!
Con yêu! Mẹ dám chắc rằng không ai hiểu tính tình con cho bằng mẹ. Này nhé: bố nghiện ngập, nhu nhược, yếu đuối bao nhiêu thì con có ý chí, mạnh bạo, quả cảm bấy nhiêu. Con cương nghị, con suy nghĩ biết nhìn mọi việc trước sau và con quyết định làm một việc gì đó là con làm cho đến cùng. Xét ra điều đó tốt! Nhưng con ơi, có những điều chỉ có sức con người và cậy dựa vào tài lực chính mình thôi chưa đủ, mà còn phải có Ơn Trên. Mẹ nói thế không phải mẹ nói suông đâu, vì đó là những điều mẹ cảm nhận được khi nhìn lại đời mình.
Con ơi, mẹ nghĩ, đời mẹ có thể có những đau thương, phức tạp nhất định, và đơn giản hơn cuộc đời, hướng đi mà con chọn cho mình hiện nay – Đường Tu. Mẹ nghĩ thế chẳng biết có đúng không? Nhưng một câu Kinh Thánh mà mẹ nhớ: “Chính Thầy đã chọn các con chứ không phải các con chọn Thầy” nói lên phần nào sự khó khăn đó.
Ơn gọi là một điều gì đó bí ẩn con ạ! Và như mẹ thấy ngay cả khi bố mẹ sống với nhau trong ơn gọi, trong bậc vợ chồng biết bao khó khăn, đau khổ thất bại nhưng mẹ vẫn thấy ơn gọi đó thật bí ẩn và nhiều lúc mẹ thắc mắc : những đau khổ mà mẹ phải chịu đựng trong cuộc sống vợ chồng biết đâu chẳng được đền bù, chẳng sinh hoa trái là con đó sao? Và giả như, nếu mẹ chiều theo những đam mê, khát vọng của riêng mình mà bỏ rơi bố và con thì thử hỏi giờ này con có phải là con của ngày hôm nay nữa không?
Mẹ biết con đường nào cũng có những khó khăn vất vả của nó. Nhưng mẹ nghĩ dù là đường vợ chồng hay đường tu trì, thì điều cốt yếu vẫn là sự tha thiết với ơn gọi mà mình theo đuổi. Cũng như mẹ, có lúc tưởng như không vượt qua được chính những yếu đuối, cám dỗ và những khó khăn mà mẹ phải chịu nhưng, vì mẹ còn sự tin tưởng là chính Chúađã an bài để mình trong ơn gọi như thế, nên mẹ cố giữ lấy cho mình một tia hy vọng, và Chúa đã trợ giúp mẹ chu toàn bổn phận, trách nhiệm… Mẹ tin rằng trên cõi đời này cũng đã và đang có rất nhiều người sống đau khổ, bất hạnh nhưng họ cố gắng tin vào một điều gì đó tốt đẹp hơn vào ngày mai để sống. Và chỉ có như thế thì mới còn dám tiếp tục dấn bước, tiếp tục cuộc đời mình.
Cũng như thế, mẹ nghĩ rằng nếu con đã tin Chúa đã gọi con thì cứ bước đi, đừng sợ nếu con còn cảm thấy trong cõi lòng mình một đốm lửa của lòng mến, sự tha thiết với ơn gọi. Mẹ dám đoan chắc với sự thiết tha, tin tưởng dù nhỏ của con, Thiên Chúa sẽ không bao giờ bỏ rơi con cô đơn một mình với những khó khăn về tình cảm hay vật chất đâu. Chào con yêu qúi nhất của Mẹ!
Lúc sắp trút hơi thở, Chúa Giêsu có cuộc đối thoại cuối cùng với hai người gian phi cùng bị treo trên thập giá cạnh ngài. Một trong hai người đó thốt lên lời nầy với Chúa Giêsu: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi”. Và Chúa nói với anh ấy: “Tôi bảo thật với anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên đàng” (Lc. 23, 42-43).
Chúa Giêsu không sưu tra lại lý lịch người đó để nhớ xem hắn gian ác đến mức độ nào, không cân nhắc tội nặng, nhẹ để châm chước hay tạm ra hình phạt thế nào đó cho thích đáng. Người gian phi kêu nài Ngài nhớ, thì Ngài “nhớ” một điều là thấy người ấy trước mắt, còn tất cả mọi điều gian ác trước đó Ngài đã quên hết, quên đến độ ngay hôm đó hứa ngay Nước Thiên đàng cho anh ta. Các thánh nói: tên nầy suốt đời ăn trộm, đến lúc chết nó ăn trộm nước thiên đàng luôn!
Trong Phúc âm chúng ta gặp lại nhiều chứng tích về việc Chúa Giêsu kém trí nhớ như thế. Nhưng qua chuyện ngụ ngôn người cha nhân hậu, sự kiện đó rõ ràng. Thánh sử Luca kể rằng người con út trong hai con của cha già đã lấy hết phần gia tài của nó, để bỏ nhà ra đi sống đời phóng đảng, quên cha, quên anh. Ðến khi tiêu hết tiền, gặp năm đói, thì quay trở về nhà, xin khai thú tội lỗi mong cha già xét tình cha con mà tha thứ…
Người cha (là hình ảnh Chúa Giêsu), không kể đến tội cũ, chỉ trông ngóng chờ con; thấy con đằng xa, thì chạy ra đón. Con có thú tội, thì cũng không cố nghe để hạch hỏi tội cũ mà ra lệnh cho tôi tớ: lấy áo đẹp, giày tốt, nhẫn quý mang lại cho cậu, làm thịt con bê béo dọn tiệc vì con ta chết mà nay nó sống lại.
“Anh ta còn ở đằng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để. Bấy giờ người con thưa rằng: “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với Cha, con chẳng đáng gọi là con cha nữa…”. Nhưng người cha liền bảo người giúp việc rằng: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay , xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con dê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng!…” (Lc. 15, 20-23).
Chúng ta thấy ở đây trí nhớ của Chúa Giêsu dường như không còn làm việc nữa! Ngài quên vô điều kiện, quên tức khắc tất cả quá khứ không hay không tốt của ta, mỗi khi chúng ta quay trở về. Ngài chỉ nhớ mỗi người là con Cha Ngài, là em Ngài, nên khi ta quay lại gặp Ngài, thì tức khắc ta lại được mặc áo vinh hiển sự sống của Thiên Chúa.
2 – Chúa Giêsu không biết làm toán
Trong dụ ngôn con chiên bị mất (xem Mt. 18, 12-14; Lc. 15, 4-7), chúng ta thấy lối cư xử của Chúa Giêsu tỏ ra không biết tính toán. Một kẻ có 100 con chiên ở giữa đồng trống mà mất một con, hẳn phải tính toán xem làm sao một con đi lạc lại hơn 99 con còn lại. Không những Chúa Giêsu cho rằng 1 con đi mất cũng bằng 99 con còn lại, mà còn đi xa hơn nữa: Ngài bỏ 99 con còn lại đấy để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất. Một mà hơn 99, hẳn Chúa Giêsu không biết làm toán!
Trong chương trình rao giảng của Ngài, không phải số lượng quần chúng đông đảo mà Chúa Giêsu tìm kiếm, nhưng là những con người; và Ngài đã không tiếc thì giờ để trao đổi với từng người, giảng dạy cho một người như chúng ta từng thấy trong cuộc đối thoại với người phụ nữ Samari trên bờ giếng Gia-cóp (xem Gioan 4, 1-42).
3 – Chúa Giêsu không sành luận lý
Chúa Giêsu không những không cân nhắc tính toán trên số lượng, mà có lúc lời của Ngài đi ngược lại sự khôn ngoan bình thường của con người.
“Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng kêu bạn bè, anh em hay bà con, hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi. Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì để đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc… (Lc. 14, 12-14).
Trong dụ ngôn về đồng bạc bị mất (xem Lc. 15, 8-10), người phụ nữ có 10 đồng, nhưng trong đêm lỡ đánh mất 1 đồng: “bà thắp đèn, quét nhà, moi móc tìm cho bằng được.” – Khi tìm được, thì bất chấp giờ giấc nghĩ ngơi ban đêm của hàng xóm, bạn bè, mời họ phải đến chung vui với mình.
Chúa Giêsu ví mình như người phụ nữ tìm đồng bạc bị mất trong đêm; không cần suy tính, luận lý là đủng đỉnh ngày mai sẽ tìm, dù sao thì cũng còn 9 đồng khác trong tay; nôn nóng đem nguồn vui của mình cho người chung quanh không ngại sự nghỉ ngơi trong đêm vắng. Chẳng qua vì Chúa là yêu thương, mà yêu thương của Thiên Chúa cao hơn lý luận con của người.
“Giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối” (Lc. 15, 10).
4 – Chúa Giêsu không biết kinh tế tài chánh
Chúa Giêsu đến để loan báo Nước Trời ở gần con người, gần cuộc sống của họ. Thế mà khi giới thiệu Nước Trời với các môn đệ và với người nghe Ngài nói, Ngài lấy dụ ngôn về Nước Trời như người chủ vườn nho thuê thợ làm cho mình trong một ngày (xem Mt. 20, 1-16). Người chủ từ tảng sáng đã mướn thợ làm; rồi đến giờ thứ 3, giờ thứ 6, giờ 11, mỗi giờ người ấy đều đi tìm mướn thêm thợ (giờ 11 trong lối nói của người Do Thái thời của Chúa Giêsu tức là buổi cận chiều tối rồi).
Chiều tối đó, ông chủ, là hình ảnh Chúa Giêsu, bảo người quản lý kêu thợ lại và trả cho mỗi người 1 quan tiền như nhau. Những kẻ làm nhiều giờ trong ngày bực tức vì thấy ông chủ nầy không biết gì về kinh tế, tài chánh cả, hơn nữa còn bất chấp lối tính toán và sự công bình thông thường:
“Nầy bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thoả thuận với tôi là 1 quan tiền sao?…Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ghen tức? Thế là những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót…” (Mt. 20, 13-16).
5 – Chúa Giêsu làm bạn với kẻ tội lỗi
Không phải trong xã hội của người Do Thái vào thời Chúa Giêsu còn tại thế, mà ngay giữa xã hội chúng ta, người ta khó lòng chấp nhận chuyện người “đàng hoàng” lại giao du với lớp người được đánh giá là không “đàng hoàng”.
Thời bấy giờ người đồng hương với Chúa Giêsu cho rằng hai giới đặc biệt không “đàng hoàng” là những quân thu thuế và người tội lỗi, đặc biệt là các người gái điếm. Người tội lỗi bấy giờ còn được xem là những kẻ không lành mạnh về cuộc sống thân xác, như người phung cùi, tàn tật… Những người Pha-ri-siêu nhiều lần thắc mắc về thái độ sống của Chúa Giêsu và nhắc nhở với các môn đệ Chúa:
“Sao Thầy của các anh lại ăn uống với bọn thu thuế và quân tội lỗi như vậy?” (Mt. 9, 11). “Ông nầy đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng” (Lc. 15, 2).
Theo các sách Phúc âm ghi lại, thì không những Chúa Giêsu chỉ gặp gỡ, chào hỏi, hay bất đắc dĩ được mời ăn thì ngại lắm phải chiều người ta, mà thực sự Ngài tự tìm tới nhà người thu thuế, và kẻ tội lỗi, làm thân với họ và ăn ở với họ.
Ông Da-kêu là người “đứng đầu những người thu thuế” (Lc. 19, 2); khi biết Chúa Giêsu đi qua thành phố Giê-ri-cô, ông ấy sợ không chen lấn nổi với đông đảo dân chúng, nên chạy ra đàng trước, trèo lên cây sung để xem Ngài, chẳng qua vì ông rất lùn. Chúa Giêsu đi qua, nhìn lên cây ấy thấy ông và nói ngay:
“Nầy ông Da-kêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!” (Lc. 19, 5).
Người chung quanh xào xáo:
“Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ” (Lc. 19, 7).
Chúa Giêsu tự đến để gặp gỡ Da-kêu và loan Tin Mừng:
“Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà nầy” (Lc. 19, 9)
Và chúng ta đều biết Chúa đã chọn 1 trong 12 vị tông đồ của Ngài là Mathêu, trước đó có tên là Lê-vi một người làm nghề thu thuế.
Và để giải thích thái độ ngược đời của mình, chính Chúa Giêsu đã nói rõ sứ mệnh của Ngài.
“Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Hãy về học cho biết ý nghĩa câu nầy: Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế. Vì tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi (Mt. 9, 12-13).
6 – Chúa Giêsu thích ăn uống, tiệc tùng
Phúc-âm cũng cho chúng ta thấy sự kiện mỗi lần đến nhà nào, gặp ai, đặc biệt là những người được xã hội xếp loại không “đàng hoàng”, Chúa Giêsu lại thường ăn uống. Ngài mở đầu sứ mạng rao giảng công khai bằng việc dự tiệc cưới Cana miền Galilê (Gioan 2, 1), kết thúc cuộc gặp gỡ chung với các tông đồ trước khi đi vào cuộc khổ nạn bằng bữa tiệc ở Giêrusalem gọi là tiệc ly (Mt. 26, 17 và tìếp theo).
Thế nhưng lịch sử nhiều tôn giáo và tâm thức nhiều nền văn hoá không phải đã cho chúng ta thấy rằng nói đến thần thánh, đạo đức, tôn giáo thì hẳn phải nói đến ăn chay cầu nguyện hay sao!
Luca thuật lại rằng, sau bữa tiệc lớn tại nhà Lê-vi (tức thánh Mathêu sau nầy) những người Pha-ri-siêu và những người thông luật nói với Chúa Giêsu: “Môn đệ ông Gioan năng ăn chay cầu nguyện, môn đệ người Pha-ri-siêu cũng thế, còn môn đệ ông thì ăn với uống” (Lc. 6, 33). Chúa Giêsu đã dùng những bữa ăn để cứu người tội lỗi như Mađalêna, Da-kêu…
Cái mới của Chúa Giêsu làm cho người Pha-ri-siêu và cả chúng ta khó hiểu đó là tất cả sứ điệp của Ngài, không còn phải là ăn chay hay ăn tiệc, nhưng tiên quyết là Yêu thương phát xuất từ tận đáy lòng mình. Như thánh Augustinô sau nầy tóm tắt trong câu: “Hãy yêu rồi làm gì thì làm” (Ama et fac quod vis).
7 – Chúa Giêsu không giữ luật Do thái
Không những lui tới bạn bè, với kẻ tội lỗi, lại còn hay dự tiệc với họ, Chúa Giêsu không giữ luật lệ của cộng đồng người Do Thái đương thời. Ngài bất chấp luật phải rửa tay trước bữa ăn, đi thẳng vào bàn tiệc nên “ông Pha-ri-siêu lấy làm lạ vì lúc đầu Ngài không rửa tay trước bữa ăn” (Lc. 11, 38). Ðặc biệt trong những ngày sa-bát, Ngài hay chữa lành bệnh tật cho người ta, và điều đó đối với người Do Thái đương thời cho là phạm luật. Phúc âm ghi lại nhiều sự kiện như thế, như việc chữa lành người bại tay (Lc. 6, 8-11), chữa người mắc bệnh phù thủng (Lc. 14, 1-6), chữa lành một phụ nữ còng lưng (Lc. 13, 14)… Thánh sử Luca ghi rõ: “Ông trưởng hội đường tức tối vì Ðức Giêsu đã chữa lành bệnh vào ngày sa-bát (Lc. 13, 14). Ngài không giữ luật, và các môn đệ theo Ngài cũng không giữ luật:
“Vào ngày sa-bát, Ðức Giêsu đi băng qua một cánh đồng lúa; các môn đệ đưa tay bứt lúa ăn. Nhưng có mấy người Pha-ri-siêu nói: “Tại sao các ông làm điều không được phép làm trong ngày sa-bát” (Lc. 6, 1-2).
Nhưng trước những lời chỉ trích nầy, Chúa Giêsu trả lời: “Con người làm chủ ngày sa-bát” (Lc. 6, 9). Chúa Giêsu đến để làm trọn lề luật, để ban luật mới là luật yêu thương, là luật có chiều kích nội tâm, để xoá bỏ những lối giải thích lề luật rắc rối bên ngoài: “Khốn cho các ngươi giả hình, như má tô vôi, bên ngoài trắng trẻo mà bên trong thối tha” (Mt. 23, 13-36).
8 – Chúa Giêsu như điên cuồng
Trong Toà Tổng trấn Phi-la-tô, lúc chịu xử án, Chúa Giêsu bị lính của Tổng trấn cho choàng áo đỏ, đội vương niệm bằng gai để chế nhạo như là kẻ điên cuồng. Nhưng không phải chỉ người ngoài, mà ngay cả Phê-rô, người vừa được Chúa Giêsu cử sẽ làm đầu Hội thánh Ngài: “Anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng đá, trên tảng đá nầy, Thầy sẽ xây Hội thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi…” (Mt. 16, 18), người được Chúa tin yêu như thế cũng không chịu nổi những lời nói như điên dại của Chúa Giêsu: “Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt. 16, 21). Ðiên dại vì gọi môn đệ theo mình, đồng thời thông báo mình phải chịu khổ đau, bị giết chết; và xem ra điên dại hơn nữa khi bảo rằng chết sau ba ngày sẽ sống lại! Và suốt cả các cuốn Phúc âm trang nào cũng làm cho chúng ta ngạc nhiên về thái độ và lời nói khác lạ của Ngài:
“Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em. Ai vả anh má bên nầy, thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin thì hãy cho, ai lấy cái gì của anh, thì đừng đòi lại… (Lc. 6, 27-31).
Nói như thế, làm sao có thể nghe cho được, khi tâm tư ta còn sống trong tâm trạng “măt đền mắt, răng đền răng”!
Và tôi xin kể cho các bạn kinh nghiệm của tôi về sứ điệp “điên dại” nầy của Chúa Giêsu. Lúc tôi sống những năm tháng tù đày tại quê nhà, có lúc những người canh tù tâm sự cho tôi hay, họ thắc mắc và ngạc nhiên về thái độ vui cười, thân thiện của tôi đối với họ: trong hoàn cảnh nầy làm sao có thể thanh thản và dung thứ như thế được! Tôi đã có dịp chia sẻ các kinh nghiệm đó trong cuốn sách “Năm chiếc bánh, và hai con cá”, tôi vừa cho phổ biến trong năm nầy. Nhưng ở đây tôi muốn nói, chính sự “điên dại” của tình yêu thương Thiên Chúa đối với tôi, đối với mọi người là “khuyết điểm” làm tôi say mê hơn cả; sự điên dại đó lôi kéo tôi bước theo Chúa Giêsu!
9 – Chúa Giêsu phiêu lưu
Một chương trình cứu chuộc toàn nhân loại, một dự tính gửi người đi rao truyền Phúc âm cho mọi dân nước, mọi thế hệ, thế mà lại chọn và đặt hết tín nhiệm, quyền hành cho Phê-rô, một người chài lưới bộp chộp, ít học rồi còn sợ sệt chối mình nữa!
Và về phương cách truyền bá, rao giảng nước Thiên Chúa, thì Chúa Giêsu lại dạy các môn đệ: “Anh em đừng mang gì đi đường, đừng mang gậy, bao bị, lương thực, tiền bạc, cũng đừng có hai áo” (Lc. 9, 3).
Phiêu lưu trong việc tuyển lựa các môn đệ, Chúa Giêsu còn bị ngay các môn đệ Ngài nghi ngờ là quá phiêu lưu. Khi Chúa Giêsu loan báo chương trình Ngài sẽ bị bắt nạp, bị giết chết và sẽ sống lại trong ngày thứ ba, thì “Các môn đệ buồn phiền lắm” (Mt. 17, 23). Khi Chúa nói với họ: “Nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con người, các ông không có sự sống nơi mình” (Gioan 6, 53), thì “nhiều môn đệ của Ngài liền nói: “Lời nầy chướng ta quá! Ai mà nghe nổi” (Gioan 6, 60). Và, vì thấy lời giảng dạy của Chúa Giêsu khó nghe và phiêu lưu quá, nhiều môn đệ rút lui. Nên Chúa quay hỏi nhóm 12 tông đồ “Cả anh em nữa, anh em cũng bỏ đi sao?” (Gioan 6, 67).
Có lần khác, có người lại muốn đi theo Ngài làm môn đệ, nên hỏi: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo”. Người trả lời: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng con người không có chỗ tựa đầu (Lc. 9, 58).
Và cuộc phiêu lưu tột đỉnh của Yêu thương nơi Chúa Giêsu được diễn tả cô động nơi bài ca trong thư của Thánh Phaolô gửi giáo đoàn Phi-líp-phê:
“Ðức Giêsu Kitô
Vốn dĩ là Thiên Chúa
mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì
địa vị ngang hàng với Thiên Chúa,
nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang
mặc lấy thân phận nô lệ,
trở nên giống phàm nhân
sống như người trần thế
Người lại còn hạ mình,
vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết,
chết trên cây thập tự (Phl. 2, 6-8).
10 – Chúa Giêsu có những lời giảng dạy xem ra mâu thuẫn
Mâu thuẫn vì Lời từ Thiên Chúa khác với lời chúng ta.
Làm sao chúng ta thấy hợp lý được khi tuyên dương Phúc cho kẻ nghèo, kẻ phải đói, kẻ phải khóc, kẻ bị người ta oán ghét (xem Lc. 6, 20-22).
“Ai muốn cứu mạng sống mình, thì phải mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Lc. 9, 24).
Làm sao có thể ví Nước Thiên Chúa, Nước của Ðấng toàn năng, vô tận với một hạt cải (xem Lc. 13, 18-19).
Mà làm sao có thể tuyên xưng là “Con Thiên Chúa, Ðấng hằng sống” lại phải chấp nhận sự chết và chết nhục nhằn trên Thập giá (xem Lc. 23, 70).
Ngày 12.10.1998, có một cuộc tĩnh tâm linh mục quốc tế, tại thành phố Monterrey, nước Mexico: 91 giám mục, 1,500 linh mục tham dự. Lúc tôi vừa nói: Tôi yêu các khuyết điểm của Chúa Giêsu, các ngài nhìn nhau với vẽ ngạc nhiên, bỡ ngỡ! Nhưng nói đến đâu các ngài lại cười đến đó, cuối bài các ngài xúm lại quanh tôi và bảo: “Chúng tôi cũng yêu các khuyết điểm của Chúa Giêsu”.
Các bạn thân mến,
Bây giờ, sau khi chúng ta cùng nhau lược qua 10 khuyết điểm của Chúa Giêsu, 10 khuyết điểm ghi lại nơi các bản Phúc-âm, tôi lại một lần nữa xác quyết với các bạn rằng: vì tôi yêu 10 khuyết điểm nầy của Chúa Giêsu, nên chọn Chúa Giêsu làm Thầy, làm Mẫu-mực tuyệt đối cho đời tôi. Tôi cũng tâm sự với các bạn rằng, cho đến giây phút nầy, tôi không hề có một chút gì ân hận, Chúa Giêsu đã cuốn hút cuộc đời của tôi. Vì Chúa là Tình Yêu đã dẫn lối cho tôi đi, đặc biệt trong những ngày tháng tôi cảm thấy xao xuyến, bứt rứt; chúng đã đem lại nguồn vui và hy vọng cho tôi, nhất là trong những giây phút khổ đau, tưởng chừng như không thể chịu đựng nổi. Các bạn biết lý do tại sao không? Vì 10 khuyết điểm đó phát xuất từ Tình yêu thương mà Thiên Chúa là cha chúng ta ban cho để chúng ta được sống nhờ Chúa Giêsu:
“Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Gioan 15, 13).
Tình yêu đó không nhớ lỗi lầm, không tính toán, không xét nét, không vị kỷ, không phê phán, không câu chấp, không gò bó, không biên giới, không điều kiện; Tình yêu đó yêu điên cuồng đến độ phiêu lưu và hy sinh cả mạng sống mình; tình yêu đó khác với mẫu mực nhỏ hẹp của xã hội và của lối cân nhắc giới hạn của chúng ta. Chúa là Ðấng trọn lành, làm sao có khuyết điểm được, nhưng Chúa lại là tình yêu vô hạn, mầu nhiệm. Trí khôn loài người không hiểu nổi, không tin nổi, nên gọi là khuyết điểm! Khuyết điểm ấy lên đến cùng độ trên thánh giá. Cả 10 khuyết điểm cô đọng vào đó, khi người lính thách đố Chúa: “Nếu ông thật là con Thiên Chúa, hãy xuống khỏi Thánh giá để chúng tôi tin” “Chúa Giêsu thinh lặng, lại còn cầu nguyện: “Xin Cha tha cho họ…” Lạy Chúa lúc ấy Chúa không chết thì làm sao chúng con được sống đời đời.
Tôi khích lệ các bạn chọn lựa cuộc sống làm chứng 10 khuyết điểm tuyệt vời đó của Chúa Giêsu.
Và để chấm dứt buổi chia sẻ nầy tôi xin kể cho các bạn một sự kiện trong cuộc đời của một danh nhân thế giới đã từng chọn Chúa Giêsu, chọn giáo huấn của Ngài, một giáo huấn mà ông ấy cho là kỳ lạ, mâu thuẫn “Kitô giáo kỳ lạ” (Le Christianisme est étrange, Pascal, Pensées, No 537). Danh nhân ấy là ông Blaise Pascal (1623-1662). Khi ông Pascal vừa qua đời vào tuổi 39, người giúp việc trong gia đình xin người chị của ông cho phép mở gấu áo ông mặc lần cuối để xem ông thu giấu cái gì trong ấy. Vì mỗi lần thay áo cho ông, chị giúp việc thấy ông luôn mở gấu áo cũ lấy một cái gì trong ấy rồi lại tự may vào gấu áo mới. Người chị của Pascal cũng như người giúp việc cắt gấu áo và thấy có một miếng giấy nhỏ, trên ấy ghi vỏn vẹn câu sau đây:
“Sự sống đời đời là hiểu biết và yêu mến Ðức Kitô và Ðấng đã sai Người… lửa, lửa, lửa; nước mắt, nước mắt, nước mắt của tình yêu”. Ðó là bí quyết của B. Pascal một văn hào, một triết gia, một nhà toán học.
Những chia sẻ “10 khuyết điểm tuyệt vời của Chúa Giêsu” do ÐTGM Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, tại Strasbourg, Pháp trong cuộc họp mặt “Niềm Vui Sống Ðạo” của các bạn trẻ Việt Nam Công Giáo sống tại Âu Châu.