Nói cho con người: Lm. Chân Tín (27)

Nói cho con người: Lm. Chân Tín (27)

Đăng bởi lúc 1:33 Sáng 29/12/12

nguồn: Chuacuuthe.com

VRNs (29.12.2012) – Sàigòn –

Cụ Nguyễn Văn Huyền và Mặt trận Tổ quốc

Cần Giờ, ngảy 30 tháng 9 năm 1994

Anh chị thương,

Sáng nay, Chân Tín về Cần Giờ như thường lệ, mỗi tháng 3, 4 ngày. Thêm vào đó, ngày mai là lễ Thánh Têrêxa, bổn mạng nhà xứ và ca đoàn, nên càng phải xuống. Về đây, rảnh rỗi hơn; không có khách, không đi kẻ liệt, không đi ăn cưới, ăn giỗ, ăn sinh nhật của ai hết. Thế là có thời giờ viết thơ cho các anh chị.

Cũng như mỗi tháng, Chân Tín đến giải tội và ban Mình Thánh cho cụ Nguyễn Văn Huyền, bị tim đã 5, 6 năm nay. Tôi có hỏi cụ sao lại có cái kỳ cục là tên cụ nằm trong danh sách Ủy ban Mặt trận Trung ương. Cụ bảo rằng hôm tết, ông Nguyễn Hữu Thọ (ngày trước hai người cùng làm luật sư) đến thăm và nói xa gần việc mời cụ vào Mặt trận. Cụ lờ đi nói chuyện khác. Rồi cách đây vài tháng, ông Phan Khắc Từ đến thuyết phục cụ. Cụ từ chối vì cụ nằm giường không thể nằm Mặt trận. Rồi 10 ngày trước Đại
hội Mặt trận, ông Hanh và một vị khác trong Mặt trận Thành Phố đến mời cụ, và
họ đến mỗi ngày làm áp lực. Họ bảo: “Nếu cụ bệnh, Nhà nước sẽ cho một bác sĩ
tháp tùng”. Cụ bảo: “Bao nhiêu bác sĩ cũng chẳng làm gì được, tôi chết là tôi
chết”. Không thuyết phục cụ đi được, nên sau Đại hội, họ để tên cụ Huyền vào
danh sách Ủy ban Trung ương Mặt trận. Thật hề và thật dã man. Họ coi mạng sống
con người không ra gì. Chỉ cần có một uy tín trong Giáo hội và là Phó Tổng
thống chế độ cũ vào Mặt trận, để reo hò đoàn kết và đại đoàn kết. Cụ Huyền lắc
đầu tỏ vẻ rất buồn. Có lẽ có nhiều cụ cũng đã “bị bắt nằm với Mặt trận”. Một vụ
cưỡng hiếp tinh thần. Ôi đoàn kết, đại đoàn kết! Ôi đổi mới! Ôi dân chủ!

Sắp có bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp. Mấy ‘Anh Nông Dân’ tuyên bố: “Kỳ này sẽ bầu cử dân chủ, tự do, thực sự, có tự do ứng cử”. Bầu cử Quốc hội vừa rồi cũng nói thế, nhưng mấy ‘ứng cử tự do’ phải rút lui vì bị áp lực chỉ còn vài người làm “cò mồi” rồi
cũng rơi đài . Kỳ này trên báo chí cũng cho biết 5, 10 người gì đó cũng ‘tự do
ứng cử’. Chắc rồi cũng vậy. Bao lâu còn độc đảng, độc tôn, độc quyền, thì họ
vẫn trắng trợn bảo đảm 100% người của Đảng hay tay sai. Buồn cho Đất nước.

Ngày 28/9, lễ đám tang của một tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế, 73 tuổi, 53 năm tu Dòng. Trong bài giảng (lại giao cho Chân Tín giảng), Chân Tín có đề cập đến tình trạng bi đát của gia đình thầy ở Bến Tre. Tôi đặt hoàn cảnh của thầy ấy trong bối cảnh Đất nước: Sau 75, cả nhân dân miền Nam phải chịu nhiều đau khổ và bất công. Hàng trăm ngàn người trí thức và người của chế độ cũ phải đi học tập cải tạo mười mấy năm, có người chết trong trại, đa số đói khát bệnh tật, để lại vợ con ở ngoài nheo nhóc thiếu
chồng, thiếu cha; hàng triệu người đi di tản, và hàng trăm ngàn người chết trên
biển; tư sản bị bóc lột hết cả tiền bạc cơ sở; ở nông thôn không có đấu tố như
54 ở miền Bắc, nhưng nông dân mất hết ruộng đất. Nhà thẩy Bernard Thái Văn
Hưởng có nhiều ruộng đất trước 75, nhưng trong chín anh em thì bảy người đã
chết, thầy Hưởng là trai trưởng cũng như cô gái út đi tu. Trước 75, hai anh em
yên tâm đi tu, vì cha mẹ già với ruộng đất có thể tự túc được. Sau 75, gia đình
thầy mất hết ruộng đất, chỉ còn hai ông bà già, thầy Hưởng và cô em đành phải
về quê để lấy lại vài công ruộng, tự tay cày cấy để nuôi cha mẹ già. Lúc ấy
thầy đã 57 tuổi, không quen làm ruộng, thời tiết xấu, không đủ ăn. Dòng Chúa
Cứu Thế cũng đã yểm trợ, nhưng dòng cũng mất nhiều tiền của, cơ sở làm ăn, nên
sự giúp đỡ gia đình thầy cũng có giới hạn. Trong hoàn cảnh bi đát của Đất nước,
cũng như của riêng thầy, thầy đã can đảm vừa tiếp tục ơn gọi tu sĩ vừa phụng
dưỡng cha mẹ già. Thầy đã ra đi. Khi mẹ già trên 90 tuổi vẫn còn đó.

Sau bài giảng này, có người bảo Chân Tín thù dai! Chân Tín không thù, như Chúa dạy và riêng Chân Tín không có gì để thù. Trái lại rất yêu thương người Việt dù cộng hay không cộng. Nhưng chúng ta “không có quyền quên” những người nằm xuống và những người  đau khổ vì chế độ hả khắc. Lai rai, Chân Tín vẫn nhắc nhở, kẻo có người thấy phồn vinh giả tạo với những khách sạn khổng lồ, với đàn khách sộp đến ăn và chơi, đến hốt tiền và con cái nhà lành, rồi quên đi những nhân quyền đã bị chà đạp và
đang bị chà đạp.

Người ta khéo bày trò  dân chủ và đoàn kết, như vụ cụ Huyền, để lừa dối thế giới tự do. Nhưng than ôi! Thế giới tự do cũng nhắm mắt, để thủ lợi trong cái chợ chiều đang nhộn nhịp bán đất bán nước.

Mến thương.

Lm. Chân Tín

Tái bút: Cần Giờ, 1/10/94

Anh chị thương,

Hôm qua, mới về Cần Giờ đã viết thư cho anh chị. Hôm nay, Chân Tín viết thêm vài hàng về “kế hoạch hóa gia đình” để bớt dân số.

Hôm 8/9/94, tại nhà thờ Phaolô 3, cha sở chúc mừng 50 năm khấn Dòng của thầy Tôma (Dòng Chúa Cứu Thế) đã phục vụ ở đó cả chục năm nay. Chân Tín được mời giảng, vài phút trước thánh lễ. Được mời đột xuất, vì cha giám tỉnh mời cha sở và cha sở mời giám tỉnh giảng, rốt cuộc không ông nào giảng cả, chẳng đặng đừng, Chân Tín được mời. Chân Tín nói với cha sở là Chân Tín có giảng sao ở tù ráng chịu. Cha sở chịu chơi. Cứ giảng.

Tự nhiên, Chân Tín không giảng về 50 năm khấn Dòng, mà giảng về tình trạng bất thường của đời sống tu ở Việt Nam. Nhà nước rất dễ dãi với việc ăn chơi trác táng, còn những người dấn thân phục vụ con người như người đi tu thì gặp nhiều khó khăn. Các Dòng tu bị cấm hoạt động xã hội giáo dục, cấm chiêu sinh, phải sống chui đời sống tu trì, vv và vv…

Phần hai: mấy tháng nay, trên thế giới, báo chí nói nhiều về việc phá thai để bớt dân số. Bản thảo của Liên Hiệp Quốc đang nhóm họp ở Cairô như vấn đề phá thai lên hàng đầu. Vatican và các Hội đồng Giám mục khắp thế giới lên án mạnh mẽ chủ trương đó. Nhưng biện pháp đó đã được chế độ Cộng sản Việt nam thực thi triệt để lâu năm rồi. Ở miền Nam sau ngày giải phóng, chủ trương phá thai để bớt dân số: một thai nhi được sống và một thai nhi phải chết. Phá thai ở mọi lứa tuổi. Ở các nước Âu Mỹ, có phá thai cũng chỉ dưới sáu tuần. Ở VN sáu tháng tuổi vẫn cứ phá. Và nay, chủ
trương ‘một sống, một chết’. Thế nhưng ở Cairô, đại diện VN đã chối leo lẻo và
bảo VN không chủ trương phá thai làm phương tiện giảm dân số. Chân Tín kết thúc
bằng đề nghị một phương thế hiệu nghiệm để giảm bớt dân số VN: Nhà nước thôi áp
lực trên các dòng tu, cho mở nhiều tu viện nam nữ, nhiều thanh niên nam nữ đi
tu, tức không sanh đẻ là phương thức tuyệt hảo bớt dân số ở VN. Anh em gọi
phương pháp của Chân Tín là “Cairotin”! Chắc nay mai ông Nhà nước sẽ tháo gỡ
việc tu hành?!

Lm. Chân Tín

(Tin Nhà số 17, trang 11-12)

 

Lời chứng về Lòng Thương Xót Chúa

Lời chứng về Lòng Thương Xót Chúa
15/12/2012                               nguồn: Thanhlinh.net
Tác giả: Paul Nguyễn

LỜI CHỨNG VỀ LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT.
Vào những ngày cuối tháng 09/2012, trong một buổi sáng tôi chợt cảm thấy mắt
phải của tôi xuất hiện một đốm đen lớn. Tiếp theo một màn đen  kéo nhanh
xuống trên mắt sau hai đến ba ngày. Tôi vội tới BS tư chuyên khoa mắt để khám,
BS chẩn đoán thoái hóa pha lê thể (do trước đó tôi cũng đã điều trị Lasik do
mắt cận 8 độ và phẫu thuật Phaco thay thủy tinh thể) đồng thời cho thuốc nhỏ và
thuốc uống .
Nhưng hai ngày sau màn đen trong mắt kéo nhanh hơn che gần phân nửa mắt, tôi
quyết định tới BV mắt Sài gòn. Sau khi kiểm tra, BS kết luận mắt tôi bị bong
võng mạc, một chứng bệnh khá nguy hiểm có thể gây mù nếu không chữa trị sớm. BS
giải thích cặn kẽ và yêu cầu tôi phải phẫu thuật sớm.
Quả thật tôi rất lo, nhưng niềm tin vào Cha trên trời và Mẹ Maria đã giúp tôi
luôn cầu nguyện với Người. Tôi mong muốn gặp được vị BS giỏi để chữa trị, vì
qua thông tin trên mạng Internet, bong võng mạc là do các yếu tố: cận thị nặng,
tiểu đường, tiền sử chấn thương và có khi phải phẫu thuật tới lần thứ hai hoặc
ba hoặc hơn, nhất là phải tuân thủ nghiêm ngặt ở các tư thế sau khi mổ. Phẫu
thuật nhiều lần thật sự là mối lo về thời gian và chi phí.
Tôi trở lại phòng khám BS tư lúc ban đầu, vì BS cũng là người nhà của người bạn
giới thiệu, dẫu sao cũng là BS giỏi chuyên khoa khúc xạ tại BV mắt TP. Mang
chứng từ y tế của BV mắt Sài gòn tới, sau khi xem xét BS đề nghị tôi tới BV mắt
TP kiểm tra. Hai ngày sau tôi có mặt tại BV và BS viết giấy giới thiệu gặp BS D
hội chẩn, đây là vị BS chuyên khoa Dịch kính – võng mạc, nổi tiếng và đã tu
nghiệp tại ngoại quốc.
Kết quả chẩn đoán: Bong võng mạc và BS yêu cầu hôm sau phẫu thuật ngay.
Cảm tạ Chúa và Mẹ Maria đã yêu thương giúp cho tôi gặp được một BS giỏi điều
trị.
Ngày 04/10/2012 tôi vào BV để phẫu thuật và làm giấy cam kết cho việc phẫu
thuật lần hai hoặc lần ba nếu kết quả không tốt, trước đó tôi nhờ các anh chị
trong nhóm LTX của Chúa thuộc nhà thờ Tân Định và DCCT cầu nguyện. Tôi cũng tới
trước hang đá Đức Mẹ Lộ Đức tại nhà thờ DCCT và trước tượng Thánh Giuse tại GX
của tôi để cầu nguyện cho ca mổ được kết quả tốt đẹp.
Nằm trên giường mổ, sau khi đã gây tê, hồi hộp lắm nhưng vẫn cẩu nguyện với
Chúa và Mẹ bằng chuỗi kinh LTX và kinh Mân côi. Khoảng 1giờ 10 phút ca mổ kết
thúc, trong lúc phẫu thuật tôi minh định rằng chính Từ mẫu Maria qua bàn tay
của vị BS nữ kia đã mổ và xử lý các tình huống trong mắt tôi, còn người nam kỹ
thuật viên kia lúc khâu, đóng vết mổ là hiện thân qua bàn tay của Cha Jesus rất
kính yêu. Và mọi sự kết thúc tốt đẹp.
Những lần tái khám và sử dụng thuốc, đến nay đã hơn hai tháng, mắt phải đã ổn
định dù thị lực có thể không bằng lúc trước. Đôi khi tôi rất lo lắng vì võng
mạc không dính do sự co kéo của pha lê thể hoặc sự phát triển của mô xơ trong
mắt sẽ làm bong võng mạc. Có những lúc như vậy tôi chợt tỉnh và tự trách mình .
Tại sao lại yếu đức tin như vậy, miệng thì nói “ Lạy Chúa Giêsu con tín thác
vào Chúa” nhưng sao lòng cứ vẫn băn khoăn, tại sao tôi không tin vào một Thiên
Chúa quyền năng nhưng giàu lòng thương xót, tại sao tôi không tìm sự bình an
nơi Mẹ Maria rất kính yêu luôn bảo vệ và hằng che chở cho tôi mỗi khi tôi đến
với Người.
Lạy Thiên Chúa và Mẹ Maria của con, con thành tâm cầu xin sự tha thứ vì thân
phận thụ tạo hèn mọn nơi con người yếu đuối của con.
Và bây giờ tôi tìm lại sự lạc quan và tín thác trong tình yêu thương nơi hai
Đấng.
“Thánh Thánh Thánh chí Thánh.
Đấng đã có , hiện có và đang đến.
Amen! xin kính dâng Thiên Chúa lời chúc tụng và Vinh quang
Sự khôn ngoan và lời tạ ơn
Danh dự uy quyền và sức mạnh
Đến muôn thưở muôn đời. Amen”
Ngợi khen Đấng đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng Mẹ, Cảm tạ Mẹ Maria, Đấng ban phát mọi ơn lành Amen.
Xin gửi đến anh chị và các bạn những lời nguyện sau đây, hãy tin tưởng và hãy
đến với Chúa Giêsu và Mẹ Maria trong những khi  thể xác bệnh tật và đau đớn.
KINH NGUYỆN CHỮA LÀNH
Lạy Cha chí thánh, Đấng toàn năng, hằng hữu. Con chúc tụng và ngợi khen Cha
Đấng ngự trên trên trời đã ban Con Một Cha là Chúa Giêsu yêu dấu đến thế gian
để cứu chuộc con. Chúa Giêsu khi còn ở thế gian đã chữa lành mọi bệnh tật và
giải thoát những người bị quỷ ám. Giờ đây, con cậy nhờ Danh Chúa Giêsu cao cả
và quyền năng vô biên của Ngài giải thoát con khỏi mọi bệnh tật thể xác.
Lạy Chúa Giêsu, xin dủ lòng thương xót nhìn vào mắt con với đôi mắt nhân từ của
Chúa, xin chạm vào thương tích của con với bàn tay chữa lành của Chúa, hầu thân
xác con được lành mạnh. Xin cho con một trái tim luôn biết tạ ơn và ca ngợi
tình thương của Chúa. Xin Chúa dùng con là nhân chứng sự chữa lành của Chúa, và
cho con luôn biết loan truyền kỳ công của Chúa đến muôn đời. Amen.
KINH NGUYỆN ĐỨC MẸ LỘ ĐỨC
Lạy Đức Nữ Đồng Trinh Vô Nhiễm. Mẹ Của Lòng Thương Xót, là Sức Khỏe của những người bịnh, là Nơi Trú Ẩn Của những người tội lỗi, nguồn An ủi của những người mang thương tích. Mẹ biết những nhu cầu, những khó khăn và nỗi thống khổ của con.
Xin Mẹ thương xót nhìn đến con.
Khi Mẹ hiện ra tại hang đá Lộ Đức, Mẹ đã vui lòng chọn nơi ấy làm đền thánh cao cả. Để qua đó Mẹ ban muôn vàn ơn huệ, và đã có nhiều người đau khổ nhận được ơn chữa lành, Cả về phần tâm linh và thể xác. Lạy Mẹ, vì thế nay con đến với lòng tin tưởng vô biên, Để khẩn xin lời cầu bầu Từ Mẫu của Mẹ.
Lạy Mẹ yêu dấu, xin Mẹ ban cho con những ơn con xin, Qua Chúa Giêsu KiTô, Con Mẹ, Chúa chúng con. Lạy Đức Mẹ Lộ Đức, xin cầu cho chúng con. Amen.
Ngày 15/12/2012

Paul Nguyễn.

CỨU-CHÚA RA ĐỜI

CỨU-CHÚA RA ĐỜI

“Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con,

rồi đặt nằm trong máng cỏ…”.

(Lu-ca 2:7)

Giê-su Cứu-Chúa ra đời

Bọc trong tã trắng Mẹ Người hân hoan

Giu-se quỳ cạnh lo toan

Mục đồng chạy tới nhịp khoan tôn thờ

Ích-Diên ngóng đợi mong chờ

Hôm nay toại nguyện bến bờ mừng vui

Tương lai sẽ hết tối thui

Phận thân đâu phải lui cui tháng ngày

Tội khiên xóa sạch vơi đầy

Trần gian là chốn lưu đày vượt qua

Hồng ân huyền nhiệm bao la

Quê Trời hạnh phúc diễm ca vĩnh hằng!

* Nguyễn Sông Núi

(Tu Viện Thánh Gioan Neumann, Dallas, TX

Ngày thiên hạ phao đồn Tận Thế, Dec. 21, 2012)

Đức Thánh Cha ân xá cho ông Paolô Gabriele

Đc Thánh Cha ân xá cho ông Paolô Gabriele

Linh Tiến Khải

12/23/2012

VATICAN – Trong buổi họp báo sáng ngày 22-12-2012 Cha Federico Lombardi giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh cho biết Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã ân xá cho ông Paolo Gabriele cựu quản gia.

Cha Lombardi nói với các nhà báo rằng: ”Sáng nay Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã vào tù thăm ông Paolo Gabriele, cựu quản gia của ngài để xác định với ông rằng ngài đã tha thứ cho ông và đích thân báo cho ông biết ngài đã chấp thuận lời xin của ông và ân xá cho ông. Đây là một cử chỉ hiền phụ đối với một người mà Đức Thánh Cha đã chia sẻ vài năm sống tình gia đình mỗi ngày. Tiếp theo đó ông Paolo Gabriele đã được ra khỏi tù và trở về nhà. Mặc dù không được tiếp tục làm việc, nhưng ông được trú ngụ trong nội thành Vaticăng. Tin tưởng nơi sự chân thành xét lại của ông Tòa Thánh cống hiến cho ông khả thể tiếp tục cuộc sống với gia đình trong sự thanh thản”.

Như đã biết ông Gabriele đã bị bắt hồi tháng 5 năm 2012 vì tội đánh cắp nhiều
tài liệu mật của Tòa Thánh, một thỏi vàng và một ngân phiếu 100.000 mỹ kim của
Đức Thánh Cha. Ông đã bị kết án ba năm tù ngày mùng 6 tháng 10 vừa qua, và được
giảm còn một năm rưỡi (SD 22-12-2012)

Xem phim hay muà Noel: Les Miserables (Những kẻ khốn cùng).

Xem phim hay muà Noel: Les Miserables (Những kẻ khốn cùng).

Trần Mạnh Trác
 
12/28/22012

nguồn: Vietcatholic.net

‘Les  Miserables’ (1862 ) là một cuốn truyện lừng danh cuả nhà đại văn hào Victor  Hugo bên Pháp, đã được nhà văn Hồ Bửu Chánh phóng tác sang truyện Việt Nam  với tựa đề ‘Ngọn cỏ gió đùa’, từng là nguồn cảm hứng cho nhiều bộ cải lương  và phim truyện ở Việt Nam. Truyện kể về một nhân vật Jean Valjean (Lê văn Ðó)  nghèo nàn dốt nát, vì ăn cắp một ổ bánh mì (trã cháo heo ) để nuôi đứa cháu  gái sắp chết đói mà bị bắt. Anh ta lại vi phạm luật tại ngoại do đó bản án bị  tăng lên tới 20 năm. Sống ngoài vòng pháp luật, cả đời cuả anh lo quanh việc  lẩn trốn khỏi bàn tay cuả ông thanh tra cảnh sát Javert (Phạm Kỳ)…20 năm  sau, hai người đụng độ nhau tại Paris giữa bối cảnh cuả cuộc Cách Mạng  Pháp…

Năm nay, một phiên bản Ca Nhạc cuả Anh Quốc sẽ được trình chiếu tại các rạp hát bên Mỹ vào dịp Giáng Sinh (từ ngày 25 tháng 12.)

Đây là một tác phẩm Âm Nhạc sáng tác năm 1980 cuả hai nhạc sĩ Alain Boublil and Claude-Michel Schönberg. Hai nhạc sĩ đã từng hợp tác với nhau và sáng tạo ra nhiều tác phẩm nổi danh khác cho Broadway và London’s West End, trong đó có Miss Saigon (1989).

Thành phần đạo diễn và tài tử cũng hùng hậu. Đạo diễn là Tom Hooper. Kịch bản do William Nicholson, Boublil, Schönberg và Herbert Kretzmer. Diễn xuất gồm có Hugh Jackman, Russell Crowe và nhiều vai phụ do Anne Hathaway, Amanda Seyfried, Eddie Redmayne, Samantha Barks, Sacha Baron Cohen, Helena Bonham Carter, và Aaron Tveit.

Cảnh trí trong phim được quay ở các vùng Winchester và Portsmouth ở
Hampshire, Anh Quốc, và ở Paris Pháp Quốc.

Ngay cả trước khi ra mắt, cuốn phim đã được đề nghị 4 giải thưởng Golden
Globe là giải Phim Hay Nhất, Nhạc Hay Nhất, Tài Tử Hay Nhất (Hugh Jackman ) và Vai Phụ Hay Nhất (Anne Hathaway).

Qua nhãn quan Công Giáo, cuốn phim đề cao nhiều thông điệp quan trọng về Sự Tha Thứ và Tình Yêu, rất cần cho hoàn cảnh hiện tại cuả thế giới ngày nay.

Thí dụ một anh Jean Valjean (Lê văn Ðó) cay đắng hận đời đã được một vị Giám Mục nhân từ cảm hoá. Ngài không những bảo vệ anh khỏi cảnh tù đày vì tội ăn cắp tiền bạc và chén thánh cuả nhà Thờ, ngài còn tặng cho anh số tiền anh đã ăn cắp với chỉ một lời khuyên là anh ta phải sử dụng những tặng phẩm đó để “trở thành một người lương thiện.”

Lòng thương xót cuả vị giám mục đã biến đổi Valjean. Anh đã quỳ xuống trước bàn thờ, vật lộn với lòng hận thù của mình và phát hiện ra sự tha thứ. Cuối cùng anh đã cho phép sức mạnh của lòng thương xót ấy hoán cải anh trở thành một con người mới.

Ngược lại với Valjean là viên thanh tra cảnh sát Javert (Phạm Kỳ). Javert
không phải là hiện thân của cái ác, nhưng là hiện thân của những gì phải xảy
ra khi công lý bị tách rời khỏi lòng thương xót.

Javert không tham lam vì lợi ích riêng, ông ta chỉ nghiêm chỉnh chấp hành
pháp luật và không tin rằng con người có khả năng cải hoá. Do đó khi cái trớ
trêu cuả cuộc đời đã làm cho ông ta rơi vào bàn tay cuả Valjean, ông đã không thể hiểu tại sao mình được kẻ thù tha cho. Ông không thể hiểu được sự tha thứ.

Trong cuộc đối đầu cuối cùng giữa hai người, Javert cũng không hiểu được tại sao ông không thể bấm cò kết liễu cuộc đời cuả Valjean. Sự giằng co giữa nhiệm vụ và lòng biết ơn đã dẫn đến sự hủy hoại của nhân vật Javert. Tấm bi kịch cuả nhân vật Javert là một hậu quả điển hình của một nền công lý không dựa vào nhân bản.

…Trong phim còn nhiều thí dụ khác về Tình Yêu, sự Hy Sinh, lòng Vị Tha qua
nhiều nhân vật đáng chú ý khác nữa.

Cuốn phim được xếp hạng PG-13 vì có nhiều cảnh ‘khá nặng’ về mãi dâm và bạo lực.

Nhưng đây là một cuốn phim có chiều sâu. Là một làn gió mới khác hẳn với
những cuốn phim nông cạn mà Hollywood sản xuất gần đây.

Với hình ảnh rực rỡ, diễn xuất sôi động và âm nhạc thanh thoát, Les Misérables là một câu chuyện của sự cứu rỗi và ân sủng tái sinh, có thể nhắc
nhở cho chúng ta một chân lý rất đơn giản là: “Yêu người khác tức là nhìn thấy khuôn mặt của Thiên Chúa.”

Nỗi niềm Giáng sinh

Nỗi niềm Giáng sinh

Huỳnh Thục Vy

Không khí Giáng sinh đang tràn ngập khắp địa cầu. Các thành phố lớn trên thế giới trong những đêm trước Noel đã được trang hoàng lộng lẫy: Stockholm lung linh với cây thông Noel cao 36m, Lisbon sặc sỡ với quả cầu khổng lồ, đại lộ Chams Elyses Paris sáng bừng trong hàng ngàn bóng đèn rực rỡ. Khắp nơi người ta hân hoan đón chào thêm một mùa mua sắm- vui chơi mới lại đến.

Mặc cho những khốn đốn kinh tế và những bế tắc về chủ quyền quốc gia, ở các thành phố lớn của Việt Nam như Sài Gòn, Đà Nẵng, Hà Nội, khung cảnh Noel cũng không kém tưng bừng . Rồi sẽ có những tiệc tùng tụ hội…những cây  thông Noel lớn được dựng lên, những hang đá đẹp rực rỡ đã được bài trí sang trọng trong những gia đình khá giả.

Quả tình tôi không có ấn tượng đặc biệt với những rộn ràng, xa hoa đó. Những chốn ồn ào hoang phí như nhà hàng, tiệc tùng, lễ hội đối với  tôi là những thứ xa lạ. Tất nhiên giàu có và hưởng thụ không có gì là xấu, hơn nữa nó còn là một quyền chính đáng với sự lao động tương xứng. Nhưng là một cô gái sinh ra trên một miền quê nghèo của một đất nước bất hạnh với những bất công vẫn diễn ra hằng ngày, tôi luôn có cái cảm giác ngậm ngùi vô cớ đối với những xa hoa lễ lạc. Khung cảnh vui chơi tốn kém đó dường như đối lập một cách tàn nhẫn với những mảnh đời cô đơn, nghèo khó, thiếu mặc đói ăn trên khắp đất nước này. Sự đối lập đó làm rỉ máu những trái tim biết rung cảm trước nỗi đau của đồng loại.

Chúng ta kỷ niệm ngày Chúa cứu thế sinh ra đời. Nhưng không giống như cách chúng ta đang mừng đón, ngày xưa Chúa Jesus đã khởi đầu Công cuộc ở trần gian của Ngài bằng việc sinh ra trong một máng cỏ tồi tàn ở Bethlehem . Và như chúng ta đã biết, Kitô giáo lúc sơ khởi đã là tôn giáo của những người nô lệ bần cùng, đau khổ, trước khi nó trở thành quốc giáo của Đế chế La Mã. Tượng Chúa đã ở trong những túp lều rách nát của những nô lệ châu  Âu trước khi hiện diện ở Roma trong những vương cung Thánh đường tráng lệ.

Một thông điệp “Yêu Thương và Hòa Giải” được đem đến với nhân loại từ một Người Thanh Niên xuất thân bần hàn rồi chấp nhận cái chết đau đớn trên Thập Giá chắc phải để lại trong chúng ta điều gì đó hơn là những thú vui phù phiếm chứ?! Dù không cổ vũ cho sự khó nghèo, cũng không coi thường sự giàu có, nhưng sự hiện diện của chúng ta trong cuộc đời này phải mang ý nghĩa gì đó thiêng liêng hơn là hưởng thụ chứ?!

Mỗi dịp Giáng sinh về, bên cạnh những niềm vui sum họp, ký ức về câu chuyện “Cô Bé Bán Diêm” vẫn như là tiếng chuông ngân lên nhắc nhở chúng ta về trách nhiệm với cộng đồng, đặc biệt là những người kém may mắn. “Cô bé bán diêm” của Andersen hôm nay chính là mỗi một người dân quê tôi trong những ngôi nhà tồi tàn trên sườn núi rét mướt ở Bắc Trà My, vì họ đã rời bỏ những ngôi nhà nứt đổ do động đất Sông Tranh 2. “Cô bé bán diêm” của Đan Mạch ngày xưa, ngày hôm nay đang hiện diện trong những bà con dân oan mất đất, mất nhà, phải chịu cái giá rét của Hà Nội mà đi đòi Công lý (dù Công lý từ lâu không có mặt trên xứ sở này). “Cô bé bán diêm” ấy đang là những tù nhân lương tâm trong nhà tù Cộng sản ở vùng xa xôi, hẻo lánh. Cô bé cũng hiện diện trong những nông dân bỏ con thơ, mẹ già, từ quê lên thành phố làm công nhân trong các nhà máy bóc lột, cuối năm không có tiền về quê…

Mùa Giáng Sinh, mùa của lòng nhân ái, xin tất cả chúng ta hãy dành cho những người cùng khổ, tù đày trên đất nước này một chỗ khiêm tốn trong tim; để chúng ta còn biết thổn thức, âu lo; để bên những dạ tiệc linh đình, chúng ta còn nhận thức sống động rằng, trong cái đất nước đầy bất công đau khổ này, sự may mắn mà chúng ta đang có được đã không đến với đại đa số người khác.

Một mùa Noel và một năm mới nữa lại đến trong những sự kiện đáng đau buồn của đất nước, xin cầu chúc cho chúng ta, dù là Phật tử hay Kitô hữu, biết sống để làm nhân chứng cho những giá trị mà chúng ta tôn thờ, biết sống như các Ngài đang sống trong chúng ta, biết sống như một Thái Tử rời bỏ cung vàng điện ngọc và như một vị Vua không ngồi trên ngai vàng thế gian.

Xin kính chúc cô chú bác anh chị em, cùng quý độc giả một mùa Giáng sinh an lành và một Năm mới với nhiều thắng duyên.

Huỳnh Thục Vy

Buôn Hồ ngày 16 tháng 12 năm 2012

 

Lễ Các Thánh Anh Hài

Lễ Các Thánh Anh Hài

28 Tháng Mười Hai

Hêrôđê “Ðại Ðế”, là vua xứ Giuđêa nhưng không được dân chúng mến chuộng vì ông làm việc cho đế quốc La Mã và ông rất dửng dưng đối với tôn giáo. Vì lý do đó ông luôn cảm thấy bất an và lo sợ bất cứ đe dọa nào đối với ngai vàng của ông. Ông là một chính trị gia giỏi và là một bạo chúa dám thi hành những việc tàn bạo. Ông giết chính vợ ông, anh của ông và hai người chồng của cô em, đó chỉ là sơ khởi.

Phúc Âm theo Thánh Mátthêu 2:1-18 kể cho chúng ta câu chuyện sau: Hêrôđê “thật bối rối” khi các nhà chiêm tinh đến từ đông phương hỏi về “vị vua mới sinh của người Do Thái,” mà họ đã thấy ngôi sao của người. Và các vị chiêm tinh được cho biết
trong Sách Thánh Do Thái có đề cập đến Bêlem, là nơi Ðấng Cứu Tinh sẽ chào đời.
Một cách xảo quyệt, Hêrôđê dặn họ là hãy báo cho ông biết sau khi tìm thấy vị
vua ấy để ông cũng “đến thần phục.” Các nhà chiêm tinh đã tìm thấy Hài Nhi Giêsu, họ dâng Ngài các lễ vật, và được thiên thần báo mộng về ý định thâm độc của Hêrôđê và khuyên họ hãy thay đổi lộ trình trên đường về. Sau đó Thánh Gia trốn sang Ai Cập.

Hêrôđê vô cùng tức giận và “ra lệnh tàn sát tất cả các con trai từ hai tuổi trở xuống ở Bêlem và vùng phụ cận.” Vì Bêlem là một thành phố nhỏ, số trẻ bị giết có lẽ khoảng 20 hay 25. Sự kinh hoàng của việc thảm sát và sự tuyệt vọng của các cha mẹ đã
khiến Thánh Mátthêu trích dẫn lời tiên tri Giêrêmia: “Ở Rama, vẳng nghe tiếng khóc than rền rĩ: tiếng bà Raken khóc thương con mình…” (Mt 2:18). Bà Raken là vợ của ông Giacóp. Bà than khóc ở Rama là nơi người Do Thái bị tập trung lại sau khi bị người Assyria bắt làm tù binh.

Lời Bàn

Hai mươi trẻ em thì chỉ là số ít, so với sự diệt chủng và sự phá thai trong thời đại chúng ta. Nhưng dù đó chỉ là một người, chúng ta cũng phải nhớ đến tạo vật quý trọng nhất mà Thiên Chúa đã dựng trên mặt đất — đó là con người, được tiền định để sống đời đời và được chúc phúc nhờ sự chết và sự sống lại của Ðức Giêsu.

Lời Trích

Lạy Chúa, xin ban cho chúng con sự sống ngay cả trước khi chúng con có thể hiểu biết” (Lời Nguyện Trên Lễ Vật, Lễ Các Thánh Anh Hài).alt

Maria Thanh Mai gởi

 

Mừng lễ Giáng Sinh 2012 tại Thánh thất Bàu Sen

Mừng lễ Giáng Sinh 2012 tại Thánh thất Bàu Sen
Một mùa Giáng Sinh nữa lại về. Những người Công giáo hẳn đã quen với hình ảnh thân thương của hang đá, máng cỏ, với không khí nôn nao của những ngày chuẩn bị đón mừng đại Lễ. Nhưng có bao giờ bạn mừng Lễ Giáng Sinh ở một không gian không thuộc khuôn viên nhà thờ giáo xứ chưa? Mời bạn cùng Ban Mục vụ Đối thoại liên tôn trải nghiệm không khí ngày lễ Giáng Sinh nơi Thánh Thất Bàu Sen của các bạn đạo Cao Đài nhé!
Không gian Thánh Thất Bàu Sen hôm nay là sự hòa quyện tinh tế giữa Đông và Tây, một hồ sen nho nhỏ làm nền cho Thiên Nhãn kỳ vương cao trên nền trời xanh, được điểm thêm hình ảnh những quả châu màu đỏ. Màu của không khí Giáng Sinh hòa cùng màu xanh cánh sen của làng quê Việt Nam. Nơi góc sân, một hang đá nhỏ đơn sơ với mái nhà tranh, nơi gia đình Thánh Gia cư ngụ…
Sau lời cầu nguyện dâng lên Đức Chí Tôn, mọi người cùng lắng nghe chia sẻ của linh mục Phanxicô Xaviê Bảo Lộc, trưởng Ban MVĐTLT đề tài “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Những bạn đạo Cao Đài và các tín hữu Công giáo có dịp nhìn lại lịch sử của ngày lễ Giáng Sinh cũng như niềm vui của những người có Chúa ở cùng.
THÁNH THẤT BÀU SEN: MỪNG CHÚA GIÁNG SINH

Đáp lời, giáo sỹ Huệ Ý nhắc lại truyền thống thờ Trời của của người Việt ta. Từ ngàn xưa, khi chỉ có vua mới được gọi là Thiên Tử, thì người Việt đã cảm nhận sự xa vời vợi của vị “Thiên Tử” này, trong khi ngước mắt lên, họ có thể thấy cả bầu trời rộng lớn phía trên đầu. Ông bà ta đã cắm một cây cột giữa sân nhà, lập một bàn thờ nhỏ chỉ một hai gang tay, đó là Bàn Thiên, là nơi thờ Trời. Trong niềm tin dân gian, khi đó ông Trời đang ở cùng chúng ta. Và trong giáo lý Cao Đài có dạy con người luôn hướng thượng và tu tập:
“Tu là học để làm Trời
Phải đâu muôn kiếp làm người thế gian”
Bạn sẽ ngạc nhiên khi nghe các Đạo tỷ Cao Đài hát rất tâm tình bài “Chứng nhân tình yêu” của linh mục Nguyễn Duy. Một bài thánh ca các tín hữu quen nghe trong thánh đường được cất lên tâm tình trong không gian mang nét Á Đông với lư đèn, các bài vị cùng hương trầm lan tỏa…
Buổi lễ kết thúc với bữa cơm chay huynh đệ. Có một Đạo huynh Cao Đài nói vui: “Ngộ hén, cơm chay mà có cả cơm rượu, đây là rượu của Gia-tô ban cho trong ngày vui này!”.
Giáng Sinh đang trở nên ngày lễ dân gian của toàn xã hội, là ngày của niềm vui và là dịp để tri ân nhau, trao tặng những món quà nhân ái và thắt chặt mối tương giao bằng hữu. Nhưng để có được niềm vui hôm nay, mỗi người chúng ta cần tạ ơn về món quà đầu tiên được trao ban nơi hang đá nhỏ Bêlem, trong một đêm đông lạnh giá cách nay hơn hai ngàn năm. Ước mong sao Chúa Hài Đồng luôn ngự trị trong tâm hồn chúng ta mọi ngày, để tất cả cùng đồng tâm xây dựng đại gia đình nhân loại tốt đẹp hơn.
Nguồn:  nhipcautamgiao
Maria Thanh Mai gởi

BÌNH MINH,

BÌNH MINH,

Bỏ lại sau lưng những mộng mơ,
Lắc lẻo con thuyền lạc bến thơ,
Vung cao mãnh lưới tìm nơi cũ,
Giữa chốn hư vô sự bất ngờ…
Bình minh rạng rỡ tâm tư sáng,
Ảm đạm vầng mây nắng xóa tan,
Rào thưa chắn lối đường sinh lộ,
Vượt thoát mênh mông dẫu muộn màng…
Cuộc sống bình an biết ở đâu?
Trải rộng dòng sông một bóng nâu,
Quanh năm vất vả nhiêu khê quá,
Mộng tưởng giàu sang được lẻ nào?
Liverpool.27/12/2012.
Song Như.

Kính gởi Quý Thầy Cô và các bạn LVC.

CHIẾC CẦU,

CHIẾC CẦU,

Em đi bỏ lại cây cầu,
Dòng trôi nặng trĩu mối sầu tương tư,
Chìm sâu mấy vạn ngôn từ,
Hồn anh đắm đuối còn nhừ nỗi đau,
Giang đầu biết sẽ ra sao?
Khi nào gặp lại cùng nhau …đứng nhìn…
Em đi lặng lẽ làm thinh,
Riêng anh gậm nhấm ân tình khuất sâu…
Còn đâu chiếc bóng muôn màu,
Trong hồn của kẻ ôm sầu mất nhau…
Liverpool.27/12/2012.
Song Như.

Kính gởi Quý Thầy Cô và
các bạn LVC.

Chúc vui vẻ

CHỖ Ở

CHỖ Ở

1. Từ vấn đề chỗ ở hiện nay

Càng ngày đất càng chật vì người đông, nhất là ở đô thị. Có những quốc gia không còn chỗ ở cho người dân. Người ta đang phải đặt ra nhiều vấn đề, nhiều giải pháp cho chuyện này. Vấn đề nhà cửa đất đai hiện nay đang lên cơn sốt. Đây là điều rất quan trọng trong cuộc sống. Vì có an cư mới lạc nghiệp. Vì quan trọng như thế cho nên người ta mới đầu tư và đổ dồn rất mạnh cho việc này.

Người giàu sang, kẻ có quyền muốn ở nơi sang trọng, đẹp đẽ. Người nghèo khổ, kẻ yếu thế phải chịu ở nơi tồi tàn, thiếu thốn.

Thực tế đã có nhiều sự thách thức, tranh giành, chiếm đoạt, chém giết nhau để có được mảnh đất, căn nhà…Tất cả cũng chỉ vì chỗ ở. Có khi bất chấp mọi mối tương quan miễn là làm sao có được một chỗ ở ngon lành là được ; vì vậy có thể xảy ra bất cứ điều gì khủng khiếp nhất người ta cũng sẵn sàng.

Giới ‘cò mồi’ nhà đất rất chịu khó luồn lách để kiếm mồi vì đó  là nghề của họ. Nghe mấy ‘cò’ nói chuyện giới thiệu được căn nhà, mảnh đất ngon cho khách thì họ cũng vui lắm vì vừa được hoa hồng vừa giúp được việc cho khách.

Người còn sống lo chỗ ở cho mình đã vậy mà còn quan tâm đến thế hệ con cái nữa. Trước khi chết, nếu chưa lo cho con cái được mảnh đất, căn nhà hẳn hoi thì cha mẹ chưa an tâm. Đó cũng là trách nhiệm lớn.

Đang ở đâu sung sướng rồi thì cũng không muốn đi chỗ khác. Chết lúc này thì tiếc lắm ! Bắt phải đến chỗ mình không thích thì cũng không vui mấy. Kể cả được chọn chưa chắc đã muốn đổi chỗ nếu nơi đang ở tốt hơn, hay hơn, thuận lợi hơn. Chính vì thế khi phải dời bỏ căn nhà trần gian này người ta nghĩ cũng buồn. Người thân thì khóc lóc.

Có nhiều lý do để buồn. Buồn vì mình không được ở căn nhà này nữa. Buồn vì mình không được sở hữu điều gì nơi căn nhà này nữa. Buồn vì chỗ ở của mình phải thay đổi vĩnh viễn. Buồn vì không còn sống với người thân nữa. Buồn vì tiếc nuối đủ thứ cả. Tất cả những thói quen ấy đã xây dựng cho mình một chọn lựa, một nếp sống không muốn thay đổi nên cũng có thể nghĩ : giá đừng chết thì hay ! Cũng vì thế, người ta quên mất hay không dành bao nhiêu cho chỗ ở đời sau mà đáng lẽ ra mình phải đầu tư rất mạnh, rất sớm ngay khi đang ở đời này. Để đến khi phải chuyển chỗ ở trần gian mới cuống cả lên thì chẳng kịp sự gì nữa, chứ chưa nói đến việc có thời gian mà viết tờ di chúc. Rồi có khi vì thế mà mất cả chì lẫn chài ấy chứ. Đấy là điều mà mình phải cố gắng suy nghĩ ngay bây giờ. Nếu bây giờ nghĩ luôn thì kể ra cũng còn chưa muộn lắm.Cuộc đời của người Ki tô hữu là một hành trình đi tìm chỗ ở. Chỗ ở cho hôm nay và mai sau.

2. Đến chỗ ở mai sau

Linh hồn có một chỗ ở riêng của nó. Chỗ ở này rất quan trọng. Quan trọng nhất. Người vô thần hay kẻ không tin có đời sau thì chẳng quan tâm đến việc này. Có khi họ còn mỉa mai nữa. Làm sao biết được linh hồn có và cần có một chỗ ở riêng ? Nơi nó sống ở đâu ? Hỏi chuyện này xem ra rất trẻ con và viển vông, không thực tế. Nhưng chúng ta cần phải đặt vấn đề lại để suy tư cho nghiêm túc, chính xác và đầy đủ.

Nhân viên của ông chủ đã giới thiệu, quảng cáo, maketing về một vùng đất mới cho chính cha của mình. Vùng đất có nhiều chỗ ở. Nhưng giá cả rất cao. Thế nhưng ai cũng có thể mua được. Ngược lại có người không biết cách mua dù có khả năng trong tay. Vùng đất đó là vùng Đất Hứa hay là Nước Trời hoặc Thiên Đàng hoặc nói thân mật hơn gọi là Nhà Cha. Chúa Giêsu Kitô một nhân viên tiếp thị, môi giới, cò mồi về nhà đất đã quảng cáo cho nhân loại về chỗ ở trong Nhà Cha mình như sau : « Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở ; nếu không Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó » (Ga 14, 2-3). Nhà Cha rộng đến như thế. Nhà Cha có nhiều chỗ ở đến như thế. Nhà Cha lý tưởng đến như thế. Nhưng điều kiện để có được chỗ ở trong Nhà Cha thì rất cao. Đòi hỏi thì rất khó. Việc tuyển chọn thì rất kỹ. Mà lối đi thì chỉ có một con đường như Chúa Giêsu đã quả quyết : « Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy » (Ga 14,6).

Có được chỗ ở trên trời không dễ dàng đâu. Phải chấp nhận hy sinh, đánh đổi rất lớn. Cũng chưa hẳn là có nhiều tiền nhiều quyền là mua hay chạy chọt được. Muốn có một chỗ ở nơi vùng Đất Hứa đòi người ta phải hy sinh đánh đổi cách dứt khoát. « Nước Trời chỉ chiếm được bằng sức mạnh »… Phải đánh đổi cả thân xác, mạng sống, danh dự, tiền bạc, sức khỏe,vv …để có thể vào được Nhà Cha.

Chúa Giêsu đã đi trước dọn chỗ ở cho chúng ta. Hành trình dọn chỗ ở của Ngài thật vất vả gian nan. Hành trình đó chính là con đường trải qua thập giá và sự chết. Ngài mời gọi tất cả mọi người : « Ai muốn theo tôi phải từ bỏ chính mình mà vác thập giá hằng ngày mà theo tôi ». Có được chỗ ở trong Nhà Cha không đơn giản. Mặc dù Chúa Giêsu luôn muốn rằng : ‘Thầy ở đâu thì anh em cũng sẽ được ở đó với Thầy’ nhưng liệu chúng ta có muốn để rồi dám dấn thân triệt để theo những đòi hỏi của Ngài không ?

Giáo hội muốn đọc lên cho chúng ta trong mỗi thánh lễ an táng và cầu hồn câu này « …và khi nơi nương náu ở trần gian bị hủy diệt tiêu tan thì lại được một chỗ ở vĩnh viễn trên trời » (Kinh tiền tụng I, Cầu cho người đã qua đời) để người ta luôn sống trong niềm hy vọng phấn khởi và dù có chết cũng không đau buồn nuối tiếc điều gì. Đó cũng là một cái nhìn, một sự so sánh rất rõ ràng, chính xác mà mỗi kitô hữu cần hiểu thấu đáo.

Thực tế người ta lo đầu tư cho nhà cửa, đất đai, chỗ ở trần gian quá nhiều mà lo cho chỗ ở đời sau quá ít hay thậm chí quên luôn nữa. Quả là sự lệch lạc nghiêm trọng, nguy hiểm quá.

Người ta lo đặt cọc đặt móng cho căn nhà tạm bợ vật chất nhưng lại quên lo đặt cọc, đặt móng cho chỗ ở vĩnh viễn trên trời.

Liệu xác thì có chỗ ở ngon lành, sang trọng, mát mẻ còn linh hồn mình có được như thế không hay lại phải ở nơi « lửa không hề tắt » (Mt 3,12), nơi « phải khóc lóc nghiến răng » (Mt 13,42), nơi « giòi bọ rúc rỉa » thì khổ biết chừng nào ?!

Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn

Maria Thanh Mai gởi

RIÊNG MÌNH MỘT TIỆC TẠ ƠN

RIÊNG MÌNH MỘT TIỆC TẠ ƠN

Trong dịp Lễ Tạ Ơn đã qua, Tân một mình ghé quán phở đường Bolsa ăn trưa. Vì đông khách, chủ quán dùng một dãy bàn dài đặt ngay cửa ra vào, coi như bàn chung của những thực khách đi riêng rẽ. Cứ ghế nào trống thì một thực khách được xếp vào, bất kể là ai. Tình cờ, Tân được sắp ngồi đối diện với một bà khoảng ngoài sáu mươi đang ngồi ăn cơm. Tân lịch sự chào bà này trước khi ngồi xuống, xong kêu tô phở như thường lệ.

Nhìn sang phía bà này, Tân lấy làm lạ, sao bà này ăn trưa chỉ có một mình mà sao lại gọi lắm món thế, không giống ai cả. Vốn quen nghề điều tra và thẩm vấn, Tân vui vẻ gợi chuyện:

– Bà thường hay ăn trưa ở đây không?

Bà đáp:

– Lâu lắm mới sang đây, nay ăn bữa trưa cho vui rồi mai về.

Nghe tiếng Huế, người cùng miền, Tân đã hiểu một phần lý do: Người Huế vẫn còn ảnh hưởng tục vua chúa, tuy không ăn uống được nhiều hơn ai, nhưng lại thích có nhiều món trong một bữa ăn, dù nhiều ít. Tân hỏi tiếp:

– Vậy bà không phải người ở đây sao?

Được lời như mở tấm lòng bà đáp:

– Hồi trước tôi cũng có ở Cali , thỉnh thoảng cũng đến đây ăn. Kỳ Lễ Tạ Ơn này sang thăm Cali, sẵn đi lang thang, ghé vào đây ăn một bữa rồi mai về lại Texas.

À, thế Tân mới hiểu thêm lý do: Bữa ăn này coi như “Tiệc Lễ Tạ Ơn” của bà. Từ từ, Tân tiếp:

– Bà thấy vùng này bây giờ có vui không?

Nghe giọng Tân cũng là người miền Trung, hay hỏi và chịu nghe, cảm thấy như thể người thân, bà mới vừa ăn, vừa lai rai nói chuyện như để giải tỏa nỗi lòng u uẩn khôn khuây của mình. Tân chú ý nghe và nhớ, thuật lại đại khái như sau:

Từng đã bị kinh hoàng và may thoát cảnh bị đập đầu chôn sống trong trận Mậu Thân, nên khi Việt Cộng sắp tiến chiếm Huế vào mùa xuân 1975, vợ chồng bà bồng giắt bốn đứa con chạy thí mạng xuống thuyền đói khát, may mắn thoát chết vô đến ở Vũng Tàu. Rồi cuối tháng 4, tiếp đến, lại thuê thuyền ra hạm đội Mỹ, sang Guam, rồi định cư tại Nam Cali này từ hồi 1975. Con cái dần lớn khôn, ăn học thành tài, có công ăn việc làm tốt và đều ra riêng. Vợ chồng bà đều có học thức nên hội nhập vào đời sống Mỹ dễ dàng. Cả hai đều làm cho hãng xưởng kỹ nghệ. Chẳng may bà bị tai nạn lao động thế nào đó và xem như tàn phế, bà được bồi thường số tiền gần vài trăm ngàn, bà đã chia cho bốn người con để chúng làm vốn, đặt trước mua nhà cửa ở vùng Nam Cali.

Sau đó, chồng bà phải theo công việc làm, dọn sang Texas, bà cũng theo sang đó định cư luôn. Lâu nhớ Cali bà cũng muốn quay sang chơi, thăm con cái và gặp lại người quen cũ, dạo nhìn lại những cảnh bờ biển mà bà ưa thích, để gợi lại những kỷ niệm yên bình đầu tiên, khi gia đình bà mới đặt chân trên quê hương thứ hai này. Cũng đã nhiều năm qua, nay nhân dịp lễ Tạ Ơn, ông nhà phải về thăm Việt Nam lo chuyện gia tiên mồ mả. Ở nhà một mình buồn, bà ra sân bay, đứng chầu chực, đáp được chuyến bay từ Texas về Cali chơi và ghé thăm mấy người con.

Đầu tiên bà đến nhà người con trai út. Cậu này chưa vợ. Nhà cậu thường có bạn gái đến chơi. Nay sợ có bà ở đó làm mất tự do, sợ bạn gái phiền, nên cậu ta không muốn tiếp bà. Cậu khéo léo khuyên bà đến ở với các anh chị sẽ thuận tiện hơn, thêm lý do cậu bận việc không tiếp và lo cho bà được.

Bà đến người con trai áp út, nhà ở trên đồi sang trọng, nhưng cách trở khu Little Saigon nơi bà muốn lui tới, thêm nữa bà không hiểu vợ chồng anh này nghĩ gì và làm gì, cứ lái xe đi cả ngày, về đến nhà thì ngủ, không nói gì đến bà, không màng lo chuyện cơm nước gì cả, cứ để mặc bà thui thủi một mình, không hề hỏi đến. Quán xá thì xa, không ai đưa đi, đường xe buýt bà chưa rõ. Bà thấy nhà sang trọng nên cũng ngán, cái gì bà cũng không dám sờ vào vì sợ hư hỏng hay nhớp nhúa, con dâu sẽ phiền. Nhà cửa trên đồi nhìn xuống thung lũng rất đẹp, cuối thu trời gió lạnh, nhưng không mở sưởi điện, sưởi gas nào hết. Bà hỏi thì được cho biết lò sưởi hư. Bà thấy cảnh này vừa lạnh trên thể xác, vừa lạnh trong tâm tư nhiều hơn, và nghĩ đi Lễ Tạ Ơn sum họp mà cảnh này quá buồn. Cảm thấy con và dâu không muốn tiếp mình, nhưng chẳng lẽ chờ chúng đuổi đi. Một mình ở nhà, bà gọi taxi đến nhà người con gái lấy chồng Mỹ.

Đến đây, người con rể Mỹ thấy bà mang bị đến, chỉ nhìn bà và “Hi” một tiếng, rồi tỉnh bơ coi như không có bà. Con gái bà biết ý chồng, không muốn khách khứa nhà quê quấy rầy. Nhà chỉ có ba phòng ngủ, cũng chỉ đủ cho vợ chồng cô ấy và hai con mỗi đứa một phòng. Để bà ở chung phòng với cháu, sợ bà già cả, sụt sùi lây bệnh nên cô tìm cách thoái thác, bảo bà rằng vợ chồng cô và hai đứa cháu sắp sửa đi nghỉ mát ở Big Bear trượt tuyết và khuyên bà nên tạm sang ở với người anh trưởng. Xong lấy xe chở bà thả trước sân căn nhà lầu của người con trưởng, lớn rộng cả gấp đôi căn nhà trung bình.

Lâu ngày gặp lại mẹ, thay vì vui  mừng, mời mọc chở bà đi chơi hay hàn huyên tâm sự, hỏi thăm chuyện người này người khác, hoặc sắp đặt chỗ ăn ở cho bà một cách thân tình, nhưng chỉ sau một tuần trà nước với vài chuyện qua loa, vợ chồng người con trai cả trách bà: “Mạ muốn sang chơi, sao không hẹn trước để chuẩn bị. Nhà còn một phòng trống nhưng cô em vợ đã gọi điện thoại đặt chỗ trước cả 2 tuần rồi, tối nay từ New York cô ấy bay sang. Vợ chồng con đã hứa dành sẵn cho cô ấy ở đây nghỉ trong dịp lễ Tạ Ơn này một tuần, vậy đâu còn phòng nào cho mạ ở. Vậy phiền mạ sang ở với mấy em con”.

Nghe thế, bà bối rối vài phút. Lấy lại bình tĩnh, bà nói không sao để má chơi đây một lát rồi má đi. Dạo thăm sơ, sau trước căn nhà, rồi bà nói đỡ gượng: “Ờ con gọi giùm cho mạ chiếc taxi mạ đi”. Thấy bốn người con đều không ai muốn tiếp đón mình, bà bảo taxi đưa đến một motel ở vùng Little Saigon và bà được nơi đây đón nhận nồng ấm. Rồi từ hôm đó, bà đi lông bông dạo chơi xem thiên hạ mua sắm, ngắm cảnh trí vùng Nam Cali, thăm vài bà bạn cũ rồi về motel nghỉ. Trưa nay đến quán này, bà gọi bồi bàn dọn cho bà một “Tiệc Tạ Ơn” giữa những quán khách xa lạ ồn ào. Rồi mai bà sẽ sayonara California, giữa trời cuối thu tê tái, cũng có thể là lần sau cùng.

Nghe bà vừa ăn vừa kể, với một giọng Huế nhẹ nhẹ buồn buồn, khiến Tân cũng buồn lây, nhớ đến câu thơ của người xưa: “Cùng một lứa bên trời lận đận. Gặp gỡ nhau lọ sẵn quen nhau” (Tỳ Bà Hành) nên tìm lời an ủi bà ta, bằng cách nói:

– Tỵ nạn sang ở xứ này, phần nhiều là vậy, hơi đâu mà bà buồn, cũng do mình một phần là không lấy hẹn trước mà thôi. Nhiều người còn gặp trường hợp trầm trọng hơn bà nữa, nhưng người ta không nói ra vì sợ xấu hổ mà thôi. Phần đông cũng có ít nhiều gặp hoàn cảnh như vậy, bà nên tỉnh bơ đi chỗ khác chơi cho vui rồi mai về.

Bà than: – “Ra đi là kể như chìm biển đông mà”.

Tân phụ hoạ: – Sau bao năm chiến tranh, bom đạn, chạy giặc qua biển cả hiểm nguy, bà còn sống sót đến bây giờ tại Mỹ là vui rồi. Hơi nào mà buồn. Miễn sao bà được mạnh giỏi và minh mẫn là tốt, còn mọi thứ khác, sao cũng được thôi.

Nghĩ bà cũng rành chuyện xưa, Tân nhắc lại vài chữ trong câu đối đáp của danh sĩ Ngô Thời Nhậm với Đặng Trần Thường:

– “…Thời thế thế, thế thời phải thế.”

Và tiếp: – Mỗi nơi đều có phong tục và văn hóa khác nhau, có khi hoàn toàn trái ngược là chuyện bình thường. “Thanks” mà bà đã “giving” rồi thì còn gì mà “thanks” nữa, nên là hết “thanks” rồi, đừng nghĩ đến nữa. Người da đỏ đã chào mừng và giúp người da trắng, người da trắng đã quay lại đàn áp người da đỏ. Bà cũng như người lái đò, đưa người qua sông rồi thôi, mấy người ngoảnh lại mà nhớ kẻ lái đò. Người đi nhờ thuyền chùa vượt sông biển, đến nơi không cảm ơn người chủ thuyền, còn lấy ơn làm thù, hăm dọa, chửi thề vung vãi để trả công cũng là chuyện đã có.

Nghe và nói đến đây, tô phở cũng đã ăn xong, Tân vội chào từ giã, lại quày trả tiền và bước ra khỏi quán, rộng chỗ cho những khách đang chờ. Trên đường lái xe đi, suy nghĩ về chuyện bà này, Tân nhớ đến chuyện mình lúc trước, bỏ quê, tay trắng đến Sàigòn mưu sinh, kiếm một chỗ cư trú thật rất khó khăn. Nhưng sau nhiều năm, Tân đã có một căn nhà, nhỏ hơn cái garage chứa 2 xe của mỗi nhà Mỹ ở vùng này. Nhưng bà con xa gần, quen biết ở quê, mỗi lần đến Sàigòn, vì bất cứ công việc gì, họ đều ghé trọ lại năm ba ngày. Có khi một lúc đến mười mấy người, mà vẫn có đủ chỗ ngủ nghê, cơm nước. Tân không lấy đó làm phiền mà còn lấy làm vui vì được dịp hân hạnh gặp lại thăm họ và giúp đỡ cho họ khỏi phải tốn kém và thường khi còn chở họ ra quán xá đãi đằng. Tân còn nhớ một người đồng hương, chồng làm thợ hồ, vợ gánh nước mướn ở Sàigòn lúc trước, nhà cửa bằng nửa cái garage nhà Mỹ, chật chội nhưng lúc nào khách từ quê đến cũng có thể tạm trú, cơm nước được mời mọc miễn phí. Còn ở California này, những căn nhà mới thường rộng hơn cái đình làng ở
quê ta, nhưng chỉ thêm một, hai người ở tạm vài hôm lại không được, đó cũng là
một nét tương phản, nhất là ở giới chuyên môn, khá giả. Khiến Tân bâng khuâng
suy nghĩ về hai thái cực: Một bên là chỗ nghèo chật, lại rộng lòng. Còn ở xứ này lại trái ngược: chỗ ở giàu rộng, nhưng hẹp lòng. Âu cũng là một khía cạnh khác về nước Mỹ. Lớp trẻ được cha mẹ sống chết khó khăn đưa sang Mỹ, chưa hề tiếp xúc với hoàn cảnh gian nan, đói khổ, chật vật ở Việt Nam nên không hiểu được tình tương trợ đùm bọc, rất khó tính và rất cá nhân vị kỷ.

Nhật Quang, 2005