Những ước mơ mãi không là hiện thực

Những ước mơ mãi không là hiện thực

Thu, 17/01/2013

Tác giả: M. Hoàng T ThùyTrang

Dấu lạ, hay gọi khác đi ở một biên độ rộng hơn – phép lạ, là những điều, những sự việc xảy ra ngoài khả năng của con người, là một phạm trù mà ai ai cũng hơn một lần ao ước. Tại sao vậy? Có lẽ vì chính bản thân nhân loại bất toàn. Cho nên, khi đối diện thực tế cuộc sống đầy đắng cay, khắc nghiệt. Những sự kiện, những tình huống xảy đến ngoài tầm  kiểm soát, vượt ra khỏi khả năng giới hạn của họ. Khi ấy, hơn bao giờ hết, họluôn mong chờ dấu lạ, hay phép lạ xảy đến với mình.

Dấu lạ thực ra thể hiện khát vọng, ước mơ của con người. Ước mơ là điều mà con người khao khát vươn tới, ước ao đạt được. Ước mơ đẹp hay xấu tùy thuộc vào ý định của chủ thể. Phần lớn ước mơ đẹp nói lên hoài bão hướng thiện của nhân loại. Ước mơ xấu chẳng qua là sự đòi hỏi ích kỉ vì tham vọng bản thân.

Ước muốn điều tốt lành cho tha nhân bao giờ cũng là một ước mơ thánh thiện. Ước muốn của Mẹ Maria trong tiệc cưới Cana hôm nay là một điển hình. Chính sự tinh tế, nhạy bén và lòng nhân hậu của Mẹ, đã khiến Mẹ bộc bạch niềm mơ ước của mình với Đức Giêsu. Mẹ nhìn thấy niềm  vui tột đỉnh, và hạnh phúc dạt dào của đôi tân lang, tân nương trẻ trong ngày đại lễ. Mẹ muốn làm một việc gì đó, giúp cho cuộc vui của họ được kéo dài, được  trọn vẹn. Lòng trắc ẩn đã thúc đẩy Mẹ can đảm ngỏ lời với Con Thiên Chúa: “Họ hết rượu rồi.” (Ga 2, 3). Đáp lại mơ ước của Mẹ, có thể nói là một sự hụt hẫng lớn lao: “Thưa bà, chuyện đó có can gì đến bà và con? Giờ của con chưa
đến.”
(Ga 2, 4)

Phải, trên thực tế, đó đúng không phải là chuyện của thực khách được mời. Và tình huống của họ cũng gọi là vô cùng “nguy ngập”. Tìm đâu ra rượu trong lúc dầu sôi lửa bỏng thế này? Muốn cũng phải mất hàng phút sau may ra mới chạy kịp. Mẹ ngỏ lời vì biết Con Mẹ có thể thực hiện được. Mẹ ngỏ lời vì Mẹ tin tưởng vào quyền năng và tình thương của Con Mẹ. Mặc dầu đón nhận câu trả lời không đúng nhịp, vậy mà Mẹ vẫn bình tĩnh  nói với gia nhân: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo.” (Ga 2,5)

Vâng, và niềm tin đã chiến thắng. Sự vâng phục là điều kiện đủ. Nhìn lại những trang Phúc âm, dường như Đức Giê su luôn “thua cuộc” trước những niềm tin sắt đá của con người. Nhân tố quyết định phép lạ xuất hiện cũng là niềm tin. Niềm tin chính là chìa khóa mở toang cánh cửa mầu nhiệm của phép lạ. Chỉ cần tin thôi, chỉ cần tin Thiên Chúa quyền năng luôn yêu thương và chăm sóc mình, cuộc đời của thế giới chắc chắn sẽ khác. Chỉ cần biết vâng phục thánh ý Thiên Chúa trên từng tạo vật, cuộc đời của mỗi người chắc chắn sẽ khác.

Lạy Chúa, đã bao lần con hằng ước mơ, những ước mơ đẹp và cả những ước mơ không lành mạnh. Thế nhưng, dù đẹp hay xấu, thực tế vẫn có những ước mơ… không bao giờ là hiện thực. Ước chỉ để mà ước, mơ chỉ để mà mơ, chi bằng mở rộng lòng đón nhận? Phải chăng niềm tin của con còn yếu kém, vì con còn hoài nghi, ngờ vực? Phải chăng trái tim con quá tham vọng, ích kỉ? Dòng thời gian qua đi, kéo trôi tất cả những mơ ước của con, thành hay không thành sự cũng vậy. Nỗi khát khao trông đợi về nó cũng phai lạt dần. Con chợt nhận ra, chỉ có một ước mơ duy nhất, chỉ cần một ước mơ vĩnh cửu, đó chính là thi hành mơ ước của Thiên Chúa. Hãy sống cho ước mơ của Chúa, hãy sống cho mơ ước của Ngài. Đó chính là ước mơ đẹp nhất. Cho người nghèo khỏi khổ, cho người bệnh được chữa lành, cho người tội lỗi được hoán cải, cho thế giới được bình an,… chẳng phải đều là những ước mơ đẹp cả hay sao? Thế nhưng tại sao thế giới vẫn nghèo đói, chiến tranh và loạn lạc? Tại sao vẫn luôn có bạo hành, chém giết, hận thù? Và phải chăng Thiên Chúa ước mơ cuộc đời con khốn đốn? Xin giúp con, thay vì ngồi chờ đợi phép lạ, hãy trở nên phép lạ cho tha
nhân. Đó cũng chính là khi, Thiên Chúa gửi mơ ước của Ngài cho con…

M. Hoàng Thị Thùy Trang.

nguồn:Thanhlinh.net

Chuyện tình không bao giờ tiết lộ

Chuyện tình không bao giờ tiết lộ

Hình như trên cõi đời này, ai cũng thương
Cố Thi sỉ Bùi Gíang, nếu không nói là nể nữa, nhất là giới sinh viên. Xin  một phút tưởng niệm.

“Trước mộ ông trước giờ hạ huyệt, Kim Cương nhẹ nhàng thủ thỉ : “Thưa Bùi Giáng! Đời ông là một đời giang hồ, nhưng mọi người vẫn mến thương ông, chắc ông cũng mãn nguyện rồi. Riêng tôi có 3 điều cảm ơn ông. Thứ nhất, ông đã để lại một sự nghiệp thơ cho đời. Thứ hai, cảm ơn mối tình 40 năm ông dành tặng tôi, tới giờ tôi có thể nói đó là mối tình lớn, ông là người yêu tôi chung thủy nhất, lâu dài nhất. Thứ
ba, cảm ơn vì ông đã cho tôi một bài học, rằng dù điên hay tỉnh, giàu hay
nghèo, già hay trẻ, trong lòng mỗi người cũng phải có một mối tình để sống”.
Nhưng chắc gì Bùi Giáng đã chịu xa lìa Kim Cương. Ông còn một lời nhắn nhủ viết trong cuốn sổ tay tại nhà Kim Cương:
“Kiếp sau gặp lại nhau, anh Bùi Giáng chỉ mong được Kim Cương chấp thuận cho phép anh Bùi được làm đầy tớ trung thành tuyệt đối của Kim Cương”.
Và:
Vô ngần tao ngộ đầu tiên

Em bao giờ biết anh phiền ưu sao
Yêu em từ những kiếp nào
Về sau cũng niệm nguyên màu ban sơ.”

Chuyện tình không bao giờ tiết lộ
Cõi đời một kiếp yêu em

Dẫu là bỏ cuộc, mộng tìm dáng xưa

Bùi Giáng (1926-1998): là nhà thơ, dịch giả và là nhà nghiên cứu văn học của Việt Nam. Các bút danh khác của ông là : Trung niên thi sĩ, Thi sĩ đười ươi,
Brigitte Giáng, Giáng Moroe, Bùi Bán Dùi, Bùi Bàn Dúi, Bùi Tồn Lưu, Bùi Tồn Lê,
Bùi Bê Bối, Bùi Văn Chiêu Lỳ…
Ông nổi tiếng từ năm 1962 với tập thơ Mưa Nguồn.
Kỳ nữ Kim Cương : chiếm một vị trí đặc biệt trong cuộc đời, trong tâm hồn
và trong sáng tác của Bùi Giáng. Trong tâm hồn ông, Kim Cương là “đệ nhất mỹ
nhân” trong thiên hạ. Ông yêu Kim Cương bằng một tình yêu lạ lùng nhất thế
gian. Chỉ có thể nói đó là một tình yêu bất tử. Đã có rất nhiều giai thoại xung
quanh mối tình kỳ bí này.
Đối với Kim Cương, tuy là mối tình đơn phương từ phía Bùi Giáng, nhưng nữ nghệ sĩ này đã rất trân trọng tình yêu của ông, một sự trân trọng vô cùng cảm động và hiếm thấy.
Nhiều năm qua, nghệ sĩ Kim Cương có những lý do riêng nên đã
không lên tiếng một cách chính thức. Lần đầu tiên, bà tiết lộ với báo
chí một số sự thật về thiên tình sử này, vì đã đến lúc bà không còn lý do
để tiếp tục im lặng…
Có lẽ trong cuộc đời của thi sĩ Bùi Giáng, ngoài chuyện văn chương ra thì chuyện tình đơn phương của ông với Kim Cương là nổi bật nhất, kỳ lạ nhất, và cũng cảm động nhất.
Kim Cương còn giữ rất nhiều bài thơ của ông viết tặng riêng bà, cả hình ảnh nữa, nhưng từ lâu bà từ chối mọi lời yêu cầu của các tờ báo, nhà xuất bản xin được phát hành, đặc biệt sau khi Bùi Giáng qua đời nhiều đơn vị còn đặt vấn đề “mua” những tấm ảnh, tập thơ đó. Bà nói : “Tôi không muốn đem tình cảm của Bùi Giáng ra đánh bóng tên tuổi của mình hoặc làm gì đó có dấu ấn kinh doanh. Dù tôi không yêu ông, nhưng tôi trân trọng  tình yêu của ông. Tuy nhiên, bây giờ sau loạt bài của báo TN, tôi thấy đây không còn là chuyện riêng tư nữa, mà Bùi Giáng là một sự kiện văn học
chung và nếu không lên tiếng thì có những thêu dệt không đẹp cho Bùi Giáng, vì vậy tôi chỉ muốn nói rõ một vài sự thật để người ta hiểu ông đúng hơn”.
Kim Cương biết Bùi Giáng lúc bà khoảng 19 tuổi, còn theo đoàn cải lương của má Bảy Nam nhưng Kim Cương đã được mệnh danh là “kỳ nữ”. Thật ra, ông chú ý đến bà trong một đám cưới của đôi bạn Hạnh – Thùy. Sau đám cưới, một hôm Thùy bảo Kim Cương : “Có một ông giáo sư Đại học Văn khoa, đi học ở Đức về, ái mộ chị lắm, muốn đến nhà thăm chị”.
Kim Cương trả lời : “Ừ, thì mời ổng tới”.
Hóa ra là Bùi Giáng, lúc ấy đang dạy học, cũng áo quần tươm tất chứ chưa có “điên điên” như sau này. Bùi Giáng lui tới, mời Kim Cương lên xe đạp ông chở đi chơi, rồi cả cầu hôn, nhưng bà đều né tránh. Bởi sau vài lần tiếp xúc, bà thấy ở ông toát lên cái gì đó “kỳ kỳ”, bất bình thường, nên bà sợ. Đeo đuổi mãi không được, Bùi Giáng thở dài nói : “Thôi, chắc cô không ưng tôi vì tôi lớn tuổi hơn cô (Bùi Giáng lớn hơn Kim Cương mười mấy tuổi), vậy cô hứa với tôi là sẽ ưng thằng cháu của tôi nhé. Nó trẻ, lại đẹp trai, học giỏi”. Kim Cương ngần ngừ : “Thưa anh, chuyện tình cảm đâu có
nói trước được. Tôi không dám hứa hẹn gì đâu, để chừng nào gặp nhau hẵng
tính…”. Ý bà muốn hoãn binh. Nhưng Bùi Giáng đã đùng đùng dắt cháu tới.
Trời ơi, hóa ra đó là thằng nhỏ mới… 8 tuổi. Kim Cương hết hồn. Thôi rồi ! Ổng đúng là không bình thường !
Từ đó, mỗi năm Bùi Giáng mỗi bệnh  nặng hơn. Ông không có vợ con, suốt ngày đi lang thang ngoài đường, hò hét, rồi cứ địa chỉ nhà Kim Cương mà tới. Thằng bé Toro con của Kim Cương lúc ấy khoảng 5 tuổi, thường trố mắt ra nhìn ông, và hỏi : “Mẹ ơi, sao bác này giống cái xe hoa quá ?”. Tư duy trẻ con thật ngộ nghĩnh, nhưng lại rất chính xác. Thì trên người Bùi Giáng có đủ thứ : nào hộp lon treo lủng lẳng, nào lá cờ giắt sau lưng, nào nhánh cây, vòng hoa trên đầu… cả một nải chuối đeo thường xuyên trên cổ. Không mở cửa cho ông vào là ông la hét, đập cửa, chửi um sùm, ném đá nữa, khiến hàng xóm náo động. Nhưng riết rồi quen, mỗi lần ông tới nhà Kim Cương ai nấy đều cười. Má Bảy Nam ở trên lầu chỉ cần nghe la rùm beng, đập cửa ầm ầm, là hỏi : “Bùi Giáng phải không ?”.
Nhiều lần ông say khướt, nằm ịch xuống gốc cây trước nhà Kim Cương, mọi người phải khiêng vào. Bà lắc đầu : “Sợ ổng chết. Tướng tá vầy có thể chết bất cứ lúc nào. Nhưng khiêng vô rồi cũng sợ rủi ổng chết trong nhà mình. Mà điều, không nỡ bỏ ổng lăn lóc ngoài đường, thấy tội quá”.
Nhưng điều hay nhất là mỗi khi vô nhà Kim Cương ông lại sáng tác thơ để tặng bà. Tiện tay xé bất cứ tờ giấy, tờ lịch nào là ông viết ào vô đó. Nguồn thơ yêu cứ tuôn trào như suối, không vơi cạn theo năm tháng. Về sau, khi ông “quậy” quá thì Kim Cương nghĩ ra cách, không mở cửa, mà lòn một cuốn sổ ra khe cửa cho ông viết thơ. Ông hí hoáy một hồi, rồi vui vẻ bước đi.
Suốt 40 năm, cả chục cuốn sổ tay đã đầy ắp chữ của ông, chỉ riêng tặng “Nương tử Kim Cương”. Bà trân trọng gìn giữ trong ngăn tủ. Những vần thơ yêu với nét chữ ngả nghiêng chệnh choạng nhưng hồn nhiên say đắm lạ kỳ.
Kính thưa nương tử Kim Cương

Tấm lòng rộng mở phi thường bấy nay
Ngàn năm điêu đứng đọa đày
Thiên thu sử lịch cau mày về sau
Thưa em đời mộng dạt dào
Tình yêu vô tận yêu đào vô biên
Kể từ tao ngộ đầu tiên
Kim Cương vô tận, thuyền quyên vô cùng
Bốn mươi năm đã lẫy lừng
Âm thầm tưởng niệm lạ lùng giai nhân
Trái tim thiết thạch vô ngần
Từ tam thu tới tử phần hôm nay
Kể từ sử lịch xa xuôi
Bất ngờ một bận bùi ngùi yêu em
Lang thang vạn dặm độc hành
Cẩm nang bỏ cuộc đời mình trao em.

“Quyền lực” của Kim Cương đối với Bùi Giáng
Phải nói là Kim Cương có “quyền lực” rất lớn đối với Bùi Giáng. Cứ nghe tên bà là ông trở lại ngoan ngoãn như một đứa trẻ con. Một lần, ông làm “chim bay cò bay” giữa phố, gây ách tắc giao thông, công an tới lôi ông vào cũng không được. Tình cờ có ông nhà báo trông thấy, thế là anh ta rỉ tai ông : “Kim Cương nhắn ông tới nhà kìa !”. Lập tức ông riu ríu đi theo nhà báo.
Ông còn “ái mộ” bà theo kiểu “kinh khủng” của ông. Người ta ái mộ thì xin chữ ký, xin hình, còn ông thì xin… quần. Ông tới nhà nằng nặc đòi bà cho ông cái quần. Bà lấy quần của cậu Toro nay đã lớn cỡ ông mặc vừa. Ông giãy nảy không chịu, đòi cái quần của Kim Cương mới được. Bà bực quá, đưa thiệt. Lập tức ông mặc vô và rồi không chịu thay ra. Tắm xong, mặc lại. Tỉnh bơ.
Và sau này khi ông ở nhờ nhà anh Hoài – cháu gọi ông bằng bác họ – tại Gò Vấp, thì cũng chỉ Kim Cương là người phụ nữ duy nhất được ông cho phép bước vào nhà. Nhiều lần, các bạn thơ nữ có ghé thăm ông, nhưng vừa mới nghe cháu vô báo tin là ông đã la hét om sòm, đuổi họ như đuổi tà : “Chỉ có tiên nữ Kim Cương mới được bước tới đây. Đi ra ! Đi ra hết !”.
Nghệ sĩ Kim Cương nói : “Tôi rất trân trọng tài năng của ông, nhưng phải nói thật là ông điên nặng, nhưng là cái điên trí tuệ, nói ra nhiều câu cực kỳ sâu sắc”. Thỉnh thoảng, khi ông hơi tỉnh thì Kim Cương cũng ngồi bàn chuyện thơ văn với ông cho ông vui. Những lúc ấy, ông gọi bà bằng “cô” đàng hoàng chứ không “nương tử”, không “Hằng Nga” gì hết. Nhưng có một lần, ông làm bà hết hồn. Hai người bàn luận đến Kiều, bà đọc mấy câu lỡ có sai một chút, ông liền đập bàn, la hét, nhảy dựng lên : “Tại sao Kiều mà cô nói sai như vậy ? Câu vậy mà cô nói là của Kiều hả ?”. Thấy ông trợn mắt  giận dữ, bà cứ ngỡ ông sắp bóp cổ mình tới nơi. Bà quên mất rằng ông cũng yêu Kiều say đắm như yêu bà
Có một chuyện nhỏ, nhưng cảm động. Kim Cương nói rằng Bùi Giáng có đóng phim gì nữa đó, chắc đóng vai phụ nho nhỏ thôi. Kim Cương nhớ khi ông lãnh tiền thù lao, liền mua hai trái xoài đem tới cho bà. Rất dễ thương.
Kim Cương bùi ngùi nhớ lại : “Suốt 40 năm, ông đối với tôi như một người yêu đơn phương, thì ngược lại, tôi đối với ông như chỗ dựa tinh thần, bất cứ lúc nào nghe ông đau ốm hay bị công an bắt, bị người ta đánh là tôi có mặt”. Bởi đơn giản, trong đầu Bùi Giáng chỉ có một số điện thoại duy nhất, một địa chỉ duy nhất, đó là địa chỉ và số điện thoại của Kim Cương. Nhiều lần ông đứng giữa đường dang tay la hét, làm kẹt xe, công an tới bắt, hỏi cách gì ông cũng chỉ nói một câu : “Người thân cuả tôi là
Kim Cương, ở số… Hoàng Diệu, điện thoại 844…”. Thế là công an réo gọi Kim
Cương. Bà đi lãnh ông ra. Chuyện đó xảy ra không biết bao nhiêu lần. Có khi ông
bị té, bị thương, người ta chở vô bệnh viện, ông cũng chỉ “khai báo” y như
vậy.
Bệnh viện lại réo bà. Bà lại đến. Hoặc những lúc ông lên cơn, có khi vô quậy cả đám cưới nhà người ta, bị người ta đánh, bà lại đến đưa ông về. Có lần, ông xuất hiện trước nhà bà với tóc tai mặt mũi đầy máu vì mới bị ai đó đánh, bà hoảng hốt gọi xích lô cho ông đi cấp cứu. Ông không chịu : “Chừng nào cô đi với tôi thì tôi mới đi”. Ừ, thì đi. Kim Cương gọi chiếc xích lô chở ông, vừa ngồi xe ông vừa nói vung vít, mặc cho Kim Cương chịu trận.
Và như thường lệ, trong cơn điên điên tỉnh tỉnh, ông lại tiếp tục làm thơ yêu qua cuốn sổ nhỏ nhét vào khe cửa nhà bà :
Yêu nhau từ bấy tới nay

Xiết bao tâm sự từ ngày qua đêm
Thưa em nương tử dịu mềm
Bốn mươi năm lẻ êm đềm vô biên
Đầu tiên tiên nữ Kim Cương
Cuối cùng muôn một phi thường Cương Kim
Cúi đầu bái tạ tình em
Về sau vĩnh viễn êm đềm thương nhau

Làm thơ tiếp tục yêu em

Ồ Kim Cương ạ êm đềm vô song
Kể từ lịch kiếp long đong
Anh điêu tàn tới thong dong bây giờ

Bùi Giáng về ở nhà của anh Hoài vào khoảng năm 1978, thì đến khoảng 1992 đã hơi tỉnh tỉnh. Nhà thơ Trụ Vũ thường ghé chơi với ông. Một lần Trụ Vũ bảo : “Kim Cương hẹn ngày mai lên thăm anh”. Thế là suốt đêm ông không ngủ. Sáng dậy, ông đi tới đi lui, đứng ngồi không yên, và càu nhàu : “Cái thằng Trụ Vũ, chừng nào lên thì lên, nhắn nhe làm chi cho người ta sốt ruột”.
Anh Hoài còn tiết lộ ông phải giả vờ  uống một tí rượu để đóng vai “say”, như thế khi Kim Cương lên thăm ông mới có cớ đi ngả nghiêng cho Kim Cương dìu đỡ. Nhưng có lần uống mãi, uống mãi, rồi say thật lúc nào chả biết, khi Kim Cương đến nơi thì ông đã… ngủ khò. Một bữa, Kim Cương đến nhà, tặng ông đóa hoa hồng. Ông sung sướng quá. Kim Cương  về rồi, ông hỏi anh Hoài : “Làm sao giữ được hoa tươi mãi hè ?”. “Ba ngày là nó héo thôi bác ơi!”. “Trời ơi, của Kim Cương tặng tao, phải giữ hoài chớ bây !”. “Con có cách. Đem hoa trút ngược xuống thì sẽ giữ giùm bác được vài tháng”. Đúng là giữ được vài tháng, đến khi hoa đã khô nát ông mới đành lòng chia tay.
Gần 60 tuổi, ông tới nhà bà với đôi mắt nheo nheo không nhìn thấy rõ. Bà dắt ông đi mua cặp kính lão. Nhưng chỉ một tháng sau, ông xuất hiện với một bên tròng kính bị bể vì người ta đánh. Bà dỗ ngọt : “Tôi mua cho anh kính mới nghen”. Ông lắc đầu: “Thôi cô, nhìn đời bằng một con mắt đủ rồi”.
Kể ra, đâu chỉ có Bùi Giáng kiên nhẫn và thủy chung với kỳ nữ Kim Cương, mà chính Kim Cương cũng đã đáp lại mối tình đơn phương của Bùi Giáng một cách chân thành và kiên nhẫn, thủy chung suốt 40 năm, gần giống một người chị, một người mẹ. Cho nên, có người nói với bà :  “Chắc kiếp trước Bùi Giáng mắc nợ bà!”. Bà đáp vui trở lại: “Hổng biết ổng mắc nợ tui hay tui mắc nợ ổng!”. Những lúc tỉnh táo, ông nói: “Cô nhơn hậu lắm cô mới chịu nói chuyện với tôi tới giờ này!”. Nhân đó bạn bè hỏi: “Kim Cương có cái gì mà anh thương dữ vậy ?”. Ông đáp : “Lúc tôi gặp cô trong đám cưới của Hạnh – Thùy, cô mặc cái áo dài lụa trắng, tôi thấy hào quang tỏa tỏa ra, tới bây giờ vẫn còn tỏa”.
15 ngày trước khi chết, Bùi Giáng đến nhà Kim Cương để lại mấy câu thơ như báo trước điềm chia ly:
Thương yêu có lẽ như là

Nghi ngờ nhau mãi vẫn là Kim Cương
Ta đi đau xiết vui buồn
Một mình ở lại muôn trùng em yêu.

Rồi ông té, chấn thương sọ não, chở vào Bệnh viện Chợ Rẫy. Người đầu tiên gia đình gọi đến là Kim Cương. Kim Cương nói: “Lần đầu tiên tôi thấy Bùi Giáng sạch sẽ. Đầu cạo sạch, không còn mớ tóc bù xù nữa. Và quần áo bệnh viện thì trắng bong. Cho nên tôi nhìn ổng không ra, cứ chạy đôn chạy đáo khắp các phòng tìm ổng”. Những đứa cháu xin bà cho ý kiến. Bà đồng ý để bác sĩ phẫu thuật cho ông dù chỉ còn 1% hy vọng.

Nhưng rồi Bùi Giáng đã ra đi.

Ba lời cảm tạ của Kim Cương
Trước mộ ông trước giờ hạ huyệt, Kim Cương nhẹ nhàng thủ thỉ : “Thưa Bùi Giáng! Đời ông là một đời giang hồ, nhưng mọi người vẫn mến thương ông, chắc ông cũng mãn nguyện rồi. Riêng tôi có 3 điều cảm ơn ông. Thứ nhất, ông đã để lại một sự nghiệp thơ cho đời. Thứ hai, cảm ơn mối tình 40 năm ông dành tặng tôi, tới giờ tôi có thể nói đó là mối tình lớn, ông là người yêu tôi chung thủy nhất, lâu dài nhất. Thứ ba, cảm ơn vì ông đã cho tôi một bài học, rằng dù điên hay tỉnh, giàu hay nghèo, già hay trẻ, trong lòng mỗi người cũng phải có một mối tình để sống”.
Nhưng chắc gì Bùi Giáng đã chịu xa lìa Kim Cương. Ông còn một lời nhắn nhủ viết trong cuốn sổ tay tại nhà Kim Cương:
“Kiếp sau gặp lại nhau, anh Bùi Giáng chỉ mong được Kim Cương chấp thuận cho phép anh Bùi được làm đầy tớ trung thành tuyệt đối của Kim Cương”.
Và:
Vô ngần tao ngộ đầu tiên

Em bao giờ biết anh phiền ưu sao
Yêu em từ những kiếp nào
Về sau cũng niệm nguyên màu ban sơ.

(Source: Blog NguyenTrongTao)
Anh Nguyễn v Thập gởi

Freedom House: Việt Nam không tự do về quyền chính trị, dân sự

Freedom House: Việt Nam không tự do về quyền chính trị, dân sự

Phúc trình hàng năm của Freedom House.

Trà Mi-VOA

nguồn: VOA

17.01.2013

Theo phúc trình “Tự do Thế giới 2013” của tổ chức Freedom House vừa công bố, Việt Nam tiếp tục bị đánh giá là quốc gia không có tự do trong lĩnh vực quyền tự do chính trị và các quyền tự do dân sự của công dân.

Báo cáo thường niên của tổ chức bảo vệ nhân quyền có trụ sở tại Mỹ cho thấy
Việt Nam bị liệt kê trong số 47 nước không có tự do dù nằm ngoài danh sách 9
nước bị xem là thiếu tự do tệ hại nhất trên thế giới trong đó có Bắc Triều Tiên
và Syria.

Về lĩnh vực quyền tự do chính trị, Việt Nam bị đánh giá mức điểm thấp nhất
trong thang từ 1 tới 7. Về các quyền tự do dân sự, số điểm của Việt Nam là 5/7.

Bà Sarah Cook, chuyên gia phân tích cao cấp về lĩnh vực tự do internet và Đông
Á trong tổ chức Freedom House, phát biểu với VOA Việt ngữ:

“Điểm số của Việt Nam nhìn chung vẫn y như nhiều năm trước đây, và chúng tôi
cảm nhận Việt Nam đang gia tăng xu hướng đàn áp các quyền căn bản của công dân, với nghị định tăng cường quản lý internet của chính quyền, với các blogger bị
bắt và bị tuyên án nặng nề chỉ trích nhà nước hay phản ánh tình trạng tham
nhũng. Quyền tự do tôn giáo của người dân cũng tiếp tục bị hạn chế với nghị
định 92 quy định chi tiết về tín ngưỡng, tôn giáo có hiệu lực từ đầu năm nay.
Phúc trình của Freedom House quan trọng vì nó hằng năm đánh giá rõ ràng, khách
quan mức tự do về quyền chính trị và dân sự của công dân tại tất cả các nước
trên thế giới và điểm số xếp hạng có thể giúp người ta so sánh tình hình giữa
các nước. Chúng tôi hy vọng bản báo cáo thường niên này đề ra áp lực cho các
chính phủ phải thay đổi để tiến bộ khi nhìn vào điểm số của mình so với các
nước khác.”

Việt Nam bị xem là nước không có tự do trong tất cả các bảng xếp hạng 2012 của
tổ chức này bao gồm “Tự do Trên thế giới”, “Tự do Báo chí ”, và “Tự do trên
mạng Internet ”.

Freedom House nói chiến dịch đàn áp các nhà hoạt động trên mạng, những tiếng
nói chỉ trích nhà nước, các blogger, và các trang mạng xã hội tại Việt Nam đặc
biệt gia tăng kể từ năm 2008 tới nay.

Phúc trình Tự do thế giới của Freedom House công bố thường niên kể từ năm 1972
khảo sát và xếp hạng 195 quốc gia và 14 lãnh thổ trên thế giới. Báo cáo này
thường được các nhà làm chính sách, giới truyền thông, các tập đoàn quốc tế,
các nhà hoạt động và bảo vệ nhân quyền tham khảo để theo dõi xu hướng dân chủ,
ghi nhận những tiến bộ hay thụt lùi của các nước về quyền tự do chính trị và
dân sự của công dân.

 

HỌ HẾT RƯỢU RỒI

HỌ HẾT RƯỢU RỒI

langthangchieutim

cana_2

Đức Giêsu, Mẹ Ngài và các môn đệ cùng có mặt trong một đám cưới ở làng quê Cana. Đám cưới là một cuộc vui kéo dài cả tuần. Tiếc thay, tiệc nửa chừng thì hết rượu. Đức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên trong  cuộc đời rao giảng của Ngài. Ngài đã biến nước thành rượu. Ngài trả lại bầu khí vui tươi cho đám cưới.

Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay hay kể lại những dấu lạ có ý nghĩa. Những dấu lạ vén mở con người Đức Giêsu.

Làm bánh hóa nhiều cho thấy Đức Giêsu là Bánh thật. Chữa người mù bẩm sinh cho thấy Đức Giêsu là Ánh Sáng. Hoàn sinh Ladarô cho thấy Đức Giêsu là sự Sống Lại.

Dấu lạ ở tiệc cưới Cana cũng cho ta biết Ngài. Thứ nước dùng cho nghi thức tẩy uế của Do Thái giáo, Đức Giêsu biến nó thành rượu ngon, một lượng rượu khổng lồ vượt quá mức đòi hỏi.

Ngài biến nước của Cựu Ước thành rượu của Tân Ước. Như thế Ngài đã mở ra một thời đại mới, thời đại thiên sai, chan chứa niềm vui cứu độ. Cựu Ước không làm con người mãn nguyện. Con người vẫn khát khao và tìm kiếm hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc vẫn là cái gì bèo bọt, mong manh. Đức Giêsu cho thấy mình chính là Đấng Mêsia. Ngài đến để thiết lập một trật tự mới dồi dào và phong phú, như rượu vừa nhiều vừa ngon.

Đức Giêsu đã dự tiệc cưới ở Cana. Ngài muốn dự mọi bữa tiệc liên hoan của con người. Ngài muốn chia sẻ và bảo vệ niềm vui bé nhỏ nơi họ. Đừng để Đức Giêsu đứng ngoài hạnh phúc của bạn. Đừng coi Ngài là người ganh ghét với niềm vui bạn có.  Nếu bạn nghe lời Ngài, đổ nước đầy các chum rỗng, bạn sẽ gặp được hạnh phúc vững bền.

Dấu lạ t.ai tiệc cưới Cana chủ yếu cho ta thấy Đức Giêsu là ai, nhưng Đức Maria cũng có một vai trò đáng kể. Mẹ hiện diện trong tiệc cưới như thân mẫu Đức Giêsu. Mẹ thấy rõ sự lúng túng lo âu của chàng rể. “Họ hết rượu rồi”: Mẹ chỉ nói với Con như vậy. Câu nói của Mẹ ẩn chứa một lời nài xin kín đáo. Mẹ mong Con làm một điều gì đó mà Mẹ không rõ. “Người bảo gì, các anh hãy làm.”

Quả thật Đức Giêsu có bảo và các gia nhân có làm theo, nhờ đó dấu lạ Cana được thực hiện. Qua sự đóng góp của Mẹ trong dấu lạ mở màn này, đức tin của các môn đệ được củng cố và lớn lên.

Hôm nay Mẹ vẫn nói nhỏ với Chúa: Họ hết rượu rồi!

Niềm vui chợt tắt, tình yêu nhạt phai, gia đình tan vỡ… Cần biết bao sự hiện diện của Chúa và Mẹ trong mỗi gia đình, giữa lúc khó khăn bối rối.

“Người bảo gì, các con hãy làm”: Đó vẫn là lời Mẹ nhắn nhủ chúng ta hôm nay.

***

Lạy Mẹ Maria, khi đọc Phúc Âm, lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.

Mẹ lên đường đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Đức Giêsu. Mẹ đưa con đi trốn sang Ai Cập, rồi dâng Con trong đền thờ. Mẹ tìm Con bị thất lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana. Mẹ đi thăm Đức Giêsu khi Ngài đang rao giảng. Và cuối cùng Mẹ đã lên đường theo Ngài đến tận Núi Sọ.

Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong, từ con người hay từ Thiên Chúa.

Chúng con thấy Mẹ luôn
đi với Đức Giêsu trong mọi bước đường của cuộc sống. Chẳng phải con đường nào
cũng đẹp, cũng là thảm hoa. Có những con đường đầy máu và nước mắt.

Xin Mẹ dạy chúng con đừng sợ lên đường mỗi ngày, đừng sợ đáp lại những tiếng gọi của Chúa dù phải chấp nhận đớn đau hay đoạn tuyệt chia ly.

Xin giữ chúng con luôn đi trên Đường-Giêsu, để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa. Amen

(Trích trong “Manna”)

langthangchieutim
Anh chị Thụ Mai gởi

Chúa Yêu Thương Tôi

Chúa Yêu Thương Tôi
Giuse Thẩm Nguyễn
1/14/2013
Tôi bất chợt bị những cơn đau hành hạ vì chứng không tiêu và xình bụng. Bác sĩ
và y tá đẩy tôi vào phòng Emergency và thế là tôi đã phải nằm trong bệnh viện
mất bốn ngày. Nhờ Chúa thương tôi lại ra viện và trở về nhà để kịp đón Lễ Giáng
Sinh.
Trong những đau đớn, Chúa đã cho tôi nhận diện có Ngài bên cạnh tôi. Tôi cảm
thấy rất an tâm và sẵn sàng chấp nhận nỗi đau vì tôi phó thác số phận tôi trong
tay Chúa. Rồi những đêm nằm trong bệnh viện, với sợi dây nylon thọc từ mũi
xuống bao tử để hút những chất còn lại trong bao tử ra ngoài, những sợi dây
lằng nhằng để truyền nước biển, truyền thuốc nối liền với những cây kim đâm vào
da thịt…rồi dây đo huyết áp, cứ vài phút cánh tay mình lại bị đo áp huyết một
lần. Tiếng sè sè phát ra từ máy sưởi cứ đều đều vang lên trong đêm thâu tĩnh
mịch. Trong hoàn cảnh như thế làm sao tôi có thể ngủ được. Nằm yên ở một thế
nằm nhất định trong nhiều giờ, người nó mệt mỏi làm sao… Ước gì được tháo tất
cả những sợi dây vướng víu ấy để tự do lăn phải, lăn trái hay nằm co quắt mà
ngủ thì sướng biết mấy. Một ước mơ đơn giản thế mà đêm nay mơ ước ấy tôi cũng
không thực hiện được !
Bây giờ là một giờ sáng, vợ và các con tôi đã về nhà cả rồi, chỉ còn mình tôi
trong bệnh viện. À thì ra, những người thân của tôi dù có yêu tôi đến thế nào
đi nữa, cũng có lúc họ cũng phải rời bỏ tôi. Và tôi, cũng có lúc tôi cũng phải
từ giã họ, phải từ giã tất cả, của cải, danh vọng, toan tính….để một mình đi
về với cát bụi… Chỉ có Chúa là Đấng luôn ở bên cạnh tôi và đêm nay Người đang
chăm sóc cho tôi. Tôi bắt đầu đọc kinh Mân Côi và kinh Lòng Thương Xót Chúa.
Đọc xong cả ngần ấy kinh mà vẫn chưa tới hai giờ sáng. Thời gian đêm nay thật
dài khi mình không ngủ được. Tôi cố nhằm mắt lại và bắt đầu tâm sự với Chúa.
Chúa cho tôi cảm nghiệm là Chúa đang bên cạnh thôi. Chúa âu yếm nhìn tôi và ôm
tôi vào lòng dù tôi là kẻ tội lỗi. Chúa chẳng chấp gì tội của tôi dù đôi khi
chính tôi đã đẩy Chúa ra khỏi tâm hồn tôi bằng cách liều mình phạm tội . Những
nỗi đau của tôi không đáng gì với việc Chúa chịu nạn chịu chết trên cây Thánh
Giá, nhưng Chúa lại rất quan tâm đến nỗi đau nhỏ nhoi ấy của tôi. Chúa xót xa
khi tôi quặn đau và chính Chúa đã an ủi tôi như người mẹ hiền dỗ dành đứa con
thơ quấy khóc trong đêm khuya. Không ai biết tôi đau ra sao dù vợ tôi , dù con
tôi đã cố gắng để chia sớt bằng cách cầm tay tôi , vỗ về tôi. Sự quan tâm của
những người thân yêu đã an ủi tôi rất nhiều, nhưng chính Chúa mới là người biết
tôi đau đớn ra sao. Ngài luôn ở bên tôi, không những chia sẻ với tôi mà còn
quan tâm và nâng đỡ những người thân yêu của gia đình tôi trong giờ phút hoang
mang lo lắng này.
Tôi cảm nghiệm được tình yêu cao vời Chúa đã dành cho tôi. Chúa cúi xuống rất
gần đến nỗi tôi có thể nghe được nhịp đập từ con tim của Chúa. Tôi nghe được
tiếng thổn thức từ trái tim Ngài, nỗi đau của người Cha bị chính những đứa con
mình sinh ra phản bội. Chúa xót xa cho bao gia đình tan vỡ, cho những đứa con
đi hoang quên đường về, cho bao kẻ đang đắm chìm vào tội lỗi trong dịp kỷ niệm
Chúa Giáng Sinh. Chúa buồn lắm khi loài người đang từng bước loại Chúa ra khỏi
cuộc đời mình, ra khỏi nhà mình, ra khỏi học đường và ra khỏi xã hội của mình.
Chúa cô đơn lắm khi bao Thánh Đường vắng bóng giáo dân, bao nhà chầu trên thế
giới chỉ vỏn vẹn với ngọn đèn leo lét lạnh lùng. Chúa đau đớn lắm vì những chủ
chiên phản bội và Chúa rơi lệ vì loài người đang xô nhau vào con đường lầm lạc:
phá thai, trợ tử, đồng tính, dâm loạn, hận thù, chiến tranh….
Tôi biết chính Chúa đã dựng lên tôi giống hình ảnh của Chúa. Thân xác tôi là
một cỗ máy vô cùng tinh vi được Chúa luôn ghé mắt nhìn đến. Tất cả các cơ phận
đều hoạt động nhịp nhàng và ăn khớp chặt chẽ với nhau và chỉ cần một chút sai
lệch là tôi thành phế nhân ngay.
Hôm nay tôi phải nằm trong bệnh viện vì phần ruột dưới bao tử đã vô cớ không
làm việc theo đúng chu trình tiêu hóa. Sau khi thức ăn được nhai kỹ qua miệng
vào bao tử, thì bao tử sẽ tiết ra chất kích tố nào đó để tiêu hóa thức ăn. Do
sự chuyển động của từng khúc ruột, thức ăn được chuyển qua ruột để nuôi cơ thể,
chất cặn bã thì được đưa ra ngoài. Nhưng những khúc ruột của tôi hôm nay không
thèm chuyển động nữa, chúng cứ nằm ỳ ra như muốn đình công. Thế là thức ăn
trong bao tử xình lên, nó không đi xuống ruột được thì nó đòi đi ngược lên và
tìm cách ra ngoài theo đường miệng. Lúc đó tôi rất khó chịu, ợ chua, ói mửa và
bụng thì xình lên, óc ách đau đớn. Nhìn lại thân phận mình, tôi biết thân xác
tôi là cái bình sành tạm bợ, được bọc trong cái vỏ trứng, nó rất mong manh dễ
vỡ thế mà đôi khi tôi đã hành động như thể thân tôi là đá để mang trong lòng
mình tính kiêu ngạo của nguyên tổ Adam. Tôi tưởng là mình có thể làm được mọi
sự và tôi đã sống như thể là tôi sẽ sống mãi. Đêm nay thì tôi nhận ra thời gian
của tôi có ngần có hạn, tuổi trẻ của tôi đang hết và tuổi già đang quấn quít
với bệnh tật. Tôi biết rằng sự sống hay chết của tôi nằm trong tay Chúa, cho
nên tôi chẳng lo gì. Điều tôi quan tâm là yêu mến Chúa, sống như Chúa dạy và
đem tình yêu của Chúa đến cho mọi người. Tôi chỉ cần làm đẹp lòng Chúa thôi,
thế là đủ, vì Ngài là tất cả, là cùng đích của đời tôi.
Qua sự chăm sóc và lo lắng của vợ tôi, của các con tôi, tôi cảm nghiệm được
tình yêu mà gia đình đã dành cho tôi. Chính trong lúc này, tôi mới thấy tôi cần
gia đình nhiều hơn. Tôi nhận ra sự quan phòng của Chúa. Ngài đã cho tôi sinh ra
và rồi lại đặt để tôi trong một mái gia đình hạnh phúc như thế này, tôi đã sống
hoàn toàn hạnh phúc. Sự ngọt ngào yêu thương trong gia đình phản ánh tình yêu
bao la mà Cha Giêsu luôn dành sẵn cho tôi. Tôi trân quý sự hy sinh của vợ tôi,
tôi vui mừng vì những lo lắng mà các con tôi đã dành cho tôi… Tôi cũng nhận
ra Chúa luôn đồng hành với tôi qua việc quý cha, quý tu sĩ nam nữ, quý anh chị
trong các hội đoàn, bạn bè thân hữu đến thăm hỏi, gọi điện thoại an ủi và nhất
là hiệp lời cầu nguyện cho tôi. Tôi thấy mình hạnh phúc vô cùng, niềm hạnh phúc
không mua được bằng tiền tài, quyền lực mà được xây dựng bằng quan hệ yêu
thương. Tôi nguyện với Chúa rằng tôi sẽ dùng thời gian còn lại của đời mình để
đáp lại tình yêu thương ấy bằng cách quan tâm, chăm sóc yêu thương mọi người
như Chúa đã yêu thương và chăm sóc cho tôi. Tình yêu ấy phải trổi vượt hơn là
sự đáp trả mà là tình yêu vô vị lợi, một tình yêu cho đi không tính toán, một
tình yêu tự hiến theo gương yêu thương của Thày Giêsu .
Thế rồi qua mấy ngày nằm trong bệnh viện, tôi đã được chữa lành và ra về. Tôi
tin rằng việc tôi phải nằm bệnh viện là một dấu chỉ Chúa rất yêu tôi, là một
món quà đặc biệt Chúa dành cho tôi. Nhân cơ hội này, tôi được nếm thử tình yêu
thương ngọt ngào của Chúa qua tình yêu gia đình, của người thân, của bạn bè.
Con cảm tạ Chúa vì Chúa luôn dành cho con sự tốt đẹp nhất vượt qua sự mơ ước
tầm thường của loài thụ tạo như con.
Lạy Chúa, con yêu mến Chúa.
Giuse Thẩm Nguyễn

NGƯỜI NỮ CÔNG GIÁO VIỆT NAM THỜI CẤM ĐẠO

NGƯỜI NỮ CÔNG GIÁO VIỆT NAM THỜI CẤM ĐẠO

Tạ Thanh Minh-Khánh

1/16/2013

nguồn:vietcatholic.net

Sự hiểu biết của tôi về chuyên đề nầy rất giới hạn, lại nữa cũng không có được
nhiều tài liệu để tham khảo, tôi chỉ cố gắng sắp xếp những gì đọc được, xem như
góp chút phần nhỏ vào việc chung : nhớ về kỷ niệm 25 năm tôn phong hiển thánh
117 vị tử đạo Việt Nam (1988-2013).

I. Bối cảnh lịch sử thời cấm đạo

Nước ta lúc ấy, thế kỷ 16, thời Nam Bắc phân tranh, các vua chúa Lê, Mạc rồi
Trịnh, Nguyễn đều cho phép mở cửa biển đón các tàu buôn ngoại quốc vào giao
thương. Bởi thế, mới có người Âu Châu sang Việt Nam để buôn bán và truyền đạo.

Khi đó vua Lê giữ hư vị. Họ Trịnh và họ Nguyễn cùng dùng danh nghĩa phò Lê,
nhưng đều mưu cũng cố cơ nghiệp riêng.

Họ Trịnh xưng chúa, cha truyền con nối, nắm giữ quyền hành ở miền Bắc, xưa gọi
Đàng Ngoài.

Cũng thế, họ Nguyễn lập nghiệp chúa ở phương Nam, gọi Đàng Trong.

Sau 7 lần đánh nhau (45 năm) mà chưa bên nào trọn thắng, nên đồng ý lấy sông
Gianh làm ranh giới, mỗi bên tự lo việc trị an, kinh tế, văn học và ngoại
thương. Chúa Trịnh mở cảng Phố Hiến (Hưng Yên), chúa Nguyễn mở cửa Hội An
(Quảng Nam) cho các tàu buôn của nước ngoài vào buôn bán và các giáo sĩ Tây
phương đã theo tàu buôn nhập cảnh Việt Nam. Thế giới bấy giờ có trào lưu bành trướng thuộc địa, liên kết những người cầm quyền chính trị với các tập đoàn thương mại đi tìm thị trường. Bồ Đào Nha tới Ma Cao (Tàu), Tây Ban Nha bảo hộ Phi Luật
Tân, Hòa Lan chiếm Java (Indonesia) làm thuộc địa. Sau đó mới có thêm Anh, Pháp
đến Ấn Độ.

Bài nầy giản lược, chỉ kể lại một số sự việc liên quan đến vấn đề truyền giáo
tại Việt Nam.

II. Sự hiện diện của các giáo sĩ Âu châu tại Việt Nam

Lúc đầu, chỉ là các giáo sĩ Bồ Đào Nha làm tuyên úy cho thương thuyền, từ từ về
sau mới có thêm giáo sĩ Tây Ban Nha và Pháp đến giảng đạo.

Ngoài Bắc, vua Lê chúa Trịnh

Trước đó, từ đời nhà Mạc (1527-1592) đã có giáo sĩ Tây phương vào truyền đạo.

1533, thời vua Lê Trang Tông có người tên Inê Khu (Ignatio) đi đường biển vào
giảng đạo ở làng Ninh Cường, Quần Anh (Nam Định) và làng Trà Lũ, huyện Giao
Thủy. (Theo sách Khâm Định Việt Sử)

– 1583 Các giáo sĩ Diego de Oropesa, Bartolomeo Ruiz, Petro Ortiz, Francisco de
Montila và 4 trợ sĩ dòng Phanxicô từ Phi Luật Tân theo tàu Bồ đến truyền giáo
tại Thăng Long, Bắc Việt.

– 1590 giáo sĩ Ordeonez de Cevallos đi tàu gặp bão, trôi giạt đến bờ biển Bắc
Việt, được vua Lê Thế Tông tiếp kiến. Chị của vua là công chúa Chiêm (giữ tước
vị nhiếp chính vì vua còn vị thành niên) được cha Cevallos dạy đạo và rửa tội,
tên thánh gọi Mai Hoa (Việt-hóa tên Maria). Bà là con vua Lê Anh Tông.

– 1626 giáo sĩ Giuliano Baldinotti, dòng Tên và trợ sĩ Giulio Piani (người
Nhật) theo tàu Bồ Đào Nha đến Bắc Việt, được chúa Trịnh Tráng tiếp kiến vì cha
Baldinotti giỏi thiên văn, được nhà chúa yêu cầu giải thích việc vận hành các
tinh tú, được đãi tiệc và tặng phẩm vật. Chúa Trịnh còn gửi thư và lễ vật đến
ĐGH Urbano VIII hứa sẽ thu xếp chỗ ở cho các giáo sĩ tới giảng đạo.

1627 giáo sĩ Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ) và Pedro Marquez đến Cửa Bàng (Thanh Hóa), xin vào yết kiến chúa Trịnh Tráng ở Hà Nội. Cha dâng tặng một đồ hình quả đất có chữ Hán do các giáo sĩ bên Tàu dịch, và chú thích. Sau đó, được nhà chúa vời đến giải thích thêm. Lần nầy, cha biếu một đồng hồ treo có chuông
gõ báo giờ với kim ngắn chỉ giờ, kim dài chỉ phút. Đây là chiếc đồng hồ đầu
tiên tới đất Bắc. Chúa Trịnh có cảm tình cho phép cha truyền đạo trên lãnh thổ
thuộc quyền (theo Việt Sử Giai Thoại, Đào Trinh Nhất). Cha Đắc Lộ đã dạy đạo,
rửa tội cho người em gái chúa Trịnh, tên thánh gọi Catarina. Cha còn được phép
cất một nhà thờ ở gần đền vua.

– 1631 chúa Trịnh Tráng muốn các tàu Bồ Đào Nha trở lại buôn bán nên cho phép
các giáo sĩ Antonio de Torres, Francesco Gardim, Gasparo d’Amiral trở lại miền
Bắc.

– 1647 vua Lê Chân Tông ban sắc nhận giáo sĩ dòng tên Felix Morelli làm dưỡng
tử (Dòng Máu Anh Hùng III, Vũ Thành trang 341).

– 1676 giáo sĩ Juan de Santa Cruz và Juan Arjona đến Trung Linh, Phố Hiến (Hưng
Yên).

– 1678 một người Pháp tên Boureau-Deslandes vào yết kiến chúa Trịnh, dâng thư
của vua Louis XIV xin cho các giáo sĩ vào giảng đạo tại Việt Nam.

– 1685 chúa Trịnh Căn không làm khó việc truyền giáo, bằng lòng nhận quà của
vua Pháp Louis XIV gởi tặng.

– 1745, thời chúa Trịnh Doanh, mời 6 cha dòng Tên giảng dạy toán học. Nhưng khi
các ngài đến nơi thì nhà chúa đổi ý.

– 1748 chúa Trịnh Sâm đình chỉ việc cấm đạo vì trong chiến lợi phẩm thu được có
một số súng ghi chữ Hòa Lan. Nhà chúa cho lệnh tìm các giáo sĩ. Bấy giờ cha
Vinceslas Paleuk, dòng Tên, quốc tịch Đức đang ẩn trú ở Hà Nội, biết tiếng Hòa
Lan, giải thích được nhà chúa hài lòng.

Trong Nam, chúa Nguyễn

– 1550 giáo sĩ Gaspar de Santa Cruz, dòng Đa Minh, từ đảo Malacca, theo tàu
buôn Bồ Đào Nha đến truyền giáo tại Hà Tiên.

– 1580 giáo sĩ Luis de Fonseca và Grégoire de la Motte, dòng Đa Minh, cũng từ
Malacca đến truyền giáo tại Quảng Nam.

– 1596 đời chúa Nguyễn Hoàng, có giáo sĩ Tây Ban Nha Diego Adverte vào Nam
giảng đạo. (theo sách Nam Sử của Trương Vĩnh Ký)

– 1615 giáo sĩ Francesco Buzomi và Diego Carvalho tới Đà Nẵng.

– 1619 chúa Nguyễn Phúc Nguyên cho phép các giáo sĩ dòng Tên tự do đi lại
truyền đạo. Các cha còn được phép cất hai nhà thờ ở Hội An và Quảng Nam.

Quan trấn thủ Bình Định cũng mời cha Francesco Buzomi tới truyền giáo và cất
cho một nhà thờ.

– 1620 giáo sĩ Cristoforo Borri người Ý truyền đạo tại Nước Mặn (Bình Định).

– 1624 cha Francesco di Pina dạy đạo và rửa tội cho bà Minh Đức Vương Thái Phi,
vợ thứ chúa Nguyễn Hoàng, tên thánh gọi Maria Mađalêna và 50 người trong giới
quan lại, học thức.

– 1640 cha Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ) trở lại Thuận Hóa, dâng biếu nhiều lễ
vật cho chúa Nguyễn Phúc Lan, hi vọng nhà chúa nới tay cho các giáo sĩ giảng
đạo, nhưng rồi sau đó chính cha cũng bị trục xuất (1645).

– 1645 hai giáo sĩ và 4 chị dòng Thánh Phanxicô Tây Ban Nha bị nhà cầm quyền Bồ
Đào Nha trục xuất khỏi Macao (khi ấy thuộc quyền bảo hộ của Bồ Đào Nha). Trên
đường về Phi Luật Tân, tàu bị bão, ghé vào Hải Phố (Cửa Hàn) được chúa Nguyễn
Phúc Lan cho vào kinh, được bà Minh Đức Vương Thái Phi tiếp đón tử tế và ngỏ ý
xin các chị một chiếc áo dòng để mặc lúc lâm chung.

– 1656, 1657 : chúa Nguyễn Phúc Tân thắng chúa Trịnh ở Bố Chính, định tiến quân
ra Bắc nên dễ dãi cho hai giáo sĩ Francisco Rivas và Pedro Marquez được giảng
đạo, miễn không rời khỏi Cửa Hàn và Hội An.

– 1704 chúa Nguyễn Phúc Chu lơi việc cấm đạo do bởi giáo sĩ Juan (Antonio) de
Arnedo, dòng Tên Tây Ban Nha được trọng dụng (nhà toán học của triều đình) vì
cha rất giỏi thiên văn và là thầy thuốc riêng của nhà chúa. Thời ấy cha
Langlois còn được phép làm thuốc chữa bệnh miễn phí cho người nghèo.

– Về sau chúa Nguyễn Phúc Khoát (1725-1768) cũng dùng cha Siebert làm y sĩ cho
triều đình và khi anh em nhà Tây Sơn khởi nghĩa cũng nhờ một cha dòng Phanxicô
làm y sĩ.

– 1777 Giám Mục Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc) được quan trấn thủ Hà Tiên cho
đến truyền giáo. Họ đạo Hà Tiên được thành lập trên phần đất của quan trấn thủ
tặng.

Trên đây là một số giao tiếp của vua, chúa với các giáo sĩ Tây phương lúc ban
đầu, thời Trịnh – Nguyễn phân tranh.

III. Thời cấm đạo

Rồi các giáo sĩ cứ dần dần vào nước dạy đạo, mà người mình càng ngày càng theo
đạo cũng nhiều. Nhưng nước ta, từ xưa đến nay vẫn theo Nho giáo, lấy sự thờ
cúng ông cha làm trọng, lấy sự tế tự thần thánh làm phải… Đột nhiên thấy nhiều
người mình theo đạo Thiên Chúa, bỏ cả các thói cũ, chỉ chuyên về một mặt theo
đạo mới, bởi vậy cho nên trong Nam, ngoài Bắc, vua chúa đều cho ấy là một tả
đạo, làm hủy hoại cả cái phong hóa của nước nhà xưa nay, bèn xuống chỉ cấm
không cho người trong nước theo đạo nữa và đặt ra phép nghiêm để bắt tội những
kẻ không theo chỉ dụ ấy. (Việt Nam Sử Lược II, Trần Trọng Kim, trang 99)

Liên tiếp khởi từ Trịnh – Nguyễn phân tranh, rồi nhà Tây Sơn và các vua nhà
Nguyễn sau đó (Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức) vẫn duy trì việc cấm đạo.

Vua Gia Long vì mang ơn Giám Mục Pigneau de Béhaine, Bá Đa Lộc (giúp đỡ lúc sa
cơ cùng cực, chưa lên ngôi vua, bị nhà Tây Sơn truy lùng) nên ban phép cho
giảng đạo nhưng không ban hành sắc dụ nào bãi bỏ việc cấm đạo.

Lý do cấm đạo : Lý do chính được nêu truyền là người tín hữu Ki-tô không thờ
kính tổ tiên. Tại sao việc tôn kính tổ tiên lại trở thành vấn đề trầm trọng khi
mà điều răn thứ tư của Thiên Chúa giáo có ghi rõ “thảo kính cha mẹ” ? Nghĩa vụ
hiếu đạo khuyên nhắc con cái hành xử đối với cha mẹ khi còn sống cũng như lúc
đã qua đời không khác văn hóa tín ngưỡng Gia tiên “sự tử như sự sinh, sự vong
như sự tồn”?

Ngoài ra, có lẽ còn một lý do khác là luật “một vợ một chồng”. Có lần vua Gia
Long nói với GM Pigneau de Béhaine : Đạo của Đức Cha là một đạo tốt lành, nhưng
nghiêm khắc quá, ai mà có thể giữ được ? Tôi không thể nào chỉ cưới có một vợ.
(Dòng Máu Anh Hùng II, Vũ Thành, trang 5)

Lịch sử truyền đạo Thiên Chúa vào Việt Nam đã từng là đề tài tranh luận. Theo
nhà văn Thế Uyên, ông Trần Quốc Vượng, tác giả quyển Trong Cõi đã chiếu một cái
nhìn ngay thẳng của sử gia vào thời kỳ đầu của đạo Công giáo ở miền Bắc.

Thoạt kỳ thủy đạo Thiên Chúa được truyền bá vào Việt Nam thì nó lại được sự
hưởng ứng trước hết của những người nghèo, trước hết là dân chài, những người
bị gạt ra ngoài lề của xã hội Quân chủ Nho giáo và những người bình dân nghèo
khó.

Đi thực tế điền dã và điều tra hồi cố ở miền Bắc Việt Nam, tôi nhận thấy các
cộng đồng Thiên Chúa Giáo Việt Nam được phát triển trước hết ở vùng ven biển,
các cửa sông tập trung nhiều dân chài. Do nhu cầu tâm linh, dân chài có nhu cầu
tôn giáo, nhu cầu cúng quẩy… Thế mà từ đại triều đình ở Thăng Long đến các tiểu
triều đình làng xã Việt Nam ngày trước đều gạt dân chài ra rìa, không những các
sinh hoạt xã hội cộng đồng mà cả các sinh hoạt tâm linh tôn giáo cộng đồng.

… Khi đạo Thiên Chúa được truyền bá đến với lý tưởng ”Bác Ái” và tình ”Huynh
đệ phổ quát”, dân chài và dân cày nghèo ”cùng đinh” của làng xã và xã hội
Quân chủ Nho giáo lập tức theo Công giáo ngay… Đạo Thiên Chúa vào ngày ấy có
tác dụng giải tỏa dồn nén những người cùng đinh và dân chài Việt Nam, những
người ở vị thế bên lề.

Ông nhận xét Xã hội Việt Nam là xã hội Nho giáo phụ hệ nên chỉ đàn ông mới ra
đình hội họp và tế lễ, thỏa mãn được nhu cầu tâm linh. Trong khi đó, Công giáo
tôn trọng phụ nữ hơn nhiều, các nữ tín đồ được ngồi chung với nam trong mọi
buổi lễ ở nhà thờ.

Chế độ đa thê tạo ra tầng lớp bị thiệt thòi nhiều là các bà vợ lẽ, nàng hầu ;
bởi thế thành phần nầy theo đạo trước tiên”. Theo ông Trần Quốc Vượng Sự truyền
bá đạo Thiên Chúa vào Việt Nam là một phương tiện vô thức và hữu thức phủ định
nền văn hóa Nho giáo cổ truyền và đưa Việt Nam vào quĩ đạo giao lưu văn hóa Tây
phương. Vì lẽ đó mà vua chúa Việt Nam cấm đạo. (Thế Uyên đọc “Trong Cõi” của
Trần Quốc Vượng, NXB Trăm Hoa, CA, U.S.A. – Báo Hợp Lưu số 10 tháng 2-1993,
trang 184-187)

Các sắc lệnh cấm đạo : Khởi từ vua Lê, chúa Trịnh-Nguyễn, nhà Tây Sơn rồi nhà
Nguyễn (vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức) ghi được tất cả 54 sắc lệnh cấm đạo
và 2 kiến nghị của các quan triều (năm 1826, 1830) mục đích thắt ngặt thêm sự
bách hại.

Ban đầu cấm không cho theo đạo, cấm giảng đạo, trục xuất giáo sĩ Tây phương,
rồi hiểu dụ, phạt vạ, đeo gông xiềng xích, giam tù, tra khảo, tịch thu ảnh
tượng, của cải, tài sản, phá hủy nhà thờ, trường học, khắc chữ “tả đạo” lên
mặt, phân sáp, lưu đày biệt xứ, cuối cùng đến xử tử, voi giày, thắt cổ, bỏ đói
cho chết, thiêu sống, trói cột từng 5 người thả trôi sông, chém đầu quăng sông,
xử phân thây…

Các biện pháp trừng trị được áp dụng từ hạ tầng cơ sở, thôn ấp, xã làng,
huyện tỉnh tới tận kinh đô :

– Trẻ trên 15 tuổi phải thường xuyên trình diện định kỳ trước nhà cầm quyền sở
tại.

– Nam 20 tuổi bị xung vào quân ngũ làm tạp dịch.

– Đàn ông bị cưỡng bách đánh trận dẹp giặc loạn.

– Đàn bà làm nô tỳ trong các nhà quan.

– Phân sáp : chia rẽ các thành phần trong gia đình, cha mẹ, con cái, anh em đày
đi các nơi khác nhau.

– Công quyền không thu dụng người bên đạo. Đang làm việc phải chối bỏ đạo, nếu
không thì bị giáng cấp lưu đày, bãi nhiệm, xử tù hay xử tử.

– Cấm cho người bên đạo vay tiền, cấm đi lại buôn bán, đóng cửa các tiệm buôn
có sẵn.

Ki-tô giáo bị coi là “tả đạo” rồi “dịch tể” (Sắc lệnh vua Tự Đức 7-6-1857),
người Tây phương bị coi là “mọi rợ”, không dung thứ người “mọi rợ” đến giảng
đạo, cấm các sách viết bằng chữ “mọi rợ” (chữ quốc ngữ thuở ban đầu. TTMK),
tịch thu và tiêu hủy tất cả (Kiến nghị của quan Bộ Hình năm 1830). Dân Việt Nam
bên đạo gọi là “dữu dân” (dân xấu).

IV. Người nữ thời cấm đạo

Dù không có điều kiện để đọc được nhiều sử liệu về nữ giới thời cấm đạo, tôi
vẫn nhìn thấy rải rác đó đây hình ảnh phụ nữ trong suốt tiến trình truyền giáo
tại Việt Nam ; giới hạn ở bài nầy là thời kỳ 300 năm bị ngăn cấm bách hại. Trừ
một số ít có được vài chi tiết, phần đông chỉ ghi vắn tắt tên thánh (lúc rửa
tội) không có tên Việt đi kèm.

Trong hàng phẩm tước

Công chúa Mai-Hoa con vua Lê Anh Tông. Để rảnh tay với người Chiêm ở mạn
Nam, nhà vua có cưới một công chúa người Chiêm là em vua nước Chiêm Thành. Khi
vua nước nầy chết, không con nối nghiệp, con gái mới sinh của vua Lê Anh Tông
(công chúa Mai-Hoa – TTMK) được hưởng tước Bà chúa Chiêm, hay Bà chúa Chàm hoặc
Chèm. Bà vào đạo năm1591, kéo theo các nàng hầu, cung nữ, tất cả 72 người.

Bà cho sửa sang khu chính cung điện thành nhà nguyện, cha Ordeonez de Cevallos
(người rửa tội cho bà) đã đến dâng lễ lần đầu. Bà còn lập tu viện Đức Mẹ Vô
Nhiễm, ngày đó có 51 người nữ gia nhập đời sống tu trì (Có lẽ chỉ là sống
chung, để cùng nhau giữ đạo, rèn tập nhân đức, làm việc từ thiện… chớ không hẳn
là dòng tu với thủ bản, lề luật. Đến 1670 dòng Mến Thánh Giá mới được thành lập
qui cũ và là dòng nữ đầu tiên trên đất nước Việt Nam). Nhờ bà, có thêm nhiều
người chịu phép rửa. Vua em, Lê Thế Tông cho bà một khu đất rộng, để lập một
làng đạo Gia-tô. Bà Hoàng Thái Hậu cũng nhận phép rửa trước khi qua đời. “Hiện
nay vẫn còn một nền nhà thờ và một giếng Da Tô do công chúa cho đào tại An
Trường, xã Phúc Lập, Thanh Hóa”. (theo Bách khoa Toàn thư Wikipedia.org : công
chúa Mai Hoa)

Bà Minh Đức Vương Thái Phi (1568-1648) mẹ chúa Nguyễn Phúc Nguyên và
Nguyễn Phúc Khê. Bà là vợ thứ chúa Nguyễn Hoàng, đã giúp chồng dựng nghiệp, lại
có con trai nối nghiệp chúa, nên việc bà nhập đạo cũng có ảnh hưởng. Bà cất một
nhà nguyện rất đẹp trong khu dinh của bà, người bên đạo được tự do tới lui thờ
phượng. Bà bảo vệ nhà nguyện qua những lần cấm cách gắt gao. Bà đưa được nhiều
người có vị thế trong phủ chúa, hoàng gia vào đạo.

Năm 1643 các thầy giảng tổ chức lễ giáng sinh ở dinh Tổng Trấn Nguyễn Phúc Khê.
Không có linh mục hành lễ, chính bà Minh Đức Vương Thái Phi đã nói về ý nghĩa
Chúa Giáng Trần.

Cha Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes) cũng có dịp làm lễ ở nguyện đường nầy. Năm đó,
1639, cha rửa tội cho ba người trong hoàng tộc và một thầy sãi nổi tiếng.

Bà mộ đạo, đến cuối đời còn tiếp đón tử tế hai giáo sĩ và bốn chị dòng Phanxicô
Tây Ba Nha, ngỏ ý xin một chiếc áo dòng để mặc lúc lâm chung, hưởng thọ khoảng
80 tuổi.

Công chúa Catarina Em hay chị của chúa Trịnh Tráng (vì tài liệu tiếng
Pháp chỉ ghi là sœur). Bà được cha Đắc Lộ dạy đạo và rửa tội khoảng năm 1627.
Bà nhiệt thành truyền đạo, kết quả là 18 người trong hoàng cung, có thân mẫu
bà, theo đạo.

Bà viết “Lịch Sử Giáo Hội” bằng chữ nôm. “Bà đặt thành thơ, vãn tất cả lịch sử
đạo Công giáo bắt đầu từ tạo thiên lập địa đến khi Chúa xuống thế làm người,
đời sống, cuộc tử nạn, phục sinh và lên trời của Đấng Cứu Thế, Chúa Giêsu
Ki-tô, Chúa chúng ta, và ở cuối còn phụ thêm đoạn kể chuyện chúng tôi (các cha
dòng Tên – TTMK) tới xứ Tonkin và truyền giáo ở đó. Bà làm rất hay. Sau nầy vãn
còn được các người có đạo truyền tụng cho nhau, họ ngâm lén, lúc làm việc ở
nhà, ngoài đồng hay lúc đi đường. Dân bên lương cũng thích ngâm vịnh ; nhờ
những thơ, vãn đó mà nhiều người đã trở lại”. Bà còn bắt chước làm các ảnh
tượng bằng sáp theo mẫu cha Đắc Lộ phân phát (không đủ) để đưa tiếp cho các
người mới theo đạo.

Bà Mađalêna (Phú Yên) là vợ trấn thủ dinh Trấn Biên. Sau khi vào đạo, bà
lập nhà nguyện ngay trong tư dinh, với sự đồng ý của chồng. (Ông không theo
đạo, nhưng mến đạo). Có lần bà mời cha Đắc Lộ vào dinh dâng lễ, cha lưu lại đó
4 ngày để dạy giáo lý, rửa tội 90 người, trong số đó có con gái bà. Bà còn mở
nhà thương, đi thăm kẻ yếu, người già, người nghèo. Được nhiều người tiếp giúp
; nhờ thế nhiều người theo đạo.

Bà Ursula phu nhân đại sứ An Nam tại Cao Miên năm 1618, thời chúa Nguyễn
Phúc Nguyên. Trước cuộc trấn nhậm xa nhà, bà xin học đạo, được cha Francesco
Buzomi rửa tội cùng với 25 gia nhân tại nhà thờ Nước Mặn, Qui Nhơn. (Bà là con
gái quan phủ Qui Nhơn). Ban tối bà tổ chức đọc kinh chung, lần hạt trước bàn
thờ. Trong số tùy tùng rửa tội có các cô vợ nhỏ của quan đại sứ. Bà giải thích
lề luật “một vợ một chồng”, các cô đồng ý, bà thu xếp gả chồng, tìm nghề cho
từng cô. Quan đại sứ cũng bằng lòng xa hết các cô vợ nhỏ, sau đó chịu phép rửa
cùng với 20 gia nhân tùy tùng, tên thánh gọi Inhaxu.

Bà Gioanina quả phụ quan Trần Kẻ Chợ (cuối thời chúa Trịnh Tráng). Sau
khi chồng qua đời, được gọi vào phủ trông coi các cung nữ. Bà đã đưa nhiều cung
phi vào đạo, trong đó có hai bà Pia và Colomba là vợ hoàng tử và một hầu nữ
Bianca. Cả ba người nầy cùng bà Gioanina hợp nhau truyền giáo trong cung phủ.
Có những người không theo đạo nhưng mến đạo và tìm cách giúp đạo khi bị cấm
cách. Nhờ họ, cha Phanxicô Rangel được khỏi tù năm 1656.

Bà Anna em chúa Trịnh Tráng. Chồng là quan triều đi làm nhiệm vụ ở Thanh
Hóa, bất ngờ bị bệnh nặng, muốn được về nhà gặp giáo sĩ. Cha Đắc Lộ không đến
kịp để rửa tội. Chỉ có vợ quan và bà mẹ già theo đạo. Bà góa Anna chuyên lo đọc
kinh và làm việc bác ái. Một số khác theo gương bà, vào đạo như bà Monica…

Ngoài ra còn có công chúa Ngọc Liên (con chúa Nguyễn Phúc Nguyên, vợ
quan trấn thủ Quảng Bình), bà Thượng Trâm, quê ở Hải Dương, mẹ Hoàng tử Sáu…

Đó là những người thuộc hoàng tộc, quan quyền theo đạo lúc ban đầu, nhờ họ đạo
được truyền nơi cung vua phủ chúa, đó là chỗ nương tựa của Giáo hội thời mới
chớm nở (lời cha Đắc Lộ).

Ngoài hàng thứ dân

Bà Eulalia vợ ông Andréa, là một trong các gia đình theo đạo đầu tiên ở
Quảng Nam. Nhà bà là nơi hội họp người bên đạo thời bình, nơi ẩn trú khi bị bắt
đạo. Nhiều người chịu phép rửa tại đó, cũng nhiều lần bị khuấy phá, là một
trong những người bị tù giam vì đạo lúc đầu tiên ở đấy…

Bà Paola vợ thầy sãi Antôniô. Ở làng Vũ Xá có một bà vương phi muốn được
đặt làm thần hoàng xã đó sau khi chết, nên cất một ngôi đền. Trong đền chỉ có
một chiếc ngai sơn son thếp vàng để trống. Bà tin rằng khi bà chết, hồn bà sẽ
ngự trên ngai đó, và dân làng phải cúng tế bà như một vị thần. Thầy sãi Antôniô
được dân làng giao việc trông coi ngôi đền của bà vương phi. Khi hai ông bà
Antôniô và Paola theo đạo, bà vương phi bắt ông Antôniô trói cột giữa chợ, đánh
đòn, nhưng ông bà không bỏ đạo, nên bị tịch thu tài sản, đuổi ra khỏi làng. Ông
bà tiếp giúp các thầy giảng, đưa nhiều người tới học đạo, rửa tội được hàng
trăm người.

Bà Lina ở bên sông làng Văn No, khuyên được người chồng xa rời vợ nhỏ,
rửa tội tên thánh Giuse. Các con cũng nhập đạo. Ông bà hiến nhà mình làm nhà
thờ, cất một nhà tế bần giúp người già cả đau yếu.

Bà Lina (khác) cũng là một trong những người rửa tội đầu tiên ở đất Bắc.
Bà giàu có nên rộng rãi phân phát thức ăn cho người nghèo túng. Bà cất một nhà
cho các thầy giảng trú ngụ. Bà nhiệt thành làm việc bác ái thời đó : góp giúp
những người bên đạo bị tịch thu tài sản và việc thờ phượng công ích.

Bà Saula người bên đạo, được phủ chúa Trịnh Tráng tin cẩn dùng vào việc
phục dịch cơm nước. Có dịp, bà thường lập lại lời giảng của các linh mục. Nhờ
đó, bà cô chúa Trịnh Tráng theo đạo, tên thánh rửa tội Gioanna.

Bà Luxê có chồng là Phaolô ở Kẻ Bờ. Nghe tin cha Đắc Lộ đến, bà mời cha
tới nhà làm lễ, giới thiệu một số người muốn học đạo.

Bà Colombia xây nhà nguyện, nhà giáo lý, giúp thuốc men, quần áo cho các
thầy giảng, thương người nghèo cô đơn. Bà bị té trên đường đi thăm bệnh nhân.
Trước khi chết, trối dặn chôn theo với bà cây thánh giá.

Bà Anna có chồng là Gioan, thầy sãi, ở An Vực. Cả gia đình thầy sãi được
cha Đắc Lộ rửa tội. Nhà thầy trở thành nhà nguyện. Đền thờ, tài sản của thầy
được bán đi để làm việc từ thiện. Bà Anna rất năng động, nhờ đó mà nhiều người
vùng An Vực xin tòng giáo.

Ngoài các người nữ được nêu nhắc kể trên, còn một số rất đông, tầng lớp thầm
lặng. Họ là những người vợ, người mẹ, những bà nội, bà ngoại… sốt sắng giữ đạo,
truyền đạo, mà sách sử chỉ tóm ghi trong vài dòng ngắn gọn :

– Các bà thấy một thiếu niên nghèo, chăn trâu cho nhà dòng, tính nết lễ độ, nên
cùng nhau xin cho thiếu niên ấy được vào học trong chủng viện. (Sau thành linh
mục : cha Phêrô Phan Văn Thi, tử đạo năm 1839, lúc gần 70 tuổi)

– Khi xem phương pháp truyền đạo của GM Etienne Cuénot Thể, 1802-1861, Hội Thừa
Sai Paris – Missions Etrangères de Paris, M.E.P.) : “Ngài cho tập họp từng
nhóm, độ 15-20 người, rồi đàn ông dạy đàn ông, đàn bà dạy đàn bà.”

– “Cha mẹ là những tín hữu sốt sắng”, “Sinh trưởng trong một gia đình cha mẹ
đạo đức” hay “Được cha mẹ lo cho kết hôn với một thiếu nữ nết na, đạo hạnh”…
(tiểu sử các thánh tử đạo).

Trên đây là hình ảnh của nữ giới tuy sống thời cấm đạo mà tương đối được bình
yên. Nhưng nắng ấm hiếm hơn cuồng phong, giông bão. Giáo hội Công giáo Việt Nam
trải qua những tháng năm đau thương mà nhà văn quá cố Cao Thế Dung gọi là “đất
thảm trời sầu”. Người nữ hiện diện lúc bình minh quang đãng thì cũng hiện diện
trong đêm đen, lắm khi tối đến kinh hoàng.

Người nữ chịu khổ vì đạo

Đây là những chứng từ :

Truyện chân phước Anrê (Phú Yên) : Bà góa Gioanna thuộc hàng vọng tộc,
được cha Francesco Buzomi rửa tội cùng với 90 người khác, trong đó có con trai
út của bà là Anrê (1641). Năng động trong các sinh hoạt đạo giáo, bà gởi gắm
cha Đắc Lộ huấn dạy cho cậu Anrê làm thầy giảng. Thầy bị bắt, tử đạo năm 1644,
lúc 19 tuổi.

Truyện thánh Anrê Trần Văn Trông (tử đạo năm 1835) : con trai của bà
Gia, làm nghề nuôi tầm dệt vải, nguyên là binh sĩ trong đội dệt tơ lụa của
triều đình, vì không chịu bỏ đạo nên bị xử chém. Trước giờ tử biệt, bà mẹ nầy
muốn biết coi con bà có còn mang mắc nợ nần gì của ai chăng để bà thay con hoàn
trả giúp con giữ lẽ công bằng. Theo con ra tận pháp trường, khi đầu con rơi
xuống, bà nộp tiền xin chuộc rồi dùng tà áo bọc lấy mang về chôn.

Truyện thánh Micae Nguyễn Huy Mỹ (tử đạo năm 1838), vốn là lý trưởng,
thấy cuộc bắt đạo ngày một gia tăng, nhiều người đã chết vì đạo, ông hỏi vợ là
nếu ông tử đạo thì bà có bằng lòng không ? Bà trả lời : “Nếu Chúa muốn, và ông
được phúc tử đạo thì bà và các con chẳng những bằng lòng mà lại còn vui lòng
nữa”…. “Hãy trung thành với Chúa cho tới cùng, đừng lo nghĩ về mẹ con tôi.
Thiên Chúa quan phòng tất cả. Đến thăm ông lần cuối, cầu xin Chúa cho ông vâng
theo thánh ý Ngài.”

Truyện chủng sinh Phaolô Bột bị bắt lúc 17 tuổi, bị hăm dọa, được chiêu
dụ dỗ dành, hứa hẹn, đã khước từ “quá khóa” (bước qua thập giá) hai lần, nhưng
tới lần thứ ba thì bằng lòng để cho người ta khiêng qua thập giá vẽ dưới đất.
Về đến nhà, nhìn thấy nét thất vọng của bà mẹ, cậu ăn năn hối hận, xin mẹ tha
thứ, rồi đi tìm linh mục xưng tội, sau đó trở lại nộp mình, chịu voi giày năm
1858.

– Có một bà bị bắt giam, phải nộp phạt 3000 đồng vì cổ đeo chuổi tràng hạt
(không thấy nêu tên).

– Năm người đàn bà làng Văn Cui bị bắt giam, sau được thả ra (năm 1714).

– Bắt được mấy người đàn bà mang thư liên lạc.

– Có hai, ba người đàn bà bị bắt, bị đánh đòn.

– Nhiều giáo dân bị bắt ở Đà Nẵng và Phố Hiến, trong đó có những phụ nữ bị đeo
xiềng xích nơi cổ.

– Bà Mađalêna Hồ bị phạt 2 roi, 3 lần khác bị đánh 14 roi móc chì.

– Ba cô Monica, Nympha, Phanxica trên đường ra Hà Nội hành đạo, bị bắt bỏ xuống
hố, lấp đất tới cổ, nhờ người bên đạo đi ngang trông thấy cứu lên.

– Bà Ysave và con gái không chối đạo, bị giam tù, mang gông rồi được thả về.

– Một bà người hầu trong cung đời chúa Nguyễn Phúc Chu bị hành hạ, tra khảo
bằng cực hình dùng kim tẩm dầu đốt các ngón tay (sau nầy tử đạo).

– Một thiếu nữ 16 tuổi bị đánh đòn vì nhất quyết không chỉ nơi trú ẩn của giáo
sĩ Pierre Borie (Cao), M.E.P.

– Bà Trương ở Phú Yên, đời chúa Nguyễn Phúc Thuần, bị tra khảo vì không chỉ chỗ
chôn dấu các đồ đạo và nơi các giáo sĩ ẩn trú.

– Bà A-nê Thu để linh mục làm lễ tại nhà, bị phạt một ngày tù. (Thánh linh mục
Thomas Đinh Viết Dụ, tử đạo 1839)

Ngoài ra còn những người nữ không trực tiếp bị đánh đập, bắt giam… họ thinh
lặng hành động : cho các giáo sĩ bị truy nã nương ẩn trong nhà, khuyên chồng
con giữ vững niềm tin, thấy các ông bên đạo bị bắt phơi nắng, các bà lấy quạt
ra che và nấu cơm cho ăn, lo tiền lính canh để vào thăm nuôi, chăm sóc thương
tích, đưa tin tức, thư từ cho những người bị bắt giam, mang chiếu trải cho
người sắp tử đạo quì, chứng kiến các cuộc xử tử, xin lãnh xác về chôn… Những bà
Ngoan, Nghiêu, Xinh, Mai, Huyên, Ngôn, Thao, Nho, Dân… những dì Phụng, Vân,
Hiền, Ơn… là những dấu chỉ thông hiệp với niềm tin, mộ đạo.

V. Người nữ tử đạo

Nhìn qua danh tánh 117 vị tử đạo ở Việt Nam được tôn phong hiển thánh bởi ĐGH
Gioan Phaolô II tại quảng trường Roma năm 1988, có một bà mẹ gia đình, nữ thánh
đầu tiên của Giáo hội Công giáo Việt Nam.

A. Thánh Agnès Lê Thị Thành, còn gọi là A-nê Đê hay I-nê Đê Thành.

Đê : tên con trai đầu lòng. Theo tục lệ nơi bà cư ngụ, dân làng lấy tên con
trai đầu lòng để kêu cha mẹ, do đó ông bà được gọi là ông bà Đê. Chính thực tên
ông là Nguyễn Văn Nhất.

Bà Đê sinh khoảng 1781 tại làng Bái Điền, tỉnh Thanh Hóa, con của ông Carôlô và
bà Save. Gia đình có 12 con, bà Đê là người thứ 8. Từ thuở nhỏ đã theo mẹ về
bên quê ngoại, xứ Phúc Nhạc, Ninh Bình.

Theo GM Pierre Retord (Liêu), 1803-1858, M.E.P., viết trong thư ngày 10-2-1843
thì “bà sống nết na, đạo hạnh, biết phụ mẹ kiếm sống bằng cách têm trầu để bán,
siêng năng đọc kinh, xem lễ”.

Năm bà 16 tuổi, mẹ mất. Năm bà 19 tuổi thành hôn với ông Marcô Nguyễn Văn Nhất,
có 6 con : 2 trai (Đê, Trân), 4 gái (Thu, Nam, Duyên, Nụ).

Gia đình thuận hòa, sống bằng nghề làm ruộng và nuôi tằm ; cho đến lúc bà qua
đời, ông bà có tất cả 17 cháu trai và gái.

Hạnh tích kể rằng : bà rất quan tâm đến việc dạy dỗ con cái, giúp người hoạn
nạn. Chính vì niềm tin, vì mộ đạo, thương người bị ngược đãi, bách hại mà bà
cho ẩn trú, che giấu các giáo sĩ thừa sai bị truy lùng để rồi chịu giam cầm,
đòn bọng và chết đi trong niềm tin phó thác (giáo sĩ Galy Lý bị bắt lúc ẩn trốn
sau vườn nhà bà).

Trong Tự Điển Việt-La (Dictionarium Latino-Anamiticum) do GM Jean Louis Taberd
(Từ), 1794-1840, M.E.P., ấn hành có đăng bài Inê Tử Đạo Vãn (Agnetis Martyrium)
của thánh Philipphê Phan Văn Minh, gồm 563 câu, trang 110-134. Qua đó, có thể
biết thêm về bà.

Trung thành với đức tin :

– Khi bị buộc phải đạp ảnh thánh giá, bà từ chối

Ảnh nầy hình Chúa tôi xưa

Khi nào thờ phượng bây giờ đạp đi.

– Trả lời quan nghè tra xét

… Chúng tôi giữ đạo Chúa Cha nhơn từ

Thật đàng công chính chẳng tư…

Tôi đâu dám bỏ công phu ngãi người.

Mặc ông tha, giết hai lời

Tôi thà chịu chết cõi trời nên công

Giết tha thì mặc lượng ông

Kim thạch là lòng chẳng chậy mỗ phân.

– Khi ông Marcô, chồng bà vào ngục thăm, thấy cảnh bà chịu roi đòn, ngõ ý xa
xôi muốn bà liệu cách trở về nhà lo cho con nhỏ. Bà nói Chớ ra lòng mọn lỗi
nghì chẳng nên.

Gìn giữ gia phong, bình tĩnh toan liệu mọi điều trước khi tử đạo

– Với cha mẹ chồng

Kính thăm nhạc phụ, từ mẫu song thân

Nữ tử vọng ân trăm đàng miễn chấp…

– Với anh chị em

Thăm trên dưới huynh đệ họ hàng.

– Với láng giềng

Chào cựu bang từ rày ly biệt.

– Trối với chồng

Thiếp dầu lỗi tam tùng tứ đức

Dốc trọn nguyền vạn thọ cõi xa

Xin lang quân chớ chấp ngãi hòa

Thương ấu nữ mồ côi mất mẹ…

Chàng thì chớ nại, giữ đạo cho bền

Đến cõi trường niên hai ta lại hiệp.

Nếu tái hôn thì

Phải chọn bề nhơn đức đạo cao

Gởi ấu tử cho con nương cậy…

Sau, con dầu khôn lớn thành hình

Xin dạy dỗ ủi an chớ bỏ.

– Dặn các con

Trước kính tin một Chúa chớ nài

Sau thảo kính hai bên cha mẹ.

Khi cha tái hôn

Dầu cha cải nghiệp, kế mẫu qui đàng

Hai con thìn khiêm nhượng kính đang

Chớ khá ở bạc tình, kiêu ngạo.

Lời lành dặn bảo, thương mẹ thì nghe

Cho mẹ đặng ngày sau thấy mặt

Bức thơ nầy để lại cho con

Sau khôn lớn mọi lời cho biết.

– Khuyên người em tên Du Minh bị bắt giam chung

Chị em cốt nhục đồng bào mẹ cha

Đồng sinh đồng tử hai ta

Trả công ơn Chúa một nhà hiệp nhau.

Lo nghĩ tương lai dân Chúa :

Khi người anh cả là linh mục Lôrensô muốn tự ra nộp mình, ở tù chung với hai
em, để cùng chịu tử đạo, bà can ngăn

Khuyên cha, cha hãy nghe tôi kẻo lầm

Nước nầy đạo Chúa ngăn cầm

Ngày sau giáo hữu mê tâm nguôi lòng

Cha mà toan chịu tử đồng

Ắt là bổn đạo lạt lòng ngãi nhơn.

Chẳng bằng ở lại thì hơn

Giữ gìn xem sóc mọi nơi linh hồn.

Ngoài ra, còn chứng từ của hai người con gái.

Người con út tên Nụ kể : Mẹ tôi rất lo lắng về việc giáo dục con cái. Chính bà
đã dạy chúng tôi đọc chữ và học giáo lý. Khi chúng tôi bắt đầu khôn lớn, bà dạy
cho biết cách dự lễ và lãnh nhận các phép bí tích. Chúng tôi không ai có thể hờ
hửng không đi xưng tội. Mẹ tôi nhắc nhở, thúc hối cho đến khi tất cả đều nhận
lãnh bí tích nầy. Riêng chúng tôi là gái, bà cho vào hội Đạo Binh Đức Mẹ, gia
nhập nhóm thiếu nữ mang trách nhiệm kinh sách trong nhà thờ mỗi ngày.

Một người khác tên Nam kể : Cha mẹ chúng tôi lo cho chúng tôi kết bạn với người
Công giáo tốt lành. Sau khi tôi lập gia đình, mẹ tôi thường hay lui tới thăm
hỏi, khuyên dạy. Tôi còn nhớ bà nói : ”Con đã được Chúa soi sáng đi kết bạn.
Đó là trách nhiệm. Con phải ăn ở tốt lành, đừng gây chuyện với bố mẹ chồng. Con
phải sẵn sàng đón nhận thánh giá Chúa gởi tới cho con.” Bà còn nói với hai vợ
chồng tôi : ”Các con hãy sống trong tình đoàn kết, thuận hòa. Chớ gì không một
ai nghe thấy chúng con cãi vã nhau”.

Gia đình không giàu, nhưng không bao giờ từ chối một ai đến xin ăn mà không
cho.

Đó là cách dạy con của người mẹ hiển thánh, đồng thời cũng là cách hành xử quen
thuộc của rất nhiều bà mẹ Công giáo Việt Nam. Thoạt nghe không thấy gì cao
siêu, mới lạ nhưng đó là thực tế sống động, truyền trải bao đời để hướng dẫn
con cháu thành những cha mẹ tốt, vô cùng cần thiết cho gia đình, xã hội.

B. Những người nữ tử đạo khác: Cho tới nay, thánh I-nê Đê Thành là nữ
giáo dân đầu tiên và duy nhất mang chính danh tử đạo, nhưng không phải là người
độc nhất tử đạo. Một số người nữ khác cũng chịu chết vì niềm tin, đủ cách :

– Chết vì bị xử giảo : Bà Tuân giúp thầy F.X. Hà Trọng Mậu ẩn trú, thấy
quan quân truy lùng ráo riết, bà gởi sang nhà bên lương nhưng rồi bị họ làm
phản, tố cáo, bà bị bắt, xử giảo năm 1839.

– Chết vì bị xử voi giày : Bà mẹ ông Alexi Đâu, bà Isave (1650), bà Monica,
bà Agatha, bà Gioanna, bà Bênêđita, cô Luxia (con ông Phêrô Kỳ tử đạo) và bà
Maria,
1665.

– Chết vì bị xử trảm : Bà Matta Phước và Monica (1661), cô Fidelis (1666),
bà Thảo cho cha Phêrô Nguyễn Văn Tự ẩn trú, bà Mađalêna Huỳnh Thị Lựu
cho
GM Etienne Cuénot Thể và 2 chủng sinh trú ngụ (1861).

– Chết vì bị bỏ đói trong tù : Bà Agnès Bưởi, bà A-nê (em linh mục Lôrensô
Lâu), bà Maria Thanh, bà Monica Sum (1700), bà Anna Ven, bà Benoît…

Tương tự như lời thơ “Thiên Đường Máu”

Tôn giáo pháp đình,

Một tòa án nghe tên

Muôn đời sau còn dựng óc…

… Một pháp đình thần sầu quỷ khốc

Những giá treo cổ người

Đêm nghiến răng rong róc

Những giàn lửa thiêu tươi

Bao con chiên hiền đạo nhất. (Hữu Loan)

– Chết vì bị thiêu sống (tập thể) 14-12-1861 : Lúc người Pháp tiến đánh
Biên Hòa, có một trại nhốt khoảng 300 tín hữu, trước khi rút về Bà Rịa,
người cầm binh triều cho đốt trại. Chỉ có 5 người thoát được, trong đó có một
thiếu nữ trèo lên cành cây cao, bị cháy hai bắp đùi, sau qua đời tại Sàigòn ;
và cô Mađalêna bị lưỡi đòng lướt qua đầu, cô bất tĩnh, lính tưởng cô chết nên
bỏ đi. Cô là nhân chứng kể thuật lại câu chuyện nầy.

– Đợt sát hại tại Bà Rịa 7-1-1862 : Có mấy trại giam nhốt vài trăm người
bên đạo. Khi lính Pháp tới, quân binh nhà Nguyễn đốt trại, lần ấy 288 đàn ông,
106 phụ nữ và 50 trẻ em chết trong lửa đỏ. Họ cũng làm ngơ để cho một số đàn bà
và trẻ em chạy thoát. Người tử đạo cao niên nhất là bà Maria Liệu, 76 tuổi.

– Có trường hợp một phụ nữ bị thả xuống giếng 2 lần (lần đầu 1 ngày, lần
sau 4 ngày), đói khát, đơn độc trên xác chết những người đồng đạo, mà bà được
sống sót để làm chứng nhân cho tập thể tử đạo vô danh, trong đó có nhiều người
nữ.

Trên đây là hình ảnh người nữ tử đạo sống giữa đời thường, những nữ giáo dân.

Trong thành phần dân Chúa, còn một lớp người nữ dấn thân vào đường tu dòng, đặc
biệt sớm hơn hết ở Việt Nam là dòng Mến Thánh Giá.

C. Dòng Mến Thánh Giá do Giám Mục Phêrô Maria Lambert de la Motte, Đại
Diện Tông Tòa tiên khởi, 1624-1679, M.E.P., sáng lập năm 1670 ở Đàng Ngoài
(Bắc) – và năm 1671 ở Đàng Trong (Nam), chính thức đi vào lịch sử Giáo hội Công
giáo Việt Nam. Khai sinh bởi ý thức truyền giáo cho người Việt, hành đạo ngay ở
thời kỳ bị cấm đoán, bách hại, các dì Mến Thánh Giá thầm lặng, tích cực, hữu
hiệu. Theo qui định : sống tập thể (nhà dòng), cọng hưởng thành quả vật chất do
tất cả chung tay gầy dựng với tinh thần khó nghèo, vâng phục bề trên, giữ đức
trinh khiết. Khi gặp cơn bắt đạo ngặt nghèo, các dì phải phân tán, về gia đình
ẩn cư một thời gian, chỉ để 2 dì cao tuổi giữ nhà dòng, sau đó tình hình lắng
dịu thì lần lượt trở lại. Khép mình theo kỷ luật, cầu nguyện, suy gẫm về sự khổ
nạn của Chúa Ki-tô trên thập giá làm hành trang sống đạo giữa đời.

HÌNH ẢNH CÁC DÌ MẾN THÁNH GIÁ

– Qua tiểu sử thánh GM Etienne Cuénot (Thể) : cha mở nhà nuôi trẻ mồ côi và
chuộc những trẻ em bị bán đem về cho ở đó. Mỗi nhà độ 30 em, đa số là bé gái,
trao cho 2 dì phước và 2 em lớn trông coi. Khi nhà hết chỗ, cha xoay sở cất
thêm nhà khác.

– Từng 2 dì, đi bán thuốc để giúp đỡ, an ủi giáo hữu, rửa tội trẻ em sắp lìa
đời.

– Lo việc săn sóc trẻ mồ côi, viếng bệnh nhân, thăm người nghèo, giúp các giáo
sĩ ẩn lánh khi bị truy lùng… như dì Anna Nguyễn Thị Nhường, Mến Thánh Giá Qui
Nhơn ; dì Thủ, Mến Thánh Giá Huế.

– Một nữ tu bị bắt ở Kẻ Báng vì trữ giấu các đồ đạo và thông tin liên lạc. Dì
Ysave Ngọ ở Cái Mơn bị giam tù, đánh đập.

– Dì Anna Khiêm và A-nê Thanh bị bắt giam chung với thánh I-nê Đê Lê Thị Thành.
Hai dì bị thả rắn trong quần áo, rồi buộc chặt ống quần và tay áo, cốt làm
hoảng sợ để chối đạo và chỉ nơi các giáo sĩ ẩn trốn.

Có lẽ do hoàn cảnh thực tế của Giáo hội Công giáo Việt Nam thời đó, nên các nữ
tu Mến Thánh Giá không chỉ chuyên cần cầu nguyện, mà còn thể hiện tinh thần
nhập thế của Ki-tô giáo, chia xẻ nghĩa vụ với nhân gian. Các dì canh tác ruộng
vườn, dệt chiếu, làm và bán thuốc tễ (thuốc viên theo đông y) để tự lực cánh
sinh, đồng thời chú tâm dạy dỗ các trẻ nữ, giảng giáo lý cho người tân tòng
(muốn theo đạo), nuôi dưỡng trẻ mồ côi, săn sóc người bệnh tật, rửa tội người
hấp hối, liên lạc, giúp đỡ, mang Mình Thánh Chúa cho các người bên đạo bị giam
tù, theo hỗ trợ tinh thần người bị xử tử tới tận pháp trường, đọc kinh cầu
nguyện, tìm xin lãnh xác những người tử đạo về mai táng hoặc cải táng.

Các dì là phụ tá của hàng giáo sĩ, thầy giảng, góp phần đắc lực bù đắp nhu cầu
của một Giáo hội đang đà phát triển đồng thời cũng bị giới hạn, cấm cách, bách
hại. Vì thế, đương nhiên các dì phải hiện diện trong danh sách những người chịu
khổ vì đạo, chết vì đạo như các người nữ tín hữu khác.

CÁC DÌ MẾN THÁNH GIÁ TỬ ĐẠO

Thỉnh nguyện thư ngày 14-1-1917 xin phong Thánh 1265 vị tử đạo, trong đó có 270
dì Mến Thánh Giá. Và một thỉnh nguyện thư khác ngày 13-12-1918 xin phong Á
thánh cho 2 dì Mến Thánh Giá ở Láng Mun, bị xử giảo tại Phan Rí năm 1861-1862,
bằng 2 cuộn giây thừng chế tạo từ cây dừa ra, 2 cuộn giây ấy dùng để siết cổ 2
Đấng Đáng Kính I-nê Soạn và Anna Trị, nữ tu Việt Nam. Hai cuộn giây thừng ấy
được lưu giữ, chưng bày nơi Phòng Các Thánh Tử Đạo của Hội Thừa Sai Paris.
(Chứng từ của linh mục Eugène Marie Durand Lộc, 1840-1904, M.E.P., là người
viết nhiều bài báo giới thiệu Dòng Mến Thánh Giá với độc giả Âu Châu, theo bản
dịch Việt ngữ của linh mục Đào Quang Toản). Hai dì được “công nhận là Tôi Tớ
Chúa đã hy sinh tính mệnh vì Đức Tin”.

Trước đó, một nữ tu khác, cũng được biết đến như “tử đạo”, dì Maria Mađalêna
Nguyễn Thị Hậu (1814-1841) thuộc dòng Mến Thánh Giá Nhu Lý, Quảng Trị. Tóm tắt
theo tài liệu của LM Đào Quang Toản : Đêm 12 rạng 13 tháng 4 năm 1839, trên
đường đưa linh mục Gilles Joseph Louis Delamotte (Y), 1769-1840, M.E.P., đi lánh
nạn truy nã bằng đường thủy, dì Hậu bị bắt cùng với bà Maria Trần Thị Vững (chủ
thuyền), cha Delamotte, lương y Simon Phan Đắc Hòa, lương y Trần Văn Thuật.
Ngoài 5 người kể trên, còn thêm 3 người liên can bị bắt sau đó : ông xã trưởng
Nhu Lý Phêrô Nguyễn Công Duyên, ông xã Nguyễn Công Nghiêm (còn gọi Gioan
Baotixita Trang) bị bắt thay con trai (vì chú Điền giúp việc thư ký cho cha
Delamotte đã trốn thoát), ông Nguyễn Viết Tốt (Vincentê Luật), người làng An
Do. Tổng cộng 8 người. Trừ bà chủ thuyền Maria Vững, 7 vị khác đều tử đạo.

Dì Maria Hậu bị giam ở nhà tù Trấn Phủ Huế, bị đánh 5 đòn, bị hình phạt “trùng
rúc” (trói 2 chân lại, bắt đứng trong một chậu nước vo gạo có thả nhiều trùng
đất : vers de terre), rồi còn phải quỳ trên tấm gỗ có đinh nhọn.

Tháng 12 năm 1840, dì Hậu và bà Vững cùng bị lưu đày làm nô tỳ nơi nước độc
chướng khí. Nhưng vị quan trông coi vùng ấy là người bên đạo nên cho dẫn Dì Hậu
và bà Vững về Đá Hàn, rồi Phủ Cam. Tại đây, dì Hậu ở trong nhà dòng Mến Thánh
Giá, nhưng chỉ vài ngày sau đó, lâm bạo bệnh, dì qua đời lúc 27 tuổi (1841).

Lời nói của dì được ghi nhắc Tôi xin các quan cứ chặt tôi ra làm ba, tôi sẽ sẳn
lòng vui chịu, nhưng đạp thánh giá dưới chân thì tôi sẽ không bao giờ ưng chịu.

VÀI CHỨNG TỪ VỀ DÌ HẬU :

– “Annales de la Propagation de la Foi” là tập san do Hiệp Hội Công Giáo tại
Lyon xuất bản, phổ biến khắp Âu Châu, trong số 16 năm 1844, đã dành 10 trang
nói về vụ Nhu Lý, bài do các giáo sĩ Hội Thừa Sai Paris gởi về, có những lời
sau đây … Dù sự hy sinh của chị đã không hoàn tất bằng lưỡi gươm, chị thật xứng
đáng được kể vào số những vị tử đạo sáng chói nhất của Giáo hội An Nam.

– Thánh GM E. Cuénot Thể, giám mục địa phận nơi dì Hậu cư ngụ Thực tình mà nói
thì chị đã không chết trên trận chiến, nhưng có đủ chứng cớ để tin rằng cơn
bệnh và cái chết của chị là do bởi thời gian tù đày, tra tấn, hành hạ mà người
ta bắt chị phải chịu gây nên… Người trinh nữ can đảm Marie Mađalêna Hậu có thể
được xem như vị tử đạo của Chúa Ki-tô.

– GM Dominique Lefèvre (Ngãi), 1810-1864, M.E.P., có một thời làm phụ tá cho GM
Cuénot Thể, người theo dõi các sự việc, thu thập nhiều dữ kiện về vụ án, thẩm
định rằng Chị Hậu xứng đáng lên trời lãnh nhận triều thiên dành cho những kiệt
sĩ anh hùng đức tin.

Tóm lại người nữ, giáo dân hay tu sĩ Mến Thánh Giá đều đã trầm luân theo dòng
lịch sử bách hại, chịu mọi cực hình, là tác nhân thầm lặng suốt quá trình gian
khổ dài hơn 300 năm của Giáo hội Công giáo trên giang sơn đất Việt thời cấm
đạo.

VI. Những cảm thông

Sử gia Trần Trọng Kim viết … Nhà vua mà dùng uy quyền để giết hại bao nhiêu thì
dân sự lại khổ sở bấy nhiêu, chứ lòng tin tưởng của người ta không sao ngăn cấm
được. Vả lại đạo Thiên Chúa cũng là một đạo tôn nghiêm, dạy người ta lấy lòng
nhân ái, việc gì mà làm khổ dân sự như thế ?!

Đó cũng là ý nghĩ của một số người bên lương sống trong thời cấm đạo. Qua sử
sách, thấy những dấu chỉ cảm thông đối với các người bên đạo bị giam tù, xử tử
:

– Ông Phan Đình Phùng, 1847-1895, nói Đạo Thiên Chúa lấy Gia Tô làm Trời, cũng
như Thích Ca Mâu Ni là Trời của đạo Phật, hay Khổng Phu Tử là Trời của nhà Nho.
Hể ai đã tín ngưỡng điều gì thì điều ấy là Trời của mình. Mình muốn người ta
đừng xâm phạm đến tín ngưỡng của mình thì mình cũng đừng xâm phạm đến sự tín
ngưỡng của người ta. Thiên Chúa cũng là một thứ tôn giáo, mặc ai tin thì theo.
(Đào Trinh Nhất, Việt Nam Chí Sĩ Phan Đình Phùng, trang 20)

– Có quan huyện cáo tế với trời đất Tôi không muốn bắt người hiền lành. Án phạt
có xuống thì xuống cho người ra lệnh.

– Người lãnh lệnh hành hình miệng niệm Nam Mô A Di Đà Phật, tội phạm đến các
ngài, không phải là tôi, xin đừng thù oán.

– Ông cai đội Tham ngầm giúp đỡ cho phép các bà vào ngục săn sóc vết thương,
tiếp tế thức ăn. Người chết trong tù được ông giúp thay quần áo sạch sẽ và khấn
Lạy ông, khi ông lên trời xin nhớ đến tôi cùng.

– Ông cai Tấn, mỗi lần quan trên ra lệnh bắt đạo, ông tình nguyện dẫn lính đi
rình canh bắt, nhưng rồi lại báo cáo là không tìm thấy ai, có khi còn chỉ đường
cho người bên đạo trốn.

– Đao phủ tên Minh Thưa cha, con bị cưỡng ép làm theo lệnh vua, con sẽ ráng hết
sức chém ngon ngọt và khi cha về trời xin cầu nguyện cho con.

– Một bà bán hàng nói Tôi thờ Trời đất và Thần Phật, tôi rất nghèo, không có gì
để dâng cúng, chỉ có cái chậu nhỏ nầy xin dâng cha với tất cả tấm lòng. Khi cha
khát có thể dùng nó để chứa nước.

– Trong tiểu sử các vị tử đạo, không thiếu trường hợp các quan án hỏi cung tỏ
ra thông cảm với niềm tin của người bị kết tội : trải chiếu cho ngồi, mời trà,
cho thân nhân chuộc đầu người bị xử chém mang về ráp lại chôn (thay vì quăng
sông hay bêu đầu giữa chợ)…

– Khi giặc loạn nổi lên ở miền Bắc, quan Tổng Đốc Nam Định nói rằng tỉnh được
bình yên nhờ có đông người công giáo, còn xin vua trợ cấp nhà tế bần nuôi người
cùi tại Kẻ Vĩnh của GM Pierre Retord Liêu, 1803-1858, M.E.P. (Vũ Thành, Dòng
Máu Anh Hùng III, trang 102).

Nhưng vào thời cấm đạo, một Phan Đình Phùng nêu lên tiêu ngữ “Lương-Giáo Thông
Hành” để cùng chống Pháp đã không thắng nổi các quan quyền Văn Thân hô hào
“Bình Tây Sát Tả”. Tại kinh đô, họ liên kết với Nhóm Hồng Tập (7 người trong
hoàng tộc) chủ động hẹn ngày 3-8-1864 đồng loạt nổi lên định giết ông Phan
Thanh Giản và các người theo đạo Thiên Chúa bị qui trách nhiệm làm mất nước. Họ
dự mưu đưa ông Hồng Tập lên ngôi thay vua Tự Đức. Nhưng công việc bất thành.

Sau sự thể ấy, vua Tự Đức ra Sắc Chỉ tháng 7 năm 1864 :

… Các người Công giáo đã trải qua tình thế khốn khổ nhất nhưng vẫn trung thành
với đạo và cũng trung thành với triều đình. Triều đình không thể không khen
ngợi và ghi nhận điều đó. Vì thế, sau khi được tự do, triều đình coi Công giáo
như lương dân, các người phải biết rõ điều đó. Các người không được để trong
lòng những oán thù vì như thế là không vâng mệnh vua, không vâng mệnh vua là
phản nghịch thì làm sao nói được là người Công giáo nữa. Hãy làm việc để đạt
tới mức hoàn thiện và lời cầu nguyện của các người dễ được chấp nhận. Vua cũng
khuyên các quan triều và giới ăn học nên cởi bỏ hận thù và nghi ngờ người bên
đạo. (Dòng Máu Anh Hùng III trang 348, Vũ Thành) (1)

Năm 1869, vua lại ban Sắc chỉ cho phép người bên đạo được trở về làng cũ, cấm
lương dân không được sách nhiễu người công giáo, các giáo sĩ được tự do đi lại
giảng đạo, miễn là phải báo cho quan sở tại biết.

Cuộc nổi loạn của nhóm Văn Thân đến tháng 5 năm 1874 mới chấm dứt. Nhưng có lẽ
hệ quả vẫn còn âm-ỷ, nên vua Hàm Nghi ra Chỉ Dụ ngày 23-9-1885 :

Ngăn cấm không được đánh phá những người theo đạo Gia Tô vì giáo dân cũng là
những người đồng tộc loại, chỉ vì họ theo tôn giáo nước ngoài mà bất đồng thôi.
Và người Pháp hiếp nước ta chẳng phải là mưu của giáo dân. Triều đình mong muốn
lương giáo chung sống và các thân hào sĩ dân đừng vì chống Pháp mà tức giận
đánh phá giáo dân (Việt Sử Đại Cương, trang 199, Phạm Ngọc Huyền, Cổ Kim Thư
Hương Paris 1983).

VII. Thay lời kết

Thân phận con người, trong hoàn cảnh lịch sử chính trị nhiêu khê, cực kỳ biến
động, chập chùng những hệ lụy, nhưng với thời gian mọi sự dần dần lắng đọng.

Nói về tín ngưỡng ông Phan Xuân Hòa nhận định Dân Việt Nam hầu hết theo Phật
giáo, lấy lòng từ bi bác ái làm trọng, đồng thời tôn sùng đạo Lão, tin thuyết
thần tiên bất tử, phụng sự tổ tiên, tôn kính thần thánh. Từ ngày tiếp xúc với
Tây phương, một số dân theo đạo Gia Tô và Cơ Đốc Cải Cách cũng chú trọng vào từ
tâm, ham làm việc thiện. … Dân tộc Việt Nam không bài bác tôn giáo nào (trừ mấy
vua đầu nhà Nguyễn và một số đình thần thủ cựu dưới triều đại ấy) mà cũng không
chấp nê mê muội vì tôn giáo nào. Mọi người đều tự do trên đường ”tín ngưỡng”.
Không ai vì theo tôn giáo khác nhau mà khích bác, chê bai lẫn nhau.… Trong lúc
bên Âu Châu từng xảy ra “chiến tranh tôn giáo” và bên Ấn Độ thì hai
người khác tôn giáo nhất quyết không đi lại với nhau. Dân tộc Việt Nam, trái
lại ngoài đời tín ngưỡng luôn luôn sống chung thân thiện và đoàn kết.

Người ngoại quốc không thể không lấy làm ngạc nhiên khi thấy trong một gia đình
Việt Nam mà có những trường hợp anh theo tôn giáo nầy, em theo tôn giáo khác ;
hay bố mẹ đi tế lễ ở chùa đình, con cái lại đi cầu nguyện ở giáo hội. Thế mà
mọi người vẫn sống chung yên vui hàng ngày, không hề có chuyện xích mích.… Do
lẽ ấy, trong nước Việt Nam, hầu khắp các nơi đã có chùa thờ Phật Thích Ca Mâu
Ni và các vị Bồ Tát, lại có ngay bên cạnh, nào đền thờ Thái Thượng Lão Quân,
nào giáo đường thờ Đức Chúa Trời, nào đền đình thờ chư vị Thánh Thần, anh hùng
liệt sĩ, và thành Hoàng…

Trong đời sống thực tế, mọi người Việt Nam, dầu theo tôn giáo nào cũng thế, đều
lấy lòng Hiếu-Đễ ở trong gia đình làm trọng ; đối với xã hội lấy đức Tín nghĩa
làm đầu ; đứng trước Tổ quốc lấy sự Trung hiếu làm mục tiêu.

Chính lý tưởng “sống vì quyền lợi chung” đặt quyền lợi tổ quốc trên
hết mà dân Việt Nam vẫn sẵn sàng tiếp rước bất luận tôn giáo nào truyền vào
trong nước, để rồi gạn lọc lấy những tinh túy mong giúp ích cho thực tế hằng
ngày, xây dựng trên một nền gia đình giáo dục truyền thống. (Việt Nam Gấm Vóc,
Phan Xuân Hòa, trang 164-168)

Tạ Thanh Minh-Khánh. (Tháng 10 năm 2012)

(1) Thời vua Tự Đức (1848-1883), các giáo sĩ thuộc Hội Thừa Sai Paris, M.E.P. :

1. Linh mục Pierre-Jean Marie GENDREAU (ĐÔNG), (1850-1935), 1887 là Giám mục
địa phận Nam Đàng Ngoài (Vinh) ;

2. GM Jean Denis Gauthier (HẬU) (1810-1877), 1942 địa phận Tây Đàng Ngoài (Hà
Nội) ;

3. GM Joseph Hyacinthe Sohier (BÌNH) (1818-1876), địa phận Bắc Đàng Trong (Huế)
;

Làm đơn xin Bộ Lễ đổi bốn chữ “tả đạo, dữu dân” thành “dân đạo hoặc giáo dân”
được chuẩn y, có ghi trong Đại Nam Thực Lục Chính Biên Đệ Tứ Kỷ, quyển LII
(Thoáng nhìn Giáo hội Công giáo VN, Trần Anh Dũng, trang 228).

Tài liệu tham khảo :

– Việt Nam Sử Lược II, Trần Trọng Kim, Institut de l’Asie du Sud-Est,
I.D.A.S.E. Paris.

– Việt Sử II, Một Nhóm Giáo Sư, I.D.A.S.E. Paris.

– Việt Nam Gấm Vóc, Phan Xuân Hòa, I.D.A.S.E. Paris.

– Việt Sử Biên Niên Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, Trần Anh Dũng, Orlando 1986.

– Dòng Máu Anh Hùng I, II, III, Vũ Thành, Phong Trào Thanh Sinh Công VN tại Hoa
Kỳ, xuất bản 1987, 1988.

– Inê Tử Đạo Vãn – Tự Điển Việt-La, Jean Louis Taberd, trang 110-134.

– Nữ Tu Nguyễn Thị Hậu, Đào Quang Toản, Imprimerie “Médiations” Toulouse, năm
2000.

– Vai Trò Phụ Nữ Việt Trong Vấn Đề Truyền Giáo Tại Việt Nam, Teresa Huỳnh, Báo
Giáo Xứ Việt Nam Paris, 1988.

– Làm Chứng Cho Tin Mừng, Phạm Bá Nha, 2006

CHÚA ĐẾN MANG LẠI NIỀM VUI VÀ HẠNH PHÚC

CHÚA ĐẾN MANG LẠI NIỀM VUI VÀ HẠNH PHÚC

(Suy niệm Tin Mừng Gioan (Ga 2,1-11) trích đọc vào Chúa Nhật
II thường niên)

Tác giả: Lm Inhatio Trần Ngà

nguồn:conggiaovietnam.net

Một số người cho rằng Chúa Giê-su đến trần gian chỉ nhằm cứu rỗi phần hồn con người; còn phần xác thì chẳng đáng bận tâm.

Thật ra không phải thế, vì ngoài việc loan Tin Mừng và tự hiến đời mình cứu độ nhân loại, cho họ được hưởng hạnh phúc đời sau, Chúa  Giê-su còn thiết tha đem lại niềm vui và hạnh phúc cho mọi người ngay trên cõi đời nầy nữa.

Sự kiện xảy ra tại tiệc cưới Ca-na chứng tỏ điều đó.

Hôm ấy, Chúa Giê-su đến tham dự tiệc cưới tại Ca-na cốt để đem lại niềm vui cho cô dâu chú rể và chúc lành cho họ được trăm năm hạnh phúc. Chúa Giê-su xem đây là điều quan trọng nên Người không chỉ tham dự một mình mà cùng đi với Mẹ Maria và các môn đệ để cho niềm vui của đôi hôn nhân được tăng lên.

Thế rồi, đang giữa tiệc vui bỗng hết rượu. Đây là chuyện không may và ngày vui của đôi tân hôn có nguy cơ trở thành ngày rầu rĩ vì cô dâu chú rể sẽ bị gièm pha trách móc, tiệc cưới sẽ để lại ấn tượng đáng buồn trong lòng khách dự tiệc.

Trước tình thế đó, Mẹ Maria tìm đến với Chúa Giê-su để xin Người cứu vãn. Thế là mặc dù “giờ của Người” chưa đến (Ga 2,4), Chúa Giê-su cũng đã thực hiện phép lạ đầu tay, hoá nước thành rượu ngon với số lượng dư dật để đem lại niềm vui cho mọi người.

Sự việc nầy cho thấy hạnh phúc đời nầy của con người là mục tiêu quan trọng mà Chúa Giê-su nhắm tới. Sau nầy, Chúa Giê-su thực hiện nhiều phép lạ khác cũng không ngoài mục tiêu đó.

Vì muốn đem lại niềm vui và hạnh phúc cho người goá phụ Na-in nên Chúa Giê-su đã cho con trai bà đã chết được sống lại, dù bà chưa ngỏ lời van xin. (Lc 7,11-17)

Vì muốn đem lại niềm vui và hạnh phúc cho hai chị em Mác-ta và Maria ở Bê-ta-ni-a đang sầu thảm vì mất em, Chúa Giê-su đã truyền cho La-da-rô chết chôn trong mồ được sống lại. Nhờ đó, cả gia đình được chan hoà niềm vui. (Ga 11, 32-43)

Cũng vì muốn đem lại niềm vui cho hai môn đệ Em-mau đang sống trong ưu phiền thất vọng, Chúa Giê-su phục sinh đã hiện ra, cùng đồng hành với các ông, đem lời kinh thánh sưởi ấm tâm hồn sầu muộn của các ông. (Lc 24, 32)

Và rất nhiều phép lạ khác Chúa Giê-su đã thực hiện như cho người mù được xem thấy, cho người điếc được nghe, người què đi được, người phong hủi được sạch, người câm được nói, cho người đói được ăn, cho người nghèo được nghe Tin Mừng… cũng đều nhằm đem lại niềm vui và hạnh phúc cho tha nhân.

Hơn nữa, Chúa Giê-su không muốn đem lại cho người đời một niềm vui chóng qua, một thứ hạnh phúc mau tàn, nhưng là một thứ hạnh phúc vững bền đặt nền trên tình yêu thương huynh đệ.

Biết rằng con người sẽ luôn luôn bất hạnh nếu thiếu vắng tình thương, rằng tình thương là yếu tố cốt thiết đem lại niềm vui và hạnh phúc cho muôn người, nên Chúa Giê-su không ngừng kêu gọi mọi người hãy yêu thương đùm bọc nhau như anh chị em một nhà: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” (Gioan 13, 34).

Người cũng báo trước cho mọi người biết rằng hạnh phúc đời đời trên thiên quốc chỉ dành riêng cho những ai yêu thương phục vụ người khác, đồng thời cảnh báo rằng khổ hình đời đời trong hỏa ngục là hậu quả phải đến cho những kẻ không sẵn sàng cứu giúp những người khốn khổ quanh mình. (Mát-thêu 25, 31-46)

Như thế, đem lại niềm vui và hạnh phúc cho những người chung quanh không còn là chuyện nhỏ nhưng là một quan tâm hàng đầu của Chúa Giê-su.

Là ki-tô hữu, là cánh tay nối dài của Chúa Giê-su, chúng ta cũng được mời gọi tiếp tay với Người để vun đắp niềm vui và hạnh phúc cho những người đang sống quanh ta bằng quyết tâm sống theo luật yêu thương của Người, để nhờ đó, gia đình, thôn xóm và đất nước chúng ta được hạnh phúc an ủi.

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

 

NGÀI ĐÃ DỰNG NÊN NGƯỜI NAM VÀ NGƯỜI NỮ – GIỚI TÍNH KHÔNG THỂ TỰ MÌNH CHỌN ĐƯỢC

NGÀI ĐÃ DỰNG NÊN NGƯỜI NAM VÀ NGƯỜI NỮ – GIỚI TÍNH KHÔNG THỂ TỰ MÌNH CHỌN ĐƯỢC

Nguyễn Tiến Cảnh, MD
nguồn: conggiaovietnam.net

Lần đầu tiên vào tháng 11 năm 2012 giới tính được đưa vào nghị trình thảo luận của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc (LHQ) về chống kỳ thị như là một định nghĩa/xếp loại đặc biệt để bảo vệ nó. Danh xưng này đặc biệt vì nó đã nâng giới tính lên ngang hàng với chủng loại (race), tín điều, tôn giáo và xu hướng dục tính (sexual orientation). Tuy nhiên nó vẫn còn mơ hồ, chưa có sự đồng thuận rõ ràng về định nghĩa của danh xưng kỳ thị dựa trên ý nghĩa căn bản của giới tính. Mang vào ngôn ngữ của luật quốc tế một danh xưng không rõ ràng, không chắc chắn như vậy là mở cửa cho quyền đòi hỏi rộng rãi của những người gọi là “đổi giống”.

Theo nghĩa rộng, kỳ thị là kỳ quái hóa một người hoặc một nhóm người một cách bất công và thiếu công bằng. Liên Hiệp Quốc đã tuyên bố là không ai có thể mặc nhiên bị xử tử hoặc giết chết mà không có tòa án xét sử vì lý do chủng tộc, niềm tin, dục tính/sex, khuynh hướng sắc dục, hay giới tính. Đúng vậy, không ai có quyền cho rằng những người rối loạn giới tính sẽ phải chịu khốn khổ vì những hình phạt ác quái. Tuy nhiên, một khi căn cước của giới tính (gender identity) được đặt vào loại ngôn ngữ chống kỳ thị thì nhiều người sẽ kết luận đổi giống là một kiểu thay đổi căn cước giới tính, cũng là một rối loạn giới tính. Việc này đã xẩy ra với danh từ “xu hướng sắc dục”, được cắt nghĩa là chấp nhận hoặc cổ võ đồng tình luyến ái. Bao gồm đặc tính của giới
tính vào loại cần bảo vệ tức đã biến căn cước khách quan của giới tính thành
một căn cước chủ quan. Nam tính hoặc nữ tính trở thành một cấu trúc chuẩn được
tạo ra do những thay đổi bất thường của từng cá nhân và cái căn cước giới tinh
ấy phải được chấp nhận khi tự mình tuyên xưng giới tính của mình. Không chấp
nhận điều đó là coi như kỳ thị.

Như chuyện mới xẩy ra đây ở tiểu bang Washington, việc bảo vệ chống lại kỳ thị dựa vào giới tính được thể hiện qua trường hợp một người đàn ông nếu mặc quần áo đàn bà là có quyền được coi như một người đàn bà thực sự. Một trường hợp nữa, tại đại học Evergreen ở Olympia, cũng tại Washington, một sinh viên 45 tuổi là đàn ông với đầy đủ bộ phận sinh dục của nam giới đã khai với văn phòng nhà trường mình là đàn bà. Nhà trường tuyên bố: vì trường hợp giới tính của sinh viên này nằm trong những điều khoản chống kỳ thị của tiểu bang, nên sinh viên này phải được đối xử như một người đàn bà trong mọi sinh hoạt của sinh viên của trường. Sinh viên này được phép dùng phòng chung với các nữ sinh viên như nhà tắm, cầu tiêu….và có quyền hoàn toàn để lộ thân mình cho các nữ sinh viên khác cùng sài chung phòng. Những ai chống lại điều lệ này đều được dán nhãn hiệu là cuồng tín và coi như đã vi phạm vào quyền tự quyết định giới tính của sinh viên.

Tin rằng giới tính là do mình tự chọn đã trở thành một thời trang đến độ người ta tránh áp đặt giới tính lên con trẻ. Egalia là một trường mẫu giáo công lập “không giới tính”, ở Thụy Điển, được chính phủ tài trợ. Người ta không gọi các học sinh của trường là nam sinh hay nữ sinh mà gọi là “các bạn”. Họ không dùng những đại danh từ đặc biệt để chỉ giới tính, mà họ dùng danh xưng “hen” để thay thế cho tiếng “hon” và “han” mà tiếng Thuỵ Điển gọi là “cô” và “cậu”. Họ cấm những chuyện như Cinderella hoặc Snow White, mà lại khuyến khích hình ảnh đồng tình luyến ái, cha mẹ độc thân và con nuôi để tránh áp đặt giới tính do trời sinh ra.

Một số cha mẹ lại đi quá xa đến độ dấu cả giới tính của con mình để tránh bất cứ ảnh hưởng của nền văn hóa nào lên căn cước giới tính của chúng. Một cặp vợ chồng Canada được đài BBC đưa lên sau khi họ quyết định giữ kín giới tính của đứa nhỏ không cho bất cứ ai biết, ngay cả chính cha mẹ họ. Họ đặt tên cho đứa trẻ là Storm với chủ ý để cho đứa trẻ tự khám phá ra vai trò của những giới tính khác nhau rồi tự quyết định mình là nam hay nữ hay gồm cả hai.

Tuy nhiên, chúng ta còn nhớ Tổng thống Abraham Lincoln đã nói: “Gọi cái đuôi là cái đùi thì cũng không thể biến cái đuôi thành cái đùi được.” Thiên Chúa đã tạo ra chúng ta là Nam và Nữ. Những ai sinh ra là nam thì có những đặc tính riêng của nam giới, và những ai sinh ra là nữ cũng có những đặc tính nữ riêng. Tất cả đều có nhân phẩm đồng đều, nhưng đặc tính thì khác biệt. Một người đàn ông có thể có những nét gống như đàn bà con gái, chẳng hạn như hay thổ lộ tâm tình, nhẹ nhàng, nâng niu chiều chuộng vuốt ve. Nhưng những cái đó không thể thay đổi thực tế họ là đàn ông. Tương tự như vậy, một người đàn bà có thể có những nét giống như đàn ông chẳng hạn tính tình quả quyết, mạnh bạo. Cái đó cũng chẳng có thể thay thế được một thực tế bà ta là đàn bà. Cứ nghĩ mình là đàn bà trong khi thực sự mình là đàn ông, và ngược lại là một ý nghĩ bất bình thường. Cha mẹ cứ chiều theo cái ưa thích ảo tưởng của con mình -muốn là trai hay gái trong khi chúng không phải như vậy- hoặc khuyến
khích chúng ngược lại với thực tế của chúng thì rõ ràng hành động đó không phải
là yêu con. Đúng ra họ đã làm giảm nhân phẩm của chúng khi chối bỏ yếu tố chính
và hiển nhiên của bản tính con người.

Trong một phát biểu với Giáo triều vào dịp Lễ Giáng Sinh 2012, đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã nói: chối bỏ căn cước dục tính (sexual identity) Nam và Nữ tức là chối bỏ Thiên Chúa. Ngài cảnh cáo hãy coi chừng vì hành động này đe dọa không chỉ riêng cá nhân mà cả sự hiện diện và tồn vong của gia đình và an toàn hạnh phúc của cả xã hội:

Chuyện Nam hay nữ được trời dựng nên với những đặc tính riêng để bổ túc cho nhau hầu làm thành loài người vẫn còn đang được tranh cãi bởi một số người. Nhưng thử hỏi, NẾU trong công tác tạo dựng không có gì sắp đặt trước là phải thế này thế nọ để là nam hay nữ, thì lúc đó chuyện tạo lập gia đình cũng như vậy thôi. Nếu công nhận vấn đề như thế thì một đứa trẻ, cho đến giờ này, đã mất vị trí thực của nó và cả nhân cách của nó nữa…. Do đó bảo vệ gia đình tức là bảo vệ chính con người vậy. Và hiển nhiên khi chúng ta chối bỏ Thiên Chúa thì nhân phẩm cũng không còn. Ai bảo vệ Thiên Chúa là bảo vệ con người.

Có những người vẫn lớn tiếng cổ võ tinh thần đa văn hóa, coi nó như một kết luận chắc nịch cho một xã hội lành mạnh thì trong khi đó, chính họ lại là những kẻ tìm cách phá hủy tính đa diện của dục tính để tạo một nền văn hóa vô tính, ái nam ái nữ. Đây là loại triết lý –như Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã nêu rõ- muốn định nghĩa lại thế nào là con người nguyên gốc. Nó là nguồn gốc, trung tâm điểm, chủ lực tấn công hôn nhân và gia đình. Khi người nam và người nữ được gán cho một nhãn hiệu vô nghĩa thì cuộc hôn nhân kết hợp giữa người đàn ông và người đàn bà trở thành không cần thiết. Thực vậy, điều kiện cần để có hôn nhân giữa hai người sẽ mất ý nghĩa khi mà những đặc tính bổ sung cho nhau -nam bổ sung cho nữ, nữ bổ sung cho nam- bị chối bỏ. Khi mà vai trò độc nhất của người chồng hoặc người vợ bị xóa bỏ thì hiện trạng của con cái cũng thay đổi. Chúng trở thành những dụng cụ đơn giản chỉ vì lợi ích của một tổ hợp người lớn vô tính thay vì những cá nhân con người riêng rẽ với phẩm cách nội tại được sinh ra do sự phối hợp giữa một người nam và một người nữ.

Lẫn lộn giữa những khác biệt giới tính với bất cân bằng giới tính là một sai lầm nguy hiểm. Từ nhận thức đàn ông và đàn bà khác nhau không thể nói được đàn ông tốt hơn đàn bà hoặc ngược lại. LHQ cho rằng những ai đau khổ vì giới tính bị rối loạn thì không thể là mục tiêu bị quấy rầy chế nhạo. Quả quyết đó không giải thích được ý nghĩa của giới tính là cái gì có thể thay thế được. Những người đổi giống phải được đối sử đúng phẩm giá và tình yêu thương là lẽ đương nhiên. Nhưng chối bỏ thực tế căn cước dục tính bẩm sinh là đã làm giảm giá trị của cả hai.

Giáo Lý Công Giáo đã xác định, khi tạo dựng nên người đàn ông và người đàn bà Thiên Chúa đã chứng tỏ sự khôn ngoan và tốt lành của Ngài cho nhân loại. Chối bỏ tặng phẩm đó là chúng ta chấp nhận nguy hiểm cho chính chúng ta.

Fleming Island, Florida

Jan. 14, 2013

NTC

Tác giả: Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh

Lm. Chân Tín: Luồng gió mới – Công đồng đã đến (10)

Lm. Chân Tín: Luồng gió mới – Công đồng đã đến (10)
VRNs (16.01.2013) – Sàigòn
Công đồng đã đến
Công đồng Vatican II đã đến. Đức Thánh Cha Gioan XXIII đã ấn định
ngày 11 tháng 10 để long trọng khai mạc. Các giám mục khắp toàn cầu đã lần lượt
lên đường về La Mã. Thế là thời gian chuẩn bị trong vòng gần 4 năm đã hoàn tất.
Trong thời gian ấy chúng ta đã theo dõi từng biến cố từng giai đoạn. Giờ đây,
trước khi Công đồng khai mạc, chúng ta tự hỏi: Chúng ta còn phải làm gì cho
Cộng đồng?
Trước hết, chúng ta phải cầu nguyện sốt sắng hơn nữa cho Công
đồng. Chính Đức Thánh Cha đã thúc giục chúng ta: “Giờ đây, Ta nài xin mỗi tín
hữu và toàn thể giáo dân hướng tất cả lòng nhiệt thành của mình về công đồng và
sẵn sàng cầu nguyện tha thiết cùng Thiên Chúa Toàn năng, xin Người lấy lòng
nhân ái của Người yểm hộ công trình trọng đại này, mà hôm nay đã cận ngày khai
mạc; xin Người lấy uy lực của Người củng cố Công đồng ngõ hầu Công đồng thành
tựu một cách tương xứng với địa vị của mình”. Qua lời của Đức Thánh Cha, chúng
ta nhận thấy rằng lời cầu nguyện của chúng ta là một yếu tố cần thiết cho sự
thành tựu của Công đồng. Đó là bổn phận của tất cả những ai mang danh con cái
Giáo hội. Tất cả công trình chuẩn bị trong vòng gần 4 năm qua sẽ trở nên vô
hiệu, nếu không được ơn đặc biệt của Đấng Toàn Năng.
Một công việc thứ hai chúng ta phải làm để Công đồng được hiệu quả
đó là thánh hóa bản thân ta, là sống đời sống đức tin của ta cách đầy đủ. Yếu
tố này chính Đức Thánh Cha đã dạy: “Ước gì mọi lời cầu nguyện đó phát ra cách
liên lỉ từ nguồn mạch sự sống đức tin. Có như vậy mới dễ được Chúa nhận lời và
trở nên hoàn toàn đắc lực. Ước gì chúng con được tăng thêm giá trị bằng một cố
gắng tận tình để sống đời sống Công giáo để ta kết hợp được rằng hết mọi người
đều dọn mình sẵn sàng tuân theo mệnh lệnh và những quyết nghị mà chính Công
đồng sẽ ban bố một ngày gần đây”. Chúng ta chưa biết được những chỉ thị và
quyết định nào sẽ được ban bố. Nhưng có một điều chắc chắn là Công đồng sẽ đòi
hỏi ở ta một cuộc đổi mới trong đời sống đức tin của ta.
Sau hết để Công đồng được kết quả mỹ mãn, Đức Thánh Cha đã nhấn
mạnh việc ăn năn đền tội. trong thông điệp “Sám hối” Đức Thánh Cha đã khuyên
dạy chúng ta lo việc ăn năn đền tội: “Sám hối theo giáo lý của Chúa Giêsu, là
một phương làm cho người có tội được ơn tha thứ và bảo đảm phần rỗi đời sau.
Bởi thế không ai lạ gì, khi Giáo hội Công giáo… vẫn coi việc ăn năn sám hối như
một điều kiện căn bản, để cải thiện đời sống con cái mình và để chấn hưng tiền
đồ của chính Giáo hội. Vì lý do trên đây,trong sắc chỉ triệu tập Công đồng
Vatican II, ta đã kêu gọi giáo dân phải chuẩn bị tiếp đón công cuộc lớn lao này
không những bằng lời cầu nguyện, bằng sự thực hành các nhân đức Công giáo, mà
còn bằng cả sự tự ý hu sinh hãm mình. Hôm nay, đứng trước thềm đại Công đồng,
Ta càng phải nhấn mạnh lời khuyên nhủ trên đây… Trước hết, cần sự thống hối bề
trong, tức là ăn năn và đền các tội mình đã phạm… Thực ra, các viện đền tội bề
ngoài sẽ thánh vô ích, nếu không đi theo với sự trong sạch bên trong nếu không
có sự ăn năn hối lỗi”.
Cầu nguyện, sống đức tin Công giáo và ăn năn đền tội, đó là ba
việc cần thiết chúng ta phải làm, trong những ngày trọng đại Cộng đồng nhóm họp
tại La Mã. Chúng ta hãy nhiệt tình tham gia vào Công đồng. Chúng ta hãy theo
các giám mục chúng ta bằng lời cầu nguyện, bằng sự sống đức tin và bằng sự ăn
năn đền tội, để Công đồng Vatican II trở nên một Lễ Hiện Xuống mới khả dĩ đem
lại cho Giáo hội một mùa xuân mới.
Nguyệt san Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp

Số 161-10/1962

THIÊN ĐƯỜNG . . .hạ giới

THIÊN ĐƯỜNG . . .hạ giới

Những gì mẹ Thiên Nhiên mang lại cho chúng ta luôn kì diệu và ấn tượng. Hãy cùng chúng tôi khám khá những thiên đường ấn tượng trên mặt đất.

Mỏm đá Preikestolen, Naouy

Sững sờ trước những thiên đường mặt đất

Preikestolen là khối đá vuông vức này trông giống như một chiếc bục giảng kinh của Cha sứ. Khối đá tự nhiên này có diện tích bề mặt là 24.99m × 24.99m, khá bằng phẳng, cao 604m so với mực nước biển. Để có thể đến được đây, du khách phải mất hơn 2 giờ đi bộ, tuy nhiên khối đá kỳ vĩ này cũng có thể được thưởng ngoạn bằng cách đi thuyền trên biển. Tên gốc của tảng đá này là ‘Hyvlatonnå’, nghĩa là cái lưỡi
của cái bào gỗ.

Hang Ngọc Bích, Hy Lạp
Sững sờ trước những thiên đường mặt đất

Tên của nó xuất phát từ màu xanh thật đáng kinh ngạc của vùng nước biển nơi đây do sự khúc xạ của ánh sáng. Thời gian tốt nhất trong ngày để ngắm những hang động này là khoảng buổi trưa, khi mặt biển yên tĩnh ta có thể thấy cát hạt cát lăn tăn hòa quyện cùng nước biển.

Các hang động ngọc bích được hình thành do cấu tạo địa chất đặc biệt tạo thành một chuổi các hang động dọc bờ biển theo hướng Tây Bắc của hòn đảo, chúng bắt đầu từ Agios Nikolaos và kết thúc gần Skinari Cape.

Các hang động này chỉ có thể tham quan bằng đường biển, từ thành phố Zakynthos hoặc bằng thuyền từ ngọn hải đăng Skinari gần đó.

Hang băng Skaftafeli, Iceland

Sững sờ trước những thiên đường mặt đất

Hang băng Skaftafeli nằm trong khuôn viên công viên quốc gia Skaftafeli ở niềm Nam Iceland. Bước vào hang bạn sẽ có cảm giác như bước vào trong nhà gương bởi băng ở đây trong suốt.

Hồ Plitvic – Croatia

Sững sờ trước những thiên đường mặt đất

Vườn quốc gia Plitvice nằm trên cao nguyên cùng tên ở Croatia; gần biên giới với Bosnia và Herzegovina – một nơi nổi tiếng với cảnh quan thiên nhiên độc đáo. Công viên Plitvice trở thành Di sản quốc gia của Croatia năm 1949 và đồng thời cũng được công nhận là Di sản thế giới 30 năm sau đó. Tại Plitvice có 16 chiếc hồ nối liền với nhau từng tầng ở độ cao 636m tới 503m,trong đó có 12 hồ ở trên cao và 4 hồ nước ở
phía dưới.

Cửu Trại Châu, Trung Quốc
Sững sờ trước những thiên đường mặt đất

Cửu Trại Châu (Thành Đô, Trung Quốc) mùa thu đẹp như một bức tranh. Quả nhiên xứng với tên gọi “thiên đường hạ giới”, Cửu Trại Châu sở hữu phong cảnh thiên nhiên
độc đáo, gần như chưa có sự can thiệp của bàn tay con người.

Đảo Bora Bora

Sững sờ trước những thiên đường mặt đất

Đảo Bora Bora cách Papeete, trung tâm Polynésie, Pháp, 230km về phía tây bắc, được bao quanh bởi một đầm phá lớn và một rặng san hô dài. Trung tâm của đảo là tàn tích của một ngọn núi lửa đã tắt. Qua thời gian và các hoạt động địa chất, hai ngọn núi lớn
của đảo là Pahia và Otemanu đã được hình thành.

Bora Bora rất nổi tiếng với làn nước trong xanh và dải cát trắng mịn màng quanh đảo. Hỏn đảo xinh đẹp này được rất nhiều người ưu ái gọi là thiên đường du lịch biển ở Thái Bình Dương.

Động Cẩm Thạch, Chile

Sững sờ trước những thiên đường mặt đất

Vẻ đẹp thiên nhiên độc đáo của những vách đá cẩm thạch cùng với dòng nước trong xanh tuyệt đẹp đã mang lại cho động cẩm thạch Marble Cathedral nét cuốn hút đặc biệt đối với du khách thập phương. Động cẩm thạch Marble Cathedral tọa lạc tại hồ General Carrera (hồ nước ngọt lớn thứ hai của vùng Nam Mỹ) ở Pantagonia, Chile

Vườn Marqueyssac

Sững sờ trước những thiên đường mặt đất

Marqueyssac là một khuôn viên có từ thế kỷ 17 với những khu vườn nằm ở Vézac, tại Dordogne của nước Pháp. Khuôn viên được tạo dựng vào cuối thế kỷ 17. Đó có thể gọi là công trình tuyệt đẹp với những view trên cao của khối vách đá nhìn xuống thung lũng Dordogne.

Đường trượt băng giữa hồ Paterswoldse Meer, ở miền nam Hà Lan

Sững sờ trước những thiên đường mặt đất

Sững sờ trước những thiên đường mặt đất

Hẻm băng, Greenland, Đan Mạch
Sững sờ trước những thiên đường mặt đất

Greenland là một quốc gia tự trị nằm trong vương quốc Đan Mạch và là hòn đảo lớn nhất thế giới. Đây là một quốc giá rất đặc biệt, bởi khoảng 81% diện tích bề mặt Greenland bị băng bao phủ. Hiện tượng băng tan ở đây đã tạo nên một hẻm núi sâu khoảng 46m.

Cầu treo Capilano

Sững sờ trước những thiên đường mặt đất

Cầu treo Capilano (Capilano suspension bridge) ở Vancouver là một cây cầu đoạt được 3 cái nhất thế giới: cao nhất, xưa nhất và dài nhất. Mỗi năm khoảng trên 800,000 du khách đã đến đây thăm viếng và đi qua cây cầu này.

Hồ Moraine, Canada

Sững sờ trước những thiên đường mặt đất

Moraine thuộc công viên quốc gia Banff, cách làng hồ Louise 14km, ở tỉnh Alberta, Canada. Hồ nằm trong thung lũng dưới chân núi Ten Peaks, gồm 10 đỉnh phủ đầy tuyết trắng, ở độ cao trung bình 1.885m trên mực nước biển, được bao bọc bởi dãy núi đá Canada Rocky xinh đẹp. Diện tích mặt hồ rộng 0,5 km2.

Hồ Moraine chỉ đón du khách từ tháng 6 đến tháng 10 hàng năm khi băng tuyết trên núi Ten Peaks tan chảy và trút xuống lòng hồ tạo thành sắc xanh diễm lệ.

Petra, Jordan
Sững sờ trước những thiên đường mặt đất

Petra – khu di tích khảo cổ ở miền Tây Nam Jordan, một trong những điểm du lịch nổi tiếng với nhiều công trình kiến trúc và tượng đài được chạm trổ tinh xảo trên vách đá.

Nét kiến trúc A Rập cổ độc đáo cùng với bề dày văn hóa lịch sử, thể hiện trên các di vật ở đây đã tạo nên nét hấp dẫn thu hút du khách khắp nơi đến tham quan Petra mỗi năm.

Lâu đài Benteng Chittorgarh, Ấn Độ
Sững sờ trước những thiên đường mặt đất

Lâu đài Benteng Chittorgarh, Ấn Độ đẹp như bước từ trong các câu chuyện cổ tích ra đời thật.

Vườn hoa Keukenhof, Hà Lan

Sững sờ trước những thiên đường mặt đất

Keukenhof, ở Lisse, một thị trấn nhỏ ở phía nam Amsterdam, Hà Lan, là một trong những vườn hoa lớn nhất thế giới. Keukenhof mở cửa cho khách du lịch bắt đầu từ tuần cuối cùng của tháng 3 đến giữa tháng 5.

Lễ hội đèn trời tại Đài Loan

Sững sờ trước những thiên đường mặt đất

Vào dịp lễ Nguyên Tiêu, giống như nhiều nước khác Đài Loan cũng tổ chức lễ hội đèn trời với qui mô hoành tráng. Trong lễ hội, những chiếc đèn lồng được thả lên trời sau khi được viết vào giấy đèn lồng những mong muốn, ước nguyện của người thả với niềm tin là mong muốn của họ bay lên trời và được chuyển giao cho thần thánh…

The Wave, Arizona, Mỹ

Sững sờ trước những thiên đường mặt đất

Sau hơn 190 triệu năm hình thành, những đụn cát biến thành núi đá gặp sự bào mòn bền bỉ của gió đã hình thành vô số đường cong mềm mại như những con sóng, tại khu vực nằm giữa hai bang của Mỹ là Arizona và Utah.

Để chiêm ngưỡng kỳ quan thiên nhiên nhưng còn ít người biết đến này chỉ có cách đi bộ khoảng ba dặm, từ nơi gần nhất mà ôtô có thể tiếp cận.

Đỉnh Roraima, Brazil

Sững sờ trước những thiên đường mặt đất

Núi Roraima là ngọn núi cao nhất trong cao nguyên Pakaraima, Nam Mỹ. Nó nằm trên biên giới 3 nước Venezuela, Brazil và Guyana.

Núi Roraima là dãy núi luôn ngập trong mây, khung cảnh tựa như trong truyện cổ tích với một hệ động, thực vật phong phú và rất nhiều giống, loài độc nhất vô nhị chỉ có ở nơi đây. Toàn bộ bề mặt của núi là đá sa huỳnh. Do luôn nằm lẫn trong mây nên Roraima quanh năm mưa ẩm.

(theo tìin)

nguồn: Anh Nguyễn Đình Hữu gởi

Lòng Chúa Thương Xót tại Giáo xứ Thanh Đa

Lòng Chúa Thương Xót tại Giáo xứ Thanh Đa

Trầm Thiên Thu

1/12/2013                                         nguồn: Vietcatholic.net

TGP SAIGON – Chiều thứ Sáu, 11-1-2013, theo truyền thống tốt lành của giáo hạt Gia Định, các cộng đoàn Lòng Chúa Thương Xót (LCTX) của các giáo xứ trong giáo hạt Gia Định quy tụ về Gx Thanh Đa cùng tôn vinh LCTX. 14 giờ 30, mọi người lần Chuỗi LCTX; đúng “giờ linh” 3 giờ là Thánh Lễ do Lm Đaminh Nguyễn Đình Tân chủ tế.

Tôn kính LCTX là lòng sùng kính của thời đại chúng ta, thời cánh chúng. Khi làm việc sùng kính LCTX, cũng như các việc đạo đức khác, chúng ta cần tự cẩn trọng, vì có thể “quen quá hóa lờn”, lo hình thức và nghi thức mà quên tâm điểm phải là nội tâm chân thành với Thiên Chúa. Yêu thương là điều chúng ta nghe nói hằng ngày, càng cao niên càng nghe nhiều, mà Luật Chúa cũng chỉ có nhiêu đó, thế mà chúng ta vẫn chẳng thực hiện được bao nhiêu. Nói rất dễ, nhưng làm thì chẳng dễ chút nào!

Nhật Ký của Thánh Faustina, số 1541, ghi lại lời Chúa Giêsu: “Hãy khuyến khích
các linh hồn lần Chuỗi LTX mà Ta trao cho con. Chuỗi kinh này làm cho Ta vui
lòng ban cho mọi ơn mà họ cầu xin Ta qua Chuỗi kinh này. Khi các tội nhân lần
Chuỗi kinh này, Ta sẽ làm cho tâm hồn họ đầy sự bình an, và trong giờ chết họ
sẽ là người hạnh phúc”. Điều đó làm tăng lòng tin nơi chúng ta khi lần Chuỗi
LCTX và thêm tín thác nơi Thánh Tâm Thương Xót của Đức Kitô, Đấng đã chấp nhận
làm người để cứu độ nhân loại.

Thiên Chúa đã nói qua miệng ngôn sứ Êdêkien: “Ta sẽ chăn dắt chúng trong đồng
cỏ tốt tươi và chuồng của chúng sẽ ở trên các núi cao Ít-ra-en. Tại đó chúng sẽ
nằm nghỉ trong chuồng êm ái, sẽ đi ăn trong đồng cỏ mầu mỡ trên núi non
Ít-ra-en. Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta, chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ.
Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương,
Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào
khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng. Ta sẽ theo lẽ chính trực mà chăn dắt chúng” (Ed
34:14-6). Rõ ràng Thiên Chúa yêu thương mọi người, không trừ ai, thậm chí con
chiên nào yếu thì càng được Ngài quan tâm chăm sóc, như Thánh Phaolô xác định:
“Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội” (Rm 5:20).

Nói đi nói lại cũng vẫn là yêu thương. Tình yêu phát xuất từ Thánh Tâm, lòng
thương xót cũng phát xuất từ Thánh Tâm. Cách gọi khác nhau nhưng vẫn là MỘT:
Tình yêu à Thánh Tâm à LCTX.

Trong bài giảng, Lm Tân cũng nhấn mạnh đến chiều kích yêu thương khi tôn sùng
LCTX. Thánh Gioan là Tông đồ mệnh danh là người-được-Chúa-yêu và được tựa đầu
vào ngực Chúa Giêsu trong Bữa Tiệc Ly để nghe được nhịp-thổn-thức của LCTX,
thánh nhân nói rõ: “Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên
Chúa là tình yêu” (1 Ga 4:8). Thậm chí thánh nhân còn nói “toạc móng heo” hơn:
“Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ
nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể
yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1 Ga 4:20). Nghe mà “nhột gáy” quá!

Thường thì ai cũng chỉ yêu người yêu mình, và không ưa người không ưa mình,
thậm chí ai không theo “phe” mình thì mình cũng “chơi tới bến”. Thế nhưng Chúa
Giêsu bảo rằng làm như vậy thì ai cũng làm được, người tội lỗi và người ngoại
cũng vẫn làm, sống LCTX là phải yêu cả kẻ thù (x. Mt 5:44; Lc 6:27 & 35).
“Căng” thật đấy!

Nhưng phải là như thế, không thế không được. Vì Thiên Chúa đã yêu thương chúng
ta trước, yêu vô điều kiện, yêu ngay khi chúng ta là những tội nhân khốn nạn và
đáng chết, thậm chí còn chết vì các tội nhân là chính chúng ta. Chắc chắn chúng
ta không yêu thương nhau thì không xong với Chúa đâu, đừng “lẻo mép”! Chính
người đời còn nói: “Ai khổ vì yêu, hãy yêu hơn nữa; chết vì yêu là sống trong
tình yêu” (Victor Hugo). Chết vì yêu lại là sống vì yêu. Lạ thật!

Yêu thương có liên quan mật thiết với tha thứ. Vĩ nhân Gandhi nói về lòng tha
thứ: “Cách xử thế vàng là biết tha thứ cho nhau”. Chính ông đã nói rằng “Bài
Giảng Trên Núi” (Bát Phúc hoặc Tám Mối Phúc Thật) của Chúa Giêsu là bản tuyên
ngôn độc lập tuyệt vời nhất.

LCTX đã có từ đời đời, chính Đức Maria đã tung hô: “Đời nọ tới đời kia, Chúa
hằng thương xót những ai kính sợ Người” (Lc 1:50), nhưng rõ ràng nhất là “giờ
linh” trên đồi Can-vê. Trước đó, quân lính đã đánh giập ống chân hai tội nhân
cùng bị đóng đinh với Đức Giêsu. Họ cũng định đánh giập ống chân Ngài luôn,
nhưng thấy Ngài đã tắt thở nên họ không đánh giập ống chân Ngài. Tuy nhiên, một
người lính lại “chơi khăm” mà lấy giáo đâm vào cạnh sườn Ngài. Nhân chứng Gioan
cho biết: “Tức thì, máu cùng nước chảy ra” (Ga 19:34). Đỉnh cao của LCTX là đó!

Xin “mở ngoặc” một chút. Nhà thờ Thanh Đa có ghi câu: “Hãy mang trong anh em
những tâm tư của Đức Kitô” (Pl 2:5), cả ở ngoài và trong nhà thờ. D(ó là câu
“châm ngôn” dành cho mọi người sống trong năm. Thiết nghĩ đây cũng là cách nhắc
nhở hay, vì sống kết hiệp với Chúa và cầu nguyện liên lỉ là điều rất cần thiết
cho bất kỳ ai.

Nói tới nhà thờ Thanh Đa, tưởng cũng nên nhắc lại “kỷ niệm đẹp” về Mẹ Têrêsa
Calcutta, người sáng lập Dòng Bác Ái Thừa sai. Gx Thanh Đa vùng ven của nội
thành Saigon nhưng đã được đặc ân đón tiếp Mẹ Thánh hai lần ghé thăm. Hiện nay,
nơi hàng ghế đầu của dãy bên trái nơi Nhà thờ Thanh Đa có di ảnh của Mẹ Thánh
nơi Mẹ đã quỳ tham dự Thánh lễ, và luôn có bình hoa tươi để tưởng nhớ Mẹ.

Chân phước Têrêsa Calcutta đến Nhà thờ Thanh Đa lần thứ nhất vào một buổi chiều
đầu tháng 11-1993, cùng đi với Mẹ có nữ tu Nirmala (nay là Bề trên Tổng quyền
Dòng Thừa Sai Bác ái), để tìm hiểu ơn gọi và xin mở cơ sở của Dòng tại đây.
Ngày 21-4-1994, Mẹ Têrêsa Calcutta đến Gx Thanh Đa lần hai, trao đổi với Lm
Đaminh Nguyễn Đình Tân về ý nguyện của Mẹ, Cha Đaminh rất cảm kích vì sự ưu ái
mà Mẹ dành cho giáo xứ và ngài sẵn sàng để ước nguyện của Mẹ thành sự thật. Rất
tiếc, do không được phép từ chính quyền, việc mở cơ sở tại đây vẫn chưa được
thực hiện.

Ngày 5-9-1997, Mẹ đã từ giã cõi đời để về Quê Thật theo tiếng gọi của Chúa,
ngày này cũng là ngày Giáo hội mừng kính Mẹ hằng năm.

Để tỏ lòng tôn kính và tri ân Mẹ Têrêsa Calcutta, ngày 14-5-2008, tượng đài của
Mẹ Thánh đã được trang trọng khánh thành trong khuôn viên thánh đường, gọi là
LINH ĐỊA TÊRÊSA CALCUTTA THANH ĐA.