CHÂN PHÚC ANRÊ PHÚ YÊN: HÃY LẤY TÌNH YÊU ĐỂ ĐÁP LẠI TÌNH YÊU

CHÂN PHÚC ANRÊ PHÚ YÊN: HÃY LẤY TÌNH YÊU ĐỂ ĐÁP LẠI TÌNH YÊU

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Chúa Nhật 5-3-2000 trong khung cảnh Đại Năm Thánh
2000, Đức Chân Phúc Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nâng Thầy Giảng Anrê Phú Yên lên hàng Á Thánh. Trong tập sách nhỏ về nghi thức tôn phong chân phước được phân phát dịp này có phần Việt ngữ sơ lược tiểu sử vị Tôi Tớ Chúa tử
vì đạo như sau.

THẦY GIẢNG ANRÊ,

VỊ TỬ ĐẠO TIÊN KHỞI CỦA GIÁO HỘI VIỆT NAM

Thầy Giảng Anrê, gốc tỉnh RanRan (Phú Yên), là con út của
một phụ nữ tên thánh là Gioanna. Tuy góa bụa nhưng bà đã giáo dục con
cái với tất cả lòng tận tụy và khôn ngoan. Anrê là một cậu bé mảnh khảnh, nhưng
tư chất rất thông minh, có óc phán đoán tốt và tâm hồn hướng chiều về sự thiện.
Do lời năn nỉ của bà mẹ, cha Đắc Lộ, vị Linh Mục thừa sai dòng Tên nổi tiếng,
đã nhận cậu Anrê vào số các môn sinh của ngài. Anrê chăm chỉ học chữ Nho và
chẳng bao lâu trổi vượt các bạn đồng môn.

Anrê được lãnh nhận bí tích Rửa Tội cùng với mẹ ba năm trước khi bà qua đời,
tức là năm 1641, khi Anrê được 15 tuổi. Anrê sinh năm 1625 hay 1626, không rõ
ngày tháng, và lúc chịu chết năm 1644, Thầy trạc độ 19 hay 20 tuổi.

Một năm sau khi chịu phếp Rửa Tội, tức năm 1642, Anrê được cha Đắc Lộ nhận vào
nhóm cộng sự viên thân tín của ngài, và sau một năm huấn luyện thêm về tôn giáo
và văn hóa, Anrê được gia nhập Hội Thầy Giảng gọi là ”Nhà Đức Chúa Trời” mà Cha
Đắc Lộ đã khôn ngoan thành lập: các thành viên Nhà Đức Chúa Trời cam kết, bằng
lời hứa chính thức và công khai, suốt đời phụng sự Giáo Hội trong việc giúp các
linh mục và truyền bá Tin Mừng.

Lòng hăng say của Thầy Anrê sống trọn điều quyết tâm khi chịu phép Rửa đã chuẩn
bị cho Thầy can đảm đương đầu với cuộc tử đạo và ngoan ngoãn đón nhận ơn tử đạo
Thiên Chúa rộng ban cho Thầy.

Trước cuối tháng 7 năm 1644, quan Nghè Bộ trở lại tỉnh nơi Thầy Giảng Anrê sinh
sống. Quan mang theo sắc lệnh của chúa Nguyễn cấm truyền bá Đạo Kitô trong
nước: vì thế quan quyết định hành động trước tiên chống lại các thầy giảng.

Cha Đắc Lộ không hề hay biết ý định này của quan, nên tới thăm quan vì xã giao,
nhưng ngay sau đó cha được biết chúa Nguyễn rất giận dữ khi thấy vì cha mà có
đông người dân bản xứ theo Đạo Kitô. Vì thế cha phải bỏ xứ Đàng Trong để trở về
Macao và không được phép dạy giáo lý cho dân nữa. Còn các tín hữu theo đạo thì
bị trừng phạt rất nặng nề.

Rời dinh quan Nghè Bộ, cha Đắc Lộ đi thẳng xuống nhà tù nơi giam giữ một Ông
Trùm, cũng tên Anrê, đã 73 tuổi, mới bị bắt hai ngày trước đó. Trong khi ấy,
quan ra lệnh cho lính tới nhà cha lùng bắt một thầy giảng khác tên là Ignatio.
Nhưng thầy Ignatio đã đi làm việc tông đồ. Lính chỉ tìm thấy Thầy Giảng Anrê.
Để khỏi trở về dinh quan Bộ tay không, lính đánh đập Thầy Anrê, trói Thầy lại,
rồi giải xuống thuyền đem về dinh quan trấn thủ. Chiều ngày 25 tháng 7 năm
1644, Thầy được dẫn tới trước mặt quan. Lính thưa với quan rằng họ không tìm
thấy thầy Ignatio, nhưng đã bắt được một ”thầy giảng khác giống như vậy, vì
suốt cuộc hành trình, anh ta luôn nói về Đạo Kitô và khuyến khích họ theo Đạo”.

Nghe vậy quan tìm mọi cách làm cho Thầy Anrê ”từ bỏ cái đạo điên rồ đó và bỏ
lòng tin”.

”Nhưng thanh niên can trường ấy trả lời quan rằng mình là Kitô hữu, và
rất sẵn sàng chịu mọi khổ hình chứ không từ bỏ Đạo mình tuyên xưng: vậy xin quan cứ tùy ý chuẩn bị các hình cụ, chàng vui lòng đón nhận, với xác tín rằng, vì đức tin, càng chịu khổ đau chừng nào thì càng chết vinh quang chừng ấy”.

Tức giận vì sự bất khuất của Thầy Anrê không hề sợ hãi trước những lời đe dọa,
quan truyền đóng gông và giải Thầy vào ngục, cùng nơi giam giữ Ông Trùm Anrê.

Cha Đắc Lộ và một vài thương gia Bồ Đào Nha tới thăm hai thầy: Thầy Giảng Anrê
thanh thản và vui mừng vì được chịu khổ đau vì Chúa Kitô đến độ những người đến
thăm Thầy bịn rịn không rời Thầy được, và nước mắt tràn bờ mi, họ xin Thầy nhớ
đến họ trong lời cầu nguyện. Thấy vậy, Thầy tự nhạo cười mình và xin họ cầu
nguyện cho Thầy, để Chúa ban cho Thầy ơn trung thành với Chúa cho đến chết, ”dâng hiến mạng sống trong tình yêu trọn vẹn, hầu đáp trả tình yêu thương vô biên của Chúa, Đấng đã hiến mạng sống vì loài người .. Những lời Thầy luôn lập lại cho
đến khi trút hơi thở cuối cùng là:
Chúng ta hãy lấy tình yêu để đáp lại
Tình Yêu của Chúa chúng ta, hãy lấy mạng sống đáp lại mạng sống
.

Sáng hôm sau, 26 tháng 7 năm 1644, hai tín hữu Kitô cùng tên Anrê, Ông
Trùm Anrê 73 tuổi và Thầy Giảng Anrê, cổ mang gông, bị dẫn qua các đường phố
đông người qua lại nhất trong thành, băng qua chợ Kẻ Chàm, đến dinh quan trấn
thủ để bị tra hỏi công khai. Quan trấn triệu tập một vài quan khác, lôi kéo họ
về phía mình và tuyên án tử cho Thầy Giảng Anrê, rồi ra lệnh dẫn Thầy về ngục
thất. Còn Ông Trùm Anrê thì được tha vì lý do tuổi tác, nhờ lời xin của cha Đắc
Lộ và các thương gia Bồ Đào Nha.

Vào khoảng 5 giờ chiều, một viên chỉ huy cùng với 30 người lính vào nhà tù, nơi
vị Tôi Tớ Chúa bị giam giữ, và ra lệnh cho Thầy phải đi theo tới nơi hành
quyết. Thầy Anrê cảm tạ Chúa vì giờ hiến tế đã tới, và sau khi chào mọi người
hiện diện trong tù, Thầy nhanh nhẹn bước đi. Quân lính vây chặt chung quanh và
dẫn Thầy Anrê đi qua các đường phố ở Kẻ Chàm, tới một cánh đồng ngoài thành.
Cha Đắc Lộ, nhiều Kitô hữu Bồ Đào Nha và Việt Nam cũng như nhiều người lương đã
đi theo và chứng kiến cuộc xử tử vị Tôi Tớ Chúa.

Theo thói quen tại đây, cha Đắc Lộ xin và được phép trải một tấm chiếu dưới
người Thầy Anrê để hứng lấy máu Thầy, nhưng Thầy không muốn nhận điều ấy. Thầy
muốn máu mình rơi xuống đất, như trường hợp Máu Cực Trọng Chúa Kitô đã đổ ra.
Trong khi đó, Thầy Anrê nhắn nhủ các Kitô hữu hiện diện hãy luôn kiên vững
trong Đức Tin, đừng buồn phiền vì cái chết của Thầy, và hãy giúp lời cầu cho
Thầy được trung thành tới cùng.

Cuộc hành quyết Thầy Giảng Anrê được thi hành bằng mấy nhát lao đâm thấu cạnh
sườn bên trái, và sau cùng khi một người lính sắp dùng đao chém đầu, Thầy lớn
tiếng kêu lên ”GIÊSU”.

Cho tới hơi thở cuối cùng, Thầy Giảng Anrê đã chứng tỏ lòng kiên trung trong
việc chấp nhận dâng hiến tế cuộc sống vì lòng tin yêu Chúa Kitô.

… Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu
thương anh em. Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình. Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy. Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc của chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi CHA Thầy, Thầy đã cho anh em biết
(Gioan 15,13-15).

(BEATIFICAZIONE, Piazza San Pietro, 5 Marzo 2000, Ufficio delle
Celebrazioni Liturgiche del Sommo Pontefice, trang 83-86)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

 

Phiên họp giữa Đức Giáo Hoàng và Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng.

Phiên họp giữa Đức Giáo Hoàng và Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng.

Nguyễn Long Thao

1/22/2013

VATICAN CITY 22/1/2013. _ Tin Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Việt Nam hội kiến với
Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI tại Vatican vào buổi sáng ngày 22 tháng 1 năm 2013
đã được các hãng thông tấn quốc tế loan tải một cách rộng rãi. Nói chung, các
bản tin nhận định rằng quan hệ ngoại giao giữa Tòa Thánh Vatican và Việt Nam
đang từng bước được củng cố thêm qua việc Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI lần đầu
tiên tiếp một vị không phải là nguyên thủ một quốc gia mà là Tổng Bí Thư của
một đảng phái chính trị.

Trong cuộc họp báo, Linh mục Federico Lombardi, phát ngôn viên Tòa Thánh, cho
biết: Phái đoàn của ông Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng có 11 người, gồm giới chức
cao cấp trong đảng và chính quyền. Phái đoàn đã được Tòa Thánh đón tiếp với tất
cả nghi thức ngoại giao dành cho vị nguyên thủ quốc gia.

Ông Tổng Bí Thư đã hội kiến riêng với ĐGH nửa giờ đồng hồ trong phòng đóng kín.
Sau đó, ông Tổng Bí Thư và phái đoàn đã gặp Đức Hồng Y Tarcisio Bertone, Quốc
Vụ Khanh Tòa Thánh, Đức Tổng Giám Mục Dominique Mamberti, Bộ Trưởng Ngoại Giao đặc trách liên lạc giữa Tòa Thánh với các quốc gia. Phái đoàn cũng đã gặp một
số giới chức khác trong Bộ Ngoại Giao Tòa Thánh

Thông cáo báo chí của Tòa Thánh cho biết các buổi thảo luận đã diễn ra trong
tinh thần thân ái, thành thật và xây dựng. Hai bên hy vọng những vấn đề còn tồn
đọng sẽ được giải quyết sớm và sự hợp tác có kết quả hiện nay được củng cố
thêm.

Tòa Thánh Vatican và Việt Nam đang hướng đến việc thiết lập đầy đủ quan hệ
ngoại giao. Hiện giờ Tòa Thánh chỉ có đại diện không thường trú tại Việt Nam và
cả hai bên đang tiếp tục thảo luận vấn đề này.

Sau khi Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng gặp Đức Thánh Cha vào năm 2007, Tòa Thánh và
Việt Nam đã thiết lập uỷ ban nghiên cứu quan hệ ngoại giao. Đây là cuộc họp đầu
tiên giữa Thủ Tướng Việt Nam với giới chức cao cấp của Tòa Thánh. Đến năm 2009
Chủ Tịch Nhà Nước, Ông Nguyễn Minh Triết, đã gặp ĐGH và giới quan sát cho đây
là một bước tiến mới trong quan hệ Việt Nam – Vatican. Sau đó, Đức Tổng Giám
Mục Leopoldo Girelli đã được bổ nhiệm làm Đại Diện không thường trú tại Việt
Nam. Vậy sau phiên họp này, liệu có bước đột phá nào trong quan hệ ngoại giao
giữa Vatican và Việt Nam không? Chúng ta còn phải chờ xem.

Trên bình diện ngoại giao, theo nhận định của giới quan sát, mối liên hệ
Vatican – Hà Nội đã có tiến triển và vấn đề tự do tôn giáo đã có cải thiện.
Nhưng các chính phủ và các cơ quan nhân quyền trên thế giới vẫn coi Việt Nam là
nước đàn áp tôn giáo, đặc biệt là Thiên Chúa Giáo. Chính quyền Việt Nam bắt
chước Trung Quốc vẫn can thiệp vào việc bổ nhiệm Giám Mục. Tại các giáo phận và
các giáo xứ xa xôi, việc hành đạo vẫn bị giới hạn và gặp nhiều khó khăn, vẫn
phải qua thủ tục xin – cho. Tài sản Giáo Hội vẫn bi tịch thu. Người Công Giáo
vẫn bị coi là thành phần không đáng tin cậy, không được hưởng trọn vẹn quyền
lợi dành cho một công dân bình thường

Di thư của một người Cha

Di thư của một người Cha
Tôn Vận Tuyền (Huynh Trung dịch)
1/18/2013
Nhận được một email bằng chữ Hoa, tôi thấy hay nên tạm dịch sang tiếng Việt để
chia xẻ với mọi người. Vì chữ nghĩa có hạn, nên lối hành văn không được suôn sẻ
cho lắm, Mong độc giả bỏ qua cho!
Đây là một lá thư riêng của ông Tôn Vận Tuyền (Viện Trưởng Viện Quốc
Gia Hành Chánh, Trung Hoa Dân Quốc- Đài Loan) Một chánh khách nổi tiếng thời
bấy giờ. Lá thư gởi cho con của ông lúc ông còn tại thế.
Thời gian gần đây mới thấy lưu hành trên mạng Internet, và rất nhanh chóng đã
được truyền đi khắp nơi. Đa số nhiều bậc phụ huynh đã được đọc qua và cảm xúc
sâu đậm. Kỳ thực đây là một lá thư thích hợp cho tất cả mọi người, nên được phổ
biến để mọi người cùng đọc và suy ngẫm.
Suy tư này dầu chỉ là cái nhìn thuần túy nhân bản, nhưng đã rất sâu sắc. Nếu
được nhìn từ khía cạnh Kitô giáo với niềm tin vào cuộc sống vĩnh cửu thì thật là hoàn mỹ
… Tôn Vận Tuyền để lại những lời căn dặn như sau:
Con trai yêu dấu :
Viết lá thư này cho con, Cha dựa trên 3 nguyên tắc như sau :
1. Đời người Phúc Họa vô thường!
Không một ai biết trước mình sống được bao lâu? Có một số việc tưởng nên sớm nói ra thì hay hơn.
2. Cha là Phụ thân của con, nếu cha không nói với con, chắc không ai nói rõ với
con những điều này!
3. Những lời khuyên để con ghi nhớ này, là kết quả bao kinh nghiệm xương máu,
thất bại đắng cay trong cuộc đời, mà bản thân cha đã thể nghiệm. Nó sẽ giúp con
tiết kiệm nhiều những nhầm lẫn hoang phí trên bước đường trưởng thành của con
sau này.
Dưới đây là những điều con nên ghi nhớ trong cuộc đời:
1. Nếu có người đối xử không tốt với con, đừng bận tâm cho mất thời

giờ. Trong cuộc đời này, không ai có nghĩa vụ phải đối xử tốt với
con, ngoại trừ Cha và Mẹ của con. Nếu có người đối xử tốt với con,
ngoài việc con phải biết ơn và trân quý.

Con cũng nên thận trọng suy
xét, vì người đời làm việc gì thường có mục đích và nguyên nhân. Con
chớ vội vàng xem đối phương là chân bằng hữu.
2. Không có người nào mà không thể thay thế được, không có vật gì mà nhất định mình phải sở hữu được. Con nên hiểu rõ ở điểm này. Nếu mai sau rủi người bạn đời không còn muốn cùng con chung sống, hoặc giả con vừa mất đi những gì trân quý nhất trong đời. Thì con nên hiểu rằng: Đây cũng không phải là chuyện lớn lao gì cho lắm!
3. Đời người ngắn ngủi, nếu hôm nay con đã lãng phí thời gian, mai

đây hiểu được thì thấy rằng quãng đời đó đã vĩnh viễn mất rồi! Cho
nên càng biết trân quý sinh mạng của mình càng sớm, thì con sẽ được tận hưởng
cuộc đời mình càng nhiều hơn.

Trông mong được sống trường thọ, chi
bằng con cứ tận hưởng cuộc đời mình ngay từ bây giờ.
4.Trên đời nầy chẳng hề có chuyện yêu thương bất diệt. Ái tình chẳng qua là một cảm xúc nhất thời. Cảm giác nầy tuyệt đối sẽ theo thời gian, hoàn cảnh mà thay đổi.
Nếu người yêu rời xa con, hãy nhẫn nại chờ đợi, để thời gian từ từ gột rửa, để
tâm tư mình dần dần lắng đọng thì nỗi đau thương cũng sẽ từ từ nhạt nhòa đi.
Không nên cứ ôm ấp hoài niệm mãi cái ảo ảnh yêu thương, cũng không nên quá bi
lụy vì tình.
5.Tuy có nhiều người thành công trên đường đời mà học hành chẳng đến đâu. Nhưng
điều đó cũng không có nghĩa là, không cần học hành vẫn thành công. Kiến thức
đạt được do việc học hành, là vũ khí trong tay của mình. Ta có thể lập nên sự
nghiệp với bàn tay trắng, nhưng không thể trong tay không có tấc sắt. Nên nhớ
kỹ điều nầy!
6. Cha không yêu cầu con phải phụng dưỡng cha trong nửa quãng đời còn lại.
Ngược lại, Cha cũng không thể bảo bọc nửa quãng đời sau này của con, khi con đã
trưởng thành và tự lập. Đây là lúc Cha đã làm tròn trách nhiệm của mình. Sau
nầy con có đi xe Bus hay đi Auto nhà, ăn Soup Vi cá hay ăn Mì gói, tự con lo
liệu lấy .
7. Con có thể yêu cầu mình phải giữ chữ TÍN, nhưng không thể bắt người khác phải giữ chữ TÍN với mình. Con có thể yêu cầu mình phải đối xử TỐT với người khác, nhưng không thể kỳ vọng người khác phải đối xử tốt với con. Con đối xử người ta thế
nào, không có nghĩa là nguời ta sẽ đối xử lại mình như thế ấy, nếu con không
hiểu rõ được điểm này, sẽ tự chuốc lấy buồn phiền cho mình mai hậu.
8. Hơn hai mươi mấy năm nay, Cha tuần nào cũng mua vé số, nhưng vẫn nghèo trắng
tay. Điều nầy chứng minh rằng: Muốn phát đạt phải siêng năng làm ăn, nỗ lực
phấn đấu. Trên thế gian nầy không có buổi ăn trưa nào miễn phí cả.
9. Gia đình thân nhân chỉ là duyên phận. Bất luận trong kiếp nầy chúng ta sống
chung với nhau được bao lâu và như thế nào, nên trân quý khoảng thời gian sum
hợp, gia đình đoàn tụ. Kiếp sau, dù ta có
thương hay không thương, dễ gì còn gặp lại nhau.
Di thư của một người Cha
Khắc Thiệu xin được chuyển thành thơ bát cú
Cuộc đời cha bao nhiêu năm góp nhặt

Kinh nghiệm đời, xương máu của bản thân
Trước khi đi cha viết lại cho vần
Để con đọc tránh đường đời vấp ngã
Cuộc đời này vô thường hay phúc, hoạ
Không một ai biết được lúc ta đi
Cho nên cha nói trước giữ làm gì
Sợ mai mốt lại không còn sức nói
Với tha nhân đừng bận tâm vì thói
Tốt với nhau không nghĩa vụ vì nhau
Chỉ mẹ cha mới thật sự nhiệm mầu
Cho con trẻ không mảy may tính toán
Trên đường đời nếu may còn gặp được
Đối với mình có tốt phải nghĩ suy
Cám ơn họ nhưng suy nghĩ có gì
Ẩn chứa ở bên trong lòng tốt ấy
Cũng có thể nhiều mưu toan cho thấy
Mục đích, nguyên nhân, khiến họ thương mình
Đừng vội mừng chỉ lợi ích cá nhân
Chớ vội gọi ấy chân tình bằng hữu
Chẳng có gì trong đời này vĩnh cửu
Mà lại không thay thế được nhiều lần
Hay muôn đời là vật bất ly thân
Cũng có lúc phải luân phiên thay đổi
Dẫu mất đi cũng đừng coi là tội
To lớn gì tất cả chỉ viễn vông
Sắc, Sắc, không, ý nghĩa lớn vô cùng
Hãy xem nhẹ cho dù tình bay mất
Thế gian này tuổi đời cao hay thấp
Ngắn ngủi như bóng nắng thoảng qua mành
Đến và đi trong khoảnh khắc mông lung
Hãy trân quý từng phút giây kẻo mất
Tình yêu kia vốn là mầm hạnh phúc
Đến với nhau xây đắp mộng thiên đường
Khi phúc duyên đứt đoạn mối tơ duyên
Kẻ quay gót người ngậm ngùi rơi lệ
Liều thuốc quên sông thời gian vốn thế
Trôi âm thầm rửa sạch nỗi thương tâm
Trong thời gian chờ đợi sống âm thầm
Đừng bi luỵ đừng để tim rướm máu
Trong cuộc sống kiếm tìm bao của báu
Tốn công lao bao năm tháng dùi mài
Bằng cấp cao mà kiếm chẳng là bao
Còn có kẻ gặp may thành trọc phú
Nhưng con hỡi bạc tiền còn có thể
Kiếm được ra kiến thức kiếm được không?
Sự học kia dẫu tay trắng ra công
Là vũ khí cho đời con chinh phục
Cha sớm muộn cũng xa rời thế tục
Cuối cuộc đời vẫn lo liệu lấy thân
Cũng như con cha suy nghĩ nhiều lần
Nửa cuộc sống của con cha không thể
Lo lắng, chăm nom, miếng ăn chẳng kể
Ngon dở gì, mình con tự lo toan
Đấy công lao cha vun đắp vuông tròn
Và trách nhiệm nơi cha đà hoàn tất
Trong giao tiếp tha nhân còn lắm tật
Hứa với ai, giữ chữ TÍN làm đầu
Nhưng cũng đừng bắt họ phải vì đâu
Cho chữ tín như con dành cho họ
Nếu kỳ vọng so đo hơn thiệt nọ
Con chỉ phiền chỉ khổ mãi trong tim
Hãy cho ra và sẽ cố lặng im
“Ba La Mật” hạnh hàng đầu nên nhớ
Mấy mươi năm hàng tuần cha mua số
Chỉ mong sao làm triệu phú không công
Chả dễ đâu nửa kiếp số tay không
Nằm há miệng chờ sung đâu chả rụng
Gia đình, ta, thân nhân là duyên phận
Đến rồi đi như bèo dạt mây trôi
Hãy cùng nhau thương mến với tầy bồi
Chả biết được kiếp sau còn gặp lại
Duyên số ấy “Bá thiên nan tao ngộ”
Của vòng quay vũ trụ quá xa xăm
Dẫu còn thương chẳng dễ gặp trên đường
Trong thế giới ta bà đâu hạnh ngộ.

Ứng nghiệm

Ứng nghiệm

TRẦM THIÊN THU

Đăng bởi lúc 12:04 Sáng 23/01/13
nguồn:chuacuuthe.com

VRNs (23.01.2013) – Sài Gòn – Ứng nghiệm là xảy ra đúng như sự việc đã được
tiên báo. Kinh thánh đã nhiều lần nhắc tới động từ “ứng nghiệm” (*). Các Kitô
hữu – nói chung, và các tín hữu Công giáo – nói riêng, chẳng còn xa lạ gì với
hai từ “ứng nghiệm” – vì thường xuyên nghe nói tới.

Xưa nay có nhiều người được gọi là tiên tri, họ báo trước nhiều điều, nhưng cũng chỉ thuộc dạng “hên xui”, cái đúng cái không, chẳng qua chỉ là ngẫu nhiên. Mới đây nhất là ngày 21-12-2012, người ta dao động vì được dự báo là “ngày tận thế”, nhưng rồi chẳng có gì xảy ra, chẳng khác gì chuyện dự báo thời tiết hằng ngày.

Nhưng với Thiên Chúa, mọi thứ đều xảy ra đúng từng chi tiết, vì Chúa Giêsu đã xác định: “Trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành” (Mt 5:18), “tất cả những gì các ngôn
sứ đã viết về Con Người sẽ được hoàn tất” (Lc 18:31)
.

Ngôn sứ Nơkhemia kể một lèo: Hôm ấy là ngày mồng một tháng thứ bảy, ông Ét-ra cũng là tư tế đem sách Luật ra trước mặt cộng đồng gồm đàn ông, đàn bà và tất cả các trẻ em đã tới tuổi khôn. Ông đứng ở quảng trường phía trước cửa Nước, đọc sách Luật trước mặt đàn ông, đàn bà và tất cả các trẻ em đã tới tuổi khôn. Ông đọc từ sáng sớm tới trưa, và toàn dân lắng tai nghe sách Luật. Kinh sư Ét-ra đứng trên bục gỗ đã đóng sẵn để dùng vào việc này. Bên cạnh ông, phía tay mặt, có các ông:
Mát-tít-gia, Se-ma, A-na-gia, U-ri-gia, Khin-ki-gia và Ma-a-xê-gia; phía tay
trái, có các ông: Pơ-đa-gia, Mi-sa-ên, Man-ki-gia, Kha-sum, Khát-bát-đa-na,
Dơ-khác-gia và Mơ-su-lam.5 Ông Ét-ra mở sách ra trước mặt toàn dân, vì ông đứng cao hơn mọi người. Khi ông mở sách ra thì mọi người đứng dậy (Nkm 8:2-5)
.

Sau đó, ông Ét-ra chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa vĩ đại, và toàn dân giơ tay lên đáp rằng: “Amen! Amen!” (Nkm 8:6). Rồi họ sấp mặt sát đất mà thờ lạy Đức Chúa. Một cảnh tượng thật xúc động!

Ngôn sứ Nơkhemia cho biết thêm: Ông Ét-ra và các thầy Lê-vi đọc rõ ràng và giải thích sách Luật của Thiên Chúa, nhờ thế mà toàn dân hiểu được những gì các ông đọc. Bấy giờ ông Nơ-khe-mi-a, tổng đốc, ông Ét-ra, tư tế kiêm kinh sư, cùng các thầy Lê-vi là những người đã giảng giải Luật Chúa cho dân chúng, nói với họ rằng: “Hôm nay là ngày thánh hiến cho Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em, anh em đừng sầu
thương khóc lóc” (Nkm 8:9)
. Sở dĩ ông nói thế là vì toàn dân đều khóc khi
nghe lời sách Luật. Rồi ông Ét-ra còn nói với dân chúng: “Anh em hãy về ăn
thịt béo, uống rượu ngon và gửi phần cho những người không sẵn của ăn, vì hôm
nay là ngày thánh hiến cho Chúa chúng ta. Anh em đừng buồn bã, vì niềm vui của
Đức Chúa là thành trì bảo vệ anh em” (Nkm 8:10)
.

Được tuân giữ Thánh Luật là hạnh phúc, như tác giả Thánh vịnh nói: “Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn. Thánh ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn. Huấn lệnh Chúa hoàn toàn ngay thẳng, làm hoan hỷ cõi lòng. Mệnh lệnh Chúa xiết bao minh bạch, cho đôi mắt rạng ngời (Tv 19:8-9). Quốc gia nào cũng có luật – gọi là quốc pháp, gia đình nhỏ cũng có luật – gọi là gia phong, và dù chỉ một nhóm nhỏ cũng cần có quy luật. Nhưng đôi khi các luật đó không phù hợp lòng người, khiến dân chúng khổ sở. Nhưng Thánh luật của Chúa lại làm cho người ta
hoan lạc: “Lòng kính sợ Chúa luôn trong trắng, tồn tại đến muôn đời. Quyết
định Chúa phù hợp chân lý, hết thảy đều công minh”
(Tv 19:10).

Hạnh phúc khi tuân giữ Thánh Luật, và cũng hạnh phúc được thân thưa với Chúa: “Lạy Chúa là núi đá cho con trú ẩn, là Đấng cứu chuộc con, cúi xin Ngài vui nhận bấy nhiêu lời miệng lưỡi thân thưa, và bao tiếng lòng con thầm thĩ mong được thấu đến Ngài” (Tv 19:15). Ngài luôn mong chúng ta như thế để Ngài đại lượng thi ân
giáng phúc.

Thánh Phaolô so sánh: “Ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Kitô cũng vậy. Thật thế, tất cả chúng ta, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể. Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thần Khí duy nhất. Thật vậy, thân thể gồm nhiều bộ phận, chứ không phải chỉ có một mà thôi” (1 Cr 12:12-14).

Đây là một trong các đoạn Kinh thánh thú vị. Thánh nhân nói chi tiết hơn: “Giả như chân có nói: ‘Tôi không phải là tay, nên tôi không thuộc về thân thể’, thì cũng chẳng vì thế mà nó không thuộc về thân thể. Giả như tai có nói: ‘Tôi không phải là mắt, vậy
tôi không thuộc về thân thể’, thì cũng chẳng vì thế mà nó không thuộc về thân
thể. Giả như toàn thân chỉ là mắt, thì lấy gì mà nghe? Giả như toàn thân chỉ là
tai, thì lấy gì mà ngửi?”
(1 Cr 12:15-17). Quá rõ ràng, không gì khó hiểu.

Có lẽ Thánh Phaolô cảm thấy chưa an tâm nên tiếp tục “dài hơi” giải thích thêm: “Nhưng Thiên Chúa đã đặt mỗi bộ phận vào một chỗ trong thân thể như ý Người muốn. Giả như tất cả chỉ là một thứ bộ phận, thì làm sao mà thành thân thể được? Như thế, bộ phận tuy nhiều mà thân thể chỉ có một. Vậy mắt không có thể bảo tay: ‘Tao không cần đến mày’, đầu cũng không thể bảo hai chân: ‘Tao không cần chúng mày’. Hơn nữa, những bộ phận xem ra yếu đuối nhất thì lại là cần thiết nhất; và những bộ phận ta coi là tầm thường nhất, thì ta lại tôn trọng hơn cả. Những bộ phận kém trang nhã, thì ta lại mặc cho chúng trang nhã hơn hết. Còn những bộ phận trang nhã thì không cần gì cả. Nhưng Thiên Chúa đã khéo xếp đặt các bộ phận trong thân thể, để bộ phận nào kém thì được tôn trọng nhiều hơn. Như thế, không có chia rẽ trong thân thể, trái lại các bộ phận đều lo lắng cho nhau. Nếu một bộ phận nào
đau, thì mọi bộ phận cùng đau. Nếu một bộ phận nào được vẻ vang, thì mọi bộ
phận cũng vui chung”
(1 Cr 12:18-25).

Và ngài kết luận: “Vậy anh em, anh em là thân thể Đức Kitô, và mỗi người là một bộ phận. Trong Hội Thánh, Thiên Chúa đã đặt một số người, thứ nhất là các Tông Đồ, thứ hai là các ngôn sứ, thứ ba là các thầy dạy, rồi đến những người được ơn làm phép lạ, được những đặc sủng để chữa bệnh, để giúp đỡ người khác, để quản trị, để nói các thứ tiếng lạ. Chẳng lẽ ai cũng là tông đồ? Chẳng lẽ ai cũng là ngôn sứ, ai cũng là thầy dạy sao? Chẳng lẽ ai cũng được ơn làm phép lạ, ai cũng được ơn chữa bệnh sao? Chẳng lẽ ai cũng nói được các tiếng lạ, ai cũng giải thích được các tiếng
lạ sao?” (1 Cr 12:27-30)
.

Ai cũng có “biệt tài” về một hay vài lĩnh vực nào đó, ai cũng là khí cụ được Thiên Chúa dùng để thực hiện một sứ vụ nào đó và làm vinh danh Ngài. Ai được ơn riêng nào thì cũng là hồng ân, là để phục vụ vì công ích, không ai có quyền “chảnh” hoặc “ngộ nhận” là mình giỏi hơn người. Tất cả chúng ta chỉ là những chi thể nhỏ bé trong Nhiệm Thể Đức Kitô vĩ đại.

Thánh sử Luca kể: Được quyền năng Thần Khí thúc đẩy, Đức Giêsu trở về miền Galilê, và tiếng tăm Ngài đồn ra khắp vùng lân cận. Ngài giảng dạy trong các hội đường, và được mọi người tôn vinh. Rồi Đức Giêsu đến Nadarét, là nơi Ngài sinh trưởng. Ngài vào hội đường như Ngài vẫn quen làm trong ngày Sa-bát, và đứng lên đọc Sách Thánh. Họ trao cho Ngài cuốn sách ngôn sứ Isaia.

Ngài mở ra, gặp đoạn chép rằng: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4:18-19). Đây là
đoạn Tin Mừng quan trọng, công khai sứ vụ cứu độ của Đức Kitô. Ngắn gọn mà súc
tích.

Ứng nghiệm là việc quan trọng trong cuộc đời, nhất là ứng nghiệm những điều tốt lành. Điều ứng nghiệm tuyệt vời hơn đó là ứng nghiệm về công lý và hòa bình: “Tin Mừng đến với người nghèo hèn, các tù nhân được phóng thích, người mù đươc sáng, người bị áp bức được tự do”. Không gì hạnh phúc hơn khi được Đức Kitô giải thoát, đó là hồng ân cao cả biết bao!

Sau đó, Đức Giêsu cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường, rồi ngồi xuống. Ai nấy trong hội  đường đều chăm chú nhìn Người. Ngài bắt đầu nói với họ: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 4:21).

Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin giúp chúng con luôn biết HIỆP NHẤT trong tình huynh đệ, sống yêu thương trong mối dây đoàn kết vì là con cái chung một Đại Gia Đình “đa đại đồng đường”. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên-Chúa-Làm- Người và Đấng Cứu Độ của chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

(*) Đnl 18:22, Gs 21:45, Gs 23:14, Gs 23:15, Tl 9:57, 2 S 22:31, 1 V 22:27, 1 V 12:15, 1 V 13:32, 2 V15:12, 2 Sbn 1:9, 2 Sbn 10:15, 2 Sbn 36:22, Et 1:1, Tb 14:4, Tb Tv 105:19, Tv 119:140, Mt 1:22, Mt 2:15, Mt 2:17, Mt 2:23. Mt 4:14, 8:17, Mt 12:17, Mt 13:14,
Mt 13:35, Mt 21:4, Mt 26:54, Mt 26:56, Mt 27:9, Mc 14:49, Mc 15:28, Lc 1:20, Lc
4:21, Lc 21:22, Lc 22:37, Lc 24:44.

Blogger Tạ Phong Tần vào chung kết giải thưởng nhà báo 2013

Blogger Tạ Phong Tần vào chung kết giải thưởng nhà báo 2013
Đăng bởi lúc 9:13 Sáng 23/01/13
nguồn:chuacuuthe.com
VRNs (23.01.2013) – Ngày 21/01/2013, Index  on Censorhip đã công bố danh sách chính thức những nhà văn và nhà báo được chọn
vào vòng chung kết các Giải thưởng năm 2013,
trong đó có chị Maria Tạ Phong Tần thuộc lãnh vực báo chí. Trên website của tổ chức này, chúng ta có thể đọc thấy hình và bản văn giới thiệu chị Tần. Kết quả chung
kết sẽ được công bố vào ngày thứ năm 21 tháng ba tới.
VRNs xin giới thiệu bài viết trên website của tổ chức này:
————————-
Tạ Phong Tần, blogger người Việt bị giam cầm
Tạ Phong Tần, một trong ba blogger Việt Nam, hình thành nên nhóm có danh xưng là “Câu lạc bộ nhà báo tự do”, đã là tâm điểm của một chiến dịch đàn áp tàn bạo của nhà cầm quyền. Việt Nam là một trong những nước hạn chế nhất thế giới về tự do ngôn luận và tự do báo chí, chỉ khá hơn được Trung Quốc, Eritrea và Bắc Triều Tiên là những nước có chỉ số tự do báo chí thấp nhất theo đánh giá của Hội Ký Giả Không Biên Giới.

Tần (ảnh) và các blogger thân hữu của cô đã bị bắt giữ vào tháng 9 năm 2011 (ND) và bị buộc tội “tuyên truyền chống lại nhà nước” thông qua các bài viết bị cáo buộc là đã “bóp méo và chống đối” nhà nước Việt Nam.
Trong thực tế, qua hơn 700 bài viết trên blog Công Lý và Sự Thật, cô đã phơi bày trước ánh sáng qui mô của tệ nạn tham nhũng trong nước. Cô đưa ra một loạt các vấn đề xã hội, bao gồm việc ngược đãi trẻ em, tham nhũng, thuế má không công bằng và việc tịch thu đất bất hợp pháp của các quan chức của đảng tại các địa phương.
Trước khi trở thành một nhà báo, Tần đã là nữ cảnh sát trong guồng máy của Hà Nội. Điều này đem lại cho cô một cái nhìn sâu sắc về hoạt động của hệ thống cai trị. Ngày 24 tháng 09 năm 2012 (ND), sau một phiên tòa kéo dài chỉ một ngày, Tần đã bị kết án phải trải qua mười năm trong tù, và năm năm quản thúc sau khi được thả. Cô đã từ chối nhận tội.
Trong tháng này, một tòa án khác ở Vinh thuộc tỉnh Nghệ An, miền Bắc Việt Nam, đã lại kết án 14 nhà hoạt động, trong đó có nhiều blogger bị phán đến 13 năm tù giam cùng với nhiều năm bị quản thúc tại gia sau đó. Theo đài BBC, việc kết án họ dựa vào những điều luật về an ninh quốc gia có thể được giải thích tùy tiện – trong trường hợp cụ thể này là điều 79 của bộ luật hình sự, nghiêm cấm một cách mơ hồ các hoạt động
nhằm lật đổ chính quyền. Ủy ban Bảo vệ Nhà báo cũng tường trình rằng các quan
chức nhà nước đã đánh đập và lột trần truồng phóng viên Nguyễn Hoàng Vi khi cô
bị giam giữ tại một trụ sở công an ở thành phố Hồ Chí Minh.
Rupert Abbott, nhà nghiên cứu về Việt Nam của Tổ chức Ân xá Quốc tế, nói với tờ New York Times rằng “Những bản án tù kinh hoàng này xác nhận những lo ngại của chúng tôi về những khả năng tồi tệ nhất – đó là nhà nước Việt Nam đã lựa chọn những blogger này là điển hình để răn đe những người khác”. Ông nhấn mạnh thêm rằng tình trạng chà đạp quyền tự do ngôn luận tại Việt Nam là “nghiêm trọng và ngày càng tồi tệ.”
Trước khi phiên tòa bắt đầu, mẹ của Tần đã tự tử trong một cuộc tự thiêu để chống lại tình trạng đối xử tàn tệ đối với con gái bà, cũng như những bạo lực, quấy rối và đe dọa trục xuất nhắm vào gia đình bà.

Lm. Chân Tín: Luồng gió mới – Đạo hiếu ở Việt Nam (17)

Lm. Chân Tín: Luồng gió mới – Đạo hiếu ở Việt Nam (17)

Đăng bởi lúc 2:29 Sáng 23/01/13

nguồn:chuacuuthe.com

VRNs (23.01.2013) – Sàigòn

Đạo hiếu ở Việt Nam

Tất cả những ai hoạt động truyền giáo, đều nhận thấy một trong những cản trở bước tiến của đạo Công giáo ở Việt Nam là vấn đề đạo hiếu. Đạo hiếu là một phong tục đã đâm rễ sâu trong đời sống người Việt khiến nhiều anh em tân tòng không thể bỏ đi mà không cảm thấy lạc lõng, mất gốc. Đến ngày giỗ, họ có cái mặc cảm bị loại ra khỏi gia đình máu mủ, mặc dầu họ xác tín rằng theo đạo Công giáo không có nghĩa là bất
hiếu, vì có sự cầu nguyện xin lễ cho cha mẹ đã qua đời. Nhưng thảo hiếu bằng
những nghi lễ tôn giáo để cầu nguyện cho cha mẹ là một việc và thảo hiếu bằng
một phong tục cúng dâng tượng trưng theo tinh thần dân tộc là một việc khác!

Nay nhân dịp Công đồng Vatican II đang nhóm họp, với tinh thần cởi mở của các nghị phụ, chúng ta hãy đặt lại vấn đề đạo hiếu ở Việt Nam, vì đây là một trong những vấn đề then chốt của việc truyền giáo.

Trên nguyên tắc, Giáo hội Mẹ của các dân tộc, tôn trọng những phong tục tốt của mỗi xứ và chỉ sửa đổi những gì ngăn trở con người đạt đến Thiên Chúa – trước một phong tục, Giáo hội nhìn kỹ xem trong đó có gì ràng buộc con người không cho họ đến với Thiên Chúa. Nếu không có gì hiển nhiên trái với đức tin và luân lý, Giáo hội sẽ tôn trọng và gìn giữ phong tục ấy, vì đó là nếp sống tốt đẹp của một dân tộc. Nếu có đôi
chút gì dị đoan, lẫn lộn trong một phong tục tốt, Giáo hội tìm cách êm đẹp đính
chính chỗ đó, loại trừ dị đoan và hướng họ tới một ý nghĩa mới. Giáo hội không
thể lấy một văn hóa này thay một văn hóa khác. Năm 1659 chính Thánh bộ Truyền
giáo đã cho các vị thừa sai những nguyên tắc căn bản trong vấn đề này: “Quý vị
đừng bao giờ muốn tìm cách này cách khác khuyên dụ các dân đó thay đổi lễ nghi,
tập truyền và phong tục của họ, trừ phi khi nó hoàn toàn hiển nhiên trái với
tôn giáo và luân lý. Lòng tin Chúa không từ bỏ hay đả phá lễ nghi, tập truyền
bất cứ một dân tộc nào chỉ trừ khi nó đáng phải từ bỏ; trái lại lòng tin Chúa
muốn duy trì và bảo vệ các tập tục đó”.

Trong thông điệp Summi Pontificatus, ra ngày 20/10/1939 Đức Giáo hoàng Piô XII cũng nhắc lập trường ấy: “Giáo hội Chúa Cứu Thế là kho chứa trung thành của sự khôn ngoan trên trời ban xuống để dạy dỗ người đời. Không thể nghĩ đến và thực sự không bao giờ nghĩ đến việc đả kích hoặc khinh nhẹ những đặc tính mà mỗi dân tộc duy trì với tất cả lòng hiếu thảo, cùng một vẻ hiên ngang dễ hiểu, và coi đó là một di sản quí báu. Mục đích của Giáo hội là sự duy nhất siêu nhiên, trong tình yêu đại đồng
được ý thức và thực hành chứ không phải trong sự đồng nhất bề ngoài hời hợt và,
do đó, mong manh”.

Trong tinh thần trên đây, chúng ta thử hỏi Đạo hiếu ở Á châu nói chung và ở Việt nam nói riêng có phải là một phong tục hiển nhiên trái với đức tin và luân lý cần phải đả kích và cấm đoán nơi con cái Chúa, hay là một phong tục tốt cần phải tôn trọng và
khuyến khích nơi người tín hữu để họ khỏi phải mất gốc và khỏi mang tiếng theo đạo
là bỏ tổ tiên và chỉ cần sửa chữa một vài dị đoan?

Nếu ta xét kỹ, cái cốt tủy của đạo hiếu không nghịch với đức tin và luân lý Công giáo. Đạo hiếu chỉ là một phong tục kính nhớ tổ tiên, đúng với tinh thần Á châu, mà Đức Khổng Tử đã gọn gàng tóm lại trong mấy chữ “Sự tử như sự sinh, sự vong như sự tồn”, nghĩa là tôn kính cha mẹ lúc đã qua đời cũng như lúc còn sống. Lúc tổ tiên còn sống,
con cháu xá lạy và dâng của ngon miếng lạ, thì bây giờ, thì con cháu cũng xá
lạy trước hình tượng hay bài vị của tổ tiên đã qua đời và dâng cơm chuối tượng
trưng lòng thành.

Chúng ta hiểu lầm hai chữ “đạo” và “thờ”. Trong ngôn ngữ người Việt không Công giáo, chữ “đạo” có nghĩa là đường lối, cách xử sự với kẻ khác cho đúng tam  “tôn giáo” nhưng là năm lối sống với người đồng loại. đạo hiếu chỉ là một con đường, một cách
thế tỏ lòng hiếu đối với cha mẹ. Lúc nói “thờ trời”, người Việt hiểu với nghĩa
tôn giáo của nó, vì nhìn nhận một đấng cao cả tuyệt đối. trái lại lúc nói “thờ
tổ tiên”, người Việt chỉ nhìn nhận cha mẹ là những vị sinh thành dưỡng dục họ.
Thế nghĩa là cách dùng chữ không được phân minh nhưng nội dung và ý nghĩa rất
rõ ràng. Chữ “đạo” và chữ “thờ” của anh em ngoài Công giáo chỉ là chữ “đồng âm”
nhưng “không đồng nghĩa” hay chỉ có nghĩa “tương tự” với chữ “đạo” và chữ “thờ”
của người Công giáo. Vì thế đạo hiếu và việc thờ lạy tổ tiên chỉ là những cử
chỉ tượng trưng tỏ lòng hiếu thảo đối với tổ tiên, chứ không bao hàm một ý
nghĩa tôn giáo.

Sau một thời kỳ nghi kỵ, cấm đoán những nghi lễ đạo hiếu đối với cha mẹ và các ân nhân của dân tộc, nhiều Giáo hội địa phương ở Á Châu đã duyệt lại thái độ đó.

Năm 1935, hàng giáo phẩm Mãn Châu đã trình Tòa Thánh về việc kính Đức Khổng Tử. Chính phủ Mãn đã tuyên bố các lễ nghi tôn sùng Khổng Tử chỉ có mục đích biểu lộ sự thành kính đối với người, nhưng hoàn toàn không có tính cách gì tôn giáo. Vì thế Tòa Thánh chấp nhận ban phép cho cho người Công giáo được xá lạy trước hình hay bài vị của Đức Khổng Tử trong một vài trường hợp.

Tuy lời lẽ của văn kiện Tòa Thánh còn hết sức dè dặt, nhưng đây cũng là một bước đầu của một cuộc cải tiến sâu rộng.

Qua năm 1936, Thánh bộ Truyền giáo đã ban bố Huấn lệnh Pluries Instanterque cho Giáo hội Nhật nhắc lại lập trường của Giáo hội muốn tôn trọng phong tục địa phương và ban bố cho Công giáo Nhật được dự các nghi lễ chính phủ tổ chức có ý nghĩa ái quốc tỏ lòng trung thành với hoàng gia và các vị ân nhân của đất nước. Thánh bộ cũng ban phép tín hữu được dự vào các nghi lễ của tang cưới và các lễ theo phong tục xã
hội Nhật, tuy trước kia có một nguồn gốc tôn giáo, nhưng nay vì hoàn cảnh địa
phương và theo dư luận chung, chỉ còn có ý nghĩa xã giao và tương thân tương
ái.

Nếu ta đem huấn lệnh này so với huấn lệnh gửi cho hàng giáo phẩm Mãn Châu, ta thấy Giáo hội đã tiến rất nhiều trong việc biểu quyết phong tục Á đông và Giáo hội đã mạnh dạn hơn trong việc ban phép dự các nghi lễ theo phong tục địa phương. Nhưng một huấn lệnh mới, mệnh danh là PLANE COMPERTUM được ban bố năm 1939, dưới hoàng triều Piô XII còn sáng suốt hơn nữa. Huấn lệnh này ban phép cho người Công giáo Trung Hoa được tham dự các nghi lễ và bái lạy trước hình tượng hoặc bài vị mang tên Đức Khổng Tử và tổ tiên đã qua đời. huấn lệnh này là một chứng cớ mới tỏ ra Giáo hội muốn thích ứng vào các nền văn minh khác nhau, muốn thâm nhập vào trong đó để nâng cao và kiện toàn. Trong nỗ lực này Giáo hội có ý bảo tồn trong các
phong tục cổ kính của các quốc gia những gì không chống lại với Tin Mừng.

Thế là đã trên 20 năm nay, các Giáo hội địa phương ở Á châu đã giải quyết tốt đẹp vấn đề nghi lễ kính nhớ các vị ân nhân của đất nước và tổ tiên mà chúng ta có thể tóm lại trong hai chữ “ĐẠO HIẾU”. Thế nhưng Giáo hội Việt Nam hình như chưa đặc biệt quan tâm đến vấn đề then chốt ấy, chưa cố gắng mang lại mau lẹ một giải pháp thích hợp, ngõ hầu mở rộng cửa Giáo hội cho tất cả đồng bào ta đa số tha thiết với đạo hiếu.
Nhân dịp Công đồng, chúng tôi khẩn khoản kính xin hàng giáo phẩm Việt Nam đệ
lên Tòa Thánh những ước vọng chính đáng của dân tộc Việt Nam đúng với tôn chỉ
mầu nhiệm nhập thể của Chúa Kitô và Giáo hội người, tức là “trở nên mọi sự cho
mọi người, để cứu rỗi tất cả”.

 

Nguyệt san Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp


Số 169-6/1963

Tràng chuỗi Mân Côi đã cứu rỗi bà cụ 98 tuổi

Tràng  chuỗi Mân Côi đã cứu rỗi bà cụ 98 tuổi

Lm Nguyễn Hữu  Thy

Các Kitô hữu khắp nơi trên thế giới đã hằng ngày sốt sắng dâng lên Mẹ Maria Tràng
Chuỗi Mân Côi, những lời Kinh mà chính Thiên Chúa Cha đã truyền cho Sứ Thần
Gabriel công bố, để tỏ lòng tôn sùng và biết ơn Mẹ. Vâng, vì đức tin mạnh mẽ và
lòng tin tưởng phó thác tuyệt đối của Mẹ vào sự quan phòng đầy yêu thương của
Thiên Chúa, Mẹ đã thưa „xin vâng“, Mẹ đã hoàn toàn tự nguyện hy sinh
cộng tác vào chương trình cứu chuộc nhân loại của Thiên Chúa. Nhờ thế, Ngôi Hai
Thiên Chúa mới có thể nhập thể làm người và cũng nhờ thế, toàn thể nhân loại
mới được hòa giải với Thiên Chúa và được cứu rỗi.

Dĩ nhiên, mục đích chính và trực tiếp của Kinh Mân Côi là nhằm tôn thờ Đức
Kitô, chứ không phải Mẹ Maria. Vì khi đọc Kinh Mân Côi, các tín hữu suy ngắm 20
mầu nhiệm cuộc đời cứu thế của Đức Kitô – 5 Sự Vui, 5 Sự Sáng, 5 Sự Thương và 5
Sự Mừng – mà trong đó Mẹ Maria giữ một vai trò trọng yếu, mang tính cách quyết
định, họ sẽ khám phá được tình yêu vô biên của Thiên Chúa ban cho nhân loại qua
Đức Kitô, Con Một của Người. Và chính sự tôn thờ Thiên Chúa, lòng biết ơn và
cảm tạ Đức Kitô qua Kinh Mân Côi của các tín hữu là chính sự tôn vinh làm đẹp
lòng Mẹ Maria nhất, vì mục đích duy nhất đời Mẹ là tôn thờ và làm sáng danh
Thiên Chúa. Đàng khác, Kinh Mân Côi là lời kinh được bắt nguồn trong Kinh
Thánh.

Trong Tông thư Marialis Cultus thời danh của Ngài, ĐTC Phaolô VI khẳng định
rằng: „Tràng chuỗi Mân Côi là một lối cầu nguyện theo Phúc Âm“ và ĐTC
Gioan Phaolô II còn cụ thể hơn: „Thực ra việc lần hạt Mân Côi không gì khác
hơn là cùng Mẹ Maria chiêm ngắm Thánh Nhan Đức Kitô
.“ Bởi vậy, chính ĐTC
Gioan Phaolô II đã đánh giá: „Kinh Mân Côi là một lời kinh đơn sơ, nhưng đẹp
và sâu xa nhất
“. Còn nhà thần học Karl Rahner thì nhận định rằng: „Kinh
Mân Côi là con đường ngắn nhất và chắc chắn nhất, dẫn chúng ta tới cùng Thiên
Chúa.“
Nói cách khác, Kinh Mân Côi là con đường chắc chắn dẫn tới sự cứu
rỗi. Suốt dòng lịch sử trên 2000 năm của Giáo Hội đã minh nhiên chứng nhận điều
đó. Ở đây chúng tôi xin trích câu chuyện kể có thật của cha Gereon Goldmann
OFM, một nhà truyền giáo lâu năm tại Nhật Bản như sau:

Tại khu ngoại ô „Cầu Gỗ“ của thủ đô Tokyo có khoảng 500.000 dân sinh sống và
trong số đó có vài ba trăm tín hữu Công Giáo thuộc giáo xứ St. Elisabeth. Khu
ngoại ô „Cầu Gỗ“ vốn được coi là một trong những khu phố nghèo nhất của thủ đô
Tokyo rộng lớn với dân số 13 triệu người. Khắp khu ngoại ô này hầu hết các nhà
đều làm bằng gỗ và thấp nhỏ. Khu ngoại ô này là cả một viện dưỡng lão khổng lồ,
được chăm sóc về mặt y tế một cách khá chu đáo. Trong số các vị cao niên sống ở
đây, mà đa số đã phải nằm liệt giường từ nhiều năm hay từ hằng chục năm rồi, có
một số nhỏ là người Công Giáo.

Hàng tháng tôi đến thăm các ông bà cụ người Công Giáo và mang Mình Thánh Chúa
cho họ hai lần. Một hôm vào khoảng 2 giờ sáng máy điện thoại nhà tôi reo. Đó là
cú điện thoại của cô y tá điều dưỡng trực, cô báo cho tôi hay là tôi phải đến
gấp, vì ở ngôi lều số 8 có người đang hấp hối và rất mong muốn gặp tôi.

Thế là tôi lấy xe máy và mang theo dầu thánh chạy đến viện dưỡng lão ngay lập
tức. Người canh cổng quen biết tôi nên liền mở cổng cho tôi vào. Cô y tá điều
dưỡng cũng đã chờ tôi sẵn ở lối vào. Tôi liền hỏi cô người hấp hối nằm ở đâu và
tôi cứ đinh ninh là một ông cụ người Công Giáo mà tôi thường đến thăm viếng.
Nhưng cô y tá trả lời: „Không phải ông cụ người Công Giáo muốn gặp cha,
nhưng là một bà cụ khác
.“ Nghe cô y tá nói, tôi cứ tự thắc mắc mãi, vì theo
tôi biết thì tại ngôi lều số 8 đâu có bà cụ già nào là người công Giáo. Cô y ta
dẫn tôi tới giường một bà cụ mà trước đây mỗi lần tôi tới viện dưỡng lão bà đều
đăm đăm nhìn tôi như muốn trao đổi với tôi điều gì đó.

Nhìn bà cụ tôi đoán biết bà không thể qua được, tuy nhiên bà cụ vẫn còn đủ sức
nói chuyện rất rõ ràng, dù rằng bà chỉ nói một cách chậm rãi mà thôi. Từ trên
80 năm qua, bà cụ luôn cầu xin Chúa cho bà trước khi chết được gặp một Linh mục
Công Giáo và hôm nay tôi là một Linh mục Công Giáo đang đứng trước mặt bà.

Tôi liếc nhìn tấm bảng ghi tên tuổi của bà cụ treo ở đầu giường, tôi biết được
bà cụ đã 98 tuổi. Tôi liền hỏi bà là tại sao bà lại muốn gặp vị Linh mục Công
Giáo. Sau một lúc lâu với những câu nói cắt quảng, bà cụ kể tiểu sử đời bà. Bà
từng là một nữ học sinh của một trường Công Giáo. Tại trường bà đã được một nữ
tu dạy trong suốt ba năm trời. Và khi bà 17 tuổi bà đã được chịu phép Rửa Tội
gia nhập Giáo Hội Công Giáo. Bà nói: „Con đã được nhận lãnh nước thánh và
tiếp sau đó là bánh thánh của Chúa
.“ Nhưng sau đó, bà lập gia đình, và theo
truyền thống xưa kia ở Nhật thì việc lập gia đình là do gia đình dàn xếp, cha
mẹ đặt đâu con ngồi đó. Và chồng bà là một thầy Sãi coi giữ một ngôi chùa ở
trên miền núi cao hẻo lánh. Thế là bà phải sống trong ngôi chùa, hằng ngày lau
dọn trong chùa, chăm sóc các ngôi mộ và trong ngày cầu siêu cho các vong linh
bà phải chu tất công việc hương khói. Chồng bà biết bà là người Công Giáo nên
ông vẫn để bà được tự do đi nhà thờ, nhưng ở khắp miền đó không hề có ngôi nhà
thờ nào cả. Và sau đó bà sinh con, nhưng chẳng bao giờ bà có thể đi nhà thờ
được. Và cuộc đời bà cứ trôi qua như thế trong suốt 70 năm trời. Sau đó, lần
lượt chồng bà và tất cả các con bà đều qua đời, và một vị Sư khác đến trụ trì
ngôi chùa nên bà bó buộc phải rời bỏ ngôi chùa và đến ngụ tại viện dưỡng lão
này.

Tôi hỏi bà là trong bao nhiêu năm dài như thế có khi nào bà nghĩ đến Thiên Chúa
của các Kitô hữu không thì bà đăm đăm nhìn tôi một cách lạ thường và cố sức đưa
cánh tay phải khẳng khiu ra khỏi tấm mền đang đắp trên người bà, giơ lên cho
tôi xem Tràng chuỗi Mân Côi bà đang cầm trong tay. Bà nói: „Trong bao nhiêu
năm trời, chưa một ngày nào mà con không mang Chuỗi tràng hạt Đức Bà trên
người, hoặc con cầm trong tay hay bỏ trong túi, hằng ngày và nhiều lần trong
ngày con đã lần hạt Mân Côi. Con đã hằng ngày lần hạt Mân Côi cầu Chúa cho con
trước khi chết được gặp một vị Linh mục Công Giáo để ngài mang cho con bánh thánh
của Chúa
.“

Nói xong, bà cụ bắt đầu cầu nguyện. Bà đọc Kinh Lạy Cha và Kinh Kính Mừng
Maria. Trong khi bà cụ cầu nguyện như thế thì tôi liền ban Bí tích Xức Dầu cho
bà, vì xem chừng sự sống của bà không còn kéo dài bao lâu nữa, chỉ còn được
tính bằng phút bằng giây mà thôi. Quả thật, khi tôi chưa hoàn tất các nghi thức
Xức Dầu, thì bà cụ trong khi đang lâm râm cầu nguyện Tràng chuỗi Mân Côi đã nhẹ
nhàng trút hơi thở cuối cùng trong an bình. Chắc chắn linh hồn bà đã được Mẹ
Maria sai các Thiên Thần đón về Trời để thưởng công cho lòng trung thủy gắn bó
của bà với Mẹ qua Tràng chuỗi Mân Côi.

Câu chuyện bà cụ già người Nhật Bản trên đây đã hùng hồn khẳng định rằng „chưa
hề có ai cầu khẩn Mẹ Maria mà Mẹ không nhận lời và để ra về tay không“. Vâng,
Mẹ Thiên Chúa sẽ không bao giờ quên sót bất cứ ai luôn gắn bó với Mẹ bằng Tràng
chuỗi Mân Côi. Mẹ sẽ cứu vớt họ khỏi bị hư mất đời đời. Lời hiệu triệu năm xưa
của Mẹ tại Fatima „Các con hãy siêng năng lần hạt Mân Côi“ vẫng còn vang
vọng mãi trong mọi tâm hồn.

„Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay
và trong giờ lâm tử. Amen“

( Trích trong: Die schönsten Mariengeschichten, Heft 16, Miram-Verlag
Jestetten
)

Anh chị Thụ & Mai gởi

PHẬN NGƯỜI

PHẬN NGƯỜI

Tác giả: Lm. Anmai, C.Ss.R.

Dù muốn kéo cho người thân của mình ở lại lắm nhưng cái phận người mong manh phải
ra đi. Nay người – mai ta : đó là quy luật của cuộc sống và chẳng ai có thể ra khỏi cái quy luật của phận người nghiệt ngã.

Trời se lạnh, lòng ngậm ngùi cùng chia tay với người bà, người vợ, người mẹ rất thân
thương của gia đình. Bà ra đi ở cái tuổi cũng khá cao : 75. Con cháu cũng đã cố
gắng chữa chạy nhưng hơi tàn sức yếu của phận người không giữ bà ở lại được cho
dù lòng rất muốn.

Vì Thánh Lễ xong sớm nên đoàn xe tang đưa bà đến sớm hơn cả. Đang cử hành nghi
thức tiễn biệt bà lần cuối thì dập dìu nhiều đoàn xe tang chạy đến. Tuần tự,
chẳng ai bảo ai và cứ theo tiếng lệnh của những người có trách nhiệm, những
chiếc áo quan dù gỗ sang gỗ quý hay chỉ là cỗ quan tài bằng nhựa cũng sẽ trở
thành tro bụi.

Nhìn bảng lịch trình thiêu đốt, đầy ắp những tên tuổi mà chốc lát nữa đây hay trong
ngày này cũng trở về với bụi đất bởi lẽ con người cũng từ bụi đất mà ra. Một
ngày, có bao nhiêu kẻ sinh thì cũng có bấy nhiêu người tử chứ nếu như không có
tử thì quả đất này làm sao mà chịu cho nổi.

Chưa đầy một tuần, lại một người thân thương nữa cũng phải đến nơi mà chẳng ai muốn
đến cả. Cụ già 91 tuổi cũng phải ra đi để lại cho con cháu một nỗi trống vắng
vô hạn.

Chia tay cụ già và rời khỏi trung tâm hỏa táng khi trời còn chưa sáng. Ngại ngần sợ
phiền lòng nhưng bạn bè cũ vì tình vì nghĩa rủ nhau đến viếng Mẹ. Khói nhang
bay vút quyện cả tình mẹ lẫn tình con. Bạn bè xưa cũ cách đây gần 20 năm tiễn
Mẹ giờ đây lại quây quần bên Mẹ. Nén hương lòng và lời nguyện thầm xin ơn Mẹ
phù giúp.

Trên đường ra khỏi nghĩa trang vẫn nhiều đoàn xe dập dìu nhau đưa đến

Trở về tu viện nhưng hình ảnh của những người thân vẫn đâu đó. Có thể là cách đây
gần hai mươi năm như Mẹ và gần đây nhất là người nà người mẹ trong gia đình
thân hữu và sáng nay người cha, người bố của anh bạn nhưng rồi cũng phải ra đi.

An toàn trong ngôi phòng nhỏ bé nhưng vẫn không quên rằng phòng cạnh bên hay đâu
đó trong khu hưu dưỡng này là những anh em đang chờ đợi. Chẳng biết được ai còn
bao nhiêu lâu cả bởi lẽ tất cả đều nằm trong lòng bàn tay của Chúa. Về đây để
được cảm nghiệm sớm hơn phận người mong manh là thế.

Được tin một cha già chánh xứ đã miệt mài lo cho tín hữu vừa mới đổ bệnh. Ngài kể
lại chứng bệnh nhũn não của ngài một cách rành rọt. Người thân thương ruột thịt
nay không còn ở cạnh cha già nữa để ngài tá túc trong căn phòng nhỏ của tu
viện. Những ngày này, tình thương mà ngài đón nhận đến từ các nữ tu cũng như
những người ngài đã hơn một lần nâng đỡ. Con cháu tinh thần của ngài chia nhau
đến lo cho cha già những ngày đau bệnh.

Nhớ đến cha, nhìn lại anh em phần nào được chút tình ấm áp bởi lẽ khi về già hay
đau bệnh anh em lại được trở về với ngôi nhà của Mẹ. Mẹ Nhà Dòng không bao giờ
bỏ một anh em nào mà không chăm sóc cho dù đồng tiền có đôi khi eo hẹp. Và dù
thế nào đi chăng nữa, vẫn đi theo con đường của Cha Thánh tổ phụ Anphong là
luôn luôn lo cho anh em khi đổ bệnh.

Ai nào đó một ngày hay ít là một khoảng thời gian nào đó về với những người già
đau yếu bệnh tật và có một chút nào đó lắng đọng của cuộc đời sẽ chân nhận ra
phận người. Dù quyền cao chức trọng, dù sang hèn cách mấy cuối cùng cũng trở về
cát bụi. Nghĩ như thế, xác tín như thế để tất cả cũng chỉ là phù vân. Chuyện
quan trọng của phận người là làm sao tìm được nguồn ơn cứu độ sau cuộc đời khá
vắn này.

Phận người là như thế đó để khi nghĩ đến con người bớt đi một chút cái tham sân si,
bớt đi một chút cái tranh giành để cho lòng nhẹ lại.

Hãy nhìn đến đoạn cuối của cuộc đời đặc biệt là quãng đường đau bệnh để lòng nhẹ
hơn khi ta hành xử với anh chị em đồng loại.

Hãy sống như hôm nay là ngày cuối của đời ta trong cái cõi tạm vô thường này.

Anmai, CSsR

XÂY DỰNG HẠNH PHÚC GIA ĐÌNH: GIÁO DỤC LÒNG QUẢNG ĐẠI CHO CON CÁI

XÂY DỰNG HẠNH PHÚC GIA ĐÌNH: GIÁO DỤC LÒNG QUẢNG ĐẠI CHO CON CÁI

LM ĐAN VINH
nguồn: conggiaovietnam.net

1. LỜI CHÚA: Chúa phán: “Anh em hãy cho thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong
cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì
anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy”
(Lc 6,38).

2. CÂU CHUYỆN:

Bé Tâm 3 tuổi, mỗi khi đến trường đều mang theo một vài món
đồ chơi yêu thích và giữ khư khư món đồ chơi ấy, không muốn cho các bạn khác
mượn hay cùng chơi chung, dù nhiều lần cô giáo đã nhắc nhở bé và dạy bé cần
biết quảng đại chia sẻ đồ chơi với chúng bạn, nhưng bé vẫn không chấp nhận với
lý do: “Đồ chơi đó của con, mẹ đã mua cho con!”. Hậu quả là các bạn nhỏ khác
trong lớp dần dần không thích chơi với bé Tâm nữa.

3. SUY NIỆM:

1) Ích kỷ là thái độ biểu hiệu tinh thần ấu trĩ:

Theo các chuyên gia tâm lý: hầu như ai trong chúng ta cũng
ít nhiều ích kỷ, thể hiện qua hành động ngay từ bé đã bảo vệ quyền lợi của mình
và ít muốn chia sẻ những gì của mình cho người khác. Nhưng khi lớn lên, nhờ
được giáo dục từ trong môi trường gia đình đến nhà trường và ra ngòai xã hội…
chúng ta sẽ dần dần học tập lọai trừ thói xấu ích kỷ để biết quan tâm phục vụ
tha nhân. Thái độ nghĩ đến người khác được coi là thước đo về mức độ trưởng
thành nhân cách của một con người. Những ai chỉ biết nghĩ đến mình sẽ bị xã hội
đánh giá là người ấu trĩ dù đã lớn tuổi … đang khi người nào dù ít tuổi mà biết
ứng xử vị tha sẽ được kính trọng là trưởng thành nhân cách. Ai quên mình hy
sinh cả mạng sống cho quê hương sẽ được tôn vinh là anh hùng dân tộc, và những
tín hữu sẵn sàng chịu chết vì đức tin sẽ được Hội thánh tôn vinh lên hàng thánh
nhân tử đạo.

2) Ích kỷ sẽ trở thành tội ác nếu không được uốn nắn kịp thời:

Người ích kỷ uôn nghĩ về mình, vơ vào cho mình những quyền lợi vật chất và tinh thần. Họ chỉ nhìn thấy cái lợi trước mắt, mà không thấy cái hại lâu dài: hễ thấy điều gì có
lợi là lao đầu làm ngay bất kể hậu quả tốt xấu. Người ích kỷ cũng hay “suy
bụng ta ra bụng người” khi cho rằng ai cũng hám lợi như họ. Những hành
động hy sinh, nhường nhịn, quên mình vị tha phục vụ… đều chỉ là “giả dối”
mà thôi. Nếu không được uốn nắn từ bé, tính ích kỷ sẽ có nguy cơ biến tướng
thành “ích kỷ hại nhân”: Chỉ vì ích riêng mà làm hại người khác: Nhẹ
thì bôi bẩn ra ghế đá công viên để bắt khách phải vào ngồi trong quán của mình
như một số quán bên Hồ Tây Hà nội, hoặc rải đinh trên đường để xe bị thủng lốp
phải đến vá tại quán sửa xe của mình. Nặng thì đốt cháy kho hàng hay đánh chìm
cả một con tàu để phi tang số hàng đã đánh cắp…

Các bậc cha mẹ trong gia đình cần giúp con em lọai trừ thói
ích kỷ và tập cho con tính quảng đại chia sẻ ngay từ thuở thơ ấu như sau:.

3) Bãy việc nên làm để tập cho con tính quảng đại:

1-Quan tâm giáo dục: Ở trẻ em, chia sẻ không phải là tính cách bẩm sinh mà được hình thành thông qua việc giáo dục của cha mẹ. Ngay từ khi trẻ còn nhỏ, cha mẹ nên lưu tâm dạy dỗ trẻ biết chia sẻ để sau này khi lớn lên chúng sẽ có thể sống nhân ái, chan hòa với bạn bè và xã hội.

2-Giúp trẻ phân biệt “nên và không nên”: Trước hết cha mẹ thầy cô giúp trẻ phân biệt những gì nên và những gì không nên chia sẻ cho chúng bạn: Chẳng hạn: khăn mặt, bàn chải đánh răng… là những đồ dùng cá nhân, sẽ không tốt khi dùng chung. Những thứ bé nên biết chia sẻ như: đồ chơi, kẹo bánh, truyện tranh… Đối với trẻ em lớn hơn thì dạy chúng biết cảm thông với chúng bạn gặp khó khăn về tài chánh, hoặc giúp nhau ôn tập bài vở…

3-Cần làm gương sáng: Để trẻ biết chia sẻ, trước hết cha mẹ cần nêu gương sáng. Chẳng hạn: Hãy năng chia sẻ bằng việc cho con quà bánh, năng dùng từ “chia sẻ” để diễn tả việc mình đang làm.

4-Tập từng việc nhỏ: Khi con đang ăn bánh hay kẹo, mẹ có thể gợi ý: “Con hãy chia cho mẹ 1 cái nhé”. Nếu bé không muốn cho, thì hãy nhắc bé: “Con có nhớ lần trước con đã vui thế nào khi mẹ cho con hộp kem không? Giờ mẹ cũng sẽ rất vui nếu con cho mẹ một cái kẹo của con”. Trước tình huống này, bé sẽ hiểu rằng sự chia sẻ sẽ làm cho người khác được
vui. Nếu bé quảng đại chia sẻ thì người khác mới sẵn sàng chia sẻ với bé và
ngược lại. Mẹ cần cho bé thấy: ở lớp học việc chia sẻ sẽ giúp bé có thêm nhiều
bạn thân hơn.

5-Khen thưởng đúng lúc: Mỗi khi bé biết chia sẻ, mẹ nên động viên đúng lúc. “Hôm trước mẹ rất vui khi con cho bạn Thanh mượn đồ chơi xếp hình, mẹ thấy con và bạn ấy chơi với nhau rất vui và hai đứa đã xếp được nhiều hình đẹp”. Như vậy, bé sẽ nhớ rằng, hành động cho mượn đồ chơi làm cho mẹ vui, còn bé cũng sẽ vui hơn khi có bạn cùng chơi chung.

6-Cương quyết kiên nhẫn: Nếu bé vẫn tranh giành đồ chơi với bạn, mẹ hãy tỏ ra cương quyết và cứng rắn hơn bằng cách đưa ra hai điều để bé tự chọn: “Con sẽ cho bạn mượn chiếc xe lửa đó hay để mẹ sẽ cất nó đi!”. Bạn chớ nản lòng khi thấy con bạn chưa thay đổi được bao nhiêu. Hãy kiên nhẫn chờ đợi và tin chắc rằng: Sớm muộn gì con bạn cũng sẽ thay đổi. Tuyệt đối không nên đánh mắng con nếu bé chưa hành xử tốt. Sự la mắng đánh đòn sẽ chỉ làm cho con bạn thêm ương ngạnh bướng bỉnh mà thôi.

7- Xin Chúa trợ giúp: Giáo dục là việc bổn phận cha mẹ phải làm hằng ngày. Tuy nhiên nếu muốn cho việc giáo dục đạt kết quả tốt thì cha mẹ đừng quên cầu nguyện. Hãy năng cầu xin Chúa ban cho con bạn tập được đức tính quảng đại chia sẻ để nên con ngoan của Chúa Cha, nên môn đệ của Chúa Giê-su và trở thành anh chị em của mọi người.

4.THẢO LUẬN: Bạn đánh giá thế nào về bảy việc cha mẹ nên làm nói trên, để giúp con
biết quảng đại chia sẻ cho tha nhân ngay từ khi chúng còn nhỏ dại?

5. LỜI CẦU:

Lạy Chúa. Xin giúp chúng con biết ý thức tầm quan trọng phải
tập luyện tính quảng đại cho con cái chúng con. Xin cho chúng con biết nêu
gương sáng và kiên nhẫn dạy dỗ con cái bắt đầu từ những việc cụ thể, và biết
năng cầu xin Chúa ban ơn lành cho con cái chúng con. Nhờ đó chúng sẽ dần dần
trở nên con thảo của Chúa Cha trên trời, nên môn đệ thực sự của Chúa Giê-su, và
nên anh chị em của mọi người trong gia đình Hội Thánh.- AMEN.

LM ĐAN VINH\ (Hiệp Hội Thánh Mẫu).

GIỜ CỦA CHÚA

GIỜ CỦA CHÚA

Chúa Nhật 2Thường niên C

(Isaiah 62:1-5; Corinthians 12: 4-11; John 2: 1-11)

Nguyễn Tiến Cảnh, MD

Chúa Nhật trước, chúng ta đã suy niệm về ý nghĩa chúa Giêsu chịu phép rửa ở sông Jordan và những  cam kết của chúng ta khi chịu phép thanh tẩy. Hôm nay chúng ta bàn về tiệc cưới Cana . Câu chuyện tiệc cưới Cana (Ga 2:1-11) là một biểu hiện vinh quang của Thiên Chúa, tiếp tục chủ đề về lễ Hiển Linh và Phép Thanh Tẩy mà ta có thể gọi là lễ khánh thành sứ mạng của chúa Giêsu ở trần thế.

Trong bản kinh chiều ngày lễ  Hiển Linh nêu ra ba màu nhiệm thánh: “Hôm
nay ngôi sao dẫn đường cho ba nhà đạo sĩ đến viếng hài nhi Giêsu; hôm nay nước
biến thành rượu trong tiệc cưới; hôm nay Chúa Giêsu muốn ông Gioan làm phép rửa cho Chúa ở sông Jordan để mang ơn cứu độ cho muôn dân.”
Mỗi biến cố đều có
dấu chỉ riêng, chứng tỏ có sự can thiệp của Thiên Chúa: Ba Vua, Ánh Sáng chiếu rọi, Ngôi sao, Nước hoá Rượu, Tiếng Nói phát ra từ trời và hình chim Bồ Câu.

Câu chuyện tiệc cưới ở Cana là một biến cố có thực trong đời của chúa Giêsu, đã được ngòi bút điêu luyện của Gioan thánh sử vẽ lại trong một khung cảnh với cấu trúc lớp lang đầy ý nghĩa biểu tượng. Chúng ta thấy nước trở thành rượu, một vật bình thường trở thành phi thường. Phép lạ tại Cana này khởi đầu thời đại ngôn sứ. Phép lạ nói
trước cho mọi người biết cách thức Chúa Giêsu sẽ hoàn thành sứ mạng của Ngườic
đổ máu chết trên thập giá.

NHỮNG ĐIỂM CHÍNH CỦA CÂU CHUYỆN

Để ý những điểm chính của  câu chuyện này, chúng ta thấy đây là câu chuyện được kể duy nhất bởi thánh Gioan, không thấy trong các phúc âm thư khác. Danh từ “dấu hiệu” (semeion) là một biểu tượng từ mà thánh Gioan dùng để chỉ hành động phi thường của chúa Giêsu. Thánh Gioan lúc đầu thích dùng từ này ở số nhiều (semeia) để chỉ: Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử loài người bằng một cách thức mới qua đức Giêsu. Ở Cana, biểu tượng và thực tế gặp nhau: Tiệc cưới của hai bạn trẻ là cơ hội để
nói về một cuộc hôn nhân giữa chúa Kito và Giáo Hội sẽ được thực hiện trong “giờ
của ngài”
trên thập giá. Ở Cana tại Galilée, chúng ta bắt gặp dấu hiệu đầu
tiên khi chúa Giêsu chứng tỏ vinh quang của Ngài để cho các môn đệ tin theo.

MẸ CHÚA GIÊSU

Khách chính trong tiệc cưới này không phải chỉ có một mình Chúa Giêsu mà còn có cả mẹ Người là đức Maria và các môn đệ (Ga 2:1-2). Ở đây, trong Tin Mừng Gioan, không bao giờ ta thấy đức Maria được chúa Giêsu gọi là mẹ. Tước hiệu “Bà” đã được chúa Giêsu dùng để chỉ mẹ Maria là cách nói bình thường lịch sự, nhưng không được công nhận, để chỉ mẹ của một ai đó (coi Ga 19: 26 để thấy tiếng Bà và tiếng Mẹ ám chỉ đức Maria).

Đức Maria luôn luôn là một biểu tượng. Nhiệm vụ của mẹ là hoàn tất ơn gọi của các môn đệ. Mẹ là môi giới, dấu chỉ để cho các môn đệ thấy mà tin. Lời mẹ nói với những người giúp việc trong tiệc cưới: “Hãy làm theo những gì Người bảo” (Ga  2:5) là một mời gọi tất cả mọi người hãy trở nên tân dân của Thiên Chúa. Ở cả Cana lẫn đồi Calvary, theo thánh sử Gioan, mẹ Maria không chỉ là hiện thân của một hiền mẫu và liên hệ huyết thống mẹ con với chúa Giêsu, mà còn đóng vai trò biểu tượng cao quí của một “Bà và Mẹ” của thần dân Thiên Chúa.

Trả lời yêu cầu của mẹ Maria, chúa Giêsu đáp: “Giờ của con chưa đến”. Nói một cách khác là giờ biểu lộ vinh quang của Người chưa đến. Giờ đó sẽ xẩy ra trên thập giá ở Calvary . Nhưng lời chúa nói với mẹ không phải chỉ hiểu theo nghĩa đen của câu chuyện rượu và nước trong tiệc cưới, mà còn phải hiểu một cách khác nữa. Phép lạ biến nước thành rượu có nghĩa là giao ước cũ giữa Trời và Đất sẽ đổi mới hoàn toàn.
Lời mẹ Maria nói với Con mẹ đã biến đổi hẳn tình huống buồn bã lo âu thành vui
mừng khôn tả. Lời Chúa Giêsu nói với những người giúp việc trong tiệc cưới đã
trở thành phép lạ thực sự.

“GIỜ” CỦA CHÚA. KHI CRONOS BIẾN THÀNH KAIROS

Tiếng “GIỜ” trong câu chuyện tiệc cưới ở Cana có một ý nghĩa quan trọng đặc biệt. Trong Tân Ước, chữ giờ của tiếng Hy Lạp là “hora” thường được dùng để chỉ kairos hơn là cronos: “Giờ (hora) đã đến và chính lúc này là giờ những người thờ phượng đích thực” (Ga 4:23-24). Chữ giờ/Hora được dùng khá nhiều trong những câu chuyện Tin Mừng nói về những việc lạ lùng và phi thường như chữa lành bệnh hiểm nghèo, và trong những trường hợp như vậy thì thường được đổi thành từ “ngay tức thì”. “Giờ” mà Chúa Giêsu nói ở tiệc cưới Cana là giờ khổ nạn, giờ Chúa chịu chết,
sống lại và lên trời (
Ga 13: 1).

“Cronos” là thời gian chỉ những sự việc xẩy ra bình thường và cho ta cảm tưởng là ta có thể điều khiển được nó, nhưng thường là sai lầm. Chúng ta có thể ghi chúng vào trong Blackberries, IPhones và sổ tay với ngày tháng, giờ phút cùng biến cố theo cách
thức riêng của ta. Còn Kairos biểu hiện sự đứt đoạn khi có trở ngại bất ngờ
khiến ta phải thay đổi chương trình cho thích hợp với thực tế. Giờ của chúa
Giêsu, giờ đã định của Người hay khoảnh khắc “kairos” hiện ra ngoài dự định
hoặc trước khi Người muốn. Dĩ nhiên Chúa đã có trong đầu chương trình của Chúa.
Hoàn cảnh đã thúc đẩy Người phải đi theo một lối khác.

TIỆC CƯỚI Ở CANA

Có nhiều cách cắt nghĩa các biểu tượng trong câu chuyện Tin Mừng này. Một là coi câu chuyện như hai quang cảnh đối nghịch nhau giữa điều mà chúa Giêsu làm và sự bất toàn của Do Thái giáo. Theo quan niệm này, thì Do Thái giáo tự nó đã khô héo, tàn rụi, trở nên trống rỗng, sơ cứng và kiệt quệ rồi. Kitô giáo tức rượu ngon phải thay
thế Do Thái giáo là nước lã.

Cách cắt nghĩa thứ hai là nỗi vui mừng vì vương quốc Thiên Chúa xuất hiện. Chúa Giêsu đã có cơ hội loan báo cho những người đang tụ họp nhân dịp vui của hai họ. Việc tỏ lộ của Chúa biến thành một cuộc họp trong cuộc họp, tiệc liên hoan trong tiệc liên hoan, một cuộc hôn nhân trong cuộc hôn nhân. Viễn cảnh này dựa vào truyền thống Do Thái coi tiệc cưới là thời gian thánh. Bài đọc I hôm nay theo Iasiah 62 bắt
đầu bằng một ẩn dụ lễ cưới. Thánh ý Chúa đã nhất định là đất Judah không còn là
nơi hoang vu, đơn độc bị bỏ rơi, vì Judah sẽ là hôn thê thánh thiêng của Israel
, không phải của ai cả.

Cách diễn nghĩa thứ ba có lẽ là cách khá hay và sâu sa nhất, cho chúng ta thấy cách thức đứt đoạn của thời gian “cronos” để trở thành biến cố của thời gian “kairos”. Chúa Giêsu đã tính trước và chờ đợi giờ của Người để Người có thể xác định và điều khiển. Thay vào đó, “giờ / hora” của chúa lại đến với chúa một cách bất ngờ, ngoài dự tính, đặt Người vào nhiều cảnh huống khó sử khác nhau, ngay cả do chính mẹ Người nữa !

Chúa Giêsu đã tạo một bộ mặt mới cho buổi tiệc cưới này ở Cana . Người không cung cấp rượu ngon lúc tiệc khởi đầu khi khách còn tỉnh táo chưa say, nhưng lại cho vào lúc mọi người đã ngà ngà ngất ngư. Theo thánh Gioan, Chúa Giêsu đã để dành rượu tốt đến giờ phút chót và bấy giờ vinh quang của Người mới tỏ lộ (Ga 2:10). Đây chính là một biểu lộ được hiểu như là Lễ Hiển Linh mà sau này Giáo Hội ăn mừng trọng thể gọi là Lễ Ba Vua / Lễ Hiển Linh vào ngày 6 tháng Giêng hàng năm. [1]

NHỮNG GIÂY PHÚT ĐỘT PHÁ

Trong cuộc sống cá nhân và  cộng đồng, trong nhiều công tác mục vụ của xứ đạo hay đoàn thể cũng như công việc cá nhân hàng ngày, chúng tôi thường để dây dưa ngày này qua ngày khác, sống với nỗi niềm vô vọng, đều đều và phẳng lặng, nặng nề và uể oải, dửng dưng và vô cảm. Chúng tôi bị khóa chặt vào thời gian “cronos”, không thể nghe thấy tiếng Chúa mời gọi chúng tôi vượt thoát khỏi những giây phút tầm thường khốn khổ và ích kỷ ấy để bước vào cuộc sống mới khác thường và đặc biệt. Thiên Chúa
mời gọi chúng ta để cho Người đổ tràn đầy tâm trí chúng ta, những bình đựng của
chúng ta bằng rượu mới là sự hiện diện của Thiên Chúa. Một khi chúng tôi lắng
nghe tiếng Chúa kêu gọi và làm bất cứ điều gì Chúa biểu, thì những cái tầm thường
của cuộc sống chúng tôi tức khắc biến thành đặc biệt và phi thường, bình rỗng
hay bình nước lã sẽ đầy tràn với rượu mới ngon lành. Chúng ta sẽ trở thành ngày
lễ hội thực sự.

Đoạn Tin Mừng nói về tiệc cưới Cana đã chỉ cho đôi tân lang ấy cách thức tránh đừng để rơi vào tình trạng này hoặc phải thoát ra khỏi nó nếu đã bị tù hãm trong tình trạng ấy. Hãy mời Chúa Giêsu đến dự tiệc cưới của bạn! Nên nhớ rằng điều xẩy ra ở đám cưới Cana cũng có thể xẩy ra với bất cứ một đám cưới nào khác. Nó bắt đầu với những tiếng cười rộn ràng hân hoan thoải mái, biểu tượng của rượu nồng, nhưng cuộc hồ hởi
sơ khởi ấy giống như tiệc cưới ở Cana đi qua quá mau đến lúc tàn với lo âu hối
tiếc, để rồi khi tình yêu không còn, niềm vui đã hết, chỉ còn buồn tẻ với ưu
phiền, trống rỗng. Còn về gia đình, nếu chúng tôi không cẩn thận, nó sẽ giống
như đám mây chiều buồn thảm và cô đơn trước cơn bão tố sắp tới. Với những cặp
vợ chồng như vậy thì đúng là đám cưới của họ không còn rượu nữa. Lễ cưới chỉ có
một hay hai ba ngày, nhưng hôn nhân là cả một đời người.

ĐÔI LỜI KẾT

Câu chuyện Tin Mừng đầy ánh sáng chan hòa rực rỡ này không có chủ đích nói về việc mẹ Maria can thiệp vào tiệc cưới, cũng không phải lời Chúa Giêsu trách mẹ Maria. Câu chuyện kết cục có chủ đích biểu lộ tình trạng lễ hội của một gia đình bình thường với vẻ vinh quang huy hoàng ẩn dấu của Con Một Thiên Chúa là đức Giêsu. Nó  không phải là cuộc chè chén say sưa trong những tiệc cưới của người Do Thái.Cũng không phải là những tiêu chuẩn hay nguyên tắc phải theo hoặc phong tục và luật lệ trong cuộc sống gia đình hay là những chuẩn mực hôn nhân. Cũng không phải Do Thái giáo thì suy tàn trống rỗng mà Kito giáo thì sung mãn đầy ắp.

Câu chuyện Cana thánh Gioan kể có chủ đích kêu gọi chúng ta suy nghĩ cẩn thận xem vị chủ bữa tiệc này khi ra lệnh “Hãy đổ đầy nước vào những bình này”, có thể làm cho tất cả những chuyện này trở nên mới trong cuộc sống của chúng ta không. “Giờ” của Người đến -tức lúc kairos hiện diện- là lúc những kế hoạch bị hỏng và cánh cửa
mở rộng mời đón Thiên Chúa vào giao thoa nhau. Đó là lúc bắt buộc chúng ta phải
hành động, nắm lấy thời cơ và chọn lựa như chọn giữa thiện và ác. Cana dạy cho
chúng ta biết đấng Thiên Sai của thế giới đã phải điều chỉnh chương trình của
Người khi những biến cố trở thành bất ngờ. Những việc xẩy ra cho chúa Giêsu như
trong câu chuyện Cana mà thánh Gioan kể nói lên tính uyển chuyển của đời sống
thiêng liêng tu đức. Thời giờ “cronos” của chúng ta có thể biến đổi như thế nào
để thành “kairos” -một khoảnh khắc thực của đột phá và hy vọng, của thề hứa và
khả dĩ ?

Chúng tôi hãy cầu khẩn Chúa  và Mẹ Maria biến chúng tôi thành những tôi tớ trung thành, sẵn sàng làm bất cứ điều gì mà Chúa biểu, và hăng say chia sẻ với tha nhân rượu Chúa cung cấp cho chúng tôi. Khi chúng tôi lắng nghe tiếng Chúa và làm theo lời Chúa biểu thì những điều bình thường trong cuộc sống chúng tôi sẽ trở thành phi thường, những  bình rỗng hoặc bình nước lã sẽ tràn đầy rượu mới ngon nồng, những giây phút cronos sẽ biến hóa thành kairos, và chúng ta trở nên những ngày hội thực của nhau và cho nhau.

Đừng ngần ngại, đừng sợ gian  khổ, đừng sợ tù tội, đừng sợ chết, đừng tránh né viện cớ này cớ nọ để không nghe tiếng gọi lương tâm là tiếng gọi của Chúa. Công bằng, Công lý, Nhân quyền,Tự do Tôn Giáo….thì trong hoàn cảnh nào, an
bình hay chiến tranh, được bảo vệ hay bị đàn áp truy nã cũng không bao giờ thay
đổi ý nghĩa. Nó là ông THIỆN. Kẻ nào đi ngược lại nó, chống lại nó là KẺ ÁC.
Chúng ta phải chọn Thiện, chống lại Ác. Leo lên mái nhà mà nói sự thật. Đừng
sợ. (Mt 10: 26-28)

Khi mà Thiện Ác giao thoa nhau thì đó là giờ Kairos xuất hiện, giờ của Chúa. Ta phải chọn Thiện đánh Ác.

Fleming Island, Florida

Jan. 16, 2013

NTC

Anh chị Thụ & Mai gởi

 

HÔM NAY, TÔI SẼ … …

HÔM NAY, TÔI SẼ …

Hôm nay,

Tôi sẽ không phản ứng lại,

nếu một ai đó thô lỗ,

nếu một ai đó không nhẫn nại,

nếu một ai đó không nhã nhặn.

Tôi sẽ không trả lời giống như cách của họ.

Tôi sẽ cầu xin Chúa chúc lành cho kẻ thù của tôi.

Nếu tôi gặp một ai đó

đối xử bất công hay khó khăn với tôi,

tôi sẽ cầu xin Chúa chúc lành cho người ấy.

Có thể người đó là người thân, hàng xóm, người cùng sở hay một người xa lạ.

Tôi sẽ lưu tâm đến những gì tôi nói.

Tôi sẽ cẩn thận chọn lựa lời nói.

Tôi sẽ không nói hành nói xấu.

Tôi sẽ tìm cách chia sẻ những đau buồn của người khác.

Tôi sẽ tha thứ tất cả những xúc phạm

hay những thiệt hại một ai đó gây cho tôi.

Tôi sẽ làm một việc tử tế cho một ai đó cách kín đáo.

Tôi sẽ đối xử với người khác như tôi muốn được đối xử.

Tôi sẽ thực hành châm ngôn

“làm cho người khác điều mình muốn người khác làm cho mình” (Mt 7:12).

Tôi sẽ nâng đỡ tinh thần của một ai đó đang thất vọng.

Một nụ cười tươi vui,

một câu nói thân thương,

một lời khuyến khích chân thành,

có thể tạo sự khác biệt nơi một ai đó đang nát tan trong cuộc sống.

Tôi sẽ chăm sóc thân thể.

Tôi sẽ tập thể dục

Tôi sẽ chọn ăn những thức ăn tốt lành.

Tôi cám ơn Thượng Đế đã cho tôi thân xác này.

Tôi sẽ nuôi dưỡng tinh thần.

Tôi sẽ cầu nguyện nhiều hơn tý nữa.

Tôi sẽ đọc đoạn sách nào đó tốt lành.

Tôi sẽ tìm nơi vắng vẻ để lắng nghe lời Chúa.

Today I Will …

Ẩn danh

Chuyển ngữ