Trong bài “Bất trắc và bất ngờ trong lịch sử ” đăng trên báo Dấn Thân, bộ 5 số 12 tác giả Linh Mục (1) Nguyễn Thái Hợp có viết: “Sau khi bị truất phế qua cuộc trưng cầu dân ý vào tháng 10 năm 1955 ông sống lưu vong tại Pháp.
Vào giai đoạn cuối đời ông sống đạm bạc ở Paris trong một căn hộ thuộc chung cư ở đường Fresnel, quận 16. Chung cư này nằm cạnh khu đồi của công viên Trocadero. Những ngày đẹp trời ông thường đi dạo chung quanh khu công viên Trocadero. Thỉnh thoảng cũng ghé vào nhà thờ Saint Pierre de Chaillot nằm gần đấy để thăm Linh Mục Argomathe, chánh xứ Chaillot, một chuyên gia về lịch sử, khởi đi từ những câu chuyện văn hóa và thời sự vô thưởng vô phạt. Cùng với thời gian, cuộc đàm đạo càng ngày càng đi sâu vào lảnh vực tư tưởng và tâm linh, đặc biệt về Kitô giáo. Cựu hoàng tìm gặp nơi niềm tin Kitô giáo ý nghĩa, niềm vui và lẽ sống ở đời. Chính vì vậy bất chấp ý kiến không đồng thuận của một số người, ông nhất quyết xin gia nhập Đạo Chúa. Ngày 17 tháng 4 năm 1988 ông chịu phép thanh tẩy tại nhà thờ Saint Pierre de Chaillot với tên Thánh là Jean Robert. Liền theo đó, ông chịu phép thêm sức và cử hành lễ hôn phối với bà Monique Baudot.
Năm 1995, chính Cựu hoàng Bảo Đại với tư cách là vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn và đồng thời là người Công giáo đã xin yết kiến Đức Giáo hoàng Gioan Phao lô II đã chính thức thay mặt nhà Nguyễn nói lên lời xin lỗi Chúa và Giáo hội.Trong lá thư đề ngày 31 tháng 03 năm 1995 gởi cho Giáo hoàng Gioan Phaolô II để xin yết kiến, Cựu hoàng đã viết: “Đây là dịp hạnh phúc cho chúng tôi được quỳ bên cạnh Đấng kế vị thánh Phêrô để cầu nguyện cho Việt nam và Giáo hội đang chịu đau khổ ở đó. Và qua sự kiện chúng tôi đã chịu phép thanh tẩy đem lại cho đồng bào chúng tôi niềm xác tín vào tình thương vô biên của Thiên Chúa qua Đức GiêSu Kitô, Đấng an ủi những người đau khổ. Ngày 24-6-1995 ông và phu nhân được Đức Gioan Phaolô II tiếp kiến riêng tại Vatican…
Linh mục chánh xứ Chaillot cho biết sau khi gia nhập đạo Cựu hoàng Bảo Đại rất ngoan đạo. Ông thường đến nhà thờ cầu nguyện và đặc biệt sùng kính Đức Mẹ Maria.
Cuối tháng 6 năm 1997 cựu hoàng Bảo Đại được đưa vào Quân Y Viện Val De Grace ở Paris. Ông từ trần lúc 5 giờ sáng ngày 31- 7- 1997 hưởng thọ 84 tuổi.
Thánh lễ an táng được cử hành tại nhà thờ Saint Pierre de Chaillot ngày 5 -8-1997 với sự chủ sự của Linh Mục Guyard, đại diện Hồng Y Giám Mục Paris. Bài “Magnificat” mà ông thích nhất một lần nữa đã trang trọng ngân vang trong thánh đường theo đúng ý nguyện của người quá cố.
(1) Hiện nay là Giám Mục, Chủ Tịch Uỷ Ban Công Lý và Hoà Bình của Hội đồng Giám Mục Việt Nam.
Thần học gia Hans Urs von Balthasar (1), người Thụy Sĩ, là khí cụ giúp ông Ilyas Khan đã tìm thấy đức tin Công giáo nhờ khoa Địa lý và Thần học. Ilyas Khan là người Anh, có lòng từ tâm và là tín đồ Hồi giáo. Nhưng có quá nhiều ảnh hưởng Công giáo rõ rệt, “kéo” ông đến với đức tin hơn là “đẩy” ông xa rời Hồi giáo.
Ông Khan là một giám đốc ngân hàng thương mại được đào tạo bài bản, là ông bầu đội bóng đá Accrington Stanley, và là chủ tịch Hội từ thiện Khuyết tật Leonard Cheshire – tổ chức lớn nhất thế giới chuyên giúp người khuyết tật. Trong cuộc trả lời phỏng vấn với ký giả Edward Pentin của báo Register Rome, ông Khan giải thích chi tiết về những gì đã đưa ông đến với Giáo hội Công giáo.
Điều gì đem ông đến với niềm tin tôn giáo? Có điều gì đó trong Hồi giáo, có thể lòng sùng kính Đức Mẹ trong Hồi giáo đã giúp ông gia nhập Công giáo?
Có và không. Lòng sùng kính Đức Mẹ về phương diện cá nhân là một phần lớn của đức tin, nhưng đồng thời, tôi biết điều đó không là gì đối với việc nuôi dưỡng tôi thành một tín đồ Hồi giáo. Những bước thăm dò đầu tiên của tôi đến với Công giáo đã có từ khi tôi còn thơ ấu. Lúc đó mẹ tôi rất bệnh hoạn, nên tôi được bà tôi nuôi dưỡng từ lúc tôi mới 3 hoặc 4 tuổi. Bà tôi là người Công giáo Ai-len. Tôi đi học trường của nhà thờ, khi bắt đầu đi học tôi không nghĩ mình là một Kitô hữu.
Tôi cũng nhờ được nuôi dưỡng ở Lancashire, trên vùng Pennines và gần Ribble Valley. Nếu đã từng có khu trung tâm Công giáo ở Anh, thì hẳn là vùng đó – khu chưa bao giờ có Cuộc Cải Cách (Reformation).
Từ đó, khi tôi vào đại học, Chúa quan phòng đã can thiệp lần thứ hai, và tôi ở Nhà Netherhall, phòng của sinh viên Hội Opus Dei (2) ở London. Nhưng giữa khoảng 4 tới 17 tuổi, tôi được giáo dục thành một tín đồ Hồi giáo trong một gia đình Hồi giáo. Tôi đến Đền thờ Hồi giáo, học kinh Quran. Nhưng tôi nghĩ không có lĩnh vực nào của Hồi giáo có thể khiến tôi thành người Công giáo.
Ở Nhà Netherhall lúc đó có ảnh hưởng khiến ông có đức tin?
Có, rất nhiều. Tuy nhiên, lúc đó tôi không nghĩ mình có can đảm để chuyển đạo hoặc được nhận vào Công giáo, hoặc thậm chí chỉ là được hướng dẫn chính thức. Sự bội giáo là cái gì đó mà Hồi giáo coi là rất quan trọng. Trong mắt của rất nhiều người, bỏ Hồi giáo thực sự là tội đáng tử hình. Thế nên Nhà Netherhall là một khí cụ. Tôi nhớ rất rõ là việc tôi thích cầu nguyện thực sự được hình thành từ đó, xung quanh tôi là những tấm gương sống động về một đức tin kỳ lạ.
Ông muốn nói ông đến với đức tin hầu như do tiềm thức?
Thực sự không. Tôi nghĩ tôi có đức tin hoàn toàn do ý thức. Khoảng 18 hay 19 tuổi, tôi lý luận và hỏi người lớn. Lúc đó tôi gặp một người thông minh tên là Hans Urs von Balthasar. Có một thư viện ở Nhà Netherhall, tại đây tôi bắt đầu đọc sách Thần học. Đó là nơi tôi tình cờ gặp Origen, và đó cũng là nơi tôi nghiên cứu và đánh giá cao các tác phẩm của Thánh Augustinô. Tôi rất ý thức nhưng tôi hơi quan ngại. Lúc đó cha Mẹ tôi vẫn sống, một phần vì tính cẩn trọng của tôi khiến tôi sợ làm cha mẹ tổn thương. Tôi không biết nói với cha mẹ thế nào khi tôi tốt nghiệp đại học, nhưng có thể “con người Công giáo” đã đến gần.
Điều gì khiến ông can đảm tới cùng?
Ngoại trừ Chúa Thánh Thần? Có cực điểm của hai thứ: Mức độ chắc chắn trong lĩnh vực luân lý của tôi, và nếu có sức đẩy tôi xa Hồi giáo thì đó là sức hút của Đức Kitô. Tôi không có ý nghĩ tiêu cực khi chuyển đạo. Yếu tố quan trọng khác là sự tham dự rất thường xuyên của tôi, hơn 10 năm ưu tiên cho việc được chính thức vào nhà thờ – Nhà thờ Thánh Giuse ở Hong Kong. Tôi đến sống ở Á châu và Hong Kong lúc khoảng 25 tuổi, đó là nơi tôi phát hiện mình bị thu hút bởi Công giáo truyền thống. Các hành động đơn giản của đức tin – nghi thức, phụng vụ và cầu nguyện chung – là những viên đá nền tảng.
Trong những năm dần dần tiếp cận đức tin, ông có nghĩ rằng đức tin Công giáo là đúng?
Có, mặc dù có thể hơi cường điệu. Lúc đó, khi tôn giáo là việc chính của tôi, rất khó phân biệt hành động nào có thể hoặc không thể được đức tin thúc đẩy. Tôi hy vọng mọi thứ tôi làm trong đời đều được đức tin thúc đẩy và hướng dẫn. Tôi trả lời câu hỏi của ông bằng cách hơi khác: Tôi chưa bao giờ nghi ngờ, từ lúc ngoài 20 tuổi trở đi, tôi là một Kitô hữu, và con đường tôi đến với Công giáo thực sự khá nhanh. Khi nhìn lại, tôi thấy hành trình chỉ mất 4 hay 5 năm. Tôi phải nói rằng Thần học gia Von Balthasar chính là người đã hướng dẫn tôi.
Chân phước Gioan Phaolô II và ĐGH Bênêđictô XVI có ảnh hưởng ông? Cả hai vị đó được gọi là “người theo phong cách Balthasar”.
Một câu hỏi thật thú vị. Tôi chưa bao giờ được hỏi như vậy. Hồng y Ratzinger, nay là Giáo hoàng, có phẩm chất là “người theo phong cách Balthasar”, và Chân phước Gioan Phaolô II đã nâng Balthasar lên thành một Hồng y. Dĩ nhiên, Chân phước Gioan Phaolô II có tầm ảnh hưởng ngoài sự tôn trọng dành cho Von Balthasar – sao lại không ảnh hưởng một con người vĩ đại như vậy chứ? Cũng như nhiều con người vĩ đại khác, chính Balthasar không chỉ là một nhà thông thái vĩ đại, mà còn thông suốt về mầu nhiệm đức tin là tâm điểm đời sống Kitô hữu. Kkhoảnh khắc đáng nhớ nhất xảy ra với tôi khi tôi ngoài 30 tuổi. Lúc tôi đi ngang qua tượng đài Pieta (Đức Mẹ ôm xác Chúa Giêsu) ở Quảng trường Thánh Phêrô, tôi nhớ mình đã bị thu hút bởi sự kết hợp của vài thứ một lúc. Ông hỏi tôi về mối quan hệ với Mẹ Thiên Chúa. Vâng, khoảnh khắc đó thực sự rất quan trọng. Điều đó có thể mô tả là một “bước ngoặt”.
Vẻ đẹp của bức tượngPietàđã tạo ấn tượng với ông?
Vâng, đúng vậy. Tôi nghĩ đó là Thiên Chúa, thực sự là Thiên Chúa. Phải nhớ rằng một trong những điều quan trọng là lúc chúng ta coi Hồi giáo truyền thống là tà thuyết – theo ý kiến của họ – coi Chúa Giêsu hay chết đồng đẳng với Thiên Chúa. Và nếu đã từng có trở ngại mà một người Hồi giáo chuyển đạo phải đồng ý, về trí tuệ và cảm xúc, hơn bất kỳ thứ gì khác, đó chính là điều đó. Lúc đó, trước tượng Pietà, tôi chỉ nhận biết qua cảm xúc, rằng chân lý của tôn giáo quá đơn giản và trực tiếp.
Ông muốn nói Chúa Giêsu không chỉ là tiên tri mà còn là Thiên Chúa?
Đúng vậy, lúc đó tôi nghĩ vậy. Tôi nhớ rất rõ, điều đó vẫn làm tôi muốn khóc – tôi không hề nghi ngờ gì. Rõ ràng là vậy. Tôi sợ rằng điều đó không thể để tôi nói rõ ràng cảm giác đó bằng ngôn ngữ. Nếu có khoảng khắc “trước” và “sau”, tôi có thể nói đó là điểm đến.
Sợ Hồi giáo kết tội bội giáo, đó có là điều ông thao thức vào ban đêm?
Không hề. Nó không làm tôi thao thức. Tuy nhiên, tôi có thể cho ông biết khi nào thích hợp: Theo nhiều cách khác nhau – qua bài báo, qua radio hoặc ti-vi. Tôi muốn có sự công bằng ở Anh, nơi tôi làm ông bầu của 1 trong 4 đội bóng nổi tiếng. Tôi mô tả theo tiêu chuẩn, chẳng hạn: “Người gia nhập Công giáo mới đây nhất”. Có nhiều khi tôi nhận được lời đe dọa của những người Hồi giáo hoặc các tổ chức Hồi giáo phản ứng các bài báo hoặc các cuộc phỏng vấn như thế này, tôi phải nói rằng các điều đó không bao giờ làm tôi mất ngủ. Tôi nhận những e-mail cả chia sẻ lẫn hăm dọa, nhưng tôi hy vọng sự xứng đáng và từ chối bị thu hút vào cách sống bị điều khiển bởi nỗi sợ hãi hoặc sự thận trọng không đáng có.
Ngược lại, điều tôi quan tâm là nơi gặp gỡ giữa Hồi giáo và Công giáo, Ở đó có một mức độ tương đồng.Thái độ của tôi là bày tỏ cho những người không Công giáo thấy vẻ đẹp, sự thuần khiết, sự kỳ diệu và đặc ân của việc trở thành người Công giáo. Tôi rất thẳng thắn và bình tĩnh đối với vấn đề này, và đó là sự phản ánh về đức tin của tôi.
Một số người chuyển đạo có thể rất tiêu cực đối với tôn giáo cũ của họ, nhưng ông có vẻ không như vậy.
Tôi thấy có lợi ích đối với lối sống giản dị. Ttôi nghĩ không có gì phức tạp trong đức tin, và như tôi đã nói, tôi “bị” lôi kéo tới niềm tin Kitô giáo chứ không “bị” đẩy xa khỏi Hồi giáo.
Tuy nhiên, tôi phải công nhận rằng tôi có nhiều nỗi buồn trong lòng khi tôi suy nghĩ về những người dùng Hồi giáo để thanh minh cho các hành động của họ. Các hành động này không chỉ phi Hồi giáo (un-Islamic) – họ không nhân đạo và không có gì để coi Hồi giáo là một tôn giáo. Buồn thay, hình như có nhiều người Hồi giáo coi tức giận và bạo lực là trực giác đầu tiên để phản ứng với bất kỳ thứ gì mà họ không đồng ý. Ngoài ra, tôi cảm thấy 2 tôn giáo, Hồi giáo và Kitô giáo, có thể được mô tả là “họ hàng xa”. Nnê nhớ tôi được giáo dục thành người Hồi giáo, tôi đã từng tới Thánh địa Medina và Mecca, và tôi có thể hiểu một số phẩm chất cố hữu. Nhưng chúng ta cũng phải công nhận rằng điểm khởi đầu, sự khác biệt giữa hai tôn giáo, rất bao la. Thế nên khi có những điểm tương đồng, và tôi có thể hiểu họ, thì họ không quan tâm lắm. …Tôi tôn vinh Đức Giêsu Kitô là Tình yêu. Một câu đơn giản. Đó là sự khác biệt hạn chế.
Và nói chung là rất đơn giản.
Đúng vậy, nhưng chúng ta gọi điều đó là “tình yêu”, chúng ta là những Kitô hữu quan tâm nhau tự đáy lòng của đức tin, đó là cuộc sống thực sự và phẩm chất hiển nhiên. Chúa Giêsu thực sự ở bên chúng ta. Chúng ta không cần phép ẩn dụ hoặc những khái niệm mập mờ về những gì tình yêu “có thể là” để gợi hứng hoặc thông báo cho chúng ta biết. Chúng ta được chúc lành nhờ Bí tích Thánh Thể và được nuôi dưỡng bởi lời bầu cử trực tiếp của Đức Mẹ qua sự hy sinh của Chúa. Theo đó, Thần học gia Hồng y Von Balthasar đã giúp thay đổi nền tảng của cuộc đối thoại về mối quan hệ giữa Giáo hội, Đức Kitô và Chúa Thánh Thần. Hồng y Von Balthasar đã tạo ra cách hiểu mới về ngữ nghĩa của “tình yêu” theo mạch văn tôn giáo. Do đó, tôi thực sự không thể nói nhiều về những điểm tương phản giữa Công giáo và các tôn giáo khác, chẳng hạn cứ là tín đồ Hồi giáo hoặc Ấn giáo, nhưng hãy xác định tính đơn giản không sai lệch về niềm tin của mình.
TRẦM THIÊN THU (Chuyển ngữ từ NCRegister.com)
(1) Linh mục Công giáo, sinh ngày 12-8-1905 tại Lucerne, qua đời ngày 26-6-1988 tại Basel. Ngài được tấn phong Hồng y và được coi là Thần học gia vĩ đại nhất của thế kỷ XX.
(2) Opus Dei là một hội của các tín hữu Công giáo dấn thân vào công tác tông đồ và sống đời hoàn thiện Kitô giáo trong thế giới. Tuy nhiên, họ không từ bỏ môi trường xã hội và tiếp tục sống nghề nghiệp của mình. Được thành lập tại Madrid (Tây Ban Nha) ngày 2-10-1928, người sáng lập là Đức ông José María Escriva de Balaguer (đã được phong thánh), hội nhận được sự chuẩn y sau cùng của Tòa thánh ngày 16-6-1950. Tên chính thức đầy đủ của hội là Societas Sacerdotalis Sanctae Crucis (Tu hội Linh mục Thánh giá), có trụ sở tại Roma, Ý. Có hai nhánh của hội Opus Dei, một dành cho nam và một dành cho nữ, nhưng hai nhánh độc lập với nhau như hai tổ chức riêng, chỉ thống nhất trong con người của vị Giám Quản chung. Nhánh phụ nữ được thành lập năm 1930. Một tổng công hội, gồm người của nhiều quốc gia, trợ giúp vị Giám quản trong việc điều hành hội. Các linh mục thuộc về Hội Opus Dei và thành viên của Hội Opus Dei được truyền chức linh mục. Những người đã kết hôn cũng có thể thuộc về Hội Opus Dei, tự hiến sống đời hoàn thiện Kitô giáo trong bậc sống của mình. Các cộng tác viên, không là thành viên chính thức của Hội, giúp đỡ trong nhiều công tác tông đồ khác nhau.
Bà Ngô Đình Lệ Quyên tử nạn lưu thông tại Roma
LM. Trần Đức Anh OP 4/17/2012
ROMA. Bà Ngô Đình Lệ Quyên, đặc trách phân bộ di dân thuộc Caritas Roma, đã tử nạn lưu thông ở Roma hôm 16-4-2012.
Bà Quyên khi còn nhỏ với Mẹ
và hình bây giờ
Bà Lệ Quyên năm nay 53 tuổi, là con gái của Ông Bà Ngô Đình Nhu. Lúc 8 giờ rưỡi sáng ngày thứ hai vừa qua trên đường đi vào Roma để làm việc, đến cây số thứ 12 ở đường Pontina, bà bị ngã xe gắn máy và một xe bus chở học sinh từ sau chạy tới và cán lên bà.
Đức Ông Enrico Feroci, Giám đốc Caritas Roma đã ra thông cáo bày tỏ đau buồn sâu xa về sự qua đời của Bà Ngô Đình Lệ Quyên, trong đó ngài viết: ”Bà Lệ Quyên là một gương mẫu. Trong bao nhiêu năm trời, bà hăng say chu toàn công tác bênh vực những người nghèo khổ và rốt cùng, với tất cả niềm tin. Hoạt động của bà đối với chúng tôi là một động lực giúp tăng trưởng về mặt nhân bản và chuyên nghiệp. Bà biết liên kết những năng khiếu con người, kinh nghiệm như một người tị nạn, với niềm tin sâu xa nơi Thiên Chúa, và lòng tôn trọng đối với con người. Với những lời khuyên và công việc không biết mệt mỏi, bà biết nhắc nhở chúng tôi rằng hoạt động của chúng tôi là cho người nghèo và những người kém may mén. Chúng tôi gần gũi với gia đình bà và cộng đoàn giáo xứ thánh Gregorio Barbarigo, nơi bà Lệ Quyên vẫn siêng năng tham dự thánh lễ Chúa nhật”.
Đô trưởng thành Roma, Ông Gianni Alemanno, đã gửi thư đến Đức ông Enrico Feroci, Giám đốc Caritas Roma, để chia buồn và nhắc đến bao nhiêu lần bà Lệ Quyên đã đối thoại với chính quyền để bênh vực quyền lợi của những người di dân.
Bà Ngô Đình Lệ Quyên sinh tại Sàigòn ngày 26-7-1959 và đến Italia vào năm 1990 với qui chế tỵ nạn. Từ tháng 12 năm 1992, đến tháng 11 năm 1996, bà phụ trách Trung tâm lắng nghe người ngoại quốc thuộc Caritas Roma. Tháng 12 cùng năm đó bà đặc trách phân bộ di dân của Caritas, với nhiệm vụ phối hợp và giám sát các dịch vụ cũng như các dự án nhắm giúp những người di dân nước ngoài, người tị nạn và nạn nhân những vụ buôn người, trong đó có các trung tâm lắng nghe, các cửa thông tin, trung tâm tiếp đón nam giới, nữ giới và các gia đình, vườn trẻ. Từ tháng 7 năm 2000 đến tháng 12 năm 2007, Bà Lệ Quyên cũng đặc trách việc điều hợp toàn quốc về tỵ nạn thuộc Caritas Italia và dự án tỵ nạn. Bà cũng là thành viên của Ủy ban di dân thuộc Caritas Âu Châu, và sau đó bà làm chủ tịch Ủy ban này. Từ tháng 6 năm 2009 Bà Lệ Quyên là chủ tịch phân bộ Italia của Hiệp hội nghiên cứu vấn đề người tị nạn trên thế giới, một tổ chức phi chính phủ và có tính chất quốc tế.
Bà Lệ Quyên không xin quốc tịch Ý, nhưng do công tác phục vụ nổi bật dành cho Italia, theo đề nghị của Bộ Nội vụ, Tổng thống cộng hòa Italia đã ban hành sắc lệnh cấp quốc tịch Ý cho Bà năm 2008. (Tổng hợp 16-4-2012)
Đọc Hồi ký củaGiáo Sư Vũ Quốc Thúc: Nhìn từ khía cạnh đời sống tâm linh.
tác giả: Phùng văn Phụng
Đọc xong cuốn “Thời Đại Của Tôi” “Đời Tôi trải qua các thời biến” do Người Việt xuất bản năm 2010, tôi đã nhìn thấy sự cố gắng phi thường, làm việc không mệt mỏi của Giáo Sư cùng với tấm lòng yêu mến quê hương đất nước thiết tha. Nhưng thời thế đã dẫn đưa con người tài năng hiếm có và có lòng với đất nước ấy phải rời bỏ nước Việt Nam yêu quí ra đi và sống định cư ở Pháp.
Tôi đã học với Giáo Sư Vũ Quốc Thúc ở Đại Học Luật Khoa Sài Gòn niên khóa 1963-1964.
Giáo Sư sinh năm 1920 tại Nam Định, Bắc Việt. Tiến sĩ Luật, Thạc sĩ Đại Học Kinh tế ở Pháp. Giám Đốc trường Luật Hà nội (1951-1954). Khoa Trưởng Đại học Luật Khoa Sài gòn (1957-1963). Giáo sư các Viện Đại học Đà Lạt, Sài gòn và Học Viện Quốc Gia Hành Chánh (1954-1975). Giáo Sư Viện Đại Học Paris XII (1978-1988)
Từ năm 1946 đến 1975 từng giữ các chức vụ: Ủy Viên Hành Chánh Kháng Chiến cấp tỉnh, Bộ Trưởng Quốc Gia Giáo Dục, Thống Đốc Ngân hàng Quốc Gia , Cố Vấn Phủ Tổng Thống, Phó Chủ Tịch Hội Đồng Kinh Tế Quốc Gia, Quốc Vụ Khanh đặc trách Tái Thiết và Phát Triển…
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, Giáo sư cũng như hầu hết trí thức miền Nam đều rơi vào hoàn cảnh tuyệt vọng giống nhau. Thất nghiệp, bị theo dõi, bị làm khó dễ, nơm nớp lo sợ không biết lúc nào bị bắt đi cải tạo (đi tù) nếu còn ở ngoài đời. Đa số người trí thức miền Nam lúc bấy giờ đều sống trong lo âu, hồi hộp vì họ không ít thì nhiều đều có dính líu với chế độ cũ, mà cộng sản gọi là “ngụy quân, ngụy quyền”. Giáo sư Vũ Quốc Thúc không thể thoát khỏi tình trạng đó.
Trong sách trên, Giáo Sư Vũ Quốc Thúc viết: “ Tôi không theo Thiên Chúa Giáo, nhưng cũng không phải là một Phật tử. Tôi theo đúng truyền thống Khổng giáo của gia đình không quy y Phật giáo, mặc dầu chấp nhận Phật giáo; không theo Thiên Chúa Giáo nhưng vẫn tôn trọng Thiên Chúa Giáo… Sau khi bị bắt vì mưu toan vượt biên tôi thấy tương lai của mình u ám vô cùng….
Hằng ngày mặc dầu tôi không phải là tín đồ Thiên Chúa Giáo tôi đã đến nhà thờ Đức Bà.. Tôi cầu nguyện trước tượng Đức Mẹ, xin Đức Mẹ run rủi cho gia đình tôi được thoát khỏi Việt Nam toàn vẹn. ..Hôm chủ nhật đó nếu tôi không lầm là ngày lễ Pentecôte, tôi đã đạp xe lên nhà thờ Bình Triệu. (1)
Tôi ngồi trước tượng Đức Mẹ và tôi lẩm nhẩm cầu nguyện…Khi tôi vừa dứt lời cầu nguyện bỗng thấy tượng Đức Mẹ sáng rực lên. Tôi cần phải nói rằng hôm đó trời ở ngoài cũng âm u vì vào mùa mưa…Khi tôi cầu nguyện xong bỗng thấy tượng Đức Mẹ sáng rực lên từ trên xuống dưới có lẽ khoảng vài giây đồng hồ thôi. Đặc biệt trên gò má tay mặt của bức tượng có một giọt nước mắt long lanh. Sau đó tôi nhìn kỹ thì trên gò má bức tượng không thấy có gì cả. Như vậy, giọt nước mắt mà tôi nhìn thấy chỉ là một ảo ảnh. Từ lúc đó trở đi, suốt buổi chiều tôi thấy trong lòng hồi hộp như mình đang chờ đợi một chuyện gì sắp xảy ra. (2)
Sau đó Giáo Sư mở đài BBC nghe lén, đã nghe thấy ông Raymond Barre một người cùng thi Thạc sĩ năm 1950 được Tổng Thống Pháp là Valéry Giscard d’Estaing cử làm Thủ Tướng và Giáo sư đã thảo bức thơ gởi Thủ Tướng Pháp kể lại hoàn cảnh của mình đang lâm vào sự khốn khó, nhờ đó ông Raymond Barre mới biết và đã can thiệp với Thủ tướng Việt Nam lúc bấy giờ là ông Phạm văn Đồng để giúp đỡ gia đình của Giáo sư sang Pháp.
Giáo sư Vũ quốc Thúc viết tiếp: “ Sự linh ứng của Đức Mẹ BìnhTriệu khiến cho tôi tìm được lối thoát tình trạng bế tắc. Bổn phận của tôi rồi đây là phải thi hành đúng lời nguyện của mình trước Đấng Thiêng Liêng”.(3)
GS Vũ Quốc Thúc đã gia nhập Giáo Hội Công Giáo(4)
Hôm 8.4.2012, Lễ Phục Sinh, Giáo xứ Việt Nam Paris đã đón nhận 25 tân tòng nhập đạo, trong đó có Giáo sư Vũ quốc Thúc.
Ông muốn xin được rửa tội công khai và trang trọng theo đủ các nghi thức của Giáo hội, như mọi tân tòng khác, như một biểu lộ và dấu chứng làm chứng nhân, công khai công bố đức tin của mình.
Nhân dịp này trong niềm vui chung của cộng đoàn Giáo Xứ đại gia đình Thụ Nhân trên khắp thế giới và riêng tại Paris, các cựu Giáo sư, sinh viên và gia đình thuộc Viện Đại học Đà lạt đã tổ chức một bửa tiệc chúc mừng lễ rửa tội gia nhập Giáo Hội Công Giáo của Giáo sư Jean Paul Vũ Quốc Thúc, vừa để chúc mừng sinh nhật thứ 92 của Giáo sư. Trong bửa tiệc tiếp tân chúc mừng, Giáo sư đã nhắc đến ba điều ông đã thấy và đã tin. Đặc biệt ông đã thấy ơn của Đức Mẹ.
Phùng văn Phụng
17-04-2012
(1) trang 540 Sách “Thời Đại Của Tôi” cuốn II
(2) trang 542 Sđd
(3) trang 543 Sđd (người viết in đậm và in nghiêng).
(4) Trong bài Gs Vũ Quốc Thúc đã cùng 24 tân tòng khác gia nhập Giáo Hội Công Giáo của tác giả Trần văn Cảnh đăng trong Việt Catholic ngày 12 -04-2012 xem thêm
Thánh Gemma Galgani sinh ở Camigliano, nước Ý, và là thứ tư trong gia đình có tám người con. Cô là một người thông minh, thân thiện, hăng hái và dễ mến, nhưng tinh thần cầu nguyện và sự thâm trầm của cô thì không một người trẻ nào sánh được.
Mẹ của Gemma bị mắc bệnh lao và bà từ trần khi Gemma mới bảy tuổi. Mặc dù rất đau khổ khi phải mồ côi mẹ, Gemma đã biết an ủi các anh chị em mình rằng: “Mẹ chúng ta đã về trời, mẹ đã đau khổ nhiều — nhưng bây giờ mẹ không còn đau khổ nữa.”
Cha của Gemma là một dược sĩ và thường rất khá giả, nhưng bệnh tình lâu ngày trong gia đình đã làm kiệt quệ tài chánh. Dần dà, họ trở nên nghèo nàn. Thêm vào đó, cha của Gemma lại mắc bệnh ung thư cổ và cô phải chăm sóc ông cho đến khi ông từ trần lúc Gemma 19 tuổi. Như thế, trước khi hai mươi tuổi, Gemma đã được chứng kiến sự đau khổ của cha mẹ mình và đã thi hành tất cả những gì có thể để khuây khoả và an ủi các ngài.
Sau khi từ chối lời cầu hôn của hai thanh niên, Gemma ao ước đi tu, nhưng vì lý do sức khoẻ và vì nghèo nên cô bị từ chối. Cô chấp nhận sự thất vọng này như một hy sinh dâng lên cho Chúa. Trong thời gian ấy, Gemma tiên đoán rằng các tu sĩ dòng Thương Khó sẽ thành lập một tu viện ở Lucca, và điều này đã xảy ra sau khi cô từ trần được hai năm.
Vào năm 21 tuổi, một tiếng nói bên trong cho Gemma biết là cô sẽ được ơn lạ thường. Sau đó cô cảm thấy đau nhói ở chân tay và ngực, và có máu tiết ra ở những nơi ấy. Ðó là những thương tích như trên thân thể Chúa Giêsu xưa. Vào mỗi tối thứ Năm, Gemma rơi vào trạng thái ngây ngất và các dấu thánh bắt đầu xuất hiện. Mãi cho đến chiều thứ Sáu, các dấu thánh mới tan biến và đến sáng thứ Bảy thì máu mới ngưng chảy, các vết thương như đóng lại, chỉ còn một vệt trắng mờ trên da. Các dấu thánh tiếp tục xuất hiện cho đến khi cha giải tội cấm cô không được chấp nhận các dấu ấy. Qua lời cầu nguyện của cô, hiện tượng này chấm dứt, nhưng các vết sẹo trắng vẫn còn thấy ở trên da.
Vào tháng Giêng 1903, bác sĩ cho biết Gemma bị lao phổi, và ba tháng sau đó, vào ngày thứ Bảy Tuần Thánh, với sự chứng kiến của cha sở, cô từ giã cõi đời khi mới hai mươi lăm tuổi. Cha sở kể lại: “Cô ấy chết với nụ cười vẫn còn nở trên môi, nên tôi không tin là cô ấy thực sự đã chết.”
Cô Gemma được Ðức Giáo Hoàng Piô XI phong chân phước năm 1933 và được Ðức Giáo Hoàng Piô XII phong thánh vào ngày 2 tháng Năm 1940, chỉ có ba mươi bảy năm sau khi từ trần.
Khi Ðức Martin I làm giáo hoàng năm 649, Constantinople là thủ đô của Ðế Quốc Byzantine và Ðức Thượng Phụ Constantinople là vị lãnh đạo Giáo Hội có thế lực nhất của Kitô Hữu Ðông Phương. Những tranh chấp hiện có trong Giáo Hội hoàn vũ thời bấy giờ lại càng thêm quyết liệt bởi sự cộng tác chặt chẽ giữa hoàng đế và đức thượng phụ.
Một giáo huấn được Giáo Hội Ðông Phương quyết liệt bảo vệ là cho rằng Ðức Kitô không có ý chí của loài người (*). Ðã hai lần, các hoàng đế chính thức lên tiếng bảo vệ lập trường này, lần đầu Hoàng Ðế Heraclius cho công bố bản tuyên xưng đức tin, và sau đó Hoàng Ðế Constant II ra lệnh bác bỏ vấn đề Ðức Kitô có một hoặc hai ý chí.
Trước khi được chọn làm giáo hoàng, Ðức Martin từng là người đọc sách và là phó tế. Và sau khi nhậm chức không lâu, Ðức Martin đã tổ chức một công đồng ở Latêranô mà trong đó các sắc lệnh của vua bị kiểm duyệt, và đức thượng phụ của Constantinople cũng như hai vị tiền nhiệm đều bị lên án là sai lạc. Ðể đối phó, Hoàng Ðế Constant II cố vận động các giám mục và dân chúng chống đối đức giáo hoàng.
Sau khi thất bại trong mưu toan này, hoàng đế sai Olympius, quan tổng trấn Ravenna, bắt đức giáo hoàng đưa về Constantinople xét xử. Nhưng Olympius thất bại, và đến năm 653, quan tổng trấn mới là Theodore Collipas đã xâm chiếm Rôma và bắt giam đức giáo hoàng ở Naxos trong một năm trời. Sau khi điệu về Constantinople, Ðức Martin bị kết tội phản loạn và bị tử hình. Mặc dù các tra tấn đã được thi hành, Ðức Martin được thoát án tử nhờ sự can thiệp của Ðức Phaolô II, vị thượng phụ của Constantinope, là người đã ăn năn sám hối về hành động của mình. Bản án tử hình được đổi thành khổ sai chung thân.
Vì hậu quả của các cuộc tra tấn và cực hình, Ðức Martin đã từ trần sau đó không lâu. Ngài là vị giáo hoàng sau cùng chịu tử đạo. Lời Bàn
Ý nghĩa thực sự của chữ tử đạo không phải là sự chết, mà là sự làm chứng. Vị tử đạo sẵn sàng hy sinh mọi sự, quý giá nhất là sinh mạng của họ, và đặt đức tin lên trên hết. Tử đạo, chết vì đức tin, là một cao độ bất ngờ mà một số người phải trải qua để thể hiện đức tin của mình nơi Ðức Kitô. Một đức tin sống động, một cuộc đời theo gương Ðức Kitô bất kể những khó khăn, đó là sự đòi hỏi của tất cả Kitô Hữu.
(*) Lạc thuyết độc chí (monothelitism) cho rằng Ðức Kitô chỉ có một ý chí độc nhất là ý chí Thiên Chúa.
Có một câu nói rất hay rằng tức giận là lấy sai lầm của người khác để trừng phạt chính mình, cứ mãi nhớ và không quên khuyết điểm của người khác thì người bị tổn thương nhiều nhất chính là bản thân mình, bởi lẽ đó để có được niềm vui và cuộc sống thanh thản ta không nên truy cứu lỗi lầm của người khác.
Đức Đạt Lai Lạt Ma kể về một vị sư già, sau khi bị nhà nước CSTQ giam tù 20 năm, đã vượt biên trốn sang Ấn Độ. Đức Đạt Lai Lạt Ma hỏi vị sư già này, rằng trong 20 năm tù kia, nhà sư lo sợ điều gì nhất. Vị sư già trả lời, rằng trong 20 năm trong tù lúc nào cũng chỉ lo sợ có mỗi một điều: Chỉ sợ rằng mình mất đi Bồ Đề Tâm, chỉ sợ có khi nào khởi lên lòng oán giận các cai tù, chỉ sợ có khi nào lòng mình khởi lên căm thù… Chỉ sợ lòng mình không giữ được Từ Bi, nhẫn nhục
Sao phải đợi đến lúc cô đơn mới nhận ra giá trị của một người bạn?
Sao phải đợi được yêu rồi mới đem lòng yêu người?
Sao phải đợi có thật nhiều rồi mới chia sẻ một chút?
Sao phải đợi một nỗi đau rồi mới nhớ đến một lời ước nguyện?
Sao phải đợi có thời gian mới đem sức mình ra phục vụ?
Bạn ơi, sao phải đợi? Bởi có thể rằng bạn không biết bạn sẽ đợi đến bao lâu.
Đã bao nhiêu lần ta chần chừ để rồi cơ hội vuột đi?…
“Điều gì làm Ngài ngạc nhiên nhất ở nhân loại?”
Đức Đatlai Lama trả lời:” Con người … bởi vì con người phung phí sức khỏe để tích tiền của, rồi lại bỏ tiền ra để tìm mua lại sức khỏe.
Và vì quá lo nghĩ cho tương lai, con người quên mất hiện tại, đến nỗi không sống với hiện tại lẫn tương lai. Con người sống như thể sẽ không bao giờ chết … Nhưng rồi sẽ chết như chưa từng sống bao giờ.”
Yêu thương như bạn vẫn thường yêu, sống như bạn vẫn thường sống nhưngvới một niềm tin là bạn không thể có cuộc sống này lần nữa.
Hạnh phúc mà bạn đang có hay nỗi đớn đau mà bạn đang mang là duy nhất,bạn hãy chấp nhận và thưởng thức.
Như bạn chỉ có thể sống được ngày hôm nay, còn ngày mai, ngày mai đóchưa tới và chắc chắn, ngày mai đó vẫn sẽ tới, nhưng có thể sẽ không còn có bạn.
Có hai chuyện phải lo lắng:
Hoặc là bạn khỏe mạnh hoặc bạn bị đau.Nếu khỏe mạnh, thì chẳng có gì phải lo lắng
Nếu bị đau, thì có hai điều phải lo lắng:
Hoặc sẽ được bình phục hoặc sẽ chết.Nếu đưọc bình phục, thì chẳng có gì phải lo lắng.
Nếu bị chết, thì có hai điều phải lo lắng.
Hoặc lên thiên đàng hoặc xuống địa ngục. Nếu lên thiên đàng, thì chẳng có gì phải lo lắng.
Nếu xuống địa ngục, thì … , còn thì giờ đâu nữa mà lo với lắng.
Thế thì tại sao bạn phải lo??? (=> có lý lắm thay!!!)
“Em đạo dòng. Đạo từ đời ông cố, ông sơ. Ông nội em là ông trùm cả 20 năm liền. Bà nội em không từ nan một việc gì khi giúp các Đấng. Đến thời Cha Mẹ em cũng đóng góp không biết bao nhiêu là thời gian cho việc nhà Chúa. Vợ chồng em cũng theo gương ấy mà cộng tác đủ các việc nhà thờ…. Nhưng, lắm lúc buồn lắm anh ạ. Nhìn lại cái cảnh nhà mình, không giống ai. Ông xã em với chiếc xe cánh én hơn 20 năm rồi, cọc cạch cọc cạch đi lễ đi làm việc nhà thờ. Có mấy lần bị thiên hạ mời và bị hỏi: “Làm ở nhà thờ lương tháng bao nhiêu mà hăng vậy?”. Thấy mà thương! Mấy đứa nhỏ đi học ở Sài gòn, đứa nào cũng phải tự bươn chải vừa học vừa làm kiếm tiền học phí, tiền ăn, tiền nhà trọ…Tội nghiệp!
Mấy hôm nay chuẩn bị Lễ Lòng Chúa Thương Xót, có vài người đến nói với chồng em xin cho họ được làm chứng về LCTX trong Đại Hội. Nghe chuyện vài người kể với nhà em, người thì được ơn chữa lành, người trúng đất, người mới mua được đất, người mua được xe…, đủ các thứ mà người ta cho là Lòng Chúa Thương Xót đã thương xót họ. Hầu hết đó là những người mà trong con mắt em họ chẳng ra chi, hoặc là người tân tòng mới theo đạo vài năm mà ra vẻ, hoặc là người đã từng tội lỗi công khai, giang hồ, tai tiếng mà nay đi đâu cũng Chúa Xót Thương, Chúa Thương Xót….
Trong số những người xin làm chứng, đáng kể nhất là một người tân tòng: một chị, lấy chồng đạo được 9 năm nay. kể rằng: ban đầu, chị đến với LCTX nhờ mấy chị bạn rủ đi đọc kinh và chị đã kêu cầu Chúa như vái tứ phương, cầu may, hên xui. Không ngờ Chúa đã ban cho chị được như ý. Ông bố của chị ghét đạo kinh khủng, đến mức đã không cho chị theo đạo, rồi khi chị có đứa con trai là thằng cu Bin, vợ chồng chị đem con đi rửa tội và mời Ông ngoại sang ăn đầy tháng. Ổng không đến, không cho bà ngoại đến, cấm các cậu các dì đến, còn chửi em thậm tệ: “Mới đẻ, nó có tội gì mà đè nó ra xối rửa”. Từ đó, ổng từ chị luôn. Đến với Lòng Chúa Thương Xót, chị chỉ xin là “nếu bố con có ghét Chúa thì kệ ổng, xin cho ổng đừng ghét con”. Hơn sáu tháng chị van vái cầu may, chị thấy bố thay đổi. Chiều thứ năm tuần thánh 5-4-2012, tự động ổng đến thăm Cu Bin, nay đã 7 tuổi rồi, cho cu Bin 100 ngàn. Ổng nói: “Mai, là ngày Chúa tụi mày chết, rồi nghe nói vài hôm ổng sống lại. Tao qua thăm tụi mày. Cho Cu Bin 100 ngàn nè. Nói với ổng nếu tao có chết, thì cho tao sống lại với”. Thế là chị nghĩ Lòng Chúa Thương Xót đã thương xót chị. Chuyện Ba với Chúa thì chưa biết, nhưng ít là Ba của chị đã đến thăm con, cháu…
Anh nghĩ xem, có phải thấy mà phát ghét, nghe mà phát ganh, nhìn mà phát điên tiết không! Chúa có Lòng Thương Xót như vậy sao? Thật bất công quá! Em đạo dòng…. Xin Chúa hoài mà chẳng thấy Chúa ban cho điều gì. Còn mấy thứ ngưòi kia….”.
Thiết nghĩ, trong chúng ta không ít người có lòng ganh tỵ như người kể chuyện trên đây. Có khi phản ứng bất bình với Chúa còn hơn như vậy nữa. Phát ghét, còn đỡ hơn là người thấy người khác được Chúa Xót Thương mà đâm ra thù hận, tìm cách hại người.
Ước gì mỗi chúng ta đều nhận ra Lòng Chúa đang Thương Xót từng người, và ban ân lộc cho từng người “như mưa xuống trên ruộng người lành, lẫn ruộng kẻ dữ’. Thiên Chúa không bất công nhưng Ngài khôn ngoan và cân nhắc cho con cái Ngài từng chút một, từng việc nhỏ. Ngài luôn dành cho chúng ta những gì tốt nhất theo ý Ngài, không phải tốt nhất theo ý của chúng ta. Mà, ý tốt nhất của Thiên Chúa là “để chúng ta được cứu rỗi”, “để chúng ta được sống đời đời” kẻo uổng công trình trút hết giọt máu, giọt nước cuối cùng để chết đi vì yêu rồi sống lại vì yêu, sống lại để người mình yêu được sống lại.
Trở lại câu chuyện của chị đạo dòng, thiết tưởng, chị phải nhận ra rằng Chúa đã ban cho cả họ tộc của chị, và cho chồng chị nữa một ơn đặc biệt là sống nghèo hèn thanh thoát trước của cải phù vân, sống cho danh Thiên Chúa cả sáng, cho Nước Thiên Chúa trị đến… là đã sống trước cuộc sống phục sinh ngay trên dương thế này rồi. Như vậy, chắc hẳn sẽ khác với những người đang sống ở trần gian mà không tin có đời sau, không tin sự sống lại, không dám chắc một cuộc sống mai hậu chứ? Hơn nữa, của cải vật chất Chúa ban cho là để chúng ta sử dụng cho được Nước Trời, được sống đời đời, nào phải để chúng ta hưởng dùng cho thoải mái ở đời này đâu.
Tôi không dám giải thích gì cho chị, người kể. Nhưng bất ngờ, qua một chị bạn của chị, tôi mới hiểu một nguyên nhân vui vui là: “Người ta lên đời cả rồi, bạn chị, đứa thì Air Blade, đứa thì Atila, đứa còn có chiếc 7 chỗ, còn chị, ngồi sau chiếc cánh én cũ rích mà mắc cỡ…”.
Lạy Chúa, ai trong chúng con cũng có thể giống như chị kia, luôn than thở trách móc Lòng Chúa Thương Xót bất công quá. Xin cho chúng con nhận ra lòng Chúa Xót Thương không bao giờ bất công cả, vì Chúa là Đấng Khôn Ngoan, luôn dành cho mỗi chúng con điều tốt nhất là cho chúng con được phục sinh trong Nước Thiên Chúa.
Nhắc lại vụ ám sát Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II và bức ảnh mới được công bố
Đức Giáo Hoàng Gioan Phao-lô đến thăm và tha thứ cho tay súng Mehmet Ali Agca đang bị giam trong tù (bìa tạp chí Time)
TẠI SAO NGƯỜI TÍN HỮU LUÔN HY SINH VÀ THA THỨ ?????
Ngày 1 tháng 5 năm 2011 vừa qua, Đức Giáo Hoàng Benedict, thay mặt Giáo Hội, đã vinh phong Đức Cố Giáo Hoàng lên bậc Chân Phước. Nhân dịp này, xin giới thiệu bạn đọc một biến cố quan trọng nhất trong xẩy ra trong cuộc đời Đức cố Giáo Hoàng thân yêu chúng ta. Biến cố này xẩy ra vào ngày 13 tháng 5 năm 1981, ngày ngài bị ám sát. Chính ngày đó, ngài đã được cứu sống nhờ sự can thiệp của Đức Maria…
Vào ngày 13.5.1981, tên khủng bố Mehmet Ali Agca, người Thổ Nhĩ Kỳ, đã cố ý giết chết Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II bằng ba phát súng lục trong một cuộc tiếp kiến chung tại quảng trường Thánh Phêrô ở Roma. Mãi cho đến hôm nay nguyên nhân vụ ám sát Đức Gioan Phaolô II của Ali Agca vẫn chưa được hoàn toàn giải thích một cách rõ ràng, mặc dù người ta đã biết được rằng Agca thừa hành lệnh của mật vụ Bảo Gia Lợi (Bulgarie).
Sự nghi ngờ cho rằng vụ ám sát Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II là được Breschnew, Chủ tịch nhà nước và đảng trưởng Đảng cộng sản Liên Sô, sắp xếp và được cơ quan mật vụ Liên Sô KGB ở Mạc Tự Khoa trao cho mật vụ Bảo Gia Lợi thi hành, đã lan rộng ra liền ngay sau vụ ám sát.
Riêng Đức Hồng Y Stanislaw Dziwisz, hiện là TGM của Krakau/Ba Lan, và là vị thư ký lâu năm của Đức Gioan Phaolô II – kể từ khi ngài còn là Tổng Giám Mục Kraukau mãi cho tới hết 26 năm làm Giáo Hoàng -, thì hoàn toàn xác tín rằng: «Nói một cách khách quan thì hoàn toàn không thể tin được là Ali Agca chỉ là kẻ hành động lẻ loi một mình và tất cả mọi sự đều chỉ do một mình y thực hiện mà thôi».
Trong các hồ sơ vụ việc người ta thấy có ghi nhận là bộ An ninh Quốc gia của Đông Đức đã nhận lãnh sứ mệnh tìm cách làm giảm thiểu bớt trách nhiệm cho «cơ quan tuyên truyền của người anh em» Bảo Gia Lợi về việc ám sát Đức Gioan Phaolô II. Tuy nhiên, trên thực tế các sự thú nhận hay các bằng cứ chắc chắn và rõ ràng về vụ ám sát thì mãi cho tới nay người ta vẫn chưa nắm hết được.
Đúng vậy, cho tới nay những lý do thầm kín phía sau vụ ám sát vẫn chưa được giải thích rõ ràng. Chỉ một điều chắc chắn là Bộ chính trị trung ương Liên Sô đã nhiều lần bàn luận về việc «làm sao có thể giải quyết dứt điểm vấn đề Ba Lan». Ông John O. Koehler, một ký giả người Hoa Kỳ, thì khẳng định là ông đã đọc một hồ sơ được viết vào tháng 11 năm 1979, có ghi các chữ ký của các thành phần thuộc Bộ chính trị trung ương của Liên Sô cũ, trong số đó có cả chữ ký của ông Michail Gorbatschow.
Quả vậy, vào tháng 11.1979 chính là lúc ông Gorbatschow đang đảm nhận chức Tổng bí thư của trung ương Đảng cộng sản Liên Sô, nhưng ông lại chưa phải là thành viên của Bộ chính trị trung ương. Những quyết định về các phương thức hành động của cơ quan mật vụ KGB chỉ được một số rất ít các đảng viên cao cấp quyết định mà thôi.
Trong một hồ sơ hiện đang được lưu trữ ở Văn khố quốc gia tại Mạc Tư Khoa có ghi: «Cần phải tận dụng tất cả mọi phương tiện khả dĩ để dẹp tan một khuynh hướng chính trị mới do vị Giáo Hoàng người Ba Lan khởi xướng đang chớm nở, và nếu cần thì phải sử dụng cả những phương tiện thông tin ngụy tạo và làm mất tín nhiệm.»
Còn riêng Đức Gioan Phaolô II chỉ bị trọng thương qua vụ ám sát. Và việc ngài sống sót là cà một phép lạ. Dĩ nhiên, sức khỏe vốn cường tráng trước kia của ngài đã bị ảnh hưởng rất nặng bởi vụ ám sát, khiến ngài phải chịu đau đớn thường xuyên, kéo dài mãi cho tới lúc ngài băng hà năm 2005.
Hai năm sau vụ ám sát, vào ngày 23.12.1983, Đức Gioan Phaolô II đã đích thân vào phòng giam thăm tên khủng bố Ali Agca, nói chuyện với y và nhất là ngài đã tha thứ cho y.
ĐHY Stanislaw Dziwisz tường thuật lại là trong cuộc gặp gỡ và nói chuyện này tại nhà tù, Ali Agca chỉ lặp đi lặp lại với Đức Thánh Cha một câu hỏi duy nhất:
«Tại sao Ngài lại không chết? – Tôi biết chắc chắn là tôi đã nhắm rất trúng đích. Tôi cũng biết rằng phát đạn tôi bắn ra có hiệu quả tàn phá và gây tử thương một cách chắc chắn. Nhưng tại sao Ngài lại không bị tử thương?»
Về phần Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II thì hoàn toàn xác tín rằng chính nhờ bàn tay hiền mẫu của Đức Mẹ Fatima che chở nên ngài mới có thể thoát chết một cách lạ lùng như thế. Bởi vì, ngày ngài bị ám sát tại Rôma – ngày 13 tháng 5 (1981) – cũng chính là ngày Đức Mẹ đã hiện ra với ba trẻ chăn chiên năm xưa tại Fatima, ngày 13 tháng 5 (1917). Hơn nữa, theo Đức Gioan Phaolô II, thì vị Giám Mục mặc áo trắng phải chịu đau khổ nhiều mà Đức Mẹ đã cho ba trẻ trông thấy trong một thị kiến khi hiện ra với ba trẻ tại Fatima, chính là ngài.
Do đó, đúng một năm sau vụ ám sát (1982), Đức Gioan Phaolô II đã đích thân đi hành hương Fatima để tạ ơn cứu sống của Đức Mẹ và trong dịp này ngài cũng mang theo một trong các đầu đạn mà Mehmet Ali Agca đã bắn vào ngài để dâng kính Đức Mẹ. Và kìa một sự lạ lùng đã làm chính Đức Gioan Phaolô II và tất những người chứng kiến không khỏi sửng sốt và kinh ngạc, là đầu viên đạn mà ngài mang theo kia khi được gắn vào một lỗ hổng duy nhất còn sót lại ở mão triều thiên trên đầu tượng Đức Mẹ Fatima, mà các đoàn thể phụ nữ Bồ Đào Nha đã dâng cúng cho Đức Mẹ vào năm 1946, thì hoàn toàn vừa vặn như thể người ta đã cốt ý làm cái lỗ hổng đó sẵn cho viên đạn vậy.
Và đây là bức ảnh mới được công bố gần đây, cho thấy sự can thiệp nhiệm mầu của Đức Mẹ Maria vào ngày Đức Giáo Hoàng Gioan Phao-lô bị ám sát, ngày 13 tháng 5 năm 1981
Chúng ta không hiểu tại sao Đức thánh Cha Gioan-Phaolô II đã muốn cất dấu tấm hình chụp nầy trong nhiều năm. Vatican đã vừa mới công bố tấm hình chụp nầy lần đầu tiên. Tấm hình được một vệ sĩ của Người chụp ngay chính lúc Đức Thánh Cha bị tấn công và đang ngã xuống trong chiếc xe đặc chế (papamobil) của Người. Các bạn có thể nhìn thấy đau đớn hiện trên mặt Người.
Joaquin Navarro Valls, phát ngôn nhân Toà Thánh vào thời gian đó, đã tuyên bố người ta mất nhiều năm để nghiên cứu tấm hình chụp khó tin nầy và tất nhiên là về chất lượng rửa hình, vì khi được chuẩn bị kỹ càng, không ai có thể nhìn rõ ràng bởi vì tấm hình không sáng sủa. Cuối cùng, sau nhiểu kiểm duyệt và tìm tòi, dưới sự kiểm soát của các chuyên gia nhiếp ảnh trên thế giới, họ đã quyết định không hề có “giả mạo’ thuộc thuật nhiếp ảnh và ngày nay họ cho chúng ta món quà đẹp đẽ nầy về Mẹ Thiên Chúa.
Các bạn có thể nhìn thấy Mẹ Thiên Chúa ôm Đức Gioan-Phaolô II trong tay Mẹ.
(Trích đăng từ bài viết “Sau ba thập niên” của tác giả Hương Vĩnh)
IV. SỐNG ĐỜI KHÓ NGHÈO
ĐÁP LẠI TIẾNG GỌI CỦA TIN MỪNG
Trong lúc đại đa số giới trẻ ở đây đang tận dụng mọi phương cách để kiếm thật nhiều tiền ngõ hầu đáp ứng nhu cầu vật chất, trong bối cảnh một xã hội đang đổi mới thì một thiểu số rất nhỏ những thanh thiếu niên nam nữ đã đáp lại tiếng gọi của Tin Mừng để sống đời phục vụ tha nhân.
Điều làm tôi cảm động là mỗi sáng sớm, một nhóm các em dự tu – có lẽ thuộc Nữ Tử Bác Ai hay một tu hội nào khác – nghiêm trang đi xem lễ ở nhà thờ Dòng Đa-Minh – và có lẽ ở những nhà thờ khác nữa. Các em ăn mặc đơn sơ: áo trắng quần xanh, nghiêm trang trong mỗi bước đi, đắm hồn trong sự suy tư chiêm niệm.
NẾP SỐNG KHÓ NGHÈO THẬT SỰ
Lần đầu tiên tới thăm linh mục Augustinô Nguyễn Viết Chung tại Tu Hội Truyền Giáo Thánh Vinh Sơn ở đường Nguyễn Kiệm, tôi được cha dẫn đi xem một số phòng ốc, nhờ đó tôi mới hiểu được phần nào nếp sống khó nghèo của các tu sĩ trong khung cảnh hiện tại.
Phòng cha Chung chỉ vỏn vẹn một chiếc giường gỗ với một chiếc chiếu trải lên đó. Bên cạnh tủ sách là một chiếc ghế và một cái bàn nhỏ. Có cái quạt máy treo tường nhưng không thấy mở! Với khí hậu oi bức mùa hè ở Saigon, tôi không hiểu làm sao cha có thể chịu đựng được “cái nóng ghê người, nóng nóng ghê!”
Cha dẫn tôi đi xem phòng ngũ các thầy. Năm sáu thầy nằm ngũ trong một phòng nhỏ: chỉ có hai giường gỗ, ngoài ra là mấy chiếc chiếu xếp lại, để trên sàn nhà. Thầy nào cảm thấy nằm trên sàn nhà không được thì mới nằm trên giường.
Khi quan sát cảnh tượng đó, tôi tự nhủ: đành rằng có một số linh mục tu sĩ sống trong nhung lụa, ngủ trong nệm ấm chăn êm với máy điều hòa không khí… không thiếu những linh mục tu sĩ có nếp sống thanh bần theo gương Thầy Chí Thánh: “Con chim có tổ, con chồn có hang, Con Người không nơi gối đầu!”
Tôi nhớ lại “Lời Nguyện Không Thể Thiếu” của đông đảo linh mục cũng như nam nữ tu sĩ đang sống đời chứng nhân một cách hùng hồn (sách LKĐNTNK, trang 7-9), để cầu xin Chúa cho những tôi trung của Ngài luôn trung thành với những gì đã đoan hứa:
“…
Lay Chúa, chỉ mình Chúa,
Ngài mới trao tặng niềm tin,
Nhưng con lại có thể làm nên
Chứng tá sống động cho Chúa hôm nay.
Lạy Chúa, chỉ mình Chúa,
Ngài mới gởi đến niềm hy vọng,
Nhưng con lại có thể giúp anh em con
Tìm lại nguồn cậy trông.
Lạy Chúa chỉ mình Chúa,
Ngài mới đốt lên ngọn Lửa Mến,
Nhưng con lại có thể giúp anh em con
Học biết yêu thương.
Lạy Chúa, chỉ mình Chúa,
Ngài mới tác tạo hòa bình,
Nhưng con lại có thể ra đi gieo cấy
Tình đoàn kết hợp nhât anh em.
Lạy Chúa, chỉ mình Chúa,
Ngài mới là Đấng ban sức mạnh Thánh Linh,
Nhưng con lại có thể nâng đỡ
Một tâm hồn anh em đang thất vọng.
Lạy Chúa, chỉ mình Chúa,
Ngài mới thật sự là đường,
Nhưng con lại có thể chỉ đường
Cho anh em con bước đi.
Lạy Chúa, chỉ mình Chúa,
Ngài mới là ánh sáng,
Nhưng con lại có thể
Làm cho ánh mắt anh em con
Thêm ngời sáng long lanh.
Lạy Chúa, chỉ mình Chúa,
Ngài mới là sự sống vĩnh cửu,
Nhưng con lại có thể đem đến
Cho anh em con niềm vui sống.
Lạy Chúa, chỉ mình Chúa,
Ngài mới thực hiện được những điều nan giải,
Nhưng con lại có thể làm được
Cái khả dĩ làm được trong tầm tay.
Lạy Chúa, chỉ mình Chúa,
Tự Ngài đã thực sự viên mãn,
Nhưng Ngài lại ưa thích cho con
Được cộng tác trong công việc của Ngài,
Và Ngài lại ưa thích nương nhờ nơi con
Để cứu độ mọi người.”
NHÀ DƯỠNG LÃO TÌNH THƯƠNG
Vào một trưa Chúa nhật, tôi đã tham dự Thánh lễ do cha Chung dâng tiến cho các cụ bà ở Nhà Dưỡng Lão Tình Thương Bình Lợi. Nhà Dưỡng Lão nầy nằm khuất trong một thôn xóm hẻo lánh, bên cạnh dòng sông Sài Gòn với những hàng dừa nước hoang dại. Trước NhàDưỡng Lão là một dãy mộ bia của những nữ tu đã ra đi từ lâu, sau một thời gian dài tận hiến cuộc đời phục vụ người nghèo. Nhà Dưỡng Lão gồm mấy dãy nhà nghèo nàn xơ xác, tương xứng với những cụ bà cũng rất nghèo hèn, xem chừng bị bỏ rơi, không được người nhà quan tâm.
Nhà này nuôi dưỡng 37 bà cụ. Bà cụ già nhất được 94 tuổi. Đa số các cụ bà trên 70 tuổi. Có 14 cụ bà bị bệnh nặng, đại tiểu tiện tại chỗ, cần chăm sóc tích cực. Nhà có 4 phòng: hai phòng dành cho các cụ bệnh nặng và hai phòng dành cho các cụ đi lại được. Các nữ tu phải mướn thêm hai người giúp việc, lưong tháng khoảng năm hay sáu trăm ngàn đồng Việt-Nam, chưa tới ba bốn chục Mỹ Kim. Chính các em dự tu và các chị khấn tạm đã tích cực giúp đỡ các cụ bà.
Khi tôi vừa tới nơi là lúc cha Chung đang chia sẻ bài Phúc Am Chúa nhật. Những lời nói chân thành đơn sơ của cha phản ảnh một tâm hồn say mê Lời Chúa và sống Lời Chúa.
Khi Thánh lễ chấm dứt, cha Chung đưa tôi đi thăm Nhà Dưỡng Lão. Hầu hết những cụ bà đều đau yếu, phân nhiều ngồi xe lăn, hay xê dịch phải có người giúp đỡ. Một ít cụ nằm suốt ngày trên giường. Các cụ nằm trên những chiếc giường sắt nghèo nàn, nhưng sạch sẽ vì được các chị nữ tu và các em dự tu chăm sóc chu đáo về mặt vệ sinh. Nhưng có cụ vì nằm lâu ngày trên giường nên lưng bị thâm đen.
Lúc đó một cụ già yếu vì nhu cầu phải nằm xuống giường, nhưng không thể tự lực được. Một nhóm năm sáu em dự tu vội vàng xúm lại, vui vẻ bồng đỡ: em thì choàng lưng, em khác đỡ vai còn em khác nữa thì quàng chân…chẳng khác nào những cháu chắt trong nhà đỡ đần các bà ngoại, bà nội vậy. Có lẽ vì thế mà các cụ hay nở nụ cười trên môi, tuy phải đau đớn về thể xác và đau khổ trong tâm hồn.
Chứng kiến cảnh tượng đó, tôi tự hỏi có gì hấp dẫn nơi các cụ già, nghèo hèn xơ xác, da thịt nhăn nheo, đen điu xấu xí… nếu không phải vì tiếng gọi của Tình Yêu Thiên Chúa. Trong lúc các tầng lớp thiếu nữ thuộc lứa tuổi các em đều ra sức tìm kiếm những nếp sống mang lại phúc lợi cho chính bản thân họ, còn các em đã tự nguyện quên mình cho những người bị bỏ rơi. Các em đã dâng hiến đời mình cho Chúa để theo đuổi lý tưởng quên mình vì tha nhân:
“Chỉ mong Ngài lấy đi
Mong chẳng còn gì thuộc về con,
Mong chẳng còn gì là của con,
Để con được trắng tay,
Con chỉ còn Ngài để giữ lấy,
Con được chọn Chúa mãi là của con.
Chỉ mong Ngài xóa đi,
Mong chẳng còn gì để chiếm hữu,
Mong chẳng còn gì ràng buộc con,
Để con được ngước lên,
Con tìm được Ngài là chân lý,
Con được cùng Chúa đồng hành luôn.
Chỉ mong Ngài cất đi,
Mong chẳng còn gì để nắm giữ,
Mong chẳng còn gì mà tự tôn,
Để con chỉ biết yêu,
Yêu một mình Ngài trọn đời con,
Con nhìn nhận Chúa chính Nguồn Tình Yêu.”
(“Mong Chẳng Còn Gì” của Tagore, trong sách Lời Kinh Đẹp Nhất Thiên Niên Kỷ, do Lê Quang dịch, trang 20)
V.- LINH MỤC NGUYỄN VIẾT CHUNG
MỘT BÁC SĨ PHẬT GIÁO TRỞ THÀNH LINH MỤC
Linh mục Augustinô Nguyễn Viết Chung nguyên là một bác sĩ Phật giáo, chuyên môn về Da Liễu. Khi lên 18 tuổi, nhân đọc một bài báo nói về cái chết của Đức Cha Jean Cassaigne tại trại phong Di-Linh, cậu Chung cảm thấy cuộc sống đó quá tốt đẹp và vô tình Đức Cha Jean Cassaigne đã trở thành thần tượng của cậu. Khi nhắc lại đoạn đời đó, cha Chung cho biết là ngài được rao giảng Tin Mừng bằng đời sống, chứ không phải bằng lời nói. Từ đó cậu Chung có ý nguyện học làm bác sĩ để phục vụ bệnh nhân phong như Đức Cha Jean Cassaigne.
Khi bắt đầu học năm thứ nhất y khoa, nhân dịp tham dự Thánh lễ khai khóa của linh mục giáo sư bác sĩ Lischenberg, cậu Chung nhận thấy con người khoa học uyên bác của giáo sư Lischenberg đã biến thành một linh mục khả kính, trang nghiêm siêu thoát, chìm đắm trong cõi phúc lạc thần thiêng… Ơn gọi làm linh mục của cha Chung đã chớm nở từ đó.
Khi bác sĩ Chung phục vụ tại trại phong Bến Sắn, Dì Hai Loan thuộc Tu Hội Nữ Tử Bác Ai là Phó Giám Đốc. Dì là người đã phục vụ ở đây gần 17 năm, bất ngờ ngã bệnh ung thư và mất đi sau mấy tháng. Khi Dì hấp hối, bác sĩ Chung đang sửa soạn để đi với bác sĩ Quang, bác sĩ Bích Vân lên trại phong Di-Linh khám mắt cho bệnh nhân. Vì xe chưa tới, bác sĩ Chung tiếc nuối những giây phút cuối cùng còn lại với Dì Hai Loan nên đã trở lại giường bệnh của Dì. Lúc đó Dì Hai Loan mở mắt ra, nhìn bác sĩ và đôi môi mấp máy như muốn nói điều gì. Dì Mười hiểu được, liền nói: “Chung, Dì Hai Loan nói, tại sao chưa đi?”
Khi kể lại kỷ niệm nầy cho tôi, cha Chung đã dùng những ngón tay phải chỉ vào cánh tay trái và cho biết lúc đó cha cảm thấy bị rởn da gà lên. Sau đó, bác sĩ Chung đã về dự tang lễ của Dì Hai Loan và đã quyết định theo đạo. Một năm sau nữa bác sĩ Chung đã vào tu ở Tu Hội Truyền Giáo Thánh Vinh Sơn và đã nhận lãnh Thánh chức linh mục hơn một năm nay.
Ba vị đã tác động mạnh mẽ trên Ơn Gọi của cha Chung là giám mục Jean Cassaigne, linh mục Lischenberg và Dì Hai Loan. Cả ba cùng có một mẫu số chung – như lời cha Chung – đó là họ đã rao giảng Tin Mừng cho cha bằng cuộc sống chứ không phải bằng lời nói!
Nguyện ước của cha Chung là được phục vụ bệnh nhân phong và bịnh nhân Aids rồi cuối cùng ngã bệnh giữa những bẹnh nhân mà cha yêu thương phục vụ, đúng như lời Chúa Kitô đã phán dạy: “Không có Tình Yêu nào cao trọng cho bằng hy sinh mạng sống mình vì kẻ mình yêu!”
Địa chỉ của linh mục Augustinô Nguyễn Viết Chung:
479/15 Nguyễn Kiệm, phường 9, quận Phú-Nhuận,
Thành phố Hồ-Chí-Minh.
Điện thoại: (08) 990-4980
Địạ chỉ email: [email protected]
NHỮNG TRỞ NGẠI VỀ PHÍA GIA ĐÌNH
Đáp câu hỏi của tôi là trên con đường theo Chúa, có những trở ngại lớn lao nào về phía gia đình không? Cha cho biết gia đình của cha là một gia đình nghèo. Đời sống gia đình thường xảy ra cảnh “cơm không lành, canh không ngọt”. Điều đó đã ảnh hưởng cha từ thuở thiếu thời nên cha đã có ý định đi tu vì nhận thấy đời sống gia đình không mang lại hạnh phúc.
Khi làm bác sĩ, trong hai năm đầu cha đã hành nghề để có thể trả nợ cho gia đình. Trong những năm kế tiếp, cha đã giúp đỡ những người em ăn học và hiện có một em trai là bác sĩ chuyên môn về phổi. Người em nầy đã thay thế cha phụng dưỡng hai cụ thân sinh.
Khi còn là tu sĩ, chưa được thụ phong linh mục, một ngày kia được tin cụ thân sinh bệnh, cha đi xe đạp về thăm. Vừa vào nhà, cụ thân sinh liền quở trách cha là một người “không biết nhục”. Theo lời cụ, các bạn bè của cha đều đi xe hơi, xây nhà lầu hai ba tầng cho bố mẹ ở. Còn cha, cha lại đạp chiếc xe đạp cọc cạch về thăm nhà!
Trước đây khi cha ngõ ý với cụ bà là muốn đi tu thì cụ bà rất vui, vì tưởng cha tu theo Phật giáo. Nhưng khi biết cha sẽ tu theo Công giáo thì cụ bà giữ im lặng.
Sau khi được thụ phong linh mục vài ba hôm, cha về thăm gia đình. Mới bước vào nhà, cụ bà cất tiếng nói: “Mẹ có điều nầy muốn nói với con.” Cha vội kéo ghế mời cụ bà ngồi rồi nói: “Thưa Mẹ, xin Mẹ cứ nói, con xin nghe.” Bấy giờ cụ bà đáp: “Mẹ muốn nói với con điều nầy là đạo Mẹ, Mẹ giữ, đạo con, con giữ.” Cha liền thưa: “Xin Mẹ cứ giữ đạo của Mẹ. Con không bao giờ dám có ý nghĩ là sẽ khuyên bảo Mẹ theo đạo của con.”
NHỮNG THỬ THÁCH TRÊN HÀNH TRÌNH TU TRÌ
Đáp câu hỏi của tôi là trong thời gian đi tu cũng như làm linh mục, có lúc nào cha cảm thấy những thử thách quá lớn và nảy sinh ý định muốn bỏ cuộc? Cha đăm chiêu nhìn tôi một phút rồi chậm rãi trả lời: “Thật ra ở giai đoạn nào trong đời sống tu trì cũng đều có những cám dỗ riêng: từ nhà tập đến khấn tạm rồi khấn trọn đời và làm linh mục. Nhưng nếu tu sĩ biết tuân giữ ba lời khấn là vâng lời, khiết tịnh và khó nghèo, đọc kinh Nhật Tụng, suy gẫm Phúc Am…thì sẽ vượt qua những cơn cám dỗ.”
Cha Chung còn chia sẻ với tôi đôi điều có tính cách riêng tư nhưng có phần nào ray rứt tâm can. Trong giờ phút cảm động đó, tôi đã đưa tâm hồn lên với Chúa, cầu nguyện cho cha Chung và cho tất cả các linh mục cũng như nam nữ tu sĩ, đã trải qua những giây phút cô đơn trong cuộc đời tu trì, bằng lời kinh “Phút Cô Đơn”, của Ludovic Giraud, (sách LKĐNTNK, trang 49-50):
“Lạy Chúa,
Con dâng lên Chúa những giờ phút cô đơn
Đôi lần đến với con trong cuộc đời.
Con dâng lên Chúa
Lúc con phải làm việc một mình:
Trong sự tẻ nhạt của bổn phận nặng nề
Mà không có lấy một sự khích lệ đỡ nâng
Trong cộng đoàn.
Con dâng lên Chúa
Những lúc cô đơn,
Mò mẫm đi tìm trong hoài nghi,
Khi không còn biết con đường
Mình đang theo đuổi sẽ dẫn đến đâu
Và trên đó bóng đêm bao trùm.
Con dâng lên Chúa
Những giờ phút con phải
Đau khổ âm thầm một mình,
Dù đang ở giữa những kẻ mà con phải
Bày tỏ Chúa cho họ và bị vô ơn hất hủi,
Do thờ ơ và thiếu cảm thông.
Con dâng lên Chúa
Những giây phút con phải yêu một mình
Giây phút thật nặng nề
Khi trái tim con khắc khoải,
Đi tìm sự tương giao
Mà không gặp thấy trong lòng người khác.
Và trong lòng những người con ưa thích
Tìm thấy một sự no thỏa mà không nếm cảm được.
Con dâng lên Chúa
Những giờ phút con phải đau khổ một mình,
Những giây phút Giếtsêmani của bản thân con.
Và chính trong những lúc ấy,
Lạy Chúa, con ước ao được nên giống Chúa.
Cũng như Chúa,
Con ước muốn và cầu xin
Cho chén khổ nầy ra khỏi con,
Nhưng xin Chúa cho con sức mạnh
Để chế ngự mình
Mà vâng theo Thánh ý Cha,
Đấng Chúa yêu ngàn đời,
Cả khi Ngài chấp nhận thấy con đau khổ.
Lạy Chúa,
Xin đừng theo ý con
Nhưng cho ý Cha được thể hiện Amen.”
VI.- TRUNG TÂM MAI-HÒA
THÁP TÙNG CHA CHUNG
Cao điểm của những ngày về thăm Việt-Nam là việc tôi tháp tùng linh mục Augustinô Nguyễn Viết Chung đi thăm viếng Trung Tâm Mai-Hòa. Cha Chung hiện là một trong ba bác sĩ phục vụ tại Trung Tâm đó do các Nữ Tử Bác Ai Thánh Vinh Sơn đảm trách. Mỗi thứ hai hằng tuần, cha Chung đều lên Mai-Hòa suốt ngày để dâng Thánh lễ và khám bệnh. Hai bác sĩ thiện nguyện khác sẽ khám bịnh cho bịnh nhân vào ngày thứ tư và thứ bảy.
Hôm đó tôi rời Saigon đi xe honda “ôm” với cha Chung lúc 7 giờ 30 sáng để trực chỉ Củ Chi, với đoạn đường dài trên 45 cây số. Lần đầu tiên tôi đi honda với nón an toàn nặng trĩu trên đầu. Khi honda vừa chạy độ 5 phút, trời mưa lâm râm, cha Chung đưa tôi mặc bộ quần áo mưa, trông chẳng khác nào hai phi hành gia bất đắc dĩ. Nhưng xe chạy được mười lăm phút, trời tạnh mưa. Một ít lâu sau trời bắt đầu nắng, nhưng cha Chung không hề dừng lại để cởi áo mưa. Sau khi rời đường quốc lộ, xe còn chạy trên mười cây số nữa mới tới Trung Tâm Mai Hòa.
Hôm đó tôi mặc áo dài tay, quần tây dài, mang giày, để tỏ lòng kính trọng của tôi đối với những chi thể đau khổ của Đức Kitô. Thường ngày tôi chỉ mặc áo cụt tay, quần đùi, đi dép…để ứng phó với cái nóng bức của trời Saigon.
SƠ LƯỢC VỀ TRUNG TÂM MAI-HÒA
Đây là Trung Tâm săn sóc bệnh nhân Aids ở giai đoạn cuối, không nơi nương tựa. Đây là một cơ sở Công giáo đầu tiên được chính thức thành lập để chăm sóc bịnh nhân Aids tại Việt-Nam. Trung Tâm không nhận bệnh nhân đến trực tiếp mà chỉ nhận bệnh nhân chuyển đến từ khoa nhiễm E thuộc Trung Tâm Bệnh Nhiệt Đới, Trung Tâm Lao Phạm Ngọc Thạch và bệnh viện miễn phí An-Bình. Hiện Trung Tâm Mai-Hòa do nữ tu Nguyễn Kim Thoa (Dì Tuệ Linh) đảm trách.
Địa chỉ của Trung Tâm Mai-Hòa:
Ap Lô 6, Xã An Nhơn Tây, Huyện Củ Chi,
TPHCM.
Điện thoại: (848) 8 926 135
Địa chỉ email: [email protected]
NHỮNG EM BÉ MỒ CÔI MẮC BỆNH AIDS
Khi tới nơi, cha Chung và tôi cởi nón an toàn và bộ quần áo mưa ra. Mồ hôi tôi ướt đẫm như tắm. Nghe tiếng xe honda của cha Chung, mấy em bé năm sáu tuổi chạy ra mừng rỡ la lớn: “Cha ơi! Cha!” chẳng khác nào cảnh tượng mẹ đi chợ về. Ban đầu tôi cứ tưởng đó là những em còn khỏe mạnh mà cha mẹ đã qua đời vì bệnh liệt kháng, không được ai chăm nuôi. Sau đó cha Chung cho biết tất cả các em đều mắc bệnh, và mồ côi cha mẹ, ngoại trừ một em bé gái 4 tuổi còn mẹ.
Cách đây mấy tháng, mẹ của em nầy đã mang em lại để trước cổng chùa, với một miếng giấy ghi mấy chữ vắn tắt: “xin nhà chùa nuôi giúp”. Ngoài ra mẹ em có cho biết tên em và em được bốn tuổi. Vị sư trụ trì đã mang em vào chùa nuôi. Sau đó em bị Viêm Phổi, đi khám nghiệm mới biết em nhiễm HIV, đã trở thành bịnh Aids. Nhìn thân thê ôm yếu và nét mặt kém vui của em, tôi đoán biết em đang bị cơn bẹnh hoành hành và đang trên đà tiến tới giai đoạn hiểm nguy…
Cảm tưởng đầu tiên của tôi là Trung Tâm Mai-Hòa ngày nay đã được nhiều ân nhân giúp đỡ – nhất là một số tòa đại sứ ngoại quốc – nên nhà cửa khang trang hơn, chứ không còn gây ấn tượng rùng rợn như khi xem cuốn video một năm trước đây.
THAM DỰ THÁNH LỄ VỚI NƯỚC MẮT CHAN HÒA
Đây là Thánh lễ cảm động nhất mà tôi đã tham dự từ trước tới nay. Thánh Lễ được cử hành đơn giản trong một căn nhà thủy tạ hình bát giác, bên dưới là một giòng nước đục ngầu ứ đọng, không buồn chảy, chẳng khác gì giòng đời với chuỗi ngày dài lê thê của những bệnh nhân ở đây.
Nghe những tiếng thưa đáp của các bệnh nhân trong Thánh lễ – nhất là của các em bé – tôi không thể cầm được nước mắt. Suốt buổi lễ, nước mắt tôi chan hòa, khi thấy các em vẫn hồn nhiên đọc kinh, hát xướng như thường, không chút ý thức về số phận đen tối đang đè nặng trên các em. Những lưỡi hái của tử thần đang treo lủng lẳng trên đầu các em và sẵn sàng rơi xuống để gặt hái các em trong một ngày rất gần đây mà các em không chút hay biết.
Tôi nhớ lại sau đó, cha Chung đã vào thăm các em trong căn nhà dành riêng cho các em. Các em đã xúm lại ôm chân cha, níu kéo cha và quyến luyến không muốn rời khỏi cha. Có em đã được cha ẳm lên, vuốt ve một cách trìu mến. Tôi cũng nhớ lại lúc xế trưa, các em đã vui đùa cười giỡn trong sân với chị nữ tu phụ trách. Khi thấy các em vui đùa, tâm trạng của tôi lúc bấy giờ cũng giống như cha Đông trước kia: thây các em cười nhưng tôi lại khóc.
MỘT BỮA ĂN ĐẠM BẠC
Hôm tôi lên Trung Tâm Mai-Hòa, tôi gặp bốn dì Nữ Tử Bác Ai phục vụ những bệnh nhân liệt kháng ở giai đoạn chót. Dì Tuệ Linh là giám đốc, một Dì trước đây đã phục vụ ở trại phong Di-Linh hơn hai mươi lăm năm, hiện làm y tá, một Dì săn sóc các em bé và một Dì nấu ăn.
Hôm đó tôi thấy thức ăn gồm rau muống luộc, canh khổ qua nhồi thịt và đồ tráng miệng là một miếng dưa hấu đỏ. Thức ăn nầy được dùng chung cho các nữ tu và bệnh nhân. Các bệnh nhân chia làm ba nhóm ăn cơm chung với nhau, đó là nhóm các trẻ em, những người bị lao phổi và những người nhiễm các bịnh khác.
Sau khi chia sẻ với tôi nhiều điều, cha Chung đã dẫn tôi sang phòng ăn Trung Tâm và dùng bữa ăn trưa. Tôi khâm phục tài nấu nướng của chị nữ tu phụ trách nhà bếp. Những món ăn rất ngon và đậm đà, hợp khẩu vị. Khi ăn trưa xong, đã hơn hai giờ rưỡi chiều và cha Chung đã mất buổi nghỉ trưa.
Sau mấy tiếng đồng hồ được cha Chung chia sẻ tâm tình, tôi cầu xin Chúa cho tôi được học hỏi đôi điều qua gương sống chứng nhân của cha, của các linh mục và nam nữ tu sĩ khác, bằng bài thơ “Xin Cho Con Sức Mạnh” của R. Tagore do Đỗ Khánh Hoan dịch (Sách LKĐNTNK, trang 39):
“Lạy Thiên Chúa,
Đây lời con cầu nguyện:
Xin tận diệt, tận diệt trong tim con
Mọi biển lận tầm thường.
Xin cho con sức mạnh thản nhiên
Để gánh chịu mọi buồn vui.
Xin cho con sức mạnh hiên ngang
Để đem tình yêu gánh vác việc đời.
Xin cho con sức mạnh ngoan cường
Đê chẳng bao giờ khinh rẻ người nghèo khó,
Hay cúi đầu khuất phục
Trước ngạo mạn, quyền uy.
Xin cho con sức mạnh dẻo dai
Để nâng tâm hồn vươn lên
Khỏi ti tiện hằng ngày.
Và cho con sức mạnh tràn trề
Để dâng mình theo ý Ngài luôn.”
“Ðức Tin không thể nào bị bóp nghẹt bởi bất cứ quyền lực nào!”. Ðó là lời tuyên bố của tổng thống Hoa Kỳ George Bush trong buôi tiễn biệt Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II (19/9/1987) nhân dịp Ngài viếng thăm Hoa Kỳ. Trong bài diễn văn từ giả Ðức Thánh Cha, phó tổng thống Hoa Kỳ nói rằng Thiên Chúa vẫn còn tiếp tục làm việc tại Liên Xô sau hơn 60 năm tuyên truyền cho chủ thuyết vô thần.
Ông George Bush kể lại cho Ðức Thánh Cha như sau: “Trong nghi lễ an táng tổng bí thư Breznev tại Mascơva, một lễ nghi với nhiều lính tráng và hoa tím, nhưng không có Ðức Tin và Lời Chúa, tôi theo dõi bà quả phụ đang tiến đến quan tài để nói lời từ biệt… Kìa, có Chúa làm chứng cho tôi, giữa sự lạnh cóng của một chế độ độc tài, bà Breznev chăm chú nhìn người chồng, rồi cúi nhẹ xuống và làm dấu thánh giá trên ngực của người chết…”.
Ông Bush cũng kể lại rằng ông đã gặp Mao Trạch Ðông trước khi ông này qua đời. Chủ tịch họ Mao đã tâm sự với ông như sau: “Tôi sắp sửa về Trời, tôi đã nhận được lời mời gọi của Chúa”.
Ðưa ra hai sự kiện trên đây, ông Bush kết luận: Không có quyền lực nào, không có luật pháp nào có thể quét sạch những gì đã ăn rễ sâu trong lòng người…
Lời phát biểu trên đây của ông George Bush có lẽ phải làm cho chúng ta phấn khởi. Thiên Chúa vẫn luôn có mặt trong cuộc sống của chúng ta. Chính những nơi mà chúng ta tưởng Ngài đã bị gạt bỏ hoàn toàn, chính những lúc mà chúng ta tưởng như Ngài không có mặt, Ngài vẫn tiếp tục hoạt động. Bởi vì Thiên Chúa không thể là Thiên Chúa nếu Ngài không yêu thương con người.
Chúng ta tiếp nhận sự sống từ chính Chúa, như trái đất nhận lãnh ánh sáng từ mặt trời. Thiếu ánh sáng mặt trời thì không thể có sự sống trên trái đất. Cũng thế, không có Chúa thì không thể có sự sống… Thiên Chúa thông ban sự sống cho chúng ta, bởi vì Ngài yêu thương chúng ta. Ngài yêu thương tất cả mọi người, ngay cả những kẻ chối bỏ hoặc thù ghét Ngài.