Việt Nam chậm cải cách, IMF hạ dự báo tăng trưởng

Việt Nam chậm cải cách, IMF hạ dự báo tăng trưởng

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

REUTERS/Kham

Thụy My

nguồn:RFI

Theo bản tin Bloomberg hôm nay 07/05/2013, việc cải tổ chậm chạp của các ngân hàng Việt Nam là yếu tố góp phần vào quyết định của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) hồi tuần rồi, hạ dự báo tỉ lệ tăng trưởng của Việt Nam.

Trong bản báo cáo công bố ngày 29/04/2013, Quỹ Tiền tệ Quốc tế đã hạ mức dự báo tăng trưởng của Việt Nam trong năm nay còn 5,2% thay vì 5,8% như dự kiến trước đây, và trong năm 2014 cũng vẫn là 5,2% thay vì 6,4%. Đây là mức hạ nhiều nhất trong các nước Đông Nam Á sau Singapore. Tăng trưởng năm nay của Việt Nam kém các nước khác trong khu vực như Indonesia, Miến Điện và Thái Lan. Thâm hụt thương mại của Việt Nam trong tháng Tư lên đến 1 tỉ đô la, cao hơn dự kiến.

Sanjay Kalra, đại diện Quỹ Tiền tệ Quốc tế tại Việt Nam nói rằng việc này cho thấy điều quan trọng là phải tiến hành cho được các cải cách chính quyền đã tuyên bố, vì các cải tổ cơ cấu đã diễn ra chậm hơn so với mong muốn.

Hồi tháng Hai, Thứ trưởng Tài chính Trương Chí Trung nói rằng chính quyền sẽ công bố một kế hoạch tái cấu trúc các tập đoàn quốc doanh lớn vào tháng Sáu. Trước đó, chính phủ của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã bỏ lỡ mục tiêu thành lập một công ty quản lý tài sản công nhằm giải quyết nợ xấu của ngân hàng.

Tỉ lệ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm ngoái là 5,03%. Đây là mức độ tăng trưởng thấp nhất kể từ năm 1999 đến nay. Ngân hàng Nhà nước vào tháng Ba đã giảm lãi suất chỉ đạo đến lần thứ bảy kể từ đầu năm 2012, nhằm mục đích kích thích tín dụng, cho dù Ngân hàng Thế giới đã nhận định các vấn đề của Việt Nam không thể giải quyết bằng cách nới lỏng chính sách tiền tệ.

Thông cáo của Quỹ Tiền tệ Quốc tế hôm 26/4 sau chuyến viếng thăm Việt Nam 18 ngày đã nhận định, để đưa đất nước vào con đường tăng trưởng cao hơn và bền vững, đòi hỏi phải đẩy nhanh các cải cách đối với hệ thống ngân hàng và công ty quốc doanh.

Theo ông Kalra, không cần thiết phải sáp nhập các ngân hàng, nhưng cần thực sự cải tiến cung cách quản trị và tái cấp vốn. Các ngân hàng Việt Nam cần cải thiện việc cân đối kế toán, tăng cường nguồn tiền gởi và đa dạng hóa các món tín dụng.

Lần đầu tiên Mỹ tố cáo đích danh Trung Quốc gián điệp mạng

Lần đầu tiên Mỹ tố cáo đích danh Trung Quốc gián điệp mạng

Một hệ thống máy chủ tại Hoa Kỳ.  (Ảnh chỉ mang tính minh họa)

Một hệ thống máy chủ tại Hoa Kỳ. (Ảnh chỉ mang tính minh họa)

REUTERS/Valentin Flauraud

Thụy My

nguồn: RFI

Báo cáo của Lầu Năm Góc công bố hôm qua 06/05/2013 khẳng định, Bắc Kinh tiến hành một chiến dịch gián điệp mạng rộng lớn nhằm thu thập những thông tin về các chương trình quốc phòng của chính phủ Mỹ. Đây là lần đầu tiên Hoa Kỳ tố cáo đích danh chính phủ Trung Quốc hoạt động tin tặc.

Bản báo cáo cho Quốc hội Hoa Kỳ đã khẳng định : « Trung Quốc sử dụng năng lực hệ thống tin học của họ để khéo léo điều khiển một chiến dịch thu thập thông tin từ các lãnh vực hỗ trợ cho các chương trình quốc phòng cấp quốc gia của Hoa Kỳ, trong các lãnh vực ngoại giao, kinh tế và kỹ nghệ ».

Theo báo cáo, tin tặc Trung Quốc hồi năm 2012 đã đột nhập vào các máy tính thuộc mạng lưới chính phủ Mỹ, giúp Bắc Kinh nắm được nhiều hơn về năng lực quân sự và các cuộc tranh luận chính trị tại Hoa Kỳ.

Lầu Năm Góc nhấn mạnh : « Năm 2012, nhiều mạng lưới tin học trên khắp thế giới, trong đó có các mạng của Mỹ, tiếp tục là mục tiêu của các mưu toan xâm nhập, mà một số có thể quy trực tiếp cho chính quyền và quân đội Trung Quốc ».

Cho đến nay, đây là lần đầu tiên một bản báo cáo của Hoa Kỳ thẳng thừng chỉ đích danh tin tặc Trung Quốc tấn công vào mạng của chính phủ Mỹ, cũng như các doanh nghiệp Mỹ.

Cho dù chính quyền Barack Obama đã từng yêu cầu Bắc Kinh chấm dứt loại hoạt động phi pháp này, nhưng các viên chức Mỹ chỉ mới đưa ra những lời bình nhắm vào việc tấn công tin học các doanh nghiệp tư nhân.

Theo báo cáo, Bắc Kinh tìm cách thu gom các tin tức có thể có lợi cho họ trong cách lãnh vực vũ khí và công nghệ. Các lãnh đạo Bắc Kinh cũng rất muốn biết quan điểm của các nhà lãnh đạo Mỹ về các chủ đề liên quan đến Trung Quốc và quân đội Trung Quốc.

Lầu Năm Góc khẳng định, các thủ đoạn của Bắc Kinh cũng giúp các tướng lãnh Trung Quốc « thiết lập được hình ảnh về các mạng lưới ở Hoa Kỳ trong các lãnh vực quốc phòng, hậu cần và năng lực quân sự, có thể khai thác trong thời điểm xung đột ».

Hôm nay 7/5 Trung Quốc lên tiếng cho rằng các cáo buộc của Hoa Kỳ là « không có căn cứ » và « nhảm nhí ».

Thiên nhiên thật đẹp,như những bức tranh vẽ muôn màu.

Nhưng đôi khi đường đời không đầy hoa như thế,
lối cũ nhạt nhòa, người xưa phai dấu, chỉ còn lại con đường thênh thang lá úa.

Và lá ngày càng úa màu thời gian

Lớp lớp chất chồng lên nhau như kỷ niệm

Chỉ một dòng chảy nhỏ nhưng đã chia chúng ta về
hai phía bờ chẳng thuộc về nhau,

đường em đi khói sương mờ trong nắng nhạt.

Tình mình giờ như cây trơ trụi giữa mùa đông

Chiếc ghế xưa, chỉ có lá vàng ve vuốt

Bao nhiêu năm rồi hờ hững hỡi Tình nhân?

Có thể nào chăng, đường tình rêu phong thế?

Anh đi về phía ai, hoang phế tâm hồn?

 

Về phía ai để chiều vàng u uẩn?

Trở về cát bụi

Trở về cát bụi
Ta Cứ Tưởng Trần Gian Là Cõi Thật
Thế Cho Nên Tất Bật Ðến Bây Giờ !
Ta Cứ Ngỡ Xuống Trần Chỉ Một Chốc
Nào Ngờ Ðâu Ở Mãi Ðến Hôm Nay !
Bạn thân ơi! Có bao giờ bạn nghĩ
Cuộc ðời này chỉ tạm bợ mà thôi
Anh và tôi giàu sang hay nghèo khổ
Khi trở về cát bụi cũng trắng tay

Cuộc ðời ta phù du như cát bụi
Sống hôm nay và ðâu biết ngày mai ?
Dù đời ta có dài hay ngắn ngủi
Rồi cũng về với cát bụi mà thôi
Thì người ơi! Xin ðừng ganh ðừng ghét
Ðừng hận thù tranh chấp với một ai
Hãy vui sống với tháng ngày ta có
Giữ cho nhau những giây phút tươi vui
Khi ra đi cũng không còn nuối tiếc
Vì ðời ta ðã sống trọn kiếp người
Với tất cả tấm lòng thành thương mến
Ðến mọi người xa lạ cũng như quen
Ta là cát ta sẽ về với bụi
Trả trần gian những cay ðắng muộn phiền
Hồn ta sẽ về nơi cao xanh ấy
Không còn buồn lo lắng chốn trần ai!

8267105627_a4ca58ccea_o.gif

LỄ THĂNG THIÊN

LỄ THĂNG THIÊN
Sau khi sống lại 40 ngày, và sau những lần gặp gỡ với các môn đệ, Đức Giê-su đã thực hiện lời Người đã nói trước, người đã từ biệt các ông và lên Trời.
Nhưng tại sao Đức Giê-su dạy các môn đệ làm phép Rửa đã, sau đó mới giảng dạy cho họ? Tại sao không nói Chúa về Thiên đàng mà lại lên Trời, dễ làm người ta hiểu lầm ở một điểm nào trên không gian? Tại sao cho đến lúc này vẫn có những môn đệ còn hoài nghi?  Theo Ma-thêu thì Đức Giê-su lên Trời tại Ga-li-lê-a, vậy tại sao thánh Luca (Lc 24,50-53) lại nói Chúa lên Trời ở Bê-ta-ni-a?

1.     Ga-li-lê-a

Mat-thêu không có ý nhấn mạnh tới địa danh nơi Chúa lên Trời, nhưng tác giả muốn nhấn những sự kiện có liên quan tới công trình cứu thế của Đức Giê-su tại Ga-li-lê-a:
Ga-li-lê-a là một địa danh rộng lớn thuộc phía bắc It-ra-en, nơi có đủ các thứ dân sinh sống. Đây là khu vực mà người It-ra-en ở Giê-ru-sa-lem coi khinh, cho là vùng đất của dân ngoại.  Nơi đây được coi như trung tâm của các giao tiếp, sắc tộc, ngôn ngữ, thương mại, hoà trộn tín ngưỡng và vô tín ngưỡng.
Ga-li-lê-a được coi là điểm hẹn lí tưởng giữa Thiên Chúa và con người: Trên núi Si-nai, nơi Môi-sen đã ở trên đó 40 ngày đêm và được Thiên Chúa mạc khải cho 10 điều răn.  Ngôn sứ I-sa-i-a và sau này là thánh Mat-thêu nhắc tới địa danh Ga-li-lê-a như một điểm sáng: “Hỡi Ga-li-lê-a miền đất của dân ngoại, những dân đang ngồi trong bóng tối tử thần được nhìn thấy ánh sáng” (Is.9,1).
Ga-li-lê-a gắn liền với sứ vụ của Đức Giêsu: Na-da-ret nằm trong vùng đất Ga-li-lê-a, nơi gia đình Đức Giê-su sinh sống, lớn lên và làm việc.  Trên núi Ô-liu, nằm phía đông Giê-ru-sa-lem, là nơi Đức Giê-su thường xuyên đến để cầu nguyện.  Tại đây còn có vườn Giêt-si-ma-ni, có làng Bê-ta-ni-a, nơi Người đã cho La-da-rô chết bốn ngày sống lại, có ngọn núi Bet-pha-giê nơi khởi điểm cuộc rước Đức Giê-su long trọng vào thành Giê-ru-sa-lem và tiên báo thành này bị tàn phá không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào.
Galilêa còn là dấu chỉ hẹn cuối cùng của Đức Giê-su với các môn đệ: Cũng có mây mù che phủ, như đã từng che phủ Môi-sen trên núi Si-nai, cũng như Đức Giê-su với ba môn đệ yêu dấu ở Ta-bo-rê; cũng con số 40 kì diệu: 40 ngày trên núi Si-nai của Môi-sen hay 40 ngày chay tịnh của Chúa; 40 ngày sau khi Đức Giê-su sống lại, Người đã gặp gỡ lần cuối với các môn đệ như đã chỉ định trước: “Các bà hãy mau về nói với các môn đệ rằng người đi Ga-li-lê-a trước các ông” (Mt.28,7).
Như vậy Ga-li-lê-a là nơi Chúa Giê-su đã sống gương mẫu, rao giảng chân lí, thành lập Giáo Hội và tuyển môn đệ.  Đức Giê-su đã làm xong nhiệm vụ và đi trước để dọn chỗ cho những ai tiếp tục sứ mệnh Người giao phó.

2.     Cõi Trời

Chúa Giê-su về Trời, là về nơi Người phát xuất: Ngài đã hoàn thành nhiệm vụ của Người ở trần gian, Người cần được hưởng vinh quang với Ba Ngôi Thiên Chúa.  Mười một Tông đồ đã đến điểm hẹn, có một số còn hoài nghi.  Thực ra tất cả các môn đệ đều khởi đầu từ chỗ hoài nghi rồi đến tin tưởng, và dám đổ máu mình ra để chứng tỏ niềm tin đó.  Các ngài vẫn còn những hạn chế của con người, như Phê-rô, Tô-ma, hay hai môn đệ Em-mau; các ngài còn phải được học hỏi các màu nhiệm mặc khải, các ngài phải được thử thách đủ, trước khi làm nhiệm vụ.  Các Tông đồ còn được chứng kiến Thầy mình về Trời để các ông hi vọng.  Chỉ có sự thật mới thuyết phục được các ngài theo Chúa; tất cả nói lên rằng, Đức tin là một hành động hoàn toàn tự do dành cho con người.
Chúa lên Trời là đi từ chỗ hữu hình vào nơi vô hình: Nói Chúa lên Trời, là nói theo kiểu thế gian. Người ta thường quan niệm trời là tất cả không gian ngoài trái đất, trời là nơi Đấng Tạo Hoá ngự trị và điều khiển muôn loài.  Tuy nhiên, Trời đây không phải là một điểm nào, không phụ thuộc chiều cao của không gian vật lý, không phụ thuộc vào quy luật của vũ trụ, thời gian, có thể cân đong đo đếm. Chúa lên Trời không phải là lánh xa trái đất, đến ngự trị trong một vì tinh tú hào quang, Chúa lên Trời là thay đổi từ trạng thái tự nhiên sang trạng thái siêu nhiên.  Trời hay Thiên đàng là một, Người hiện diện khắp mọi nơi.
Đức Giê-su về Trời để nhận nhiệm vụ mới: Người duy trì sự hiện diện của Người nơi nhân loại: “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”(Mt 28,20).  Đức Giê-su được trao toàn quyền trên trời, dưới đất, vũ trụ hữu hình và vô hình.  Người đánh bại cái chết, Người làm Vua vũ trụ, Đấng sáng tạo và bảo tồn vũ trụ, không có gì nằm ngoài quyền của Người.

3.     Thế gian

Đức Giê-su đã về Trời và trao lại nhiệm vụ cho Giáo Hội. Người đã lệnh cho mọi người trên trái đất phải thi hành chỉ thị của Người:
Vậy anh em hãy đi giảng dạy cho muôn dân và làm cho họ trở thành môn đệ Thầy.  Môn đệ đây được hiểu là các Kitô hữu. Đức Giê-su gọi các môn đệ và muốn họ nhân rộng ra, tăng mạnh lên.  Chúa tạo dựng con người và muốn cho họ hưởng hạnh phúc.  Các Tông đồ được coi là người kế nghiệp Chúa Ki-tô, là những thợ gặt lành nghề.  Họ phải biết đưa mọi người vào Nước Chúa.  Chúa từ chối Sa-tan với tất cả vinh hoa của nó, Người muốn các Tông đồ tiếp tục chinh phục toàn thể vũ trụ để đưa mọi người vào Nước Trời hạnh phúc mà Người đi trước dọn chỗ, để mọi người có thể tận hưởng muôn đời.
Hãy làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và  Thánh Thần.  Đức Giê-su muốn thâu nạp nhiều môn đệ qua phép Thanh Tẩy.  Người đã thánh hoá nước, để nước có sức thánh hoá nhờ Thánh Linh. Người muốn họ nối kết với nhau trong một tập thể, mà Ba ngôi Thiên Chúa là mối dây, là tình yêu liên đới, là sức sống sung mãn dồi dào trong toàn thể, cũng như từng cá nhân.  Không thể nhân danh cá nhân nào, không nhân danh thụ tạo nào, thần thánh nào, mà là nhân danh Ba Ngôi Thiên Chúa, để họ được gia nhập vào gia đình thánh thiện của Chúa.
Hãy dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.  Việc Đức Giê-su đặt nhiệm vụ này cuối cùng, không phải là Người dạy họ phải làm theo thứ tự như vậy, đó chỉ là câu nói nhằm mục đích kêu gọi môn đồ.  Người muốn họ phải hiểu biết đầy đủ, để chia sẻ Lời dạy của Chúa, phải biết được giá trị của việc làm, để thực thi nhiệm vụ của một môn đệ.
Nhiệm vụ Chúa giao phó cho các Tông đồ cũng là nhiệm vụ của chúng ta.  Chúa không muốn riêng ai quản lí màu nhiệm Mạc khải, Chúa ra lệnh mỗi người phải mạnh dạn ra đi rao giảng và làm chứng về Người, hầu được hưởng phúc Nước Trời với Thiên Chúa Ba Ngôi.
Jos Trần Xuân Chiêu

****************************************

Lạy Chúa, xin Chúa cho chúng con tin bằng trái tim, tuyên xưng bằng miệng và bày tỏ bằng việc làm, rằng Chúa ngự trong chúng con ngõ hầu nhân loại thấy rõ những việc lành chúng con làm mà tôn vinh chúc tụng Cha chúng con trên trời.  Vì Đức Giêsu Kitô Chúa chúng con, Đấng muôn đời vinh hiển.  Amen!

Origênê

Anh chị Thụ & Mai gởi

Hòa Giải Sau Chiến Tranh Nam – Bắc (1861-1865) của Hoa Kỳ

Hòa Giải Sau Chiến Tranh Nam – Bắc (1861-1865) của Hoa Kỳ

Nhân kỷ niệm lần thứ 38 ngày 30/4 (1975-2013), xin mời anh chị em đọc lại lịch sử Hoa Kỳ về cuộc chiến tranh Nam – Bắc (1861-1865) và chủ trương hoà giải của phe thắng trận sau khi cuộc nội chiến Nam-Bắc (1861-1865) chấm dứt để có sự so sánh giữa hoàn cảnh lịch sử của nước Mỹ (1865) và Việt Nam (1975)…

Tướng Ulysses S.Grant lúc đó (1865) là Tổng Tư Lệnh Quân Độ Liên Bang (tức Quân Đội Miền Bắc) đã gửi cho Tướng Robert E. Lee (Tư Lệnh Quân Đội Liên Minh – Confederate State Army – tức Quân Đội Miền  Nam) một bức thư lịch sử nội dung như sau: (dịch)

“Tổng Hành Dinh Quân Đội Liên Bang,

Lúc 5 giờ chiều ngày 7 tháng Tư, 1865.

Gởi Tướng Robert E.Lee, Tư Lệnh Quân Đội Liên Minh (Confederate Army).

Những kết quả trong tuần vừa qua chắc đã thuyết phục ông về tình thế tuyệt vọng của Quân Đội Bắc Virginia khi còn kháng cự thêm, trong cuộc xung đột này. Tôi cảm thấy đúng như vậy, và để tránh trách nhiệm của tôi về việc đổ máu thêm, tôi yêu cầu ông cho đầu hàng một bộ phận của Quân Đội Liên Minh dưới tên Quân Đội Bắc Virginia (the Army 0f Northern Virginia).

Ký tên: U.S Grant

Trung Tướng”

(Điều kiện đầu hàng:

-Không một ai bị giết để trả thù.

-Không một ai bị truy tố ra toà về tội phản quốc. Nhân phẩm của họ được tôn trọng.

-Họ được giữ lại súng ngắn, kiếm lừa và ngựa mà họ đã mang theo khi nhập ngũ.

-Sau khi ký giấy cam kết, họ sẽ không bao giờ cầm súng chống lại Chính phủ Liên bang. Họ sẽ được tự do  ra về đoàn tụ với gia đình, và được bảo đảm yên tâm sinh sống, không có một viên chức địa phương nào làm khó dễ và một thời gian sau sẽ được phục hồi quyền công dân)

Thư trả lời của Tướng Lee ngay sau khi nhận được thư của Tướng Grant:

“Ngày 7 tháng Tư, 1865

Thưa Trung Tướng,

Hôm nay, tôi đã nhận được bức thư ngắn của ông. Mặc dù không thích thú với ý của ông khi diễn tả việc vô hy vọng của một tộ phận của Quân Đội Bắc Virginia, tôi cảm kích về lòng mong muốn của ông muốn tránh cuộc đổ máu vô ích. Trước khi xem xét ý muốn của ông, xin cho tôi biết những điều kiện ông sẽ đề nghị để Quân Đội Bắc Virginia đầu hàng.

Ký tên: R.E.Lee

Đại Tướng. “

Sau khi nhận được điều kiện do Tướng Grant đưa ra (xem điều kiện ở trên), Tướng Lee đã ký biên bản đầu hàng và Tướng Grant đã báo cáo cho Tổng Hành Dinh tại Washinhton DC như sau:

“Lúc 4:30 giờ chiều, ngày 9 tháng Tư, 1865

Tổng Hành Dinh Appomattox CH, VA.

Kính gửi Ngài E.M. Stanton,

Bộ Trưởng Bộ Chiến Tranh, Washington,

Chiều nay, Tướng Lee đã cho Quân Đội Bắc Virginia đầu hàng, theo những điều kiện do tôi đưa ra. Những tài liệu bổ túc đính kèm sẽ được gửi đến ngài đầy đủ.

U.S Grant

Trung Tướng.”

Đoàn quân đầu hàng gồm có 27.805 người. Họ được cung  cấp lương thực đầy đủ. Bên phe thắng trận không hề có một tiếng reo hò hay chế nhạo, Họ đứng nghiêm trang, đưa tay chào đoàn quân bại trận đang lần lượt trao nộp vũ khí.  Sau đó, Chính phủ Liên Bang đã trả lại tài sản bị trưng dụng hoặc bị chiếm đoạt cho phe bại trận để hàn gắn vết thương chiến tranh, xoá bỏ hận thù. Tổng Thống Abraham Lincon đã thực hiện đoàn kế dân tộc, mọi người trong nước đóng góp khả năng của mình vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, làm cho Hoa Kỳ trở thành một cường quốc giàu có và hùng mạnh nhất thế giới cho đến ngày nay. Sau khi Tổng Thống Abraham Lincoln bị ám sát chết, Tướng Grant đã đắc cử Tổng Thống Hoa Kỳ.

(Nguyễn Lý-Tưởng sưu tầm)

Còn chờ mong một lời nào nữa chăng?

Còn chờ mong một lời nào nữa chăng?

Đăng bởi lúc 1:35 Chiều 6/05/13

nguồn:chuacuuthe.com

VRNs (06.05.2013) – Ephata – Trong những ngày vừa qua, trên các trang báo mạng cũng như cả trên các phương tiện của hệ thống truyền thông Nhà Nước, một số tin tức về cuộc sống của người dân được truyền đi nghe đau nhói trong lòng. Xin tạm liệt kê, một số bài đăng lại trên số báo Ephata lần này:

Bài báo “Trẻ em vùng cao co ro trong giá lạnh” (http://www.tinmoi.vn/tre-em-vung-cao-co-ro-trong-gia-lanh-01697329.html). Một bài báo khác: “Một tháng có thêm 13,6 nghìn hộ thiếu đói” (http://phunutoday.vn/xa-hoi/doi-song/201305/Mot-thang-co-them-136-nghin-ho-thieu-doi-2214152/). Bài “Tộc người sống nhờ củ mài” (http://www.tienphong.vn/xa-hoi/624396/Toc-nguoi-song-nho-cu-mai-tpol.html). Những tin tức do chính ông Giàng Seo Phử, Bộ trưởng Chủ nhiệm Ủy Ban Sắc Tộc Việt Nam nói về cái nghèo cái đói ăn của các trẻ em miền núi, trước đó qua trang blog của mình, ông Mai Văn Hải đã chia sẻ rất nhiều về cái bất hạnh của trẻ em vùng cao nguyên mà ông chứng kiến hoặc tiếp cận trong chương “Áo ấm biên cương” (http://maithanhhaiddk.blogspot.com/2013/03/ao-am-bien-cuong-qua-ong-kinh-bien-phong.html).

Một bài trên báo Pháp Luật có tựa đề “Chết để con được học” kể về một phụ nữ tên là Nguyễn Thị Mỹ Nhân, 48 tuổi, ở thành phố Cà Mau, do hoàn cảnh gia đình quá túng quẫn, lại lâm bệnh nặng nên đã quyên sinh để không gây gánh nặng cho chồng cho con, với ước mong nhờ tiền phúng điếu mà các con có tiền ăn học. (http://phapluattp.vn/20130426114615700p0c1015/chet-de-con-duoc-hoc.htm”). Rồi lại câu chuyện “Tấn bi kịch của cái nghèo (http://daotuanddk.wordpress.com/2013/05/03/tan-bi-kich-cua-cai-ngheo/) và bao nhiêu câu chuyện khác về cái nghèo mà kẻ biết, người không biết.

Bài Tin Mừng Chúa Nhật thứ VI mùa Phục Sinh (Ga 14, 23 – 29) ghi lại lời của Chúa Giêsu: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (c. 26). Chắc chắn Chúa Thánh Thần nói với chúng ta khi chúng ta nghe Lời Chúa trong Sách Thánh, chắc chắn rằng Chúa Thánh Thần nói với chúng ta qua các biến cố xảy ra quanh chúng ta, qua các biến cố ấy Chúa Thánh Thần dạy dỗ chúng ta, nhắc lại những gì Chúa Giêsu đã nói với chúng ta.

Nghe Lời Chúa qua Sách Thánh trong các buổi thờ phượng, không phải là nghe một cách máy móc, hời hợt, mau qua, Lời Chúa chỉ tỏ tường và phát sinh hiệu quả khi chúng ta biết nghe và nghe một cách tinh tế, nghe trong đáy sâu của tâm hồn, nghe một cách đầy diệu cảm và chìm đắm trong miền diệu cảm ấy. Người ta nói là phải có được nghệ thuật nghe Lời Chúa. Qua các biến cố, qua những gì xảy ra chung quanh cũng vậy, chúng ta có đọc được thánh ý của Chúa không? Chúa muốn nói gì? Hãy lắng nghe một cách tinh tường tiếng Chúa nói.

Ba ngày sau khi nhận nhiệm vụ Mục Tử của Giáo Hội Công Giáo Roma, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói với giới truyền thông về Tông Hiệu của mình: người nghèo, hòa bình và môi trường. Chúng ta nghe thấy gì qua những lời này, chúng ta nghe thấy gì sau những biến cố này, chúng ta nghe thấy gì qua Tông Hiệu này. Cụ thể những lời này được ngỏ cho chúng ta, những người đang sinh sống trên quê hương Việt Nam? Còn chờ mong một lời nào nữa chăng?

Lm. VĨNH SANG, DCCT, 5.5.2013

Nguồn: Ephata 560

NHỮNG BỆNH… VÔ DUYÊN!

BS  Ðỗ Hồng Ngọc

Tuy già không phải là một bệnh nhưng già thì thường có bệnh. Bệnh thì có bệnh nặng, bệnh nhẹ, bệnh có duyên và bệnh… vô duyên. Ai cũng biết thầy thuốc là người được học hành cẩn thận để giúp ta chữa trị bệnh tật, vậy mà thầy thuốc cũng có thể gây bệnh cho ta, dù là ngoài ý muốn, cái đó gọi là bệnh do thầy thuốc gây ra (iatrogenic) mà theo GS. Phạm Khuê, một chuyên gia về Lão khoa, Chủ tịch Hội người cao tuổi Việt Nam thì có đến hơn một phần tư các bệnh ở người già là do thầy thuốc gây ra! (Bệnh học tuổi già, Phạm Khuê, NXB Y Học, 1998, trang 364).


Những bệnh… vô duyên còn có thể do chính bản thân mình, người thân trong gia đình, bạn bè, hàng xóm, hoặc các nhân viên tâm lý xã hội gây ra nữa! Bà cô của một bác sĩ bạn tôi trên 80 tuổi kêu lúc nào trong người cũng nóng bức, miệng khô nên đã mua rễ tranh, mía lau, mã đề ngoài chợ về nấu “nước mát” uống. Mát đâu không thấy, thấy đi tiểu liên tục gây thêm tình trạng mất nước trong cơ thể, lại thấy nóng bức, thấy khô miệng, lại uống thêm “nước mát”! Thì ra “rễ tranh, mía lau, mã đề” là những loại thuốc lợi tiểu (diuretics).

Một ông bác gầy còm nghe hàng xóm bày vẽ có loại tễ mập, bèn mua uống mấy cây. Mập thiệt! Nhưng người béo bệu, cơ thể bạc nhược! Thì ra, thuốc tễ đó chỉ là bột mì trộn với mật ong và Corticoil, một thứ thuốc uống vào lâu ngày gây hội chứng Cushing, ứ nước, làm mập bệu và gây ra vô số những tác dụng tai hại khác như giảm sức đề kháng, mọc lông, loãng xương, loét bao tử, cao huyết áp…

Ta cũng biết thuốc chữa đau khớp có thể gây loét dạ dày; thuốc điều trị cao huyết áp có thể gây hạ huyết áp đột ngột; thuốc trị tiểu đường làm hạ đường huyết; thuốc uống cho đỡ bị đái són ở người già thì gây khô miệng, đỏ da, mờ mắt, chóng mặt…

Một đặc điểm sinh học của người cao tuổi là khả năng thích ứng dần kém đi. Hấp thu thuốc đã chậm mà đào thải cũng chậm. Tác dụng phụ của thuốc lại thiên hình vạn trạng, tùy từng người, từng lúc, có thuốc người này dùng thì tốt mà bày cho người khác không xong, uống vào bị phản ứng ngay.

Cho nên dùng thuốc ở người già phải dò dẫm trên từng trường hợp, giảm liều, giảm lượng, đắn đo tính toán trước sau, nào bệnh trước mắt, nào bệnh tiềm tàng; thuốc chữa được bệnh này nhưng có gây ra bệnh khác không, có làm bộc phát một bệnh cũ nào đó không, người bệnh ăn uống ra sao, tiêu tiểu ra sao và trạng thái tâm thần ra sao?

Người cao tuổi cũng thường hay tự ý gia giảm thuốc, tin lời bày vẽ, ai mách gì cũng nghe, gây tương tác thuốc lung tung rất dễ sinh ra nhiều bệnh…. vô duyên đáng tiếc.

Ngày càng có nhiều máy móc xét nghiệm và một số người cao tuổi cũng thường muốn được xét nghiệm này nọ.

Báo Paris Match của Pháp có đăng trường hợp một bà già bị rối loạn tiêu hóa đến khám ở một bác sĩ. Bác sĩ thấy không có gì nặng nhưng cũng gởi cụ làm thêm vài xét nghiệm cho chắc. Sau đó, bà cụ được tiếp tục làm thêm hàng loạt các xét nghiệm khác ngày càng phức tạp hơn vì xét nghiệm đơn giản không tìm ra bệnh: Siêu âm, nội soi, sinh thiết, chụp cắt lớp, chụp cản quang mạc treo…

Sau hơn một tháng chuyển từ trung tâm này đến bệnh viện kia, nằm đợi trên những băng ca lạnh lẽo, đẩy từ hành lang này sang hành lang khác, tiếp xúc với những người mang khẩu trang chỉ chừa đôi mắt lạnh lùng, bà cụ rơi vào tình trạng khủng hoảng tâm lý trầm trọng và tiêu tốn mất 35 ngàn quan Pháp.

Cuối cùng các bác sĩ hội chẩn kết luận không có bệnh gì cả!

Tây gọi những người sính xét nghiệm là “examinite”.

Tổ chức sức khỏe thế giới (WHO) cũng cảnh báo hiện tượng over – investigation, “thăm dò quá mức cần thiết” này (Health of the Elderly, WHO, 1989).
Một số người cao tuổi được chăm sóc bảo bọc quá đáng, được làm xét nghiệm thăm dò, theo dõi liên tục làm cho người bệnh muốn… hết bệnh cũng không được; không kể trong quá trình thăm dò, chọc hút, bơm tiêm, thụt tháo… không phải là không có nguy cơ.

Dĩ nhiên nếu có bệnh thì cần phải làm để có chẩn đoán chính xác và điều trị hiệu quả. Còn thăm dò chỉ để… thăm dò thì không nên. Các chuyên gia khuyên chỉ nên làm xét nghiệm cho người già khi nhằm để chẩn đoán một thứ bệnh có thể chữa được, có thể phục hồi được, có lợi cho người bệnh hoặc để chẩn đoán phân biệt tìm ra một bệnh có tiên lượng tốt hơn, điều trị có kết quả hơn, có lợi cho bệnh nhân và gia đình hơn mà thôi. Tóm lại, biết ơn mình thì cần thiết lắm mới phải làm xét nghiệm và phải có chỉ định của bác sĩ.

Thế nhưng có thứ không phải là thuốc, không phải là thủ thuật gì cả mà vẫn có thể gây ra những bệnh vô duyên: đó là lời nói!

Có những lời nói gây hoang mang, lo lắng, làm mất ăn mất ngủ, gây kiêng cữ quá đáng làm cho tình trạng bệnh khó phục hồi hơn. Cái đó gọi là sự “dán nhãn” (labelling). Chẳng hạn như người không có chuyên môn, không đủ cơ sở khoa học chắc chắn mà “phán” cho một cái chẩn đoán kiểu như “nghi ung thư”, “hơi bị lớn tim”, hoặc một từ mơ hồ như “máu lộn mỡ, gan hơi nhiễm mỡ, viêm nhiễm phần phụ, rối loạn thần kinh thực vật”… hoặc “bị thư phù, bị người cõi trên nhập….” đều đem lại những kết quả tai hại không thể ngờ được!

Ngay cả bị dán nhãn là già cả, già nua, già yếu, mất sức rồi bị ép phải nằm yên một chỗ, lúc nào cũng có người nâng đỡ chăm sóc thì sẽ ngày càng lệ thuộc, ngày càng suy nhược, mau loãng xương, bắp cơ thoái hóa, cứng khớp nhanh.

Ðáng sợ hơn cả là bị ép phải vào nằm viện, nằm nhà thương, nhà dưỡng lão, nhà nghỉ mất sức… khi vẫn còn có thể tự quản được. Thật ra đây chỉ là giải pháp cuối cùng vì một khi đã vào các cơ sở này rồi thì không hy vọng gì trở lại đời sống bình thường được nữa vì càng ngày càng thụ động, ỷ lại, lệ thuộc, suy sụp.

Các cơ sở chăm sóc cho người già thực ra rất cần thiết, miễn là phải giữ một số nguyên tắc như đảm bảo sự riêng tư, tôn trọng cá nhân, giúp tự chủ, tự quản, và tạo nhiều cơ hội cho họ tham gia sinh hoạt phù hợp với sở thích và sức khỏe.

Tóm lại, không nên để người cao tuổi mắc thêm những bệnh… vô duyên!

Công nhân bauxit đình công hơn 2 tuần lễ

Công nhân bauxit đình công hơn 2 tuần lễ


May 03, 2013

nguồn:nguoi-viet.com


BẢO LỘC (NV) .- Từ giữa Tháng Tư, một số công nhân nhà máy Alumina Tân Rai đã đình công đòi lương, nay có thêm 150 công nhân khác ngừng việc để phản đối tiền lương “không phù hợp”.

Công nhân dùng bạt che phủ hàng ngàn tấn alumin tồn kho đang phơi mưa nắng tại nhà máy alumina Tân Rai. (Hình: báo Bảo Lộc)

Báo Đất Việt hôm Thứ Sáu 3/5/2013 cho hay như vậy về tình trạng chết dở của công nhân nhà máy tuyển luyện quặng bauxite ở Tân Rai. Ban quản lý nhà máy đã không những trả tiền lương rất thấp lại còn ỳ ra không trả lương cho công nhân.

Theo tin báo Đất Việt “Ngày 2/5, chỉ sau hơn một tuần công nhân phân xưởng thi công cơ giới – xí nghiệp mỏ tuyển (Công ty TNHH một thành viên Nhôm Lâm Đồng) ngưng việc, nay khoảng 150 công nhân phân xưởng tuyển khoáng đã ngưng việc để phản ứng về định mức và tiền lương không phù hợp.”

Lấy cớ nhà máy “chưa có lãi” đám  “lãnh đạo xí nghiệp” chỉ hứa hẹn “sẽ cải thiện chế độ cho anh em trong thời gian tới”.  Tuy nhiên “Tất cả công nhân đều không đồng ý kết quả làm việc và đồng loạt bỏ về”.

Từ ngày 16/4/2013 vừa qua, hơn 50 tài xế thuộc Xí nghiệp mỏ tuyển bôxit Tân Rai (Lâm Đồng) đã đồng loạt ngưng việc vì càng làm càng mắc nợ công ty. Trong khi đó, 20,000 tấn alumin của nhà máy này chưa bán được.

Một phần nhà máy luyện alumina ở Tân rai, Lâm đồng. (Hình: Kiến thức Việt Nam)


Theo tin báo thành phố Bảo Lộc, việc làm thì thất thường, lương vừa thấp lại còn bị nợ từ Tháng ba không có, và lương những tháng trước đó cũng không được trả đủ mà nhà máy nợ lại một phần. Họ không đủ sống nên phải đình công.

Nhà máy luyện quặng bauxite Tân Rai bắt đầu chạy từ năm ngoái sau nhiều trở ngại kỹ thuật. Rất nhiều lời khuyến cáo, ngăn cản của giới chuyên viên vì đã nhìn thấy trước những thất lợi kinh tế cũng như những nguy hại cho môi trường sống của hàng triệu người, chế độ Hà Nội vẫn tiến hành. Chính ông thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã phản ứng lại những sự chỉ trích rằng đây là ‘chủ trương lớn của đảng và nhà nước”.

Hiện có khoảng hơn 20,000 tấn alumina đã luyện xong, xếp đống phơi mua phơi nắng giữa trời không bán được cho ai dù muốn bán lỗ vốn.
Đường vận chuyển alumina thì cũng đầy trắc trở. Cảng Kê Gà ở Bình Thuận dự trù xây dựng làm cảng vận chuyển alumina ra bán ở ngoại quốc, nay phải bỏ vì “không phù hợp”. Cảng mới chưa có nên phải dùng đỡ một cảng ở phía nam. Nhưng con đường vận chuyển thì vừa nhỏ vừa hư hỏng và sẽ không chịu nổi những chiếc xe tải quá khổ quá nặng chở alumina.

Hiện giờ, vấn đề khai thác bauxite ngay ở dự án đầu tiên đang rơi vào bế tắc. Hàng trăm triệu đô la đổ vào dự án này và dự án Nhân Cơ (đang xây dựng) không ai biết sẽ đi về đâu.

Yêu Như Chúa Yêu

Yêu Như Chúa Yêu

Lm. John Nguyễn, Utica, New York.

Khi suy niệm Lời Chúa hôm nay, tôi chợt nhớ lời bài hát của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, ông viết: “Xin hãy cho mưa qua miền đất rộng, ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau…” Sỏi đất là vật vô tri. Ấy thế mà nó vẫn cần có nhau, thì mới có thể làm thành ngôi nhà lớn. Ông đã mượn hình ảnh sỏi đá để đưa ra một triết lý sống. Con người sống với nhau cần có một tấm lòng và biết yêu thương nhau, vì không ai có thể sống mà không yêu. Thật vậy, mỗi người chúng ta cần yêu và được yêu. Ít nhất là một người nào đó trong cuộc đời. Tình yêu làm biến đổi và thăng hoa cuộc sống. Nhưng để sống đúng với ý nghĩa của tình yêu, thì chúng ta hãy học cách yêu của Chúa Giêsu dưới ánh sáng Tin mừng hôm nay.

Thánh Gioan thuật lại, trước khi Chúa Giê-su bước vào cuộc khổ nạn và chịu chết, Ngài đã trăn trối lời sau cùng cho các tông đồ một sứ điệp quan trọng, đó là: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau ; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” Và điều răn mới này được hiểu như thế nào? Nó có ảnh hưởng gì đến đời sống của chúng ta?.

Trong đời sống gia đình, tình yêu là nền tảng mang lại hạnh phúc. Một gia đình hạnh phúc là một gia đình biết yêu thương nhau. Vợ chồng con cái yêu thương nhau. Tất cả mọi người hiệp nhất và yêu thương nhau để mang lại niềm vui và hạnh phúc trong cuộc sống. Ai cũng mong ước mình được điều đó. Thế nhưng, trong thực tế cuộc sống gia đình, chúng ta phải nhìn nhận rằng, không phải ai cũng có được những hạnh phúc ngọt ngào êm đềm như dòng sông phẳng lặng. Chuyện vợ chồng xung đột cải vả, rạn nứt và đổ vỡ vẫn đang diễn ra hàng ngày trong đời sống vợ chồng, vì sự khác biệt tâm lý, về quan niệm sống, cách suy nghĩ và hành động. Từ những khác biệt đó dẫn đến cuộc sống vợ chồng trở thành gánh nặng cho nhau, trở thành ngục tù cho nhau, rồi dẫn nhau ra tòa ly dị. Khi tình yêu đã hết, thì mọi chuyện đổ vỡ sẽ xẩy ra trong gia đình. Điều này chúng ta có thể cảm nhận được nơi chính mình và mọi người đang sống chung quanh ta. Tôi thiết nghĩ rằng, khi người ta mất đi niềm tin tưởng lẫn nhau, thì họ không dám sống cho nhau, không dám hy sinh cho nhau.

Ngày nay, con người thường đề cao lối sống chủ nghĩa cá nhân, thì làm gì có sự hy sinh cho người khác. Vì họ sợ bị thiệt thòi, thua thiệt cho bản thân mình. Tính ích kỷ luôn giam hãm con người qui hướng về chính mình hơn là tha nhân, và tự biến mình trong một thế giới riêng, không dám sống cho người khác và ngay cả người thân cận của mình. Khi ta có lối suy nghĩ và cách sống như thế, thì làm gì có sự yêu thương và hy sinh cho người khác. Có thể đó là những nguyên nhân gây ra rạn nứt và đổ vỡ trong cuộc sống gia đình và mối liên hệ với tha nhân trong bối cảnh hôm nay. Cho nên, Lời Chúa vẫn là lời mời gọi thiết thực và là nền tảng cho chúng ta. Nếu sỏi đá cũng cần có nhau, thì tại sao chúng ta có thể tách biệt và loại trừ anh chị em mình, hay đang tâm hãm hại và giết chết một con người cần được sống như chúng ta, cần yêu và được yêu như chúng ta hằng khát khao, trong khi đó con người là hình ảnh Thiên Chúa.

Hơn bao giờ hết, khi nhìn ra thế giới rộng lớn, có biết bao người đang phải chịu đau khổ và bị giết chết bởi chiến tranh, thống trị và tàn bạo của con người. Cho nên, lời của Chúa Giêsu nói:” Anh em hãy yêu thương nhau” càng trở nên khẩn thiết và cấp bách hơn cho những tâm hồn còn mang nặng lòng hận thù và ghen ghét. Với niềm tin của người Kitô hữu, chúng ta không thể làm ngờ với chân lý này. Chỉ có tình yêu mới có thể biến đổi lòng hận thù. Tình yêu thì mạnh hơn sự chết. Tình yêu giúp con người xích lại gần nhau và tha thứ cho nhau.” Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hy sinh mạng sống vì người mình yêu.” Hy sinh luôn là nền tảng vững chắc để tình yêu được lớn lên. Trái lại, tình yêu không có sự hy sinh là tình yêu vụ lợi, ích kỷ và giả dối. Điều này chúng ta có thể cảm nhận được khi chúng ta yêu một người nào đó. Cụ thể là tình thương của cha mẹ dành cho con cái. Cho dù có khó khăn, gian khổ và vất vả, nhưng vì yêu thương con cái và hạnh phúc gia đình, cha mẹ đã chấp nhận hy sinh.

Thật vậy, tình yêu luôn gắn liền với sự hy sinh. Nếu chúng ta sống đúng với giá trị Tin mừng, thì tình yêu đó được nẩy sinh và đôm hoa kết trái. Tình yêu đích thực có giá trị vĩnh cữu và tuyệt đối. Tình yêu đó phát xuất từ Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Tình Yêu. Chúa Giê-su chấp nhận hy sinh mạng sống của Ngài để cứu chuộc con người. Ngài đón nhận tất cả những hình phạt của con người đã gắn cho Ngài. Ngài phải chịu sự sỉ nhục, chế nhiễu, roi đòn, cáo gian, phản bội và gian ác của con người để lấy bản án tử hình trên thập giá, vì yêu thương chúng ta. Chúa Giê-su chết để chứng minh tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người.

Khi chúng ta tuyên xưng niềm tin của mình vào Đức Ki-tô phục sinh là cứu cánh đời mình, thì chúng ta cũng phải biết hy sinh và chết đi con người cũ của mình, chết đi tính ích kỷ, chết đi tính kiêu căng tự mãn đang giam giữ trong cõi lòng chúng ta. Khi chúng ta biết chết đi con người cũ của mình, là lúc chúng ta sống trong tình yêu mới và một cuộc sống mới hoàn thiện hơn. Nhờ đó, chúng ta mới biết trao ban, biết cho đi tình thương và đem lại hạnh phúc cho những người thân yêu đang hiện diện với chúng ta. Đã yêu thì không so đo tính toán hơn thiệt, mà tình yêu đó được gắn liền với sự hy sinh và dâng hiến cho người mình yêu.

Lạy Chúa, xin cho chúng con mỗi ngày học lại cách yêu, như Chúa đã yêu chúng con.

Lm. John Nguyễn, Utica, New York.

Sống đạo hạnh phúc: Đôi lời chia sẻ với anh chị em Tân tòng

Sống đạo hạnh phúc: Đôi lời chia sẻ với anh chị em Tân tòng
Đức cha Giuse Đinh Đức Đạo
Đăng bởi lúc 12:47 Sáng 6/05/13
VRNs (06.05.2013) – Đồng Nai – Mối bận tâm của các cha xứ và của tất cả những ai đã đồng hành với anh chị em tân tòng trong hành trình Đức Tin là sự trung thành với Chúa và với Giáo Hội, nhất là trong hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống. Đây chắc chắn cũng là mối bận tâm lo lắng của chính các anh chị em tân tòng. Nhưng tôi nghĩ mối bận tâm chính yếu phải là làm sao sống hạnh phúc khi theo đạo Chúa. Người ta không thể trung thành với Chúa và với Giáo Hội nếu không hạnh phúc vì được biết Chúa và theo Chúa hay nói cách khác, nếu người ta hạnh phúc thì chẳng dại gì mà bỏ đi. Đây cũng chính là một trong những mục đích của Năm Đức Tin, tức là cần phải có một cuộc trở lại chân thật với Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế duy nhất của nhân loại (x. PF 6) để tìm lại được niềm vui và lòng hứng khởi vì được biết Chúa và gặp Chúa (x. PF 2).
Như vậy, để sống hạnh phúc trong đời sống đạo, cần phải tìm được nguồn hạnh phúc. Ngoài ra, cũng cần phải làm sáng tỏ các nghi vấn. Đó là hai khía cạnh của các suy tư dưới đây.
1.                  Suối nguồn của hạnh phúc
Có hạnh phúc thực khi gặp được một người mình thương mến và người đó thương mến mình. Những lý do khác, chẳng hạn, giầu có, ăn uống, chơi vui giải trí, có thể làm cho niềm vui sống Đạo được dễ dàng hơn, nhưng cũng nguy hiểm có thể sẽ làm cho tắt mất niềm vui mới nhen nhúm. Người ta thường nói: “Hai trái tim vàng trong túp lều tranh”. Khi thương yêu nhau, dù chỉ có túp lều tranh cũng vui, cũng hạnh phúc; khi không có tình thương thì có ngồi trên nhung lụa và ăn bát bằng vàng cũng buồn, cũng chán và có khi còn đau khổ nữa. Do đó, theo Đạo sẽ có hạnh phúc nếu các anh chị gặp được Chúa và hiểu được là Chúa thương yêu mình và sống trong tình nghĩa với Ngài, chứ không phải chỉ tin vào mấy tín điều hay giữ mấy điều luật. Dĩ nhiên, chấp nhận các điều cần phải tin và tuân giữ các giới răn cũng quan trọng, nhưng chúng chỉ là những sự chuẩn bị, những điều kiện hay những đòi hỏi của việc gặp gỡ chính Chúa.
Vậy, tôi muốn hỏi các anh chị: Vì sao các anh chị theo Đạo?
–                      Để lấy chồng, lấy vợ?
–                      Để trả ơn một ân nhân là người công giáo?
–                      Vì nể bạn bè hay một người nào đó?
–                      Vì thấy đạo Công Giáo hay hơn mấy đạo khác?
Những lý do trên chỉ là bề nổi. Đàng sau tất cả những lý do đó, có một lý do khác là nền tảng cho tất cả. Đó là chính Chúa, qua người vợ, người chồng hay một ân nhân, một người bạn, một cuộc gặp gỡ tình cờ…, đã mời gọi các anh chị và các anh chị đã đáp lại tiếng mời gọi đó. Lúc đầu có thể chưa rõ, nhưng từ từ các anh chị nhận ra đó là tiếng của Ngài. Chúng ta có thể cắt nghĩa thực tại này qua mẩu truyện của một bà hiện nay định cư bên Hoa Kỳ: Bà Đoàn thị Phượng.
Gia đình tôi người Bắc, di cư vàoNam năm 54. Bố mẹ tôi là người Công giáo, rất ngoan đạo. Tôi còn nhớ lúc tôi vừa đến tuổi cặp kê, mẹ tôi luôn nhìn những gia đình đạo đức, có con trai lớn cỡ tuổi tôi, để ý xem chừng gả tôi vào gia đình đạo đức đó để cuộc sống lứa đôi không đổ vỡ, vì đạo Công giáo đã có câu: “Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly.”
Tôi cũng muốn vâng lời cha mẹ, và theo câu “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó,” nhưng khổ nỗi cho tôi là những người mẹ tôi chấm thì tôi thấy họ rất quê mùa, đến nỗi các em tôi phải thốt ra để chọc tôi: “Sao trông anh ấy quê một cục!” Tôi lại còn tự nghĩ trong lòng: nhất quyết không lấy chồng, thà ở giá còn hơn làm vợ cái anh chàng nhà quê, nhà mùa đó.
Có lẽ Chúa và Đức Mẹ không kỳ thị tôn giáo, cho nên những người tôi có cảm tình, có thể tiến xa hơn thì toàn là những người không có đạo. Rồi chuyện gì đến cũng phải đến… Ngày tôi lấy chồng không được làm phép cưới ở nhà thờ, vì chồng tôi không có Đạo, và cũng không chịu theo Đạo.
Thời gian thấm thoát thoi đưa, vợ chồng tôi mỗi người giữ một đạo. Những ngày Chúa nhật, tôi lầm lũi đi nhà thờ một mình. Thấy tôi đi lễ một mình, nhà tôi cũng tội nghiệp cho tôi nên đôi lúc anh ở lại cùng với tôi dự lễ. Nghe cha giảng, thấy cũng hay hay, toàn là những điều tốt lành, nghe những bài thánh ca trầm bổng, giúp cho tâm hồn nhẹ nhàng, yêu đời và yêu người hơn.
Thế là mặc dù không vào Đạo, nhưng những lời giảng của cha xứ ở nhà thờ cũng là những lời tốt lành; thêm vào đó, tôi vẫn giữ đúng bổn phận người con dâu trong gia đình thờ cúng ông bà, giỗ chạp tôi đều nấu cỗ cúng, cũng mâm cao cỗ đầy, cũng hương hoa, cũng nhang đèn, cũng vái lạy. Tôi quan niệm cúng giỗ ông bà cha mẹ là để tưởng nhớ lại như khi còn sống. Khi đến trước bàn thờ lạy vái người quá cố, tôi vẫn khấn rằng: “Lạy Chúa, hôm nay là ngày giỗ của ông nội con, xin Chúa cho ông con được lên thiên đàng hưởng nhan thánh Chúa. Thưa ông nội, hôm nay con nấu cỗ cúng ông nội để tưởng nhớ đến ông ngày ông qua đời; ông nội lên thiên đàng xin nhớ đến chúng con.”
Phần các con tôi, tôi cho rửa tội, học Giáo lý, chịu phép Thêm sức…. Tạ ơn Chúa không có gì trở ngại. Phần nhà tôi, tôi luôn luôn xin nhà tôi có một điều duy nhất: “Em chỉ mong muốn có một điều duy nhất, là trước khi em chết, em được thấy anh rửa tội, vào Đạo. Mà sự chết đi nhanh như hơi thở, ai biết được mình chết lúc nào, cho nên anh càng trở lại với Chúa sớm ngày nào thì em vui mừng ngày nấy”. Đôi khi tôi còn đùa: “Chẳng lẽ mấy mẹ con em ở thiên đàng nhìn anh sa hoả ngục lại cầm lòng được sao?”
Tôi liên lỉ cầu nguyện. Trong cuộc sống tôi luôn tin có Chúa. Trong mỗi lời nói, tôi đều đưa tiếng “Chúa” vào. Trong phòng ngủ, nhà bếp, phòng khách, thậm chí trong phòng vệ sinh, tôi đều để sách đạo, những mẩu chuyện ngắn hay hay, gương các Thánh, tôi đọc xong gập lại, và nhắn với nhà tôi: Anh bận không đọc nhiều – nhà tôi rất lười đọc sách -, em đã đọc xong, đoạn nào hay em đã gập sẵn, anh cứ mở ra đoạn đó hay lắm, chỉ cần 1 hay 2 phút thôi…
Đi phòng mạch chờ bác sĩ cả tiếng đồng hồ, tôi cứ việc tha một vài cuốn sách đạo, tôi một cuốn và nhà tôi một cuốn (cuốn đưa cho nhà tôi, tôi đã đọc qua và thấy nó hay), cho nên dù lười đọc sách nhưng chẳng thà đốt thì giờ qua cách đó còn hơn ngồi chờ sốt cả ruột. Thêm vào đó, tôi cố gắng làm gương sáng cho nhà tôi và các con trong mọi hoàn cảnh, những vui buồn trong cuộc sống tôi đều dâng cho Chúa, có những lúc gia đình khủng khoảng, tôi vẫn vững niềm tin nơi Chúa. Nhà tôi học phần nào sự phó thác của tôi, và thấy rằng cuộc sống người Ki-tô hữu có nhiều cái rất hay, tìm cho mình một thiên đàng ngay ở trần gian, hạnh phúc ngay cả trong lúc khổ đau. Những bực bội trong sở làm, những kèn cựa trong cuộc sống, tôi đều khuyên nhà tôi nhường nhịn và hòa nhã với mọi người, như vậy ở sở mình sẽ có nhiều bạn hơn thù, giúp được một người trong ngày, đó là niềm vui của một ngày hôm đó. Dần dà nhà tôi yêu Chúa lúc nào không biết. Rồi nhà tôi xin vào Đạo, học Giáo lý, rồi được rửa tội.
Người vui mừng nhất không phải là tôi, mà là mẹ của tôi, vì con rể của bà nay đã đúng là mẫu người lý tưởng của bà cách đây 20 năm về trước bà đã chọn cho tôi. Nay gia đình tôi cảm tạ Chúa đã nhậm lời tôi sau một thời gian thử thách. Với lòng nhiệt thành của tôi, với lời cầu nguyện hàng ngày dâng lên Chúa, với tấm gương sáng trong đời sống người Ki-tô hữu, nhà tôi đã trở lại Đạo, trở về với Chúa. Có một điều mà tôi sung sướng nhất là đối với con cái, người thân, bạn bè… mỗi khi nói về Chúa, nói về Đức tin, hoặc trong những công tác thiện nguyện, nhà tôi còn hăng say hơn tôi nữa, và được mọi người tin tưởng hơn cả tôi.
Trong câu truyện trên đây, xem ra ông chồng trở lại Đạo vì đời sống của vợ, vì tình yêu của vợ, nhưng thực ra, bà vợ chỉ là môi giới. Chính Chúa mới là lý do.
Câu truyện Tiệc Cưới Cana trong Tin Mừng thánh Gioan (Ga 2,1-11), xem ra Đức Mẹ là người đã giải quyết vấn đề cho đôi tân hôn, nhưng thực ra Đức Mẹ chỉ là người bầu cử, chính Chúa Giêsu mới là người giải quyết.
Vì vậy, để sống Đạo hạnh phúc, cần phải vươn lên khỏi các yếu tố phụ để tìm ra sợi giây thân tình riêng nối kết mình với Chúa Giêsu. Còn gì hạnh phúc hơn được làm con Chúa Cả Trời Đất! Còn gì hạnh phúc hơn khi biết mình được Chúa Cả Trời Đất thương yêu và yêu đến độ đã sai Con Một của mình xuống thế làm người để chia sẻ thân phận làm người để cứu vớt và để thông truyền đời sống thần linh cho những ai tin vào Ngài và đón nhận Ngài (x. Ga 1,12; Ga 3,16-18). Còn gì hạnh phúc hơn khi vì Chúa, mình có thể thương yêu, giúp đỡ và tha thứ cho những người chẳng phải máu mủ, ruột thịt gì với mình! Không hạnh phúc sao được, khi lòng mình như mở rộng ra cõi trời mênh mông bát ngát!
Để giữ được hạnh phúc trong mối tình thân thiết với Chúa, còn phải biết sống theo con đường Chúa đã chỉ. Đó là các giới răn của Chúa và các điều luật của Hội Thánh. Yêu nhau thì cùng đi trên một con đường, cùng chia sẻ những lựa chọn với nhau…
Để biết thêm con đường đó, cần phải học hỏi qua việc học giáo lý và chia sẻ kinh nghiệm sống với những anh chị em đang hạnh phúc bên Chúa.
2.  Làm sáng tỏ các nghi vấn
Các nghi vấn, các điều ngờ vực có khác chi những rác rưởi làm tắc nghẽn mạch nước. Tuy con sông đầy nước, nhưng vì cành lá cây cối bên bờ sông rơi xuống và tụ lại làm cho dòng nước không chảy ngon trớn được. Do đó, để sống hạnh phúc đời sống Đức Tin, còn cần phải làm sáng tỏ các nghi vấn, mà thời nay lại rất nhiều. Ở đây, tôi chỉ muốn trả lời mấy vấn nạn mà các anh chị thường đặt ra.
a) Có người nói rằng Đạo Công Giáo là đạo nước ngoài, không phải đạo của người Việt Nam
Nếu nói theo địa dư thì Đạo Công Giáo phát xuất ở ngoài nước ViệtNamnên có thể nói là đạo nước ngoài. Nhưng đâu  phải chỉ có Đạo Công Giáo mới là đạo nước ngoài. Phật giáo phát xuất từ Ấn Độ và vào ViệtNamqua hai ngả: Tàu và Cao Miên. Như vậy, đạo Phật cũng là đạo nước ngoài; Khổng giáo và Lão giáo đến từ nước Tàu, cũng là đạo nước ngoài; Hồi giáo đến từ Ả rập Trung Đông cũng là đạo nước ngoài.
Nếu nhìn sâu hơn thì thấy là trong một tôn giáo có hai phần: phần tinh anh là yếu tố thiêng liêng; phần cụ thể là những cách diễn tả yếu tố thiêng liêng. Phần tinh anh thiêng liêng thì không có trong có ngoài. Đâu có một con tim đón nhận thì đó là nhà. Cho dù có phát xuất ngay bên cạnh nhà, mà mình không đón nhận thì vẫn là ở ngoài, là ngoại lai. Còn những diễn tả cụ thể thì mang tính chất văn hóa của người đã sống và truyền cho mình. Do đó, đạo Công Giáo có những cách diễn tả theo văn hóa Do Thái và La-Hy; đạo Phật có những cách diễn tả theo văn hóa Ấn Độ và đạo Phật vào ViệtNamqua ngả Trung quốc thì có thêm những yếu tố văn hóa Tàu. Cứ xem các tượng Đức Phật coi, quần áo của Ngài mặc có gì là Việt Nam đâu; đạo Khổng và đạo Lão thì có cách diễn tả theo truyền thống Trung quốc…
Nhưng đâu có phải hễ cái gì của nước ngoài là xấu đâu. Ngày nay người ta còn chuộng đồ ngoại nữa là khác. Trong đời thường, đàn ông Việt Namđi giầy tây, đeo cravatte, đàn bà mặc váy đầm. Những thứ đó đâu có phải của ViệtNam, vậy mà người ta vẫn thích mặc và có người còn tỏ ra hãnh diện nữa. Dầu sao, mỗi người cần phải diễn tả cái phần thiêng liêng tinh thần của Đạo theo văn hóa của mình. Vì vậy, Đạo Công Giáo trên khắp thế giới, ngày từ những thế kỷ đầu, nhưng nhất là trong mấy chục năm vừa qua, đã cố gắng diễn tả Đức Tin theo văn hóa mỗi nơi. Tại Việt Nam, Giáo Hội Công Giáo đã có rất nhiều cố gắng từ nhiều thế kỷ để diễn tả Đức Tin của mình theo cách thức Việt Nam, chẳng hạn, Dâng Hoa, Vãn Hoa, Thánh Lễ bằng tiếng Việt Nam, các bài hát đạo, các kinh bằng tiếng Việt… Khi tôi đi thăm viếng Thái Lan, một Đức Cha Thái kể với tôi là ngày lễ sinh nhật của Vua Thái, các tôn giáo họp nhau để cầu nguyện cho Vua Thái. Chỉ có người công giáo Thái là cầu nguyện bằng tiếng Thái, còn các tôn giáo khác cầu nguyện bằng tiếng nguyên gốc của tôn giáo đó, không phải là tiếng Thái. Người công giáo bị chê trách là theo Đạo nước ngoài, nhưng lại là những người duy nhất dùng tiếng của mình để cầu nguyện! Hoàn cảnh này, biết đâu cũng chẳng phải là hoàn cảnh ViệtNam?
b) Theo Đạo Công Giáo có phải từ bỏ ông bà, cha mẹ và bất hiếu không?
Người ta hay nói là theo đạo phải bỏ Ông Bà. Câu nói này nghe cứ như một truyện huyền thoại, nhưng người ta cứ lặp đi lặp lại mà không kiểm chứng hư thực. Theo Đạo Công Giáo, không những không được bỏ ông bà, cha mẹ, mà đạo hiếu còn là một bổn phận nền tảng được diễn tả bằng nhiều cách.
Đạo Chúa dạy phải thảo kính cha mẹ
Trong Kinh Thánh, có rất nhiều đoạn sách dạy các tín hữu phải thảo kính cha mẹ. Ở đây, chúng ta chỉ trích một đoạn của sách Huấn Ca, được đọc trong phụng vụ ngày lễ kính Thánh Gia Thất: “Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm, ai kính mẹ thì tích trữ kho báu.  Ai thờ cha sẽ được vui mừng vì con cái, khi cầu nguyện, họ sẽ được lắng nghe. Ai tôn vinh cha sẽ được trường thọ, ai vâng lệnh Đức Chúa sẽ làm cho mẹ an lòng. Con ơi, hãy săn sóc cha con, khi người đến tuổi già; bao lâu người còn sống, chớ làm người buồn tủi. Người có lú lẫn, con cũng phải cảm thông, chớ cậy mình sung sức mà khinh dể người. Vì lòng hiếu nghĩa đối với cha sẽ không bị quên lãng, và sẽ đền bù tội lỗi cho con. Thiên Chúa sẽ nhớ đến con, ngày con gặp khốn khó, và các tội con sẽ biến tan như sương muối biến tan lúc đẹp trời. Ai bỏ rơi cha mình thì khác nào kẻ lộng ngôn, ai chọc giận mẹ mình, sẽ bị Đức Chúa nguyền rủa.” (Hc 3,2-6.12-16).
– Giới Răn thứ bốn
Đạo Chúa có 10 Giới Răn, trong đó 3 Giới Răn đầu nói về bổn phận đối với Thiên Chúa và 7 Giới Răn sau nói về bổn phận đối với loài người và Giới Răn đầu tiên của 7 Giới Răn này là Giới Răn thứ IV dạy phải “Thảo kính cha mẹ”.
– Cầu nguyện cho ông bà tổ tiên mỗi ngày
Ngày nào trong Thánh Lễ, linh mục cũng cầu nguyện cho Tổ tiên, ông bà, cha mẹ đã qua đời. Trong Thánh Lễ, không những mỗi tín hữu cầu nguyện cho tổ tiên, ông bà, cha mẹ của mình mà cả những anh em công giáo khác cũng cầu nguyện cho tổ tiên ông bà của mình và mình cũng cầu nguyện cho tổ tiên, ông bà, cha mẹ của họ. Như vậy, chữ hiếu của người công giáo được nhân lên gấp nhiều triệu lần.
– Tháng các Linh Hồn
Mỗi năm Giáo Hội dành trọn tháng 11, gọi là Tháng các Linh Hồn hay Tháng các Đẳng, để cầu nguyện cho tổ tiên, ông bà, cha mẹ và mọi người thân thuộc đã qua đời. Chiều ngày 1 hay 2 tháng 11, nghĩa trang người công giáo rộn ràng như ngày Tết, nhưng cũng linh thiêng và đầm ấm vì tất cả gia đình dắt nhau ra viếng mộ ông bà cha mẹ và đọc kinh cầu nguyện cho các ngài.
– Những dịp kỷ niệm
Trong năm, vào dịp kỷ niệm của tổ tiên, ông bà, cha mẹ, người công giáo thường xin lễ cầu nguyện cho các ngài.
– Ngày Mồng Hai Tết
Riêng tại Việt Nam, Hội Đồng Giám Mục đã quyết định dành ngày Mồng Hai Tết để cầu nguyện cho tổ tiên, ông bà, cha mẹ còn sống cũng như đã qua đời. Thường tại các giáo xứ, giáo dân tham dự Thánh Lễ ban sáng tại nhà thờ để cầu nguyện cho ông bà, cha mẹ còn sống. Thánh lễ ban chiều, thường được cử hành tại nghĩa trang để cầu nguyện cho tổ tiên và ông bà, cha mẹ đã qua đời. Cũng như ngày mồng 2 tháng 11, vào dịp này, giáo dân tham dự Thánh Lễ rất đông, có khi còn đông hơn ngày mồng 2 tháng 11 vì là ngày nghỉ. Người ta có thể chứng kiến một khung cảnh rất cảm động, linh thiêng và đầm ấm gia đình. Trước Thánh Lễ, con cái, cháu chắt tụ họp chung quanh ngôi mộ của cha mẹ, ông bà cắm hoa, thắp hương và cầu nguyện trước Thánh Lễ.
Đạo Chúa cấm những hành vi, lễ nghi mê tín dị đoan
Giáo Hội cấm những lễ nghi, phong tục tôn kính tổ tiên có tính cách mê tín, dị đoan, chẳng hạn vấn đề dâng cúng đồ ăn cho tổ tiên. Trước đây Giáo Hội cấm hành động này vì trong tâm thức lúc đó, người dân tin là ông bà về ăn và người ta tôn thờ ông bà như một vị thần có quyền ban phát ơn huệ cho con cái, chứ không phải là những vị thánh tốt lành, có thể bầu cử cho con cháu trước Tòa Chúa. Bây giờ tâm thức của dân chúng đã thay đổi. Người ta coi đó là những cách tỏ lòng tôn kính, tưởng nhớ đến ông bà, tổ tiên. Do đó, những nghi thức, phong tục này lại được Giáo Hội cho phép.
Như vậy, Giáo Hội không những không cấm mà còn khích lệ và bó buộc tỏ lòng tôn kính ông bà tổ tiên. Hơn nữa, trong khi đạo hiếu trong văn hóa Việt Nam đặt nền tảng trên chính tổ tiên, đạo hiếu của người công giáo vươn lên hẳn một bậc: đây là lệnh truyền của Thiên Chúa, Đấng đã tạo dựng nên mọi người, kể cả các tổ tiên, ông bà, cha mẹ mình.
Giáo Hội chỉ cấm các thái độ, phong tục và hình thức diễn tả mê tín, dị đoan đi ngược lại Đức Tin Công Giáo. Ở khía cạnh này, cũng có thể xảy ra những hiểu lầm về ý nghĩa của những phong tục, lễ nghi. Không những trong quá khứ mà ngay cả trong thời đại này, các ý kiến về ý nghĩa một số phong tục hay nghi lễ cổ truyền theo văn hóa cũng không luôn hòa đồng với nhau.
c) Đạo nào cũng dạy ăn ngay ở lành. Tại sao lại phải theo Công Giáo?
Người ta hay nói: “Đạo nào cũng dạy ăn ngay ở lành”. Thực ra, không thể xác quyết cách chung chung như vậy được. Có những truyền thống tôn giáo không dạy ăn ngay ở lành; chẳng hạn, bắt giết những ai không tin theo đạo của mình. Vì vậy, cần phân tích rõ ràng những yếu tố cụ thể.
Ngoài ra, không phải các tôn giáo đều dạy mọi truyện như nhau, nhiều khi không những khác nhau mà trái ngược nhau nữa. Do đó, vấn đề đặt ra là lấy tiêu chuẩn nào, thước đo nào để phân biệt điểm tốt, điểm xấu? Đối với người Công Giáo thì chỉ có Tin Mừng của Chúa mới là tiêu chuẩn định đoạt.
Tuy nhiên, việc trở lại Đạo Công Giáo có một lý do khác nền tảng hơn. Đó là đón nhận Chúa Giêsu vào cuộc đời của mình. Chúa Giêsu không phải chỉ là một vị sáng lập một tôn giáo, một vĩ nhân, một vị đáng kính. Ngài chính là Thiên Chúa mà vì tình yêu nhân loại đã xuống thế làm người để cứu nhân loại và chỉ đường cho nhân loại biết đường tìm đến Thiên Chúa Cha vì chỉ qua Ngài, nhân loại mới biết được Chúa Cha (Mt 11,27; Lc 10,22).
d) Tại sao Giáo Hội bắt giáo dân khi lập gia đình phải chung thủy một vợ một chồng trong khi đó lại cho phép linh mục được bỏ chức linh mục để lập gia đình?
Trước tiên, cần phải xác định cho rõ câu hỏi. Giáo Hội không bao giờ cho phép bỏ chức linh mục, mà chỉ cho phép hay, nói đúng hơn, bắt phải chấm dứt không được thi hành các tác vụ của chức Linh Mục.
Câu hỏi nói ra một vấn đề rất thực, nhưng lại diễn tả một não trạng tiêu cực, coi việc ly dị như một ân huệ và việc chung thủy như một gánh nặng. Giữ lòng chung thủy đối với giáo dân lập gia đình và linh mục tuyên hứa giữ đời sống độc thân là một hạnh phúc và nói lên sự trưởng thành của một người. Riêng đối với các đôi hôn nhân công giáo, đòi hỏi chung thủy là một ân huệ nói lên lòng tin tưởng vào Chúa vì Chúa trao cho các đôi vợ chồng công giáo sứ mệnh làm hình ảnh của tình yêu chung thủy của Chúa cho Giáo Hội và cho loài người. Nhưng Chúa không chỉ trao sứ mệnh, mà Chúa còn ban ơn, giúp cho các đôi vợ chồng chu toàn sứ mệnh Chúa trao. Do đó, Chúa lập tình yêu vợ chồng thành Bí Tích.
Sau khi đã định xong viễn tượng của vấn đề, chúng ta cũng cần cắt nghĩa để hiểu lý do của Giáo Hội. Bí tích Hôn Phối do chính Chúa thiết lập, nên Giáo Hội không thể thay đổi. Vì vậy, khi một đôi hôn nhân gặp khó khăn thì Giáo Hội tìm hết cách để trợ lực và an ủi, khích lệ. Còn đối với các linh mục, giữ độc thân không phải là bí tích, mà là điều kiện. Do đó, bên truyền thống Đông phương, Giáo Hội cũng truyền chức linh mục cho những người lập gia đình, còn bên truyền thông Tây phương, Giáo Hội chỉ truyền chức cho những người chấp nhận sống độc thân. Nếu một linh mục không giữ đời sống độc thân thì Giáo Hội không cho tiếp tục thi hành sứ vụ linh mục, nhưng vị đó vẫn còn là linh mục vì chức linh mục là bí tích. Phải nói đây là một thất bại đau thương cho vị đó, và dĩ nhiên cũng cho Giáo Hội nữa. Vì vậy, phải thương hại chứ không được ghen tị.
e) Giáo lý GH dạy phải sống công bằng không gian dối, nhưng ngày nay nếu không gian dối thì không kiếm được nhiều tiền, cuộc sống rất vất vả. Trước hoàn cảnh đó chúng con phải làm sao?
Để trả lời cho câu hỏi này, phải nói rất nhiều, nhưng để đơn giản hóa vấn đề, tôi xin nhắc lại đây hai câu Chúa đã nói trong các sách Tin Mừng, rồi sau đó, trích lại hai chứng từ. Hy vọng như vậy cũng tạm đủ.
* Lời Chúa:
– Được cả thế giới mà phải thiệt mất linh hồn mình, thì được ích gì?Quả thật, người ta lấy gì mà đổi lại mạng sống mình?Ai hổ thẹn vì Ta và những lời Ta dạy trước thế hệ ngoại tình và tội lỗi này, thì Con Người cũng sẽ hổ thẹn vì kẻ ấy, khi Người ngự đến cùng với các thánh thiên thần, trong vinh quang của Cha Người. (Mc 8,36-37)
– Các con là muối cho đời. Nhưng nếu muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi. Các con là ánh sáng cho trần gian. Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được. Cũng chẳng có ai thắp đèn rồi lại để dưới cái thùng, nhưng đặt trên đế, và đèn soi chiếu cho mọi người trong nhà. Cũng vậy, ánh sáng của các con phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp các con làm, mà tôn vinh Cha các con, Đấng ngự trên trời. (Mt 5,13-16).

  • Chứng từ
– Câu truyện một phật tử trở lại Đạo
Tại Đà lạt, có một bà rất sùng Phật, trong nhà lúc nào cũng khói hương nghi ngút. Tuy biết thế, nhưng các bà trong Hội Đạo Binh vẫn tới thăm thường xuyên từ năm này qua năm kia, riết rồi các bà trở thành bạn của bà ấy. Tuy nhiên, bà không bao giờ ngỏ ý muốn theo đạo Công Giáo. Một ngày kia bà ngã bệnh và cơn bệnh khá trầm trọng. Bà nhờ các bà Đạo Binh mời cha tới và bà xin được rửa tội. Trước khi được rửa tội, bà kể: “Chính ra tôi đã theo đạo cách đây 30 năm. Nhưng lúc đó, tôi cho một gia đình người công giáo mượn một số tiền khá lớn. Họ nhờ số tiền đó mà mở một cơ sở làm ăn rất khá. Một thời gian, tôi xin họ trả lại số tiền thì họ tìm cách không trả, và còn đi nói xấu tôi. Thế là tôi bỏ ý định theo đạo Công Giáo. Nhưng bây giờ tôi thấy các bà đi lại với tôi mấy năm quí hóa quá, có bầu bạn, tôi lại muốn được rửa tội”.
– Hãnh diện xưng mình là công giáo
Tại vùng Long Khánh, một anh thanh niên đến mua đồ tại tiệm bán hàng của một gia đình công giáo. Anh thanh niên ra đi rồi trở lại, nói là đã để quên cái máy chụp và bắt gia đình này trao lại. Bà chủ tiệm tìm và không thấy. Người đó đi gọi công an. Công an đòi khám nhà. Bà chủ tiệm trả lời: “Anh muốn khám nhà tôi cũng được, nhưng anh phải biết: Chúng tôi là người công giáo, không nói dối, không ăn cắp”. Và người ta bỏ đi.
Ước chi có nhiều người công giáo biết sống theo luật Chúa và hãnh diện xưng mình là người công giáo. Họ sẽ là muối cho đời và ánh sáng chiếu soi cõi đời tăm tối hôm nay.
Đức cha Giuse Đinh Đức Đạo
Giám mục phụ tá – Đại Chủng Viện Thánh Giuse Xuân Lộc
(Trích GIÁO DÂN HƯỞNG ỨNG NĂM ĐỨC TIN – Tập dài 2012)