Cô bé 10 năm làm bạn với rừng hoang dã châu Phi

Cô bé 10 năm làm bạn với rừng hoang dã châu Phi

Tippi sinh ra ở Namibia nhưng được theo chân cha mẹ là cặp đôi nhiếp ảnh gia động vật bôn ba khắp nơi ở châu Phi. Cô bé có một cậu anh trai voi và người bạn thân là một con báo gấm.

Những hình ảnh ghi chép về cô bé Tippi Benjamine Okanti Degre trải qua 10 năm đầu đời trong bụi rậm châu Phi, sống hòa nhập với các động vật hoang dã như người thân trong gia đình. Hiện nay, Tippi đã 23 tuổi và cuốn sách “Tippi: My book of Africa” hiện đang rất nóng trên kệ sách khắp thế giới.

 

Cha mẹ Tippi đã dành tuổi thơ của con gái trong rừng châu Phi suốt 10 năm đầu đời

Cha mẹ cô là người Pháp và vốn yêu thích công việc nhiếp ảnh cuộc sống hoang dã nên họ đã bắt đầu hành trình đặc biệt của mình ở nhiều nơi trên đất châu Phi. Hàng ngày, Tippi phải đảm bảo không cho lũ khỉ ăn cắp chai lọ, đồ đạc của mình. Và vô tình cô đã yêu thích chính những loài động vật ở đây. Giống như một sân chơi vĩ đại, họ sống trong một túp lều, hoàn toàn tự nhiên, và cô bé Tippi thật may mắn khi được thức dậy dưới ánh nắng mặt trời chói chang và trong vòng tay cha mẹ mình.

Tippi trò chuyện với động vật bằng giọng nói thân thiện và ánh mắt trìu mến đến từ trái tim ngây thơ của mình, Thậm chí cô còn không để ý tới sự khác biệt vê kích thước với chú voi mà cô nhận là anh trai. Có một mối liên kết vô hình ràng buộc giữa con người nhỏ bé với những sinh vật nơi hoang dã châu Phi. Cô bé chưa từng sợ hãi khi sống như vậy.

Tippi hạnh phúc lăn ra ngủ với cậu bạn thân

Đôi khi chuyện không may vẫn thường xảy ra mặc dù không quá nghiêm trọng. Bố mẹ Tippi từng sợ hãi khi thấy một chú sư tử nhỏ mút ngón tay của con gái trong sự thích thú. Một thời gian sau khi tấm hình đó được chụp lại, bé sư tử đã lớn đùng và nhận ra người bạn thuở xưa. Chú sư tử Mufasa nhảy xổ tới thân thiện gạt đuôi mạnh vào Tippi khiến cô ngã nhào xuống đất. Kể từ đó, bố mẹ không để đôi bạn lại gần nhau vì họ sẽ không biết con sư tử sẽ làm gì cô bé nữa.

Chú khỉ đầu chó Cindy rất hay ghen tị với bạn mình

Sự cố thứ 2 là khi Tippi gặp chú khỉ đầu chó Cindy ở một vũng nước, nó đã ghen tị với cô mà nhảy vào giật tóc cô bé kéo mạnh. Tippi khá đau đớn nhưng động vật hoang dã thì không thể đoán trước được hành vi của chúng.

Bé Tippi giờ đã 23 tuổi và đang theo học ở Pháp

Trở lại quê hương Pháp sau 10 năm sống với thế giới hoang dã, Tippi gặp nhiều khó khăn trong việc hòa nhập cuộc sống hiện đại, Cô rất nhớ lũ bạn động vật thuở thơ ấu. Và cuốn sách mà cô kể lại là những kỷ niệm không bao giờ quên của một đứa trẻ hồn nhiên được lớn lên cùng voi, báo và khỉ đầu chó là bạn thân.

Cô bé sống hòa nhập trong xã hội người thổ dân ở Namibia

Tippi tham gia một chuyến thu lượm hoa quả cùng phụ nữ và trẻ em thổ dân

Người anh trai đồ sộ của Tippi rất thân thiện

Những đứa trẻ thổ dân rất yêu Tippi. Chúng vô cùng thích thú với làn da và mái tóc của cô bé

Giải khát bằng rễ cây trong đầm lầy Okavango cùng người thổ dân San Brushmen ở bắc Namibia

Anh chàng thổ dân Tkui vẽ mắt của Tippi bằng nhựa lấy từ quả mọng trong rừng

Anh còn hướng dẫn co bé cách sử dụng cung tên săn bắn

Đôi khi, trăn đá cũng kết bạn với Tippi



Dạo chơi trên lưng đà điểu thuần hóa đón nắng mới là thú vui hàng ngày của Tippi

Chú mèo rừng trông khá hiền lành và tình nguyện làm gối ngủ cho cô bé

Anh Nguyễn V Thập gởi

Ngày của cha: Bàn tay cha

Ngày của cha: Bàn tay cha

Đăng bởi lúc 9:04 Sáng 16/06/13

VRNs (16.06.2013) – Sài Gòn – Cuối đông khí lạnh viếng thăm miền Đông Nam Bộ mang theo những cơn gió đông khô hanh khiến những chiếc lá vàng còn vương lại trên những cánh rừng cao su bạt ngàn cứ vơi dần sau mỗi buổi hoàng hôn lịm tắt. Cái nắng cái gió Miền Nam không đủ sức thui chột những chồi non đang đâm chồi nảy lộc, cũng không đủ lực thiêu rụi những bông hoa dại mong manh nở sớm, nhưng cũng đủ làm cha tôi phải khốn đốn, khó ăn mất ngủ do bệnh nứt tay nẻ chân hành hạ. Cứ mỗi độ cuối năm, bàn tay cha tôi trở nên nhăn nhúm, khô cứng, queo quắt dần rồi xuất hiện triệu chứng nứt nẻ, giống như có ai đó nỡ nhẫn tâm dùng dao lam cứa ngang xẻ dọc hành hạ kẻ thù cho hả giận. Bàn tay cha vốn đã nham nhám, thô kệch xấu xí, thời tiết lại đổi thay, khiến mười ngón tay nứt nẻ ví tựa như ruộng lúa khô nứt khi gặp phải hạn hán lâu ngày.

Tôi tu học xa nhà, cuối năm mới có dịp đoàn tụ vài tuần với gia đình. Những khoảnh khắc ngắn ngủi gần bên mẹ bên cha, được lắng nghe những lời chia sẻ, tâm sự về những biến cố thăng trầm trong gia đình thật tuyệt vời! Nhà quê thanh vắng yên bình, không gian khoáng đãng thoáng mát làm cho lòng người cũng cảm thấy thoải mái, dễ chịu hơn nhiều so với cuộc sống phố thị chật hẹp đông người. Đêm đông lành lạnh hài hòa giữa con người với vẻ đẹp tuyệt mỹ của thiên nhiên. Trời đêm trong xanh vời vợi, lấp lánh những vì sao, được tỏa sáng nhờ ánh trăng non thượng tuần dọi xuống khoảng sân phía mẹ cha ngồi. Dẫu đêm đông, tiết trời có se lạnh nhưng riêng tôi cảm thấy bình an, ấm áp lạ lùng khi được lòng kề lòng bên phụ mẫu.

Lâu ngày gặp con, hai ông bà huyên thuyên đủ điều: nào là chuyện cha xứ vừa tổ chức thánh lễ Tạ ơn khánh thành gian cung thánh mới, đến niềm vui chị Năm có thêm hài nhi bụ bẫm, bàn về việc tổ chức họp mặt gia đình, lại trở về với công việc ruộng vườn chăn nuôi… vẫn là những đề tài muôn thuở. Tôi chăm chú lắng nghe vì không biết đến bao giờ mới có cơ hội “ngàn vàng” như đêm nay.

Trời dần khuya, vầng trăng ngủ tự bao giờ. Mẹ gợi ý đi nghỉ để sáng mai cha còn phải dậy sớm ngăn nước tưới ruộng vườn. Im lặng chốc lát, cha nhỏ giọng: “Mấy hôm nay tôi khó ngủ lắm má mày ơi!”. Mẹ tỏ vẻ ngạc nhiên trước lời cha vừa nói, vì mấy chục năm trời chung sống có bao giờ ông than khó ngủ đâu! Mẹ biết rõ xưa nay ông thuộc mẫu người chăm chỉ, phận ông vất vả như ong, như gà bới mồi cả ngày, hết ruộng đến vườn rồi lại quay sang chăm sóc đàn bò, đàn lợn. Tối đến ông mệt lã, cơm nước xong vừa đặt lưng xuống là ngáy như sấm. Mẹ trách ba suốt đời chỉ biết hy sinh lo cho người khác mà chẳng bao giờ chịu quan tâm đến  bản thân mình. Ông tự biện hộ:

– Mấy hôm rồi tiết trời thay đổi, vào dịp cuối năm chân tay tôi lại trở chứng nứt nẻ như mọi lần, nhưng kỳ này buốt đau, nhức nhối khó chịu hơn nhiều. Đêm lạnh với tay kéo chăn lên đắp, những vết xước nứt nẻ nơi từng ngón tay, ngón chân vướng vào sợi vải nhói đau đến thốn tim. Già rồi! khó dỗ dành giấc ngủ như thời trai trẻ năm xưa.

Lời cha vừa nói khiến tôi lặng người, cúi gằm xuống đất chẳng dám nhìn thẳng vào mặt cha, không an ủi được lời nào bởi quá xúc động. Bất ngờ cha cầm lấy tay tôi nắn bóp liên hồi rồi vui vẻ tươi cười quay sang phía mẹ :

Mấy ông trong Ban Hành Giáo bảo rằng: “Bệnh nứt tay nẻ chân này chủ yếu là do di truyền, dù ông có ở thành phố hay làm giám đốc trong công ty cũng không thể tránh khỏi. Sang mùa mưa, khi gió đông qua tự nó sẽ khỏi”. Cha tôi nói tiếp:

– Tầm bậy! chẳng di với truyền gì cả. Má mày xem tay con mình đây này: mịn màng, trắng đỏ như con nhà giàu chứ có sao đâu! Nếu ngày xưa ông nội không chết vì bom đạn, bà nội không rơi vào tình cảnh túng nghèo, tuổi thơ được cắp sách đến trường, không phải chăn trâu ở mướn thì bây giờ bàn tay tôi cũng trắng đẹp, lành lặn như con mình thôi.

Đặt bàn tay trong lòng tay cha, tôi cảm nhận hơi ấm bình an đang lan tỏa cùng với niềm hạnh phúc trào dâng ngập tâm hồn, nhưng bất chợt nhói đau. Dường như có ai đó vừa cứa vào tim mình. Nâng niu trân trọng bàn tay nứt ngang nẻ dọc và đen đủi của cha, tôi thấy nó tựa như những cánh đồng gặp phải hạn hán, nham nháp như vỏ mít tố nữ, sần sùi chẳng khác nào quả chôm chôm nhãn hay trái sầu riêng là mấy, nhưng nào ai có ai hiểu bàn tay ấy đem đến sự ấm no, bàn tay dải dầu gió sương nhưng dịu ngọt, thơm hương nhân đức, làm nên hình ảnh người cha mẫu mực chịu thương chịu khó nuôi dạy chín anh chị em tôi khôn lớn nên người trong hoàn cảnh hết sức ngặt nghèo.

Mẹ chăm chú nhìn cha với lòng thương cảm lẫn hờn trách: “Sao mấy hôm nay ba mày không nói để tui bảo con nó đi mua thuốc hoặc chở ông đến bệnh viện da liễu.”

– Cha trấn an mẹ: “Không sao! Mấy hôm nữa sẽ khỏi thôi mà. Chỉ ngại mỗi lần đi lễ, lúc cha trao Mình Thánh Chúa, tôi ngại không dám ngửa tay đón nhận mà chỉ rước bằng miệng, chẳng giống ai cả!  Trước khi đi lễ hay dự tiệc, tôi đã rửa tay nhiều lần bằng thuốc tẩy hòa với chanh hoặc xà bông, chà đến rướm máu thế mà vết bùn, mủ trái cây vẫn không sao sạch được. Năm hết tết đến, tay chân đen đủi, nứt buốt thế này thì đi đâu được. Má mày chịu khó đi thay tôi vậy!

Làm sao cha tôi có thể tẩy trắng những gam màu của bùn đất, của nhựa cây in đậm trên đôi tay được, trong khi ngày nào ông cũng thường xuyên tiếp xúc với việc đồng áng dãi dầu mưa nắng.

Mẹ kể thưở ấu thơ do yếu đau suy dinh dưỡng, tôi chập chững lê từng bước té lên ngã xuống ngàn lần, cha kiên nhẫn cầm tay mà dẫn bước tôi đi. Ngày đầu tiên tôi cắp sách đến trường, bàn tay cha nâng bổng tôi vượt qua con đê đầu làng trong những chiều mưa gió tả tơi. Những lần tôi nghịch ngợm mải chơi, cha đã “ thưởng” cho tôi những trận đòn bằng thân dâm bụt, vài giờ sau lại âm thầm lấy muối chà sát hết tất cả những chỗ tím bầm, rồi nhẹ nhàng vỗ về trìu mến.

Ngày tôi vào đại học, niềm vui trong cha vỡ lở, ông giang rộng bàn tay sần sùi xấu xí ôm choàng lấy tôi đến nghẹt thở. Tôi xa nhà lên phố nhập học cũng bàn tay ấy xoa nhẹ lên mái đầu, dúi vào túi tôi những đồng tiền chắt chiu, dành dụm từ những hy sinh, mồ hôi, “máu”và cả nước mắt. Trước sân tu viện, bàn tay cha đã ôm choàng lấy tôi hôn lấy hôn để trong ngày tôi mang trên mình chiếc áo dòng tu, khởi đầu cuộc đời người tu sĩ.   Bàn tay cha mãi mãi theo tôi theo dòng chảy thời gian. Khi té ngã thất bại, người cầm tay nâng tôi lên mà an ủi động viên . Khi tôi chuẩn bị cho những bước ngoặt quan trọng trong đời hay tiến thêm bước nữa trong lý tưởng đời tu, bàn tay ấy không bao giờ níu kéo,lưỡng lự hay tiếc nuối nhưng hoàn toàn tôn trọng tự do của tôi. Cha thường chia sẻ với tôi rằng: “Hạnh phúc nhất là được tự do và đạt được những gì mình mơ ước.”

Đêm đã chìm dần vào khuya, sau buổi gặp gỡ đêm ấy, tôi trở về phòng mà không sao chợp mắt. Đồng hồ vẫn gõ nhịp đều đều, tôi cố lắng tai để nghe rõ tiếng thở an giấc của cha như ngày nào nhưng hình như ông vẫn chưa ngủ. Tôi nóng lòng chờ đợi tiếng gà điểm canh ba, mong trời sáng mau mau để phóng xe ra phố chợ tìm mua cho được phương thuốc hiệu quả nhất mang về cho cha. Bao giờ kết thúc những ngọn gió đông đón xuân về ấm áp để bàn tay cha không còn nhức buốt tái tê?

Tạ ơn Chúa đã ban tặng cho con người cha nghèo với đôi tay gầy rám nắng.

PV.VRNs

“A FATHER’S HANDS” – BÀN TAY CỦA CHA

“A FATHER’S HANDS” – BÀN TAY CỦA CHA

Bác sĩ Nguyễn Ý Đức.

conggiaovietnam.net

Viết bởi một người ẩn danh, nhân dịp ngày “Father’s Day”.

Bài viết nói lên cái công lao của người Cha đối với các con lớn như núi Thái Sơn. Lời văn nhẹ nhàng, ý văn thắm thiết, diễn tả chân tình, xúc động.

Xin thoát chuyển ra Việt ngữ, để những người con cùng đọc.

Và suy gẫm…

Bác sĩ Nguyễn Ý Đức.


“Cha tôi, năm nay khoảng ngoải 90 tuổi, đang ngồi uể oải trên tấm ghế dài ngoài hiên. Không cử động, ông cúi đầu chăm chú nhìn hai bàn tay. Tôi ngồi xuống cạnh ông. Ông không để ý tới sự có mặt của tôi và càng ngồi lâu tôi tự hỏi không biết ông có bình thường. Sau cùng, dù không muốn quấy rầy ông nhưng cũng muốn coi xem ông ra sao, tôi hỏi, “ ông vẫn thường đấy chứ?” Ông ngẩng đầu, nhìn tôi, nở một nụ cười.

“Bố vẫn bình yên, cảm ơn con đã hỏi thăm”. Ông trả lời với giọng nói mạnh và trong.

“Con không có ý định quấy rầy cha, nhưng thấy cha chỉ ngồi đó chú mắt nhìn đôi bàn tay thì con muốn biết cha vẫn không sao đấy chứ”.

“Có bao giờ con ngắm đôi bàn tay của con không?” ông hỏi. “Bố muốn nói con nhìn thật kỹ cơ?”

Từ từ, tôi mở rông hai bàn tay và nhìn. Tôi lật qua lật lại nhiều lần. Thực ra chưa bao giờ tôi làm như vậy và tự hỏi không biết ông muốn nói gì.

Cha tôi mỉm cười và bắt đầu kể chuyện như sau:

“Con hãy tập trung nghĩ tới đôi bàn tay mà con đang có, bàn tay đã phục vụ con trong những năm tháng vừa qua. Hai bàn tay dù nhăn nheo, co rúm và yếu đuối đã là những dụng cụ mà cha sử dụng suốt đời để vươn ra, tiếp nhận, ôm ấp sự sống.

“Những bàn tay đã chống đỡ cho cha khỏi té trên sàn nhà khi chập chững bước đi. Bàn tay đưa cơm vào miệng, phủ áo lên mình. Bàn tay mà khi còn bé bà nội dạy chắp tay cầu nguyện. Bàn tay cột dây giầy và kéo cao đôi ủng. Bàn tay lau khô nước mắt các con, đã vuốt ve những thương yêu trong cuộc đời của cha. Chúng cũng lau những giọt lệ tiễn biệt của cha khi anh con lên đường nhập ngũ.

“Những bàn tay đã từng dơ bẩn, nhẵn nhụi và gầy gò, sưng húp và cong co. Chúng vụng về lóng cóng khi cha ẵm con lúc mới lọt lòng mẹ. Bàn tay mang chiếc nhẫn cưới cho mọi người hay là cha đã thành hôn và thương yêu một người rất đặc biệt.

“Bàn tay đã viết gửi về nhà những lá thư, run lẩy bẩy khi cha chôn cất ông bà và mẹ con. Đôi bàn tay đã ôm ấp các con, vỗ về lối xóm và run run tức giận khi cha không hiểu chuyện đời. Chúng đã bao che mặt cha, chải gỡ tóc cha, lau rửa thân hình cha. Chúng đã từng nhớp nháp và ướt át, cong và gẫy, khô và gầy. Và cho tới bây giờ, khi mà nhiều nơi trên cơ thể của cha không còn hoạt động bình thường thì đôi bàn tay đó vẫn nâng cha đứng lên, đặt cha nằm xuống và lại vẫn chắp lại cầu nguyện. Những bàn tay này là chứng nhân quá khứ của cha và sự thăng trầm của cuộc đời cha.”

“Nhưng quan trọng hơn là cũng chính những bàn tay đó mà Thượng Đế vươn ra, cầm lấy đưa cha về nhà. Và cầm tay cha, Thượng Đế sẽ nhấc cha lên cạnh Người và cha sẽ dùng bàn tay để ngưỡng mộ sờ lên mặt Chúa…”

Sau ngày hôm đó, tôi sẽ không bao giờ nhìn bàn tay tôi như vậy.

Nhưng tôi nhớ Thượng Đế đã vươn ra và nắm tay cha tôi, đưa cha tôi về nhà.

Khi bàn tay tôi đau vì thương tích hoặc khi vuốt má các con tôi, chồng tôi, tôi nghĩ tới Cha tôi. Tôi biết là Cha tôi đã được vuốt ve, trìu mến và dẫn dắt bởi bàn tay của Thượng Đế.


A Father’s Hands

My Dad, some ninety plus years now, sat feebly on the patio bench. He didn’t move, just sat with his head down staring at his hands. I sat down beside him. He didn’t acknowledge my presence and the longer I sat I wondered if he was okay.

Finally, not really wanting to disturb him but wanting to check on him at the same time, I asked him if he was okay. He raised his head and looked at me and smiled.

Yes, I’m fine, thank you for asking, he said in a clear strong voice. I didn’t mean to disturb you, Dad, but you were just sitting there staring at your hands and I wanted to make sure you were alright.

“Have you ever looked at your hands?” he asked. “I mean really looked at your hands?”

I slowly opened my hands and stared down at them. I turned them over, palms up and then palms down. No, I guess I had never really looked at my hands as I tried to figure out the point he was making.

Dad smiled and related this story: “Stop and think for a moment about the hands you have, how they have served you well throughout your years. These hands, though wrinkled, shriveled and weak have been the tools I have used all my life to reach out and grab and embrace life.”

“They braced and caught my fall when as a toddler I crashed upon the floor. They put food in my mouth and clothes on my back. As a child my mother taught me to fold them in prayer. They tied my shoes and pulled on my boots. They dried the tears of my children and caressed the love of my life. They wiped my tears when my son went off to war.”

“They have been dirty, scraped and raw, swollen and bent. They were uneasy and clumsy when I tried to hold you as a newborn daughter. Decorated with my wedding band they showed the world that I was married and loved someone special.”

“They wrote the letters home and trembled and shook when I buried my parents and spouse. They have held children, consoled neighbors, and shook in fists of anger when I didn’t understand. They have covered my face, combed my hair, washed and cleansed the rest of my body.”

They have been sticky and wet, bent and broken, dried and raw. And to this day when not much of anything else on me works real well these hands hold me up, lay me down, and again continue to fold in prayer. These hands are the mark of where I’ve been and the ruggedness of my life.”

“But more importantly it will be these hands that God will reach out and take when He leads me home. And with my hands He will lift me to His side and there I will use these hands to touch the face of Christ.” —-

After that day, I will never look at my hands the same again.

But I remember God reached out and took my Dad’s hands and led him home. When my hands are hurt of sore or when I stroke the face of my children and husband I think of Dad. I know he has been stroked and caressed and held by the hands of God.

Tác giả: Bác sĩ Nguyễn Ý Đức. (song ngữ Việt Anh)

Hai bát phở bò

Hai bát phở bò

riêng tặng những người con hiếu thảo nhân ngày của Cha

phobo

Vào một buổi chiều mùa xuân lạnh lẽo, trước cửa quán xuất hiện hai vị khách rất đặc biệt, một người cha và một người con. Nói đặc biệt là bởi vì người cha bị mù. Người con trai đi bên cạnh cẩn mẫn dìu người cha. Cậu con trai còn rất trẻ, trạc mười bảy, mười tám tuổi, quần áo đơn giản, lộ rõ vẻ nghèo túng, nhưng vẫn không dấu nổi nét thư sinh, dường như cậu vẫn đang là học trò phổ thông…

Cậu con trai tiến đến trước mặt tôi: “Cho hai bát phở bò!”, cậu nói to. Tôi đang định viết hoá đơn, thì cậu ta hướng về phía tôi và xua xua tay. Tôi ngạc nhiên nhìn cậu ta, cậu ta nhoẻn miệng cười biết lỗi, rồi chỉ tay vào bảng giá treo ở trên tường, phía sau lưng tôi, bảo tôi rằng chỉ làm một bát phở cho thịt bò, bát kia chỉ cần rắc chút hành thôi. Lúc đầu, tôi hơi hoảng, nhưng sau đó chợt hiểu ra ngay. Hoá ra, cậu ta gọi to hai bát phở thịt bò như vậy là cố tình để cho người cha nghe thấy, chắc là tiền không đủ, nhưng lại không muốn cho cha biết. Tôi cười với cậu ta tỏ vẻ hiểu ý.

Người bồi bàn nhanh nhẹn bưng lên ngay hai bát phở nóng hổi. Cậu con trai chuyển bát phở bò đến trước mặt cha, ân cần chăm sóc: “Cha, có phở rồi, cha ăn đi thôi, cha cẩn thận kẻo nóng đấy ạ!”.. Rồi cậu ta tự bưng bát phở nước về phía mình. Người cha không vội ăn ngay, ông cầm đũa dò dẫm đưa qua đưa lại trong bát. Mãi lâu sau, ông mới gắp trúng một miếng thịt, vội vàng bỏ miếng thịt vào bát của người con.

“Ăn đi con, con ăn nhiều thêm một chút, ăn no rồi học hành chăm chỉ, sắp thi tốt nghiệp rồi, nếu mà thi đỗ đại học, sau này làm người có ích cho xã hội.” Người cha nói với giọng hiền từ, đôi mắt tuy mờ đục vô hồn, nhưng trên khuôn mặt đầy nếp nhăn lại sáng lên nụ cười ấm áp. Điều khiến cho tôi ngạc nhiên đó là, cái cậu con trai đó không hề cản trở việc cha gắp thịt cho mình, mà cứ im như thóc đón nhận miếng thịt từ bát của cha, rồi lại lặng lẽ gắp miếng thịt đó trả về.

Cứ lặp đi lặp lại như vậy, dường như thịt trong bát của người cha cứ gắp lại đầy, gắp mãi không hết. “Cái quán này thật tử tế quá, một bát phở mà biết bao nhiêu là thịt.” Ông lão cảm động nói. Kẻ đứng ngay bên cạnh là tôi, chợt toát hết cả mồ hôi, trong bát chỉ có vài mẩu thịt tội nghiệp, được sắt mỏng như lá lúa. Người con trai nghe vậy vội vàng tiếp lời cha: “Cha à, cha ăn đi, bát của con đầy ắp không biết để vào đâu rồi đây này”. “Ừ… ừ, con ăn nhanh lên, ăn phở bò thực ra cũng có chất lắm đấy.”

Hành động và lời nói của hai cha con đã làm chúng tôi rất xúc động. Chẳng biết từ khi nào, bà chủ cũng đã ra đứng cạnh tôi, lặng lẽ nhìn hai cha con họ. Vừa lúc đó, cậu Trương bồi bàn từ bếp đi ra, bê một đĩa thịt bò vừa thái, bà chủ làm dấu ra hiệu bảo cậu đặt lên bàn của hai cha con nọ. Cậu con trai ngẩng đầu tròn mắt nhìn một lúc, bàn này chỉ có mỗi hai cha con cậu ngồi, cậu ta vội vàng hỏi lại: “Anh để nhầm bàn rồi thì phải, chúng tôi không gọi thịt bò.” Bà chủ mỉm cười bước lại chỗ họ: “Không nhầm đâu, hôm nay chúng tôi kỷ niệm ngày mở quán, đĩa thịt này là quà biếu khách hàng”. Cậu con trai cười cười, không hỏi gì thêm.

Cậu lại gắp thêm vài miếng thịt bỏ vào bát người cha, sau đó, bỏ phần còn thừa vào trong một cái túi nhựa. Chúng tôi cứ im lặng chờ cho hai cha con ăn xong, rồi lại dõi mắt tiễn hai cha con ra khỏi quán. Mãi khi cậu Trương đi thu bát đĩa, đột nhiên kêu lên khe khẽ. Hoá ra, đáy bát của cậu con trai đè lên mấy tờ tiền giấy, vừa đúng giá tiền của một đĩa thịt bò, được viết trên bảng giá của cửa hàng. Cùng lúc, tôi, bà chủ, và cả cậu Trương chẳng ai nói lên lời, chỉ lặng lẽ thở dài, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ riêng …

(Sưu tầm )

Anh Nguyễn V Thập gởi

Tháng 7: Dân Số Thế Giới Là 7.2 Tỉ Người

Tháng 7: Dân Số Thế Giới Là 7.2 Tỉ Người; LHQ: Dân Số Thế Giới Sẽ Tới 10.9 Tỉ Người Vào Năm 2100

(06/15/2013)

nguồn: vietbao.com

NEW YORK – Báo cáo về dân số thế giới của LHQ cho hay: dân số thế giới tháng tới là 7.2 tỉ và sẽ lên tới 10.9 tỉ vào năm 2100 – đa số sự gia tăng là tại các quốc gia đang phát triển có sinh suất cao.

Báo cáo tựa đề “Viễn ảnh dân số thế giới” cho hay dân số toàn cầu đầu thế kỷ tới có thể là trên 16.6 tỉ, hay chỉ là 6.8 tỉ tùy theo phương thức thống kê. Trong mọi trường hợp, dân số của những nước lạc hậu tăng gấp đôi.

Tuy, nhìn chung sự gia tăng dân số đang giảm tốc độ, nhưng sự gia tăng vẫn là nhanh tại châu Phi – dân số tại các nước đã phát triển hầu như không tăng.

Dân số Ấn Độ sẽ qua mặt Trung Quốc và cùng đạt mức 1.45 tỉ người vào năm 2028 – sau đó Ấn Độ có dân số 1.6 tỉ trước khi giảm bớt từ năm 2100.

Dân số Trung Quốc bắt đầu giảm từ năm 2030, dự kiến gồm 1.1 tỉ người vào thời điểm 2100.

Giám đốc khảo sát dân số John Wilmoth cho hay: khuynh hướng dân số có nhiều bất trắc, vì các yếu tố: sinh sản, tử suất và di trú. Nhưng, sự gia tăng nhân số thế giới từ nay đến 2050 là không thể tránh.

VÒNG QUAY ĐỊNH MỆNH

VÒNG QUAY ĐỊNH MỆNH

“Anh có muốn một ly sữa không?”, tôi hỏi một cách nhẹ nhàng.

Khi hắn gật đầu, tôi trông thấy vết dơ dính trên tóc hắn và ngửi thấy mùi khói ám của điếu xì gà trên áo khoác của hắn.

“Hôm nay anh khỏe không?”, tôi hỏi tiếp và đưa cho hắn ly sữa.

Không một lời đáp lại. “Anh còn cần thêm gì nữa không?” Vẫn không có tiếng trả lời.

Việc này không chỉ xảy ra một lần mà là hàng chục lần rồi.  Khi còn thiếu niên, tôi làm cho chương trình “Bánh mì và Cá”, một chương trình do mẹ tôi sáng lập.  Chúng tôi phục vụ bữa ăn cho những người cần giúp đỡ, thường là những người lang thang ở Mineapolis, khu vực St. Paul.

Cho dù làm bất cứ cách nào để động viên tinh thần, tôi vẫn thường bị lúng túng trước thái độ những người này phản ứng với tôi.  Họ không nhìn tôi khi tôi nói chuyện với họ, và họ hiếm khi nào thấy biết ơn.  Tôi như muốn hét lên: “Này, chúng tôi đang làm những điều rất tốt cho mấy người.  Ít nhất mấy người phải cảm ơn chúng tôi chứ!”

Sau khi ngừng làm tình nguyện cho chương trình “Bánh mì và Cá”, tôi tự lèo lái số phận của mình. Hơn mười năm sau, tôi đã phấn đấu có một cuộc sống gần như hoàn hảo, một công việc dạy học, một người chồng tuyệt vời và có đứa con đầu tiên của chúng tôi, Derian.

Niềm hạnh phúc khi có được con bỗng bị đập vỡ khi bác sĩ khám phá ra Derian bị bệnh tim cần phẫu thuật ngay.  Làm sao điều này có thể xảy ra được?  Tôi tự hỏi và cảm thấy rất sốc.

Sau đó, Derian được chuẩn đoán bị mắc hội chứng CHARGE, một căn bệnh không di truyền, và tỉ lệ mắc phải chỉ là một trên mười hai nghìn trẻ em.  Khi ra khỏi bệnh viện, tôi nhận ra rằng không như những vấn đề khác của cuộc sống, với chuyện này tôi không thể làm chủ được.

Căn bệnh này không những ảnh hưởng đến tim của con tôi mà nó còn ảnh hưởng đến tai, mắt, mũi cũng như sự phát triểm của cả cơ thể.  Derian cần phải được điều trị thường xuyên, nghĩa là cần có bác sĩ đến thăm hàng kì và phải vào bệnh viện thường xuyên.

Mười ba tháng sau khi Derian được sinh ra, tôi sinh Connor, đứa con trai thứ hai của chúng tôi, và nhờ trời nó rất khỏe mạnh.

Những lần khám bác sĩ, những cuộc phẫu thuật cho Derian, và việc có đứa con thứ hai khiến tôi phải xin nghỉ dạy không lương.  Trong khi tiền bảo hiểm chỉ đủ trang trải một phần cho tiền thuốc, nhiều người cũng đã đến giúp đỡ và động viên tôi.  Có lần những sinh viên của tôi đã quyên góp được sáu trăm đô la chỉ trong một ngày.  Số tiền này đủ cho tôi trả tiền nhà trong hai tháng và có thể trang trải thêm cho Derian.

Mặc dù Rob là chủ của một cửa hàng quần áo nhưng với những khoản tiền nhà, tiền thuốc và trách nhiệm nuôi nấng của cha mẹ đã khiến anh bị hao tốn khá nhiều. vChúng tôi đã làm những gì tốt nhất có thể làm.  Nhưng đến mùa xuân 1995, chúng tôi quyết định đi tìm sự giúp đỡ.

Tôi có nghe về một chương trình giúp đỡ các bà mẹ và con nhỏ bằng những phiếu ăn.  Tôi đặt sự kiêu hãnh của mình qua một bên và đã xin một cuộc hẹn.

Vào sáng của buổi hẹn, chúng tôi đã phải bàn bạc mãi nên ăn mặc như thế nào để mình trông không giàu quá, nhưng cũng không nghèo quá.  Chúng tôi đã thử ít nhất ba bộ quần áo.  Chúng tôi biết rằng việc ăn mặc sẽ quyết định sự đánh giá khả năng làm mẹ của tôi: không quá vững vàng, nhưng vẫn còn khả năng làm chủ và tự tin.

Cùng với hai đứa nhỏ, chúng tôi đã đi bộ một quãng dài đến điểm hẹn.  Tôi đăng ký và nhìn chung quanh xem những người khác ở khu vực chờ đợi, tự hỏi rằng hoàn cảnh của họ như thế nào.  Lúc đó tôi cảm nhận được vòng xoay nguy hiểm của định mệnh và xấu hổ trước những ấn tượng ngu dốt của tôi về người nghèo.  Và bây giờ thì đến lượt tôi trở thành người nghèo.  Tôi ghét nó.  Tôi không đáng để bị như thế và tôi không thể xoay xở được.  Tôi định nắm chặt lấy tay lũ trẻ và chạy đi.  Nhưng khi nhìn vào đôi mắt sáng của chúng, tôi biết tại sao tôi phải ở lại.

Lần đầu tiên trong đời tôi đã hiểu được vì sao những ngưởi mà tôi từng phục vụ lúc trước lại không tỏ ra biết ơn.  Có ai lại muốn ở trong cảnh khốn khổ này không?  Nó thật thấp kém, và sẽ tồi tệ hơn khi những người – như tôi lúc bé – lại có vẻ như đang ban phát ân huệ và ta phải nợ họ sự biết ơn.

Cầu xin sự giúp đỡ trong lúc cần nhất quả thật khó khăn vô cùng!  Tôi không bao giờ muốn có liên quan tới những người giúp đỡ tôi những thứ mà tôi rất cần.  Sẽ dễ dàng hơn rất nhiều nếu như đứng cách xa và giữ mọi thứ ở mức độ khách quan.

Tôi mím chặt môi khi tên mình được gọi.  Chuyện gì sẽ xảy ra nếu có ai đó nhận ra tôi?  Tôi sẽ rất nhục nhã nếu như ai đó biết tôi đang phải nhận phiếu ăn.  Sau ba tiếng đồng hồ hỏi và kiểm tra, tôi cũng đã có thứ tôi cần.  Và một cuộc tìm kiếm sự tồn tại ngày qua ngày đã bắt đầu; chúng tôi kiên quyết làm được nó.

Sau hai năm rưỡi đấu tranh, linh hồn nhỏ bé của Derian đã ra đi ngày 9 tháng Năm năm 1996.  Tôi biết nó đến với tôi vì nhiều lý do, và tôi sẽ không bao giờ quên những bài học đó: lòng yêu thương và sự cảm thông cho người nghèo, không chỉ là sự thương hại nhất thời và bố thí.

Sau khi trải qua những giai đoạn khó khăn nhất của cuộc đời, Rob và tôi lập ra tổ chức “Tiết kiệm cho người nghèo” để tưởng nhớ Derian.  Nhiệm vụ của tổ chức là giúp đỡ những gia đình ở Minnesota với những trẻ em bệnh hiểm nghèo phải chịu nhập viện trong một thời gian dài bằng trả tiền thế chấp trong một lần.  Trong bốn năm đầu tiên, chúng tôi đã trợ cấp hơn một trăm trường hợp với mức trung bình tám trăm năm mươi đô la.

Chúng tôi thường không được cảm ơn khi trợ cấp một khoảng cho ai đó.  Nhưng điều này chẳng phiền gì, vì tôi biết được cuộc sống như thế nào khi đặt mình vào vị trí của họ.

Giờ đây tôi đã hoàn toàn hiểu được niềm vui của công việc tình nguyện không phải nằm ở từ “cảm ơn” hay cảm giác tốt đẹp mà là khi giúp được những người xung quanh lúc họ cần mình nhất.

Lasty Keech: “Mỗi một đứa trẻ được sinh ra với thông điệp rằng Thượng đế vẫn chưa làm nản chí con người.” Rabindranath Tagore

From: langthangchieutim và

Anh chị Thụ Mai gởi

“A ha! Đêm nay ai cũng cho em

“A ha! Đêm nay ai cũng cho em

 

là xinh nhất đây… a…á…à…đẹp xinh”

A ha! Trong đêm khiêu vũ em như

vừng sao xa khơi… à… a…á… sáng ngời!

(Nhạc Pháp: La Plus Belle Pour Aller Danser – Lời Việt: Phạm Duy)

(Mt 4: 1-2)

Có một lần, bần đạo đọc được ở trên báo, mà là báo đạo rất đàng hoàng, một câu chuyện tiếu lâm nhạt và cũng nhẽo như sau:

“Hôm ấy, vị linh mục nọ được mời đến nhà của giáo dân xyz làm phép nhà và ăn mừng tân gia. Vì là nghi thức không trọng thể và cũng chẳng mang tính chuyên nghiệp của vị thượng tế, nên vị linh mục được mời chỉ mặc thường phục có cổ trắng báo rõ mình là đấng bậc vị vọng, thế thôi. Nhưng, chuyện đeo cổ áo giáo sĩ, đã làm bé em của nhà chủ rất “lấy làm lạ”, cứ là ngắm nhìn suốt, không chán. Kịp nhận ra được điều đó, linh mục nhà mình bèn hỏi nhỏ bé:

-Cha có gì lạ trên người đâu mà sao cháu bé cứ ngó cứ nhìn trâng trâng thế?

-Cháu đâu có nhìn trâng tráo đâu. Thấy cha đeo cái gì mầu trăng trắng nơi cổ, nên mới nhìn.

-Thế cháu có biết cha đang đeo cái gì đây không?

-Dạ biết. Đó là cái để dụ những người mê cha cứ đeo bám cha là chết liền không kịp ngáp!” (xem The Catholic Weekly ngày 05/5/13 tr.5)

Gọi là tiếu lâm nhạt, cũng có lý. Nhưng không nhạt bằng những truyện kể ở quận/huyện nhà Đạo mà có lần bần đạo đây gặp ông cha chánh xứ nọ ở Sydney, cũng cất tiếng hỏi nhỏ: “Dạ thưa, có bao giờ ‘cha’ thấy chán ngấy công việc hàng ngày hay hàng tuần cứ là làm lễ và làm lễ không?” Hỏi, thì hỏi thế chứ có cha/cố nào dám trả lời là chán với ngán cơ chứ? Bởi, nếu có vị nào thấy ngán ngẫm chuyện thường ngày ở huyện, há đã bỏ mọi sự để kiếm việc khác, nghề khác cụng đặng!

Gọi đoạn trích ở trên là tiếu lâm chay hay truyện kể nhạt như nước ốc, cũng không đúng.Đúng hơn, có lẽ ta nên gọi đó là thắc mắc ‘cỏn con’ từ các trẻ mới lớn, chứ đằng này lớp tuổi già đầu tóc dính đầy những “tuyết” thì có gì lạ đâu chứ! Còn lại, là cung cách diễn tả của bé em về sự lôi cuốn/hấp dẫn từ đấng bậc nhà Đạo hệt ý/lời của bài hát có đoạn viết:

“A ha! Đêm nay em muốn nghe những lời ân ái…a à…êm êm.

A ha! Em nghe anh nói yêu em dài lâu nhé anhơi! ..à..a..á.. Lâu dài!

Em mong cho chiếc áo,

Áo tươi mầu em đã chọn kỹ

Một chiếc áo rực rỡ, em vừa thêu.

Em mong cho chiếc áo đó

cũng như là mớ tóc mềm rũ

Được mơn trớn…(ư) dưới tay người.”

(Nhạc Pháp: La Plus Belle Pour Aller Danser – bđd)

Ngôn ngữ mới của tuổi trẻ hôm nay, khi đề cao chiếc cổ áo của ai đó hoặc chức thánh của hàng giáo sĩ đạo mạo, có áo mão/cân đai, viền dài nơi cổ hay sao đó, vẫn là lời chúc tụng/ngợi khen các đấng làm việc cho nhà thờ không ngừng nghỉ. Thế nhưng, có đấng-bậc-làm-việc-cho-nhà-thờ/nhà thánh hăng say không ít, và chẳng biết chán ngán như người ở ngoài, đó mới là quan-niệm vững chắc như đinh đóng cột, mà thôi.

Tuy thế, công việc nhà Đạo của đấng bậc có chức thánh hăng say không ngừng nghỉ, đã là điều khiến nhiều người lấy làm lạ, bèn lân la hỏi:

“Thưa cha. Con là bổn đạo mới vừa trở lại Đạo, nên không thuộc và không hiểu những gì ghi trong sách lễ Rôma mà con đem theo mỗi khi đi lễ, để theo dõi. Đôi khi, con vẫn thắc mắc không biết làm sao lại có lễ kính nhớ thánh này/thánh nọ ghi trong sách ấy để làm gì. Và thêm nữa: có lễ khác lại được ghi như thể: Chúa Nhật Thứ 8 mùa Thường niên Năm 1 là sao con không hiểu. Sao đã là mùa tức mỗi năm chỉ có vài vụ, lại thêm chữ thường niên, tức quanh năm suốt tháng để làm gì và có ý gì? Xin cha bố thí cho một giảng giải, sẽ biếtơn cha mãi.”

Lại thêm câu hỏi mang tính nghiệp-vụ, dễ cho đấng bậc vẫn ngồi đó chờ người hỏi để điều nghiên, kiếm tìm câu giải đáp cho phải phép. Giải và đáp, rất lễ phép như mọi lần, sau đây:

Cảm ơn anh/chị đã có câu hỏi rất ích lợi không chỉ cho anh/chị thôi, mà còn cho nhiều người khác trong Đạo. Vâng. Quả vậy, đây là điều tốt lành để mọi người hiểu được lịch Hội thánh ta lập ra là để mọi người biết mà sống đời phụng vụ cho vẹn toàn. Lịch Hội thánh đặt căn bản trên 5 mùa cả thảy: Mùa Vọng, Mùa Giáng Sinh, Mùa Chay, Phục Sinh và Mùa thường niên.

Lịch Hội thánh bắt đầu bằng Mùa Vọng là đểvọng về với Giáng Sinh. Phải nói, đây là mùa Hy vọng chờ đợi hai việc: thứ nhất, là việc Chúa giáng hạ đi vào lịch sử; và thứ hai, là: Chúa đến lại trong lai thời. Mùa Vọng khởi sự từ Chúa Nhật Thứ Tư trước Giáng Sinh; như thế có 4 Chúa nhật trong Mùa này. Thời gian Mùa này thường thay đổi tùy số ngày trong tuần nào có lễ Giáng Sinh, nhất là vào năm nào lễ này rơi đúng vào ngày Chúa nhật. Trong Mùa này, áo chủ tế mặc cũng như mọi thứ trang hoàng đều mang mầu tía hoặc tímđậm, tức sắc mầu của sám hối, ăn năn, đền tội.

Mùa Giáng Sinh bắt đầu từ ngày 25 tháng Chạp và kết thúc vào lễ Chúa Thanh Tẩy. Đây là mùa lễ vui bởi thế nên, sắc mầu phụng vụ Mùa này phải là mầu trắng. Ở Mùa này, ta mừng kính lễ quan trọng tương tựnhư Lễ Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa thường vẫn rơi vào ngày mồng Một tháng Giêng, rồi đến Lễ Thánh Gia và Hiển Linh qua đó ta cử hành việc các đạo sĩ phương Đôngđến bái lạy Hài nhi Đức Chúa. Khi xưa, Lễ Hiển Linh rơi vào mồng 6 tháng Giêng là ngày mừng Chúa chịu Thanh Tẩy vẫn được mừng vào Chúa Nhật tiếp theo sau.

Ngay sau lễ Giáng Sinh, những ngày đầu ta gọi là Mùa bình thường trong năm, bên tiếng La-tinh là: “tempus per annum”, tức: thời gian kéo dài nhiều tháng. Cũng có thể, lịch sách ở đâu đó dịch cụm từ này thành “Mùa Thường Niên”. Dịch như thế, có lẽ không làm vừa lòng một số người đọc, bởi lẽ: chẳng có thời gian nào thờ phụng Chúa lại gọi là thường niên, thường nhật hết. Trong thời gian này, các bài đọc ở thánh lễ thường nói về các sự kiện Chúa Kitô từng trải trongđời hoạt động của Ngài. Mùa lễ này bao gồm 34 tuần, xen vào đó có các tuần Mùa Chay và lễ Phục Sinh. Thế nên, khi anh/chị đọc sách lễ Rôma thấy có chữ “Tuần thứ 8 Mùa Thuờng Niên” hoặc “Tuần thứ 8 trong năm” có nghĩa như thế. Thông thường, các Bản Tin Giáo Xứ phát hành vào Thánh lễ Chúa Nhật sẽ cho anh/chị biết là mình đang ở tuần nào trong lịch Phụng vụ; có như thế, ta mới tìm ra được ngày lễ kính trong sách. Mùa này, áo lễ vị chủ tế mặc, sẽ là mầu xanh lục, tức sắc mầu của đời thường vươn mạnh trong muôn ngàn cỏ cây. Mùa này cũng như mọi lúc, Hội thánh làm lễ kính các thánh cũng như mừng Chúa và Đức Mẹ cùng các thiên thần, suốt cả năm. Vào lễ kính các thánh, chủ tế sẽ mặc áo mầu đỏ, tức sắc mầuđược dùng để kính các thánh tông đồ và tử vì đạo, các thánh khác sẽ dùng mầu trắng.

Sau một ít tuần thường niên, sẽ đến Mùa Chay, tức mùa chuẩn bị mừng lễ Phục Sinh. Mùa Chay bắt đầu từ Thứ Tư Lễ Tro và sau đó có 6 tuần trọn thêm vào thời gian giữa Lễ Tro và Chúa Nhật thứ Nhất Mùa Chay. Không tính các ngày Chúa nhật hàng tuần kỷ niệm niềm vui Phục Sinh, Mùa Chay gồm 40 ngày là để kỷ niệm thời gian dài những 40 ngày Chúa ăn chay nguyện cầu ở sa-mạc, trước khi Ngài khởi sự hoạt động công khai với công chúng (x. Mt 4: 1-2). Chay mùa kiêng khem, là thời gian để mọi người lo mà hối cải, vì thế nên: sắc mầuđược dùng vào mùa này đều tia tiá hoặc tím đậm. Vào Mùa này, các bài đọc tập trung vào rửa tội, hối cải và đền tội.

Còn, mùa Phục Sinh bắt đầu bằng Lễ Vọng nửađêm thứ Bảy, tức đêm trước ngày Chúa Sống Lại, sau đó sẽ kéo dài 7 tuần và kết thúc vào Chúa nhật Lễ Hiện Xuống, tức vào hội lễ Thánh Thần Chúa ngự xuống với các tông đồ. Phục sinh, là Lễ hội quan trọng nhất trong năm để ta mừng kính Chúa sống lại hầu cứu chuộc con người. Thế nên, diễn tả niềm vui này, Hội thánh dùng mầu trắng là có nghĩa nhất.

Sau Chúa nhật Hiện Xuống, sẽ tiếp tục mùa thường niên cho đến Chúa nhật đầu Mùa Vọng cho chu kỳ phụng vụ năm tiếp theo sau. Chúa nhật cuối Mùa Thường Niên, là lễ Đức Kitô Vua Vũ Trụ.

Cũng nên biết: các bài đọc trong thánh lễ sẽ thayđổi từng năm, theo tiếp chu kỳ 3 năm cho các lễ Chúa nhật và chu kỳ 2 năm cho ngày thường trong tuần. Vào các Chúa nhật như thế, có 3 bài đọc chính trong đó kểcả bài Tin Mừng. Ba bài này sẽ được thay đổi vào mỗi năm trong 3 năm của chu kỳmà Hội thánh có thói quen gọi là Năm A, năm B và năm C. Muốn biết là ta đang cửhành phụng vụ năm nào trong chu kỳ phụng vụ, cần nhớ rõ là: chu kỳ phụng vụ bắtđầu vào năm đầu sau Công nguyên ta gọi là năm A, cứ như thế: các năm sau được chia cho 3 sẽ là năm C.

Chu kỳ gồm các lễ trong tuần gọi là năm 1 và năm 2, chia như thế là tùy con số chẵn/lẻ của năm đó. Bài đọc 1 trong thánh lễcũng thay đổi mỗi năm là theo kế hoạch này. Tuy nhiên, bài Tin Mừng vẫn giữ nhưthế mỗi năm. Chúa nhật bắt đầu Mùa Thường Niên, Hội thánh dùng Tin Mừng theo thánh Máccô là Tin Mừng ngắn nhất và được viết trước tiên. Khi Tin Mừng thánh Máccô kết thúc, Hội thánh lại sẽ cho đọc các đoạn Tin Mừng theo thánh Mátthêu và Luca vốn dĩ không thấy trong Tin Mừng thánh Máccô; sau đó, đến Tin Mừng thánh Luca. Tin Mừng thánh Gioan đặc biệt được dùng vào mùa Phục Sinh.” (xem Lm John Flader, Question Time, The Catholic Weekly 02/6/2013 tr. 10)

Kể rành rọt như thế, làm sao người hỏi và người đọc sai sót được. Kể lể dài dòng, cũng như thể xem phim dài nhiều tập xem khúc cuối đã quên khúc đầu, là chuyện dễ gặp và dễ thấy nơi các vị không đi lễ đều đặn mỗi tuần. Thế nhưng, mục đích mà đấng bậc nêu ra hôm nay không để nhắc nhở những chuyện như thế.

Như thế,tức như thể kể rằng: bạn đạo của ta ở trời Tây cũng như quê nhà, vẫn đều nắm vững ý nghĩa và lý do tại sao Hội thánh lại tổ chức phụng vụ lễ lạy có lớp lang, đàng hoàng. Phải công nhận đây là công việc của các thày dòng khắc kỷthời Trung Cổ hay trước đó, vẫn có thói quen dữ thánh lễ hằng ngày. Có khi mỗi ngày dự lễ và phụ giúp cha chủ tế đến 3, 4 lễ cũng không chừng. Và khi ấy, các lễ đều sử dụng tiếng La-tinh, nên cũng khó. Đó, cũng là kinh nghiệm của bần đạo và bạn đạo nào từng kinh qua (chứ không “kinh” quá), suốt nhiều năm trong Dòng thánh, rất bình thường mà không phài là thường niên, hoặc quanh năm.

Nói đi thì lại nói lại, phụng vụ thời nào cũng đều chú trọng vào chất lượng chứ không phải số lượng thánh lễ hoặc bài đọc mình cử hành, trong các vụ, các mùa, rất quanh năm. Nói lại thì lại nói một cách nôm na rằng: ngày hôm nay, mà đề cập đến vấnđề này, chỉ để ta rà soát chuyện lịch sử nhà Đạo trong quá khứ hoặc quá trình phụng thờ Chúa Chí Thánh, mà thôi.

Nói như thế,ra như thể chỉ muốn nói theo kiểu “con nhà có đạo”, vẫn rất đạo và rất đức, tứcđức độ. Cứ, nếu nói theo kiểu nghệ sĩ ở đời, lại sẽ nói như người viết nhạc hômđó, có câu như:

“A ha! Khi đêm buông xuống

em hay thường mơ ước xa xôi…a…à…á.. Em mơ,

A ha! Em mơ em sẽ mong lụa là…

Em xinh em tươi nhất, ôi nơi trần gian

Cho em khiêu vũ trong đêm thần tiên…”

(Nhạc Pháp: La Plus Belle Pour Aller Danser – bđd)

Hôm nay, trongđời đi đạo, dù là Đạo Chúa hay đạo làm người lại cũng có đấng bậc vị vọng của nhà Đạo, thích ứng thích hợp với cuộc sống ở ngoài đời, lại cứ quan niệm một cách nhè nhẹ, thanh thoát hơi khang khác, như:

“Ngày của Chúa, nhiều vị thường diễn tả việc dự Tiệc thánh như thói quen nguyện cầu, dâng tiến. Tệ hơn, có người lại coi việc cử hành Tiệc như màn độc diễn của vị chủ tế trên bàn thờ. Giáo dân tham dự chỉ với tính cách người dự khán, thôi. Nghĩa là, chỉ đến rồi đi. Đi xem lễ. Đến nhà thờ. Nhất nhất, để thực hiện tổng cộng những sáu điều Hội thánh khuyên răn. Không đi không đến e sẽ mắc tội. Và, là tội trọng.

Vốn mang trong người phong thái ấy, nhiều người vẫn hay đến trễ, về sớm. Chỉ đứng xa hoặc loanh quanh ở ngoài, hút thuốc nói chuyện hoặc liên tưởng chuyện làm ăn nào khác. Tuyệt nhiên, không mang dáng dấp tích cực, hợp tác nơi bàn tiệc. Tiệc Thánh, trước tiên và nhất thiết phải là động thái tích cực của cả cộng đoàn. Bởi, tự bản chất, ý nghĩa của Tiệc là như thế. Chí ít, ta tham dự Tiệc là để thật sự ăn Mình Chúa, và uống Máu Chúa, như đã dạy. Nói cho cùng, tham dự Tiệc không là chuyện đơn độc riêng lẻ, nhưng là việc của cả cộng đoàn. Cộng đoàn tình thương. Dự tiệc lòng Mến. Dự rất đông. Rất tích cực.

Dự Tiệc ngày của Chúa, ta cùng nhau đến vì Thân Mình Ngài. Cùng đến, như những người thân yêu chung tình, cùng ăn cùng uống. Cùng chung sức sống. Đến để bày tỏ lòng biết ơn chân thành, đối với Ngài.Đến, vì “Thánh Thể” thật sự mang ý nghĩa một cảm tạ. Ta đến, không phải vì sợphạm vào điều khuyên thứ ba Hội thánh luôn răn giữ. Ta đến, không vì sợ tội. Không vì sợ vi phạm giới răn Hội Thánh Chúa, khuyên giữ. Ta đến, cũng chẳng phải là giữ chỉ để giữ. Giữ vì sợ mắc tội. Giữ, nhưng không mảy may thuyết phục. Thành thử, có người cứ đến trễ và về sớm. Rồi, cũng chẳng thấy cần phải lưu lại đôi phút để hàn huyên, chia sẻ những tâm tình người đồng Đạo.

Đến dự Tiệc thánh, tuyệt nhiên không là đi“xem lễ” như ta lầm gọi. Bởi, đi xem là xem vị chủ tế độc diễn màn dâng tiến một mình, trên bục cao. Ngược lại, đến dự Tiệc Thánh là việc tham gia vào việc chung. Tham dự và gia nhập tiệc vui rất chung. Ăn chung uống chung, cũng một Mình Máu Rất Thánh của Chúa. Ăn và uống chung, rất công khai. Đầy hưng phấn. Như Chúa từng bày tỏ: “Bằng vào việc này, mọi người sẽ biết các anh là môn đệcủa Thầy, anh em hãy thương yêu nhau” (Yn 13: 35). Và,: “Xin cho chúng nên một để thế gian biết Chađã gửi Con đến” (Yn 17: 21-23)

Đến dự Tiệc, mà mang tâm trạng đơn độc lặng thinh, là chưa hiểu ý nghĩa của sự đồng tâm cộng lực,chung lòng mến. Đến dự Tiệc, là cùng mang tâm tưởng thâm sâu đượm tình mật thiết của cộng đoàn kẻ tin. Tiệc Thánh, không là thời điểm ta tác tạo nên cộng đoàn, mà thôi. Nhưng, là thời gian giúp ta cử hành mừng kính đặc điểm cùng nhau chung phần vui hưởng của cộng đoàn. Thật đáng tiếc: hơn bốn thập niên thời hậu Công Đồng đã trôi qua, mà nhiều vị vẫn còn nhấn mạnh đến yếu tố tu đức cá thể. Chỉ nhắm mục đích tìm sự“rỗi linh hồn”, riêng mình ta thôi.

Vì thế, người dự Tiệc ngày Chúa nhật vẫn cứ hành xử như khách lạ, vừa đến thăm. Khách đến, thiếu vắng cả nụ cười, tối thiểu. Thiếu tình thương. Thiếu hợp tác, đùm bọc. Cả khi, lời “chúc bình an, tay nắm tay” trao cho nhau, cũng chỉ là động tác lấy lệ. Chỉ như phản xạ tự nhiên, rất quen làm. Khác hẳn tâm tình người dự tiệc mừng ngày sinh, rất thân thương. Nói rộng hơn, dự Tiệc Thánh không chỉ đến để nhận bánh thánh hiệp thông, rất giản đơn. Mà, để chia sớt và cùng sẻ san một Bánh Thánh là Mình Ngài. Cùng uống chén Máu cứu độ của chính Ngài. Mình và Máu Đức Chúa đã Phục sinh. Mình Thánh Chúa ta lãnh nhận, không chỉ riêng Mình Đức Kitô thôi, nhưng còn là thân mình của cả cộng đoàn, vẫn được coi như chi thể thân thương đã tháp nhập vào Thân Mình Đức Kitô, đang hiện hữu.(x. Lm Richard Leonard sj, Suy Niệm Lễ Mình Máu Chúa năm C, Bản Tin Gx Fairfield, 02/6/13)

Hôm nay, trong cuộc sống thực tế ở đời, lại cũng có lập trường tuy không cứng ngắc, dài dòng về số lượng của công việc mình làm nhưng là là ý/lời đáng để đời, cần nhớ như truyện kể để thư giãn, rất như sau:

“Truyện rằng:

Tại một trang trại ở miền núi xa xôi, miền Đông bang Kentucky, có một ông cụ sống với người cháu của mình. Mỗi buổi sáng, ông cụ đều dậy rất sớm để đọc sách. Có những cuốn sách ông đã đọc nhiều lần, đến mức cuốn sách sờn cũ, nhưng lúc nào ông đọc cũng say mê và chưa một buổi sáng nào ông quên đọc sách. Cậu cháu trai cũng bắt chước ông, cũng cố gắng mỗi ngày đều ngồi đọc sách. Rồi một ngày, cậu hỏi ông:

Ông ơi, cháu cũng thử đọc sách như ông, nhưng cháu không hiểu gì cả. Hoặc là có những đoạn cháu hiểu, nhưng khi gấp sách lại là cháu quên ngay. Thế thì đọc sách có gì tốt đâu mà ông đọc thường xuyên thế ạ…

Ông cụ lúc đó đang đổ than vào lò, quay lại nhìn cháu và chỉ nói:

Cháu hãy đem cái giỏ đựng than này ra sông và mang về cho ông một giỏ nước nhé!
Cậu bé liền làm theo lời ông, dù rằng tất cả nước đã chảy ra hết khỏi giỏ trước khi cậu bé quay về đến nhà. Nhìn thấy cái giỏ, ông cụ cười và nói:

Nước chảy hết mất rồi! Có lẽ lần sau cháu sẽ phải đi nhanh hơn nữa!
Rồi ông bảo cháu quay lại sông lấy một giỏ nước. Lần này cậu bé cố chạy nhanh hơn, nhưng lại một lần nữa, khi cậu về đến nhà thì cái giỏ đã trống rỗng. Thở không ra hơi, cậu nói với ông rằng “đựng nước vào cái giỏ là điều không thể”, rồi đi lấy một chiếc xô để múc nước. Nhưng ông cụ ngăn lại:

Ông không muốn lấy một xô nước. Ông muốn lấy một giỏ nước cơ mà! Cháu có thể làm được đấy, chỉ có điều cháu chưa cố hết sức thôi!

Rồi ông lại bảo cháu ra sông lấy nước. Vào lúc này, cậu bé đã biết rằng không thể đựng nước vào giỏ được, nhưng cậu muốn cho ông thấy rằng dù cậu chạy nhanh đến đâu, nước cũng sẽ chảy hết ra khỏi giỏ trước khi cậu về đến nhà. Thế là cậu bé lại lấy nước, lại chạy nhanh hết sức, và khi về đến chỗ ông, cái giỏ lại trống rỗng.

Ông xem này. Cậu bé hụt hơi nói – Thật là vô ích!

Cháu lại nghĩ nó là vô ích ư?Cháu thử nhìn cái giỏ xem!

Cậu bé nhìn vào cái giỏ, và lần đầu tiên, cậu bé nhận ra rằng cái giỏ trông khác hẳn ban đầu. Nó không còn là cái giỏ than đen bẩn nữa, mà đã được nước rửa sạch sẽ.

Cháu của ông ơi, đó là những gì diễn ra khi cháu đọc sách. Có thể cháu không hiểu hoặc không nhớ được mọi thứ, nhưng khi cháu đọc, sách sẽ thay đổi cháu từ bên trong tâm hồn, như nước đã làm sạch giỏ than kia vậy. “ (Truyện kể nhận từ điện thư vi tính rất mới)

Nói gì thì nói, kể gì thì kể, cũng nên kể đến lời của bậc thánh hiền vẫn căn dặn người dân trong Đạo/ngoài đời, những lời như sau:

Cho nên,

thưa anh em,

khi họp nhau để dùng bữa,

anh em hãy đợi nhau.

Ai đói, thì ăn ở nhà,

kẻo anh em đến họp mà hoá ra để bị kết án.

(1 Cor 11: 33-34)

Nói cho cùng, họp mặt để dự tiệc Lòng Mến rất Thánh Thể, hay để nguyện cầu Chúa ghé thăm, cũng chỉ nên họp sao cho niềm vui lan tràn, thật thư giãn. Chứ đừng coi đó như bổn phận, hoặc việc đền tội, hay sao đó, thật cũng khó.

Thế đó, là lời cuối được các bạn đạo nhắn nhủ gửi gắm bà con/anh em trong họ ngoài làng, rất thánh hội. Hôm nay. Thời buổi này.

Trần Ngọc Mười Hai

Chỉ biết tuân theo lời vàng ngọc

của chư thánh

chứ không dám

có ý/lời nghịch ngạo

cũng khó nghe.

“Ta cố gọi những giác quan lười biếng,”

“để ghi cho hậu thế phút mơ màng”

(dẫn từthơ Vũ Hoàng Chương)

Lc 9: 18-24

Phút mơ màng Lời Chúa dạy, nay thánh sử đà ghi chú. Ghi rất nhiều về cuộc sống của đấng thánh mà mọi người trân trọng, như trình thuật kể.

Trình thuật, nay thánh Luca kể về việc Chúa khen ngợi thánh Gioan Tiền Hô say mê lập cuộc sống ở sa mạc, đầy khắc kỷ.Sống khắc kỷ một đời người, thánh Gioan lại đã thiết lập Nước Trời như Chúa muốn. Trình thuật điều Chúa muốn, nay tỏ rõ về thánh-nhân thân thương, của cộngđoàn.

Cộng Đoàn Nước Trời, là đề tài được tác giả Josephus tóm gọn ý tưởng về đấng thánh Tiền Hô như người thời đó vẫn quan niệm. Quan niệm của chúng dân thời buổi đó, lạiđã cho rằng: thánh Gioan Tiền Hô là bậc vĩ-nhân luôn khích-lệ dân-con người Do thái hãy phụng thờ Thiên Chúa và sống đời bác ái với anh em. Thánh-nhân lại cũng mời mọi người hãy nhận-lãnh ơn thanh-tẩy nơi giòng chảy Giođan. Tuy là thế,tác-giả lại không nói gì về ngày sinh hoặc chi tiết về gia-đình giòng-họ của thánh Gioan.

Thánh Máccô thì khác, thánh-sử đã thêm đôi điều và bảo: Thánh Gioan là bậc lành-thánh khắc-kỷ đáng kính nể. Ngài là người của sa-mạc. Là, đấng thánh sống đời khổ-hạnh nên đã lôi kéo được nhiều người về lối sống nhiệm-nhặt như ngài chủ trương. Thánh Máccô gọi thánh Gioan là ngôn-sứ đạo hạnh từng vắng bóng nơi lịch sử hằng thế kỷ. Thánh-nhân vẫn là sứ-giả mang thông-điệp gửi đến dân con Do-thái chưa từng biết từ ngày lưu-lạc trở về. Trên hết mọi sự, đấng thánh Tiền Hô đã dấn thân đi trước Chúa, hầu loan báo: “Nước Trời đã cận kề”. Và cũng thế, thánh Máccô lại cũng không nói gì về nguồn-gốc, giòng-tộc cũng như thuở ấu-thời của thánh Gioan Tiền-Hô/Thanh-tẩy đầy gương sống.

Tác giảTin Mừng thứ tư là thánh Gioan Tông đồ, cũng chỉ đặt chỗ đứng khá hạn-hẹp cho đấng thánh Tiền Hô, thôi. Ở Tin Mừng thứ tư, đấng thánh Tiền-hô xuất hiện như đấng bậc tiên-phong chăm lo thanh tẩy cho mọi người. Và thánh-nhân, là chứng-tá đầu đời dám tuyên-xưng Đức Kitô là Đấng Cứu Thế mọi người chờ trông. Và, thánh Gioan Tiền Hô nhận mình không là Đấng Mêsia, cũng chẳng là ngôn-sứ giống như tổ-phụ Môsê mà mọi người chờ mong. Tin Mừng thánh Gioan, cũng không đề cập đến gốc-gác và/hoặc thuở thiếu-thời của đấng thánh Tiên Hô và Thày mình, nữa.

Với thánh Mátthêu, đấng thánh Tiền Hô có chỗ đứng rất trang-trọng ở Tin Mừng. Tựa hồ như Đức Giêsu, thánh Gioan Tiền Hô mang đến cho mọi người một sứ điệp quan trọng: “Nước Trời đã gần kề”, nên: hãy thay đổi tầm nhìn về thế-giới và lối sống cá-nhân, và hãy sống cuộc đời đáng sống để nở mày nở mặt trong hoàn cảnh lịch sử mình đang sống.

Ở Tin Mừng thánh Mátthêu ghi, đấng thánh Tiền Hô chừng như chỉ tập trung mỗi sự việc Chúa sẽ trừng-phạt và trả-đũa về chính con người Ngài. Với thánh Mátthêu, thánh Gioan Tiền Hô tựa hồ đấng thánh giảng rao thuyết pháp về Tin Vui trong Đạo cũngđầy đặn chất giọng và tiếng hô. Thánh sử Mátthêu ghi rằng: chúng dân bình thường đã chấp nhận Chúa, duy mỗi đám Biệt Phái và bè Sađuxê lại vẫn nói không. Và, thánh Mátthêu đã đặt để nơi Chúa lời khen thánh Gioan Tiền Hô cao cả hơn bất cứ ai trong nhân lọai. Về gốc nguồn tiểu sử thánh Gioan Tiền Hô, thánh sửMátthêu cũng không đặt nặng.

Riêng thánh-sử Luca lại coi đấng thánh Tiền Hô như đấng bậc thuộc chế độ xưa cũ, là cầu nối cho hệ-thống rất mới của Đạo Chúa. Và, ông là người đầu tiên nói về cội nguồn của Đức Giêsu xuất tự Thiên Chúa. Tin Mừng thánh Luca diễn tả sứ-điệp mới từthánh Gioan: hãy san sẻ của ăn/thức uống cho người thiếu thốn. Chớ thu-thập thái quá những gì mình chỉ đáng hưởng. Chớ chèn ép/thống trị mọi người, nhưng hãy hài lòng với những gì mình đang có bằng thu nhập mình nhận lãnh. Và, hãy nhận ơn thanh tẩy tại giòng chảy Giođan, để trở thành dân con Đức Chúa.

Trong khi đó, sứ-điệp Chúa trao ban còn cao cả vượt quá đất nước Do thái. Sứ điệp này,được thánh Luca tóm tắt trong dụ-ngôn người Samaritanô nhân-hiền và truyện kể về người con hoang phá tán của cải của bậc cha ông. Tất cả cốt để nói trước về cuộc thanh lọc cả hoàn-vũ với mọi người, chứ không chỉ mỗi thanh tẩy bằng nước trên sông Giođan. Thanh Tẩy Chúa muốn nói, là thanh lọc bằng Thần Khí Chúa, Đấng ngự đến từ lễ Ngũ Tuần và còn tiếp tục mãi sau này.

Nhiều người vẫn cứ hiểu việc thánh Gioan Tiền Hô họat-động thanh tẩy giống như sinh hoạt phụng vụ ở nhà thờ. Nhưng không phải thế. Thật sự thì, thánh Gioan Tiền Hô tụ họp mọi người từ nơi xa xôi đến với ông, để đưa họ vào giòng chảy Giođan đầm mình ở đó trong chốc lát rồi lội nước băng sông cuối cùng sẽ đặt chân lên đất lành đã hứa và đòi quyền làm chủ như Chúa hứa ban. Đất hứa ban, nay bị Đế quốc chiếm hữug và lũng đoạn. Thế nên, công việc của thánh Gioan Tiền Hô là giúp mọi người đòi lại quyền của người Do-thái làm chủ miền đất Chúa hứa, tức: một động-thái chính-trị quyết chống-trả mọi bức-ép từ phía Đế-quốc. Thánh Gioan Tiền Hô là người của quần chúng. Ông cũng là đấng thánh thiết-lập các nghi-thức mang ý-nghĩa chính-trị khá nhức nhối đối với mọi người.

Thánh Luca lại cũng kể cho ta biết lập-trường/quan-niệm và sự ra đời của thánh Gioan Tiền Hô. Một phần truyện kể, lại cũng nói đến Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa đã ghé thăm người chị họ là bà Êlizabét than mẫu của thánh Gioan và cùng hát lên lời ‘Xin Vâng’, rất cảm tạ. Có điều lạ, là: chừng như hai bà mẹ đều đồng thanh hát lên lời ca ý-nhị ấy. Cũng có thể, cả thánh Gioan nữa lại đã hiệp-thông hát xướng cũng nhưthế, trong bụng mẹ.

Thánh Luca cũng hàm-ẩn cung-cách ‘chính trị của người Đạo Chúa và người theo Do-thái giáo’đúng qui-cách trong lời ca do thánh-nhân đặt nơi miệng Đức Mẹ, lúc Mẹ thai nghén cưu-mang Ngài. Mẹ đã cùng với Con của Mẹ đi vào chính-trị của Thiên-Chúa mà ta gọi là bài ca ‘Xin Vâng’ qua đó Mẹ hiên ngang hát: “Thiên Chúa sẽ làm rất nhiều việc qua Con Một Ngài, là Đức Giêsu. Đó chính là thánh ý của Ngài, nay diễn tả với con người.

Lời ca ‘Xin Vâng’ do Mẹ hát, rõ ràng mang nặng tính-chất xúc-tác, đại để như:

Ngài làm tiêu tán lũ kiêu căng,

Hạ kẻ quyền-năng khỏi ngôi báu,

Suy tôn người khiêm nhượng.

Đói khó, Người cho no phỉ sự lành,

giàu sang Người xua đuổi về không.” (Lc 1: 49-53)

Xem như thế,việc đó không mang ý-nghĩa của sự sùng kính/sốt sắng, nhưng là ngòi nổ chính trị. Bởi lẽ, vấn đề của mọi thời vẫn là: tính kiêu căng/ngạo mạn; kẻ có quyền vẫn cứ xử không công bằng, luôn chèn ép người khiêm tốn, đói nghèo. Người giàu vẫn làm giàu trên xương máu kẻ khác… Chủ đề này vẫn xuyên suốt ở Tin Mừng thánh Luca nơi chương đoạn mà ta gọi là truyện kể về thời ấu thơ của Chúa. Đó không là văn chương cho trẻ nhỏ. Đó chính là đường lối chính trị của người lớn khôn.

Có lẽ, mọi người cũng nên tìm hiểu các vấn đề như thế, cả khi mình không tổ chức lễ Giáng sinh đình đám rất phàm tục. Ta không thể đưa Chúa vào với lễ này đến khi nào tađem chính trị của tín-hữu trưởng thành vào với cảnh-trí của thế giới. Tiệc Thánh ta dự, phải là lời tuyên xưng gửi giới cầm quyền buộc họ thực-thi trao trả mọi của cải trên thế giới cho mọi người sống ở đó. Và, khi phân phối của cải của họ, giới cầm quyền phải đặt ưu-tiên phát không cho người bị bỏ quên bên rìa xã hội và kẻ đói khát. Chính-trị đúng-đắn phải là ‘chính trị’ dành để của cải trên thế giới cho hết mọi người, không thiên vị ai. Bởi, thế giới hôm nay và mọi thời, vẫn là thế giới của cộng-đồng dân chúng đang sống đúng ý-nghĩa giađình, cộng đoàn.

Trong tâm tình cương-quyết như thế, ta hãy cất lên lời lẽ rất thi-ca, mà rằng:

“Kìa một cõi trăm hình muôn vạn tiếng,

Đương dần phai dần hiện tắt rời vang.

Ta cố gọi những giác quan lười biếng,

Để ghi cho hậu thế phút mơ màng.”

(Vũ Hoàng Chương – Chết Nửa Vời)

Hậu thế nay, tuy đã chết nửa vời, nhưng vẫn còn nhớ và còn ghi lại phút mơ màng khi nhìn về cuộc sống của thánh-nhân từng lên tiếng mời gọi mọi người quan-tâm đến Nước Trời. Tiếng của ngài vẫn cứvang vọng trong sa-mạc chờ người đến với Chúa, để thở than. Thở và than, không chỉ mỗi chuyện buồn chán, mà cả chuyện dân gian, thường nhật cõi thế trần, rất tươi vui.

Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh

Mai Tá lược dịch

Cách sống của cha tôi

Cách sống của cha tôi

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ Reader’s Digest)

Người ta có thể CHỌN nhiều thứ cho cuộc đời mình, trừ hai thứ: Cha mẹ và nơi sinh. Cha mẹ nào cũng có điều đặ biệt riêng với con cái, nếu không thì làm gì có cha mẹ. Cha mẹ mà tuyệt vời như thế, huống chi Thiên Chúa. Chúa nhật thứ ba trong Tháng Sáu là Ngày Hiền Phụ. Bạn còn cha? Bạn thật hạnh phúc. Bạn không còn cha? Thật bất hạnh: “Còn cha gót đỏ như son, Đến khi cha chết gót con lấm bùn” (Ca dao). Vậy đó, nhưng khi cha còn sống, con có nhiều cách nhìn về người cha của mình… Sự hối hận thường đồng nghĩa với sự muộn màng!

Tôi vẫn thắc mắc rằng không biết có ai phá kỷ lục viết thư của cha tôi hay không.

Khi còn là sinh viên, tôi rất nhớ nhà. Suốt ba năm ròng rã, cha tôi cứ cách một ngày lại viết cho tôi một lá thư. Viết là chuyện quá dễ đối với cha tôi, thế nhưng cứ cách ngày lại viết thư suốt ba năm thì quả là “tâm phục, khẩu phục”.

Thư của cha tôi luôn nâng đỡ tôi, khích lệ tôi, và an ủi tôi. Thư luôn mở đầu bằng câu: “Shuet, con gái yêu dấu nhất của cha”. Còn hạnh phúc nào hơn với một sinh viên xa nhà như tôi chứ? Cha tôi luôn viết trên loại giấy có in hoa hồng lớn như thể hiện tình thương của người dành cho tôi.

Cha tôi tên là Kwok-Chi Tam, một con người tự lập, giỏi lịch sử Trung quốc và văn chương Tây phương, nhưng cũng rất giỏi văn chương Trung quốc. Người thường làm anh Paul và tôi “quê độ” bằng cách trích ra những bài thơ mà chúng tôi quên tiệt. Đã đi dạy nhiều năm, cha tôi quen nhiều sinh viên. Các sinh viên đều nói cha tôi khả dĩ bật một mẩu phấn tào thành âm thanh thú vị.

Ban ngày cha tôi đi dạy, ban đêm viết kịch bản phim. Tôi biết cha tôi mệt mỏi nhưng không bao giờ than phiền. Căn hộ chật hẹp, cha mẹ ngủ trong buồng, còn anh em tôi ngủ trên sàn nhà. Vào những dịp sinh nhật, anh em tôi được ăn thịt gà, và thực sự cảm thấy hạnh phúc bên cha mẹ. Được học hết tú tài, ai học được nữa thì cha mẹ vẫn cho đi học, và luôn động viên học chứ không hề trách mắng. Chúng tôi hiểu giá trị của sự giáo dục và kiến thức, nhất là mang ý nghĩa từ những hy sinh của cha mẹ.

Khi cuộc sống tạm ổn, cha mẹ đỡ vất vả, anh em tôi đã có nghề nghiệp, lại là lúc cha tôi bị ung thư tuyến tụy bất khả trị. Năm 1981, gia đình có ba người sinh nhật vào tháng Năm, nhưng không tổ chức vì buồn khi thấy cha tôi bệnh nặng như thế. Và rồi định mệnh cũng cướp mất cha tôi vào năm sau.

Đám tang cha tôi được tổ chức rất lớn. Rất nhiều người đến phúng điếu, đường phố chật người đưa tiễn và đứng chào tỏ lòng thương tiếc khi linh cữu cha tôi đi qua. Tôi hãnh diện vì uy tín của cha tôi đối với mọi người ở mọi lứa tuổi.

Một năm sau, tôi sinh con gái đầu lòng, đặt tên là Laura. Khi Laura bốn tuổi, tôi sinh con trai đặt tên là Paul. Khi chúng đủ hiểu biết, tôi luôn kể cho các con biết về ông ngoại của chúng, luôn yêu thương và quan tâm vợ con dù ông rất vất vả.

Đó là bài học cha tôi đã dạy tôi bằng chính cuộc sống mẫu mực của người: Tận tụy với gia đình, cần cù lao động, và kiến thức sâu rộng. Cha tôi nghiêm nghị mà không khắt khe, ít nói mà vẫn dễ gần gũi, thương yêu mà không nhu nhược, khắt khe với chính mình mà lại nhân hậu với người khác. Một ngày nào đó, khi các con khôn lớn, tôi sẽ cho chúng đọc những lá thư mà cha tôi đã viết cho tôi ngày xưa. Đó là gia bảo của người cha kính yêu đã để lại cho tôi. Quả là gia sản vô giá!

Tôi quyết tâm sống xứng đáng là con của cha tôi, và tôi sẽ giáo dục cac con cũng noi gương sống tốt của ông ngoại: Nói ít, làm nhiều.

MO-SHUET TAM

TRẦM THIÊN THU (Chuyển ngữ từ Reader’s Digest)

Lòng tin và sự xấu hổ

Lòng tin và sự xấu hổ

Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng đọc diễn văn trong phiên họp khai mạc cuộc họp Shangri-La bàn về an ninh khu vực Đông Nam Á, ngày 31/5/2013.

Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng đọc diễn văn trong phiên họp khai mạc cuộc họp Shangri-La bàn về an ninh khu vực Đông Nam Á, ngày 31/5/2013.

Nguyễn Hưng Quốc

13.06.2013

nguồn:VOA

Nhân nhắc đến khái niệm lòng tin chiến lược trong bài nói chuyện của ông Nguyễn Tấn Dũng, chúng ta thử bàn về chuyện lòng tin trong chính trị nói chung. Nói đến lòng tin, ở đây tôi chỉ muốn tập trung vào sự tin cậy (trust, chứ không phải faith hay belief) và chỉ giới hạn trong phạm vi chính trị đối nội, trong nội bộ một quốc gia.

Trước hết, hầu như ai cũng biết sự tin cậy là một trong những yếu tố quan trọng nhất để mọi người có thể sinh hoạt chung với nhau trong xã hội, từ phạm vi nhỏ và riêng tư nhất là gia đình và bạn bè đến những phạm vi lớn hơn như các cơ sở làm ăn buôn bán hoặc các đoàn thể và cuối cùng, sinh hoạt chính trị trong cả nước. Nền tảng của cái gọi là đạo đức công dân, thật ra, là vấn đề tin cậy: mình tin người khác và làm cho người khác tin mình bằng cách, trước hết, tự mình làm cho mình đáng tin cậy. Nền tảng của dân chủ, nghĩ cho cùng, cũng là sự tin cậy: tin cậy vào thiện chí của người khác và vào quyết định của đa số (biểu hiện cụ thể nhất là qua các lá phiếu).

Trong chính trị đối nội, lòng tin có ba loại: tin vào các nhà lãnh đạo, tin vào các tổ chức công quyền và tin vào cơ chế.

Trong các tổ chức công quyền, nổi bật nhất là lập pháp (tập trung vào Quốc hội – ở một số nước, có hai hình thức chính Thượng viện và Hạ viện), hành pháp (tập trung vào phủ Tổng thống và/hoặc văn phòng Thủ tướng) và tư pháp (qua hình ảnh của toà án cũng như công an). Ranh giới giữa lòng tin vào các nhà lãnh đạo và các tổ chức công quyền không hoàn toàn rạch ròi: Ở các cơ quan hành pháp, người ta có khuynh hướng nhìn vào người lãnh đạo cao nhất (tổng thống hoặc/và thủ tướng); còn ở các cơ quan khác, từ lập pháp đến tư pháp, vai trò tập thể nổi bật hơn vai trò của cá nhân, do đó, người ta có thói quen nhìn vào cả cơ quan hơn hơn là từng người cụ thể, ngay cả là người lãnh đạo cao nhất.

Đối với các nhà lãnh đạo, lòng tin cũng có nhiều loại: Một, tin vào cá tính và đạo đức của họ; và hai, tin vào lý tưởng cũng như các chính sách mà họ theo đuổi. Trong hai loại lòng tin ấy, cá tính của người lãnh đạo là yếu tố quan trọng đầu tiên, có vai trò thu hút quần chúng nhất. Không có cá tính mạnh và không có sức cuốn hút quần chúng, không ai có thể trở thành lãnh tụ được, nhất là ở các quốc gia dân chủ, nơi để trở thành lãnh tụ, người ta phải trải qua những cuộc tranh cử và bầu cử gay gắt, trước hết, trong nội bộ đảng, và sau đó, trong phạm vi quốc gia. Nhưng yếu tố đầu tiên này tức khắc trở thành thứ yếu khi người ta trở thành lãnh tụ thực sự. Khi trở thành lãnh tụ, yếu tố được quần chúng quan tâm nhất lại là lý tưởng và từ đó, chính sách của họ. Lý tưởng, vốn thường lớn và chung chung, là yếu tố đầu tiên để gây chú ý và sự đồng cảm. Tuy nhiên, yếu tố chính để quần chúng đánh giá giới lãnh đạo chính là đường lối và chính sách, tức những khía cạnh nhằm hiện thực hoá lý tưởng mà họ tuyên truyền. Đối với đường lối và chính sách, ba điều kiện căn bản nhất là: một, rõ ràng; hai, nhất quán; và ba, hiệu quả. Xuyên suốt từ đầu đến cuối, vấn đề đạo đức của nhà lãnh đạo luôn luôn là một vấn đề quan trọng. Có điều, ở đây là đạo đức công dân chứ không phải là đạo đức cá nhân. Những cái gọi là hiền lành, khiêm tốn, hòa nhã, dễ thương, mau nước mắt, v.v. đều thuộc loại đạo đức cá nhân. Là đạo đức cá nhân, chúng chỉ có ý nghĩa trong phạm vi liên-cá nhân, giữa người này và người khác, trong một không gian có giới hạn. Điều người ta quan tâm nhất ở nhà lãnh đạo là thứ đạo đức công dân, trong đó, nổi bật nhất là sự trong sạch, tinh thần trách nhiệm và tôn trọng pháp luật, bởi vậy, ba cái xấu thường dễ bị theo dõi và lên án nhất chính là tham nhũng, vô trách nhiệm và lạm dụng quyền hành.

Đối với các tổ chức, nội dung của cái gọi là lòng tin chỉ tập trung chủ yếu vào khía cạnh thực hành với hai nội dung chính: năng lực và tính hiệu quả. Tiêu chí để đánh giá việc thực hành là hiến pháp và luật pháp. Nói đến năng lực và tính hiệu quả của các cơ quan, người ta phải đối chiếu việc thực hành của các cơ quan ấy so với các quy định ghi trong hiến pháp và luật pháp. Nếu nhiệm vụ chính của công an, chẳng hạn, là bảo đảm an ninh và an toàn trong xã hội thì năng lực và tính hiệu quả của công an cần phải được đo lường và đánh giá trên mức độ tội phạm các loại trong xã hội.

Đối với cơ chế, lòng tin chủ yếu tập trung vào tính lý tưởng, tính hiệu quả và sự bền vững của nó.

Qua ba loại lòng tin ở trên, chúng ta có thể nhận thấy sự khác biệt giữa các xã hội dân chủ và các xã hội phi dân chủ.

Ở các xã hội dân chủ, từ Mỹ đến Úc và toàn bộ các quốc gia Tây Âu và Bắc Âu, dân chúng có thể mất lòng tin vào giới lãnh đạo hay các cơ quan công quyền, nhưng họ luôn luôn tin tưởng vào cơ chế. Cơ chế dân chủ mà họ thiết lập và hoàn thiện suốt cả trăm năm hoặc lâu hơn nữa không những có tính lý tưởng cao, phù hợp với những bảng giá trị phổ quát của nhân lại (tôn trọng tự do cá nhân và sự bình đẳng giữa mọi người cũng như tinh thần thượng tôn pháp luật) mà còn có tính hiệu quả trong việc vận hành kinh tế, an sinh xã hội và đặc biệt, quản trị đất nước. Hơn nữa, mọi người còn tin tưởng vào sự bền vững của nó: Một mặt, giới lãnh đạo hay các cơ quan công quyền có thể thay đổi, nhưng cơ chế dân chủ thì không; mặt khác, chính cơ chế ấy bảo đảm mọi sự thay đổi quyền lực đều diễn ra một cách êm thắm, không gây nên bất cứ một xáo trộn nào trong xã hội. Chính vì vậy, ở hầu hết các nước dân chủ, tâm lý quần chúng thường khá an tâm sau các cuộc bầu cử. Trong bầu cử, người ta có thể tranh đấu với nhau một cách dữ dội nhưng bầu cử xong, tuy có kẻ thắng người thua và tuy sẽ có những chính sách khác nhau, mọi người vẫn biết rõ một điều: tự do, dân chủ, nhân quyền và pháp chế vẫn được tôn trọng và duy trì. Dưới chính phủ mới, một số người có thể bị cắt bớt một phần trong các trợ cấp thất nghiệp hay trợ cấp xã hội, chẳng hạn, nhưng chắc chắn, sẽ không có ai bị bỏ đói, bị tước đoạt đất đai hay bị bắt bỏ tù một cách vô lý vì một số phát ngôn hay vì tham gia một cuộc biểu tình nào đó.

Cũng chính vì tin cậy vào cơ chế nên ở các quốc gia Tây phương, hầu như không ai nghĩ đến chuyện gây bạo loạn để lật đổ chính quyền. Mọi sự thay đổi, nếu có, đều diễn ra bên trong cơ chế, với các luật chơi gắn liền với cơ chế.

Ở các nước phi dân chủ, ngược lại, điều người ta ít tin nhất, lại là cơ chế. Thoạt đầu, chế độ phi dân chủ nào cũng khuếch đại tính lý tưởng của nó để thu phục nhân tâm. Nhiều người sẵn sàng tin và có người sẵn sàng hy sinh tính mạng để thực hiện các lý tưởng ấy. Nhưng cái thiếu nhất của các chế độ độc tài là tính hiệu quả. Khái niệm hiệu quả ở đây không chỉ giới hạn trong phạm vi kinh tế mà còn trải rộng ra mọi phạm vi khác, từ luật pháp đến xã hội, văn hóa, chính trị và nhân quyền. Cứ nói mãi đến tự do nhưng đi đâu cũng đối đầu với công an, lúc nào cũng có nguy cơ bị công an còng tay hay đạp vào mặt; cứ nói mãi đến dân chủ, nhưng tranh cử thì hạn chế, bầu cử thì gian lận, bộ máy công quyền đều được giao phó cho những kẻ bất tài nhưng có nhiều “quan hệ”… dần dần người ta sẽ mất hết niềm tin. Chính vì có sự trái ngược giữa tính lý tưởng và tính hiệu quả như vậy, mọi chế độ độc tài đều thiếu hẳn tính ổn định và bền vững. Kiểu tuyên truyền ưu tiên cho ổn định ở các nước độc tài, trong đó có Việt Nam, là một lối ngụy biện đầy nghịch lý, bởi, tự bản chất, đã độc tài thì không thể ổn định, và vì không ổn định, nó cũng không thể bền vững.

Đó chính là tình trạng ở Việt Nam hiện nay.

Lần lượt, nhiều người, ngay cả những kẻ từng cúc cung phục vụ chế độ gần như cả đời, đều nhận ra một điểm: tất cả các khuyết điểm ở Việt Nam đều bắt rễ từ một cái lỗi chính, có người gọi là “lỗi hệ thống”. Lỗi hệ thống tức là lỗi ở cơ chế. Lỗi ở cơ chế chủ yếu là lỗi ở ba khía cạnh: một, phương thức lên cầm quyền (thường, một cách chính đáng, phải gắn liền với các cuộc bầu cử tự do); hai, ở phương thức phân quyền (yêu cầu tối thiểu là tính chất độc lập của tư pháp, và đằng sau nó, lực lượng công an); và ba, phương thức kiểm soát quyền lực (chỉ đáng tin cậy khi, thứ nhất, người kiểm soát độc lập với người bị/được kiểm soát; và thứ hai, từ nhiều nguồn khác nhau. Ở Tây phương, cơ cấu kiểm soát quyền lực thường chằng chịt nhiều tầng và từ nhiều góc độ khác nhau, từ tư pháp đến truyền thông, các tổ chức chính trị đối lập, các tổ chức phi chính phủ và, bàng bạc khắp nơi, dân chúng).

Lâu nay, dường như chính quyền Việt Nam cảm thấy tuyệt vọng trong việc củng cố lòng tin của dân chúng vào cơ chế nên bộ máy tuyên truyền của họ thường hiếm khi đề cập đến cơ chế, vốn gắn liền với chế độ. Họ chỉ sử dụng biện pháp tiêu cực là cấm đoán việc phê phán cơ chế hoặc lâu lâu vẽ vời vài chuyện nhăng nhít (trong đó, mới nhất là việc bỏ phiếu tín nhiệm giới lãnh đạo) để mị dân hoặc lừa dân với ảo tưởng là cơ chế ấy đang trong tiến trình tự hoàn thiện. Nhưng cố gắng xây dựng lòng tin dựa trên lời hứa hẹn là nó đang tự thay đổi và hoàn thiện chỉ là một trò chơi nửa vời của những kẻ đang biết là mình thua cuộc. Nó thiếu hẳn tự tin. Và cũng thiếu lòng tin ở cơ chế.

Trước đây, bộ máy đảng và chính quyền tập trung thật nhiều công sức vào việc gây dựng lòng tin vào các nhà lãnh đạo bằng cách thần thánh hóa, hoặc ít nhất, thần tượng hóa một người nào đó, trước là Hồ Chí Minh, sau là Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp. Nhưng với giới lãnh đạo thuộc các thế hệ sau, các nỗ lức ấy bị biến thành tuyệt vọng ngay cả trước khi họ bắt đầu thực hiện. Lý do chính, tôi nghĩ, là do sự phát triển của truyền thông. Với thế hệ lãnh đạo đầu tiên, việc thần thánh hóa tương đối dễ: dưới mắt dân chúng, ông Hồ Chí Minh, chẳng hạn, lâu lâu mới thoáng qua một lần. Toàn bộ hình ảnh của ông là do các cán bộ tuyên truyền hoặc chính ông vẽ ra. Không ai có thể kiểm tra được cả. Giới lãnh đạo gần đây, đi đâu cũng có các ống kính chĩa vào ghi hình và ghi âm, rất dễ bộc lộ những sự hớ hênh trong cả trí tuệ lẫn nhân cách. Huống gì hầu hết các nhà lãnh đạo gần đây đều thuộc loại kém cỏi. Họ khó đủ sức để giữ được lòng tin của quần chúng.

Dĩ nhiên, nói đến lòng tin của dân chúng đối với lãnh đạo Việt Nam, chúng ta khó tìm ra một bằng chứng cụ thể nào để phân tích. Bầu cử thì gian lận; các cuộc điều tra dư luận thì bị cấm đoán, mọi cố gắng tìm kiếm số liệu đều trở thành vô vọng. Nhưng ít nhất cũng có một số người biết chắc chắn là dân chúng không tin giới lãnh đạo: Đó chính là giới lãnh đạo hiện nay. Biết, nên họ sợ và tìm mọi cách để tránh né việc đối đầu với việc bày tỏ cách đánh giá của dân chúng. Họ biết chắc chắn một điều: nếu để dân chúng tự do bộc lộ lòng tin, họ sẽ chỉ đạt được số âm.

Như vậy, ở đây, chúng ta lại thấy một khía cạnh khác: Ở Việt Nam, không phải chỉ có việc dân chúng mất lòng tin vào cơ chế, cơ quan công quyền và giới lãnh đạo mà còn có hiện tượng bản thân giới lãnh đạo cũng không tin vào cơ chế và đặc biệt, vào quần chúng. Họ không bao giờ dám để dân chúng phát biểu một cách tự do và trung thực. Họ cũng không dám để dân chúng được tự do lựa chọn. Đây đó, họ giải thích lý do tại sao Việt Nam không thể đa đảng: đa đảng sẽ gây nên hỗn loạn. Tại sao đa đảng, ở các nơi khác không gây nên hỗn loạn mà ở Việt Nam thì có? Họ trả lời: Tại dân trí Việt Nam còn thấp! Nói thế tức là không tin vào trí tuệ, vào phán đoán, và cuối cùng, sự lựa chọn của dân chúng.

Trên diễn đàn quốc tế, giới lãnh đạo Việt Nam nói đến lòng tin, nhưng một trong những bi kịch lớn nhất ở Việt Nam là không ai tin ai cả. Trong quan hệ xã hội, người ta không tin nhau. Trong quan hệ chính trị, dân chúng không tin nhà cầm quyền và nhà cầm quyền, ngược lại, cũng không tin dân chúng. Khi lòng tin bị đánh mất, yếu tố thống trị mọi quan hệ xã hội và chính trị chỉ còn là sự giả dối.

Giả dối thì ở đâu cũng có, nhưng ở Việt Nam, sự giả dối có hai điểm đặc biệt: Thứ nhất, nó không phải chỉ hiện diện, thậm chí, không phải chỉ phổ biến mà còn thống trị mọi sinh hoạt và mọi loại quan hệ; và thứ hai, chính vì tính chất thống trị ấy, nó trở thành một điều bình thường, không còn làm cho ai xấu hổ cả.

Không có một xã hội nào có thể lành mạnh nếu thiếu sự tin cậy và không có một nền đạo đức nào có thể đứng vững nếu thiếu sự xấu hổ.

Tiếc, Việt Nam thiếu cả hai.