Chó mòn mỏi đợi chủ

Sau khi chủ đã chết. Chó ngồi đợi chủ ở nhà thờ

Sau khi chủ nhân qua đời, chú chó Tommy ở Ý vẫn kiên trì ngồi đợi chủ ở nhà thờ và câu chuyện này đã khiến không ít người cảm động.

Chú chó Tommy ở nhà thờ

Chú chó Tommy ở nhà thờ

Khi tiếng chuông nhà thờ rung lên trong tang lễ của bà Maria Margherita Lochi vào tháng 11 vừa qua, chú chó Tommy đã chạy vào bên trong nhà thờ, đến bên cạnh quan tài bà Lochi trong giây phút cuối cùng nó được ở bên cạnh chủ.

Khi còn sống, bà Lochi đã mang Tommy về nhà nuôi sau khi phát hiện nó bị bỏ rơi ở một cánh đồng gần nhà tại Brindisi, miền nam nước Ý. Từ khi được bà Lochi nuôi dưỡng, Tommy đã trở thành một người bạn đồng hành trung thành nhất của bà Lochi.

Chú chó Tommy ở nhà thờ

Cha xứ Donato Panna nói: “Tommy luôn xuất hiện ở đây mỗi khi nhà thờ có lễ, nó rất ngoan ngoãn và biết nghe lời. Tommy cũng không bao giờ làm ồn, thậm chí tôi chưa bao giờ nghe thấy một tiếng sủa của nó từ khi nó xuất hiện ở đây.

Nó thường đến nhà thờ để trông ngóng bà Lochi dù bà ấy đã chết. Tôi đã để cho Tommy ngồi bên trong bởi vì nó rất ngoan, mọi người cũng không ai phàn nàn gì về sự xuất hiện của Tommy tại nhà thờ”.

Chú chó Tommy ở nhà thờ

Tommy là một giống chó Đức được bà Lochi nuôi từ nhỏ. Kể từ khi bà Lochi qua đời, những người dân trong làng đã thay nhau chăm sóc nó.

“Tommy đã được người dân trong làng nuôi dưỡng, và giờ đây nói đã trở thành bạn của tất cả mọi người. Mọi người thay nhau chăm lo, cơm nước cho Tommy. Nó vẫn thường đến nhà thờ kể sau đám tang của bà Lochi. Tommy đến và chỉ ngồi một cách lặng yên ở đó, có lẽ nó đang trông ngóng bà Lochi trở về”, cha Panna cho biết thêm.

Anh Nguyễn v Thập gởi

Chuyện tình bi thảm của Pierre Abelard và Heloise

Chuyện tình bi thảm của Pierre Abelard và Heloise
6iykim2000002
Chuyện tình bi thảm của Pierre Abelard và Heloise
alt
Chuyện có thật
Chàng là giáo sĩ, nàng là nữ tu, chuyện tình của họ so về mức độ mãnh liệt và
cả sự bi đát thì không thua gì Romeo và Juliet. Chỉ khác, họ là nhân vật có
thật. Họ là Pierre Abelard, nhà triết học và thần học lừng danh của nước
Pháp thế kỷ 12, và Heloise, một trang giai nhân mà sắc đẹp của nàng tuy đã hơn
người nhưng nếu so với trí tuệ và phẩm cách thì không kém phần nổi bật. Họ tạo
nên câu chuyện tình bất hủ, chuyện tình được xem là đẹp nhất mà cũng bi thảm
nhất trong lịch sử loài người.
Mối tình bị cấm đoán
Pierre Abelard gặp  Heloise lần đầu tiên khi chàng đã 36 tuổi, còn nàng mới là thiếu nữ tuổi 16. Lúc đó, Abelard đã là một triết gia, một nhà thần học kinh viện lừng danh, là giáo sư xuất sắc trong các lĩnh vực này ở Paris. Còn Heloise là cháu ruột của
Fulbert, một giáo sĩ có chức sắc, giàu có và thế lực. Nàng được hưởng một nền
giáo dục tốt từ nhỏ, và đến tuổi trăng tròn thì đã trở nên thông tuệ hơn người.
Không rõ vì đã biết đến Heloise từ trước và phải lòng nàng nên Abelard mới “thu
xếp” để Fulbert mời chàng đến làm gia sư dạy nàng về triết học, hay ý muốn trau
dồi kiến thức cho cháu gái của Fulbert đã tạo điều kiện cho đôi tài tử giai
nhân gặp gỡ. Chỉ biết rằng không bao lâu sau khi Abelard đến ở nhà Fulbert để
dạy học, giữa hai người đã nảy sinh một tình yêu nồng cháy.
Dù khéo che đậy đến  mấy, mối tình này cũng nhanh chóng bị phát hiện. Ngài Fulbert nổi giận, lập tức chia rẽ đôi tình nhân. Thế là bắt đầu một thiên tình sử qua những lá thư sau này sẽ trở nên những áng văn chương bất hủ đối với nền văn học thế giới. Và
trong một lá thư như thế, Heloise cho biết một giọt máu của tình yêu đã thành
hình trong cơ thể nàng. Biết tin, Abelard tìm mọi cách đưa Heloise đi trốn.
Nàng ẩn náu tại nhà của chính chị gái Abelard, và sinh một đứa con trai đặt tên
là Astralabe.
Không còn đường nào  khác, Abelard phải tìm gặp ông bác của người yêu để nói chuyện và xin cưới nàng. Điều này làm cho cơn giận của Fulbert càng bùng lên dữ dội vì ông vẫn muốn nhắm cho Heloise một người chồng trong đám vương công giàu có. Nhưng rồi ông cũng chấp nhận. Abelard không nghĩ đến chuyện hỏi ý kiến Heloise nên vô cùng sửng sốt khi đã được Fulbert gật đầu rồi thì lại bị nàng chối từ. Heloise
biết rằng, người mình yêu sẽ bất hạnh khi gắn bó cuộc đời với nàng, không muốn
một trí tuệ như chàng phải phiền lụy vì những mối khổ tâm của cuộc sống đời
thường. Nhưng sau một thời gian Abelard vật nài, van vỉ, nàng cũng đồng ý bởi
không muốn chàng tuyệt vọng nghĩ rằng nàng không yêu chàng nữa. Một đám cưới bí
mật được tổ chức rất giản dị. Và ngay cả sau khi cưới, họ cũng ít được gặp
nhau, cũng không gặp gỡ công khai.
Cuộc báo thù tàn khốc
Dù chuyện hôn nhân của  cô cháu cưng đã an bài nhưng Fulbert không bao giờ nguôi mối hận đối với Pierre Abelard, và ngài tự thề sẽ trả thù. Ngài rỉ tai bạn bè, người thân từng chút một về chuyện của Abelard – Heloise, gieo vào lòng họ sự khinh bỉ đối với cặp đôi này, và họ làm nhục thiếu phụ những khi có dịp. Ngài thậm chí còn có ý định
giết Abelard và gả cháu gái cho một người khác.
Xót xa cho cảnh bị hành hạ, lăng nhục của vợ, Abelard bảo nàng hãy tạm lánh vào một tu viện và gửi con về cho chị gái chàng. Biết tin này, Fulbert càng điên giận, nghĩ cô cháu dại dột của mình đã hết lòng yêu một kẻ không xứng đáng để rồi bị bỏ rơi, bị
ruồng rẫy đến mức phải vào nhà tu kín. Để trừng phạt, đêm nọ, Fulbert thuê một
nhóm người xông đến nhà Abelard đè ra thiến chàng.
Về nỗi đau này, Abelard viết: “Khi tôi đang chìm vào giấc ngủ, họ đã đột nhập với sự tiếp tay của một tên đầy tớ của tôi bị họ mua chuộc. Tại đó, họ trút sự trả thù vào tôi
với sự tàn độc nhất và cách trừng phạt đáng hổ thẹn nhất. Tất cả những việc họ
làm khiến cả thế giới kinh hoàng, vì họ cắt lìa bộ phận của cơ thể tôi với với
suy nghĩ tôi là nguyên nhân nỗi đau buồn của họ”. Nỗi đau khủng khiếp cơ thể
không là gì so với nỗi nhục nhã và tuyệt vọng về một hạnh phúc lứa đôi, sau sự
biến này, Abelard chính thức trở thành một tu sĩ thuộc dòng tu Benedek ở
Saint-Denis. Từ đó, cuộc đời chàng dành trọn cho nghiên cứu triết học, thần
học. Còn tình yêu đau đớn đối với Heloise, thứ tình yêu mà thảm kịch và sự chia
lìa không diệt nổi, chỉ được tiếp tục qua những trang thư.
Mất chồng, Heloise cũng nguyện không cải giá. Nàng phủ khăn đen lên đầu, trở thành một nữ tu cùng dòng tu với Abelard. Dù thân thể đã bị bó buộc, trái tim họ vẫn dành cho nhau suốt đời. Những lá thư trao qua đổi lại trong những năm ấy đã trở thành những áng văn chương bất hủ của nhân loại. “Anh biết không, anh yêu dấu? Cả thế giới đều biết, em đã mất anh. Làm thế nào mà số phận khốn khổ với hành động phản bội trắng trợn lớn nhất lại có thể cướp đi anh của em?”; “Nếu mất anh, em còn gì để
hy vọng chứ? Tại sao phải tiếp tục khi trong cuộc hành hương của đời người, em
chẳng còn chỗ dựa nào ngoài anh, chẳng ai chịu hiểu rằng anh vẫn tồn tại và em
bị cấm tất cả những niềm vui khác bên anh, nỗi lòng hân hoan về sự hiện diện
của anh hết lần này tới lần khác có thể cứu rỗi chính em?”, trong thư gửi
Abelard, Heloise đã viết như vậy.
Những năm xa nhau, Abelard tiếp tục đi sâu hơn, xa hơn trên con đường học thuật và phát triển tư tưởng của mình, những tư tưởng được vô số trí thức ngưỡng mộ học hỏi, nhưng cũng khiến cho những kẻ thủ cựu nổi giận. Sự bất đồng đó khiến ông bị cáo buộc tội dị báng bổ, dị giáo, bị đuổi khỏi tu viện, bị quản thúc, lưu đày, bị đốt
sách do mình viết, và không ít lần phải đối mặt với ấm mưu ám hại, thủ tiêu…
Những sự đọa đày đó dần làm Abelard kiệt sức. Ông qua đời ở tuổi 63. Còn Heloise, bà sống thêm 22 năm nữa trong sự tưởng nhớ người đàn ông duy nhất của đời mình, cai quản tu viện nơi bà gắn bó, nuôi dạy những đứa trẻ theo tinh thần khoa học và đạo đức mà mình tin tưởng.
Ngày nay khi đến thăm kinh thành Paris hoa lệ, nhiều người không quên đến thăm nghĩa trang Père Lachaise, nơi an nghỉ những linh hồn cao quý nhất của nước Pháp – những trí thức, nhà văn, nhạc sĩ, thiên tài, và đặc biệt là cặp tình nhân huyền thoại
Abelard –  Heloise. Sau khi lìa đời, họ đã được chôn cạnh nhau ở tu viện mà
Heloise cai quản, và 7 thế kỷ sau đó, họ được đưa về nghĩa trang này, ở bên
nhau vĩnh viễn.
Dũng cảm hơn cả Romeo  và Juliet – đôi tình nhân dám chết khi cuộc đời không cho ở bên nhau -, họ đã làm được một điều đáng cho ta cúi mình kính ngưỡng: tiếp tục sống, tiếp tục chịu đau đớn để cống hiến, để yêu. Và dù cách mặt, họ thực sự đã bên nhau, có nhau suốt cuộc đời và cả khi đã sang bên kia thế giới.
alt

Sưu tầm
From: Do Tan Hung & Nguyễn Kim Bằng gởi

HỘI NGỘ XUÂN CALIFORNIA,

HỘI NGỘ XUÂN CALIFORNIA,

Nắng ươm vàng chiều Ca li óng ả,

Giọt sương rơi lành lạnh bóng ngày qua,

Vui hội ngộ tâm tình nơi xứ lạ,

Ấm tình nhau nhắc nhớ buổi xa nhà…

Học trò già ôm Thầy Cô tóc trắng,

Lời yêu thương chưa thốt lại muốn ngăn,

Lệ rưng rưng mắt ướt nói chi bằng,

Trong tư tưởng muôn ngàn câu trĩu nặng…

Trời se lạnh mùa xuân trước cửa,

Nhưng ấm lòng học trò nghịch năm xưa,

Giờ gặp Thầy vui quá lại muốn thưa :

Em cố gắng làm tròn lời đã hứa…

Thầy gật đầu mỉm cười nheo đuôi mắt,

Hớn hở vui em lí lắc cười theo,

Mai chia tay đường đời chia vạn nẻo,

Nhớ Thầy luôn trên đường đời trước mặt…

Liverpool.4/2/2013.

Song Như.

Kính tặng Quý Thầy Cô và các bạn Nam California.

Kim Trọng.

TẾT NGHÈO,

TẾT NGHÈO,

Cuộc sống bon chen ở xứ người,

Đón tết lòng đau mặt giả tươi,

Người qua kẻ lại đùa vui vẻ,
Có hiểu riêng ta thiếu nụ cười…

Khổ ải dân đen gánh gấp mười,

Cuộc sống lầm than vẫn phải bươi,

Nuôi thằng bán nước thân tròn lẳng,

Đắng ngắt đời mang số phận người…

Liverpool.3/2/2013.

Song Như.

Kính chúc Quý Thầy Cô và các bạn LVC một năm

thật bình an,hạnh phúc,vui vẻ và nhiều may mắn.

Sứ Điệp Mùa Chay 2013 của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI

Sứ Điệp Mùa Chay 2013 của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI

Tin trong Đức Ái khơi dậy lòng Bác Ái”

Chúng ta đã biết và đã tin vào tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta. (1
Ga 4, 16)

Anh chị em thân mến,

Việc cử hành Mùa Chay, trong bối cảnh của Năm Đức Tin cho chúng ta một cơ hội quý báu để suy niệm về mối quan hệ giữa đức tin và đức ái: giữa việc tin vào Thiên Chúa, Thiên Chúa của Đức Chúa Giêsu Kitô, và tình yêu, là hoa quả của tác động của Chúa Thánh Thần, và là điều hướng dẫn chúng ta trên con đường tận hiến cho
Thiên Chúa và cho tha nhân.

1.Đức tin và sự đáp trả tình yêu của Thiên Chúa

Trong Thông Điệp đầu tiên của tôi, tôi đã đưa ra một số yếu tố để hiểu mối liên
hệ gần gũi giữa hai nhân đức đối thần là đức tin và đức ái.  Dựa vào lời xác quyết
cơ bản của Thánh Gioan Tông Đồ: “Chúng ta đã biết và đã tin vào tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta.” (1 Ga 4:16), tôi nhớ lại rằng “Là Kitô hữu không phải là kết quả của một sự lựa chọn đạo đức hay một ý tưởng cao cả, nhưng cuộc gặp gỡ với một biến cố,một con người, mang đến cho cuộc sống một chân trời mới và một hướng đi quyết định … Thiên Chúa đã yêu chúng ta trước (x. 1 Ga 4:10), tình yêu không còn chỉ là một “mệnh lệnh”, nhưng nó là sự đáp lại món quà tình yêu mà với
Thiên Chúa đến gần chúng ta (Deus Caritas Est, số 1).  Đức tin là một sự
gắn bó cá nhân – trong đó bao gồm tất cả năng quyền của chúng ta – với mặc
khải về tình yêu nhưng không và “đắm đuối” mà Thiên Chúa dành cho chúng ta, được
thể hiện trọn vẹn trong Đức Chúa Giêsu Kitô. Cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa là Tình Yêu không chỉ liên hệ đến con tim, mà cả trí tuệ: Việc nhìn nhận Thiên Chúa hằng sống là một con đường dẫn đến tình yêu, và câu trả lời ‘xin vâng’ của ý chí chúng ta theo Thánh Ý của Ngài kết hợp trí tuệ, ý chí và tình cảm của chúng ta trong hành động bao quát của tình yêu. Tuy nhiên, tiến trình này luôn luôn chuyển động: tình yêu không bao giờ ‘hoàn thành hoặc xong.” (ibid., số 17.).  Kể từ đó, đối với tất cả các Kitô hữu, và đặc biệt là “những người tham gia trong các công việc bác ái”,cần phải có đức tin, vì “cuộc gặp gỡ Thiên Chúa trong Đức Kitô đánh thức tình yêu của họ
và mở tâm trí của họ ra
cho tha nhân, để tình yêu của họ dành cho những
người lân cận không còn là một mệnh lệnh bị
áp đặt, có thể nói là, tư bên ngoài, nhưng một kết quả phát sinh từ đức tin của họ, một đức tin trở nên tích cực qua đức ái(ibid., n. 31a).  Các Kitô hữu là những người đã được chinh phục bởi tình yêu của Đức Kitô và do đó được thúc đẩy bởi tình yêu này – caritas Christi urget nos (2
Cor 5: 14) – họ mở lòng cách sâu xa ra để  yêu thương những người lân cận cách cụ thể (x. ibid, số 33). Thái độ này phát sinh chính từ ý thức rằng mình được yêu thương, tha thứ, và thậm chí phục vụ bởi Chúa, là Đấng cúi mình xuống để rửa chân cho các Tông Đồ và hiến mình trên Thánh Giá để thu hút nhân loại vào tình yêu của Thiên Chúa.

Đức tin cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã ban Con Ngài  vì chúng ta và ban cho chúng ta sự chắc chắn chiến thắng la điều thật sự có thật:  Thiên Chúa là tình yêu … Đức tin, là ý thức về tình yêu của Thiên Chúa được tỏ lộ nơi trái tim bị đâm thâu qua của Chúa Giêsu trên Thánh Giá, mà  đến lượt nó cũng gợi lên tình yêu. Tình yêu là ánh sáng – thực raánh sáng duy nhất – có thể luôn luôn soi sáng một thế giới đang trở nên mờ tối ban cho chúng ta lòng can đảm cần thiết để sống và làm việc” (ibid., số 39.)  Tất cả những điều này làm cho chúng ta hiểu rằng thái độ chủ yếu để phân biệt các Kitô hữu chính là tình yêu dựa trên đức tin và hình
thành bởi đức tin”
(ibid., số 7).

2. Đức ái là đời sống trong đức tin

Toàn thể đời sống Kitô hữu là một sự đáp trả tình yêu của Thiên Chúa.  Sự đáp trả đầu tiên chính là đức tin như sự chấp nhận, đầy bất ngờ và biết ơn, sáng kiến ​​không
thể tưởng tuởng được của Thiên Chúa là điều đi trước chúng ta và chất vấn
chúng ta. Và lời “xin vâng” của đức tin đánh dấu bước đầu của một câu chuyện sáng ngời về tình bằng hữu với Chúa, được hoàn thành và mang lại ý nghĩa đầy đủ cho toàn thể cuộc đời chúng ta.  Nhưng Thiên Chúa chưa thỏa mãn với việc chúng ta đón nhận tình yêu nhưng không của Ngài.  Ngài không những chỉ yêu thương chúng ta, nhưng còn muốn kéo chúng ta đến với Ngài, biến đổi chúng ta một cách sâu xa đến nỗi chúng ta có thể nói cùng Thánh Phaolô rằng: không còn là tôi sống, nhưng là Đức Kitô sống trong tôi(xem Gal 2: 20).

Khi chúng ta nhường chỗ cho tình yêu của Thiên Chúa, chúng ta trở nên giống
Ngài, chúng ta chia sẻ chính đức ái của Ngài.  Mở lòng ra cho tình yêu của Ngài có nghĩa là để cho Ngài sống trong chúng ta, và dẫn chúng ta đến tình yêu với Ngài, trong Ngài và giống như Ngài; chỉ khi ấy đức tin của chúng ta mới thực sự “hoạt
động qua đức ái” (x. Gl 5, 6);và chỉ khi ấy Ngài mới ở trong chúng ta (x. 1 Ga 4, 12).

Đứctin là biết chân lý và gắn  bó với nó (x. 1 Tim 2, 4), đức ái là “bước đi” trong chân lý (x. Ep 4: 15).  Với đức tin, chúng ta bước vào tình bằng hữu với Chúa; với đức ái,
chúng ta sống và nuôi dưỡng tình bằng hữu này (x. Ga 15:14tt).  Đức tin làm cho chúng ta đón nhận mệnh lệnh của Chúa và Thầy, đức ái cho chúng ta hạnh phúc trong
việc đưa mệnh lệnh ấy ra thực hành (x. Ga 13:13-17).
Trong đức tin, chúng ta được sinh ra làm con cái Thiên Chúa (x. Ga 1:12tt); đức ái làm cho chúng ta kiên trì cách cụ thể trong việc làm con cái Thiên Chúa qua việc
mang lại hoa quả của Chúa Thánh Thần (x. Gl 5:22).  Đức tin cho phép chúng ta nhận ra những hồng ân mà Thiên Chúa nhân lành và đại lượng đã trao phó cho chúng ta;
đức ái làm cho chúng sinh hoa kết quả (x. Mt 25, 14-30).

3. Sự liên hệ bất khả phân ly giữa đức tin và đức ái

Trong ánh sáng của những gì đã được nói ở trên, rõ ràng là chúng ta không bao giờ có thể tách rời hoặc thấy sự đối chọi giữa đức tin và đức ái.  Hai nhân đức đối thần này liên kết chặt chẽ với nhau, và thật sai lầm khi thấy sự đối kháng hoặc “phản bác”
giữa chúng.  Thật vậy, một đàng, người ta quá một chiều khi nhấn mạnh đến quyền ưu tiên và tính quyết định của đức tin và đánh giá thấp cùng hầu như khinh thường những công việc bác ái, hạ chúng xuống thành việc làm nhân đạo cách
chung.  Nhưng, đàng khác, cũng chẳng lành mạnh gì khi nói thái quá về quyền tối cao của đức ái và hoạt động của nó, trong khi nghĩ rằng việc làm có thể thay thế đức tin.  Để có một đời sống tâm linh lành mạnh, chúng ta cần tránh cả chủ thuyết duy tín (fideism) lẫn chủ thuyết hiếu động về luân lý (moral activism).

Trong Thánh Kinh, chúng ta thấy lòng nhiệt thành của các Tông Đồ trong việc
rao giảng Tin Mừng, và khơi dậy đức tin của dân chúng liên hệ chặt chẽ với quan tâm của các ngài trong việc bác ái phục vụ người nghèo như thế nào (x. Cv 6: 1-4).  Trong
Hội Thánh, việc chiêm niệm và hành động, tượng trưng một cách nào đó bằng hai
chị em Maria và Martha trong Tin Mừng, phải cùng chung sống và bổ túc cho nhau (x. Lc 10: 38-42).  Ưu tiên phải luôn luôn là mối liên hệ với Thiên Chúa và việc
chia sẻ của cải thật sự phải xảy ra trong tinh thần Tin Mừng, phải được ăn rễ trong đức tin (x. Bài Giáo Lý trong buổi triều yết chung ngày 25 tháng 4 năm 2012). Quả thật, đôi khi người ta có khuynh hướng thu nhỏ thuật ngữ “bác ái” vào đoàn kết, hay
đơn thuần là viện trợ nhân đạo.  Tuy nhiên, điều quan trọng là phải nhớ rằng công việc bác ái lớn nhất chính là truyền giáo, nghĩa là “thừa tác vụ Lời Chúa.”  Không hành động nào hữu ích hơn, và do đó bác ái hơn, đối với những người lân cận của chúng ta bằng việc bẻ bánh Lời Chúa, chia sẻ với họ Tin Mừng của Phúc Âm, giới thiệu họ vào một mối liên hệ với Thiên Chúa: truyền giáo là cách thăng tiến con người cao nhất và toàn vẹn nhất.  Như Đấng Tôi Tớ của Thiên Chúa Đức Giáo Hoàng Phaolô VI viết trong Thông Điệp Populorum Progressio, yếu tố đầu tiên và chính yếu của sự phát triển là rao giảng Đức Kitô (x. số 16).  Đó là chân lý nguyên thủy của tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta, được sống và được công bố, mở cuộc đời chúng ta ra
để đón nhận tình yêu này và làm cho việc phát triển trọn vẹn của nhân loại và của tất cả mọi người có thể xảy ra (x. Caritas in Veritate, n 8).

Tóm lại, tất cả phát xuất từ Tình Yêu và hướng về Tình Yêu.  Tình Yêu nhưng không của Thiên Chúa được truyền đạt cho chúng ta qua việc rao giảng Tin Mừng.  Nếu chúng ta chào đón Tình Yêu này bằng đức tin, chúng ta nhận được sự tiếp xúc đầu tiên và cần thiết với Thiên Chúa, làm cho chúng ta có thể “yêu Tình Yêu”, để rồi chúng ta có thể  sống và lớn lên trong Tình Yêu này và vui mừng truyền thông
Tình Yêu này cho những người khác.

Về mối quan hệ giữa đức tin và các việc làm của đức ái, có một đoạn trong Thư Thánh Phaolô gửi tín hữu Êphêsô tóm lược sự liên hệ của hai nhân đức này cách hay
nhất: Vì nhờ ân sủng mà anh em được cứu độ qua đức tin; và đó không phải
bởi anh em, mà là bởi ân huệ của Thiên Chúa; không phải bởi việc làm, để không
ai có thể tự hào. Vì chúng ta là công trình của Ngài, được dựng nên trong Ðức
Chúa Giêsu Kitô, để làm các việc lành mà Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta từ
trước, hầu chúng ta sống trong chúng
(2, 8-10).  Ở đây chúng ta nhận thức rằng toàn
thể sáng kiến ​​cứu độ đến từ Thiên Chúa, từ ân sủng của Ngài, từ ơn tha tội nhận
được từ Ngài trong đức tin;nhưng sáng kiến ​​này, thay vì hạn chế sự tự do và trách nhiệm của chúng ta, lại thực sự là điều làm cho chúng xác thực và hướng chúng về những việc bác ái.  Những điều ấy không chủ yếu là kết quả của nỗ lực của con
người, khiến chúng ta hãnh diện vì chúng, nhưng phát sinhtừ chính đức tin và chảy ra từ ân sủng mà Thiên Chúa ban cho cách dồi dào.  Đức tin không có việc làm cũng
giống như một cây không có quả: hai nhân đức này bao hàm nhau. Mùa Chay mời gọi chúng ta, qua những thực hành truyền thống của đời sống Kitô hữu, nuôi dưỡng đức tincủa mình bằng cách lắng nghe  Lời Chúa nhiều hơn và kéo dài hơn cùng tham dự
các bí tích, đồng thời lớn lên trong đức ái và trong tình yêu dành cho Thiên Chúa và tha nhân, cũng như qua các dấu chỉ cụ thể của việc ăn chay, sám hối và bố thí.

4.Tính ưu tiên của đức tin, tính ưu việt của đức ái

Nhưmọi hồng ân của Thiên Chúa, đức tin và đức ái bắt nguồn từ tác động của một và cùng một Thánh Thần (x. 1 Cor 13), Thánh Thần ở trong chúng ta kêu lên “Abba!
Cha
ơi(Gal 4:6), và làm cho chúng ta nói rằng: “Chúa Giêsu là Chúa (1 Cor 12: 3) và “Maranatha! (1 Cor 16:22, Kh 22:20).

Đức tin, như hồng ân và sự đáp trả, giúp chúng ta biết chân lý của Đức Kitô là
Tình Yêu nhập thể và chịu đóng đinh, là sự vâng phục hoàn toàn và hoàn hảo Thánh
Ý Chúa Cha, và là lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa đối với những người lân cận.  Đức tin của chúng ta khắc sâu vào con tim và tâm trí niềm xác tín chắc chắn rằng chỉ có Tình Yêu này là thực tại duy nhất có thể chiến thắng sự dữ và sự chết.  Đức
tin mời gọi chúng ta nhìn về tương lai bằng đức cậy, trong kỳ vọng chắc chắn rằng chiến thắng của tình yêu Đức Kitô sẽ đạt đến sự viên mãn của nó.  Về phần nó,
đức ái dẫn chúng ta vào tình yêu của Thiên Chúa trong Đức Kitô, và gắn liền
chúng ta một cách cá nhân và sống còn với việc tự hiến hoàn toàn và vô điều kiện
của Chúa Giêsu dành cho Chúa Cha và cho anh chị em chúng ta.  Bằng cách đổ đầy đức ái vào chúng ta, Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta thành những người chia sẻ món quà riêng của chính Chúa Giêsu: hiếu thảo với Thiên Chúa và huynh đệ với mọi người (x. Rm 5: 5).

Mối liên hệ giữa hai nhân đức này tương tự như giữa hai bí tích cơ bản của Hội
Thánh: Bí Tích Rửa Tội và Thánh Thể. Bí Tích Rửa Tội (Sacramentum fidei) đi trước Bí Tích Thánh Thể (Sacramentum Caritatis), nhưng nó là hướng về Bí Tích Thánh Thể, là sự viên mãn của cuộc hành trình của Kitô hữu.  Tương tự như thế, đức tin trước đức ái, nhưng đức tin chỉ được chứng minh là thật khi được đội triều thiên bởi đức ái. Tất cả bắt đầu từ việc khiêm tốn đón nhận đức tin (“biết rằng mình được Thiên Chúa yêu thương”), nhưng phải đi đến chân lý của đức ái (“biết cách yêu mến Thiên Chúa và yêu thương người lân cận”), là điều sẽ còn tồn tại mãi mãi, như là việc làm
tròn tất cả các nhân đức (x. 1 Cor 13:13).

Anh chị em thân mến, trong Mùa Chay này, chúng ta chuẩn bị cử hành biến cố Thập Giá và Phục Sinh, trong đó tình yêu của Thiên Chúa đã cứu chuộc thế gian và chiếu ánh sáng của mình trên lịch sử, tôi cầu chúc tất cả anh chị em sống thời gian quý báu này bằng cách làm tái sinh đức tin của anh chị em trong Đức Chúa Giêsu Kitô, để
cùng Người bước vào cuộc hành trình tình yêu đối với Chúa Cha và tất cả anh
chị em mà chúng ta gặp trong cuộc đời mình.  Để đạt được mục đích này, tôi dâng lời cầu nguyện của mình lên Thiên Chúa, và nguyện xin phúc lành của Chúa đổ xuống trên mỗi cá nhân và mỗi cộng đồng!

Làmtại Vatican, ngày 15 tháng mười năm 2012

BENEDICTUS PP. XVI

Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ từ tiếng Pháp

http://giaoly.org/vn

Lm. Chân Tín: Luồng gió mới – Cách mạng Thánh giá (29)

Lm. Chân Tín: Luồng gió mới – Cách mạng Thánh giá (29)

Đăng bởi lúc 2:10 Sáng 4/02/13

nguồn:chuacuuthe.com

VRNs (04.02.2013) – Sàigòn

Cách mạng Thánh giá

Mùa Thương sắp trở về với chúng ta.

Nói đến Mùa Thương, tức là nói đến một cuộc cách mạng có một không hai trong lịch sử loài người, một cuộc cách mạng đã đổi hướng xoay chiều lối đi của Lịch sử: cách mạng Thánh Giá.

Cách đây gần hai ngàn năm, trật tự của thế giới La Hy là trật tự của người giàu: giàu tiền của, giàu thế lực, giàu chức tước. Người ta xây dựng trật tự trên xương máu của đám nô lệ, duy trì trật tự bằng võ lực, bằng mưu mô, bằng gian trá. Người ta không biết công lý và nhân đạo là gì. Người ta chỉ biết có luật: mạnh được yếu thua.

Chúa Kitô đã đến đã phá hủy trật tự ấy và đã thiết lập một trật tự mới, trật tự của tám mối Phúc thật:

“Phúc cho kẻ có trí ý nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.

Phúc cho kẻ hiền lành, vì họ sẽ làm Đất Hứa làm cơ nghiệp.

Phúc cho kẻ ưu sầu, vì họ sẽ được an ủi.

Phúc cho những kẻ đói khát công chính, vì họ sẽ được thương xót.

Phúc cho những kẻ có lòng trong sạch, vì họ sẽ được thấy Thiên Chúa.

Phúc cho những kẻ bị bắt bớ vì lẽ công chính, vì Nước Trời là của họ.

Các ngươi có phúc khi người ta chửi rủa các người và bắt bớ, đặt điều nói xấu đủ chuyện về các ngươi vì cớ Ta” (Mt,5,1-12)

Qua bản Hiến chương Nước Trời đã được Chúa Kitô long trọng tuyên bố, chúng ta nhận thấy:

Đức Kitô không thiết lập trật tự mới dựa trên đấu tranh giai cấp, trên cách mạng tư bản hay cách mạng vô sản, nhưng trên tinh thần khó nghèo của mọi người, mọi tầng lớp xã hội: “Phúc cho kẻ có trí ý nghèo khó”.

Đức Kitô không làm cách mạng với bạo lực, dao búa, với những vụ xuống đường, nhưng với lòng nhân từ: “Phúc cho kẻ hiền lành”.

Đức Kitô lên án tất cả những hình thức bất công và chúc phúc cho những người công chính: “Phúc cho những kẻ đói khát công chính”.

Đức Kitô không lấy sự thù hằn làm động lực gây cuồng tín, nhưng là lòng thương xót: “Phúc cho những kẻ biết thương xót”.

Đức Kitô lên án chia rẽ, lên án  chiến tranh, và chỉ chúc phúc cho những ai hoạt động cho hòa bình: “Phúc cho những kẻ gây hòa thuận”.

Đức Kitô chúc phúc cho những ai làm cách mạng Thánh Giá như Người: “Các ngươi có phúc khi người ta chửi rủa các ngươi và bắt bớ các ngươi, đặt điều xấu đủ chuyện về các ngươi vì cớ Ta”.

Nói tóm lại Đức Kitô đã loại bỏ tất cả những phương tiện cổ điển của mọi cuộc cách mạng trên trần gian, như tiền bạc, bạo động, bất công, hận thù, chia rẽ, mưu mô, áp lực, cấu kết. Người chỉ  dùng những phương tiện nghèo, phương tiện vô hiệu lực theo con mắt người đời. Cách mạng của Đức Kitô là cách mạng Thánh Giá: Thánh Giá từ ngày sinh trong hang bò lừa cho đến cái chết nhục nhã trên thập giá. Cách mạng của Người là cách mạng của Chân Lý và Tình Thương. Và trật tự mới của Người cũng là trật tự Chân Lý và Tình Thương.

Tiếp tục sứ mạng của Chúa Kitô giữa trần gian qua các thế hệ, Giáo hội không thể đi vào con đường của tiền bạc, thế lực, của quyền bính, của mưu mô. Con đường của Giáo hội là con đường nghèo khó, con đường hòa bình, con đường chân lý, con đường tình thương, con đường tám mối phúc thật, đó là con đường duy nhất của Giáo hội để hoàn thành cuộc cách mạng vĩ đại của Chúa Kitô: Cách mạng Thánh Giá.

Nguyệt san Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp


Số 190-3/1965

BÀI HỌC ĐẮT GIÁ

BÀI HỌC ĐẮT GIÁ

THANH ANH NHÀN

Trên đời này có những cái chết quá thương tâm mà người ngoài thì xót xa, người trong cuộc thì ân hận khôn cùng. Bản thân tôi đã được một lần chứng kiến một trong số những cái chết như thế…

Khi tôi đến thăm em thì cũng có vài người bạn của em cùng đến, có cả bố mẹ chồng và bố đẻ em ngồi đó. Đằng sau nhà, bà ngoại đang đút cơm cho thằng cháu chưa đầy 5 tuổi, đứa bé đẹp trai bụ bẫm dễ thương như một thiên thần.

Nhìn em nằm đó, tôi nhủ thầm: “Em đẹp quá !” Hình như càng lúc em càng đẹp, dù em đang phải đối diện với những cơn đau đớn tột cùng của căn bệnh thế kỷ, em nằm một chỗ chỉ còn da bọc xương, người xanh bóng, mệt mỏi, kiệt quệ, nhưng vẫn còn đó dáng dấp của một hoa khôi ngày nào. Nét mặt dịu hiền mỉm cười đưa mắt chào mọi người, vẻ nhẫn nại chịu đựng chấp nhận số phận.

Những người đến thăm an ủi chia sẻ với em về sự đau buồn mất mát vì chồng em vừa được Chúa gọi về cách đây hơn một tuần, nay đến lượt em, sức sống cũng tính bằng giờ chứ không bằng ngày bằng tháng nữa. Ai cũng cố nói chuyện bình thường tránh gợi lại vết thương lòng mà em đang phải đối diện chịu đựng. Trước một sự việc mà từ gia đình, bạn bè, họ  hàng, làng xóm, ai cũng rõ như ban ngày, tôi và mọi người ai nấy đều gượng cườiđể giữ cho nước mắt chỉ trực chờ trào ra trên khóe…

Tôi nhớ ngày xưa vợ chồng em cùng học một trường, quen nhau từ những ngày còn ở cấp một, cứ như hình với bóng, tốt nghiệp cấp 3 cả hai lại cùng học một ngành Công Nghệ Thông Tin. Thế rồi ra  trường, được sự đồng ý của hai bên gia đình, môn đăng hộ đối, tuy khá giả nhưnglại hiếm hoi, cả hai người đều là con một. Quí tử sánh duyên cùng ái nữ, trai tài gặp gái sắc bởi em từng là hoa khôi của Giáo Xứ đã dự thi hoa hậu của báo Tiền Phong tổ chức năm nào, chồng em thuộc loại con nhà giàu điển trai học
giỏi.

Vậy đó, cả đôi nên gia thất trong cuộc sống sung túc phú quý mà biết bao người mơ ước. Cha mẹ hai bên vun đắp, ra trường vợ chồng em được làm việc trong một môi trường hết sức thuận lợi. Hơn nữa, các em còn được ở riêng trong một cơ ngơi đồ sộ. Nhìn thấy rõ ràng em được tất cả, em có tất cả, thượng đế ưu đãi vợ chồng em thật
nhiều, một cuộc sống hoàn hảo và vượt bậc về mọi mặt…

Em sanh con đầu lòng là một bé trai kháu khỉnh, vậy là thỏa nỗi mong đợi có con nối dõi của gia đình nội ngoại. Cha mẹ hai bên, họ hàng, bạn bè chúc mừng càng khiến em thêm phần hạnh phúc.

Không ngờ, quả thật không ngờ, tất cả niềm hạnh phúc ấy đã vượt khỏi tầm tay của vợ chồng em một cách thật lãng nhách.

Trong thời gian em sanh con ở cữ, chồng em liên tiếp có những thành công trong công việc, anh bị các bạn rủ rê tiệc tùng cùng đối tác. Vì nể bạn bè, lại không có vợ nhắc nhở, anh đi “tăng một” rồi lại “tăng hai”, đến “tăng ba” thì cả đêm cũng không về nhà. Việc gì xảy ra ai cũng đoán được, anh qua đường với gái làng chơi. Chỉ một lần duy nhất, nhưng khốn nạn thay, cô gái ấy nhiễm HIV. Anh vô tình đem mầm bệnh trong mình mà không hề hay biết.

Một thời gian sau, khi thấy có những triệu chứng bất thường, anh đi xét nghiệm, phát hiện ra mình đã nhiễm căn bệnh chết người. Đau đớn nhất là người vợ hiền vô tội của anh cũng bị vạ lây, anh làm hại đời người anh yêu quý. Con virus quái ác đã làm sụp đổ biết bao gia đình, trong đó có gia đình em. Hạnh phúc vuột khỏi tầm tay thật nhanh chóng, tưởng chừng như một cơn ác mộng.

Những ngày mới phát hiện bệnh, tội nghiệp em vật vã khóc lóc đòi tự tử làm chồng em càng ân hận vì đã yếu lòng sa ngã. Mọi người xúm lại, hai bên cha mẹ và bạn bè đều an ủi, khích lệ: con của hai đứa còn quá bé, nó rất cần tình yêu và hơi ấm của cha mẹ, các con phải cố gắng sống để lo cho nó bằng tất cả những gì có thể bù đắp được, để chuẩn bị thật tốt cho tương lai của nó, để mai này nó có thể bước đi vững vàng khi trên đường đời vắng bóng cha mẹ…

Vợ chồng em hiểu ra rằng số phận đã an bài, mấy năm trời sau đó, các em đã chiến đấu bằng sự can đảm phi thường đến tuyệt vời. Cả hai đã sẵn sàng ra đi trong tình yêu của Chúa và mọi người thân thương.

Bà mẹ chồng bảo với chúng tôi: “Xin các chị an ủi em nó để nó vui chịu những sự khó Chúa gửi. Tôi biết nó vẫn không an tâm về thằng bé…” Tôi nghĩ không phải chỉ an ủi riêng em, mà còn cần phải nâng đỡ cả bốn bậc sinh thành, vì không gì có thể bù đắp được nỗi đau tột cùng này khi họ nhìn đứa cháu mồ côi kia.

Thấy có người đến thăm, chúng tôi xin phép ra về, mọi người nắm chặt bàn tay bé nhỏ gầy guộc của em, nhìn ánh mắt đầy nghị lực, tôi nghĩ chắc còn lâu lắm…

Vậy mà chỉ mới hai ngày sau đó em đã ra đi trong sự yêu thương của mọi người. Xin Chúa cho linh hồn Maria và Gioan Baotixita được sớm về hưởng nhan Thánh Chúa.

Vợ chồng em đã ra đi, để lại một bài học đắt giá cho mọi người về một cuộc sống đầy những cám dỗ và cay nghiệt, cùng với nỗi ân hận day dứt phải trả vì điều mình đã làm.

Xin Chúa gìn giữ và che chở mỗi người chúng con, để giữa những cạm bẫy và thử thách gặp trong đời thường, chúng con có đủ nghị lực, có cái nhìn sáng suốt để biết tránh xa những nỗi nguy hiểm làm đổ vỡ hạnh phúc gia đình và đưa chúng con tới chỗ diệt vong, gây đau khổ tan nát tấm lòng nơi những người thân yêu của chúng con. Amen…

THANH ANH NHÀN

trích EPHATA 547

 

CUỘC ĐỜI GIOAN BOSCO, VỊ THÁNH ĐÃ SỐNG VÀ CHẾT CHO CÁC EM THIẾU-NHI

CUỘC ĐỜI GIOAN BOSCO, VỊ THÁNH ĐÃ SỐNG VÀ CHẾT CHO CÁC EM THIẾU-NHI

Biển-Đức Đỗ Quang-Vinh (Toronto, Canda)

chuyển-ngữ từ bài viết của Benoît Fidelin trong tạp-chí Pèlerin Magazine.

No. 5495, 25 Mars 1988.

Cậu bé vùng Piémont đã trở nên linh-mục của các trẻ em bị bỏ rơi. Ngài tạ thế cách đây hơn 100 năm (nguyên-bản là 100 năm, viết năm 1988, kỷ-niệm giỗ 100 năm vị thánh qua đời). Đời Ngài là cả một tình thương trải rộng bao-la do Tin Mừng Đức
Kitô thúc đẩy, và noi gương Ngài, hàng ngàn người đã và đang dấn thân phục-vụ
giới trẻ, tại Pháp cũng như trên toàn thế-giới.

Đó là GIOAN, con của gia-đình Bosco, cậu bé có nụ cười trong sáng, vầng trán bướng-bỉnh, đôi mắt đen nhánh, tóc rối bù như lông chiên. Thuở mới lớn lên, ngày ngày Gioan Bosco dắt đàn bò đi vào các vùng núi đồi miền Piémont, nước Ý. Cậu tập cuốc đất, phát cỏ, sử-dụng liềm, mác, và tập vắt sữa bò. Từ thuở đó cậu đã hiểu thế nào là đói khát và đã từng chứng-kiến cảnh chết-chóc ly-biệt.

Nạn đói hoành-hành năm 1817, lúc Gioan vừa mới lên hai tuổi, khi sương giá mùa xuân và những cơn hạn-hán khủng-khiếp tàn phá tất cả mùa màng. Nông-dân phải giết gia-súc để ăn thịt. Người ta gặp thấy trong các mương rãnh, xác những kẽ hành-khất chết đói, miệng còn ngậm
cỏ…

Và cả cái chết nữa, như cha cậu đã ngã qụy xuống vì chứng sưng phổi vào một buổi chiều tháng năm rất đẹp trời nhưng cũng thật buồn thảm.

Mẹ cậu, bà Ma-ga-ri-ta, mới 29 tuổi đã góa chồng. Nhưng bà sống thắt lưng buộc bụng, vỡ đất làm rẫy, nuôi dạy con cái cách dịu-dàng mà nghiêm nhặt. Bà ở trong ngôi nhà gạch tồi-tàn vừa là chỗ ở, vừa làm kho lẫm, vừa làm chuồng bò. Hai bao bắp để trong bếp và hai con bò cái nằm sau liếp vách ngăn. Phòng ngủ ngay dưới mái nhà và nệm lót bằng lá bắp. Nhưng chính ở đó, ngay trong cảnh nghèo nàn trơ-trụi ấy, cuộc đời bé Gioan Bosco đã bừng sáng lên.

Chỉ một giấc mơ bình-thường đã khiến cậu tin rằng trọn cuộc đời mình được Chúa Giêsu Kitô mời gọi để chăm lo cho các trẻ em bị ruồng bỏ. Năm lên 9, bé Gioan mơ thấy mình đứng giữa một đám trẻ bụi đời ngổ-ngáo. Chúng chửi thề, văng tục, và Gioan đã trả đũa lại bằng những cú đấm ngoạn-mục. Nhưng một người với diện-mạo sáng ngời đã gọi tên Gioan và bảo: “Con phải chinh-phục chúng, không phải bằng tay chân như thế, mà là bằng khổ đau và lòng yêu mến”. Gioan hỏi: “Ngài là ai mà đòi con phải làm những việc không thể nào làm nổi như vậy?”; và người lạ mặt đã trả
lời: “Ta là Con của Bà mà mẹ con vẫn dạy con cầu nguyện với Bà mỗi ngày
ba lần”.
Cũng trong giấc mơ đó, Ðức Trinh-Nữ Maria đã hiện ra với cậu.
Bằng những hình-ảnh khác, Người loan báo cho cậu cũng một sứ-mạng ấy: chăm
sóc các trẻ em bị bỏ rơi.

 

Thế là bắt đầu cuộc phiêu-lưu! Từ lúc còn rất nhỏ, Gioan đã nói rằng cậu ao-ước trở thành linh-mục. Trong thời-gian đợi chờ, cậu tụ-tập bạn-bè ở ngoài đồng để diễn-thuyết, làm hề và biểu-diễn cả ảo-thuật nữa. Nhưng lúc nào cũng thế, trước khi tới màn cuối, “ông bầu” lại lôi cỗ tràng hạt trong túi ra, qùy xuống và mời cả đám trẻ cùng cầu-nguyện.

Gioan say mê đọc sách và nuôi chim. Ngồi dưới bóng cây im mát, cậu ngấu-nghiến đọc những cuốn sách mượn được của một vị linh-mục ở một xứ đạo hẻo-lánh. Rồi trèo lên cây, cậu gỡ tổ chim và bắt những con sáo nhỏ, đem về nuôi trong lồng làm bằng cành cây dương-liễu, rồi dạy chúng hót. Chuyện học-hành ư? Chỉ khi nào ngoài đồng ruộng hết bóng người thì cậu mới  tới trường. Cậu không chịu học-hành đến độ đã gây-gổ với người anh cả và đã phải bỏ nhà đến làm việc tại một làng kế bên. Sau bao năm lao-động ròng-rã, cuối cùng mới gặp được dịp may: một vị linh-mục già thấy cậu thông-minh thì yêu mến, nhận nuôi và dạy cho cậu học tiếng La-tinh. Sau khi Cha qua đời, được mẹ giúp đỡ và cũng được nhiều ân-nhân tiếp tay, cậu theo học tại trường trung-học ở tỉnh bên. Hằng ngày đi bộ mười cây số, bất kể mưa gió hay nóng bức bụi-bặm. Tất cả chỉ để làm linh-mục! Gioan sẽ không bao giờ quên điều ấy. Và rồi sau sáu năm học ở chủng-viện, năm 1941, cậu đã trở thành linh-mục DON BOSCO!

Người ta mau chóng trao cho Ngài những công việc của một linh-mục tuyên-úy. Nhưng Ngài chỉ muốn một điều là các trẻ em. Thời-kỳ ấy là thời-kỳ cách-mạng kỹ-nghệ, thành-phố Turin là nơi hấp-dẫn đã lôi kéo hàng ngàn người di-dân đến kiếm sống. Các thanh, thiếu-niên làm việc ngắn hạn ở các xưởng đóng tàu, rổi lang-thang thất-thểu dọc bờ sông Pô, không một đồng xu dính túi. Những em khác vào tù. Don Bosco đi gặp họ tất cả, và Ngài được sự giúp đỡ của Cha Don Cafasso, vị linh-mục của “giới bần cùng”. Ngài dám trèo lên các xe bò chở tử-tội để an-ủi họ suốt lộ-trình cho đến pháp-trường.

Ngài lôi kéo được Don Bosco đi vào trại giam; ở  đó vị linh-mục trẻ tuổi người vùng Piémont buồn rầu đảo mắt nhìn cảnh tù đày, cái nhìn đó cũng ngăn đe mấy cậu bé đang chen-chúc trong các xà-lim hôi-hám, chúng tiều-tụy đi vì nạn chí rận, ăn toàn bánh mì đen và uống nước lã. Thật vô cùng khủng-khiếp! Don Bosco bàng-hoàng kinh-hãi, Ngài gào lên trong cổ họng:  Quá nhiều thanh-niên bị nhốt ở đây, bởi chẳng có ai săn-sóc đến họ. Tôi phải giúp-đỡ, dạy-dỗ họ. Tôi muốn cứu giúp những kẻ bất hạnh này”. Và Ngài sẽ làm như Ngài đã nói thế!

Ít lâu sau, có một lần kia khi Ngài chuẩn-bị  dâng thánh-lễ tại nhà thờ Thánh Phan-xi-cô Át-si-gi-ô, Chúa đã dẫn đến cho Ngàimột cậu bé tên là Ba-tô-lô-mê-ô Ga-ren-li, em mới từ xa đến thành-phố này kiếm sống. Đầu cạo trọc-lóc, áo dính đầy vết vôi. Don Bosco qùy xuống và dạy em cầu nguyện. Sau đó Ga-ren-li trở lại, dẫn theo năm đứa, mười đứa, rồi tới một trăm đứa, bạn bè của nó, đứa nào cũng bị Don Bosco chinh-phục bằng tình yêu thương Ngài dành cho chúng. Ngài giảng dạy về Thiên-Chúa cách cụ-thể, nhờ những sự-kiện hấp-dẫn và những chi-tiết lý-thú làm chúng say mê.

Họ quấn-quýt và không rời bỏ nhau nữa. Trong các nhà nguyện cũ, trên những bãi đất trống vùng ngoại-ô, và trong các vựa lúa, các em kéo đến ngày một đông hơn để nghe Ngài giảng, để được Ngài dạy-dỗ huấn-luyện nên người và nên con cái Chúa.

 

Vì lo-lắng cho tương-lai các em, Don Bosco mở các xưởng dạy nghề. Ngài nghĩ ra việc ký giao-kèo lao-động để kiếm việc cho các em, trước khi lao mình vào việc viết lách và xuất-bản, nhằm mục-đích giáo-dục và phát-triển đức tin Công-Giáo nơi các em. Công-trình lớn mạnh. Nhờ có các ân-nhân tài-trợ nên Ngài đã xây-dựng được nhiều nhà cho các em. Don Bosco đặt trọn niềm tin nơi Chúa Quan-Phòng.

Chẳng bao lâu, một “Tổ Ấm” hình-thành với 15, 20, rồi 600 em nội-trú. Vì không muốn cho tương-lai các em quá tồi-tệ, Cha Don Bosco cho dựng thêm nhà cửa, mở một lớp học tối, rồi mời các linh-mục và những người thiện-nguyện đến dạy cho các em. Họ làm việc trong nhà bếp, trong phòng mặc áo lễ ở gian bên của cung thánh. Trên hết mọi sự, họ rất mực yêu thương nhau, vì sư-phạm của Cha Gioan là Sư-Phạm Của Tình Thương. Lý-thuyết mà làm gì? Ngài không mong xây-dựng một “kiểu” giáo-dục lỗng-lẫy. Ngài nói: “Hệ-thống giáo-dục của tôi ư? Chính tôi, tôi cũng chẳng biết nữa.”…”Tôi chỉ có công này, là tiến về phía trước theo sự dẫn-dắt của Chúa, rồi tùy hoàn-cảnh mà xử-trí”.

Quả thế, Ngài chủ-trương một đường lối sư-phạm “ngay tại chỗ”, đặt tin-tưởng vào bản-chất của con người đã được Thiên-Chúa cứu-độ và tin vào sự hiện-diện hữu-hiệu của nhà giáo-dục. Don Bosco ước-đoán được những nỗi cùng khổ và âu-lo của từng em một. Ngài biết rằng tuổi thanh thiếu-niên là tuổi đầy-dẫy những nghi-ngờ, những phiền-muộn, tuổi của phẫn-nộ và thất vọng. Thế là Ngài đến với chúng, nói một câu khôi-hài, kiên-trì mời gọi chúng đối-thoại, cũng như vui-vẻ, thành-thực, cởi mở thoải-mái, một sự thoải mái tự-nhiên không hề bó-buộc vẫn là đặc-điểm nổi bật nhất trong tình yêu giáo-dục của Ngài. Ngài đã sống câu châm-ngôn sau đây, dựa theo lời thánh
Phao-lô: “Một vị thánh buồn là một vị thánh đáng buồn” (Un saint triste est un triste saint).

Và Ngài đã nên thánh. Ngài được phong thánh năm 1934, sau khi sống
một cuộc đời luôn luôn bận-bịu lo-lắng cho các em thiếu-nhi và sáng lập ra
tu-hội Sa-lê-giêng để tôn-kính thánh Phan-xi-cô Sa-lê-gi-ô. Cũng như vị thánh
này, Ngài đã tìm được sức sống cho đời mình qua tình yêu thương con người và
qua Tin Mừng của Đức Kitô, ở đó Ngài khám phá ra dung-mạo một Thiên-Chúa có thể chia sẻ mọi yếu-hèn của chúng ta.

Ngay cả đến cuối đời, sau khi được Ðức Thánh Cha tiếp-kiến, trong các cuộc hành-trình khắp năm châu bốn bể để kiếm tiền in những tác-phẩm Ngài viết, Ngài cũng rất gần-gũi các trẻ em vất-vưởng của mình. Lúc nhắm mắt lìa đời, rạng sáng ngày 31 tháng giêng năm 1888, Ngài nói với các tu-sĩ Sa-lê-giêng đang săn-sóc Ngài rằng:

“Hãy làm tốt cho mọi người,

đừng gây điều xấu cho ai cả!

Hãy nói với các bạn trẻ của Cha rằng:

Cha đợi họ trên Thiên-Đàng!

Biển-Đức Đỗ Quang-Vinh (chuyển-ngữ)

nguồn: conggiaovietnam.net

6 bức ảnh về tình yêu thương được “like” nhiều nhất tuần qua

6 bức ảnh về tình yêu thương được “like” nhiều nhất tuần qua

 

Những bức ảnh chia sẻ những câu chuyện xúc động trong cuộc sống, hay đơn giản chỉ là một cảm nhận về con người, tình yêu thương… đã khiến hàng ngàn trái tim thổn thức.

“Cảm ơn những người làm cha đã vất vả nuôi chúng con khôn lớn. Cảm ơn Cha
Mẹ vì tất cả mọi thứ”.

“Đây là một đám cưới rất đặc biệt vì cô dâu và chú rễ bị khiếm thị và chỉ
có thể cảm nhận được vẻ đẹp của nhau bằng con tim. Dành tặng 1 like chúc mừng
anh chị trăm năm hạnh phúc nhé”. Tình yêu của cặp vợ chồng khiếm thị được
cộng đồng mạng cảm phục, và hàng nghìn lời chúc hạnh phúc được gửi tới cặp đôi
này.

“Vượt lên số phận” là lời đề tựa cho bức tranh. Cảm phục trước nghị lực phi thường của người đàn ông tàn tật vượt lên số phận, thành viên mạng facebook đã dành tới hơn 15,000 lượt like cho bức ảnh này.

9,453 lượt like dành cho bức ảnh sau 5 giờ đăng tải. Với lời chú thích “Cuộc sống còn cần hơn nữa tình yêu thương” là thông điệp bức tranh gửi đến mọi người.

Bức hình đi kèm với bài thơ “Lời mẹ yêu” khiến hàng ngàn thành viên mạng xúc động và đồng cảm.

“Cha không hoàn hảo, nhưng cha luôn yêu thương con theo cách hoàn hảo nhất”. Bức tranh nói về tình cảm cha con khiến hơn 5,000 trái tim thổn thức.

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

 

Một cử nhân Mỹ gốc Việt vào học tiến sĩ ở đại học Harvard ở tuổi 17

Một cử nhân Mỹ gốc Việt vào học tiến sĩ ở đại học
Harvard ở tuổi 17
Trường Đại Học Cal State L.A. cho Vietnamese Daily biết em Alexandria
Huynh, một sinh viên gốc Việt vừa ra trường năm nay được trường đại học danh  tiếng Harvard nhận vào học chương trình tiến sĩ y khoa với học bổng toàn phần ở tuồi 17.
Em Alexandria Huynh vào đại học lúc mới tuổi 13 qua chương trình dành cho các  sinh viên vào đại học sớm trước tuổi (University’s Early Entrance Program), em Alexandria Huynh mới ra trường năm nay với bắng cử nhân sinh học hạng ưu. Cal State L.A. còn cho biết Alexandria Huynh là một sinh viên ra trường với bằng cử nhân trẻ nhất từ xưa đến nay của trường.
Em Alexandria Huynh không chỉ được trường Harvard chấp nhận vào học chương trình tiến sĩ mà còn có các trường danh tiếng khác như Đại học Yale và Đại học Pennsylvania cũng chấp nhận em.
Em Alexandria Huynh sẽ vào học ở Harvard mùa thu này với một học bổng toàn phần. Đây là niềm hãnh diện và tự hào của người Việt khắp nơi.

Du Lê

From:Nguyet Cao &
Anh chị Thụ & Mai gởi

Em Tên Là Nujood, Mười Tuổi, Xin Ly Dị.

Em Tên Là Nujood, Mười Tuổi, Xin Ly Dị.

·
Trên đây là tựa đề cuốn tiểu thuyết kể lại hoàn cảnh đau lòng của các em bé gái ở nước Yemen. Gia đình em Nujood bắt em phải làm vợ một người đàn ông lớn tuổi vào lúc em mới 10 tuổi. Em bị đánh đập, hành hạ, và cha mẹ em từ chối giúp đỡ. Vì thế, em phải tìm cách tự cứu lấy mình. Em chạy đến toà án xin quan toà cho em được ly dị người chồng của em.

·      Câu chuyện thương tâm của em Nujood đã làm thay đổi luật lệ về tục lệ tảo hôn ở quốc gia theo Hồi Giáo. Chúng tôi dịch phần tóm lược cuốn truyện đăng trên Reader’s Digest tháng 1 năm 2013.

“Đầu óc em quay mòng mòng – Chưa bao giờ em trông thấy một đám đông nhiều người đến như thế . Ngoài sân toà án, người ta đang vội vã, tấp nập từ mọi phía, đổ dồn về đây. Chẳng ai trông thấy em: Em nhỏ bé quá so với những người này. Năm nay em mới được mười tuổi, không chừng chưa đủ mười tuổi. Nào có aí biết rõ em bao nhiêu tuổi?”

NGƯỜI TA ĐỒN RẰNG QUAN TOÀ   là người giúp đỡ những kẻ cô thế. Vì  vậy, em phải tìm cho được một vị quan toà, và kể cho ông ta nghe câu chuyện của em. Em mệt bã cả người. Trời nóng bức quá, em còn phải mang tấm lưới che mặt, đầu em nhức như búa bổ, và em cảm thấy xấu hổ quá chừng.

Em dáo dác ngó quanh, để ý canh chừng những người cảnh sát mặc đồng phục. Nếu họ trông thấy em, họ có thể bắt em. Một con bé mười tuổi dám bỏ nhà đi hoang. Em sợ đến run rẩy cả chân tay, em cố tìm xem có người phụ nữ  nào mang lưới che mặt đi ngang qua, để hỏi thăm. Gặp một bà, em vội vàng lên tiếng hỏi thăm: “Cháu muốn tìm gặp một vị quan toà.”

Hai con mắt sau tấm lưới mầu đen mở to ra để nhìn em, ngạc nhiên hỏi: “Em muốn gặp ông quan toà nào?”

“Ông nào cũng được. Cứ dẫn cháu đi gặp một ông quan toà đi.”

Bà ta nhìn em chòng chọc, kinh  ngạc khi nghe em trả lời như vậy.

Cuối cùng, bà ta nói: “Em đi theo tôi.”.

Cánh cửa căn phòng được mở ra. Trong phòng có rất nhiều người, và ở cuối căn phòng, tôi trông thấy một người đàn ông ngồi ở đó với nét mặt gầy ốm, và bộ râu mép. Cuối cùng thì tôi cũng gặp được một vị quan toà. Tôi ngồi xuống, ngả lưng ra sau ghế, chờ đến lượt mình.

Đang mơ màng lim dim chợp mắt ngủ, tôi nghe tiếng người đàn ông hỏi: “Ta có thể giúp gì được cho cháu?”. Tiếng nói của người này nghe rất êm ái, dịu dàng. Tôi đưa tay lên dụi mắt cho tỉnh ngủ, và nhận ra người đang đứng trước mặt tôi chính là vị quan toà có râu mép.

 

Thoả Ước Giữa Cha Tôi và Một Người Đàn Ông

Ở Khardji, một ngôi làng nhỏ bé nơi tôi sinh ra, thuộc xứ Yemen, người phụ nữ không được phép chọn lựa khi lập gia đình. Mẹ tôi, bà Shoya lập gia đình với cha tôi, ông Ali Mohammad al-Ahdel, khi bà mới được 16 tuổi. Bà lấy chồng theo sự sắp xếp của gia đình, không một lời phản đối. Sau đó bốn năm, khi cha tôi quyết định muốn lấy thêm một bà vợ thứ hai, mẹ tôi chỉ biết ngoan ngoãn vâng lời. Tôi cũng ở trong
trường hợp giống mẹ tôi, nghĩa là đồng ý lập gia đình theo ý muốn của cha mẹ,
không có ý kiến, và cũng không ngờ mình bị lâm vào hoàn cảnh nguy hiểm. Ở tuổi
còn nhỏ, tôi không có nhiều câu hỏi để thắc mắc.

Mẹ tôi sinh ra tôi, và 15 anh chị em khác ngay tại nhà.Tôi thường gọi mẹ tôi là Omma hay Mama. Khi lớn lên, tôi chỉ biết quan sát sự chăm lo việc nhà của mẹ tôi cho đến lúc tôi biết theo đuôi mấy bà chị giúp mẹ làm việc nhà. Tôi cứ theo hai chị lớn, nghe mẹ và các chị bảo làm gì thì làm. Hai chị rủ đi lấy nước ngoài con suối  đem về nhà, tôi cũng đi theo. Khi tôi được hai hay ba tuổi, bỗng dưng xảy ra một vụ đánh nhau dữ dội giữa cha tôi với vài người trong làng. Chúng tôi bị buộc phải dọn đi nơi khác ngay lập tức.

Khi gia đình chúng tôi đến thành phố Sana, chúng tôi bị “sốc” nặng về cuộc sống mới ở thành phố chính trong vùng. Nó hết sức ồn ào, bụi bậm, khác hẳn với đời sống êm đềm ở dưới làng quê.  Chúng tôi sống trong một bin đinh tồi tàn ở khu Al-Qa. Sau  một thời gian dài chật vật tìm việc, cho tôi được phu quét đường cho sở vệ sinh.

Tôi được cắp sách đi học năm đầu ở trường tiểu học, và là họ trò giỏi. Tôi sắp sửa lên năm học thứ hai thì một buổi chiều tháng Hai năm 2008, cha tôi- tôi vẫn gọi người là Aba- đi làm về nói với tôi rằng ông có một tin vui cho tôi.

“Nujood, con sắp sửa lập gia đình rồi.”

Tin này đến với tôi thật là bất ngờ, không biết tử đâu tới.
Tôi thực sự chẳng hiểu gì cả. Lúc đầu tôi cảm thấy hình như đó là điều tốt, vì
tôi sẽ được ra khỏi nhà, ở riêng. Cuộc sống trong nhà chật trội, tù túng đến
ngộp thở. Aba (cha tôi) không tìm được việc làm toàn thời gian sau khi ông bị
mất việc làm phu quét đường cho sở vệ sinh. Vì thế, tháng nào ông cũng lâm vào
hoàn cảnh trả tiền thuê nhà trễ nải. Mấy đứa em trai của tôi đứng ngoài đường
chặn xe hơi ở ngã tư để bán cuộn giấy chùi tay kiếm được vài cắc bạc. Sau đó
đến lượt chị Haifa cũng phải ra đường bán hàng, và rồi đến lượt tôi. Tôi không
thích cái việc rượt chạy theo xe để bán hàng.

Lúc gần đây, Aba thường hay ngồi la cà, nhai lá thuốc phiện  “khat” với bạn bè. Ông bào chữa là nhai lá “khat” giúp ông khuây khỏa, bớt chán đời. Qua ba cái vụ ngồi lê, nhai lá “khat” như vậy, cha tôi được một người đàn ông khoảng trên dưới 30 làm quen với ông. Hắn nóí với cha tôi: “Tôi muốn hai gia đình chúng ta kết nghĩa với nhau.”

Người đàn ông đó tên là Faez Ali Thamer, làm nghể giao hàng. Hắn cũng là dân vùng Khardji giống như gia đình tôi, và đang có ý định đi  tìm vợ. Cha tôi nhận lời cầu hôn của hắn. Thế là sau  hai chị tôi, đến lượt tôi phải lập gia đình ra ở riêng.

Chiều tối hôm đó, tôi nghe lóm được câu chuyện giữa chị Mona và cha tôi.

Chị tôi cằn nhằn cha tôi: “Em Nujood còn bé quá, sao cha lại đem gả chồng cho nó.”.

Cha tôi lý sự: “Đó là cách hay nhất để bảo bọc cho nó. Nó sẽ không bị người lạ hãm hiếp, và không bị làm đề tài để nói xấu hay dèm pha. Người đàn ông này rất đàng hoàng, đứng đắn. Anh ta hứa sẽ không đụng vào người con Nujood cho đến khi nó đủ khôn lớn. Ngoài ra, gia đình mình không có đủ tiền để nuôi cả nhà đông con.”.

Mẹ tôi không nói một lời nào cả. Bà có ý buồn lòng, nhưng ngậm câm không nói ra. Ở nước tôi, đàn ông là chủ gia đình, quyết định mọi chuyện.

 

Đám cưới được tổ chức.

KẾ HOẠCH CHUẨN BỊ ĐÁM CƯỚI CHO TÔI được tiến hành như dự
liệu, và tôi sớm nhận ra những điều bất hạnh sẽ xảy ra cho tôi từ lúc tôi nghe
nói gia đình bên chồng  quyết định sẽ không cho tôi đi học nữa. Tôi thích
đi học, và yêu trường học. Đối với tôi những giờ cắp sách đi học đến trường là
những giây phút thần tiên. Chỉ có ở trường học tôi mới có thể trốn khỏi được sự
tù túng, khó khăn của cuộc sống. Trường học là nơi ẩn náu bình yên cho tôi.

Vào ngày đám cưới của tôi, các cô bạn, chị em họ đứng chờ sẵn hai bên đường để reo hò, và vỗ tay khi họ trông thấy tôi đi ra. Nhưng lúc đó, mắt tôi nhòa lệ, không còn trông thấy ai cả.

Từ phiá sau chiếc xe hơi loại SUV, đậu truớc cửa nhà tôi,
một người đàn ông thấp, lùn nhìn tôi chằm chặp. Ông ta mặc bộ quốc phục “zana”
mầu trắng, trên mép có hàng râu mỏng. Mái tóc cắt ngắn của ông bôi dầu bóng
láng, mặt ông được cạo sơ sài, cẩu thả. Ông ta không được đẹp trai cho lắm.
Người đó chính là Faez Ali Thamer! Chồng tương lai của tôi.

Khi chiếc xe nổ máy, người tài xế lái xe đi. Tôi chợt tỉnh
ngộ và bắt đầu khóc thầm, mặt tôi tì lên cửa kính xe hơi. Tôi nhìn mãi về phía
căn nhà thân yêu của tôi cho đến khi hình ảnh cha tôi nhỏ dần.

Một người đàn bà đứng chờ tôi ở bực cửa căn nhà bằng đá ở vùng
Khardji. Tôi linh cảm thấy ngay bà ta không mấy gì ưa tôi. Bà mẹ chồng mới của
tôi già lắm, lớp da trên mặt bà nhăn nheo như da con kỳ đà. Bà ra dấu cho tôi
bước vào nhà. Bên trong căn nhà bầy biện rất sơ sài, không có bàn ghế tủ giả gì
nhiều. Căn nhà có bốn phòng ngủ, một phòng khách, và một cái bếp nhỏ.

Tôi ăn bữa cơm có thịt do em gái của chồng tôi làm sẵn, ăn
chung với mọi người. Sau bữa ăn, những người lớn tuổi trong làng ngồi nói
chuyện, và  ngồi nhai lá “khat” chuyện vãn với nhau. Không ai để ý đến
tuổi tác quá nhỏ của tôi. Về sau tôi mới hiểu rằng lấy con gái nhỏ tuổi là
chuyện thường xảy ra ở miền quê. Ở một bộ lạc, người ta còn nhắc nhở cho nhau
nghe một câu châm ngôn xưa là: “Muốn có một cuộc hôn nhân hạnh phúc, thì nên
lấy một cô gái chín tuổi.”.

Tôi cảm thấy an lòng khi được đưa về phòng riêng của mình.
Một tấm chiếu dài được trải trên nền nhà: đó là cái giường của tôi. Mệt quá,
tôi nằm lăn ra ngủ, chẳng cần tắt đèn.

Phải chi tôi được ngủ luôn một giấc dài vô tận thì hay biết
mấy. Khi cánh cửa bị đẩy mạnh, mở ra, làm tôi thức giấc. Chưa kịp mở to đôi
mắt, tôi đã ngửi thấy cái mùi mổ hôi nhớp nhúa, và một thân hình đầy lông lá đè
lên người tôi. Ai đó đã thổi tắt ngọn đèn dầu, làm cho căn phòng tối đen như
mực. Thì ra người đó là hắn ta. Tôi nhận ra hắn vì cái mùi hôi của thuốc lá, và
mùi lá “khát” toả ra từ người  hắn. Hắn cạ người hắn vào người tôi.

Tôi thở dài, năn nỉ: “Đừng, đừng đụng vào người tôi. Hãy để cho tôi yên.”

“Em là vợ của tôi mà! Sao vậy?”.

Tôi đứng bật dậy, cửa căn phòng chưa khép kín. Tôi nhìn
thấy tia sáng mờ từ bên ngoài lọt vào, tôi phóng mình chạy ra ngoài sân.

Hắn đuổi theo tôi.

Tôi hét lên: “Cứu tôi với! Làm ơn cứu tôi.”. Tôi khóc oà
lên.

Tiếng khóc của tôi vang vọng vào giữa đêm yên tịnh. Nhưng
hình như đó là tiếng la hét trong hư không, vô vọng. Tôi chạy thật nhanh, thở
hổn hển. Tôi vấp ngã, và lại ráng đứng dậy chạy tiếp. Nhưng cánh tay cứng rắn
của hắn đã túm lấy được tôi, lôi tôi trở lại căn phòng ngủ, đẩy mạnh tôi nằm
xuống chiếu. Tôi cảm thấy như mình bị tê liệt toàn thân, như người bị trói chặt.

Hy vọng tìm được một người phụ nữ làm đồng minh đến tiếp
cứu. Tôi kêu cứu bà mẹ chồng: “Amma! Dì ơi đến cứu con.”

Không có ai lên tiếng trả lời, hay chạy đến cứu tôi.

Khi hắn cởi bỏ bộ sà rông cuốn trên người. Tôi lăn tròn người
trên chiếu để tự vệ, nhưng hắn bắt đầu lột quần áo ngủ của tôi ra.

Tôi lại tìm cách bỏ chạy, và nói với hắn: “Tôi sẽ về mách
với cha tôi.”.

“Mày muốn về nói gì với cha mày cũng được. Chính ông ấy là
người đã ký giao kèo với tao kia mà.”

“Ông không có quyền đụng vào tôi.”

Hắn bắt đầu cười to, thái độ khinh mạn, đểu cáng.

“Mày bây giờ là vợ của tao rồi. Mày phải làm đủ mọi thứ tao
muốn.”.

Bỗng nhiên tôi cảm thấy mình như bị cuốn bay đi trong một
cơn bão to, người tôi  bị ném lên không trung, ném vào mưa bão, và tôi
không còn hơi sức để chống cự được nữa. Có cái gì đó đang âm ỉ cháy ở tận sâu
trong đáy lòng. Bất kể tôi gào thét, kêu cứu ra sao, vẫn không có ai đến cứu
tôi. Tôi cảm thấy đau đớn vô cùng. Tôi hét lên tiếng thét cuối cùng, và ngất
đi, không còn biết gì nữa.

 

Tôi quyết định chạy đi trốn.

Tôi phải tự thích ứng với cuộc sống mới thật nhanh, tôi không
có quyền bỏ nhà ra đi, không có quyền than phiền, và không có quyền từ chối làm
bất cứ điều gì. Ban ngày tôi phải rắm rắp tuân lệnh bà mẹ chồng: Đi hái rau,
chùi nền nhà, rửa chén. Khi nào tôi ngừng tay, nghỉ một chút là bị bà mẹ chồng
nắm tóc kéo.

Chồng tôi ra khỏi nhà từ sáng sớm, và trở về  trước lúc mặt trời lặn. Mỗi khi tôi nghe hắn về đến nhà, là tim tôi đau thắt lại vì sợ hãi, hoảng hốt. Khi màn đêm buông xuống là tôi biết chuyện gì lại sắp xảy ra. Cũng những hành động dã man bỉ ổi được tái diễn nhiều lần. Lần nào cũng đem lại đau đớn, và buồn chán cho tôi. Vào ngày thứ ba, hắn bắt đầu đánh tôi. Lúc đầu đánh bằng tay, sau đó đánh bằng gậy. Mẹ hắn ở bên cạnh còn nói đốc thêm vào. Bà bảo con trai bà cứ đánh nữa đi.

Mỗi khi hắn lên tiếng chê trách tôi, là bà lại xúi : “Đánh mạnh vào mắt nó – Nó phải nghe lời con- Nó là vợ của con mà.”.

Tôi sống trong nỗi sợ hãi vô cùng tận. Khi nào có cơ hội ở
nhà một mình, tôi trốn  trong một xó góc nhà, ngồi một mình, ngẩn ngơ suy
nghĩ không hiểu vì sao đời tôi lại khốn khổ thế. Một buổi sáng, chán cái cảnh
trông thấy tôi ngồi khóc cả ngày, hắn bảo tôi là hắn cho phép tôi về thăm cha
mẹ. Cuối cùng thì tôi cũng được toại nguyện, về thăm gia đình một chuyến.

Vừa về đến nhà, gặp cha tôi. Ông nói ngay: “Nujood. Bây giờ
con đã là người phụ nữ có gia đình. Con phải ở với chồng con. Nếu con ly dị
chồng con, anh em, họ hàng của cha sẽ giết cha mất. Danh dự của gia đình là
trên hết.”.

Tôi bèn đi thăm dì Dowla. Bà là vợ thứ hai của cha tôi. Bà
sống với năm đưá con cuả bà trong một apartment rất nhỏ gần nhà của chúng tôi.
Tôi leo hết bực cầu thang, vừa đi vừa bịt mũi vì mùi hôi thối của đống rác, và
dẫy cầu tiêu công cộng gần đó. Dì Dowla mở cửa đón tôi vào với nụ cười rạng rỡ
trên môi.

“Nujood! Con đến thăm dì, làm dì ngạc nhiên quá. Dì mừng được gặp lại con. Vào nhà chơi đi con.”.

Tôi rất thích dì Dowla. Dì có dáng cao và gầy. Dì đẹp hơn
mẹ Omma của tôi nhiều, và dì không bao giờ rầy la tôi. Tội nghiệp dì sống khổ
lắm. Cha tôi hầu như không bao giờ ngó ngàng đến gì. Nghèo quá, dì phải ra
đường đi ăn xin.

Tôi dốc bầu tâm sự kể cho dì nghe hoàn cảnh hiện tại của
tôi. Câu chuyện làm cho dì xúc động mạnh. Dì lặng yên suy nghĩ một hồi lâu,
trong lúc dì pha trà cho tôi uống. Đưa chén trà cho tôi, dì nhìn thẳng vào mắt
tôi, cúi đầu nói thật chậm, và rõ ràng:

“Nujood, nếu không có ai muốn nghe hoàn cảnh của con, con
phải đi đến toà án để trình bầy trường hợp của con.”. Dì nói nhỏ bên tai
tôi.Tôi hỏi lại cho rõ:

“Đi đâu hả Dì?”

“Đi đến toà án làm gì?”

Trong chớp mắt, những hình ảnh các vị quan toà đầu chít
khăn cao, các luật sư đi đứng vội vàng trong toà án, và những người dân thường
đàn ông, đàn bà  ra toà để thưa kiện về những việc rắc rối trong gia đình,
trộm cắp, tranh dành tiền thừa kế. Tôi đã được xem trên truyền hình về sinh
hoạt ở toà án tại nhà một người hàng xóm.

Dì Dowla tiếp tục giải thích thêm: “Con hãy ra toà hỏi thăm xem quan toà có thể giúp gì cho con được không. Công việc của họ là giúp đỡ nạn nhân bị hà hiếp.”.

Sáng hôm sau, tôi nôn nóng ngồi chờ mẹ tôi thức dậy. Bà đến
và cho tôi 150 đồng rials. Bà dặn dò: “Con cầm lấy tiền ra mua bánh mì để ăn
sáng.”.

“Thưa mẹ vâng!”.Tôi ngoan ngoãn trả lời mẹ tôi.

Tôi đi theo con đường quen thuộc để đến tiệm bánh mì. Nhưng
đến phút chót, tôi đổi ý, ra đường lộ chính mà đi.

Tuy vậy, tôi không biết toà án ở đâu. Trong đầu tôi lúc đó
đầy ắp những lo âu, sợ hãi. Bị choáng mắt vì ánh đèn sáng trưng trên đường phố
chính, tôi cố gắng trấn tỉnh, sắp xếp những ý nghĩ lộn xộn trong đầu cho có thứ
tự. Trông thấy một chiếc Taxi chạy ngang, tôi dơ tay ra vẫy taxi. Tôi muốn dùng
taxi đi đến Bab-al-Yemen để gặp chị Mona trước đã.

Xe taxi ngừng. Ngồi vào trong xe, tôi lại đổi ý và nói:
“Tôi muốn đi đến toà án.”

 

Gặp Ông Quan Toà

Chánh án Abdo không dấu nổi sự ngạc nhiên, hỏi lại tôi: “Có phải con muốn xin ly dị, đúng không?”.

“Thưa vâng.”

“Nhưng… bộ con có gia đình rồi hay sao?

“Thưa vâng!”

Trông ông thật là đạo mạo, uy nghi. Chiếc áo sơ mi trắng ông mặc làm tăng vẻ đẹp của nước da mầu ô liu của ông. Nhưng khi nghe câu trả lời của tôi, mặt ông tối sầm lại.

“Nhưng con còn nhỏ quá mà, sao con lại có gia đình rồi?”

Không muốn phải trả lời câu hỏi của ông. Tôi nhắc lại câu
nói của tôi với giọng cương quyết: “Con muốn xin ly dị.”.

Ông bối rối suy nhĩ, lấy tay gãi râu, không hiểu ông có
đồng ý giúp tôi hay không.

Ông tiếp tục hỏi thêm: “Vậy tại sao con lại muốn ly dị?”

Tôi nhìn thẳng vào mắt ông và nói: “Vì chồng cháu đánh đập
cháu mỗi ngày.”.

Câu trả lời của tôi như một cái tát vào mặt ông. Nét mặt ông trở nên đanh lại, lạnh lùng. Ông hỏi tôi một cách sỗ sàng: “Con vẫn còn trinh hay sao?”

Tôi cay đắng ngậm tủi hờn. Tôi hết sức xấu hổ khi phải nói về chuyện riêng tư này. Nhưng cùng lúc đó, tôi linh cảm rằng ông là người thấu hiểu nỗi đau đớn của tôi, nếu tôi muốn ông giúp thắng kiện, tôi phải nói thật mọi chuyện với ông.

“Không. Con đã mất trinh rồi, con bị chảy máu.”

Ông bị xúc động nặng. Tôi đọc thấy nét kinh ngạc trên mặt
ông. Ông muốn che dấu cảm xúc của mình. Sau đó, tôi thấy ông hít vào một hơi
dài, và nói: “Ta sẽ giúp con.”.

Tôi cảm thấy được an ủi, yên tâm. Tôi nhìn ông run rẩy cầm
chiếc điện thoại trong tay. Nếu trời cho tôi gặp may mắn, ông quan toà này sẽ
can thiệp giúp tôi, và chiều nay tôi có thể trở về nhà cha mẹ mình, chơi với
các anh chị em tôi như trước đây. Được Ly Dị!! Đó là điều tôi ước mơ nhất trong
lúc này. Tôi sợ phải trở về nhà chồng ngồi một mình, khi màn đêm buông xuống,
tôi phải nằm cạnh người đàn ông đó.

Một vị thẩm phán thứ hai bước vào phòng để bàn về chuyện
của tôi, ông làm mọi niềm hy vọng của tôi tan vỡ ra từng mảnh.

“Cháu bé à, chuyện của cháu sẽ phải mất nhiều thì giờ mới
gỉải quyết được. Nó không đơn gỉản như cháu nghĩ đâu. Và điều đáng tiếc là ta
không hứa chắc con sẽ thắng kiện được đâu.” .

Vị quan toà thứ hai này là ông Mohammad al-Ghazi. Ông là vị
quan tòa cao cấp nhất của toà án. Ông nói ông chưa hề thấy một trường hợp nào
tương tự như vụ của tôi. Ông giải thích cho tôi biết ở Yemen, con gái thường
lấy chồng rất sớm, trước khi đến tuổi luật định là 15. Chánh án Abdo gỉải thích
thêm đó là một tập quán cổ truyền có từ lâu lắm rồi. Nhưng theo ông hiểu, không
có vụ hôn nhân, cưới gả lúc còn nhỏ tuổi nào  lại đi đến chỗ ly dị, bởi vì
ông chưa hề thấy một cô gái trẻ tuồi ra toà xin ly dị.

Thẩm phán Abdo gỉải thích xong, và nói với tôi: “Chúng tôi
sẽ tìm cho cháu một luật sư.”.

Họ có biết rằng nếu tôi về nhà, không có sự bảo đảm của họ,
chồng tôi sẽ giam giữ tôi, và tiếp tục đánh tôi?.

Tôi trợn trừng mắt và nói rất cứng với ông: “Con muốn được
ly dị.”. Nói xong, chính tôi cũng phải ngạc nhiên, và lo sợ trong bụng. Không
ngờ tôi dám nói thẳng thừng như vậy.

Ông chánh án Al-Ghazi sửa lại khăn cuốn trên đầu, và nói
với: “ Ta sẽ nghĩ cách giúp con. Không thể cho cháu bé này về nhà được đâu.”.
Lúc đó, có thêm vị quan toà thứ ba, ông Abdel Wahed, tình nguyện giúp một tay.
Ông cho biết nhà ông có dư phòng cho tôi ở tạm. Ông sẽ nhận tôi vào tá túc một
thời gian.

Đến chín  giờ sáng hôm sau, ngày thứ Bảy, chúng tôi
cùng đến văn phòng làm việc của ông Abdel Wahed ở toà án. Có mặt trong phòng
còn có các ông Abdo và Mohammad al-Ghazi. Ông Al-Ghazi tỏ vẻ lo lắng. Ông nói
với tôi: “ Chiếu theo luật Yemen, rất khó cho cháu làm đơn thưa kiện chồng và
cha cháu.”. Giống như nhiều trẻ em sinh ra trong làng quê ở Yemen, tôi không có
giấy khai sinh, và tôi lại quá nhỏ để làm đơn khởi tố, hay thưa kiện. Một hợp
đồng đã được chấp thuận, và ký kết bởi những người đàn ông lớn tuổi trong gia
đình tôi. Theo tập quán của Yemen, hợp đồng như thế là hợp pháp, và có gía trị.

Ông Mohammad al-Ghazi bàn với các vị thẩm phán đồng sự:
“Ngay lúc này, chúng ta phải hành động thật nhanh. Tôi đề nghị chúng ta tạm
thời bắt giam chồng và cha của em Nujood. Nếu chúng ta muốn che chở cho em bé
gái này, chúng ta phải tạm giam hai người đàn ông đó lại, không cho họ được tự
do.”.

Bỏ tù cha tôi! Trời đất! Liệu rằng Aba có tha thứ cho tôi
cái tội tầy đình này hay không? Lòng tôi chan chứa tủi nhục, và cảm thấy mình
tội lỗi vô cùng.

Ba ngày sau đó, tôi có mặt ngoài toà án hầu như suốt cả
ngày, hy vọng sẽ tìm ra được một giải pháp mầu nhiệm nào đó. Tôi sẽ còn phải ra
toà bao nhiêu lần nữa, Chánh án Abdo từng báo trước cho tôi biết rằng vụ kiện
của tôi hết sức dị thường, đặc biệt. Nhưng không hiểu các vị quan toà sẽ xử trí
ra sao khi họ đối đầu với trường hợp như thế này.

Tôi học hỏi và tìm được câu trả lời từ bà luật sư Shada.
Người ta đồn rằng bà Shada là một nữ luật sư giỏi nhất xứ Yemen, bà chiến đấu
hết mình để bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ. Bà là một phụ nữ đẹp, đứng cạnh
bà, tôi ngửi thấy mùi hoa lài thơm ngát. Ngay khi vừa gặp bà lần đầu, tôi đã
thích bà. Bà không mang lưới che mặt. Bà hay mặc tấm áo dài bằng luạ màu đen,
và vấn trên đầu một khăn choàng nhiều mầu.

Khi đến gặp tôi lần đầu, tôi thấy bà tỏ ra hết sức xúc
động, và thương cảm cho tôi. Bà nói: “Trời đất ơi! Cháu còn bé quá.”. Ngay sau
đó bà lật cuốn sổ ghi hẹn của bà, và bà liên tục gọi cho gia đình, bạn bè, và
đồng nghiệp để sửa lại lịch trình làm việc vô cùng bận rộn của bà. Bà nói với
những người này nhiều lần: “Tôi vừa mới nhận bào chữa cho một vụ hết sức quan
trọng..”.

Cuối cùng, bà nói nhỏ bên tai tôi: “ Nujood, em yên trí,
tôi sẽ không bỏ rơi em đâu.”. Tôi càm thấy an toan khi ở cạnh bà. Bà biết dùng
chữ thật đúng để nói về hoàn cảnh của tôi. Âm thanh dịu dàng trong lời ăn tiếng
nói của bà làm tôi thoài mái, yên lòng.

 

Vụ Ly Dị Được Chấp Thuận

Ngày trọng đại đến sớm hơn sự mong đợi của tôi. Rất nhiều người đến dự phiên toà nhờ chiến dịch quảng bá cuả bà luật sư Shada . Tôi chưa bao giờ thấy nhiều máy chụp ảnh, và máy thu hình  như vậy. Đằng sau tấm khăn choàng đầu mầu đen, mồ hôi đổ ra ướt đẫm trên người tôi.

Nhưng tự trong đáy lòng tôi, tôi cảm thấy lạnh căm vì lo sợ, và có nhiều toan tính trong đầu. Tôi ngồi yên, không nhúc nhích. Không biết kết qủa vụ án ly dị sẽ như thế nào? Nếu hắn chỉ trả là không đồng ý cho tôi ly dị thì tôi sẽ ra làm sao? Lỡ hắn cả gan lên tiếng hăm doạ các ông quan toà thì hậu quả như thế nào?

Lo thầm trong bụng, người tôi phát lạnh run: Tôi trông thấy
cha tôi và con ác qủi  xuất hiện. Họ được hai người lính hộ tống đi ra
trước toà. Hai tù nhân trông có vẻ tức giận lắm, tên ác qủi cúi đầu nhìn xuống
đất, rồi đột nhiên hắn ngẩng mặt lên, quay lại nhìn bà luật sư Shada. Hắn mỉa
mai nói: “Coi bộ mày hãnh diện quá hả?” .

Bà Shada tỉnh bơ, không chớp mắt. Cái nhìn của bà cho thấy
bà sẵn sàng thách thức tên này. Tôi học được ở bà nhiều bài học quí báu.

Bà nói nhỏ với tôi: “Đừng thèm nghe hắn nói.”.

Tim tôi đập mạnh. Khi ngước mắt nhìn lên, tôi chợt bắt gặp
tia nhìn của Aba, cha tôi. Trông ông có vẻ tức giận, buồn phiền nhiều lắm. Ông
từng nói với tôi về hai chữ “Danh Dự”. Nhìn vào mặt ông lúc này tôi mới hiểu ý
nghĩa của cái từ phức tạp này. Tôi có thể đọc được trong ánh mắt của ông vừa
tức giận vừa xấu hổ. Tôi giận ông lắm, nhưng tôi cũng không khỏi ân hận dùm cho
ông. Sự kính trọng của người khác dành cho ông rất  quan trọng ở vùng này.

Bây giờ đến lượt quan toà Abdo lên tiếng:

“Ở đây chúng ta có một vụ kiện giữa một cô gái bị ép buộc
phải lập gia đình, không có sự ưng thuận của cô. Sau khi hợp đồng hôn nhân được
ký kết cô không biết, cô gái bị cưỡng bách đem đến sống ở tỉnh Hajja. Ở đây, cô
bị chồng hãm hiếp, vùi dập khi cô chưa đến tuổi dậy thì, và không sẵn sàng cho
chuyện sinh lý. Người chồng đó còn đánh đập, và sỉ nhục cô ta. Cô ra toà hôm
nay để xin toà án cho phép cô được ly dị.” .

Giây phút quan trọng sắp xảy ra khi bản án cho kẻ có tội
được tuyên đọc.

Quan toà phải gõ cái búa bằng gỗ  lên bàn vài lần để
vãn hồi trật tự, yên lặng.

Ông nói với con quái vật mà tôi thù ghét: “Hãy lắng nghe
cho kỹ những gì tôi sắp nói: Anh lập gia đình với một cô gái cách nay hai
tháng. Anh ngủ với cô ta, anh đánh cô ta. Có đúng hay không?”

Tên ác qủi chớp mắt hai ba lần, rồi hắn trả lời: “Không.
Điều đó không đúng. Cô ta và cha của cô chấp thuận cuộc hôn nhân này.”.

Tôi nắm vạt áo bà Shada, kéo mạnh, và nói:

“Nó nói láo.”.

Quan toà quay sang cha tôi và hỏi: “Ông có đồng ý về vụ hôn
nhân này hay không?”.

“Vâng, tôi đồng ý.”

“Con gái của ông bao nhiêu tuổi?”

“Con gái tôi 13 tuổi.”

Mười ba ư? Chưa hề có ai nói tôi 13 tuổi. Tôi vặn vẹo hai
bàn tay vào nhau để trấn an lòng mình.

“Tôi gả con đi lâý chồng đế nó không bị người khác bắt trộm
đem đi.”.

Tôi chẳng hiểu cha tôi muốn nói cái gì. Câu trả lời của ông
rất mơ hồ và khó hiểu, và những câu hỏi sau đó của quan toà càng lúc càng thêm
phức tạp. Người ta bắt đầu to tiếng với nhau. Kẻ bị truy tố lên tiếng biện
minh. Tiếng ồn ào trong phòng xử ngày càng to hơn, trong lúc tim tôi đập loạn
xạ, dồn dập.

Ông chánh án ra hiệu cho chúng tôi đi theo ông sang một
phòng khác, tránh sự bàn tán của công chúng. Ông quan toà hỏi: “Faez Ali
Thamer, anh có làm tình với cô gái trong đêm tân hôn hay không. Trả lời cho tôi
rõ có hay không?”

Tôi nín thở nghe hắn trả lời. “Thưa có”, hắn thú nhận,
“nhưng tôi đã làm rất nhẹ nhàng với cô ta. Tôi rất cận thận. Tôi không hề đánh
cô ta.”

Câu trả lời của hắn như một cái tát thật mạnh vào mặt tôi.
Nó làm tôi nhớ lại những đau đớn, tủi hờn tôi phải chịu đựng.

“Điều đó là sai, không đúng.”, Tôi hét lên cho thỏa cơn tức giận.

Mọi người quay lại nhìn vào tôi. Nhưng chính tôi cũng phải
ngạc nhiên không ngờ mình nóng giận đến thế. Sau đó, mọi việc diễn tiến mau
chóng, thông suốt. Thằng ác quỉ nói rằng cha tôi đã phản bội, không giữ đúng
lời hứa, khi ông không nói thật tuổi của tôi. Đến lúc đó thì Aba, cha tôi lại
nổi giận, khai toạc hết ra là thằng qủi nó hứa với cha tôi nó sẽ đợi chờ, không
đụng vào người tôi cho đến khi tôi khôn lớn. Thằng ác qủi tuyên bố rằng nó sẵn
sàng chấp nhận cho tôi ly dị với một điều kiện là cha tôi phải hoàn trả số tiền
mua đứa con gái về làm vợ. Và lúc đó, cha tôi bèn quật ngược lại. Ông nói rằng
hắn chưa hề trả cho cha tôi một món tiền nào cả. Đôi bên cãi nhau như những kẻ
buôn bán ở ngoài chợ: Trả hồi nào? Trả ở đâu? Trả bao nhiêu?

Cuối cùng, tôi được quan toà cứu thoát bằng án lệnh ông ban ra.

Ông tuyên bố: “Toà án cho phép ly dị.”

 

Tái bút:

Vụ ly dị của tôi đã làm thay đổi đời tôi. Mỗi khi tôi đi ra ngoài đường phố, nhiều phụ nữ, chị em bạn gái níu áo tôi hỏi thăm, và chúc mừng tôi đã thắng kiện. Lúc gần đây, tôi đã rời khỏi nhà chú tôi, trở về sống với cha mẹ tôi. Tất cả chúng tôi đều tìm cách quên đi những chuyện bất hạnh xảy ra cho tôi.

Cách đây vài tuần, những cơn ác mộng của tôi không còn nữa. Thay vào đó, tôi mơ đến một ngày được cắp sách đến trường đi học lại. Sau này, khi lớn lên, tôi sẽ học trở thành một luật sư, giống như bà Shada, để bênh vực những em gái khác nhỏ bé như tôi.

Ghi chú thêm: Cuốn sách về câu truyện có thật của em Nujood được phát hành, và bán rất thành công. Do đó, kết quả thu về đã giúp em và cả gia đình thoát khỏi cuộc sống nghèo túng. Bây giờ gia đình em đã mua được một căn nhà ở Sana để sống, và có lợi tức vững chắc. Một người bạn và cũng là cố vấn cho gia đình tiết lộ rằng em Nujood bây giờ trở thành một thiếu nữ 15 tuổi, em phải chật vật sửa đổi cách ứng sử vì em quá nổi tiếng. Em đang cố trau dồi Anh Ngữ, và muốn du học ở nước ngoài.

Tháng Tư năm 2009, quốc hội nước Yemen nâng tuồi thành hôn luật định của các em gái lên 17 tuổi, nhưng qua ngày hôm sau, đạo luật này bị tiêu hủy. Hiện nay, nước Yemen đang rơi vào cuộc khủng hoảng chính trị, và đàn ông có thể lấy vợ nhỏ tuổi bao nhiêu cũng được.

Tóm lược cuốn tự truyện của Nujood Ali, cùng với sự phụ giúp của Delphie Minoui

Nguyễn Minh Tâm dịch
theo Reader’s Digest