Người Con Gái Sông Hương

Người Con Gái Sông Hương
Một thời để yêu
Cuộc chiến Việt Nam đã để lại biết bao nhiêu cuộc tình éo le sầu thảm. Một thời để yêumột thời để chết. Một thời bên nhau, đại bác xa xa vọng về và hỏa châu thắp sáng chân trời. Rồi tù đầy chia cắt. Anh trở về dang dở đời em. Nhiều trường hợp sau hơn 10 năm ngục tù, anh trở về , em đã đem con qua Mỹ và
đi xa hơn nữa, em đã sang ngang. Cũng như hàng trăm người khác, chuyện cô gái sông Hương mà tôi kể cho quý vị hôm nay cũng vậy mà thôi.
Nhưng đây là câu chuyện trong gia đình anh chị em cùng khóa Vỏ Bị của chúng tôi, xin kể lại để quý vị nghĩ rằng đây là khổ đau hay hạnh phúc.
Ðặc biệt đây là câu chuyện liên quan đến mặt trận Quảng Trị năm 1972. Chàng là sĩ quan thủy quân lục chiến, tốt nghiệp Truong Vo Bi Ðà Lạt, cùng khóa với chúng tôi. Năm đó đã trên 30 tuổi, ly dị vợ, sống độc thân, đẹp trai và có thể nói là hào hoa phong nhã.
alt
Cô Lan Hương
Ðời thủy quân lục chiến, 12 tháng anh đi, nay đây mai đó. Còn nhớ bài ca của lính mũ xanh. Tháng hai đem quân ra Huế… và ở đó trung tá Nguyễn đã gặp cô Lan Hương, sinh viên văn khoa, người con gái sông Hương. Lúc đó vào đầu thập niên 70, em mới 20 tuổi. Cô gái Huế cũng có nhiều bạn trai theo đuổi và phần cô cũng rất đào hoa. Ðược coi là người đẹp văn khoa xứ Huế. Gặp chàng sĩ quan Bắc Kỳ, áo mầu lính biển với mũ xanh, mang vóc dáng của người hùng thời chinh chiến, Lan Hương bỏ tất cả để theo chàng.
Cô Lan Hương
Chị cả một gia đình lễ giáo bảo thủ, cha mẹ cô hoàn toàn chống đối cuộc hôn nhân hết sức phiêu lưu. Anh chàng Bắc kỳ hơi lớn tuổi, quá khứ chẳng biết ra sao, đi thứ lính không biết chết ngày nào, không ai lại muốn con gái sớm thành góa phụ.
Nhưng cô gái sông Hương bướng bỉnh đã bỏ nhà theo sư đoàn thủy quân lục chiến vào Saigon mất tăm dạng. Nàng chỉ trở về với đứa con trong bụng để rồi gia đình cũng phải đành chấp nhận cho chàng rể bất đắc dĩ ra mắt nhạc gia và chờ đón đứa cháu ra đời.
Lúc đó đúng vào giai đoạn trung tá Nguyễn cùng với lữ đoàn đang chiến đấu tại mặt trận Quảng Trị. Lan Hương đau bụng vào nhà thương khi Bắc quân tấn công thủy quân lục chiến tại Ái Tử.
Hương kể rằng đại bác chẳng biết từ đâu vọng về ngày đêm. Rồi bom nổ, tiếng máy bay xé ngang trời. Dân chúng bị thương, bị chết đem vào bệnh viện cho đến ngày 6 tháng 4 năm 1972 đứa con trai đầu lòng của cô gái sông Hương ra đời. Ðặt tên cháu là Vũ.
Cũng ngày hôm đó, từ mặt trận, trung tá Nguyễn bay trực thăng về hậu cứ, rồi xe nhà binh cùng với binh sĩ ào vào thăm vợ con được ít phút rồi lại ra đi.Lính tráng đi với ông thầy, súng đạn đầy người, áo quần tơi tả, đến rồi đi… tưởng như trong phim ảnh.
Cô sinh viên nay trở thành bà mẹ trẻ ôm con khóc không biết rồi đây anh có trở về không ? Ðó là những ngày đầu của người con gái nếm mùi đau thương chinh chiến. Mấy năm trước, dù Mậu Thân với bom đạn và xác người chôn ở vườn nhà, tuy có sợ hãi nhưng vẫn còn ở tuổi ngây thơ. Bây giờ chiến tranh mới thâm
nhập vào da thịt.
alt
Lan Hương với quân phục Thủy Quân Lục Chiến
Suốt 6 tháng dài từ tháng 4 tới tháng 9 năm 1972 , Lan Hương thực sự sống với chiến trường Quảng Trị. Theo tin chiến sự mỗi ngày. Quân ta, quân địch đánh nhau ở đâu. Thủy quân lục chiến rút lui ra sao, rồi đơn vị về Huế dưỡng quân để lên đường vượt Mỹ Chánh thế nào.
Người con gái sông Hương cùng thở theo hơi thở của cả đoàn quân mũ xanh. Khi đánh vào Cổ Thành, lính bên ta chết bao nhiêu, xác đem về đầy các xe nhà binh, máy bay chở về Saigon không kịp còn nằm chờ ở phi trường. Cô sống trong những cơn ác mộng ngày đêm, không đêm nào là không có cơn
mộng dữ. Ðứa con đầu lòng đã sống trong niềm lo bất tận của mẹ !
Tiếp theo là 1 tin vui trong giai đoạn mới của binh nghiệp. Trung tá Nguyễn đổi về Saigon làm trung đoàn trưởng 1 trung đoàn bộ binh. Mặt trận miền Ðông cũng không kém phần ác liệt, tuy nhiên không khí thủ đô làm cho gia đình có được những giây phút tương đối an toàn.
Mới đây, từ bên Arizona, đọc những bài viết về trận Quảng Trị và dự trù làm phim, cô Lan Hương đã viết cho gia đình tôi một đoạn email :
“Ðọc những chuyện về trận Quảng trị 37 năm về trước, em hết sức xúc động. Ðó là một phần cuộc đời của em không bao giờ quên được. Cuộc đời làm vợ lính thủy quân lục chiến, làm mẹ lần đầu. Và do những tình cờ em lại quen biết với gia đình anh chị suốt bao năm nay”.

30 Tháng Tư, ngày định mệnh.

Mặc dù là bạn cùng khóa, nhưng tôi không hề biết về gia cảnh của trung tá Nguyễn. Hai tuần trước ngày 30 tháng 4-1975, tôi có dịp đi cùng người anh của Nguyễn lên chiến trường miền Ðông để thăm trung đoàn tại Bến Cát. Anh của Nguyễn là trung tá Tâm, cùng làm việc với chúng tôi tại  Tổng Tham Mưu
QuanLucVNCH.Xem tình hình tại chỗ, thấy hoàn cảnh của Nguyễn, với trách nhiệm chỉ huy tại chiến trường, rõ ràng là việc di tản hoàn toàn không có điều kiện.
Sáng 30 tháng 4-1975, chúng tôi đi bằng tàu quân vận tại Khánh Hội, theo sau đoàn tàu Hải quân. Gia đình anh Tâm chạy theo chúng tôi, lại có cả cô em dâu và 1 đứa con 3 tuổi. Cô em dâu lại đang mang bầu, chính là Lan Hương của trung tá Nguyễn. Người con gái sông Hương của thủy quân lục chiến và đứa con trai là thằng bé ra đời trong thời gian mùa hè 72 tại Quảng trị.
Mang bầu đứa con thứ hai, với thằng bé 3 tuổi, chạy theo anh chị, xuống tàu ra khơi. Lúc đó, thực sự tất cả chúng tôi cũng mơ hồ không biết đi đâu. Có thể về miền Tây, ra Phú Quốc, ra Côn Sơn theo Hải quân hay chờ tàu Mỹ vớt. Nhiều gia đình hy vọng thoát cơn hồng thủy, nhưng Lan Hương tan nát trong lòng.
Biết thế này em ở lại Saigon chờ anh Nguyễn.
Sau cùng, trải qua chuyến hải hành đầy nước mắt, mẹ con theo anh chị đến đảo Guam thì cô quyết định xin ghi danh theo con tàu Việt Nam Thương Tín để trở về. Tuy nhiên vì sắp đến ngày sanh, lại thấy những người xin về có những hoạt động đấu tranh quá dữ dội nên sau cùng cô ở lại. Khóc thì vẫn khóc !
Qua đến miền đông nước Mỹ, Lan Hương sinh đứa con trai thứ nhì trong trại tỵ nạn Fort Chaffee đặt tên là thằng Việt.Họ Ðạo miền Trung Mỹ bảo trợ cho Lan Hương nuôi con. Hai đứa bé còn thật nhỏ. Những bà vú Hoa Kỳ tình nguyện thay phiên đến trong nhà, trông con để mẹ đi học. Xứ Huế với dòng sông Hương, gia đình cha mẹ, các em vẫn xa tít mù khơi. Không có tin tức gì về anh Nguyễn. Nào biết còn sống hay chết. Ðã đi tù hay mất tích (?)!
Những buổi tối mùa đông của miền băng giá, cô vẫn lặn lội đi học. Xa cách những vùng có đông người Việt. Gia đình anh chị bên nhà Nguyễn cũng bận rộn về sinh kế. Những đứa con còn nhỏ dại. Cô sinh viên văn khoa của sông Hương lầm lũi trở thành bà mẹ trẻ học trò tỵ nạn trong kiếp sống cô đơn.
Lỡ bước sang ngang
Trong hoàn cảnh đó, trải qua gần 5 năm hấp thụ nền văn minh Mỹ quốc, Lan Hương gặp ông giáo sư dạy
chương trình điện toán. Ông thầy Mỹ cũng đã ly dị vợ từ lâu đem lòng thương yêu cô gái Việt và xin cưới.
Trung tá Tâm, anh của Nguyễn, điện thoại cho chúng tôi nói rằng 2 người đến nói chuyện để xin phép được lập gia đình. Tuy là vai anh chồng và là bác của những đứa con nhưng làm sao trả lời được.
Ai mà có thể quyết định Yes hay No.
Nếu không đồng ý thì cũng không ngăn cản được. Vả lại, nếu cô Hương ở vậy, làm sao nuôi con thành người . Những đứa nhỏ sắp sửa vào trường. Rồi trung học, đại học. Tin nhà không có. Biết Nguyễn sống chết ra sao và sẽ chờ đến bao giờ…!Hơn nữa cũng chẳng phải thuần túy vì sinh kế. Cô gái sông Hương ngày xưa đã có một thời nhiệt tình để yêu. Ðã có can đảm bỏ nhà đi theo sư đoàn thủy quân lục chiến.
Ngày nay nàng đã tìm thấy hơi ấm tình yêu mới bên cạnh ông thầy đại học vào những lớp tối mùa đông. Cô ở vào tuổi 30 khi gặp anh chàng người Mỹ, cũng cao lớn đẹp trai vững vàng như trung tá Thủy quân lục chiến của mùa hè Quảng Trị ngày xưa. Ngày cưới đã ấn định. Tháng 7 năm 1980. Hai đứa con trai nhỏ vô tư vui vẻ làm quen với người cha Hoa Kỳ bao dung và tận tụy.
Nhưng số mệnh vẫn còn nhiều cay đắng. Ba ngày trước khi làm đám cưới, Lan Hương nhận được thư nhà từ Huế gửi qua. Kèm theo là mẩu giấy nhỏ nhắn tin của Nguyễn, còn sống, vẫn ở tù, chẳng biết ở đâu. Không biết còn sống được bao lâu. Nhưng còn sống.Lan Hương nhớ lại, những ngày xa xưa của năm 80, gần 30 năm về trước là những giờ phút hết sức trăn trở. Vui mừng cho 2 đứa con vẫn còn bố. Nhưng bẽ bàng cho duyên phận. Sau cùng, đám cưới vẫn tiến hành qua những ngày đầy nước mắt.
Rồi ngày tháng trôi qua, cuộc sống trên đất Mỹ với người chồng yêu thương, hết sức quân tử đã tạo thành 1 gia đình kiểu mẩu. Lan Hương có nhiều cơ hội giúp đỡ cha mẹ và các em. Gửi quà về tiếp tế cho Nguyễn trong trong trại tù từ Bắc vào Nam.
Từ trong trại, anh Nguyễn mơ hồ biết là vợ con đã qua Mỹ nhưng không có nhiều tin tức. Sau hơn 13 năm “ lao động cải tạo “ người anh hùng TQLC một thời được trở lại Saigon. Biết tin vợ con hạnh phúc trong gia đình mới. Anh tìm lại người vợ cũ, làm hồ sơ HO đưa tất cả qua Hoa Kỳ. Ðịnh cư tại miền Trung Mỹ. Tuy giấy tờ là 1 gia đình nhưng Nguyễn vẫn sống độc thân như thời kỳ trước 75 . Gia đình mới của Lan Hương bây giờ đã dọn qua sống tại miền Tây.
Anh trở về, dang dở đời em…!
Mùa xuân năm 1991, cô gái sông Hương giờ đây đã 40 tuổi, đem 2 con qua miền Ðông gặp bố lần đầu tiên. Trước khi đi, người chồng Mỹ cầm tay Hương mà nói rằng: “Em hãy đi và thử hỏi lòng mình 1 lần cho rõ ràng. Nếu đây là lần chúng ta chia tay, anh cũng đành chấp nhận. Chuyện của chúng ta sau 10 năm, đến đây là đoạn cuối. Nhưng nếu em trở lại, thì xin nói lời chia tay rõ ràng với Mr. Nguyễn. Ðối với anh, Nguyễn luôn luôn là 1 người anh hùng. Nếu cần thì anh cũng phải hy sinh. Cảm ơn em đã cho
anh một gia đình trong 10 năm hạnh phúc.
Tiếp đến, cuộc gặp gỡ đầy đau thương của vợ chồng và bố con ông HO. Trời mùa đông Hoa Kỳ hình như có cả cơn gió Lào thổi về Quảng trị. Nguyễn cũng có tâm trạng ước mong đoàn tụ nhưng rồi chợt biết là đã ngàn trùng xa cách. Nàng đã có gia đình mới. Mẹ con thấm nhuần văn hóa Mỹ. Anh không thể và cũng không có khả năng phá vỡ được bức tường ngăn cách đã xây dựng từ 15 năm qua.
Ðành để cho định mệnh đóng vai trò quyết định. Dự trù ra đi 1 tuần nhưng 4 ngày sau Lan Hương đã đem con trở về với ông bố Mỹ. Và 1 lần nữa người cha Hoa Kỳ sung sướng đón mẹ con Việt Nam trong vòng tay mở rộng. Gia đình Lan Hương sống tại San Francisco nên có cơ hội gần gia đình chúng tôi như cô em gái. Chúng tôi biết hết gia cảnh, và cô cũng vui lòng kể hết chuyện đời.
Cay đắng nở hoa…
Tháng 5 năm 2002, chúng tôi nhận được thiếp mời đi dự đám cưới cháu Việt tại Arizona. Bác sĩ Việt 27 tuổi lấy cô vợ Mỹ, bạn học thời sinh viên tại nơi tiểu bang đồng khô cỏ cháy nhưng mang đầy truyền
thống hết sức Hoa Kỳ.
Gia đình nhà vợ giàu có và bề thế. Bạn bè anh chị em nhà cô dâu Mỹ rất khích động ồn ào khi đón được chú rể bác sĩ Việt Nam đẹp trai độc đáo như tài tử Kong Fu Bruce Lee. Lễ cưới cử hành long trọng tại nhà thờ. Ông bố vợ đại diện gia đình nhà gái chào mừng nhà trai và quan khách. Nhà trai của bác sĩ Việt gồm cả 2 quốc gia Hoa Kỳ-Việt Nam từ bốn phương kéo về.
Ông bố chồng Hoa Kỳ đứng lên giới thiệu ông bố chồng Việt Nam là trung tá Nguyễn của chúng ta. Vị giáo sư điện toán của đại học nói rằng đây là người anh hùng Thủy quân lục chiến Quan Luc Việt Nam Cong Hoa`, đã chiến đấu 20 năm cho miền Nam tự do từ Tết Offensive 68 cho đến Easter Offensive 72. Ðã trải qua hơn 13 năm làm tù binh trong trại tù cộng sản. Mr. Nguyễn là anh hùng của ngày xưa và là anh hùng của ngày hôm nay.
alt
Hình 3 người cha của bác sĩ Việt, Cha nuôi, Cha ruột và Cha vợ
Với tư cách là bạn bè và là khách của nhà trai, tôi có dịp lên tiếng nhắc lại những ngày Nguyễn chiến đấu tại Quảng Trị, những ngày anh ở lại Bến Cát cho đến khi Tư lệnh sư đoàn tự vẫn và ông bị bắt vào tù. Mrs. Nguyễn mang bầu đi cùng chúng tôi ra khơi, được tàu Mỹ vớt, sinh cháu Việt trong trại tỵ nạn. Ðặt tên Việt để nhớ mãi về quê hương. Và hôm nay… Không khí cảm động và hơi căng thẳng, nên chúng tôi tìm cách kết luận nhẹ nhàng,… và hôm nay, Dr. Việt bỏ người cha Marine Corps Việt Nam và cả người cha giáo sư đại học Hoa Kỳ để về ở rể với người cha vợ Arizona, chỉ vì cậu bác sĩ của chúng tôi đi theo tiếng gọi của ái tình…
Tiếp theo, MC là em gái của cô dâu giới thiệu bà mẹ Lan Hương đi lên chứng kiến lễ cưới của con trai. Ông chồng cũ Việt Nam đi 1 bên, ông chồng hiện tại Hoa Kỳ đi 1 bên. Cô gái sông Hương khoác tay cả 2 chàng đi lên bàn thờ. Quan khách vỗ tay tán thưởng còn nhiều hơn là dành cho cô dâu chú rể.
Trong đời chúng tôi, chưa từng dự 1 đám cưới nào như vậy. Chú rể mới chụp hình kỷ niệm với 3 ông bố. Bức hình là một di tích lịch sử của gia đình.
Họp khóa mùa Xuân
Tháng 3 năm 2004, kỷ niệm 50 năm của 1 khóa quân trường VoBi Dalat. Anh em chúng tôi vào trường Ðà lạt tháng 3 năm 1954. 50 năm sau, anh em gặp lại tại Orange County, điểm danh xem ai còn ai mất.
Cô Lan Hương đến dự, đi cùng gia đình chúng tôi. Anh Nguyễn độc thân từ miền Ðông về gặp anh em. Ði cùng gia đình trung tá Tâm, chúng tôi đều là những ông già 70 tuổi.
Riêng cô gái sông Hương vẫn còn trẻ như ngày xưa. Anh em họp mặt hết sức cảm động. Giới thiệu  từng trung đội của năm 1954 xa xôi. Thời gian đó, chúng tôi xa Hà Nội năm lên 18 chưa từng biết yêu. Ðến năm 1975 thì bao nhiêu mộng đẹp bay ra thành khói tan theo mây chiều !
Tiết mục sau cùng là người đẹp trao vòng hoa chiến thắng một đời cho các chiến sĩ cao niên. Chị Thiều, nữ sinh Sài Gòn, trao vòng hoa cho nhẩy dù Ngô Quang Thiều như chuyện tình năm xưa của thời chiến dịch Hoàng Diệu. Lan Hương của xứ Huế trao hoa cho anh Nguyễn, thủy quân lục chiến.
Bây giờ anh Thiều và một số bạn khác đã ra đi, nhưng Nguyễn và Lan Hương vẫn còn đây. Vẫn là cha mẹ của những đứa con, là ông bà của các cháu, nhưng chàng trai Hà Nội và cô gái xứ Huế chỉ còn biết nhau trong tình bạn.
Vì đây là chuyện thật nên vào tháng 10 năm nay 2009, nếu các bạn tò mò muốn biết mặt những nhân vật từ trong tiểu thuyết bước ra cuộc đời, thì xin đến San Jose. Khóa chúng tôi họp mặt lần cuối, kỷ niệm 55 năm kể từ khi ra trường tháng 10 năm 1954.
Sau này, có lẽ lực bất tòng tâm. Năm 2014 kỷ niệm 60 năm nhập ngũ, anh em chúng tôi sẽ tổ chức tại gia. Nhà ai nấy làm. Chỉ có thể mời cô Lan Hương đến dự. Vì cô gái sông Hương mãi mãi tuổi 20 ./.
nguồn: Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Câu chuyện về 1.000 con Hạc giấy

Câu chuyện về 1.000 con Hạc giấy
Ngày xưa, có một chàng trai yêu tha thiết một người con gái. Chàng trai lãng mạn gấp 1.000 con hạc giấy làm quà  tặng người yêu. Lúc ấy, anh chỉ là một nhân viên quèn, tương lai không quá sáng sủa, nhưng anh và cô gái ấy, họ đã rất hạnh phúc. Cho tới một ngày…
Người con gái nói với anh rằng cô sẽ đi Paris. Không bao giờ trở lại. Cô còn nói không thể tưởng tượng được một tương lai nào cho cả hai người. Vì vậy, hãy đường ai nấy đi, ngay lúc này… Trái tim tan nát, anh đồng ý.
Khi đã lấy lại được tự tin, anh làm  việc hăng say ngày đêm, không quản mệt nhọc cả thể xác lẫn tinh thần chỉ để làm một điều gì đó cho bản thân. Cuối cùng với những nỗ lực phi thường và sự giúp đỡ của bạn bè, anh thành lập được công ty của riêng mình. “Tôi phải thành công trong cuộc sống” – Anh luôn tự nói với bản thân – “Và sẽ không bao giờ thất bại trừ phi không còn cố gắng”.
Một ngày mưa, khi đang lái xe, anh nhìn thấy đôi vợ chồng già đang đi dưới mưa cùng chia sẻ với nhau một chiếc ô mà vẫn ướt sũng. Chẳng mất nhiều thời gian để anh nhận ra đó là bố mẹ bạn gái cũ của mình. Trái tim khao khát trả thù mách bảo anh lái xe chầm chậm bên cạnh đôi vợ chồng, để họ nhìn thấy mình trong chiếc ô tô mui kín sang trọng. Anh muốn họ biết rằng anh không còn như trước, anh đã có công ty riêng, ô tô riêng, nhà riêng… Anh đã thành đạt.
Trước khi anh có thể nhận ra, đôi vợ chồng già đang bước tới một nghĩa trang. Anh bước ra khỏi xe và đi theo họ. Và anh nhìn thấy người bạn gái cũ của mình, một tấm hình cô đang mỉm cười ngọt ngào như đã từng cười với anh, từ trên tấm bia mộ.
Bố mẹ cô nhìn anh. Anh bước tới và hỏi họ tại sao lại xảy ra chuyện này. Họ giải thích rằng cô chẳng tới Pháp làm gì cả. Cô bị ốm nặng vì ung thư. Trong trái tim, cô đã tin rằng một ngày nào đó anh sẽ thành đạt, nhưng cô không muốn bệnh tật của mình cản trở anh… Vì vậy cô chọn cách chia tay. Cô đã muốn bố mẹ đặt những con hạc giấy anh tặng bên cạnh cô, bởi nếu một ngày số phận mang anh về, cô muốn anh có thể lấy lại một vài con hạc giấy. Anh khóc
Cách tồi tệ nhất để nhớ một ai đó là ngồi ngay bên cạnh họ… nhưng biết rằng bạn không thể nào có được họ… và sẽ không bao giờ được nhìn thấy họ nữa.
Tiền là tiền còn tình yêu thì thiêng liêng. Trong cuộc tìm kiếm sự giàu có vật chất, chúng ta hãy dành thời gian để tìm kiếm khoảnh khắc bên những người yêu thương. Bởi biết đâu, một ngày nào đó, tất cả chỉ còn là hoài niệm.
From : Phước Nguyễn
và Từ Nguyễn Thập gởi

Cha Stêphanô Chân Tín vừa qua đời lúc 16:15, ngày 01.12.2012

Cha Stêphanô Chân Tín vừa qua đời lúc 16:15, ngày 01.12.2012

Đăng bởi pleikly lúc 6:02 Chiều 1/12/12

VRNs (01.12.2012) – Sài Gòn – ChaChân Tín vừa qua đời lúc 16:15, ngày 01.12.2012, tại Nhà hưu dưỡng – Tỉnh DCCTN, số 38 Kỳ Đồng, Sài Gòn.

Sau đây là thông tin chính thức từ Văn phòng Tỉnh DCCT VN, VRNs xin kính chuyển đến quý vị độc giả gần xa. Kính xin quý vị cầu nguyện cho cha Chân Tín và loan tin cho những người cần biết.

———

CHA STÊPHANÔ NGUYỄN TÍN (CHÂN TÍN), DCCT

Sinh ngày 15.11.1920, tại làng Vạn Xuân, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên-Huế

Ngày 02.08.1944: Khấn lần đầu trong DCCT

Ngày 06.06.1949: Lãnh sứ vụ Linh mục

được gọi về nhà Cha lúc 16g15 ngày 01 tháng 12 năm 2012, hoàn tất hành trình 92
năm ở trần gian, 68 năm tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế, 63 năm thi hành sứ vụ Linh mục.

Thánh lễ nhập quan cử hành lúc 16 giờ 30, ngày Chúa Nhật 02.12.2012.

Nghi thức di quan cử hành lúc 21 giờ 00, thứ Hai 03.12.2012.

Thánh lễ an táng cử hành lúc 6 giờ 00, thứ Ba 04.12.2012, tại Đền Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Sài Gòn.

Địa chỉ: 38 Kỳ Đồng, Phường 9, Quận 3.

Điện thoại: (08) 38437715, Ext. 105

Email: dcctvn@gmail.com

Hoả táng tại Bình Hưng Hoà.

Xin hiệp lời cầu nguyện cho Cha Stêphanô Chân Tín.

Xin miễn phúng viếng vòng hoa các loại.

Khoa học và Đức tin, hai phân tử sơ đẳng trong cuộc sống con người

Khoa học và Đức tin, hai phân tử sơ đẳng trong cuộc sống con người

Đăng bởi pleikly lúc 1:23 Sáng 1/12/12

nguồn: chuacuuthe.com

VRNs (01.12.2012) – AvvenirePhỏng vấn giáo sư Ugo Amaldi, vật lý gia thuộc Trung Tâm Nghiên Cứu Năng Lượng Nguyên Tử Âu châu ở Genève bên Thụy Sĩ

Ngày 16-11-2012 giáo sư Ugo Amaldi, chuyên viên vật lý thuộc Trung tâm nghiên
cứu năng lượng nguyên tử Âu châu ở Genève bên Thụy Sĩ, đã nhận Giải thưởng quốc
tế về nền văn minh công giáo tại Viện bảo tàng công dân Bassano del Grappa tỉnh
Vicenza, bắc Italia. Lý do giải thưởng là vì ”tình yêu đối với khoa học và tình
yêu đối với đức tin”.

Giáo sư Ugo Amaldi sinh năm 1934, đậu tiến sĩ Vật lý năm 1957 tại đại học Roma và chuyên nghiên cứu trong lãnh vực gia tốc các phân tử. Từ năm 1960 giáo sư thuộc nhóm các khoa học gia của Trung tâm nghiên cứu năng lượng nguyên tử Âu châu tại Genève bên Thụy Sĩ. Từ năm 1982 giáo sư cũng dậy môn vật lý nguyên tử tại đại học Milano bắc Italia. Giáo sư cũng là tác giả của nhiều sách và các bài khảo luận liên quan tới khoa học và đức tin, và trong các năm qua đã tham dự nhiều hội nghị và các cuộc thảo luận về đề tài khoa học và đức tin. Sự kiên trì của giáo sư đã giúp hoàn thành việc xây dựng Trung tâm quốc gia xạ trị ung thư (CNAO) khánh thành ngày 15
tháng 2 năm 2010 tại Pavia.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phỏng vấn giáo sư về tương quan giữa khoa học và đức tin.

Hỏi: Thưa giáo sư Amaldi, khoa học có gì để dậy cho đức tin không?

Đáp: Các khoa học nghiên cứu các hiện tượng thiên nhiên, và trong
các sự kiện chúng không có gì để nói với đức tin. Tuy nhiên, các khoa học gia
có đức tin và những người đặt câu hỏi liên quan tới đức tin cảm thấy sự cần
thiết phải sát nhập đức tin vào quan điểm vật lý về thế giới một cách mạch lạc.
Mà khi làm như vậy họ phải đương đầu với các câu hỏi trong lãnh vực biên giới
giữa vài khẳng định của Kitô giáo và những gì họ biết liên quan tới thế giới
thiên nhiên. Đây là các khó khăn mà đôi khi những người không phải là các nhà
khoa học cũng có thể được soi sáng.

Hỏi: Giáo sư có thể đơn cử một thí
dụ cụ thể không?

Đáp: Vâng. Điểm trước hết liên quan tới vấn đề cái chết và sự khổ
đau. Theo đức tin kitô chúng là hậu qủa của tội lỗi. Nhưng một khoa học gia thì
coi cái chết và sự khổ đau là một điều cần thiết. Bởi vì nếu không có chúng,
thì cũng sẽ không có sự tiến triển, và hậu qủa là cũng sẽ không có tiến triển
của con người khôn ngoan với trí thông minh của nó. Đó là hai điều xem ra không
đồng ý với nhau. Đàng khác, người ta không thể không ngạc nhiên đối với sự phức
tạp và cái luận lý nằm ở bên dưới đa số các hiện tượng tự nhiên này, và điều
này là một rộng mở cho sự siêu việt đối với một khoa học gia có đức tin.

Hỏi: Tại sao trong cuộc tranh luận giữa khoa học và đức tin đã hầu như không có gương mặt của Đức Kitô, thưa giáo sư?

Đáp: Thật vậy và rất tiếc là trong các cuộc tranh luận ấy Đức Giêsu đã hầu như không bao giờ xuất hiện. Người ta thích nói tới Thiên Chúa Tạo Hóa hơn, là Đấng đã duy trì vũ trụ hiện hữu. Người ta không bao giờ gắn liền gương mặt của Chúa Kitô với các hiểu biết của các khoa học gia, và người ta cũng không bao giờ gắn liền các sự hiểu biết với Chúa Thánh Thần, mà như là khoa học và sự khôn ngoan thì thật là đúng đề tài. Nhưng tôi nghĩ lý do là nơi sự kiện tương quan cá nhân mà tín hữu có đối với Chúa Kitô koàn toàn khác hẳn với tương quan vô bản vị mà nhà khoa học có với các hiện tượng thiên nhiên, mà ông nghiên cứu. Họ di chuyển trên các bình diện khác nhau. Trái lại, Thiên Chúa Tạo Hóa gắn liền chặt chẽ với thiên nhiên, là đối tượng nghiên cứu học hỏi của khoa học gia.

Hỏi: Thưa giáo sư Amaldi, các cuộc thảo luận ngày càng thường xuyên về tương quan giữa khoa học và đức tin có khiến cho một tâm thức bén nhậy mới được chín mùi trong thế giới khoa hoc không?

Đáp: Kinh nghiệm riêng cho tôi biết rằng cuộc thảo luận này chỉ  được coi là hay bởi những người đặt vấn đề đức tin, cả khi họ là những người không tin. Các người bất khả ngộ, và các người vô thần tiếp tục khó chịu coi tương quan giữa khoa học và đức tin là vô ích.

Hỏi: Trong cuốn sách cuối cùng tựa đề ”Ngày càng gần nhau hơn” giáo sư giải thích các lý do, qua đó các nhà vật lý học làm cho các phân tử gia tốc, có đúng thế không?

Đáp: Vâng, một cách nòng cốt có ba lý do. Thứ nhất để ngày càng
nghiên cứu trong chi tiết thế giới hạ nguyên tử; thứ hai, để tạo ra trong các
va chạm giữa các phân tử, các phân tử mới không hiện hữu trong thế giới bao
quanh chúng ta, nhưng chúng hiện hữu trong một phần tỷ giây sau vu nổ khai
nguyên vũ trụ, hầu nghiên cứu các tương quan gắn liền với các phân tử làm thành
vật chất. Và lý do thứ ba có lẽ là lý do hấp dẫn nhất được chỉ huy bởi ước muốn
tái dựng lại sự tiến triển của vũ trụ bắt đầu từ một phần tỷ giây ấy, hầu minh
giải sự hình thành các vì sao và các dải ngân hà đã xảy ra bao tỷ năm sau đó.

Hỏi: Thưa giáo sư, ngày mùng 4 tháng 7 năm nay 2012 Trung tâm nghiên cứu năng lượng nguyên tử Âu châu ở Genève bên Thụy Sĩ đã loan báo một khám phá ngoan mục. Đó là khám phá gì vậy?

Đáp: Người ta đã chứng minh được sự hiện hữu của một lãnh vực, một phương thế vô vật chất làm đầy toàn không gian, tác động trên nhau với các phân tử đi qua nó bằng cách làm cho vài phân tử chậm lại hơn các phân tử khác, và vì thế cung cấp cho chúng khối lượng lớn hơn hay nhỏ hơn.

Sự hiện hữu của lãnh vực này đã được minh chứng khi quan sát các dao động được định vị trí của nó, được tạo ra trong sự va chạm của các phân tử Higgs. Vì thế đối với các nhà vật lý các phân tử này gọi là Bossone Higgs, là một phương tiện, chứ không phải là mục đích nghiên cứu của họ. Một phương tiện cho phép khẳng định rằng không gian được hoàn toàn làm đầy bởi một môi trường, mà chúng tôi gọi là môi trường Higgs, nghĩa là cái gì trao ban khối lượng cho các phân tử.

Hỏi: Nói một cách cụ thể, đó là điều trao ban khối lượng cho thân thể của tôi và thân thể của giáo sư, có phải thế không?

Đáp: Vâng. Nếu các điện tử electron xoay quanh các hạt nhân của
thân thể tôi có một khối lượng và không bao giờ ngừng xoay, thì là bởi vì có
môi trường Higgs. Nếu thân xác tôi bị hủy bỏ, thì nó sẽ vỡ tan tành.

Hỏi: Vào năm 1992 giáo sư đã thành lập tổ chức Tera để chữa trị bằng các phản xạ adronic. Nó có nghĩa là gì thưa giáo sư?

Đáp: Mỗi năm có 120.000 người Ý được xạ trị với các tia hồng ngoại
tuyến X, nghĩa là được xạ trị chống lại các bệnh ung thư. Cùng với giải phẫu và
hóa trị, xạ trị là phương pháp chữa các bệnh ung thư. Tuy nhiên, các điện tử
proton và ion Carbon có khả năng chính xác hơn các tia hồng ngoại X, và vì thế
chúng cứu các tế bào và các cơ phận lành mạnh ở rất gần các tế bào ung thư. Đây
là điều xảy ra trong 10% các trường hợp. Năm 2003 Tổ chức Tera đã hoàn thành
tại Pavia dự án một máy tăng tốc các proton và ion Carbon. Được chế tạo bởi
”Trung tâm quốc gia xạ trị ung thư Italia” (CNAO) và ”Học viện quốc gia vật lý
nguyên tử Pavia” (INFN), máy này đã trị liệu cho một bệnh nhân ung thư đầu tiên
hồi tháng 9 năm 2011, và dự trù sẽ trị bệnh cho khoảng 1.000 bệnh nhân mỗi năm.
Hiện nay còn qúa sớm để có các số liệu kiểm chứng hiệu qủa của nó. Nhưng đây là
một lãnh vực trong đó người Nhật đã đi tiên phong, và trên toàn thế giới hiện
nay chỉ có một trung tâm khác như trung tâm tại Pavia đó là trung tâm
Heidelberg bên Đức.

Linh Tiến Khải

Radio Vatican – Tiếng Việt

 

Hạnh Các Thánh Tháng 12

Hạnh Các Thánh Tháng 12

 

1/12 – Chân phước Gioan Vercelli (khoảng năm 1205-1283)

Ngài sinh gần Vercelli,  Tây Bắc Ý. Không biết rõ về cuộc đời ngài lúc đầu. Ngài vào Dòng Đa Minh hồi thập niên 1240 và giữ các chức vụ lãnh đạo trong niều năm. Ngài được bầu làm tổng đại diện Dòng Đa Minh năm 1264, ngài phục vụ gần 20 năm. Ngà nổi tiếng có nghị lực và giản dị, thường đi bộ tới thăm các cơ sở Dòng Đa Minh, thúc giục các tu sĩ sống vâng lời và giữ hiến pháp Dòng.

Ngài được 2 vị giáo hoàng trao trọng trách đặc biệt. ĐGH Grêgôriô X giúp ngài
và các tu sĩ Dòng Đa Minh để giúp ổn định nước Ý đang gặp rắc rối với nước
khác. Ngài được mời phác thảo chương trình Công đồng Lyon II năm 1274. Tại công
đồng này ngài đã gặp Giêrônimô Ascoli (sau là ĐGH Nicôla IV), lúc đó là tổng
đại diện Dòng Phanxicô. Thời gian sau, hai vị này được Rôma phái đi điều đình
vấn đề liên quan vua Philip III của Pháp. Một lần nữa, chân phước Gioan
Vercelli có thể biểu hiện tài thương thuyết và kiến tạo hòa bình.

Sau Công đồng Lyon II, ĐGH Grêgôriô X giao cho ngài nhiệm vụ rao truyền lòng
sùng kính Thánh danh Chúa Giêsu. Ngài yêu cầu mỗi nhà nguyện của Dòng Đa Minh
đều có bàn thờ tôn sùng Thánh danh Chúa Giêsu, và thành lập những nhóm chống
lại việc báng bổ và coi thường. Tới cuối đời, ngài được giao trách nhiệm làm
giáo phụ Giêrusalem, nhưng ngài từ chối. Ngài vẫn là tổng đại diện Dòng Đa Minh
cho đến khi qua đời.

2/12 – Chân phước Rafal Chylinski (1694-1741)

Ngài sinh gần Buk, thuộc  vùng Poznan tại Ba Lan, tên thật là Melchior. Ngài tỏ ra đạo đức rất sớm, nên gia đình gọi ngài là “tu sĩ nhỏ”. Sau khi học xong tại ĐH Dòng Chúa Cứu Thế ở Poznan, ngài gia nhập kỵ binh và và được thăng cấp sĩ quan trong vòng 3 năm.

Năm 1715, ngài vào Dòng Phanxicô ở Kraków, lấy tên dòng là Rafal, và 2 năm sau
được thụ phong linh mục. Sau khi làm mục vụ ở 9 thành phố, ngài tới Lagiewniki
(miền Trung Ba Lan), và ở đây 13 năm. Ở đâu ngài cũng nổi tiếng là giản dị,
giảng hay, đại lượng. Mọi người noi gương hy sinh của ngài. Ngài chơi đàn harp,
đàn lute và mandolin để hòa theo các bài thánh ca phụng vụ. Tại Lagiewniki,
ngài phân phát lương thực và quần áo cho người nghèo.

Sau khi qua đời, mộ ngài được nhiều khách hành hương kính viếng ở Ba Lan. Ngài
được phong chân phước tại Warsaw năm 1991.

3/12 – Thánh Phanxicô Xaviê, Linh mục, Bổn mạng các xứ
truyền giáo
(1506-1552)

“Nếu người ta được cả  thế giới mà phải thiệt mất mạng sống thì nào có lợi gì?” (Mt 16:26). Lời này cứ lặp đi lặp lại trong đầu vị giáo sư triết học đang có triển vọng thăng tiến nghề nghiệp tại các học viện. Nhưng không để ý lắm tới lời nói đó, vì lúc đó
ngài là giáo sư trẻ mới 24 tuổi, dạy tại Paris.

Bạn thân của ngài là thánh Inhaxiô Loyola đã kiên trì thuyết phục và ngài đã theo
Chúa Kitô. Ngài theo hướng dẫn của thánh Inhaxiô, và năm 1534 ngài gia nhập
cộng đoàn nhỏ (nay là Dòng Chúa Cứu Thế). Tại Montmartre, họ cùng khấn Khó
nghèo, Khiết tịnh và Làm tông đồ theo chỉ thị của ĐGH.

Ngài thụ phong linh mục tại Venice năm 1537, sau đó ngài đi tàu tới Lisbon rồi
đi Đông Ấn, cặp bến tại Goa, Tây duyên hải Ấn Độ. Ngài dành nhiều thời gian ở
Ấn Độ, và làm giám tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế mới thành lập của tỉnh dòng Ấn Độ.

Đi đâu ngài cũng sống với những người nghèo khổ nhất, chia sẻ lương thực và ở
những nơi nghèo khhó với họ. Ngài dành nhiều thời gian cho người nghèo và người
bệnh, nhất là người phong cùi. Ngài thường không có thời gian ngủ hoặc đọc kinh
nhật tụng nhưng, theo thư ngài viết, ngài rất vui.

Ngài đến các đảo ở Malaysia, rồi sang Nhật. Ngài học tiếng Nhật đủ để giảng đơn
giản với dân chúng, để hướng dẫn họ, rửa tội cho họ, và lập các hội truyền
giáo. Ở Nhật, ngài muốn đến Trung quốc nhưng dự định này không bao giờ hiện
thực vì ngài qua đời trước khi thỏa ước nguyện. Di hài ngài hiện nay còn ở Nhà
thờ Chúa Giêsu Nhân lành tại Goa.

4/12 – Thánh Gioan Damascô, Giáo phụ (676?-749)

Đa số cuộc đời ngài ở tại tu viện Thánh Sabas, gần Giêrusalem. Ngài sinh tại Damascô, học thần học và cổ điển. Sau một thời gian, ngài vào dòng Thánh Sabas.

Ngài nổi tiếng về 3 lĩnh vực. Thứ nhất, bài trừ ngẫu tượng; thứ nhì, luận
thuyết (Luận thuyết Exposition of the Orthodox Faith là bản tóm lược các
giáo phụ Hy Lạp, và ngài là giáo phụ cuối cùng, và được coi là bộ Tổng luận
Thần học của Đông phương); thứ ba, ngài là một trong các thi sĩ nổi tiếng của
Giáo hội Đông phương. Ngài rất tôn sùng Đức Mẹ, các bài giảng của ngài về Đức
Mẹ đều rất nổi tiếng.

5/12 – Thánh Sabas, Ẩn tu (trước năm 439)

Ngài sinh tại Cappadocia  (nay là Thổ Nhĩ Kỳ), là một trong các giáo phụ của Palestine và được coi là một trong những vị sáng lập đời sống tu trì Đông phương.

Tuổi thơ ngài không hạnh phúc, ngài bị lạm dụng và phải bỏ trốn vài lần, cuối
cùng xin tị nạn trong một tu viện. Gia đình thuyết phục ngài trở về, nhưng ngài
nhất quyết đi tu. Tuy còn trẻ nhưng ngài có tiếng nhân đức.

Lúc 18 tuổi, ngài đi Giêrusalem, tìm cách sống cô tịch. Ngài được coi là người
hoàn toàn sống ẩn tu. Mới đầu ngài sống trong tu viện, ban ngày làm việc, ban
đêm cầu nguyện. Lúc 30 tuổi, mỗi tuần ngài được phép sống 5 ngày trong một hang
động hẻo lánh để cầu nguyện và đan rổ rá. Cố vấn của ngài là thánh Euthymiô.
Sau khi thánh Euthymiô qua đời, thánh Sabas chuyển tới sa mạc gần Giêricô.
Nngài sống vài năm ở đây trong một hang động gần suối Cedron. Ngài ăn cỏ dại
mọc trên đá. Thi thoảng có người đem cho ngài ít thực phẩm khác, còn nước uống
phải đi khá xa mới có.

Khi đã ngoài 50 tuổi, ĐGM thuyết phục ngài chịu chức linh mục để phục vụ và
lãnh đạo tu viện. Khi làm viện phụ của một cộng đoàn lớn, ngài cảm thấy mình có
ơn gọi sống ẩn tu. Vào các mùa Chay, ngài đi xa một thời gian. Khi thấy nhà
dòng gặp khó khăn, ngài giúp đỡ nhiều.

Ngài đi khắp Palestine, rao giảng đức tin và đem được nhiều người về với giáo
hội. Lúc 91 tuổi, theo lời của giáo phụ Giêrusalem, ngài tới Constantinople.
Ngài bị bệnh, ngay khi vừa trở về thì ngài qua đời tại tu viện ở Mar Saba. Ngày
nay, tu viện này vẫn có các tu sĩ Chính thống giáo Đông phương sống ở đó.

6/12 – Thánh Nicôla, Giám mục Tiến sĩ (qua đời năm 350?)

Cả Giáo hội Đông phương  và Tây phương đều tôn kính ngài. Sau Đức Mẹ, ngài là vị thánh được các họa sĩ Kitô giáo vẽ chân dung nhiều nhất. Theo lịch sử, ngài là giám mục GP Myra, thuộc Lycia, một tỉnh của Tiểu Á.

Có nhiều truyện về ngài đầy màu sắc xuyên suốt nhiều thế kỷ. Truyện nổi tiếng
về ngài có thể liên quan đức bác ái đối với người nghèo, những người không thể
cho con gái mình của hồi môn khi đến tuổi kết hôn. Không muốn thấy họ bị ép làm
gái mại dâm, thánh Nicôla lấy vàng trao cho các bà mẹ để họ cho con gái làm của
hồi môn đi lấy chống. Qua nhiều thế kỷ, truyền thuyết này ảnh hưởng tập tục
tặng quà nhau vào ngày lễ kính ngài. Tại các nước nói tiếng Anh, ngài được coi
là Ông già Noel.

7/12 – Thánh Ambrôsiô, Giám mục Tiến sĩ (340?-397)

Một trong các nhà viết tiểu sử thánh Ambrôsiô cho rằng, vào ngày phán xét, người ta vẫn phân chia thành 2 phe: những người khâm phục ngài và những người không ưa ngài.

Khi Nữ hoàng Justina tìm cách lấy 2 giáo đường của Công giáo và trao cho những
người theo tà thuyết Arian (*), ngài đã thách thức các quan triều đình xử tử
ngài. Mọi người ủng hộ ngài ngay trước mặt quân lính. Trong cuộc bạo động, ngài
vừa khuyến khích vừa trấn tĩnh dân chúng hát những bài thánh ca mới để mê hoặc
họ với những giai điệu Tây phương.

Khi tranh luận với hoàng đế Auxentius, ngài nói: “Hoàng đế ở trong Giáo hội,
chứ không ở trên Giáo hội”. Ngài công khai khiển trách hoàng đế Theodosius vì
đã sát hại 7.000 người vô tội. Hoàng đế đã ăn năn đền tội. Thánh Ambrôsiô là
người chiến đấu, được sai tới Milan với tư cách thống đốc Rôma. Ngài gây ảnh
hưởng và hoán cải thánh Augustinô.

Thánh Augustinô nhận thấy thánh Ambrôsiô có tài hùng biện hơn những người đương thời. Các bài giảng của thánh Ambrôsiô thường dẫn chứng gương mẫu của Cicero, tư tưởng của ngài đã ảnh hưởng các nhà tư tưởng và các triết gia đương thời.
Ngài không ngại trích dẫn các tác giả ngoại giáo.

Các bài giảng, bài viết và đời sống của ngài cho thấy ngài là người khác thường
có liên quan các vấn đề thời đó. Đối với ngài, nhân đạo là điều quan trọng.

Ảnh hưởng của thánh Ambrôsiô đối với thánh Augustinô rất nhiều. Cuốn Tự Thuật
(Confessions) của thánh Augustinô cho thấy điều đó. Do đó mà thánh Monica yêu
quý thánh Ambrôsiô như thiên thần của Chúa đã hoán cải con trai bà. Chính thánh
Ambrôsiô đã đặt tay trên vai thánh Augustinô khi đến giếng rửa tội để gia nhập
Công giáo.

————————–

(*) Arianism: Thuyết của Arius, thế kỷ IV, cho rằng chỉ
có Thiên Chúa là bất biến và tự hữu, nhưng Ngôi Con không là Thiên Chúa mà chỉ
là phàm nhân. Thuyết này từ chối thiên tính của Chúa Giêsu. Công đồng Nicaea
(AD 325) đã kết án Arius và tuyên bố “Ngôi Con đồng bản thể với Đức Chúa Cha”.
Thuyết Arian được nhiều người bảo vệ tiếp 50 năm sau, nhưng cuối cùng cũng sụp
đổ khi các hoàng đế Kitô giáo của Rome Gratian và Theodosius lên ngôi. Công
đồng Constantinople đầu tiên (năm 381) phê chuẩn Tín điều của Công đồng Nicê và
cấm thuyết Arian. Tà thuyết này vẫn tiếp tục trong các bộ lạc ở Đức suốt thế kỷ
VII, và các niềm tin tương tự được duy trì đến ngày nay bởi tổ chức Nhân chứng
của Giavê (Jehovah’s Witnesses) và bởi một số người theo thuyết Nhất Vi Luận
(Unitarianism), tương tự Tam Vị Nhất Thể, tức là Một Chúa Ba Ngôi.

8/12 – Đức Mẹ Vô Nhiễm

Trong Giáo hội Đông  phương, lễ Đức Mẹ được thụ thai có từ thế kỷ VII, truyền sang Tây phương hồi thế kỷ VIII. Thế kỷ XI, lễ này chính thức có tên là Vô nhiễm. Thế kỷ VIII, lễ này trở nên phổ biến trong Giáo hội hoàn vũ.

Các giáo phụ và các Tiến sĩ Giáo hội coi Đức Maria là vị thánh vĩ đại và thánh
thiện nhất, nhưng vẫn cho rằng Đức Mẹ khó mà vô nhiễm tội truyền. Và rồi năm
1854, ĐGH Piô IX đã công bố tín điều Đức Mẹ Vô nhiễm. Thánh Bênađô và thánh
Thomas Aquinas cũng không thể coi là sự biện hộ thần học đối với giáo huấn này.

Hai tu sĩ Phanxicô là William Ware và chân phước Gioan Duns Scotus đã giúp phát
triển thần học này. Họ chỉ ra rằng ơn Vô nhiễm của Đức Maria làm nổi bật công
cuộc cứu độ của Chúa Giêsu. Nhân loại được khỏi Nguyên tội khi lãnh nhận Bí
tích Thánh tẩy. Ở Đức Maria, công việc của Chúa Giêsu rất mạnh để ngăn ngừa.

9/12 – Thánh Juan Diego, Thị nhân (1474-1548)

Hàng ngàn người quy tụ  tại Nhà thờ Đức Mẹ Guadalupe ngày 31-7-2002 để tham dự lễ phong thánh cho thị nhân Juan Diego, người đã được Đức Mẹ hiện ra hồi thế kỷ XVI.

Chân phước GH Gioan Phaolô II đã gọi vị thánh này là người Ấn Độ giản dị và
khiêm nhường, chấp nhận theo Kitô giáo nhưng không từ chối gốc Ấn Độ. Trong số
hàng ngàn người tham dự có 64 nhóm người gốc Ấn Độ ở Mexico.

Mới đầu thánh nhân được gọi là Cuauhtlatohuac (Đại bàng biết nói), và tên ngài
vĩnh viễn được gắn liền với Đức Mẹ Guadalupe (Đức Mẹ Hoa Hồng, lễ kính ngày
12-12) vì ngài được Đức Mẹ hiện ra tại đồi Tepeyac ngày 9-12-1531. Ngài cho
biết những hoa hồng gom từ vạt áo đã hóa thành Đức Mẹ Guadalupe.

Trong chuyến thăm mục vụ tới Mexico năm 1990, chân phước GH Gioan Phaolô II đã
phong chân phước cho thị nhân Juan Diego, và được phong hiển thánh 12 năm sau.

10/12 – Chân phước Adolph Kolping, Linh mục (1813-1865)

Hồi thế kỷ XIX, tại Đức  nổi lên hệ thống nhà máy đã thu hút nhiều người tuôn về các thành phố, và họ gặp những thử thách mới đối với đức tin. LM Adolph Kolping là người hướng dẫn mục vụ cho họ, hy vọng họ không bị mất đức tin Công giáo như đã xảy ra với nhiều công nhân khác ở Âu châu được công nghiệp hóa.

Ngài sinh tại làng Kerpen, làm thợ đóng giày vì gia đình khó khăn. Sau đó ngài
đi tu và thụ phong linh mục năm 1845, ngài hướng dẫn các công nhân trẻ ở
Cologne, thành lập ca đoàn, năm 1849 hội này phát triển thành Hội Công nhân Trẻ
(Young Workmen’s Society), một chi nhánh của hội này bắt đầu tại St. Louis,
Missouri, năm 1856. Sau 9 năm, có hơn 400 Gesellenvereine (công đoàn) được
thành lập trên khắp thế giới. Ngày nay nhóm này có hơn 400.000 thành viên ở 54
quốc gia.

Thường được gọi là Hội Khôi Bình (Kolping Society – quen gọi là Gia Đình Khôi
Bình), chú trọng việc thánh hóa đời sống gia đình và chân giá trị của việc lao
động. LM Kolping hoạt động để cải thiện điều kiện sống cho công nhân. Ngài và
thánh Gioan Bosco ở Turin đều quan tâm làm việc với giới trẻ. Ngài nói với
những người theo ngài: “Nhu cầu của thời đại sẽ dạy các bạn biết phải làm
gì. Điều đầu tiên tìm được trong cuộc sống và điều cuối cùng cần nắm giữ là đời
sống gia đình, đó là điều quý giá nhất mà người ta không nhận ra”
.

Ngài và chân phước Gioan Duns Scotus được an táng tại Minoritenkirche, thuộc
Cologne. Cơ quan điều hành Hội Khôi Bình quốc tế đặt tại đây. Các thánh viên
Khôi Bình đã tới Rôma từ Âu châu, Mỹ châu, Phi châu, Á châu và Úc châu để dự lễ
phong chân phước cho LM Kolping năm 1991, dịp kỷ niệm 100 năm Tông thư Rerum
Novarum
(Tân Sự, nói về trật tự xã hội) của ĐGH Leo XIII. LM Kolping cũng
có công góp phần chuẩn bị cho tông thư đầy tính cách mạng xã hội này.

11/12 – Thánh Damasô I, Giáo hoàng (305?-384)

Đối với thư ký của ngài  là thánh Giêrônimô, thánh Damasô là “người vô song, hiểu biết Kinh thánh, tiến sĩ Giáo hội, yêu quý đức khiết tịnh”.

Thánh Damasô hiếm khi nghe những lời khen như vậy. Ngài đấu tranh với chính
trị, các tà thuyết, không được lòng các giám mục và Giáo hội Đông phương muốn
phá triều đại giáo hoàng của ngài.

Ngài là con của một linh mục Công giáo La Mã, có thể là người Tây Ban Nha, ngài
bắt đầu với cương vị phó tế tại nhà thờ của người cha, rồi làm linh mục ở một
nơi mà sau đó là đền thờ San Lorenzo (Thánh Lôrensô) ở Rôma. Ngài phục vụ giáo
hoàng Liberiô (352-366) và theo ngài đi đày.

Khi ĐGH Liberiô qua đời, thánh Damasô được chọn làm giám mục thành Rôma, nhưng ít người bầu và tấn phong phó tế Ursinô làm giáo hoàng. Cuộc tranh luận giữa
thánh Damasô và ngụy giáo hoàng (antipope) nổ ra chiến tranh dữ dội giữa 2 giáo
đường, xúc phạm đến các giám mục Ý. Tại công nghị, thánh Damasô kêu gọi mọi
người chấp nhận hành động của ngài nhân dịp sinh nhật. Các giám mục trả lời: “Chúng tôi quy tụ đến đây vì sinh nhật của ngài, chứ không kết án một
người
chưa biết”. Những người ủng hộ ngụy giáo hoàng còn kết án ngài
phạm trọng tội – có thể liên quan tình dục – cuối năm 378. Ngài phải tự thanh
minh trước tòa án dân sự và công nghị giáo hội.

Khi làm giáo hoàng, ngài sống giản dị, tương phản với các giáo sĩ Rôma, và ngài
cương quyết tố cáo và chống lại tà thuyết Arian (*) và các tà thuyết khác. Sự
hiểu sai về thuật ngữ Tam vị Nhất thể (Chúa Ba Ngôi) của Rôma đã đe dọa mối
giao hảo với Giáo hội Đông phương, ĐGH Damasô là người tương đối thành công
trong việc xử lý tình huống này.

Trong triều đại giáo hoàng của ngài, Kitô giáo được công bố là tôn giáo chính
của quốc gia Rôma (năm 380), và tiếng Latin là ngôn ngữ phụng vụ. Nngài khuyến
khích thánh Giêrônimô nghiên cứu Kinh thánh nên mới có bản Vulgate (bản phổ
thông), bản dịch Kinh thánh bằng tiếng Latin được Công đồng Trentô (12 thế kỷ
sau) tuyên bố là “xác thực khi đọc chung, khi thảo luận và giảng dạy”.

———————–

(*) Arianism: Thuyết của Arius, thế kỷ IV, cho rằng chỉ
có Thiên Chúa là bất biến và tự hữu, nhưng Ngôi Con không là Thiên Chúa mà chỉ
là phàm nhân. Thuyết này từ chối thiên tính của Chúa Giêsu. Công đồng Nicaea
(AD 325) đã kết án Arius và tuyên bố “Ngôi Con đồng bản thể với Đức Chúa Cha”.
Thuyết Arian được nhiều người bảo vệ tiếp 50 năm sau, nhưng cuối cùng cũng sụp đổ khi các hoàng đế Kitô giáo của Rome Gratian và Theodosius lên ngôi. Công đồng
Constantinople đầu tiên (năm 381) phê chuẩn Tín điều của Công đồng Nicê và cấm
thuyết Arian. Tà thuyết này vẫn tiếp tục trong các bộ lạc ở Đức suốt thế kỷ
VII, và các niềm tin tương tự được duy trì đến ngày nay bởi tổ chức Nhân chứng
của Giavê (Jehovah’s Witnesses) và bởi một số người theo thuyết Nhất Vi Luận
(Unitarianism), tương tự Tam Vị Nhất Thể, tức là Một Chúa Ba Ngôi.

12/12 – Đức Mẹ Guadalupe (Đức Mẹ Hoa Hồng)

Thế kỷ XVI, một người Ấn  Độ nghèo tên là Cuauhtlatohuac được rửa tội nên có tên là Juan Diego. Ông là một người góa vợ, 57 tuổi, sống ở một ngôi làng nhỏ gần TP Mexico. Sáng Chúa nhật ngày 9-12-1531, ông đã được Đức Mẹ hiện ra trên đường đi dự lễ.

Khi ông đi bộ ngang qua đồi Tepeyac thì ông nghe tiếng nhạc hay như tiếng chim
líu lo. Một đám mây sáng xuất hiện có một cô gái Mỹ mặc áo dài như công chúa Aztec.
Đức Mẹ nói với ông bằng tiếng Ấn Độ và bảo ông đến gặp ĐGM Juan de Zumarraga,
Dòng Phanxicô, GP Mexicô. ĐGM liền cho xây một nhà nguyện ngay tại nơi Đức Mẹ
hiện ra.

ĐGM nói với ông Juan Diego xin Đức Mẹ cho một dấu hiệu. Lúc đó, người chú của
Juan Diego bệnh nặng nên ông tránh gặp Đức Mẹ. Đức Mẹ bảo đảm với ông rằng
người chú sẽ khỏi bệnh và trao những bông hồng cho ông đựng vào vạt áo để đem
về cho ĐGM.

Trước mặt ĐGM, ông mở vạt áo ra, những đóa hồng rơi xuống đất và bao quanh chân
ông và tạo thành hình Đức Mẹ như ông đã nhìn thấy ở đồi Tepeyac. Đó là ngày
12-12-1531.

13/12 – Thánh Lucia, Trinh nữ Tử đạo (qua đời năm 304)

Bạn bè của thánh nhân thắc mắc về sự can trường của Lucia. Có lần một người thợ mộc bị lính La Mã đóng đinh, Lucia tin rằng người đàn ông này sống lại. Người thợ mộc đó là Đức Giêsu Kitô. Nước Trời đã tạo dấu ấn sâu đậm trong lòng Lucia với những lời nói và việc làm của Chúa Giêsu. Để thể hiện niềm tin, Lucia đã khấn giữ đồng trinh.

Trinh khiết trước hôn nhân là lý tưởng La Mã cổ, hiếm thấy nhưng không bị kết
án. Lucia biết rõ tính anh hùng của các vị tử đạo trinh khiết nên luôn trung
thành và sống theo gương của người thợ mộc Giêsu, Con Thiên Chúa.

Hồi đó, Lucia là cô gái xinh đẹp, có người nói yêu đôi mắt đẹp của Lucia, thế
là thánh nhân móc mắt mình cho người đó vì muốn giữ mình trọn đời đồng trinh vì
Nước Trời. Thánh Lucia là bổn mạng của những người mù và khiếm thị.

14/12 – Thánh Gioan Thánh giá, Linh mục Tiến sĩ (1541-1591)

Cuộc đời ngài là chuỗi  nỗ lực anh dũng. SỰ điên rồ của thập giá được ngài nhận biết: “Ai muốn theo Tôi, hãy vác thập giá mà theo Tôi” (Mc 8:34). Mầu nhiệm Vượt qua khiến ngài được coi là nhà cải cách, thi sĩ thần bí và thần học gia.

Ngài là tu sĩ Dòng Camêlô và thụ phong linh mục năm 1567, lúc 25 tuổi. Ngài gặp
thánh Teresa Avila và yêu thích luật Dòng Camêlô. Ngài cùng thánh Teresa cải
cách dù bị chống đối, bị hiểu lầm, bị hành hạ, bị tù đày. Ngài nhận biết Thánh
giá là chính xác. Ngài trải nghiệm cái chết của Chúa Giêsu khi ngài ngồi trong
bóng tối hết tháng này qua tháng khác tại một phòng nhỏ hẹp, ẩm thấp, và chỉ
cầu nguyện với Chúa. Có nhiều thi sĩ, nhiều nhà thần bí, nhưng ngài là thi sĩ
thần bí.

Cả đời ngài sống Mầu nhiệm Thánh giá. Ngài qua đời lúc 49 tuổi – cuộc đời ngắn
ngủi nhưng viên mãn.

15/12 – Chân phước Maria Frances Schervier, Trinh nữ (1819-1876)

Bà sinh trong một gia đình đàng hoàng ở Aachen (lúc đó do Prussia cai trị, trước đó là Aix-la-Chapelle của Pháp). Bà chăm lo gia đình sau khi người mẹ qua đời và có
tiếng là thương người nghèo. Năm 1844, bà vào Dòng Phanxicô. Năm 1845, bà và 4
người bạn lập dòng chăm sóc bệnh nhân và người già. Năm 1851, Dòng Tiểu muội
Người nghèo Thánh Phanxicô (một trong các tên gốc) được giám mục phê chuẩn,
cộng đoàn này phát triển rất nhanh. Cơ sở đầu tiên thành lập tại Hoa Kỳ năm
1858.

Bà đến Hoa Kỳ năm 1863 và giúp các chị em chăm sóc các thương binh trong cuộc
nội chiến. Bà lại đến Hoa Kỳ năm 1868. Bà đã khuyến khích khi Philip Hoever
chuẩn bị thành lập Dòng Huynh đệ Người nghèo của Thánh Phanxicô.

Khi bà qua đời, có 2.500 thành viên trên khắp thế giới. Họ tham gia mở các bệnh
viện và Nhà dưỡng lão. Bà được phong chân phước năm 1974.

16/12 – Chân phước Honoratus Kozminski (1825-1916)

Ngài sinh tại Biala Podlaska (Siedlce, Ba Lan), học kiến trúc tại Trường Nghệ Thuật ở Warsaw. Khi ngài gần 16 tuổi thì mồ côi cha. Bị nghi ngờ tham gia nổi loạn, ngài bị tù từ tháng 4-1846 tới tháng 3-1847. Năm 1848, ngài vào Dòng Phanxicô. Sau 4 năm,
ngài được thụ phong linh mục. Năm 1855, ngài giúp chân phước Maria Angela
Truszkowska thành lập Dòng nữ Felicia.

Ngài làm người gác cổng ở tu viện Warsaw năm 1860. Ngài tận tụy rao giảng, linh
hướng và giải tội, đồng thời tích cực làm việc với Dòng Ba Phanxicô.

Cuộc nổi dậy chóng Nga hoàng Alexander III năm 1864 thất bại dẫn đến cuộc đàn
áp các nhà dòng ở Ba Lan. Các tu sĩ Dòng Phanxicô bị trục xuất khỏi Warsaw và
phải đến sống tại Zakroczym, tại đây ngài tiếp tục sứ vụ và bắt đầu thành lập
26 dòng nam và nữ. Các tu sĩ khấn nhưng không mặc áo dòng và không sống chung,
họ hoạt động như các tu hội đời ngày nay. Có 17 nhóm vẫn còn là hội dòng ngày
nay.

Các tài liệu viết của ngài gồm 42 cuốn bài giảng, 21 cuốn tập hợp các thư, có
tới 52 tác phẩm về thần học khổ hạnh (ascetical theology), về lòng sùng kính
Đức Mẹ Maria, về lịch sử, về mục vụ – không kể nhiều tài liệu về các hội dòng
ngài đã thành lập.

Năm 1906, nhiều giám mục muốn tái tổ chức các nhóm này dưới quyền mình (sic!),
nhưng chân phước Honoratus cương quyết giữ độc lập, nhưng ngài vẫn thúc giục
các hội dòng vẫn vâng lời giáo hội.

Một người đương thời nói: “Ngài luôn bước đi với Chúa”. Năm 1895, ngài được bổ
nhiệm làm Tổng đại diện (Commissary General) Dòng Phanxicô ở Ba Lan. Ngài tới
Nowe Miasto, rồi qua đời và an táng tại đây. Ngài được chân phước GH Gioan
Phaolô II phong chân phước năm 1988.

17/12 – Thánh Ladarô

Ladarô là bạn của Chúa  Giêsu, em trai của Matta và Maria, là người được Chúa Giêsu quý mến và được Ngài cho sống lại sau khi đã chết ba ngày.

Người ta cho rằng ngài đã viết lại những gì ngài thấy ở kiếp sau khi ngài được
Chúa Giêsu cho sống lại. Một số người nói ngài theo thánh Phêrô tới Syria. Có
người nói ngài và 2 người chị đến sống ở Cyprus. Tại đây, ngài qua đời lần thứ
hai sau khi làm giám mục 30 năm.

Một nhà thờ được xây dựng dâng kính ngài ở Constantinople và một ít thánh tích
của ngài được chuyển về đó năm 890. Truyền thuyết Tây phương nói ngài tới Gaul,
làm giám mục ở Marseilles, chịu tử đạo sau khi hoán cải một số người và ngài
được an táng trong một hang động. Di hài ngài được chuyển về Autun năm 1146.

Khoảng năm 390, một phụ nữ hành hương tên Etheria nói chuyện với đoàn người
hành hương vào thứ Bảy trước lễ Lá tại ngôi mộ mà thánh Ladarô sống lại. Ở Tây
phương, Chúa nhật lễ Lá được gọi là Dominica de Lazaro. Thánh Augustinô cho
chúng ta biết rằng ở Phi châu, Phúc âm về việc sống lại của Ladarô được đọc
trong thánh lễ Chúa nhật lễ Lá.

18/12 – Chân phước Antôn Grassi, Linh mục (1592-1671)

Cha ngài qua đời khi  ngài mới 10 tuổi, nhưng ngài thừa hưởng lòng súng kính Đức Mẹ Loreto từ người cha. Hồi nhỏ, ngài thường tới nhà thờ cầu nguyện và vào dòng lúc 17 tuổi.

Khi là sinh viên ngành mỹ nghệ, ngài có tiếng trong dòng là “tự điển sống” vì
hiểu Kinh thánh và thần học rất nhanh. Một thời gian ngài khổ sở vì lưỡng lự,
nhưng ngài thoát khỏi từ lúc ngài dâng thánh lễ đầu tiên. Từ đó, ngài sống bình
an.

Năm 1621, lúc 29 tuổi, ngài bị sét đánh khi đang cầu nguyện trong nhà thờ Đức
Mẹ Loreto, ai cũng nghĩ ngài không thể sống nổi. Nhưng vài ngày sau, ngài hồi
phục và nhận ra rằng ngài hết bị chứng khó tiêu. Người ta đem quần áo bị cháy
sém của ngài dâng cho Đức Mẹ Loreto để tạ ơn. Quan trọng là ngài cảm thấy cuộc
đời mình hoàn toàn thuộc về Chúa. Năm nào ngài cũng hành hương tới Loreto để tạ
ơn Đức Mẹ.

Ngài chú ý lắng nghe hối nhân khi ngài giải tội, nói vài lời và khuyên làm việc
đền tội, ngài nói bằng chính tiếng nói của lương tâm. Năm 1635, ngài được bầu
làm bề trên Dòng Fermo Oratory. Nhiệm kỳ 3 năm, nhưng lần nào ngài cũng tái đắc
cử cho đến khi ngài qua đời. Ngài là người trầm lặng, dịu dàng, không hề nghiêm
khắc. Ngài luôn khuyên mọi người sống như vậy.

Khi lớn tuổi, ngài có khả năng biết về tương lai, ngài thường dùng khả năng này
để cảnh báo hoặc khuyên nhủ người khác. Nhưng ngài cũng gặp thử thách. Ngài khó
giảng vì bị mất mấy cái răng, rồi ngài không giải tội nữa vì yếu sức, chỉ quanh
quẩn trong phòng. Đức TGM hàng ngày đến trao Mình Thánh cho ngài. Một trong
những hành động cuối cùng của ngài là hòa giải được 2 người đối lập nhau dữ
dội.

19/20 – Chân phước Urbanô V, Giáo hoàng (1310-1370)

Ngài đắc cử giáo hội năm 1362. Khi các hồng y không thể tìm được người cho vị trí quan trọng này, họ quay ra chú ý một “người lạ”: Thánh thiện và đáng kính.

ĐGH Urban V đã chứng tỏ họ chọn lựa đúng. Ngài là tu sĩ Dòng Biển Đức và là nhà
giáo luật, sống tâm linh và thông minh. Ngài khiêm nhường và giản dị, điều đó
khiến ngài luôn được nhiều người quý mến. Ngài cương quyết cải cách Giáo hội và
các dòng tu. Triều đại GH của ngài kéo dài 8 năm, nhưng có một thời gian ngài
phải ở Avignon (Pháp). Hoàn cảnh khó khăn nên ngài không đạt được những mục
đích cao nhất trong việc tái nối kết Giáo hội Đông phương và Tây phương.

Với cương vị giáo hội, ngài tiếp tục sống tu luật Biển Đức. Trước khi qua đời
năm 1370, ngài xin được rời dinh thự giáo hoàng về sống với người em trai để có
thể từ biệt những người bình thường mà ngài đã giúp đỡ.

20/12 – Thánh Đa Minh Silos, Linh mục (khoảng năm 1000-1073)

Ngài không là người sáng lập Dòng Đa Minh, nhưng có chuyện liên quan kỳ lạ.

Ngài sinh tại Tây Ban Nha khoảng năm 1000 trong một gia đình nông dân. Hồi nhỏ
ngài phải lao động ngoài đồng ruộng, nên ngài sống âm thầm. Ngài tu Dòng Biển
Đức và thụ phong linh mục, rồi giữ nhiều chức vụ lãnh đạo. Sau khi tranh chấp
với nhà vua về tài sản, ngài và 2 tu sĩ khác bị đi đày. Rồi họ lập dòng mới.
Dưới sự lãnh đạo của ngài, dòng này trở nên nổi tiếng tại Tây Ban Nha, nhiều
người được chữa lành.

Khoảng 100 năm sau khi ngài qua đời, một phụ nữ trẻ hành hương tới mộ ngài.
Ngài đã hiện ra với phụ nữ này và đoan chắc chị sẽ sinh con trai. Phụ nữ này
tên là Joan Aza, con trai của phụ nữ này sinh ra và trưởng thành, thanh niên
này tên là Đa Minh (Dominic) – người sáng lập Dòng Đa Minh như chúng ta thấy
ngày nay.

Sau nhiều năm, di hài thánh Đa Minh Silos được đưa về hoàng cung bất kỳ lần nào
Nữ hoàng Tây Ban Nha trở dạ sinh con. Việc này kết thúc năm 1931.

21/12 – Thánh Phêrô Canisiô, Linh mục Tiến sĩ (1521-1597)

Ngài là người đa tài, sống gương mẫu và phát triển tài năng theo Kinh thánh vì Chúa. Ngài là nhân vật quan trọng trong thời Cải cách ở Đức, giữ vai trò chính và thường được gọi là “vị tông đồ thứ hai của Đức” so với thánh Boniface.

Lúc 19 tuổi, ngài có bằng đại học của ĐH Cologne. Không lâu sau ngài gặp Peter
Faber, đệ tử đầu tiên của thánh Inhaxiô Loyola, và cuộc đời ngài đã thay đổi từ
khi vào Dòng Tên.

Ngài thụ phong linh mục năm 1546, và nổi tiếng với những bài viết về thánh
Cyril Alexandria và thánh Leo Cả. Ngoài ra ngài còn thích làm việc tông đồ,
thăm viếng các tù nhân và các bệnh nhân.

Năm 1547, ngài dự vài khóa họp Công đồng Trentô. Ngài dạy tại vài trường đại
học, cùng thành lập nhiều đại học và chủng viện. Ngài viết sách giáo lý giải
thích về đức tin Công giáo theo cách mà người thường cóa thể hiểu được – thời
đó rất cần cách đó.

Ngài có tiếng về giảng thuyết, và khéo hòa giải các giáo phái. Ngài còn viết
những lá thư phê bình các vị lãnh đạo Giáo hội
– nhưng có cách nói yêu
thương và cảm thông. Lúc 70 tuổi, ngài bị đột quỵ, nhưng vẫn rao giảng và viết
lách cho tới khi qua đời tại Nijmegen (Ba Lan) ngày 21-12-1597.

22/12 – Chân phước Jacopone da Todi (qua đời năm 1306)

Ngài sinh trong gia đình  Benedetti quý tộc ở TP Todi, Bắc Ý. Ngài là luật sư và kết hôn với Vanna, một phụ nữ đạo hạnh và đại lượng. Vanna đã giúp chồng ăn năn đền tội. Có lần Vanna năn nỉ Jacopone tham gia thi đấu công khai. Vanna ngồi chung với các phụ nữ quý tộc khác và khán dài bị sụp. Vanna bị chết. Jacopone buồn lắm, nhất là khi biết vợ đeo thắt lưng để đền tội cho chồng. Từ đó, Jacopone quyết thay đổi cuộc đời.

Ngài phân phát tài sản cho người nghèo và vào Dòng Ba Phanxicô, ăn năn đền tội
nghiêm ngặt. Ngài viết nhiều bài thánh ca (hymn) nổi tiếng bằng phương ngữ.

Lúc 68 tuổi, ngài bị vạ tuyệt thông và bị tù, dù ngài biết mình vô tội. Mãi 5
năm sau, thời ĐGH Bênêđictô XI, ngài mới được giải vạ. Ngài coi cảnh tù đày như
việc đền tội. Trong thời gian đó ngài viết bài thánh ca Stabat Mater bằng tiếng
Latin nổi tiếng.

Ngày 24-12-1306, ngài cảm thấy cái chết gần kề. Lúc đó ngài ở trong Dòng Thánh
Clara khó nghèo với một người bạn là chân phước Gioan La Verna. Cũng như thánh
Phanxicô, chân phước Jacopone chào đón “Chị Chết” bằng một bài thánh ca nổi
tiếng của ngài khi người ta đang dự thánh lễ nửa đêm Giáng sinh.

23/12 – Thánh Gioan Kanty, Linh mục (1390?-1473)

Sau khi học xong đại học ở Kraków, Ba Lan, ngài thụ phong linh mục và là giáo sư thần học. Có nhiều người ganh ghét nên ngài phải đi giữ xứ ở Olkusz. Ngài sống khiêm nhường và cố gắng, nhưng vẫn không được lòng giáo dân. Nhưng cuối cùng ngài đã khiếnhọ tâm phục khẩu phục. Sau một thời gian, ngài trở lại Kraków và dạy Kinh thánh cho đến hết đời.

Ngài thương người nghèo, ngài dành tiền bạc và thời gian cho họ. Ngài ít ngủ,
nằm trên nền nhà, ăn ít, không ăn thịt. Ngài hành hương tới Giêrusalem và Rôma.
Được cảnh báo về sức khỏe nhưng ngài vẫn sống khổ hạnh.

24/12 – Giáng sinh tại Greccio

Theo truyền thuyết, chính thánh Phanxicô Assisi đã làm hang đá đầu tiên tại Greccio, thuộc Trung Ý, năm 1223.

Thánh Phanxicô nhớ lần tời Belem vài năm trước đó, nên ngài quyết định làm hang
đá, đó là hang Greccio. Ngài tìm một đứa bé, một con bò và một con lừa đứng gần
bên máng cỏ. Người ta nghe nói và kéo đến, người thì cầm đuốc, người thì cầm
nến. Chính thánh Phanxicô giảng trong thánh lễ đêm đó.

Thomas of Celano, người viết tiểu sử thánh Phanxicô, nói rằng thánh Phanxicô
“đứng trước máng cỏ… với lòng yêu thương và niềm hạnh phúc vô cùng…” Với thánh
Phanxicô, mừng lễ giản dị là nhớ lại cảnh khó nghèo của Chúa Giêsu Hài Đồng,
Đấng cứu độ đã làm người nghèo vì chúng ta, một Giêsu làm người thực sự.

Đêm nay, khi cầu nguyện bên hang đá, chúng ta hãy cảm tạ Lòng Thương Xót của
Chúa và hãy nhớ đến những người nghèo và những người đau khổ trên khắp thế
giới…

25/12 – Đại lễ Giáng sinh

Hôm nay Giáo hội tập trung vào Vương Nhi Giêsu, Thiên Chúa làm người, để chúng ta được hạnh phúc, bình an và hy vọng. Bên Bé Giêsu có Cha Mẹ Ngài là Đức Mẹ Maria và Đức Thánh Giuse, có cả những mục đồng đại diện cho giới lao động nghèo khó.

Ngày Con Chúa giáng trần làm người, đất trời được giao hòa, nhân phẩm nhân loại
được phục hồi. Thật hạnh phúc biết bao khi những tội nhân chúng ta được trắng
án và được trở thành con cái của Thiên Chúa, đó là mầu nhiệm đức tin. Hãy mở
rộng lòng yêu thương để đón tiếp nhau chân thành:

Vinh danh Thiên Chúa trên trời

Bình an dưới thế cho người thiện tâm

26/12 – Thánh Stêphanô, Tử đạo tiên khởi (qua đời năm 36 ?)

Những gì chúng ta biết về thánh Stêphanô được tìm thấy trong sách Công vụ Tông đồ, chương 6 và 7, đủ để chúng ta biết ngài là con người thế nào: “Thời đó, khi số môn đệ thêm đông, thì các tín hữu Do Thái theo văn hoá Hy Lạp kêu trách những tín hữu Do Thái bản xứ, vì trong việc phân phát lương thực hằng ngày, các bà goá trong
nhóm họ bị bỏ quên. Bởi thế, Nhóm Mười Hai triệu tập toàn thể các môn đệ và
nói: “Chúng tôi mà bỏ việc rao giảng Lời Thiên Chúa để lo việc ăn uống, là điều
không phải. Vậy, thưa anh em, anh em hãy tìm trong cộng đoàn bảy người được
tiếng tốt, đầy Thần Khí và khôn ngoan, rồi chúng tôi sẽ cắt đặt họ làm công
việc đó. Còn chúng tôi, chúng tôi sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ Lời Thiên
Chúa”. Đề nghị trên được mọi người tán thành. Họ chọn ông Stêphanô, một người
đầy lòng tin và đầy Thánh Thần, cùng với các ông Philípphê, Pơrôkhôrô, Nicanô,
Timôn, Pácmêna và ông Nicôla, một người ngoại quê Antiôkhia đã theo đạo Do
Thái. Ông
Stêphanô được đầy ân sủng và quyền năng, đã làm những điềm
thiêng dấu lạ lớn lao trong dân. Có những người thuộc hội đường gọi là hội
đường của nhóm nô lệ được giải phóng, gốc Kyrênê và Alêxanria, cùng với một số
người gốc Kilikia và Axia, đứng lên tranh luận với ông
Stêphanô. Nhưng
họ không địch nổi lời lẽ khôn ngoan mà Thần Khí đã ban cho ông.” Bấy giờ, họ
mới xui mấy người phao lên rằng: “Chúng tôi đã nghe hắn nói lộng ngôn xúc phạm
đến ông Môsê và Thiên Chúa”. Họ sách động dân và các kỳ mục cùng kinh sư, rồi
ập đến bắt ông và điệu đến Thượng Hội Đồng. Họ đưa mấy người chứng gian ra khai rằng: “Tên này không ngừng nói những lời phạm đến Nơi Thánh và Lề Luật. Vì
chúng tôi đã nghe hắn nói rằng Giêsu người Nadarét sẽ phá huỷ nơi này và thay
đổi những tục lệ mà ông Môsê đã truyền lại cho chúng ta”. Toàn thể cử toạ trong
Thượng Hội Đồng đều nhìn thẳng vào ông
Stêphanô, và họ thấy mặt ông
giống như mặt thiên sứ” (Cv 6:1-5, 8-15).

Chỗ khác, sách Công vụ cho biết: “Được đầy ơn Thánh Thần, ông đăm đăm nhìn
trời, thấy vinh quang Thiên Chúa, và thấy Đức Giêsu đứng bên hữu Thiên Chúa.
Ông nói: “Kìa, tôi thấy trời mở ra, và Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa”. Họ
liền kêu lớn tiếng, bịt tai lại và nhất tề xông vào ông rồi lôi ra ngoài thành
mà ném đá. Các nhân chứng để áo mình dưới chân một thanh niên tên là Saolô. Họ
ném đá ông Stêphanô, đang lúc ông cầu xin rằng: “Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy
hồn con”. Rồi ông quỳ gối xuống, kêu lớn tiếng: “Lạy Chúa, xin đừng chấp
họ tội này”. Nói thế rồi, ông an nghỉ” (Cv 7:55-60).

27/12 – Thánh sử Gioan, Tông đồ

Thiên Chúa kêu gọi, con người đáp lại. Ơn gọi của thánh Gioan và người anh Giacôbê được mô tả sơ sài trong Phúc âm, cùng với thánh Phêrô và người anh Anrê: “Đi một quãng nữa, Người thấy hai anh em khác con ông Dêbêđê, là ông Giacôbê và người em là ông Gioan. Hai ông này đang cùng với cha là ông Dê-bê-đê vá lưới ở trong thuyền. Người gọi các ông. Lập tức, các ông bỏ thuyền, bỏ cha lại mà theo Người” (Mt 4:21-22).

Thánh Gioan gọi mình là “người môn đệ được Chúa yêu” (x. Ga 13:23; 19:26;
20:2), the one who reclined next to Jesus at the Last Supper, and the one to
whom he gave the exquisite honor, as he stood beneath the cross, of caring for
his mother. Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Đức
Giêsu nói với thân mẫu: “Thưa
Mẹ, đây là con của Mẹ”. Rồi Người
nói với môn đệ:
“Đây là mẹ của anh”. Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà
về nhà mình (Ga 19:26-27).

Theo chiều sâu Phúc âm, thánh Gioan thường được coi là “chim đại bàng của thần
học”, bay trên vùng cao mà các thánh sử khác không có. Chúa Giêsu gọi hai anh
em thánh Gioan là “con của sấm sét”. Khó giải thích chính xác nhưng có 2 gợi ý.

Thứ nhất, theo thánh Matthêu, mẹ của các ngài xin cho 2 con ngồi bên phải và
bên trái Chúa trong Vương quốc của Chúa Giêsu. “Đức Giêsu bảo: “Các người
không biết các người xin gì! Các người có uống nổi chén Thầy sắp uống không?”
Họ đáp: “Thưa uống nổi”. Đức Giêsu bảo: “Chén của Thầy, các người sẽ uống; còn
việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Cha Thầy
đã chuẩn bị cho ai, thì kẻ ấy mới được.
Đức Giêsu gọi các ông lại và
nói: “Anh em biết rằng thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những
người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Giữa anh em thì không được như
vậy: Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn
làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em. Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20:22-24, 27-28).

Lần khác, “Đức Giêsu nhất quyết đi lên Giêrusalem. Người sai mấy sứ giả đi
trước. Họ lên đường và vào một làng người Samari để chuẩn bị cho Người đến.
Nhưng dân làng không đón tiếp Người, vì Người đang đi về hướng Giêrusalem. Thấy
thế, hai môn đệ Người là ông Giacôbê và ông Gioan nói rằng: “Thưa Thầy, Thầy có
muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu huỷ chúng nó không?” Nhưng Đức
Giêsu quay lại quở mắng các ông” (x. Lc 9:51-55).

Dịp lễ Phục sinh, Maria Mađalêna “đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ,
rồi về báo cho các môn đệ”. Ông Phêrô và môn đệ kia liền đi ra mộ. Cả hai
người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước.
Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. Ông Simôn
Phêrô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở
đó
(Ga 20:2-6). Thánh Gioan “đã thấy và đã tin” (Ga 20:8).

Gioan và Phêrô bị bắt và bị tống ngục, “nhưng trong đám người nghe lời giảng,
có nhiều kẻ đã tin theo, chỉ riêng số đàn ông đã lên đến chừng năm ngàn” (Cv
4:13).

Thánh Gioan đã viết Phúc âm “khác” nhất so với các Phúc âm nhất lãm, các thư và
sách Khải huyền. Ngài đã thấy Chúa Giêsu vinh quang trong các biến cố cuộc đời.
Trong Bữa Tiệc Ly, thánh Gioan còn được tựa đầu vào ngực Chúa Giêsu. Phúc âm
theo thánh Gioan là vinh quang của Chúa Giêsu.

28/12 – Các thánh Anh hài

Hêrôđê là vua Giuđê, ông sợ người khác “đụng chạm” đến ngai vàng của mình. Ông là một chính khách bậc thầy và là một bạo chúa thâm độc. Ông đã giết vợ, giết người anh em và chồng của em gái.

Mt 2:1-18 kể chuyện này: Khi Đức Giêsu ra đời tại Bêlem, miền Giuđê, thời
vua Hêrôđê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giêrusalem, và hỏi:
“Đức Vua dân Do Thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người
xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người. Nghe tin ấy, vua
Hêrôđê bối rối, và cả thành Giêrusalem cũng xôn xao. Nhà vua liền triệu tập tất
cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Ki-tô phải
sinh ra ở đâu. Họ trả lời: “Tại Bêlem, miền Giuđê, vì trong sách ngôn sứ, có chép
rằng: Phần ngươi, hỡi Bêlem, miền đất Giuđa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất
của Giuđa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ítraen dân Ta sẽ ra đời. Bấy giờ
vua Hêrôđê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao
đã xuất hiện. Rồi vua phái các vị ấy đi Bêlem và dặn: “Xin quý ngài đi dò hỏi
tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến
bái lạy Người”. Nghe nhà vua nói thế, họ ra đi. Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở
phương Đông, lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại. Trông
thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng. Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà
Maria, liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và
mộc dược mà dâng tiến. Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hêrôđê
nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình.

Hêrôđê đã “nổi điên” và ra lệnh tàn sát hết các bé trai ở Bêlem từ 2 tuổi trở
xuống”. Thật khủng khiếp, đúng như lời tiên báo của ngôn sứ Giêrêmia: “Ở
Rama, vẳng nghe tiếng khóc than rền rĩ: tiếng bà Rakhen khóc thương con mình và
không chịu để cho người ta an ủi, vì chúng không còn nữa” (Mt 2:18)
.

29/12 – Thánh Thomas Becket, Giám mục (1118-1170)

Ngài là người mạnh mẽ,  bị dao động một thời gian, nhưng rồi biết mình không thể theo điều xấu và ngài đã trở thành thánh tử đạo. Ngài là Tổng giám mục TGP Canterbury, bị giết trong nhà thờ chính tòa ngày 29-12-1170.

Khi còn làm giám mục phó TGP Canterbury, ngài được vua Henry II (bạn của ngài)
chọn làm chưởng ấn Anh quốc lúc 36 tuổi. Khi vua Henry cảm thấy lợi thế nếu
chọn ngài làm TGM Canterbury, ngài đã cảnh báo nhà vua không được xâm phạm Giáo
hội. Khi ngài được tấn phong tổng giám mục năm 1162, ngài từ chức chưởng ấn và
thay đổi cách sống!

Rắc rối bắt đầu. Vua Henry vẫn tiếm quyền Giáo hội và ra Hiến pháp Clarendon,
không cho giáo sĩ trực tiếp với Rôma. Nhưng thánh Thomas Becket phản đối Hiến
pháp, trốn sang Pháp và bị đi đày 7 năm. Khi trở về Anh quốc, ngài biết mình sẽ
bị giết, vì ngài đã từ chối lệnh vua. Vua Henry đã hét lên: “Không ai có thể
làm cho ta khỏi rắc rối vì tên giáo sĩ này sao?”. Và 4 hiệp sĩ đã giết ngài
ngay trong nhà thờ chính tòa Canterbury. Ngài vẫn là thánh nhân anh hùng nêu
gương cho thời đại của chúng ta.

30/12 – Thánh Egwin, Giám mục (qua đời khoảng năm 717)

Ngài là tu sĩ Dòng Biển Đức, được tấn phong giám mục GP Worcester, Anh quốc. Ngài nổi tiếng là yêu thương trẻ mồ côi và người góa bụa, luôn phân xử công bình. Tuy nhiên ngài không được lòng các giáo sĩ. Họ thấy ngài quá nghiêm khắc, còn ngài chỉ muốn cố gắng sửa sai những việc lạm dụng và ra quy luật thôi. Khi ngài tới Rôma trình bày trường hợp của ngài với ĐGH Constantine, ngài được xem xét và trắng án.

Trên đường trở về Anh quốc, ngài lập tu viện Evesham, nay là nhà dòng Biển Đức
nổi tiếng từ thời Trung cổ. Nhà dòng này dâng kính Đức Maria.

Ngài qua đời tại nhà dòng này vào ngày 30-12. Sau đó, nhiều phép lạ được coi là
nhờ sự can thiệp của ngài: Người mù được thấy, người điếc được nghe, người bệnh
được khỏi.

31/12 – Thánh Sylvester I, Giáo hoàng (qua đời năm 335)

Nói đến vị giáo hoàng này, chúng ta nghĩ ngay tới sắc lệnh Milan, sự nổi bật của Giáo hội đối với các hầm mộ, các đại giáo đường như đền thờ Thánh Gioan Lateran, đền thờ Thánh Phêrô và các đền thờ khác, Công đồng Nicê và các sự kiện quan trọng khác. Nhưng đa số các sự kiện này được hoàng đế Constantine hoạch định hoặc tạo ra.

Rất nhiều truyền thuyết có về vị giáo hoàng này, ngài làm giáo hoàng vào thời
điểm quan trọng nhất, nhưng rất ít điều trở thành lịch sử. Chúng ta biết chắc
rằng triều đại giáo hoàng của ngài kéo dài từ năm 314 tới khi ngài qua đời năm
335. Đọc lịch sử, chúng ta chắc chắn rằng chỉ có con người mạnh mẽ và khôn
ngoan mới có thể duy trì sự độc lập của Giáo hội trước hoàng đế Constantine.
Nói chung, các giám mục vẫn trung thành với Giáo hội, và có những lúc phải xin
lỗi ĐGH Sylvester I vì đảm trách các dự án quan trọng của Giáo hội khi thúc
giục hoàng đế Constantine.

Thomas Aquinas TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ BeliefNet.com, Saints.sqpn.com, AmericanCatholic.org, Catholic.org)

nguồn: Anh chị Thụ Mai & Ngọc Nga gởi

7 thói quen của người tin vào Chúa

7 thói quen của người tin vào Chúa

TRẦM THIÊN THU

Tiểu sử các thánh cho thấy các ngài luôn đặt niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa. Có những câu chuyện về hành trình trong đời sống Kitô giáo: Nam và nữ, trẻ và già, giaó sĩ và giáo dân,… Nhưng tất cả đều có điểm tương đồng trong việc sống kết hợp mật thiết với Thiên Chúa. Đây là vài điểm nổi bật:

1. Chấp nhận đau khổ

Một trong những điểm nổi bật trong chuyện đời Tu sĩ Yun là người bị bách hại ở Trung quốc, được thuật lại trong cuốn “The Heavenly Man” (Người Đàn Ông Trên Trời). Sau khi bị hành hạ nhiều tuần bằng đủ kiểu: Bị điện giật, bị bỏ đói, bị đánh đập, bị kim xỏ vào móng tay, rồi bị căng chân tay ra treo trên cao, nhưng ngài vẫn không nao núng. Ngày hôm sau, ngài bị bỏ vào xà lim, nhưng ngài xin cho ngài cuốn Kinh thánh – một ý tưởng kỳ lạ. Ngài nài xin mãi, người ta cũng ném cho ngài cuốn Kinh thánh.

Ngài viết: “Tôi quỳ xuống và khóc, tạ ơn Chúa ban cho món quà đó. Tôi không thể tin được là mơ ước của tôi lại thành hiện thực! Không tù nhân nào được phép giữ Kinh thánh hoặc bất kỳ thứ gì liên quan Kitô giáo, nhưng thật lạ, Thiên Chúa đã ban cho tôi cuốn Kinh thánh! Quá đó, Thiên Chúa cho tôi biết rằng dù kế hoạch độc ác của loài người dành cho tôi, nhưng Ngài vẫn không quên tôi và vẫn kiểm soát cuộc đời tôi”.

Những người tin vào Chúa như Tu sĩ Yun vẫn có cách nhìn trong suốt về sự đau khổ. Họ cho đau khổ không là điều tồi tệ nhất. Họ tập trung vào việc KHÔNG PHẠM TỘI chứ không phải KHÔNG ĐAU KHỔ. Họ muốn chính mình và người khác cùng vào Nước Trời.

2. Chấp nhận cái chết

Những người tin vào Chúa luôn có cái nhìn tập-trung-vào-Nước-Trời. Họ nghĩ tới sự vĩnh hằng chứ không chú ý ngày tháng theo lịch. Mục đích của họ không là kéo dài thời gian trên thế gian, mà muốn mình và người khác càng mau về trời càng tốt. Nếu Thiên Chúa rút ngắn cuộc đời họ ở thế gian thì họ chấp nhận ngay.

Câu chuyện về sự thoát chết kỳ lạ của Lm Goldmann trong Thế chiến II có một câu hỏi: “Nếu người ta không thoát chết thì sao?”. Lm Goldmann đã chỉ có thể trả lời bằng cách nói rằng Thiên Chúa cứu ngài thoát chết. Mà nghĩ cho cùng thì rồi ai cũng một lần chết. Phúc lành đã cứu ngài thoát chết để ngài cóthể tiếp tục sứ vụ là đem Tin Mừng tới cho những người Đức quốc xã. Cuối cùng ngài qua đời khi đang hoạt động ở Nhật, và chấp nhận rằng Thiên Chúa đem đến điều tốt lành khi ngài qua đời, mặc dù ngài chưa hoàn thành công việc.

3. Hằng ngày hẹn hò với Chúa

Chưa có ai tin vào Chúa mà lại không dành thời gian cầu nguyện hằng ngày. Họ thích cầu nguyện hằng ngày bất kỳ khi nào có thể, có khi hằng giờ. Hằng ngày họ tập trung vào việc cầu nguyện ngay cả khi nói chuyện với người khác hoặc làm việc, và đó
là cầu nguyện liên lỉ. Nhất là mỗi sáng thức dậy, họ tập trung dành cho Chúa
những giây phút đầu ngày trước khi làm bổn phận hằng ngày.

4. Khi cầu nguyện, lắng nghe nhiều hơn nói

Chúa Giêsu nhắc nhở khi cầu nguyện: “Khi cầunguyện, anh em đừng lải nhải như dân ngoại; họ nghĩ rằng: cứ nói nhiều là được nhận lời” (Mt 6:7). Ngài là người ít nói nên không muốn ai nói nhiều. Mẹ Angelica “bị” một người đàn ông đặt chiếc đĩa trước cửa xin 600.000 USD, khi ông ta trở lại mà không có thì sẽ rắc rối. Mẹ chạy vào nhà nguyện để cầu nguyện, và người đàn ông kia không bao giờ trở lại nữa. Mẹ cầu nguyện không vì ý muốn riêng, mà vì Mẹ nhận biết kế hoạch của Thiên Chúa.

5. Hạn chế chia trí

Trong những câu chuyện về “Người Buôn Lậu Của Chúa” (God’s Smuggler),
tác giả muốn nói về cách mà công việc của Tu sĩ Anrê vẫn tiếp tục trong thế kỷ
21 này: “Tôi chẳng coi việc chờ đợi là sự kỳ cục, dù điều đó làm gián đoạn cuộc điện đàm với người khác. Kỹ thuật làm chúng ta không thể tiếp cận nhu cầu và áp lực. Chúng ta phải im lặng và ưu tiên lắng nghe tiếng Chúa. Thời gian im lặng là lúc chúng ta có thể khai hóa sự tĩnh lặng nội tâm và chờ gợi ý của Chúa Thánh Thần.

6. Xin cầu nguyện

Người ta có những câu chuyện dài về cách Thiên Chúa hành động trong cuộc đời họ là thường nói qua những người bạn đạo đức, gia đình tốt lành và các giáo sĩ thánh thiện. Nếu họ nhận biết Thiên Chúa kêu gọi họ, nhất là nếu điều đó quan trọng, họ sẽ xin các
Kitô hữu uy tín cầu nguyện cho họ về vấn đề đó để nhận biết Ý Chúa.

7. Hoàn toàn mau mắn vâng lời Chúa

Những người tin vào Chúa luôn lắng nghe trong thinh lặng. Khi xác định được Ý Chúa, họ hoàn toàn mau mắn vâng lời. Chính Đức Mẹ cũng đã ngại khi biết mình sẽ thụ thai trong khi mới đính hôn, nhưng khi nghe sứ thần Gabriel giải thích và biết được Ý Chúa, Đức Mẹ xin vâng ngay: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1:38). Kinh thánh đã xác định: Vâng lời trọng hơn của lễ” (1 Sm 15:22 và Tv 50:8-9). Đó là Ý Chúa thể hiện qua con người vậy.

Lạy Chúa Trời, chúng con đang cùng cả Giáo hội sống trong Năm Đức Tin, xin thêm đức tin cho chúng con, xin dạy chúng con biết lắng nghe Tiếng Chúa và mau mắn thi hành Ý Chúa.

Lạy Chúa Trời, xin đến cứu con, muôn lạy Chúa, xin mau phù trợ! (Tv 70:2), vì chúng con luôn khát khao Ngài.

Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

(Biên soạn từ Conversion Diary)

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

Những người cụt tay phi thường

Những người cụt tay phi thường
Họ không chỉ duy trì cuộc sống như 1 người bình thường mà còn xây dựng được những thành tích phi thường. Lưu ý quý đôc giả Những người cụt tay này không phải là thương phế binh VNCH
1. Tài xế xe ôm không tay

Anh Liu – một tài xế hành nghề “xe ôm” tại Jimo, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc đã
bị các nhân viên cảnh sát cảnh cáo vì không hề có giấy phép lái xe và điều
khiển xe gắn máy khi đã bị cụt hai tay. Các sĩ quan cảnh sát đã buộc anh Liu
phải dừng xe khi thấy anh chở khách quá tải, nhưng họ thật sự sốc khi thấy anh
đã bị cụt cả hai tay mà vẫn có thể điều khiển xe một cách dễ dàng.

Anh Liu đã bị cụt cả hai tay khi mới 10 tuổi do điện giật. Bố mẹ anh đã gửi anh tới
một rạp xiếc địa phương để “học nghề”, và tại đó anh đã được đào tạo để có thể
điều khiển xe gắn máy mà không cần phải có đầy đủ cả hai tay. Tại cơ quan cảnh
sát, anh Liu thừa nhận rằng rạp xiếc trước đây anh từng làm đã giải tán và anh
buộc phải quay sang làm nghề lái xe chở khách để kiếm sống, và hơn 10 năm nay,
anh chạy xe trong khi không hề có bất cứ loại giấy phép nào. Các sĩ quan cảnh
sát đã quyết định không phạt tiền, nhưng họ buộc anh Liu phải dừng ngay công
việc này, bởi nó có thể gây nguy hiểm cho anh và cho cả các hành khách nữa.

2. Không tay vẫn trở thành vận động viên bắn cung
Mark Stutzman – cư trú tại Richland, bang Washington, Mỹ, đã bị cụt cả hai tay kể từ
khi mới sinh, song điều đó không ngăn cản được người đàn ông 28 tuổi này trở
thành một tay bắn cung thiện xạ. Mark đến với bộ môn bắn cung từ năm 16 tuổi và
từ đó đến nay anh luôn luôn có mặt trong tất cả các giải bắn cung được tổ chức
tại Mỹ.
Khi thi đấu, anh ngồi trên ghế, giữ cây cung bằng chân phải, và sử dụng hàm
răng của mình để căng dây cung. Mark không bao giờ tự ti rằng mình là một tay
cung khuyết tật, và khi kết thúc giải đấu, anh thường chụp chung ảnh kỷ niệm
với các tay cung khác. Khả năng “thiện xa” của Mark không hề kém bất cứ tay
cung bình thường nào, và anh hoàn toàn có khả năng sẽ trở thành một ứng cử viên
trong đội tuyển bắn cung Mỹ tại Olympic 2012 tới.
3. Không tay chơi piano cực đỉnh
Lưu Vĩ, 23 tuổi, người Trung Quốc, là một chàng trai tật nguyền, anh không có tay
như những người bình thường khác vì lúc 10 tuổi anh chạm tay vào điện cao thế
khi đang chơi với bạn, và cánh tay của anh đã mất đi vĩnh viễn từ khi đó. Nhưng
với nghị lực và lòng quyết tâm của mình, Lưu Vĩ hàng ngày tập luyện làm mọi thứ
bằng đôi chân của mình và một trong những việc đó là đánh đàn piano.
Vào tối 10/10/2010 vừa qua, tại vòng chung kết của cuộc thi China’s Got Talent,
diễn ra tại sân vận động Thượng Hải, Trung Quốc, chàng trai Lưu Vĩ chơi đàn
piano bằng chân đã giành giải nhất cuộc thi.
Anh chia sẻ hồi mới bị tai nạn anh rất đau khổ và đã khóc rất nhiều, nhưng rồi
anh nhận ra rằng khóc mãi chỉ làm mình mệt mỏi và anh đã luôn tự nói với mình:
“Mất tay, thì đã sao nào?” Sau đó anh quyết định trở thành một nhạc sĩ và tự
học chơi piano bằng chân. Bằng nỗ lực của chính mình anh đã vượt lên tất cả và
tìm ra cách chơi đàn bằng những ngón chân.
4. Viết thư pháp bằng chân
Đã từng là một đầu bếp tại một nhà hàng ở Bắc Kinh, song vụ nổ ga đã khiến người
đàn ông này bị thương nghiêm trọng và đã cụt cả hai tay. Để tiếp tục kiếm sống
và nuôi dưỡng bố mẹ già, anh đã nỗ lực luyện tập viết thư pháp bằng chính đôi
chân của mình.
5. Đô vật không tay
Ngay từ khi mới lọt lòng, Kyle Maynard đã không có đủ chân tay như những người bình thường, song nhờ sự kiên trì và tài năng thiên bẩm, anh đã trở thành một tay
vật có tên tuổi tại tiểu bang Washington nói riêng và toàn nước Mỹ nói chung.
Tháng 8/2004, Kyle ghi danh vào Trường đại học Georgia, và vẫn tiếp tục tham
gia câu lạc bộ đô vật. Anh muốn học ngành tâm lý thể thao, để có thể trở thành
một huấn luyện viên thể thao hoặc làm quản lý một trung tâm sức khỏe.
Hiện tại Maynard làm phát ngôn viên cho Ủy ban tuyên truyền của bang Washinton,
phụ trách về mảng các bài phát biểu động viên tinh thần. Anh cũng là tác giả
của cuốn sách “The True Story of a Congenital Amputee Who Became a Champion in
Wrestling and in Life” (Tạm dịch: Câu chuyện có thật về một người tật nguyền đã
thành công trong bộ môn đấu vật và trong cuộc sống)
6. Vận động viên golf cụt tay vô địch thế giới
Tommy McAuliffe – sinh năm 1893 tại Buffalo, New York, từng được biết đến là “vận
động viên golf cụt tay vô địch thế giới”. Cả hai cánh tay của ông đã bị cắt bỏ
sau vụ tai nạn tầu hỏa kinh hoàng tại Mỹ vào năm 1902. Tommy McAuliffe đã cố
gắng để có thể viết chữ bằng cách giữ một chiếc bút chì trong miệng.
Khi còn là sinh viên, ông làm thêm tại một sân golf gần nhà và đã cố gắng học
chơi bằng cách giữ cây gậy đánh golf giữa cổ và vai của mình. Sau khi kết thúc
đại học, Tommy đã khuyến khích anh trai của mình, ông Walter, một tay golf
chuyên nghiệp, cùng tổ chức show diễn “Trick Shot” (tạm dịch: những pha đánh
golf điệu nghệ như xiếc) tại New York. Chương trình của ông đã nhanh chóng trở
nên phổ biến, và ông đã tới tất cả 48 tiểu bang tại Mỹ, Canada và Úc để biểu
diễn. Những tay golf cự phách cùng thời với ông chỉ có thể ghi được trung bình
85 điểm trên sân golf 18 lỗ, nhưng đối với Tommy, thì con số này là 92. Với khả
năng phi thường đó, ông đã được gọi là “vận động viên golf cụt tay vô địch thế
giới”.
7. Không tay vẫn lái máy bay bình thường
“Người chiến thắng không làm gì khác thường. Họ thực hiện chúng theo cách khác
thường”. Nhận định trên hoàn toàn chính xác trong trường hợp của cô gái
người Mỹ, Jessica Cox. Từ khi sinh cô không có tay nhưng ở tuổi 28 cô gái này
đã trở thành nữ phi công không tay đầu tiên trong lịch sử. Cô đã có thể bay
trên nền trời chỉ nhờ vào chân của mình.
Jessica tin rằng với khả năng sáng tạo, kiên nhẫn, tự tin thì không có gì là
không thể. Cô tốt nghiệp khoa tâm lý tại đại học Arizona. Cô có thể viết, sử
dụng máy vi tính, điện thoại di động, chải tóc, trang điểm, thậm chí gắn lông
mày… bằng chân. Cô gái người Mỹ này còn là một vũ sư và là võ sinh Tae
Kown-Do đai đen nữa đấy các bạn ạ.
8. Không tay vẫn trở thành nghệ sĩ guitare
Tony Melendez là nhạc sỹ guitar, nhà soạn nhạc người Mỹ gốc Nicaragua. Anh sinh năm 1962 nhưng không có hai cánh tay do người mẹ khi mang thai dùng thuốc
Thalidomine. Tuy nhiên, lòng say mê âm nhạc đã thôi thúc anh học guitar bằng
một cách mà không ai nghĩ anh có thể làm được: dùng chân.
Tony bắt đầu biểu diễn từ năm 1985 tại Los Angeles. Năm 1987, anh đã biểu diễn
bài “Never be the same” chào mừng Giáo Hoàng John Paul II đến thăm
Los Angeles. Giáo hoàng đã nói khẽ với Tony rằng: “My wish for you is that
you continue to give hope to others and continue in what you are doing”
(Tạm dịch: Tôi mong rằng anh sẽ tiếp tục thắp sáng niềm hi vọng cho mọi người
và hãy tiếp tục công việc mà anh đang làm). Lời nói đó đã khích lệ anh rất
nhiều để quyết tâm theo con đường âm nhạc đến ngày nay.
9. Vận động viên thể hình
Bị mất đi cả hai cánh tay trong một vụ tai nạn khi mới 2 tuổi, cô Barbie Guerra.
Barb đã tìm được niềm cảm hứng cho riêng mình: luyện tập để trở thành một vận
động viên thể hình.
10. Không tay vẽ thiệp giáng sinh

http://us.24h.com.vn/noel-2011-c64e2022.html cực
đỉnh

Nhìn ngắm tấm thiệp Giáng sinh đẹp đẽ trên đây, ít người có thể tưởng tượng rằng
chúng được vẽ bằng chân. Đây là các tác phẩm của Peter Longstaff (48 tuổi), một
nghệ sĩ Anh đã bị cụt cả hai tay. Những tấm thiệp của Peter Longstaff được anh
thể hiện rất sinh động, lúc thì mô tả những ngọn nến lung linh, khi lại mang
hình ảnh một con hươu ở xứ sở thần thiên trong mùa đông lạnh giá…

Anh chị Thụ & Mai gởi

Thánh Francesco Antonio Fasani

Thánh Francesco Antonio Fasani

(1681-1742)
27 Tháng Mười Một

Sinh ở Lucera (miền nam nước Ý), Francesco gia nhập dòng Phanxicô năm 1695. Mười năm sau khi được chịu chức linh mục, ngài dạy triết cho các đệ tử, làm quản lý nhà dòng và sau đó làm bề trên. Khi nhiệm kỳ chấm dứt, ngài làm giám đốc đệ tử viện và sau cùng trông coi một giáo xứ trong vùng.
Trong các công việc, ngài là một người nhân từ, đạo đức và hãm mình. Ngài được người ta tìm đến để xưng tội và nghe giảng. Một trong những nhân chứng cho việc phong thánh của ngài xác nhận, “Trong bài giảng, ngài nói một cách bình thường, nhưng tâm hồn tràn ngập tình yêu Thiên Chúa và tha nhân; như được Chúa Thánh Thần nung đốt, ngài đưa ra các lời lẽ cũng như hành động trong Phúc Âm, khích động người nghe và thúc giục họ ăn năn sám hối.” Thánh Francesco còn là người bạn tốt của người nghèo, ngài không bao giờ do dự tìm đến các ân nhân một khi có nhu cầu cho người nghèo.
Khi ngài từ trần ở Lucera, các trẻ em chạy khắp đường phố và la lớn, “Ông thánh chết rồi! Ông thánh chết rồi!”
Francesco được phong thánh năm 1986.
Lời Bàn
Cuộc đời mỗi người là tùy thuộc chúng ta lựa chọn. Nếu chúng ta keo kiệt, chúng ta sẽ trở nên người bủn xỉn. Nếu chúng ta sống yêu thương, chúng ta sẽ trở nên người nhân hậu. Sự thánh thiện của Thánh Francesco Antonio Fasani là kết quả của những lựa chọn nhỏ bé để cộng tác với ơn sủng của Thiên Chúa.
Lời Trích
Trong bài giảng nhân dịp phong thánh cho Thánh Francesco, Ðức Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II chia sẻ về đoạn phúc âm Gioan 21:15, trong đó Ðức Giêsu hỏi Thánh Phêrô có yêu Ngài hơn các tông đồ khác không, và sau đó Chúa nói với Thánh Phêrô, “Hãy chăm sóc đàn chiên của Thầy.” Ðức giáo hoàng nhận xét yếu tố quyết định sự thánh thiện của một người là tình yêu. “Thánh nhân là người đã biến tình yêu được Ðức Kitô dạy bảo trở thành đức tính căn bản của đời sống, là tiêu chuẩn cho sự
suy nghĩ và hoạt động, là đích tối cao cho những khát vọng của ngài”
(Trích
trong tờ L’Observatore Romano, tập 16, số 3, 1986).
Maria Thanh Mai gởi

CON CHỒN và VƯỜN NHO

CON CHỒN và VƯỜN NHO

 

Tác giả: Thanh Thanh

Chuyện ngụ ngôn kể rằng: Một con chồn muốn vào một vườn nho, nhưng vườn
nho lại được rào dậu cẩn thận. Tìm được một chỗ trống, nó muốn chui vào nhưng
không thể được. Nó mới nghĩ ra một cách: nhịn đói để gầy bớt đi.

Sau mấy ngày nhịn ăn, con chồn chui qua
lỗ hổng một cách dễ dàng. Nó vào được trong vườn nho. Sau khi ăn uống no nê,
con chồn mới khám phá rằng nó đã trở nên quá mập để có thể chui qua lỗ hổng trở
lại. Thế là nó phải tuyệt thực một lần nữa.

Thoát ra khỏi vườn nho, nó nhìn và suy nghĩ: “Hỡi vườn nho, vào trong nhà ngươi
để được gì?Bởi vì ta đã đi vào với hai bàn tay không, ta cũng trở ra với hai
bàn tay trắng”.

Khi bước vào trong trần thế này, con người muốn mở rộng bàn tay để chiếm trọn mọi sự. Khi nhắm mắt xuôi tay cũng đành phải ra đi với hai bàn tay trắng mà thôi.

………….

Một nhà vua kia trước khi chết dặn rằng: “Lúc chết, khi đặt vào quan tài, thì
nhớ khoét hai lỗ và để hai bàn tay của Trẫm ra bên ngoài nhé, để cho mọi người
thấy là ta không đem theo được thứ gì cả”.

Ai chẳng biết thế, nhưng không hiểu sao mọi người cứ tích góp thật nhiều. Đến
độ phải dành dật, mất cả tình nghĩa, đến cả sát hại lẫn nhau nữa.

Cuộc sống con người đáng lẽ phải hưởng được thật nhiều hạnh phúc, thì lại bận
tâm cho sự đời. Lòng trí trở nên rối bời, khắc khoải, chờ đợi, tìm kiếm, nắm
giữ, mất đi, buồn khổ, thất vọng, chán đời, trách Chúa.

Thiên Chúa không dựng nên con người để hành hạ, đoạ đày, nhưng là để hưởng, như
Ađam Eva xưa. Thế mà con người đâu có hài lòng, lại muốn hơn muốn nữa, cuối
cùng chính họ tự làm khổ mình. Và “cái đang có cũng bị lấy đi”. Chúa dạy
là:“Hãy làm giàu kho tàng ở trên trời, nơi mối mọt không làm gì được”.

Dường như cái tâm lý chiều sâu cũng là định luật bù trừ thì phải. Xưa nguyên tổ
đánh mất, thì nay ta tìm cách lấy lại. Lấy lại bằng bất cứ giá nào. Nên càng cố
ra sức tích tích trữ thật nhiều. Và coi đó như một bảo đảm cho đời mình. Và khi
con người vất vả gom góp, thì lúc phải chia sẻ, lìa bỏ càng khó và đau xót hơn
nhiều.

Thánh Phaolô tông đồ nói: “Thưa anh em, thời gian chẳng còn bao lâu nữa. Vậy từ
nay ai có vợ hãy sống như không có; ai khóc lóc hãy làm như không khóc; ai vui
mừng như chẳng vui mừng; ai mua sắm hãy làm như không có gì cả; kẻ hưởng dùng
của cải đời này, hãy làm như chẳng hưởng. Vì bộ mặt thế gian này đang biến đi”
(1Cr 7,29-30).

Về đạo đức, ta được động viên là hãy làm thật nhiều việc thiện, lập nhiều công
đức để được Chúa thưởng công.

Nhưng về mặt tu đức, ta lại được nghe rằng hãy gỡ bỏ mọi thứ hành trang, để
mình trở về số không. Số không nguyên tuyền tốt lành thuở ban đầu khi Thiên
Chúa dựng nên. Chính lúc này ta thực sự nhận lãnh mọi sự tốt lành Chúa đã sắm
sẵn.

Như Đức Giêsu, Ngài có tất cả, nhưng rồi lại tháo gỡ tất cả. Từ là Chúa, quyền
uy, oai phong, hoàn hảo, tốt lành, giàu có, đến sức sức khoẻ, thời gian, tài
đức, và cuối cùng là sự sống. Ngài đã thực sự trở nên số không khi bị treo trên
thập giá. Và chính lúc này, Thiên Chúa Cha tỏ cho biết thế nào là vinh quang,
thế nào là tất cả.

Nếu con người biết cái thực thực ảo ảo của thế gian, mà can đảm đi ngang qua
tất cả, thì sẽ gặp được Thiên Chúa, Đấng là tất cả.

Thanh Thanh

 

=====

BÀN TAY PHẢI CỦA CHÚA GIÊSU

Tại một nhà thờ bên Tây ban nha, có một tượng thánh giá cổ rất đặc biệt. Cánh
tay trái của Chúa Giêsu vẫn còn đóng vào gỗ, nhưng cánh tay phải thì rời ra và
đưa đến phía trước trong tư thế ban phép lành.

Người Tây ban nha kể về nguồn gốc của tượng thánh giá này như sau: Có một tội
nhân đến xưng tội với cha xứ ngay dưới cây thánh giá. Như thường lệ, mỗi khi
giải tội cho tội nhân có quá nhiều tội nặng, Linh mục này tỏ ra rất nghiêm
khắc. Ngài ra việc đền tội nặng cũng như ngăm đe nhiều điều.

Tội nhân ra về, lòng cảm thấy nhẹ nhàng. Nhưng tính nào tật ấy, không bao lâu,
người đó sa ngã lại. Lần này, sau khi anh xưng thú tội, vị Linh mục lại đe dọa
như sau: “Đây là lần cuối cùng tôi giải tội cho ông”.

Nhiều tháng qua đi, tội nhân lại đến quì dưới chân Linh mục cũng bên dưới cây
thánh giá và lại xin ơn tha thứ một lần nữa. Nhưng lần này, vị Linh mục đã dứt
khoát, và trả lời: “Ông đừng có đùa với Chúa. Tôi không thể ban phép giải tội
cho ông nữa”.

Nhưng lạ lùng thay, khi vị Linh mục vừa khước từ tội nhân, thì bỗng ông nghe
một tiếng thì thầm từ bên thánh giá. Bàn tay phải của Chúa Giêsu bỗng được rút
ra khỏi thánh giá và ban phép lành cho hối nhân. Vị Linh mục nghe được tiếng
thì thầm như sau: “Chính Ta là người đã đổ máu ra cho người này, chứ không phải
ngươi”.

Từ đó, bàn tay phải của Chúa Giêsu cứ ở mãi trong tư thế ấy, như không ngừng
mời gọi con người đến để ban ơn tha thứ.

(Trích trong sách Lẽ sống)

Nhìn vào thập giá, con thấy tội trần gian. Nhìn vào thập giá, con thấy tội của
con. Chối từ hồng ân, tuôn tràn từ Thiên Chúa, sống trong đam mê, chống lại
tình yêu. Đan tâm phản nghịch, đóng đinh Chúa từ nhân (lời bài hát Tình yêu
Thập giá).

Nhìn vào thập giá, ta biết Thiên Chúa đã chứng tình yêu vĩ đại thế nào.

Nhìn vào thập giá, ta biết rõ tình yêu lớn lao vô cùng của Chúa và biết rõ cái
phũ phàng của nhân loại.

Nhìn vào thập giá, ta biết được Thiên Chúa không bỏ rơi con người, mà còn mở
đường và cho ta cơ hội trở về. Vì thế, ta đừng sợ hãi, mà hãy can đảm nhìn lên
Chúa Giêsu, không phải để than phiền, trách móc hay thất vọng, nhưng là hối lỗi
ăn năn, và đừng đóng đinh Chúa lần nữa.

Nhìn vào thập giá, với cánh tay dang rộng, thì biết rằng dù con người có giết
Ngài, Ngài vẫn không khép kín từ tâm, đóng cửa bịt lối, mà tiếp tục dang rộng vòng
tay yêu thương để ôm lấy nhân loại.

Nhìn vào thập giá, ta sẽ cảm nếm được thế nào là ơn tha thứ của Ngài.

Nhìn vào thập giá, lời mời gọi khẩn thiết của Chúa là các con hãy tha thứ cho
nhau. Càng tha thứ nhiều, ta càng cảm nếm được ơn tha thứ của Chúa nhiều.

Nhìn vào thập giá, ta biết rằng chính Ngài là Đấng đổ máu ra vì con người, Đấng
duy nhất có quyền kết án hay tha bổng, chứ không phải do bác ái của con người.

Nhìn vào thập giá con thấy được tình yêu. Nhìn vào thập giá con người thấy được
hồng ân. Chúa từ trời cao, quên mình là Thiên Chúa. xuống nơi dương gian sống
vì tình yêu. Hy sinh thân mình chứng minh Chúa tình yêu. (lời bài hát Tình yêu
Thập giá)

Nhìn vào thập giá, ta biết đường đi lối về của mình trong hành trình tìm kiếm
Tình Yêu.

Nhìn vào thập giá, ta biết được sức mạnh của tình yêu. Đàng sau thập giá là
hình bóng của vinh quang. Muốn có vinh quang phải đi xuyên qua thập giá.

Nhìn vào thập giá, ta thấy bầu trời tình yêu được mở ra cho mọi người chiêm
ngắm và đi vào.

Nhìn vào thập giá, con đường tuyệt vọng biến thành hy vọng, sự chết biến thành
sự sống, thất bại trở nên thành công, khờ dại trở thành khôn ngoan, tương đối
biến thành tuyệt đối, bất hạnh biến thành hạnh phúc, lo sợ trở thành vững tin,
nhút nhát trở thành can đảm, khép kín trở nên cởi mở, ích kỷ thay bằng vị tha,
cố chấp thay bằng bao dung, lười biếng thay bằng hăng say, và sẵn sàng chiến
đấu vì chân lý và sự thật, nhờ sức mạnh của cây thập giá.

Nhìn vào thập giá, ta biết được sức mạnh của sự dữ đã bị bẻ gẫy tan tành.

Nhìn vào thập giá, ta biết trời cũ đất cũ thay bằng trời mới đất mới. Nơi toàn
là ánh sáng vinh quang. Nơi không còn bất cứ áp lực nào có thể đe doạ ta được.
Nơi không còn phải lo miếng cơm manh áo hay nhà cửa, tiền bạc hay nghề nghiệp,
bệnh tật hay chết chóc… Vì mọi thứ tốt lành vĩnh cửu đã được dành sẵn cho ai
bước vào.

Nhìn vào thập giá, ta biết cửa hoả ngục bị đập tung, và cửa thiên đàng đã mở
toang.

Thì này con đây khấn xin khấn xin nơi Ngài. Xin Ngài dủ thương tha thứ muôn tội
khiên, và dìu đưa con vào suối nguồn hồng ân.

Vì thế, nói đến thập giá là nói đến Chúa Giêsu. Nói đến Chúa Giêsu là nói đến
thập giá.

Nếu ta đi tìm một Giêsu không thập giá, ta sẽ gặp toàn thập giá, mà không thấy Giêsu.
nguồn: Maria Thanh Mai gởi

 

 

 

Kiên Nhẫn – Kiên Cường: Cậu Bé Glen Cunningham

Kiên Nhẫn – Kiên Cường: Cậu Bé Glen Cunningham

Br. Huynhquảng

Hôm nay, mục Sống Đẹp xin được nêu tấm gương của cậu bé Glen Cunningham nhằm
giới thiệu chủ đề mới: Kiên Nhẫn – Kiên Cường. Qua bốn chủ đề mà chúng ta đã
cùng nhau học hỏi: Tha Thứ Hòa Giải, Xây Dựng Hiệp Nhất, Sống Hiện Tại, và Đơn
Sơ Chân Thật, thì đây là lúc chúng ta cùng nhau trao đổi về chủ đề Kiên Nhẫn –
Kiên Cường. Vì thực ra, để có thể tha thứ, xây dựng hiệp nhất, sống hiện tại,
sống chân thật, tất cả đều đòi hỏi một sự kiên nhẫn không ngơi nghỉ.

Cậu Bé Glen Cunningham

Khi mới bảy tuổi, đôi chân của Glen Cunningham bị phỏng nặng do một vụ thảm
họa. Theo nhận xét của bác sĩ, cậu bé Glen sẽ không bao giờ đi lại bình thường
được. Các bác sĩ đề nghị cưa chân cậu bé nếu muốn cậu được sống sót. Như thế,
vấn đề bây giờ không còn là chuyện khi nào đôi chân của Glen được bình phục,
nhưng là sự sống của cậu bé. Những ngón chân trái dần dần bị hao mòn đi; chân
phải dần dần ngắn hơn chân trái. Với kinh nghiệm đau đớn trong bản thân và
chứng kiến cơ thể mình tàn lụi dần, Glen quyết tâm với lòng mình là không đầu
hàng với số phận. Hằng ngày cậu tập những động tác theo hướng dẫn của bác sĩ
chỉ nhằm với ý chí rằng: Cần làm những gì cần phải làm trước khi mình không bao
giờ còn cơ hội để làm. Với ý chí tích cực kiên cường ấy, ba năm sau, cậu tự đi
mà không cần dùng nạng. Xa hơn, cậu đã tập chạy và không ngừng chạy khi có thể.
Năm 1938, Glen làm cho cả thế giới kinh ngạc khi phá kỷ lục thế giới với 4 phút
4.4 giây trong đường chạy một dặm.

Ca dạo tục ngữ Việt Nam truyền dạy rằng: “Nước chảy đá mòn; có công mài
sắt có ngày nên kim.” Và đúng là như vậy, Glen Cunningham như mẫu gương để
khơi niềm hy vọng cho chúng ta, dù trong hoàn cảnh nào, nếu chúng ta quyết chí
vươn lên, một ngày nào đó, thành quả sẽ đến với chúng ta. Nhìn vào những người
như Glen Cunningham, phần nào ta tìm thêm nghị lực để tiếp tục tiến tới và tiếp
tục hoàn thiện chính mình, và để tiếp tục đi đến cùng đích của đời mình.

Kiên cường, can đảm (fortitude, fortitudo) là một đức tính rất được đề cao
trong nền triết lý văn minh Hy Lạp. Theo triết gia Aristotle (A-ris-tot),
“Kiên cường là đức tính của những người không tỏ lộ sự sợ hãi khi họ dám
chết cho lý tưởng cao thượng.” Nhưng đức tính (virtue, arete) này cần phải
có quá trình tập luyện bền bỉ. Mẫu gương cho những cái chết cao thượng là những
người chiến sĩ anh dũng hy sinh cho quê hương, cho dân tộc. Nhưng theo triết
gia Plato, kiên cường không chỉ được hiểu là can đảm chết cho những lý tưởng
cao đẹp, nhưng còn là “sự chiến đấu với những khát vọng thú vui.” Tức
là phải chiến đấu với chính con người của mình. Còn theo triết gia Cicero (45
B.C), “Kiên cường không gì khác hơn chính là thái độ tinh thần có khả năng
chịu đựng mọi nguy hiểm dù phải chịu cực nhọc đau đớn, nhưng đồng thời không để
cho sự sợ hãi tiếp cận gần ta.” Tóm lại, sự can đảm kiên cường không chỉ
là hành động anh hùng, nhưng còn là sự kiên nhẫn tập luyện chịu đựng gian khổ
để làm chủ con người mình để dám chết, nếu khi cần, cho lý tưởng cao đẹp, và
dám sống mỗi ngày nhằm nâng cao giá trị con người của mình.

Jean-Jacques Rousseau phát biểu rằng, “Kiên nhẫn thì cay đắng, nhưng trái
của nó lại ngọt ngào.” Và quả đúng như vậy, hạt giống chỉ có thể nảy mầm
khi nó liên tục âm thầm tự lột lớp vỏ của mình ra. Như thế, kiên nhẫn đòi hỏi
sự kiên cường và can đảm. Kiên cường ở đây không chỉ là thực hiện những việc
lớn lao, nhưng quan trọng hơn chính là làm những việc nhỏ bình thường hằng ngày
với ý chí hoàn thiện chính mình. Dù làm những việc nhỏ, nhưng sự kiên trì hành
động từng ngày cũng đủ làm ta phải trả giá cho sự đau đớn, mất mát và từ bỏ
những điều thân thiết.

Thưa bạn, trong bài đầu tiên về chủ đề Kiên Nhẫn – Kiên Cường, tôi mời bạn ví đời
mình như là một người thợ xây. Mỗi ngày chúng ta dù làm việc gì (học hành, rèn
luyện nhân đức, thao luyện, cầu nguyện), chúng ta hãy coi như chúng ta đang đặt
một viên gạch lên bức tường của đời mình. Bức tường ấy có chắc chắn hay không,
có thẳng hàng hay không, có đẹp hay không đều lệ thuộc vào từng viên gạch chúng
ta đặt vào nó. Nếu mỗi một ngày chúng ta chỉ được quyền xây một viên gạch, thì
chúng ta cũng nên cẩn thận và kiên nhẫn cho từng viên gạch ấy. Và cũng nếu hôm
nay mình không thể đặt viên gạch vào bức tường của mình, thì mãi mãi chỗ ấy sẽ
là chỗ trống. Nếu một bức tường có nhiều lỗ hổng, càng xây lên cao, nguy cơ sụp
đổ của nó càng lớn. Và cũng vậy, nếu hôm nay tôi không kiên nhẫn và kiên cường
thi hành phận vụ của tôi, thì lỗ hổng vẫn còn đó, không ai giúp cho tôi được.
Vâng, kiên nhẫn thì cay đắng, nhưng trái của nó lại ngọt ngào!

Khát vọng kiếp người

Khát vọng kiếp người

TRẦM THIÊN THU

 

VRNs (29.11.2012) – Sài Gòn – Đến hẹn lại lên như một chu kỳ tất yếu, Mùa Vọng lại về. Đó là khoảng thời gian thế gian mong đợi Đấng Cứu Thế giáng sinh làm người. Đấng ấy là “Ngôi Lời trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1:14), là Đấng
Thiên Sai mang tôn danh Giêsu Kitô.

Con người như đất khô cằn vì “hạn bà chằn” lâu ngày, thế nên luôn khao khát Cơn-Mưa-Giêsu. Và chỉ có Mưa Giêsu mới khả dĩ làm chúng ta “đã” cơn khát.

Trong kiệt tác “Cung Oán Ngâm Khúc” (chữ Hán: 宮怨吟曲) của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều (1741-1798), câu 103 và 104 có nói tới kiếp người:

Trăm năm nào có gì đâu

Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì

Còn Thiên Chúa nói với mỗi chúng ta: “Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất” (St 3:19). Thân phận phàm nhân chỉ là cát bụi mà thôi. Xét ra chẳng có giá trị gì. Đồ càng cũ càng có giá trị, gọi là đồ cổ; người càng cũ càng bị người ta xa tránh, chẳng ai
muốn quan tâm “người cổ”, thậm chí còn bị chê là lỗi thời và lạc hậu.

Nói vậy nghe chừng bi quan quá. Nhưng không phải thế, người ta cần biết vậy để mà bớt tham-sân-si, để cố gắng ngày càng sống tốt hơn, ích lợi hơn không chỉ cho chính mình mà còn cho tha nhân.

Thân phận quá nhỏ nhoi, con người quá yếu đuối, quá bất túc và bất trác, vì vậy mà người ta càng khát vọng, có những khát vọng vô cùng cháy bỏng, tưởng chừng có thể “chết” đi nếu không đạt được. Ước mơ nhiều mà chẳng được bao nhiêu. Nhưng chính nhờ vậy mà người ta giảm bớt kiêu ngạo, chứ muốn gì được nấy thì người ta sẽ chẳng coi ai ra gì, và chắc hẳn người ta không còn tin vào bất cứ thần linh nào nữa. Cuộc đời không là vườn hồng, bước đời không đi trên thảm lụa, có vậy mới thành nhân.

Càng sống lâu người ta càng thấy mình kém cỏi về đủ mọi lĩnh vực, thế nên người ta phải kêu cầu Thiên Chúa: “Thân phận con khốn khổ nghèo hèn, xin mau đến cùng con, lạy Thiên Chúa! Ngài là Đấng phù trợ, là Đấng giải thoát con, muôn lạy Chúa, xin đừng trì hoãn” (Tv 70:6). Hằng ngày, người ta vẫn không ngừng sáng nguyện, trưa cầu, tối khấn: “Xin dủ lòng thương mau đến giúp, vì chúng con đã khổ quá nhiều” (Tv 79:8).

Có thể có người nghĩ rằng Chúa không nghe hoặc làm ngơ, vì họ cầu xin quá nhiều mà chẳng thấy động tĩnh gì, cũng có thể có người sẽ thối chí nản lòng. Thực ra Chúa biết hết, Ngài muốn chúng ta “đừng lải nhải” (Mt 6:7), mà Ngài tập cho chúng ta đức kiên trì. Thánh Thomas Tiến sĩ nói: Công hiệu của năng lực cầu nguyện là do đức ái, nhưng năng lực để cầu nguyện cho được hiệu  quả vẫn là do đức tin và đức cậy của mình. Thánh Sibyllina giải thích: “Mong đợi, giống như một đồ
đựng, đồ đựng càng lớn thì chứa được càng nhiều, đồ đựng càng nhỏ thì chứa được càng ít. Mong đợi lớn thì được ân điển nhiều, mong đợi nhỏ thì được ân điển ít”
.

Quả thật, khi cầu nguyện mà không thấy động tĩnh gì, không thấy cảm giác gì, đó mới là cách cầu nguyện đẹp lòng Thiên Chúa. Người ta có thể rưng rưng mắt lệ hoặc bật khóc khi cầu nguyện, nhưng có thể đó chỉ là cảm giác nhất thời, vì “bức xúc” cá nhân điều gì đó, chứ chưa hẳn là vì say Men Tình Giêsu.

Cuộc sống có biết bao thứ để chờ đợi, ước mong, hoài vọng, nhưng điều cần là phải biết lắng nghe. Nghe cũng phải có phương pháp, lắng nghe chứ không nghe bình thường, lắng nghe cả những điều trái ý mình chứ không chỉ lắng nghe điều hợp ý mình với cả tấm lòng. Khó lắm! Vả lại, Thiên Chúa chỉ thì thầm với chúng ta khi chúng ta vui mừng, nhưng Ngài nói  to trong lương tâm của chúng ta khi chúng ta giãy giụa trong bể khổ trần ai. Chính lúc chúng ta “đầu hàng vô điều kiện” thì Ngài sẽ kịp thời ra tay: “Đức Chúa là Đấng cầm quyền sinh tử, đẩy xuống âm phủ rồi lại kéo lên” (1 S 2:6).

Lắng nghe mà chưa hiểu thì lắng nghe tiếp, và tâm sự với Chúa: “Xin Ngài lắng nghe con rên rỉ: có ai thèm an ủi con đâu! Mọi kẻ thù con vui mừng hớn hở khi biết chính Ngài gây khổ cực cho con. Ngày Ngài hứa, xin cho mau đến để chúng cùng số phận với con” (Ac 1:21). Mà thật đấy: “Ngài có đó khi con tưởng mình đơn côi, Ngài nghe con khi chẳng ai thèm đáp lại, Ngài thương con khi tất cả đều hững hờ” (Thánh
Augustinô).

Chúng ta thực sự cần Chúa, vì chỉ có Ngài mới là Cứu Cánh: “Lạy Chúa, xin Ngài nhớ đến con bởi lòng thương dân Ngài, xin ngự đến viếng thăm mà ban ơn cứu độ” (Tv 106:4). Có yêu Chúa mới cần Chúa, mong Chúa: “Lạy Chúa, con kêu lên cùng Chúa, xin Ngài mau đến phù trợ con. Xin lắng nghe lời con, khi con kêu lên Ngài” (Tv
141:1). Khoảng mong chờ nào cũng là khoảng thời gian dài nhất, dù chỉ phải chờ
5 phút cũng thấy thời gian sao quá lâu!

Chờ mong, nhưng có thành khẩn? Nếu thật lòng mong chờ thì Thiên Chúa không nỡ để chúng ta phải chờ lâu, vì Đấng làm chứng về những điều đó phán: “Phải, chẳng bao lâu nữa Ta sẽ đến” (Kh 22:20a). Chắc chắn như vậy, nhưng bổn phận của mỗi chúng ta vẫn phải cầu nguyện liên lỉ: “Amen, lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến” (Kh 22:20b).

Mùa Vọng cứ đến rồi qua, càng lớn tuổi càng trải qua nhiều Mùa Vọng, nhưng vấn đề không phải sống qua nhiều  mùa Vọng mà là còn “đọng” lại chút gì ý nghĩa thánh đức hay không. Đó mới là điều Chúa muốn!

Chúa Giêsu đã đến thế gian lần thứ nhất để trao ban Ơn Cứu Độ cho nhân loại. Đó là “lần đầu”. Ngài sẽ đến thế gian lần thứ hai để hoàn tất công cuộc cứu độ, gọi là Tận Thế hoặc Cánh Chung. Đó là “lần cuối”. Nhưng còn một lần Ngài đến riêng với từng người: Lúc chúng ta chết. Đó là “lần giữa”.

Lần nào cũng quan trọng, nhưng “lần giữa” là lần tối quan trọng với từng người, vì chúng ta không được chứng kiến Chúa Giêsu đến “lần đầu” trong nghèo hèn và đau khổ, và không biết chúng ta có diễm phúc chứng kiến Ngài đến “lần cuối” trong vinh quang hay không, nhưng chắc chắn chúng ta sẽ chứng kiến Ngài đến “lần giữa”.

Lạy Chúa, xin đổ xuống Sương-Giêsu và Mưa-Giêsu để giải khát chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

Mùa Vọng – 2012

ĐGM JEAN CASSAIGNE, Vị Tông Đồ Phong Cùi

ĐGM JEAN CASSAIGNE, Vị Tông Đồ Phong Cùi

Tác giả: Trầm Thiên Thu

Nguồn: Thanhlinh.net

Nhớ ĐGM JEAN CASSAIGNE, Vị Tông Đồ Phong Cùi

Hồi còn thiếu niên, tôi thường đọc báo Trái Tim Đức Mẹ và báo Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp. Có lần đọc bài viết về Đức cha Jean Cassaigne (thường gọi Cha Sanh), tôi đã thực sự ấn tượng. Cũng hồi đó, một lần đến nhà thờ Fatima Bình Triệu, tôi thấy có tượng ngài đứng với một bệnh nhân cùi ngồi bên chân ngài, tôi càng ấn tượng về ngài. Nhưng ngày nay không còn thấy bức tượng đó nữa.

Theo yêu cầu của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam về “tập kỷ yếu Năm Linh Mục”, Giáo Phận Đàlạt hoàn toàn nhất trí chọn Đức cha Cassaigne là chứng tá sống động về mầu nhiệm Giáo Hội “yêu thương và phục vụ”. Đây là những chứng từ sống độngvà rất gần gũi để giới thiệu về ông Tổ của công cuộc truyền giáo cho anh chị em Kơho Lâm Đồng và là Vị Sáng lập Trại Phong Di linh từ năm 1929.

NGƯỜI GIEO GIỐNG TỐT

Trong bản tường trình năm 1920, Đức Cha Victor Quinton Giám Mục Giáo phận Sàigòn đã nói đến ý định truyền giáo cho người Dân Tộc trên cao nguyên Djiring – Langbiang. Nhưng công cuộc truyền giáo này chỉ thực sự bắt đầu khi Đức Cha Dumortier đặt Cha Jean Cassaigne (tên Việt nam là Sanh), một linh mục thuộc Hội Thừa Sai Balê đến Di Linh năm 1927. Đức Cha Dumortier viết trong bản tường trình năm 1927 như sau:

“Chúa Quan Phòng đã sắp đặt cho tôi một vị tông đồ như ý để khởi sự công cuộc truyền giáo cho người Dân Tộc. Tôi thấy Cha Cassaigne được chuẩn bị tốt để chịu được gian khổ thiếu thốn. Vừa khi biết chương trình truyền giáo của tôi, Cha Cassaigne đã tình nguyện và bầy tỏ niềm vui khôn tả khi nghe tôi công bố việc bổ nhiệm Ngài vào công cuộc này“.

Thứ tư ngày 20-10-1926, Cha Cassaigne lên đường đến thí điểm truyền giáo Di Linh. Ngài đi từ Sàigòn đến Phan Thiết, rồi từ Ma Lâm lên Cao nguyên Di Linh. Nhưng gặp mưa bão càn quét vùng cao nguyên làm con đường từ Ma Lâm lên Di Linh hư hại nặng cho nên Ngài phải trở về Sàigòn.

Cho đến ngày 24-01-1927, Cha Cassaigne mới có thể từ Đàlạt chính thức đến nhận thí điểm truyền giáo Di Linh. Toà Giám Mục Sàigòn đã chuẩn bị cho Ngài một căn nhà mua lại của ông Ngô Châu Liên để làm cơ sở lập thí điểm truyền giáo.

Ngay trong buổi chiều đầu tiên đến vùng đất Di Linh, Cha Cassaigne đã nhìn thấy những người Dân Tộc lặng lẽ nghi ngại đi ngang qua nhà Ngài. Ngài đã nhìn thấy những anh chị em Dân Tộc được trao phó cho Ngài, cả một cánh đồng truyền giáo rộng lớn đang chờ đợi Ngài. Để có thể gặp gỡ những người Dân Tộc rụt rè nhút nhát trước những người xa lạ, Cha Cassaigne khởi sự bằng cách học nói tiếng của họ, một ngôn ngữ quá mới mẻ và không có chữ viết. Cha Cassaigne đã phải mầy mò ký tự từng chữ trong ngôn ngữ của họ. Công việc này đã cuốn hút vị Thừa Sai trẻ đầy nhiệt huyết. Vì thế, vào tháng 12-1929 Cha Cassaigne đã xuất bản tự điển Pháp – Kơho – Việt, đây là cuốn tự điển đầu tiên hình thành chữ viết cho ngôn ngữ Kơho, một công trình rất đáng trân trọng vì góp phần giữ gìn bản sắc dân tộc và phát triển cho người dân tộc Kơho.

Tháng 12-1937 Cha Cassaigne xuất bản cuốn: PHONG TỤC TẬP QUÁN người Dân Tộc Kơho, đây cũng là một công trình đầu tiên nghiên cứu về người Kơho, một công trình giúp cho Cha Cassaigne có thể hiểu và gặp gỡ được với những người Dân Tộc và từ đó nói về Chúa cho họ. Năm 1938 Cha cho xuất bản tập Giáo lý cho người Kơho.

Chính nhờ việc hiểu được ngôn ngữ và phong tục tập quán Kơho, Cha Cassaigne đã thực sự trở thành người khai phá, trở thành ÔNG TỔ CỦA CÔNG CUỘC TRUYỀN GIÁO cho người Dân Tộc, và Cha đã thành công trong việc  đem Ơn Cứu Độ đến cho rất nhiều người Dân Tộc thuộc các buôn làng trong miền Cao Nguyên Di Linh – Langbiang.

Hoa trái của công cuộc truyền giáo là vào chiều ngày áp lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm, 07.12.1927, Cha Cassaigne đã rửa tội cho bà Ka Trut, một bệnh nhân phong cùi thường xuyên nhận sự giúp đỡ của cha. Bà Maria Ka Trut qua đời ngày 20-12-1927 và được an táng ngày 22-12-1927 tại nghĩa trang của người Dân Tộc Di Linh.

Tin Mừng của Chúa đã được người Dân Tộc đón nhận vì họ cảm nghiệm được tình yêu Chúa qua những hành vi bác ái yêu thương của Cha cassaigne. Họ đã thực sự nhận ra Cha Cassaigne yêu thương họ qua việc Ngài yêu thương đón nhận và nuôi dưỡng những anh chị em phong cùi của họ, những con người bất hạnh vì gia đình và buôn làng sợ hãi bị lây nhiễm đã xua đuổi họ vào trong những khu rừng vắng để họ chết dần chết mòn trong nỗi đau thể xác và tinh thần.

Ngày 17-2-1929, Cha Cassaigne đã quy tụ những người bệnh nhân phong cùi và thành lập Trại Cùi Di Linh. Ngài đã xây dựng làng Cùi thành một gia đình ấm cúng che chở những bệnh nhân phong cùi bất hạnh để cho cuộc đời của họ được yên ủi sớm tối có nhau.

Nhưng cuộc sống của cha Cassaigne sắp thay đổi một cách bất ngờ. Ngày 20-2-1941, ngài nhận được một bức điện tín khiến ngài buồn bã. Thật là bất thường khi nhìn thấy ngài trong trạng thái này, đến nỗi người ta phải dò hỏi ngài. “Họ đã tấn công dồn dập bắt tôi làm Giám Mục”, ngài càu nhàu trả lời. Quả thật, Đức Giám Mục Sài-gòn vừa qua đời năm vừa rồi  và Tòa Thánh trong thời kỳ khó khăn này, tìm một người để kế vị và đã chọn vị Linh Mục của người phong cùi. Vị Thừa Sai phải rời bỏ Di Linh. Sự chia ly rất đau lòng cho cả hai phía: anh em Thượng và nhất là những bệnh nhân phong cùi mất người cha của họ; vị Linh Mục phải xa con cái ngài. Dù vậy vị Thừa Sai
không do dự khi vâng lời Tòa Thánh với đức tin và can trường: “Tôi là kẻ từng mơ thành một Thừa Sai tầm thường. Tôi, kẻ đã coi sự nghèo khó của mình là niềm hãnh diện và niềm vui, lại trở thành một hoàng tử của Giáo Hội. Nhưng, dù người ta sẽ thay y phục và chỗ ở của tôi, song chẳng ai thay được con người chất phác nơi tôi”. Những lời lẽ thật khiêm nhường. Khẩu hiệu Giám mục là “Bác Ái và Yêu Thương” đã nói lên điều đó.

Ngày 24-6-1941, ngay từ 7 giờ sáng, chuông các Nhà Thờ Sàigòn đồng loạt đổ vang, báo tin lễ tấn phong Đức Cha Cassaigne. Nghi lễ diễn ra ở Nhà Thờ Chính Tòa. Đám đông ken dày, có những bạn bè đến từ khắp nơi… và những anh em Thượng đi thành đoàn đại diện. Các anh em Thượng bận y phục ngày lễ; họ làm khách tham dự thấy vui thích, mặc dù nhiều người An Nam tỏ ra khó chịu trước cảnh tượng ấy. Nghi lễ Phụng Vụ dài, quá dài đối với anh em Thượng.

Họ liền rời chỗ để đi tham quan tháp chuông. Khi ra khỏi Nhà Thờ Chính Tòa và
bị đám đông xô lấn khiến họ hoảng sợ, họ liền trèo lên cây cao để nhìn đám
rước. Đức Cha Cassaigne mỉm cười khi nhìn thấy họ.

Tân Giám Mục bắt tay vào công việc. Đó là một con người đơn sơ. Lối vào Tòa Giám Mục rộng mở tự do và bất cứ ai cũng có thể gõ cửa văn phòng của ngài. Các nhân chứng ngày nay vẫn còn nhớ lại đã thấy ngài đi xe đạp hoặc xe Vespa thăm các khu nghèo ở Sàigòn. Ngài dong duổi khắp địa phận rộng lớn của Ngài.

Ngày 19-12-1954, vào dịp kỷ niệm thụ phong Linh Mục của Ngài, Đức Cha Cassaigne dâng Thánh Lễ Tạ Ơn. Nhưng trong khi cử hành Thánh Lễ, ngài thấy trên mặt da mình, chỗ phía trên cổ tay một chút, có một vết đỏ hồng màu rượu. Khi Thánh Lễ kết thúc, ngài lấy một cái kim châm vào chỗ ấy: hoàn toàn không cảm thấy đau ! Ngài hiểu đó là BỆNH CÙI. “Linh Mục dâng hiến tế Thánh Thể, cũng phải trở thành hy vật”, sau này ngài sẽ viết như thế. Công việc vất vả sáu tháng vừa qua đã làm cho các bộ phận cơ thể Ngài vốn mệt mỏi, lại bị suy yếu, đến nỗi bệnh cùi nằm phục từ lâu, nay phát tác.

Đức Cha Cassaigne giữ bí mật tin này, chỉ cho các bề trên của ngài biết. Thuốc điều trị do các bác sĩ cho, đã làm Ngài suy kiệt. Sẽ phải mau chấm dứt thôi ! Vết hồng lan rộng gấp đôi. Ngày 5-3-1955, Ngài viết cho cha bề trên Hội Thừa Sai Paris: “Tôi xin Cha cho phép tôi nộp đơn từ chức sang Tòa Thánh và rút lui về Trại Phong Di Linh, bên cạnh những con cái mà tôi yêu thương nhất và Chúa quyền uy, với lòng nhân ái vô biên, đã cho tôi được nên giống như họ“.

Lời cầu xin của ngài được chấp thuận và Tòa Thánh bổ nhiệm một Giám Mục kế vị Ngài, Đức Cha Simon-Hòa Nguyễn Văn Hiền, được tấn phong trong Nhà Thờ Chính Tòa của ngài ngày 30-11-1955. Ngày 02-12-1955, Đức Cha Cassaigne trở về Di Linh.

Từ đây, Đức Cha dành trọn cuộc đời còn lại để sống giữa những người con cái để âm thầm yêu thương và phục vụ Trại Phong Di Linh. Tháng 2-1973 Đức Cha bị té gẫy xương bên đùi phải, và chính vì vết thương này mà Ngài phải trải qua gần 8 tháng liệt giường. Bên giường bệnh, Đức Cha nói với người nữ tu chăm sóc Ngài và một số bệnh nhân thay phiên trực: “Suốt 47 năm dài (1926-1973), cha đã sống giữa các con, đã sống tại Việt Nam này và đã dâng hiến tất cả cho các con. Giờ đây cha không còn tiếc gì về sự dâng hiến toàn diện ấy. Việt Nam chính là quê hương thứ hai của cha, bởi vì Chúa muốn như vậy. Khi về với Chúa, cha vẫn ở với các con, các con đừng lo…”.

Thứ bảy ngày 20-10-1973, Đức Cha bắt đầu trở bệnh nặng với những cơn đau khiến phải phải thốt lên: “Tôi đau đớn lắm, tôi đau đớn quá”. Mười ngày trôi qua, vào lúc 10 giờ đêm ngày 30-10-1973, Đức Cha lãnh nhận bí tích Xức dầu lần cuối do cha sở họ Di Linh và rạng sáng hôm sau Đức Cha đã được Chúa gọi về hồi 01 giờ 25. Đức Cha được an táng bên nhà nguyện Trại Phong ngày 05-11-1973.

NẢY MẦM ĐỨC TIN

Cha Phanxicô Darricau, một linh mục thuộc Hội Thừa Sai Paris, đã viết về sự kiện Đức Cha Cassaigne trở lại làng cùi Di Linh như sau: “Ngài đã về và đã được đón tiếp trọng hậu, tôn kính. Nhưng nhà chưa xây ngay được nên ngài đã đến ở chung với tôi tại Ka-la, cách trại phung hai cây số. Nhà xứ của tôi nhỏ, không cung cấp nổi cho ngài một căn phòng riêng. Ngài cũng không muốn lấy phòng của một đồng nghiệp. Chúng tôi lấy tấm màn ngăn phòng ăn làm đôi, một bên là giường nhỏ của ngài, một bên là cái bàn ăn. Suốt trong 6 tháng, chúng tôi có niềm vui được sống chung với nhau. Sau đó ngài tới sống tại căn nhà dành riêng cho ngài ở trại cùi. Nhưng trưa nào ngài cũng về Ka-la dùng bữa với tôi, khẩu phần có khá hơn trong trại. Bao nhiêu sức lực còn lại ngài dành để phục vụ trại phong. Sức ngài giảm nhiều so với trước kia, do những đau đớn của căn bệnh…”.

Cha Christian Grison, người quản nhiệm cuối cùng của  Trung tâm Thượng Di-linh (từ 1965 đến 1975), người đã gần gũi với Đức Cha Cassaigne trong mười năm cuối cùng của ngài tại làng cùi Di-linh, đã viết về Vị Tông đồ người phong cùi như sau: “Tôi được phúc sống mười năm gần Đức Cha Cassaigne, vì thời gian đó tôi phụ trách xứ đạo thượng tại Di-linh. Tôi đã chứng kiến tình cảm ưu ái mà ngài khơi dậy khi ngài trở nên nhỏ bé với những kẻ nhỏ bé, trở nên phong cùi với những người phong cùi. Sự mến phục người ta dành cho ngài đó, không bao giờ ngài sử dụng vì lợi ích riêng của mình; tất cả được hướng về sự cứu trợ cho người phong cùi. Mối quan tâm duy nhất của ngài, tôi có thể nói là nổi ám ảnh đối với ngài cho đến khi ngài chết, đó là tìm nguồn tài trợ cho làng cùi.

Ngày 26-7-2007, bà Maria Nguyễn Thị Lệ, sinh năm 1938 tại Bắc Ninh đã đến viếng mộ Đức Cha và để lại chứng từ: “Tôi sinh sống tại khu phố III (ấp Tân Xuân) thị trấn Di Linh từ năm 1975 đến 1983. tôi bị bệnh thấp khớp và đặc biệt là bị đau buốt dây thần kinh tọa. Một bác sĩ cho biết bệnh tôi rất khó chữa, nhưng tôi cũng kiên trì chịu đựng và chỉ uống một số thuốc đau nhức thông thường nên chỉ giảm đau chốc lát, vì nghèo không có tiền đi bệnh viện. Năm 1983 tôi bị những cơn đau dữ dội, lết đi không nổi, đau đớn đến độ chán nản thất vọng vì bệnh tật, đau khổ vì hoàn cảnh nghèo khổ cơ cực, bữa no bữa đói… dầu vậy, tôi không bỏ Chúa, cố gắng bước đi chậm chạp, đau buốt với một bàn chân bị sưng tấy nặng nề.

Khoảng tháng 6/1983, sau giờ chầu Thánh Thể ban chiều, tôi đến trước tượng Đức Cha Cassaigne ở cuối nhà thờ vừa khóc vừa than vì sự đau đớn, nghèo nàn của mình và tôi thưa với Đức Cha: Cha ơi, thương con, kẻo con chết vì con đau đớn quá, con nghèo khổ chẳng có tiền chữa bệnh, con chỉ muốn chết cho yên, con xin Đức Cha cầu xin Chúa và Đức Mẹ cất bệnh đau đớn cho con, nếu đẹp lòng Chúa và Đức Mẹ; còn nếu không, thì xin Đức Cha thêm sức cho con để con chịu dựng cơn bệnh này cho nên. Từ từ, ngày qua ngày, con cảm thấy sự đau buốt giảm dần, và sau một thời gian con khỏi bệnh hẳn, đi đứng bình thường. Cuối năm 1983 con bỏ Di Linh về Đắc Nông với gia đình người con để làm ăn, cho đến nay là 24 năm con lành bệnh. Con xin tạ ơn Chúa tạ ơn Đức Cha Cassaigne. Con, Maria Nguyễn Thị Lệ”.

Một chứng từ khác do bác sĩ K’Đỉu chia sẻ bên phần một Đức Cha Cassaigne trong đêm canh thức dịp lễ Giỗ năm 2007:

“Dân gian thường nói: Không có mợ, chợ cũng đông! Nhưng với Trại Phong chúng con nói chung và bản thân con nói riêng, trải qua kinh nghiệm của cuộc sống, con đã nhận ra rằng: nếu không có sự hiện diện của Đức Cha Jean Cassaigne thì có lẽ không có Trại Phong Di Linh và chắc chắn cũng không có con trên cuộc đời này. Nhưng nhờ tình yêu thương của Đức Cha đã giúp ba mẹ con can đảm sống với căn bệnh đáng sợ mà còn được hạnh phúc vì được làm con Chúa.

Khi Đức Cha ra đi về với Chúa, thì con mới được 5 tuổi,  với thời gian đó và tuổi thơ, con chưa biết Đức Cha được bao nhiêu. Nhưng càng ngày qua các biến cố của cuộc đời, con đã nhận ra từng bước bàn tay yêu thương quan phòng của Chúa dìu dắt chúng con, như lời Đức Cha đã hứa: Trên thiên đàng, cha sẽ biết được nhiều, biết rõ hơn về nhu cầu của chúng con; cha sẽ cầu nguyện đắc lực và nhiều hơn gấp bội cho chúng con.

Với ngọn đèn rực sáng đức tin và tình bác ái mà Đức Cha đã thắp sáng bằng sự dâng hiến tất cả cho Chúa và cho chúng con, và với lời cầu bầu của Đức Cha bên cạnh Chúa mà con đã nhận được biết bao hồng ân trong cuộc sống: được dạy dỗ nuôi nấng, được yêu thương chăm sóc, và được học hành như bao người khác, có thể nói còn hơn nhiều người khác nữa. Nhờ tình thương và hồng ân của Đức Cha, nhờ những người đã tiếp nối vòng tay yêu thương của Đức Cha và nhờ những ân nhân xa gần mà ngày hôm nay, có thể nói được, là con đã thành đạt trong cuộc sống, có chỗ đứng trong xã hội: con đã là bác sĩ chuyên khoa ngoại, điều vượt ra ngoài mơ ước của con.

Đây là cảm nghiệm của riêng con, xin được chia sẻ như một chứng từ về tình yêu thương mà Đức Cha cố dành cho chúng con”.

TRẦM THIÊN THU

(Tổng hợp)