CẢM TẠ CHÚA MẸ MARIA CÙNG MỌI NGƯỜI

CẢM TẠ CHÚA MẸ MARIA CÙNG MỌI NGƯỜI

(NGÀY LỄ TẠ ƠN)

Tác giả: Tuyết Mai

Lậy Thiên Chúa vô cùng toàn năng và là Vua Tình Yêu của cả vũ trụ! Chúng con cảm tạ Người từ hơi thở Chúa ban cho chúng con rất nhưng không.   Mọi tác tạo của Chúa thật kiệt tác, thật kỳ công, kỳ diệu, và quá bao la bát ngát.   Không tạo vật gì Chúa làm ra mà không có ý nghĩa, không liên quan đến nhau, và không có lý do.   Không loài nào Chúa làm ra là vô dụng bao giờ, chỉ vô dụng dưới mắt thịt của con người mà thôi! Vì sự hiểu biết của chúng con thật có giới hạn.   Nhưng Chúa yêu thương loài người của chúng con nhất hết cả và
chỉ có loài người là Chúa ban cho có sự sống muôn đời.   Sau sự sống đời này lại được tiếp tục sống ở mãi mãi ở đời sau trên Thiên Đàng.   Được sống vui hưởng mọi phúc vinh với Thiên Chúa.

Cho nên lời cảm tạ của hết thảy chúng con trên trần gian có cộng lại, chẳng làm cho Chúa thêm bổ béo hay có lợi ích gì cho Chúa đâu! Vì …. “biết lấy gì cảm mến? Biết lấy chi báo đền? Hồng Ân Chúa cao vời, Chúa đã làm cho con”.   Ôi thưa lậy Chúa, chẳng những
Chúa hiểu thấu suốt lòng dạ của chúng con là giống con người sống vô ơn, vô cảm, và bội nghĩa cùng Chúa, nhưng chúng con cũng hiểu rằng Chúa rất buồn trong bụng khi chúng con sống cách dửng dưng, thờ ơ, và xa lánh Người.   Ruồng rẫy, ngó lơ, coi Chúa như Người xa lạ!?.

Sao chúng con hiểu được Chúa cũng buồn biết mấy? Vì có phải chúng con cũng đang làm bậc cha mẹ đây không? Nên rất hiểu Yêu là như thế nào và Đau Đớn khi bị con cái chúng bỏ rơi, ra sao?.   Khi con cái chúng có những đam mê, thú vui riêng mà quên rằng cha mẹ chúng cũng thỉnh thoảng rất cần sự có mặt, quan tâm, và sự lo lắng của chúng biết chừng nào, nhất là trong Ngày Lễ Tạ Ơn “Thanks Giving” sắp đến đây!.

Để nhớ và để tỏ lòng tri ân, con và gia đình con xin dâng lên Thiên Chúa tất cả tấm lòng thành, chúc Chúa và Đức Mẹ Maria, được vui vẻ trong những lời cảm tạ mà hết thảy anh chị em chúng con dâng lên Chúa Mẹ là những đóa hoa có từng vị thơm riêng biệt, bát ngát bay tỏa trên Tòa Cao Thiên Chúa trên Trời.   Dù chúng con biết rằng Chúa chẳng thích nhận quà cáp, những gì rất bề ngoài, và Chúa càng ghét sự mầu mè rất tẻ nhạt có tính cách khoe khoang, phải không thưa Chúa?.   Chúng con rất mong Chúa nhận tấm lòng thành của chúng con, cùng những khiếm khuyết, và bất toàn trong chúng con.

Nhân ngày Lễ Tạ Ơn (Thanks Giving) tôi cùng gia đình, chúc tất cả anh chị em trong Chúa Kitô, một ngày lễ Thanks Giving vui vẻ và tràn đầy hạnh phúc bên gia đình cùng người thân thương, được xum họp quây quần bên bàn tiệc Chúa ban cho thật ấm cúng!.   Cũng
đừng quên chia sẻ, trải lòng cùng anh chị em không nhà không cửa, không người
thân thương đang sống những ngày giá lạnh với cái lạnh rất cay nghiệt của những
ngày tháng lạnh buốt của đông về.

Chúng ta cũng đừng quên tất cả anh chị em trong Luyện Ngục cũng đang rất cần được chúng ta chia sẻ, xin Lễ, và cần được cầu nguyện.   Họ có thể là ông bà, cha mẹ, người họ hàng thân thuộc, bằng hữu, và tất cả Linh Hồn mồ côi đang cô đơn và rất sầu khổ.   Xin được cảm ơn, cảm ơn tất cả mọi người từ thân quen cho đến người xa lạ!.   Sự có mặt của tôi cùng tất cả anh chị em trên trái đất này không phải là sự ngẫu nhiên hay là tình cờ nhưng là sự liên kết và liên đới với nhau trong Ân Nghĩa Chúa.   Để cùng nhau đóng góp chung cho
việc Cứu Rỗi Linh  Hồn của nhau.   Vì có phải đó là điều mà hết thảy con người nhân loại rất khao khát để dẫn dắt nhau về Nhà Cha trên Trời??.   Amen.

— HAPPY THANKS GIVING TO ALL!

** Xin bấm vào mã số dưới đây để hát theo:

http://www.youtube.com/watch?v=yjSIi3BM9zM

(Lễ Tạ Ơn)

http://www.youtube.com/watch?v=JKw5ghUWCWo

(Tạ Ơn Thiên Chúa)

Y Tá của Chúa,

Tuyết Mai

(11-20-12)

TÂM TÌNH BIẾT ƠN

 

TÂM TÌNH BIẾT ƠN

Cám ơn Người luôn nhớ đến con

Cho con biến đổi từ thân xác

Cho con niềm trung trinh tín thác

Dù biết tình con đã nhạt nhòa.

Cám ơn Người vẫn chưa quên

Một gã phong cùi mất tuổi tên

Mất luôn tất cả tình xưa cũ

Đời con phiêu bạt sống bên đường.

* * * * *

ten-lepersBạn thân mến! Hơn hai ngàn năm trước đây, tôi đã sinh ra và lớn lên trong vùng Samari bên miền đất Do Thái ngày nay.  Từ ngày khôn lớn, vì cuộc sống lam lũ nghèo đói, tôi đã phải bôn ba vất vả hàng ngày để kiếm sống, và cũng từ ngày đó, tôi đã mang trong người căn bệnh hiểm nghèo: bịnh phong cùi.  Ngày tháng trôi qua, căn bệnh không có thuốc chữa này đã lấy đi những ngón tay ngón chân của tôi, nó cũng làm cho khuôn mặt của tôi biến đổi thành dị hợm khó coi.

Vào thời đó, luật lệ và quan niệm của con người cho rằng người mắc bệnh phong là
người tội lỗi, là hiện thân của hình phạt mà Thiên Chúa đã giáng xuống. Người mắc bệnh phong cũng bị thân nhân và người đời ruồng bỏ, bị gạt ra khỏi cộng đoàn xã hội.  Hàng rào ngăn cách bởi luật lệ ngăn cấm tôi không được tiếp
xúc với những người không mắc bệnh.  Chính vì điều này mà những người mắc
bệnh phong như tôi đã phải liên kết với nhau để nâng đỡ nhau, sống quây quần
bên nhau làm thành một xã hội của những người phong cùi.

Một ngày kia, tôi nhìn thấy Giêsu trên đường đi. Tôi đã nghe người ta nói nhiều về Giêsu, về quyền năng mà Giêsu đã chữa lành cho các bệnh nhân, về tình yêu thương an ủi nâng đỡ mà Giêsu đã trao ban cho nhiều người, đặc biệt là những người nghèo khó và cùng khốn như tôi. Khi nhìn thấy Giêsu trên đường đi, nỗi vui mừng đã tràn ngập lòng tôi, với niềm
tin tưởng dâng cao, tôi tự nhủ:

– Phen này chắn hẳn tôi sẽ được cứu, sẽ được chữa lành !!!

Nhưng luật lệ đã ngăn cấm không cho phép tôi đến gần Giêsu.  Biết làm sao đây?  Tôi cùng
với những người bạn cùi, chúng tôi phải đứng xa xa và mạnh dạn cất tiếng kêu xin lòng thương xót của Giêsu:

– Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương xót chúng tôi (Lc.17:13)

Giêsu đã vượt qua luật lệ, Ngài đã phá tan bức tường ngăn cách kỳ thị, Giêsu đã đến đứng bên cạnh tôi.  Trước mặt tôi là một Giêsu với gương mặt phúc hậu, với đôi mắt rưng
rưng ngấn lệ …Giêsu giơ tay đụng đến thân xác tàn tạ bệnh hoạn của mỗi người
chúng tôi.  Cuối cùng Ngài lên tiếng nói :

– “Hãy đi trìnhdiện với các Tư Tế” (Lc.17:14)

Tôi giơ bàn tay lên cao để nhìn.  Bàn tay vẫn như cũ, ngón tay vẫn còn bị mất, vết thương lở lói với máu mủ vẫn còn nguyên vẹn.  Căn bệnh vẫn còn đó trên thân xác này, thế
mà Giêsu lại bảo tôi đi trình diện với các tư tế để được khám xét, để được chứng thực là đã sạch bệnh.  Lạ quá nhỉ?  Tôi hoang mang phân vân không biết phải làm gì. Chẳng lẽ tôi không được Giêsu chữa lành hay sao?  Ngài không nghe tiếng tôi van xin; không dủ lòng thương xót cho con người cùng khốn của tôi hay sao?  Nhưng với niềm tin tưởng phó thác nhỏ bé trong tôi, tôi bước đi và làm theo lời Ngài chỉ dạy.  Nhưng lạ thay, trên đường đi
đến trình diện các tư tế, tất cả mười người chúng tôi đều được khỏi bệnh.  Niềm vui mừng hân hoan trào dâng trong lòng tôi. Giêsu đã nghe tiếng tôi nài xin.  Ngài đã dủ lòng thương tôi, đã chữa lành cho tôi. Giờ đây tôi mới hiểu ra là Ngài muốn có sự cộng tác của tôi để việc cứu chữa mà Ngài thực hiện nơi tôi trở nên trọn vẹn hơn, hoàn hảo hơn và nhiều ý nghĩa hơn… Giêsu ơi! Tình thương của Ngài sao quá bao la!!!

Trước khi gặp Giêsu, tôi là một gã phong cùi bị xã hội và con người coi là phường tội lỗi, bị thân nhân và người đời xa lánh ruồng bỏ, phải sống lang thang vất vưởng đầu đường xó chợ.
Sau khi gặp Giêsu, tôi được chữa lành và được biến đổi thành một con người mới, được hòa nhập vào cộng đoàn xã hội, không còn bị khinh chê, bị thân nhân và người đời ruồng bỏ nữa. Giêsu đã cải hóa con người tôi, Ngài đã làm tất cả những điều này vì yêu thương tôi.  Lòng biết ơn đã thôi thúc tôi quay về với Đấng đã cứu chữa tôi.  Tôi phải trở về gặp Ngài, xấp mình dưới chân Ngài để nói lời tạ ơn, để thấy mình được bao bọc bởi tình yêu thương, và cũng để làm mọi sự để đáp lại tình yêu đó.

Gặp lại Giêsu, Ngài trao cho tôi ánh mắt yêu thương trìu mến.  Ngài ân cần nhỏ nhẹ lên tiếng nói với tôi:

-“Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?” (Lc.17:17-18)

Chín người kia đâu?  Họ đi đâu rồi?  Họ là những người Do Thái mà!  Họ là người “trong
đạo” và là người dân được Thiên Chúa tuyển chọn.  Ấy vậy mà họ không nhìn ra quyền năng Thiên Chúa đã làm trên cuộc sống và thân xác của họ hay sao?

Chín người kia đâu?  Họ đã cùng tôi đi chung một đoạn đường dài trong những năm tháng
đắng cay cuộc đời, họ đã cùng tôi chia sẻ tấm áo miếng cơm trong cuộc sống đầu đường xó chợ, và mới vài giờ trước đây, họ đã đi chung một con đường với tôi để đến trình diện các tư tế.   Nay được khỏi bệnh, có lẽ họ không còn tiếp tục sống chung với tôi, chia sẻ vui buồn sướng khổ với tôi như trước nữa.  Họ tách riêng ra và không thể cùng tôi đi chung một con đường.  Họ đã bị ngăn cản bởi hàng rào ngăn cách của kỳ thị “trong đạo-ngoại đạo” gây
ra. Họ được giải thoát khỏi bệnh tật nhưng họ lại bị nô lệ vào luật lệ và quan niệm khắt khe của người đời.

Chín người kia đâu?  Tôi không biết giờ này họ ở đâu, nhưng tôi biết chắc chắn một điều
là họ đã được khỏi bệnh như tôi, và họ đã quên người đã làm cho họ khỏi bệnh.  Chắc hẳn họ đã có lòng tin nên được khỏi bệnh, nhưng họ lại thiếu lòng biết ơn cần thiết của một con người.  Họ đã khỏi bệnh phần xác nhưng căn bệnh hiểm nghèo trong tâm hồn của họ vẫn còn cần được cứu chữa.

Trong sự kính trọng và vâng phục, tôi xấp mình dưới chân Giêsu để nói lên tâm tình tạ ơn.  Ngay lúc đó, Giêsu đã cúi xuống và nâng tôi lên. Ngài nói nhỏ vào tai tôi:

– “Ðứng dậy về đi ! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh”. (Lc.17:19)

Tôi đứng dậy bước đi nhưng lòng còn mang nặng ơn nghĩa với Giêsu. Chân tôi bước đi nhưng lòng trí và ánh mắt của tôi cứ hướng về Giêsu. Tiếng Ngài cứ vang vọng trong tâm trí của tôi “ về đi…về đi ”. Ngài muốn tôi về với cuộc sống bình thường ngày xưa, về với gia đình làng xóm, về với cộng đoàn xã hội… “ về đi ” để làm chứng cho Ngài, để nói về Ngài cho những người xung quanh tôi, để rao truyền Tin Mừng và ân sủng mà Ngài đã trao ban cho tôi hôm nay. Tôi vừa bước đi vừa nói với Ngài trong thinh lặng: ”Vâng lời Ngài, con đi về…Nhưng Giêsu ơi! xin ở cùng con luôn mãi…”

* * * * *

Lạy Chúa! Xin cho con luôn ý thức để nhận ra những hồng ân mà Chúa đã ban cho con từng giây từng phút, để con cũng biết dâng lời cảm tạ từng phút từng giây.  Xin cho con  biết cảm nhận tình thương, sự hy sinh và cử chỉ yêu thương của những người chung quanh, để con biết đáp trả bằng chính tình yêu chân thành và sự hy sinh của con.  Xin cho con luôn sống tâm tình biết ơn; biết ơn Chúa và biết ơn người, để cuộc đời con luôn là một bài trường ca tri ân cảm mến.  Amen.

( Linh Xuân Thôn)

Anh chị Thụ & Mai  và langthangchieutim gởi

Kinh tin kính của Thánh Athanasia (*)

Kinh tin kính của Thánh Athanasia (*)
TRẦM THIÊN THU

Những ai được cứu độ, trước hết phải giữ đức tin Công giáo. Đức tin ấy nếu không giữ trọn vẹn và tinh tuyền; chắc chắn người đó sẽ chết đời đời. Đức tin Công giáo là: Tôn thờ một Thiên Chúa Ba Ngôi, và Ba Ngôi đồng nhất; không được xáo trộn Ba Ngôi hoặc phân
chia bản thể. Có một Ngôi Cha, Ngôi Con, và Ngôi Thánh Thần. Nhưng Chúa Cha,
Chúa Con và Chúa Thánh Thần là một; đồng vinh quang, đồng uy linh vĩnh hằng.
Chúa Cha cũng vậy, Chúa Con cũng vậy, và Chúa Thánh Thần cũng vậy. Chúa Cha
không được tạo dựng; Chúa Con không được tạo dựng; và Chúa Thánh Thần không
được tạo dựng. Chúa Cha vô cùng, Chúa Con vô cùng, và Chúa Thánh Thần vô cùng.
The Chúa Cha vĩnh hằng, Chúa Con vĩnh hằng, và Chúa Thánh Thần vĩnh hằng. Ba
Ngôi không là ba Thượng đế mà chỉ là một Thượng đế. Cũng không có ba Đấng không
được tạo thành, không có ba Đấng vô cùng, mà chỉ có một Đấng không được tạo
thành, và một Đấng vô cùng. Cho nên Chúa Cha cũng toàn năng, Chúa Con cũng toàn
năng, và Chúa Thánh Thần cũng toàn năng. Ba Ngôi không là ba Đấng toàn năng mà
chỉ là một Đấng toàn năng. Cho nên Chúa Cha là Thiên Chúa, Chúa Con là Thiên
Chúa, và Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa. Ba Ngôi không là ba Thiên Chúa mà chỉ
là một Thiên Chúa. Cho nên Chúa Cha cũng là Chúa, Chúa Con cũng là Chúa, và
Chúa Thánh Thần cũng là Chúa. Ba Ngôi không là ba Chúa mà chỉ là một Chúa.

Chúng ta được thúc đẩy bởi chân lý Kitô giáo để nhận biết mỗi Ngôi bởi chính Ngôi đó là Thiên Chúa. Cho nên chúng ta bị Công giáo cấm hiểu có ba Thiên Chúa hoặc ba Chúa. Chúa Cha không được tạo dựng, nhưng được sinh ra. Chúa Con từ Chúa Cha, không được tạo
dựng, nhưng được sinh ra. Chúa Thánh Thần từ Chúa Cha và Chúa Con, không được
tạo dựng, không được sinh ra, nhưng phát sinh. Cho nên có một Chúa Cha chứ
không có ba Chúa Cha, có một Chúa Con chứ không có ba Chúa Con, và có một Chúa
Thánh Thần chứ không có ba Chúa Thánh Thần. Trong Ba Ngôi không có Ngôi vị nào
trước hoặc Ngôi vị nào sau, không có Ngôi vị nào cao hơn hoặc thấp hơn Ngôi vị
nào. Nhưng cả Ba Ngôi đồng vĩnh hằng và đồng đẳng. Để trong mọi sự, như đã nói
ở trên, đồng nhất trong Ba Ngôi, và Ba Ngôi đồng nhất, cùng được tôn thờ. Do đó
người được cứu độ, hãy để người đó suy nghĩ về Tam Vị Nhất Thể (Chúa Ba Ngôi).

Hơn nữa, để được ơn cứu độ đời đời, người đó cũng cần tin vào sự Nhập thể của Đức Giêsu Kitô. Đối với đức tin đúng mà chúng ta tin và tuyên xưng, rằng Đức Giêsu Kitô là Con
Thiên Chúa, là Thiên Chúa và là người; Thiên Chúa thuộc bản thể Chúa Cha, có
trước thế gian; và Con Người thuộc bản thể của Mẹ Ngài, sinh ra nơi thế gian.
Thiên Chúa hoàn hảo, và Con Người hoàn hảo, có linh hồn hợp lý và nhục thể tồn
tại. Đồng đẳng với Chúa Cha, khi là Thiên Chúa; và thua kém Chúa Cha khi là
nhân loại. Mặc dù là Thiên Chúa và Con Người, nhưng Ngài không là hai người mà
chỉ là một Đức Kitô. Là Một, không bởi sự biến đổi Thiên Chúa thành nhục thể,
mà bởi sự chấp nhận Con Người thành Thiên Chúa. Cùng là Một, không bởi sự lẫn
lộn bản thể mà bởi sự đồng nhất của Ngôi vị. Vì hồn và xác là một, cho nên
Thiên Chúa và Con Người là một Đức Kitô, Đấng chịu đau khổ để cứu độ chúng ta,
xuống ngục tổ tông, sống lại vào ngày thứ ba. Ngài lên trời, ngự bên hữu Chúa
Cha toàn năng, từ đó Ngài sẽ đến phán xét người sống và người chết. Khi Ngài
đến, mọi người sẽ sống lại, sẽ tường trình mọi việc mình đã làm. Những người làm
điều tốt sẽ hưởng sự sống đời đời, còn những người làm điều ác sẽ vào lửa đời
đời. Đó là đức tin Công giáo, nếu ai không tin thật và tin chắc thì không thể
được cứu độ.

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ)

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

Ngày tận thế

Ngày tận thế (Mc 13,24-32)

Chúa nhật 33 thường niên, năm B

Khi Ađam bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng, ông phải khổ cực vất vả tìm kiếm miếng cơm manh áo.

Một lần kia, trên đường lao dịch, Ađam vấp phải cái xác bất động của Abel. Ông nâng con dậy, vác trên vai, đem về đặt trong lòng Eva. Ông bà lay gọi, nhưng Abel không đáp lại.
Trước đây, Abel đâu có trầm lặng như vậy! Eva nâng tay đứa con yêu quý lên, bàn tay lại rơi xuống vô hồn. Trước đây không hề thấy như thế bao giờ! Ông bà nhìn vào đôi mắt trắng đã vô tư một cách bí mật. Trước đây đôi mắt của Abel có vô tình như thế đâu? Ông bà rất đỗi kinh ngạc. Nỗi kinh ngạc càng tăng dần cho đến lúc ông bà chợt nhớ lại lời Ðức Chúa Trời: “Ngày nào ngươi ăn trái cây này, ngươi sẽ chết”. Ðó là cái chết đầu tiên trên thế giới.

***

Cái chết của Abel là cái chết đầu tiên trên trái đất. Còn cái chết cuối cùng của nhân loại sẽ là ai? Ở đâu? Vào lúc nào? Ðiều đó không ai được biết, và cũng không cần biết. Sách Tông đồ Công Vụ có viết: “Anh em không cần phải biết thời gian và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt” (Cv.1,7). Tin mừng hôm nay, Ðức Giêsu cũng quả quyết: “Còn về ngày hay giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các Thiên sứ trên trời hay người Con cũng không hề biết, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi”

(Mc.13,32). Khi được hỏi bao giờ đến ngày tận thế? Thánh Augustinô đã trả lời dứt khoát: “Việc này hoàn toàn nằm trong quyền năng của Chúa Cha”. Nói khác, ngài còn nói:
“Ðức Giêsu không cho biết ngày cuối cùng của ta, để ta luôn cảnh giác chờ đợi Người”.

Ðứng trước các tin đồn về ngày tận thế, thái độ sống thích hợp nhất của chúng ta là: Vì thân phận con người mỏng dòn và yếu đuối, chúng ta hãy sống trong “tỉnh thức và cầu nguyện”, trong niềm mong chờ “ngày Chúa đến sẽ xảy ra bất cứ lúc nào”.

Chúng ta không biết ngày tận cùng của thế giới nhưng chúng ta biết chắc ngày ấy phải đến. Ðó không phải là tai nạn trong chương trình của Thiên Chúa, nhưng đó là một ngày mà
Thiên Chúa dọn sẵn chỗ ở mới, một thế giới mới cho nhân loại. Nơi đó, công bằng
sẽ ngự trị, hạnh phúc sẽ ngập tràn, và niềm vui sẽ trọn vẹn cho những ai “bền đỗ đến cùng”. Với cái nhìn đầy tin tưởng, Seneca đã nói “Ngày mà bạn cho là cùng tận của mọi sự, lại là ngày khởi đầu của vĩnh cửu”.

Chúng ta không biết ngày nào Chúa sẽ đến trong vinh quang, nhưng chúng ta biết chắc: để được vào vương quốc ấy, con người phải nhìn lại chính mình, sắp xếp lại cuộc sống, và
tích cực xây dựng một gia đình nhân loại đầy yêu thương, công lý và hòa bình. Cha Mark Link viết: “Khi Chúa đến, Người không cân đo trí khôn chúng ta thông minh thế nào. Nhưng Người sẽ cân đo trái tim chúng ta yêu thương ra sao”.

Vì tình yêu là ngôn ngữ của Thiên đàng, nên chỉ những ai biết yêu thương mới được bước vào. Chính lòng nhân ái là tấm thẻ căn cước không thể thiếu của những công dân Nước Trời.

***

Lạy Chúa,

Xin hãy đến, cho những người được tuyển chọn tập họp chung quanh Người.

Xin hãy đến, để trong mọi biến cố kinh hoàng, chúng con vẫn một niềm cậy tin: Chúa là Ðấng cứu độ chúng con.

Trong giây phút định mệnh của mỗi người, xin cho chúng con nghe được tiếng Chúa: “Con sắp trở về cùng Cha”. Amen.

(Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)

“Be who God meant you to be, and you will set the world on fire.”

St. Catherine of Sienna.

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

Tông Thư Porta Fidei – Cánh Cửa Đức Tin

Tông Thư Porta Fidei – Cánh Cửa Đức Tin
TÔNG THƯ – TỰ SẮC
PORTA FIDEI – CÁNH CỬA ĐỨC TIN
CỦA ĐỨC THÁNH CHA BÊNÊĐICTÔ XVI
CÔNG BỐ NĂM ĐỨC TIN
1. “Cánh cửa đức tin” (x. Cv14,27) dẫn vào đời sống kết hiệp với Thiên Chúa, đồng thời mở ra con đường bước vào Giáo Hội, vẫn luôn mở rộng cho chúng ta. Chúng ta có thể bước qua ngưỡng cửa đó khi Lời Chúa được loan báo và để ơn biến đổi uốn nắn tâm hồn. Bước qua cánh cửa đó là dấn bước vào một cuộc hành trình kéo dài suốt đời. Hành trình này bắt đầu bằng bí tích Rửa Tội (x. Rm6,4), nhờ đó chúng ta có thể gọi Thiên Chúa là Cha, và hoàn tất bằng với việc vượt qua cái chết, tiến đến sự sống đời đời, là hoa quả sự phục sinh của Chúa Giêsu, Đấng đã dùng ơn Chúa Thánh Thần mà muốn cho tất cả những ai tin nơi Người đều được thông phần vào vinh quang của Người (x. Ga17,22). Tuyên xưng niềm tin nơi Chúa Ba Ngôi – Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần – chính là tin vào một Thiên Chúa duy nhất, Đấng là Tình Yêu (x. 1 Ga 4,8): Chúa Cha, khi đến thời viên mãn, đã sai Con của Ngài
đến cứu độ chúng ta; Chúa Giêsu Kitô đã chuộc tội trần gian trong mầu nhiệm sự chết và phục sinh của Người; Chúa Thánh Thần dẫn dắt Giáo Hội qua các thời đại, đang khi mong chờ cuộc quang lâm vinh hiển của Chúa.
2. Khi bắt đầu đảm nhận sứ vụ Kế vị Thánh Phêrô, tôi đã nhắc đến việc cần phải tái khám phá hành trình đức Tin để luôn làm nổi bật niềm vui và niềm hưng phấn mới của việc gặp gỡ Đức Kitô. Trong Bài giảng Thánh lễ khai mạc sứ vụ Giáo hoàng, tôi đã nói: “Toàn thể Giáo Hội và các Mục tử trong Giáo Hội, cũng như Đức Kitô, phải lên đường để đưa con người ra khỏi sa mạc, đến nơi có sự sống, đến việc làm bạn với Con Thiên Chúa, đến với Đấng ban cho chúng ta sự sống, sự sống dồi dào” [1]. Tuy nhiên, các Kitô hữu lại thường quan tâm nhiều hơn tới những kết quả của sự dấn thân về phương diện xã hội, văn hóa và chính trị, cứ tưởng rằng đức Tin là tiền đề hiển nhiên của đời sống xã hội. Nhưng thực tế cho thấy tiền đề ấy không chỉ không còn được coi là hiển nhiên nữa mà thậm chí con thường bị
phủ nhận [2]. Trong khi ngày xưa, có thể nhận ra một hệ thống văn hóa thống nhất, được nhiều người chấp nhận, có tham chiếu nội dung đức Tin và những giá trị chịu ảnh hưởng của đức Tin, thì ngày nay, trong các lãnh vực lớn của xã hội có lẽ không còn như vậy nữa, do cuộc khủng hoảng sâu sắc về đức Tin đã ảnh hưởng tới nhiều người.
3. Chúng ta không thể chấp nhận để muối nhạt đi và ánh sáng bị che khuất (x. Mt 5,13-16). Con người ngày nay, cũng giống như người phụ nữ Samaria, có thể cũng lại cảm thấy cần phải đến bên giếng nước để lắng nghe Chúa Giêsu, Đấng mời gọi hãy ta tin vào Người và múc lấy nước hằng sống từ Người trào ra (x. Ga 4,14). Chúng ta phải tìm lại niềm vui
thích nuôi dưỡng mình bằng Lời Chúa được Giáo Hội trung thành truyền lại, và bằng Bánh Hằng Sống, được ban cho để nâng đỡ tất cả những ai làm môn đệ Chúa (x. Ga6,51). Quả thật, giáo huấn của Chúa Giêsu vẫn còn vang dội mạnh mẽ trong thời đại chúng ta: “Các con hãylàm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng để được lương thực thường  tồn” (Ga6,27). Câu hỏi đã được mọi người nghe Chúa nói đặt ra, cũng câu hỏi của chúng ta ngày nay: “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn?” (Ga6,28). Chúng ta biết Chúa Giêsu trả lời ra sao: “Việc Thiên Chúa muốn là: Anh em hãy tin vào Ðấng mà Ngài đã sai đến” (Ga 6,29). Vậy, tin vào Chúa Giêsu Kitô chính là con đường chắc chắn đạt tới ơn cứu độ.
4. Từ những điều nói trên đây, tôi quyết định mở một Năm Đức TinNăm Đức Tin sẽ bắt đầu từ ngày 11-10-2012, nhân kỷ niệm 50 năm khai mạc Công đồng Vatican II, và sẽ kết thúc vào ngày đại lễ Chúa Kitô Vua Vũ Trụ, 24-11-2013. Ngày 11-10-2012 cũng sẽ diễn ra lễ kỷ niệm 20 năm xuất bản Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo, được vị Tiền nhiệm của tôi, Đức Chân phước Giáo hoàng Gioan Phaolô II [3] ban hành, với mục đích trình bày cho mọi tín hữu sức mạnh và vẻ đẹp của đức Tin. Văn kiện này là thành quả đích thực của Công
đồng Vatican II. Thượng Hội đồng Giám mục khóa họp ngoại thường năm 1985 đã mong ước văn kiện này được sử dụng trong việc dạy giáo lý [4]; và toàn thể hàng Giám mục của Giáo Hội Công giáo đã cộng tác thực hiện văn kiện này. Chính tôi cũng đã triệu tập Đại hội toàn thể Thượng Hội đồng Giám mục vào tháng Mười năm 2012 về đề tài Tân Phúc âm hóa để thông truyền đức Tin Kitô giáo. Đây sẽ là một cơ hội thuận lợi để đưa toàn thể Giáo Hội bước vào một giai đoạn suy tư đặc biệt và tái khám phá đức Tin. Đây không phải là lần
đầu tiên Giáo Hội được kêu gọi cử hành Năm Đức Tin. Vị Tiền nhiệm đáng kính của tôi, Tôi tớ Chúa Phaolô VI cũng đã ấn định Năm Đức Tin tương tự vào năm 1967, để kỷ niệm cuộc tử đạo của hai Thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô, nhân 1900 năm cuộc làm chứng cao cả của các ngài. Đức cố giáo hoàng đã nghĩ đến việc kỷ niệm này là một thời điểm long trọng để trong toàn thể Giáo Hội chính thức và chân thành “tuyên xưng cùng một đức Tin”; ngoài
ra, ngài mong muốn đức Tin được củng cố “về phương diện cá nhân cũng như tập thể, có tự do và ý thức, nơi nội tâm cũng như bên ngoài, khiêm tốn và chân thành” [5]. Ngài tin rằng bằng cách này toàn thể Giáo Hội “sẽ ý thức rõ rệt hơn về đức Tin của mình, để làm tươi mới đức Tin, thanh luyện, củng cố và tuyên xưng đức Tin” [6]. Những xáo trộn lớn diễn ra trong Năm Đức Tin ấy càng cho thấy rõ cần phải có một cuộc cử hành như thế. Năm Đức Tin ấy đã kết thúc với Bản Tuyên xưng Đức Tin của Dân Chúa [7], cho thấy có biết bao nội dung cốt yếu từ các thế kỷ qua, vốn là gia sản của mọi tín hữu, cần phải được củng cố, hiểu
biết và ngày càng đào sâu hơn, để đưa ra chứng từ phù hợp với hoàn cảnh lịch sử đã khác xưa.
5. Trong một số khía cạnh, vị Tiền nhiệm đáng kính của tôi đã coi Năm Đức Tin ấy
như “một hệ quả và là một yêu cầu của thời hậu Công đồng” [8], ngài ý thức rõ về những khó khăn nghiêm trọng của thời đại, nhất là về việc tuyên xưng đức Tin chân thật và sự giải thích đức Tin đúng đắn. Tôi cho rằng việc khởi sựNăm Đức Tin trùng với dịp kỷ niệm 50 năm khai mạc Công đồng Vatican II có thể là một cơ hội thuận lợi để hiểu rằng các văn kiện Công đồng, được các Nghị phụ để lại như di sản, – theo như lời Chân phước Gioan Phaolô II -,“không hề mất giá trị và vẻ ngời sang”. Các văn kiện ấy cần phải được đọc một cách đúng đắn, được phổ biến rộng rãi và tiếp nhận thấu đáo như những văn kiện quan trọng và mang tính quy phạm thuộc Huấn quyền, trong Truyền thống của Giáo Hội… Hơn bao giờ hết tôi cảm thấy nghĩa vụ phải nói rõ Công đồng
chính là hồng ân Giáo Hội được hưởng trong thế kỷ XX: Công đồng mang lại cho chúng ta một chiếc la bàn đáng tin cậy để định hướng trong cuộc hành trình thế kỷ đang mở ra” [9]. Tôi cũng muốn mạnh mẽ nhắc lại những gì tôi đã nói về Công đồng sau vài tháng được bầu lên kế vị Thánh Phêrô: “Nếu chúng ta đọc và đón nhận Công đồng, với sự giải thích đúng đắn, thì Công đồng ngày càng sẽ và luôn trở thành một nguồn lực lớn lao cho việc thực hiện cuộc canh tân vốn luôn cần thiết đối với Giáo Hội” [10].
6.  Cuộc canh tân Giáo Hội cũng còn được thực hiện qua chứng từ cuộc sống của các tín hữu: quả vậy, bằng chính sự hiện diện của mình trong thế giới, các tín hữu được mời gọi làm ngời lên Lời Chân lý Chúa Giêsu để lại cho chúng ta. Chính Công đồng, trong Hiến chế tín lýLumen Gentium, đã khẳng định: “Trong khi Chúa Kitô, ‘thánh thiện, vô tội, không tì vết’ (Dt 7,26) không hề biết đến tội lỗi (x. 2 Cr 5,21), chỉ đến mà chuộc tội cho dân (Dt2,17), thì Giáo Hội, mang trong lòng mình những kẻ tội lỗi, vì thế, Giáo Hội là thánh thiện đồng thời cũng được kêu gọi thanh luyện chính mình, không ngừng phải nỗ lực thống hối và canh tân. Giáo Hội ‘tiến bước trong cuộc lữ hành qua những cuộc bách hại của trần thế và những an ủi của Thiên Chúa’, loan báo cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa cho đến khi Chúa đến (x. 1 Cr 11,26). Quyền năng của Chúa Phục sinh giúp cho Giáo Hội thắng vượt – với lòng nhẫn nại và yêu thương – những buồn sầu và khó khăn xảy đến cho Giáo Hội từ bên ngoài và cả từ bên trong, và trung thành bày tỏ mầu nhiệm của Chúa giữa lòng thế giới, mầu nhiệm ấy dù còn bị bóng tối che khuất nhưng cuối cùng sẽ đến ngày hiển lộ trong ánh quang rạng ngời” [11].
Trong viễn cảnh này, Năm Đức Tin là một lời mời gọi hãy hoán cải một cách đích thực và được đổi mới, trở về với Chúa là Đấng duy nhất cứu độ thế giới. Trong mầu nhiệm cái
chết và phục sinh của Người, Thiên Chúa đã mặc khải trọn vẹn Tình yêu cứu độ và
kêu gọi con người hoán cải cuộc sống nhờ được tha thứ tội lỗi (x. Cv5,31). Đối với thánh Phaolô Tông đồ, Tình yêu ấy dẫn con người đến cuộc sống mới: “Qua phép Rửa, chúng ta đã được mai táng với Người trong sự chết, để như Chúa Kitô sống lại từ cõi chết nhờ vinh quang của Chúa Cha, chúng ta cũng sẽ được sống trong sự sống mới” (Rm6,4). Nhờ đức Tin, sự sống mới này làm khuôn mẫu cho toàn thể cuộc sống con người theo sự mới mẻ tuyệt đối của sự sống lại. Tùy theo mức độ sẵn sàng vâng heo ý Chúa, mọi tư tưởng và tình
cảm, tâm trí và hành vi của con người dần dần được thanh luyện và biến đổi, trong một cuộc hành trình chẳng bao giờ được hoàn tất ở đời này. Đức Tin “hành  động qua đức ái” (Gl 5,6) trở thành một chuẩn mực mới giúp thông hiểu và hành động, làm thay đổi toàn thể cuộc sống con người (x. Rm 12,2; Cl 3,9-10;Ep 4,20-29; 2 Cr 5,17).
7. “Tình yêu Chúa Kitô thúc bách chúng ta” (2 Cr 5,14): chính tình yêu Chúa Kitô đổ đầy tâm hồn chúng ta và thúc đẩy chúng ta loan báo Tin Mừng. Ngày nay cũng như xưa kia, Chúa sai chúng ta ra đi trên khắp nẻo đường thế giới để công bố Tin Mừng của Ngài cho mọi dân tộc trên trái đất (x. Mt 28,19). Chúa Giêsu Kitô dung tình yêu thu hút con người thuộc mọi thế hệ đến với Người: trong mọi thời đại, Người gọi Giáo Hội đến và trao nhiệm vụ loan báo Tin Mừng, với một mệnh lệnh luôn luôn mới mẻ. Vì thế, ngày nay Giáo Hội phải dấn thân một cách thuyết phục hơn nữa qua công cuộc Tân Phúc âm hóa, để tái khám phá niềm vui đức Tin và tìm lại niềm hăng say thông truyền đức tin. Việc dấn thân truyền giáo của các tín hữu, vốn không bao giờ được thiếu, sẽ nhận được sức mạnh và tinh thần hăng hái qua việc hằng ngày nhận ra tình yêu của Thiên Chúa. Thực vậy, đức Tin sẽ
tăng trưởng khi biết sống đức Tin với cảm nghiệm về tình yêu đã nhận lãnh, và biết thông truyền đức Tin với cảm nghiệm về ân sủng và niềm vui. Đức tin làm cho chúng ta trở nên phong phú, bởi đức Tin giúp tâm hồn mở rộng trong hy vọng và đem lại một chứng tứ giàu sức sống: đức Tin mở cánh cửa tâm trí của tất cả những ai lắng nghe và đón nhận Lời Chúa mời gọi hãy gắn bó Lời Chúa để trở thành môn đệ của Người. Thánh Augustinô cho biết, các tín hữu “nhờ tin tưởng mà được củng cố” [12]. Thánh giám mục thành Hippo đã có lý khi nói như vậy. Như  chúng ta biết, cuộc đời của thánh nhân là một cuộc tìm kiếm không ngừng vẻ đẹp của đức Tin cho đến khi tâm hồn ngài được sự an nghỉ trong Thiên Chúa [13].
Trong nhiều tác phẩm của mình, thánh nhân đã giải thích tầm quan trọng của việc
tin và chân lý đức Tin. Những tác phẩm ấy đến nay vẫn còn là một di sản phong phú vô song, giúp biết bao người tìm kiếm Thiên Chúa gặp được con đường đúng đắn đưa đến được  “cánh cửa đức tin”.
Vì vậy, sở dĩ đức Tin được tăng trưởng và vững mạnh là nhờ biết tin tưởng; để đời mình được vững chắc, không có cách nào khác hơn là không ngừng buông mình vào vòng tay của một tình yêu dường như lớn lao thêm mãi, bởi tình yêu ấy phát xuất từ Thiên Chúa.
8. Trong dịp vui mừng này, tôi muốn mời gọi anh em Giám mục trên toàn thế giới hãy hiệp nhất với Người Kế Vị thánh Phêrô, trong thời điểm ân phúc thiêng liêng Chúa dành cho chúng ta, để nhớ lại hồng ân đức Tin quý giá. Chúng ta mong được cử hành Năm Đức Tin này một cách xứng đáng và sinh ơn ích. Cần tăng cường suy tư về đức Tin để giúp tất cả những ai tin vào Chúa Kitô được ý thức hơn và củng cố lòng gắn bó với Tin Mừng, nhất là vào lúc nhân loại đang sống giữa những đổi thay sâu sắc như hiện nay. Chúng ta sẽ có cơ hội tuyên xưng đức Tin nơi Chúa Phục Sinh trong các nhà thờ chính tòa và các nhà thờ trên khắp thế giới; trong các gia đình, để mỗi người cảm thấy sự đòi hỏi cấp thiết phải hiểu biết hơn nữa về đức Tin và truyền lại đức Tin cho các thế hệ mai sau. Các cộng đoàn dòng tu
cũng như các giáo xứ, và toàn thể những tổ chức trong Giáo Hội, dù lâu đời hay mới lập, hãy tìm cách thức công bố Kinh Tin Kính trong Năm Đức Tin này.
9. Chúng ta mong ước rằng Năm Đức Tin sẽ khơi dậy nơi mỗi tín hữu khát vọng tuyên xưng đức Tin trong sự toàn vẹn và với một niềm xác tín được đổi mới, trong niềm tín thác và hy vọng. Năm này cũng sẽ là một cơ hội thuận lợi để tăng cường việc cử hành đức Tin trong phụng vụ, nhất là trong phép Thánh Thể, vốn là “chóp đỉnh mà hoạt động của Giáo Hội hướng tới, đồng thời là nguồn mạch tuôn trào sức mạnh của Giáo Hội” [14]. Đồng thời, chúng ta ước mong việc làm chứng bằng đời sống của các tín hữu sẽ tăng tiến trong sự khả tín. Tái khám phá nội dung đức Tin được tuyên xưng, được cử hành, được thể hiện qua đời sống và cầu nguyện [15], và suy tư về chính việc làm của lòng tin, đó là nhiệm vụ mỗi tín hữu phải thực hiện, nhất là trong Năm Đức Tin này.
Không phải là không có lý do mà trong những thế kỷ đầu tiên, các Kitô hữu phải học thuộc lòng kinh Tin kính. Các tín hữu dùng kinh này cầu nguyện hằng ngày, để không quên lời cam kết khi chịu phép Rửa tội. Với những lời mang ý nghĩa súc tích, thánh Augustinô nhắc
nhở điều đó trong bài giảng về việc trao Tín biểu (Kinh Tinh kính), ngài nói: “Tín biểu về mầu nhiệm thánh (Kinh Tinh kính) mà tất cả anh chị em cùng nhau lãnh nhận và từng người trong anh chị em hôm nay đọc lên, là những lời diễn tả đức Tin của Mẹ Giáo Hội, được xây dựng vững chắc trên nền tảng vững bền là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta… Anh
chị em đã nhận lãnh và tuyên đọc Tín biểu này, vậy, phải lưu giữ Tín biểu nơi lòng trí anh chị em, phải lặp lại Tín biểu khi lên giường ngủ, phải suy ngẫm Tín biểu khi ra nơi công cộng, không được quên Tín biểu khi ăn uống, ngay cả khi thân xác đã ngủ yên, thì trái tim vẫn tỉnh thức với Tín biểu này” [16].
10. Đến đây, tôi muốn phác ra một lộ trình giúp hiểu sâu thêm những nội dung đức Tin, không những vậy mà với những nội dung đó, còn là việc làm, qua đó, chúng ta quyết định hoàn toàn  phó thác cho Thiên Chúa với tất cả tự do. Thực vậy, có sự thống nhất sâu xa giữa hành vi thể hiện đức Tin và những nội dung chúng ta tán đồng. Thánh Phaolô Tông đồ giúp đi vào bên trong thực tại này khi ngài viết: “Có tin thật trong lòng, mới được nên công chính; có xưng ra ngoài miệng, mới được ơn cứu độ”(Rm 10,10). Con tim mách bảo chúng ta rằng chúng ta có được đức Tin vì trước hết đó là quà tặng của Thiên Chúa, và ân sủng
Chúa tác động và biến đổi tận nơi sâu thẳm trong con người.
Câu chuyện bà Liđia là một dẫn chứng đầy sức thuyết phục về vấn đề này. Thánh Luca thuật lại, khi thánh Phaolô đến thành Philípphê, ngày thứ Bảy, ngài đi rao giảng Tin Mừng cho vài phụ nữ; trong số đó có bà Liđia và “Chúa mở lòng cho bà để bà chú ý những lời Phaolô
nói” (Cv 16,14). Một diễn đạt mang ý nghĩa quan trọng. Thánh Luca dạy, việc hiểu biết những nội dung để tin thì không đủ, nếu cõi lòng, cung thánh đích thực của con người, không được ơn Chúa mở cho, nhờ đó mới có được đôi mắt để nhìn sâu xa và hiểu ra điều được loan báo chính là Lời Chúa.
Tiếp đến việc tuyên xưng ngoài miệng cho thấy đức Tin gồm cả việc làm chứng và dấn thân công khai. Người Kitô hữu không bao giờ được nghĩ rằng tin là chuyện riêng tư. Tin, là quyết định ở lại với Chúa để sống với Người. Một khi “ở lại với Chúa”, ta sẽ hiểu được tại
sao ta tin. Chính vì đức Tin là một hành vi tự do, nên cũng đòi phải có trách nhiệm xã hội về những điều đã tin. Giáo Hội, trong ngày lễ Hiện xuống, rõ ràng đã cho thấy chiều kích công khai ấy của việc tin tưởng và loan báo không chút sợ hãi về niềm tin của mình cho mọi người. Chính ơn Chúa Thánh Thần giúp chúng ta đảm đương sứ mạng, thêm sức để chúng ta làm chứng một cách trung thực và can đảm.
Tự bản thân việc tuyên xưng đức Tin là một hành vi cá nhân, đồng thời cũng mang tính cộng đoàn. Thực vậy, chính Giáo Hội là chủ thể đầu tiên của đức Tin. Trong đức Tin của cộng đoàn Kitô hữu, mỗi người lãnh nhận bí tích Rửa tội, là dấu chỉ có hiệu lực về sự gia nhập đoàn dân tín hữu để được ơn cứu độ. Như Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo minh chứng: Nói “Tôi tin” là lên đức Tin của Giáo Hội được cá nhân mỗi tín hữu tuyên xưng, cụ thể là khi chịu phép Rửa tội. Còn nói “Chúng tôi tin” là nói lên đức Tin của Giáo Hội được các Giám mục tuyên xưng khi nghị hội Công đồng, hoặc khái quát hơn, được cộng đoàn tín hữu cử hành phụng vụ tuyên xưng. Tuyên xưng “Tôi tin” cũng chính là Giáo Hội, Mẹ
của chúng ta, đáp lại Thiên Chúa bằng đức Tin của mình và dạy chúng ta nói lên “Tôi tin”, “Chúng tôi tin” [17].
Chúng ta đã rõ, để chính bản  thân chấp nhận đức Tin, nghĩa là hoàn toàn đồng tâm
nhất trí với tất cả những gì Giáo Hội đề nghị chúng ta tin, cần phải hiểu rõ những nội dung đức Tin. Sự hiểu biết về đức Tin dẫn vào toàn bộ mầu nhiệm cứu độ được Thiên Chúa mặc khải. Vì vậy việc chấp nhận đức Tin có nghĩa là, khi đã tin, chúng ta hoàn toàn tự do chấp nhận trọn vẹn mầu nhiệm đức Tin, bởi chính Chúa là Đấng bảo đảm cho mọi điều chúng ta tin. Ngài đã mặc khải chính mình và cho phép chúng ta được nhận biết mầu nhiệm tình yêu của Ngài [18].
Mặt khác, chúng ta không thể quên, trong bối cảnh văn hóa của chúng ta, có nhiều người, tuy  không nhìn nhận mình có ơn đức Tin, vẫn chân thành tìm kiếm ý nghĩa tối hậu và sự
thật cuối cùng về hiện hữu của mình và về thế giới. Sự tìm kiếm này thực là một “tiền đề” của đức Tin, vì nó thúc đẩy con người bước vào cuộc hành trình dẫn đến mầu nhiệm Thiên Chúa. Quả thật, bản thân lý trí con người vốn đòi hỏi về “điều có giá trị vững bền và trường cửu” [19]. Đòi hỏi này là một lời mời gọi mãi mãi, được ghi khắc không thể xóa nhòa trong tâm hồn con người, để bắt đầu một cuộc hành trình tìm gặp Đấng mà chúng ta sẽ không tìm kiếm nếu Ngài đã không đến gặp chúng ta [20]. Chính đức Tin mời chúng ta đến gặp Ngài và mở cho chúng ta bước vào cuộc gặp gỡ ấy một cách trọn vẹn.
11. Để hiểu biết một cách có hệ thống về nội dung đức Tin, mọi người đều có thể tìm thấy sự trợ giúp quý báu và không thể thiếu trong Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo. Đó là một trong những thành quả quan trọng nhất của Công đồng  chung Vatican II. Trong Tông hiến Fidei depositum (Kho tàng đức Tin), không phải ngẫu nhiên được ký vào ngày kỷ niệm 30 năm khai mạc Công đồng chung Vatican II, Đức Chân phước Gioan Phaolô II đã viết: “Sách Giáo lý này sẽ mang lại một đóng góp quan trọng cho công cuộc canh tân toàn thể đời sống Giáo Hội… Tôi nhìn nhận Sách này như một dụng cụ giá trị và hợp pháp phục vụ sự hiệp thông trong Giáo Hội và như một chuẩn mực chắc chắn để giảng dạy đức Tin” [21].
Theo đó, Năm Đức Tin phải thể hiện quyết tâm tái khám phá và học hỏi nội dung cơ
bản của đức Tin được trình bày trong Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo với sự tổng hợp có hệ thống và gắn bó hữu cơ. Quả thật, ở đây chúng ta thấy sự phong phú của giáo huấn mà Giáo Hội đã đón nhận, giữ gìn và giới thiệu trong hai ngàn năm lịch sử của mình. Từ Kinh
Thánh tới các Giáo phụ, từ các bậc Thầy về thần học cho đến các Thánh qua các thế kỷ, Sách Giáo lý là bản ghi nhớ vĩnh viễn về biết bao cách thức Giáo Hội suy ngẫm về đức Tin và tạo sự tiến triển trong giáo thuyết, nhằm giúp các tín hữu được vững vàng trong đời sống đức tin.
Qua cách cấu trúc, SáchGiáo lý Hội thánh Công giáotrình bày sự phát triển đức Tin
vươn đến tận những đề tài lớn của đời sống hằng ngày. Qua các trang sách, có
thể thấy điều được trình bày trong Sách Giáo lý không phải là một lý thuyết, nhưng là một cuộc gặp gỡ với một Người đang sống trong Giáo Hội. Quả thật, sau phần Tuyên xưng đức Tin, là phần giải thích đời sống bí tích, trong đó Chúa Kitô hiện diện, hoạt động và tiếp tục xây dựng Giáo Hội của Người. Nếu không có phụng vụ và các bí tích thì việc tuyên xưng đức Tin sẽ không hiệu quả, vì thiếu ân sủng nâng đỡ việc làm chứng của các Kitô hữu. Cũng
vậy, giáo huấn của Sách Giáo lý về đời sống luân lý đạt trọn vẹn ý nghĩa nếu được đặt trong tương quan với đức Tin, phụng vụ và cầu nguyện.
12. Vì thế, trong Năm Đức Tin, Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo sẽ là một công cụ đích
thực nâng đỡ đức Tin, nhất là cho những người quan tâm đến việc huấn luyện các Kitô hữu, một điều rất quan trọng trong bối cảnh văn hóa ngày nay. Với mục đích ấy, tôi đã mời gọi Bộ Giáo lý đức Tin, cùng với các Cơ quan hữu trách khác của Tòa Thánh, soạn một Bản hướng dẫn, đề ra cho Giáo Hội và các tín hữu một số chỉ dẫn để sống Năm Đức Tinnày một cách hiệu quả và thích hợp hơn, phục vụ cho lòng tin và công cuộc truyền giáo.
Quả thật, nhiều hơn so với trước đây, đức Tin hiện đang phải đối diện với một loạt vấn đề, do não trạng con người đã thay đổi, nhất là ngày nay cho rằng sự chính xác hợp lý thuộc về lĩnh vực chinh phục của khoa học và công nghệ. Tuy nhiên, Giáo Hội không bao giờ sợ chứng minh rằng không có bất kỳ xung đột nào giữa đức Tin và khoa học chân chính, vì cả hai đều hướng đến chân lý, mặc dù bằng những con đường khác nhau [22].
13. Một điều quan trọng trong Năm Đức Tin là điểm lại lịch sử đức Tin của chúng ta, được ghi dấu bằng mầu nhiệm lạ lùng về sự đan xen giữa thánh thiện và tội lỗi. Lịch sử thánh thiện cho thấy sự đóng góp lớn lao của những người, nam và nữ, cho sự tăng trưởng và phát triển cộng đoàn bằng chứng từ cuộc sống của mình, còn lịch sử tội lỗi thúc đẩy mỗi người phải thành tâm và thường xuyên hoán cải để cảm nghiệm lòng thương xót của Chúa Cha, Đấng đang đến gặp gỡ mọi người.
Lúc điểm này, chúng ta hãy ngắm nhìn Chúa Giêsu Kitô “là Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin” (Dt 12,2): nơi Người mọi khổ đau và khát vọng của tâm hồn con người được hoàn tất. Niềm vui yêu thương, câu trả lời trước bi kịch khổ ải và đớn đau, sức mạnh của tha thứ khi bị xúc phạm, và chiến thắng của sự sống trước hư không của sự chết, tất cả đều tìm được sự hoàn tất trong mầu nhiệm Nhập thể, mầu nhiệm Chúa làm người, chia sẻ sự yếu đuối của chúng ta để biến đổi nó bằng quyền năng phục sinh của Người. Nơi Đấng đã chết và sống lại để cứu chuộc chúng ta, đã có biết bao tấm gương đức Tin, in dấu hai ngàn năm lịch sử cứu độ của chúng ta.
Nhờ lòng tin, Đức Maria đã đón nhận lời thiên thần, và trong tinh thần vâng phục, Mẹ đã tin vào lời loan báo Mẹ sẽ trở thành Mẹ của Thiên Chúa (x. Lc 1,38). Khi đến thăm bà
Isave, Mẹ cất bài ca chúc tụng Đấng Tối Cao vì những kỳ công Ngài thực hiện nơi tất cả những ai đã đặt niềm tin nơi Ngài (x. Lc1,46-55). Mẹ sinh hạ người Con duy nhất trong vui mừng và lo âu, mà giờ đây Mẹ vẫn còn nguyên vẹn đồng trinh (x.Lc 2,6-7). Tín nhiệm nơi Thánh Giuse, hôn phu của Mẹ, Mẹ mang Chúa Giêsu sang Ai Cập để cứu con khỏi cuộc bách hại của Hêrôđê (x.Mt 2,13-15). Với đức Tin, Mẹ theo Chúa lúc Người đi rao giảng
và ở với Chúa cho đến tận đồi Golgotha (x. Ga19,25-27). Với đức Tin, Mẹ Maria đã hưởng nếm những hoa trái của cuộc phục sinh của Chúa Giêsu, và gìn giữ từng kỷ niệm trong lòng (x. Lc2,19,51), và Mẹ truyền lại những kỷ niệm ấy cho Nhóm Mười Hai tụ họp với Mẹ trong Nhà Tiệc ly để nhận lấy Chúa Thánh Thần (x. Cv 1,14; 2,1-4).
Nhờ đức Tin, các Tông đồ đã từ bỏ mọi sự để theo Thầy (x.Mc 10,28). Các ngài tin vào lời Chúa loan báo Nước Chúa đã đến và được thực hiện nơi Người (x. Lc 11,20). Các Tông đồ sống đời sống kết hiệp với Chúa Giêsu, Đấng dùng lời giáo huấn mà dạy dỗ các ngài, để lại cho các ngài luật sống, qua đó, người ta nhận ra các ngài là môn đệ của Chúa sau khi Người chịu chết (x. Ga 13,34-35). Nhờ đức Tin, các Tông đồ đã đi khắp thế giới, theo lệnh truyền mang Tin Mừng cho mọi thụ tạo (x. Mc 16,15) và không chút sợ hãi, các Tông đồ loan báo cho mọi người niềm vui Phục sinh mà chính các vị đã là những nhân chứng trung thành.
Nhờ đức Tin, các môn đệ hình thành cộng đoàn đầu tiên, quy tụ quanh giáo huấn của các Tông đồ, cùng cầu nguyện, cử hành Thánh Thể, đưa những gì mình có làm của chung để giúp đỡ những anh chị em túng thiếu (x. Cv2,42-47).
Nhờ đức Tin, các vị tử vì đạo hiến mạng sống mình làm chứng cho chân lý Phúc Âm, chân lý đã làm cho các ngài được biến đổi và đạt tới ơn cao trọng nhất của tình yêu là tha thứ cho những kẻ bách hại mình.
Nhờ đức Tin, những người nam và nữ đã dâng hiến đời mình cho Chúa Kitô, bỏ mọi sự để sống đơn sơ theo tinh thần Phúc Âm, vâng phục, khó nghèo và khiết tịnh, là những dấu chỉ cụ thể của sự chờ đợi Chúa sắp đến. Nhờ đức Tin, đông đảo Kitô hữu đã thúc đẩy những hoạt động bênh vực công lý để cụ thể hóa Lời Chúa, Đấng đã đến để loan báo cho mọi người
được giải thoát khỏi áp bức và được hưởng một năm hồng ân (x. Lc 4,18-19).
Nhờ đức Tin, qua các thế kỷ, những người nam người nữ thuộc mọi lứa tuổi được ghi tên trong Sách Sự Sống (x.Kh 7,9; 13,8), đã nói lên nét đẹp khi bước theo Chúa Giêsu tại
những nơi họ được kêu gọi để làm chứng về cuộc sống làm người Kitô hữu: trong gia
đình, nơi làm việc, trong xã hội, khi sống ơn đoàn sủng và thực thi các thừa tác vụ họ đã được kêu gọi.
Nhờ đức Tin, chính chúng ta cũng đang sống: qua việc nhìn nhận một cách sống động Chúa Giêsu đang hiện diện trong cuộc sống chúng ta và trong dòng lịch sử.
14. Năm Đức Tin cũng sẽ là cơ hội tốt để tăng cường làm chứng bằng thực thi bác ái. Thánh Phaolô nhắc nhở: “Hiện nay đức Tin, đức Cậy, đức Mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức Mến” (1 Cr 13,13). Với những lời còn mạnh hơn nữa nhằm thúc giục các Kitô hữu, Thánh Tông đồ Giacôbê khẳng định: “Thưa anh em, ai bảo rằng mình có đức Tin mà không hành động theo đức Tin, thì nào có ích lợi gì? Đức Tin có thể cứu người ấy được chăng? Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: ‘Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no’, nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì?
Cũng vậy, đức Tin không có việc làm thì quả là đức Tin chết. Đàng khác, có người sẽ bảo: ‘Bạn, bạn có đức Tin; còn tôi, tôi có việc làm. Bạn thử cho tôi thấy thế nào là tin mà không có việc làm, còn tôi, qua việc làm tôi cho bạn thấy đức Tin của tôi’” (Gc2,14-18).
Đức Tin không có đức Mến sẽ chẳng mang lại kết quả, còn đức Mến không có đức Tin, sẽ là một tình cảm luôn phó mặc cho ngờ vực. Đức Tin và đức Mến cần có nhau đến mức nhân đức này giúp cho nhân đức kia thể hiện chính mình. Thực tế có nhiều Kitô hữu hiến đời mình để yêu thương những người cô thế, bị gạt ra ngoài lề, bị loại trừ, coi họ là những người đầu tiên cần phải đến gặp và là những người chủ yếu phải được nâng đỡ, vì nơi họ phản chiếu gương mặt của chính Chúa Kitô. Nhờ đức Tin, chúng ta có thể nhận ra gương mặt Chúa phục sinh nơi những người đang mong được chúng ta yêu thương: “Tất cả những gì các con đã làm cho một trong những người anh em bé nhỏ nhất của Thầy đây, tức là các con đã làm cho chính Thầy” (Mt 25,40): những điều Chúa nói chính là lời cảnh báo không được phép quên, và là một lời mời gọi không ngừng đáp lại tình yêu Chúa đã chăm sóc chúng ta. Chính đức Tin giúp nhận ra Chúa Kitô và chính tình yêu của Chúa thôi thúc chạy đến cứu giúp Chúa mỗi khi Người trở thành người thân cận của chúng ta trên nẻo đường cuộc sống. Được đức Tin nâng đỡ, với niềm hy vọng chúng ta hãy nhìn đến công cuộc dấn thân của chúng ta trong thế giới, trong khi chờ đợi “trời mới đất mới, nơi công lý ngự trị” (2 Pr3,13; x. Kh 21,1).
15. Vào cuối đời, Thánh Tông đồ Phaolô truyền cho môn đệ Timôthê “hãy nỗ lực đạt được đức Tin” (2 Tm2,22), với lòng kiên trì như lúc còn trẻ (x. 2 Tm 3,15). Chúng ta hãy nghe lời mời gọi này được gửi đến mỗi người chúng ta, để đừng ai biếng nhác trong đời sống đức Tin. Đức Tin là bạn đồng hành suốt đời, đem lại một cái nhìn luôn mới mẻ để nhận ra những kỳ công Chúa đang thực hiện cho chúng ta. Nhằm nắm bắt những dấu chỉ thời đại hiện nay của lịch sử, đức Tin thúc đẩy mỗi người chúng ta trở thành dấu chỉ sống động về sự hiện diện của Đấng Phục sinh trong thế giới. Điều mà thế giới ngày nay đặc biệt cần đến, đó là chứng từ đáng tin cậy của những người được Lời Chúa soi sáng nơi tâm trí, có khả năng khai mở tâm trí của biết bao người đang khao khát Thiên Chúa và sự sống thật, sự sống vô cùng vô tận.
“Ước gì Lời Chúa hoàn tất hành trình của mình và được tôn vinh” (2 Tx 3,1): ước gì Năm Đức Tin này làm cho tương quan của chúng ta với Chúa Kitô vững chắc thêm mãi, vì chỉ trong Người chúng ta mới vững lòng nhìn về tương lai và được bảo đảm về một tình yêu đích thực và lâu bền. Những lời thánh Tông đồ Phêrô chiếu tỏa tia sáng cuối cùng về đức Tin: “Anh em sẽ được hớn hở vui mừng, mặc dầu còn phải ưu phiền ít lâu giữa trăm chiều thử thách. Những thử thách đó nhằm tinh luyện đức Tin của anh em là thứ quý hơn vàng gấp bội, – vàng là của phù vân, mà còn phải chịu thử lửa. Nhờ thế, khi Đức Giêsu Kitô tỏ hiện, đức Tin đã được tinh luyện đó sẽ trở thành lời khen ngợi, và đem lại vinh quang, danh dự. Tuy không thấy Người, anh em vẫn yêu mến, tuy chưa được giáp mặt mà lòng vẫn kính tin. Vì vậy, anh em được chan chứa một niềm vui khôn tả, rực rỡ vinh quang, bởi đã nhận được thành quả của đức Tin, là ơn cứu độ con người” (1 Pr 1,6-9). Các Kitô hữu cảm nghiệm niềm vui và đau khổ. Biết bao vị thánh đã từng trải qua nỗi cô đơn! Biết bao tín hữu, kể cả ngày nay, bị thử thách vì Thiên Chúa vẫn im lặng trong khi họ muốn được nghe lời Người an ủi! Những thử thách của cuộc sống, đang khi giúp chúng ta hiểu được mầu nhiệm Thập giá và dự phần vào đau khổ của Chúa Kitô (x. Cl 1,24), là khúc dạo  đầu cho niềm vui và hy vọng mà đức Tin dẫn đến: “Khi tôi yếu đuối, chính là lúc tôi mạnh mẽ” (2 Cr 12,10). Chúng ta vững vàng tin tưởng mạnh mẽ Chúa Giêsu đã chiến thắng cái ác và sự chết. Với niềm tín thác, chúng ta trao phó bản thân cho Chúa: Chúa hiện diện giữa chúng ta và chiến thắng quyền lực của ác thần (x. Lc 11,20) và Giáo hội, cộng đoàn hữu hình của lòng Chúa thương xót, ở lại trong Chúa như dấu chỉ giao hòa rõ rệt với Chúa Cha.
Chúng ta hãy phó thác thời điểm ân sủng này cho Mẹ Thiên Chúa. Mẹ được tuyên xưng là “Có phúc vì đã tin” (Lc 1, 45).
Ban hành tại Đền thờ Thánh Phêrô, Rôma,
ngày 11 tháng Mười 2011,
năm thứ 7 sứ vụ Giáo hoàng của tôi
Bênêđictô XVI, Giáo hoàng
(Đức Thành chuyển ngữ)
———————————————

Chú thích

[1] Bài giảng Thánh lễ Khai mạc sứ vụ Phêrô của Giám mục Rôma (24-4-2005): AAS 97 (2005), 710; DC 102 (2005) tr.547.

[2] x. Bênêđictô XVI, Bài giảng Thánh lễ tại Terreiro doPaco, Lisbon (11-5-2010): InsegnamentiVI, 1 (2010), 673; DC 107 (2010), tr. 515.
[3] x. Gioan Phaolô II, Tông hiến Fidei depositum (11-10-1992): AAS 86 (1994), 113-118; DC 90 (1993) tr. 1-3.
[4] x. Phúc trình kết thúcThượng Hội đồng Giámmục ngoại thường lần thứ hai (7-12-1985), II, B, a, 4in Enchiridion Vaticanum, vol. 9, n. 1797; DC 83 (1986), tr. 39.
[5] Phaolô VI, Tông huấnPetrum et Paulum Apostolos, nhân kỷ niệm 1900 năm cuộc tử đạo của Thánh Phêrô vàThánh Phaolô (22-2-1967): AAS 59 (1967), 196; DC 64 (1967) col. 484-485.
[6] Như trên, 198.
[7] Phaolô VI, Long trọng tuyên xưng Đức Tin, Bài giảng Thánh lễ kỷ niệm 1900 năm
cuộc tử đạo của Thánh Phêrô và Phaolô, kết thúc Năm Đức Tin (30-6-1968):AAS 60 (1968), 433-445;DC 65 (1968) col. 1249-1258.
[8] Phaolô VI, Tiếp kiến chung (14-6-1967): Insegnamenti V (1967),
801; DC 64 (1967) col.. 1162.
[9] Gioan Phaolô II, Tông thưNovo Millennio Ineunte(6-1-2001), n. 57: AAS93 (2001), 308; DC 98 (2001), tr. 88.
[10] Huấn từ tại Giáo Triều Rôma (22-12-2005): AAS98 (2006), 52, 103; DC(2006), tr. 63.
[11] Hiến chế về Giáo hộiLumen Gentium, số 8.
[12] De utilitate credendi, 1, 2.
[13] x. Augustinô thành  Hippo, Tự thuật, I, 1.
[14] Hiến chế về Phụng VụSacrosanctum Concilium,số 10.
[15] x. Gioan Phaolô II, Tông hiến Fidei depositum (11-10-1992): AAS 86 (1994), 116; DC 90 (1993), tr. 1-3.
[16] Augustinô thành Hippo,Bài giảng 215, 1.
[17] Sách Giáo lý Hội thánhCông giáo, số 167.
[18] x. Hiến Chế Tín Lý Dei Filius, Ch. III: DS 3008-3009; Hiến Chế Tín LýDei Verbum, số 5.
[19] Bênêđictô XVI, Huấn từ tại Collège desBernardins, Paris (12-9-2008): AAS 100 (2008), 722; DC 105 (2008), tr. 827.
[20] x. Augustinô thành Hippo, Tự thuật, XIII, 1.
[21] Gioan Phaolô II, Tông hiến Fidei depositum (11-10-1992): AAS 86
(1994), 115 và 117; DC90 (1993), tr. 1-3.
[22] x. Thông điệp Fides etRatio (14-9-1998), ss. 34 và 106: AAS 91
(1999), 31-32, 86-87; DC 95 (1998), tr. 913 và 938.
© Copyright 2011 – Libreria Editrice Vaticana
ĐGH Bênêđictô XVI
nguồn: Maria Thanh Mai gởi

Cuộc đời đẹp tươi

Cuộc đời đẹp tươi

Toc ngan k1

WGPSG — “Ngày xưa có một người tên là Vinh Khải Kỳ tỏ ra là một  bậc tiên ông đạo cốt, mình mặc áo lông cừu, lưng thắt dây, ngày ngày giao du ở sơn thủy, vui thú cầm ca chậm rãi rảo bước, tay đánh đàn miệng ca hát không ngừng. Một hôm, Đức Khổng Tử đi dạo gặp Vinh Khải Kỳ, ngài mới hỏi ông: “Tiên sinh làm thế nào mà thường vui vẻ ca hát như thế?”

Khải Kỳ thưa: “Trời sanh muôn vật, loài người cao quý nhất. Ta đã được làm người, đó là điều đáng vui. Người ta sinh ra có người đui què, có người non yếu… mà ta thì khỏe mạnh sống lâu, thế là hai điều đáng vui. Còn cái nghèo là sự thường của thế gian, cái chết là hết sự đời. Ta nay biết vui với cảnh đời để đợi cái chết thì còn gì lo buồn nữa?”

Quan niệm sống lạc quan của nhân vật trong câu chuyện tương tự như những đức tính cơ bản của các Kitô hữu. Được làm con Chúa và được sống theo đúng phẩm giá của mình là một hồng ân.

Hôm nay, Hội Thánh nhớ đến Thánh Magarita Tô Cách Lan là một mẫu gương sống đời tín hữu tuyệt hảo. Chúng ta có thể thấy được điều này qua trích đoạn tiểu sử của thánh nữ:

“Magarita là một ơn huệ Chúa ban cho người dân Tô Cách Lan. Trước khi bà đến đây, có rất nhiều người dốt nát và nhiều hủ tục trong nước. Bà tìm cách cải tiến quê hương chồng bằng cách cổ võ việc giáo dục và nghệ thuật. Về cải cách tôn giáo, bà khích lệ tổ chức các thượng hội đồng và đích thân tham  dự các buổi thảo luận nhằm chấn chỉnh những tệ đoan tôn giáo rất phổ thông thời ấy của tu sĩ cũng như giáo dân, tỉ như vấn đề buôn thần bán thánh, cho vay lời cắt cổ và loạn luân. Cùng với đức lang quân, bà xây dựng nhiều nhà thờ trong
nước và chính tay bà thêu áo lễ cho các linh mục.

Magarita không chỉ là một hoàng hậu mà còn là một người mẹ gương mẫu. Thiên Chúa đã ban cho ông bà sáu con trai và hai con gái. Ðích thân bà trông coi việc giáo dục cũng như dạy giáo lý cho con. Người con út của bà sau này là Thánh David.

Mặc dù rất bận rộn với công việc nhà cũng như việc nước, bà cố giữ mình khỏi bị ảnh hưởng của thế gian. Ðời sống riêng tư của bà rất khắc khổ. Bà dành thời giờ để cầu nguyện và đọc Kinh Thánh. Bà ăn uống thanh cảnh và ngủ rất ít để có thời giờ suy niệm. Hàng năm, hai ông bà tuân giữ hai mùa Chay, một  lần trước Phục sinh và một lần trước Giáng Sinh. Trong thời gian này bà thường thức giấc vào nửa đêm để đi dự Thánh lễ…”.

Thánh Magarita suốt cuộc đời chỉ biết quên mình để phục vụ gia đình và tha nhân. Ngài đã thực hành như lời Tin Mừng theo thánh Luca: Ai tìm cách giữ mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình, thì sẽ bảo tồn được mạng sống(Lc 17,33).

Lạy Chúa Giêsu mến yêu, biết bao lần chúng con đã sống theo thói thế gian, chỉ biết chạy theo những phù vân của thế tục. Xin Chúa ban ơn giúp sức để chúng con biết tỉnh ngộ kịp lúc và biết sống cuộc đời đẹp tươi theo Thánh ý Chúa trọn đời chúng con. Amen

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

Thánh Rose Philippine Duchesne

Thánh Rose Philippine Duchesne

(1769-1852)

18 Tháng Mười Một
Sinh ở Grenoble, nước Pháp, trong một gia đình giầu có, Philippine hấp thụ năng
khiếu chính trị từ người cha và nơi người mẹ ngài học được sự thương yêu người
nghèo. Về tính tình, chính yếu ngài là một người cương quyết với ý chí bất
khuất, mà sau này tính khí ấy đã giúp ngài trở nên thánh thiện. Ngài gia nhập
tu viện năm 19 tuổi mà không nói với cha mẹ một lời, và dù gia đình có chống
đối, ngài vẫn cương quyết đi tu. Khi cuộc Cách Mạng Pháp bùng nổ, tu viện phải
đóng cửa, ngài quay sang chăm sóc người nghèo và người đau yếu, mở lớp dạy các
trẻ bụi đời và liều mình giúp đỡ các linh mục đang hoạt động âm thầm.
Khi tình thế lắng dịu, chính ngài thuê lại tu viện cũ, đã đổ nát vì chiến tranh, cốt để làm sống lại sinh hoạt nhà dòng. Chiến tranh đã tàn phá không chỉ vật chất mà còn ảnh
hưởng đến đời sống tâm linh. Nhà dòng chỉ còn lại bốn nữ tu. Sau đó họ gia nhập
Tu Hội Thánh Tâm mới được thành lập, mà vị bề trên trẻ tuổi, Thánh Madeleine
Sophie Barat, trở nên một người bạn trong suốt cuộc đời của sơ Philippine. Một
thời gian ngắn sau đó, sơ Philippine làm bề trên nhà dòng và làm hiệu trưởng
một trường học. Nhưng mơ ước của ngài ngay từ khi còn nhỏ, lúc được nghe biết
về công cuộc truyền giáo ở Louisiana, là sang Hoa Kỳ phục vụ người da đỏ. Ngài
thực hiện tham vọng này khi 49 tuổi.
Cùng với bốn nữ tu, ngài lênh đênh trên biển 11 tuần lễ để đến New Orleans, và sau đó họ phải xuôi giòng Mississippi thêm bảy tuần lễ nữa để đến St. Louis. Ðến nơi, ngài chỉ gặp
toàn thất vọng. Ðức giám mục địa phương không có chỗ cho các sơ tá túc để hoạt
động cho người thổ dân Hoa Kỳ. Thay vào đó, đức cha lại sai các sơ đến một nơi
mà ngài gọi là “làng hẻo lánh nhất Hoa Kỳ,” đó là St. Charles, Missouri. Tuy nhiên, với bản tính dũng cảm sơ Philippine đã thiết lập trường học miễn phí đầu tiên cho các thiếu nữ ở vùng tả ngạn sông Mississippi.
Nhưng đó là một sai lầm. Mặc dù các ngài làm việc quần quật như bất cứ người phụ nữ nào trong thời kỳ khẩn hoang phải rong ruổi trên các toa xe ngựa viễn tây, sự đói khát và lạnh
giá đã đẩy các ngài ra khỏi vùng, lưu lạc đến Florissant, Missouri, là nơi ngài thiết lập trường Công Giáo Da Ðỏ đầu tiên. Phải là một nữ anh thư như Mẹ Philippine Duchesne mới kinh qua được những hành trình khủng khiếp trong thời gian truyền giáo. Louis E. Callan, người tìm hiểu về Mẹ Duchesne đã viết: “Trong thập niên đầu khi Mẹ Duchesne đến Hoa Kỳ, trên thực tế ngài đã phải chịu đựng mọi gian khổ của một người khẩn hoang, ngoại trừ sự đe dọa của người da đỏ — không có chỗ ở, thiếu thốn thực phẩm, nước uống, dầu đốt, tiền bạc, thời tiết thay đổi thất thường, thiếu thốn mọi tiện nghi, và sự ngỗ nghịch của các trẻ em vì sống trong môi trường thô bạo và ít được giáo dục”.
Sau cùng, vào lúc  71 tuổi, với sức khoẻ yếu kém và mệt mỏi, ngài đã hoàn thành ước mơ. Một xứ đạo được thành hình ở Sugar Creek, Kansas, giữa những người thổ dân Potawatomi. Mặc dù ngài không thể học được tiếng bản xứ, nhưng người thổ dân gọi ngài là “Bà Luôn Cầu Nguyện”. Trong khi người khác học hỏi thì ngài cầu nguyện. Người ta kể rằng các trẻ em da đỏ nghịch ngợm, lén ra đằng sau lưng ngài khi đang cầu nguyện để ném lên áo những mẩu giấy, và vài tiếng đồng hồ sau chúng trở lại, các mẩu giấy ấy vẫn còn dính trên áo.
Ngài từ trần năm 1852 lúc 83 tuổi, và được Ðức Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II phong thánh năm 1988.
Lời Bàn
Ơn Chúa đã trui rèn ý chí sắt đá và sự quyết tâm của Mẹ Duchesne để trở thành một người khiêm tốn và vị tha, không muốn sự an nhàn của một đấng bề trên. Tuy nhiên, người ta chỉ
nên thánh bởi sự trau dồi theo thời gian. Truyện kể rằng trong một cuộc tranh luận với vị linh mục về sự thay đổi nơi cung thánh, ngài cứng đầu đến nỗi vị linh mục phải đe dọa lấy đi nhà tạm thì ngài mới thôi. Nhưng ngài đã kiên nhẫn chịu đựng sự chỉ trích của các nữ tu trẻ cho rằng ngài thiếu cấp tiến. Qua tất cả các biến cố trong quãng đời 31 năm ấy, ngài có được một tình yêu bất khuất và đã trung thành tuân giữ lời khấn của ngài.
Lời Trích
“Chúng tôi chỉ làm được những điều rất nhỏ trong cánh đồng truyền giáo cho Ðức Kitô, nhưng chúng tôi yêu quý điều ấy, vì biết rằng Thiên Chúa không đòi hỏi phải thành đạt những công trình lớn lao, nhưng Người muốn một con tim dâng hiến tất cả, không giữ lại chút gì cho mình… Thập giá đích thực là thập giá mà chúng ta không tự chọn cho
mình… Người có được Ðức Giêsu là có được tất cả”
(Thánh Rose Philippine Duchesne)
nguồn: Maria Thanh Mai gởi

Thánh Agnes ở Assisi

Thánh Agnes ở Assisi

(1197-1253)

19 Tháng Mười Một

Thánh Agnes là em ruột và là người đầu tiên theo Thánh Clara. Sau khi Clara bỏ nhà đi tu thì hai tuần sau, Agnes cũng bỏ nhà đi theo chị mình. Gia đình các ngài tìm cách ép
buộc đưa Agnes về. Họ cố lôi ngài ra khỏi tu viện, nhưng thật lạ lùng thân thể của ngài bỗng dưng nặng trĩu khiến vài người đàn ông cũng không thể nhấc nổi. Người chú của ngài là Monaldo định đánh ngài nhưng bỗng dưng ông bị tê liệt. Sau đó họ phải để cho các ngài yên.

Agnes không thua gì người chị của mình trong việc cầu nguyện và hy sinh hãm mình trong thời gian ở San Damiano. Năm 1221, một nhóm nữ tu dòng Biển Ðức ở Monticelli (gần Florence) xin được trở thành các nữ tu Clara Nghèo Hèn. Thánh Phanxicô gửi Agnes đến làm tu viện trưởng của tu viện này. Sau khi thiết lập các tu viện Clara Nghèo Hèn ở vùng bắc nước Ý, Agnes được gọi về San Damiano năm 1253, khi Clara sắp sửa từ trần.

Ba tháng sau khi Clara từ trần, Agnes cũng đi theo chị mình.

Thánh Agnes được phong thánh năm 1753.

Lời Bàn

Thiên Chúa chắc hẳn phải ưa thích cảnh trớ trêu, vì thế giới đầy dẫy những điều ngược đời. Vào năm 1212, ở Assisi chắc hẳn nhiều người nghĩ rằng Thánh Clara và Agnes đã uổng phí
cuộc đời khi các ngài quay lưng lại thế gian. Trên thực tế, cuộc đời của các ngài thực sự đã đem lại sức sống dồi dào, và thế giới được phong phú hơn nhờ gương mẫu của các vị tu sĩ nghèo hèn ấy.

Lời Trích

Charles de Foucald, sáng lập tu hội Tiểu Ðệ và Tiểu Muội của Chúa Giêsu, có viết: “Người ta phải trải qua sự cô độc và thực sự sống ở đó để nhận được ơn sủng của Thiên Chúa. Chính ở đó mà họ từ bỏ tất cả, gạt bỏ tất cả những gì không thuộc về Thiên Chúa, có như thế họ mới dọn được căn nhà linh hồn chỉ để một mình Chúa ngự. Khi làm như vậy, đừng sợ phản bội loài người. Ngược lại, đó là phương cách duy nhất mà bạn có thể phục vụ họ cách hữu
hiệu”
(Raphaen Brown, Franciscan Mystic, t. 126).

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

 

 

 

LINH HỒN TÔI ƠI, HÃY NGỢI KHEN CHÚA

LINH HỒN TÔI ƠI, HÃY NGỢI KHEN CHÚA

Ngày mai lìa khỏi bụi trần,

Mang theo chỉ một tấm thân cát vàng.

Chỉ duy có Chúa lại gần,

Hiền lành đôi mắt ân cần hoài mong.

Tôi muốn một cuộc đời lâu dài mạnh khoẻ, nhưng ích gì nếu
tôi không chuẩn bị một cuộc đời vĩnh cửu. Để đón nhận cái chết của đời tôi
trong an bình, tôi phải yêu Chúa và tưởng nhớ Chúa, từng giây phút như hơi thở
của sự sống đời tôi.

“Lạy Chúa, xin dạy cho con biết:

đời sống con chung cuộc thế nào,

ngày tháng con đếm được mấy mươi,

để hiểu rằng kiếp phù du là thế. (Tv 31:5)

Trăng lu vì đám mây mù, Lòng mê, chai đá ngục tù trần
gian. Giờ này mới thấy lầm than, Xót xa cay đắng tấm thân dại khờ.

42 “Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến. 44 Cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến. (Mt 24, 42-44)

Trăng rằm tha thướt huyền mơ,

Đêm dài canh vắn, con chờ tình thương.

Làm sao trở lại con đường,

Cùng Thầy Chí Thánh, đường trường Can-vê.

1) Lạy Chúa, xin chỉ cho con đường đi của Chúa; xin dạy bảo con về lối bước của Ngài. Xin hướng dẫn con trong chân lý và dạy bảo con, vì Chúa là Thiên Chúa cứu độ con, và con luôn luôn cậy trông vào Chúa.

2) Lạy Chúa, xin hãy nhớ lòng thương xót của Ngài, lòng thương xót tự muôn đời vẫn có. Xin đừng nhớ lỗi lầm khi con còn trẻ và tội ác, nhưng hãy nhớ con theo lòng thương xót của Ngài, vì lòng nhân hậu của Ngài, thân lạy Chúa.

3) Chúa nhân hậu và công minh, vì thế Ngài sẽ dạy cho con nhận biết đường lối. Ngài hướng dẫn kẻ khiêm cung trong đức công minh, dạy bảo người khiêm cung đường lối của Ngài. (Tv 24)

Đời người quả thật buồn hiu,

Không ôm lấy Chúa đìu hiu cuộc đời.

Uổng công con Đức Chúa Trời,

Giê-su Thập Tự Ngôi Lời cưu mang.

Hôm nay nhìn lá thu vàng,

Mùi hương của lá lại càng buồn lo.

Ngày mai ta thác thành tro,

Giã từ trần thế bóng mờ trôi xa.

Đời ta không thể trầm kha,

Người Ki-tô hữu biết Cha trên trời.

Niềm tin gạch nối Ngôi Lời,

Còn giờ hồng phúc gọi mời hồi tâm.

Tỉnh đi kẻo phải đeo mang, Hư tâm mất Chúa, chóng tàn ngày qua. Những ngày sống với quỷ ma, Bỏ quên, hất hủi người Cha nhân hiền.

Tôi hình dung nếu giờ đây, tôi đứng trước mặt Thầy Chí  Thánh để trình lên Thầy những ngày sống ở trần gian của tôi: bác ái yêu thương, làm tròn bổn phận đã chọn với ơn gọi của mình, đủ chưa? Tôi tự trả lời cho chính tôi: là chưa đủ ! Người không có niềm tin vào Chúa, cũng có thể còn sống tuyệt vời hơn tôi…

Trên đời, người ta ca tụng tình yêu, như loài hoa dại sớm
nở chiều tàn; với bao nghịch cảnh trên đời, có ai đạt được với niềm ước mơ, thế
rồi chấp nhận phận người, an bình vui sống trong bổn phận chờ ngày ra đi.

Trần gian đâu phải quê hương,

Là nơi chiến đấu giao tương Nước Trời.

Theo lời Thiên Chúa gọi mời,

Giã từ trần thế, về nơi Thiên đàng.

Chúa dựng nên con người có quả tim say, ánh mắt lưu luyến
đăm chiêu vui buồn, tai nghe tiếng cú ru hồn, để mà định hướng cho đời đẹp
xinh…

Tình con dâng Chúa hòa ca,

Cho tâm bình lặng, tình Cha thắm nồng.

Xin dâng lên Chúa bông hồng,

Hạt sương lóng lánh tình nồng con thơ.

Bao năm khờ dại hững hờ,

Con đà qụy ngã bên bờ thương đau.

Mẹ nhìn con Mẹ lo âu,

Giê-su Anh Cả nhịp cầu cho con.

Lên đường xa lánh lối mòn,

Dốc đời đâu đẹp, không còn mộng mơ.

Nhìn lên trời thẳm xanh lơ,

Tạ ơn Thiên Chúa con mơ ngày về

Hy vọng đã vươn lên trong lòng tôi, Chỉ có tình yêu Chúa
là tuyệt vời thôi, nắm bàn tay Chúa, đâu hư cuộc đời.

Tình yêu sưởi ấm cuộc đời,

Thu về nhìn lá vàng rơi trên đường.

Tôi đi tìm Chúa mến thương,

Hiệp dâng Thánh lễ dâng hương cuộc đời.

Phút giây thinh lặng hàn huyên,

Mình ta với Chúa se duyên chữ tình.

Trên đời ai chết vì tình,

Hy sinh tất tưởi cho mình vinh quang.

NẰM TRÊN THẬP GIÁ ĐỚN ĐAU CHỈ CÒN CÁI KHỐ XÓT THƯƠNG TÌNH
NGƯỜI…

LINH HỒN TÔI ƠI, HÃY NGỢI KHEN CHÚA

NAM GIAO

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn.

Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn.

Vương  cung thánh đường Chính tòa

Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội
Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn

Mặt  trước Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn với tượng Đức Bà Hòa Bình
Thông tin cơ bản
Vị trí Thành phố Sàigòn
Tôn giáo Công giáo
Rôma
Nghi  lễ Latinh
Năm cung hiến 1959
Tước hiệu giáo hội
hoặc tổ chức
Tiểu vương cung thánh đường
Giám quản G.B. Huỳnh Công Minh
Website TGP.TPHCM
Mô tả kiến trúc
Kiến trúc sư J.Bourard
Thể loại kiến trúc Nhà thờ chính tòa
Phong cách kiến trúc Kiến trúc Roman
Hướng mặt tiền Đông
Năm hoàn thành 1880
Chi phí xây dựng 2,5 triệu franc Pháp
Thông số kỹ thuật
Chiều dài 00 mét (0 ft)
Chiều rộng 00 mét (0 ft)
Chiều rộng lọt lòng 00 mét (0 ft)
Tổng chiều cao 00 mét (0 ft)
Vật liệu gạch đỏ
Nhàthờ Đức Bà Sài Gòn (tên chính thức: Vương cung thánh đường Chính tòa Đức
Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội
, tiếng Anh: Immaculate
Conception Cathedral Basilica
, tiếng Pháp: Cathédrale
Notre-Dame de Saïgon
) là nhà thờ chính tòa của Tổng giáo phận Thành phố Sàigòn. Đây cũng là nhà thờ Công giáo có quy mô lớn và đặc sắc, một những công trình kiến trúc thu hút nhiều khách tham quan nhất tại thành phố này.
Lịch sử
Tượng đồng Giám mục Adran và Hoàng tử Cảnh
Ngay sau khi chiếm Sài Gòn, Pháp đã cho lập nhà thờ để làm nơi hành lễ cho người Công giáo trong đoàn quân viễn chinh. Ngôi nhà thờ đầu tiên được lập ở đường Số 5 (nay là đường Ngô Đức Kế). Đây vốn là một ngôi chùa nhỏ của người Việt bị bỏ hoang do chiến cuộc, cố đạo Lefebvre đã biến ngôi chùa này thành nhà thờ. Vì ngôi nhà thờ đầu tiên đó quá nhỏ nên vào năm 1863, Đô đốc Bonard đã quyết định cho khởi công xây dựng ở nơi khác một nhà thờ khác bằng gỗ bên bờ “Kinh Lớn” (còn gọi là kinh Charner, địa điểm là trụ sở Tòa Tạp Tụng thời Việt Nam Cộng hòa). Cố đạo Lefebvre tổ chức “Lễ đặt viên đá đầu tiên” xây dựng nhà thờ vào ngày 28 tháng 3 năm 1863. Nhà thờ được dựng bằng gỗ, hoàn thành vào năm 1865, ban đầu gọi là Nhà thờ Saigon. Về sau, do nhà thờ gỗ này bị hư hại nhiều vì mối mọt, các buổi lễ được tổ chức trong phòng khánh tiết của Dinh Thống Đốc cũ, về sau cải thành trường học Taberd, cho đến khi nhà thờ lớn xây xong.
Tháng 8 năm 1876, Thống đốc Nam kỳ Duperré đã tổ chức một kỳ thi vẽ đồ án thiết kế nhà thờ mới. Ngoài mục tiêu có chỗ thờ phụng, hành lễ cho tín đồ, việc xây dựng nhà thờ lớn cũng nằm trong mục đích phô trương đạo Công giáo và sự vĩ đại của nền văn minh nước Pháp trước người dân thuộc địa. Vượt qua 17 đồ án thiết kế khác, đồ án của kiến trúc sư J. Bourard với phong cách kiến trúc Roman cải biên pha trộn nét phong cách kiến trúc Gotich đã được chọn. Ban đầu, địa điểm xây cất được đề nghị ở 3 nơi:
  • Trên nền  Trường Thi cũ (nay là góc đường Lê Duẩn và Hai Bà Trưng, tức vị trí tòa
    Lãnh sự Pháp).
  • Ở khu Kinh  Lớn (tại vị trí nhà thờ cũ, nay thuộc đường Nguyễn Huệ).
  • Vị trí  hiện nay.
Sau cùng vị trí hiện nay đã được chọn.[1]. Sau khi đề án thiết kế được chọn, Đô đốc Duperré cho đấu thầu việc xây dựng nhà thờ và cũng chính kiến trúc sư này là người trúng thầu và trực tiếp giám sát công trình. Mọi vật liệu từ xi măng, sắt thép đến ốc vít đều mang từ Pháp sang. Đặc biệt, mặt ngoài của công trình xây bằng loại gạch đặt làm tại Marseille (Pháp), để trần, không tô trát, không bám bụi rêu mà đến nay vẫn còn màu sắc hồng tươi.
Ngày 7 tháng 10 năm 1877, Giám mục Isidore Colombert đặt viên đá đầu tiên trước mặt Phó soái Nam Kỳ và đông đủ nhân vật cấp cao thời ấy. Nhà thờ được xây dựng trong 3 năm. Lễ Phục sinh, ngày 11 tháng 4 năm 1880, nghi thức cung hiến và khánh thành do cố đạo Colombert tổ chức trọng thể với sự có mặt của Thống đốc Nam Kỳ Le Myre de Vilers. Hiện nay, trên bệ phía trên, bên trong cửa ra vào nhà thờ, có chiếc bảng cẩm thạch gắn trong hành lang (transept) ghi ngày khởi công, ngày khánh thành và tên vị công trình sư. Tất cả mọi chi phí xây dựng, trang trí nội thất đều do Soái phủ Nam Kỳ đài thọ, với số tiền 2.500.000 franc Pháp theo tỷ giá thời bấy giờ. Ban đầu, nhà thờ có tên gọi là Nhà thờ Nhà Nước vì nó do nhà nước Pháp bỏ tiền xây dựng và quản lý.
Dòng chữ Latin nơi cổng chính cho biết năm khánh thành Năm 1895, nhà thờ xây thêm hai tháp chuông, mỗi tháp cao 57,6 m và có 6 chuông đồng  lớn nặng 28,85 tấn. Trên đỉnh tháp có đính một cây thánh giá cao 3,50 m, ngang 2 m, nặng 600 kg. Tổng thể chiều cao từ mặt đất lên đỉnh thánh giá là 60,50 m.
Hai tháp chuông vươn cao nhìn từ phía sau Trên vườn hoa trước nhà thờ, năm 1903, người Pháp cho dựng tượng đồng Pigneau de Béhaine (còn gọi là Giám mục Bá Đa Lộc hoặc Giám mục Adran vì vị này làm Giám mục hiệu tòa Adran) dẫn hoàng tử Cảnh (con vua Gia Long) để ca ngợi công lao của nước Pháp “bảo hộ”, “khai hóa” cho Việt Nam. Tượng đài này bao gồm một bệ bằng đá hoa cương đỏ hình trụ tròn và bên trên là bức tượng tạc hình Giám mục Adran với phẩm phục giám mục, tay trái dẫn hoàng tử Cảnh. Tượng làm bằng đồng, được đúc tại Pháp, giới bình dân thời đó thường gọi là tượng “hai hình” để phân biệt với tượng “một hình”, là bức tượng của Đô đốc Hải quân Pháp Genouilly ở phía công trường Mê Linh (nay là cuối đường Hai Bà Trưng, gần bờ sông Sài Gòn). Năm 1945, tượng này bị phá bỏ, nhưng cái bệ đài bằng đá hoa cương đỏ thì vẫn còn tồn tại ở đó mà không có bất cứ một bức tượng nào đặt lên trên.
Năm 1958, Linh mục Giuse Phạm Văn Thiên (sau làm Giám mục giáo phận Phú Cường, giờ đã qua đời), cai quản Giáo xứ Sài Gòn thời ấy, đã đặt tạc một tượng Đức Mẹ Hòa Bình bằng loại đá cẩm thạch trắng Carrara của Ý. Tượng được tạc tại Pietrasanta cách Roma khoảng 500 km. Khi tượng hoàn tất thì được đưa xuống tàu Oyanox vào ngày 8 tháng 1 năm 1959 từ hải cảng Gênes chở tượng qua Việt Nam và tới Sài Gòn ngày 15 tháng 2
năm 1959. Sau đó, công ty Société d’Entreprises đã dựng tượng Đức Mẹ lên bệ đá vốn còn để trống kể từ năm 1945 trước nhà thờ. Tự tay linh mục viết câu kinh cầu nguyện “Xin Đức Mẹ cho Việt Nam được hòa bình” rồi đọc trước đông đảo quan khách có mặt hôm ấy. Ngày hôm sau, Hồng y Aganianian từ Roma qua Sài Gòn để chủ toạ lễ bế mạc Đại Hội Thánh Mẫu Toàn Quốc, đã làm phép bức tượng này vào buổi chiều ngày 17 tháng 2 năm 1959. Từ sự kiện này mà từ đó nhà thờ có tên gọi là Nhà thờ Đức Bà.
Tượng Đức Mẹ Hòa bình và hai tháp chuông nhà thờ Ngày 5 tháng 12 năm 1959, Tòa Thánh đã cho phép làm lễ “xức dầu”, tôn phong Nhà thờ Chính tòa Sài Gòn lên hàng tiểu Vương cung thánh đường (basilique). Từ đó, tên gọi chính thức của thánh đường là Vương cung thánh đường Đức Bà Sài Gòn.
Năm1960, Tòa Thánh thành lập hàng giáo phẩm Việt Nam với ba tòa Tổng Giám mục tại Hà Nội, HuếSài Gòn. Nhà thờ trở thành nhà thờ chinh tòa của vị Tổng giám mục Sài Gòn cho đến ngày nay.
[sửa] Những nét đặc sắc
Trong quá trình xây dựng, toàn bộ vật liệu xây dựng từ xi măng, sắt thép đến ốc vít đều mang từ Pháp sang. Mặt ngoài của công trình xây bằng loại gạch đặt làm tại Marseille để trần, không tô trát, (đến nay vẫn còn màu sắc hồng tươi), không bám bụi rêu. Một số ngói vỡ trong nhà thờ có in hàng chữ Guichard Carvin, Marseille St André France (có lẽ là nơi sản xuất loại ngói này), mảnh ngói khác lại có hàng chữ Wang-Tai Saigon. Có thể đây là mảnh ngói được sản xuất sau tại Sài Gòn dùng để thay thế những mảnh ngói vỡ trong thời gian Thế chiến thứ hai do những cuộc không kích của quân Đồng Minh. Toàn bộ thánh đường có 56 ô cửa kính màu do hãng Lorin của tỉnh Chartres (Pháp) sản xuất.
Móng của thánh đường được thiết kế đặc biệt, chịu được tải trọng gấp 10 lần toàn bộ kiến trúc ngôi nhà thờ nằm bên trên. Và một điều rất đặc biệt là nhà thờ không có vòng rào hoặc bờ tường bao quanh như các nhà thờ quanh vùng Sài Gòn – Gia Định lúc ấy và bây giờ.
Nội thất thánh đường được thiết kế thành một lòng chính, hai lòng phụ tiếp đến là hai dãy nhà nguyện. Toàn bộ chiều dài thánh đường là 93m. Chiều ngang nơi rộng nhất là 35 m. Chiều cao của vòm mái thánh đường là 21 m. Sức chứa của thánh đường có thể đạt tới 1.200 người.
Nội thất thánh đường có hai hàng cột chính hình chữ nhật, mỗi bên sáu chiếc tượng trưng cho 12 vị thánh tông đồ. Ngay sau hàng cột chính là một hành lang và kế đó là nhiều nhà nguyện nhỏ với những bàn thờ nhỏ (hơn 20 bàn thờ) cùng các bệ thờ và tượng thánh nhỏ làm bằng đá trắng khá tinh xảo. Bàn thờ nơi Cung Thánh
làm bằng đá cẩm thạch nguyên khối có hình sáu vị thiên thần khắc thẳng vào khối đá đỡ lấy mặt bàn thờ, bệ chia làm ba ô, mỗi ô là một tác phẩm điêu khắc diễn tả thánh tích. Trên tường được trang trí nổi bật 56 cửa kính mô tả các nhân vật hoặc sự kiện trong Thánh Kinh, 31 hình bông hồng tròn, 25 cửa sổ mắt bò bằng kính nhiều màu ghép lại với những hình ảnh rất đẹp. Tất cả các đường nét, gờ chỉ, hoa văn đều tuân thủ theo thức Roman và Gôtich, tôn nghiêm và trang nhã. Tuy nhiên, trong số 56 cửa kính này hiện chỉ còn bốn cửa là nguyên vẹn như xưa, còn các cửa kính màu khác đều đã được làm lại vào khoảng những năm 1949 để thay thế các cửa kính màu nguyên thủy của nhà thờ đã bị bể gần hết trong thế chiến thứ 2. Trên trán tường của cửa chính
nhà thờ có hàng chữ Latinh:
DEO OPTIMO MAXIMO BEATIEQUE MARIA VIRGIN IMMACULATOE
Nghĩa là: Thiên Chúa tối cao đã ban cho Đức Trinh Nữ Maria được ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội.
Còn trên trán tường của cửa vào bên phải có những hàng chữ bằng tiếng Hoa, thật ra đó là hai câu đối: “Nhà thờ Thiên Chúa đầy ân đức – Thánh mẫu vô nhiễm nguyên tội“. và hàng chữ nói tới năm khánh thành nhà thờ 1880.
Nội thất thánh đường ban đêm được chiếu sáng bằng điện (không dùng đèn cầy) ngay từ khi khánh thành. Vào ban ngày, với thiết kế phối sáng tuyệt hảo, hài hòa với nội thất tạo nên trong nội thất thánh đường một ánh sáng êm dịu, tạo ra một cảm giác an lành và thánh thiện. Ngay phía trên cao phía cửa chính là “gác đàn” với cây đàn organ ống, một trong hai cây đàn cổ nhất Việt Nam hiện nay. Đàn này được các chuyên gia nước ngoài làm bằng tay, thiết kế riêng, để khi đàn âm thanh đủ cho cả nhà thờ nghe, không nhỏ mà cũng không ồn. Phần thân đàn cao khoảng 3 m, ngang 4 m, dài khoảng 2 m, chứa những ống hơi bằng nhôm đường kính khoảng một inch. Phần điều khiển đàn nằm riêng nối với thân đàn bằng những trục, có những phím đàn như đàn organ bình thường và những phím to đặt dưới sàn nhà (dài chừng 3 m, ngang khoảng 1 m) để người điều khiển đàn đạp lên khi dùng nốt trầm. Đàn còn có những thanh gõ lớn để đập vào phần dưới các ống hơi phát ra âm thanh. Hiện nay, cây đàn này đã hoàn toàn hỏng do bị mối ăn phần gỗ bàn phím điều khiển bằng tay.
Ban đầu, hai tháp chuông cao 36,6 m, không có mái và chỉ có độc một chiếc cầu thang hẹp chừng 40 cm bề ngang. Nội thất gác chuông rất tối và sàn được lót sơ sài bằng những miếng gỗ nhỏ cách khoảng, nhìn xuống thấy sâu hút. Vào năm 1895, thánh đường xây thêm hai mái chóp để che gác chuông cao 21 m, theo thiết kế của
kiến trúc sư Gardes, tổng cộng tháp chuông cao 57 m. Có tất cả 6 chuông lớn (sol: 8.785kg, la: 5.931kg, si: 4.184kg, đô: 4.315kg, rê: 2.194, mi: 1.646kg), gồm sáu âm, nặng tổng cộng 28,85 tấn, đặt dưới hai lầu chuông. Bộ chuông này được chế tạo tại Pháp và mang qua Sài Gòn năm 1879. Trên tháp bên phải treo 4 quả chuông (sol, do, rê, mi); tháp bên trái treo 2 chuông (la, si). Trên mặt mỗi quả chuông đều có các họa tiết rất tinh xảo. Tổng trọng lượng bộ chuông là 27.055kg tức khoảng 27 tấn, nếu tính luôn hệ thống đối trọng(1.840kg) được gắn
trên mỗi trái chuông thì tổng trọng lượng của bộ chuông sẽ là 28.895kg.Ba quả chuông to nhất là chuông si nặng 4.184kg, chuông la nặng 5.931kg và đặc biệt là chuông sol là một trong những quả chuông lớn nhất thế giới: nặng 8.785 kg, đường kính miệng chuông 2,25 m, cao 3,5 m (tính đến núm treo). Chuông này chỉ ngân lên mỗi năm một lần vào đêm Giao thừa Âm lịch.Các chuông đều được điều khiển bằng điện từ bên dưới. Riêng ba chiếc chuông lớn trước khi đánh đều được khởi động bằng cách đạp (vì quá nặng) cho lắc trước khi bật công tắc điện. Vào ngày thường, thánh đường chỉ cho đổ một chuông mi vào lúc 5 giờ sáng và đổ chuông re vào lúc 16g15. Vào ngày lễ và chủ nhật, nhà thờ thường cho đổ ba chuông theo hợp âm Mi, Re và Do ( đúng ra là hợp âm ba chuông
Mi, Do và Sol, nhưng vì chuông Sol qua nặng nên thay thế bằng chuông Do). Vào đêm Giao thừa thì mới đổ cả 6 chuông. Tiếng chuông ngân xa tới 10 km theo đường chim bay.Bộ máy đồng hồ trước vòm mái cách mặt đất chừng 15 m, giữa hai tháp chuông được chế tạo tại Thụy Sĩ năm 1887, hiệu R.A, cao khoảng 2,5 m, dài khoảng 3 m và ngang độ hơn 1 m, nặng hơn 1 tấn, đặt nằm trên bệ gạch. Dù thô sơ, cũ kỹ nhưng hoạt động khá chính xác. Để điều chỉnh đồng hồ, phía sau máy có một chiếc đồng hồ to cỡ đồng hồ reo trong gia đình. Chỉ cần theo dõi chiếc đồng hồ con này, có thể biết đồng hồ lớn chạy chậm, nhanh, đúng hay sai giờ. Mỗi tuần phải lên giây đồng hồ một lần và chiếc cần để lên giây đồng hồ giống như tay quay máy xe. Đồng hồ còn có hệ thống bao giờ bằng búa đánh vô các chuông của nhà thờ, tuy nhiên đã không còn hoạt động do dây cót quá cũ.
Mặt trước thánh đường là một công viên với bốn con đường giao nhau tạo thành hình thánh giá. Trung tâm của công viên là bức tượng Đức Mẹ Hòa bình (hay Nữ vương Hòa bình). Tượng do nhà điêu khắc G. Ciocchetti thực hiện năm 1959. Tên của tác giả được ở trên tà áo dưới chân, phía bên trái của bức tượng. Bức tượng cao 4,6
m, nặng 8 tấn, bằng đá cẩm thạch trắng của Ý, được tạc với chủ đích để nhìn từ xa nên không đánh bóng, vì vậy mà toàn thân tượng, kể cả vùng mặt vẫn còn những vết điêu khắc thô. Tượng Đức Mẹ trong tư thế đứng thẳng, tay cầm trái địa cầu, trên trái địa cầu có đính cây thánh giá, mắt Đức Mẹ đăm chiêu nhìn lên trời như đang cầu
nguyện cho Việt Nam và cho thế giới được hoà bình. Chân Đức Mẹ đạp đầu con rắn (mà hiện nay, đầu con rắn đã bị bể mất cái hàm trên). Trên bệ đá, phía trước bức tượng, người ta có gắn một tấm bảng đồng với hàng chữ Latinh:
REGINA PACIS – ORA PRO NOBIS – XVII. II. MCMLIX
Nghĩa là: NỮ VƯƠNG HÒA BÌNH – CẦU CHO CHÚNG TÔI – 17.02.1959
Phía dưới bệ đá, người ta đã khoét một cái hốc chỗ giáp với chân tượng Đức Mẹ, trong đó có một chiếc hộp bằng bạc, chứa những lời kinh cầu nguyện cho hoà bình của Việt Nam và thế giới. Những lời cầu nguyện đó được viết lên trên những lá mỏng bằng những chất liệu khác nhau như bằng vàng, bạc, thiếc, nhôm, giấy, dađồng,
được gởi tới từ nhiều miền của Việt Nam, kể cả từ một số vùng ngoài miền Bắc.

LỄ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM

LỄ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM

VIẾT TIẾP TRANG SỬ

Tác giả: Lm Nguyễn Nguyên

Mạng sống là điều quý giá nhất trên đời. Vì thế, mà theo bản năng tự nhiên, ai cũng tham sống, sợ chết; ai cũng tìm đủ mọi cách để bảo tồn sự sống: gặp một nguy hiểm, đe dọa,
người ta trốn tránh, lùi bước, gặp một cơn bệnh người ta lo chạy chữa thuốc thang, dầu phải tốn kém, dầu phải đi hết nơi này đến nơi khác. Đó là điều thường tình, là phản ứng chung của con người. Tuy nhiên, có một điều không thường, một điều đáng khâm phục, đó là có những con người vì Nước Trời, vì yêu mến Thiên Chúa, đã thắng vượt sợ hãi, không sợ đau khổ, không sợ chết, sẵn sàng hy sinh mạng sống của mình để bảo vệ cho một lý tưởng cao cả, đó là các vị Tử Đạo Việt Nam mà hôm nay chúng ta long trọng mừng kính vinh quang của các ngài.

Các Thánh Tử Đạo Việt nam là ai? Thưa, các ngài là những giáo dân, là những phụ nữ chân yếu tay mềm, là cụ già 80 tuổi như thánh Lê Bảo Tịnh; là một bà cụ 62 tuổi như nữ thánh Anê Đê; như một cậu trai 14 tuổi, thánh Phaolô Bột; là một thiếu nữ 12 tuổi như cô Lucia Liễu; như Phaolô Đạm 10 tuổi; như em bé Phaolô Túc 9 tuổi. Là các Giám mục, các Linh mục, các Nữ tu. Là chủng sinh, là Ban Hành Giáo, là quan trong triều đình, là quân lính, là công chức, là y sĩ, là thương gia. Các ngài thuộc đủ mọi thành phần dù vô danh tiểu tốt hay có chức có quyền trong Hội Thánh, có địa vị trong xã hội. Các ngài cũng đã sống như biết bao nhiêu những con người khác đã sống. Thế nhưng, hôm nay tại sao chúng ta lại nhớ đến các ngài?. Thưa tại bởi, các Ngài đã sống hơn hẳn rất nhiều người ở chỗ: các Ngài vì theo Chúa, nên đã bị bắt, bị kết án và không chịu chối đạo, không chịu bước qua Thánh Giá,
các ngài đã bị xử tử hình bằng nhiều cách hung bạo dã man. Các ngài đã biết sống anh hùng, không để cho mình bị mua chuộc, bị khuất phục, không nhường bước, không thỏa hiệp để được sống thảnh thơi. Tiền bạc không làm cho các Ngài mù tối. Khổ đau không làm cho các ngài chùn bước, nhục hình không làm cho các ngài ngã qụy, thậm chí ngay cả cái chết cũng không uốn cong được lòng trung tín của các Ngài. Và chính dòng máu của các ngài đổ ra trên mảnh đất này, đã làm phát sinh một Giáo Hội Việt Nam như hôm nay.

Thế cho nên, họp nhau mừng kính các Thánh Tử Đạo Tổ Tiên anh hùng, không chỉ để chúng ta trầm trồ khen ngợi tán dương các Ngài. Nhưng là để chúng ta học noi gương nhân đức của các Ngài. Dẫu biết rằng, ngày nay, không còn những bạo chúa bách đạo bằng gươm
đao súng đạn, không ai dùng bạo lực, dùng những cực hình man rợ bắt chúng ta bỏ
đạo hay chối Chúa như tổ tiên ta ngày xưa. Nhưng chúng ta lại phải đương đầu với những thách thức mới. Tiền bạc, tiện nghi, khoái lạc có thể là những bạo chúa, những sức mạnh gây ra những cuộc bách hại thầm lặng nhưng không kém phần khủng khiếp và tai họa. Bị bắt, bị đâm, bị chém, bị chặt đầu vì Chúa, đó là chứng tá cao quý, đó là tử đạo. Không bị bắt, không bị giết, nhưng âm thầm sống cuộc sống Chúa ban, biết chế ngự những đam mê và ước muốn xấu, biết khước từ những tham lam của cải vì lẽ công bằng, biết vui tươi trong những hiểu lầm vu oan, biết hy sinh tha thứ và phục vụ mọi người trong tình yêu thương, đó cũng
là tử đạo, đó cũng là chứng tá cao quý. Bởi vì, chết thể xác tuy đau đớn nhưng chỉ trong chốc lát, còn sống được một cuộc sống bình thản tươi vui trong những nỗi chết từ bỏ mỗi ngày, trong những ray rứt tiêu hao đau khổ, những quyến rũ kéo dài, đó là cả một cố gắng và là một sự trung thành lớn lao.

Vậy, ước gì trong khí thế hân hoan mừng kính các Thánh tử đạo Việt Nam, những bậc tiền bối đã lấy cái chết và máu đào làm chứng cho Đức Kitô và viết nên trang sử oai hùng cho Giáo Hội Việt Nam, chúng ta cũng hãy noi gương các ngài viết tiếp trang sử mà các
ngài còn đang viết dở dang: “Hãy để cho mình bị bách hại, nhưng đừng bách hại
ai. Hãy để cho mình bị đóng đinh, nhưng đừng đóng đinh ai . Hãy để cho mình bị
vu khống, nhưng đừng vu khống ai”. Có như thế chúng ta mới xứng đáng là bậc hậu
sinh khả uý; có như thế chúng ta mới xứng đáng thừa hưởng gia nghiệp đức tin
các ngài để lại; và có như thế mai sau chúng ta mới xứng đáng được lãnh vòng
hoa chiến thắng và chung hưởng vinh quang với các ngài trên thiên quốc. Amen.