NHỚ XƯA,

NHỚ  XƯA,

Nhà em khép kín bên kia bến,
Ẩn khuất con đò lúc nước lên,

Hàng cây phượng vĩ trồng ngay lối,

Lặng lẽ rung rinh liễu dịu mềm…

Sương tan lấp lánh ngàn tia sáng,

Lã lướt thân cò vụt cánh sang,

Con đường cuối xóm buồn heo hút,

Ngập lối muôn hoa nở muộn màng…

Nhớ quá chiều nào vội ghé thăm,

Mắt em ươn ướt ngõ thương thầm,

Cầm tay muốn nói lời tan hợp,

Chỉ ngại xa rồi…biệt mấy năm…!

Con thuyền viễn xứ nay như đã,

Bỏ lại thôn nghèo vạn dặm xa,

Người xưa vắng bóng vầng trăng cũng,

Héo hắt tàn canh … thiếu mặn mà…

Liverpool.16/12/2012.

Song Như.

Kính gởi Quý Thầy Cô và các bạn LVC .

Kim Trọng.

Hiệu trưởng lấy thân mình che học sinh trong vụ thảm sát

Hiệu trưởng lấy thân mình che học sinh trong vụ thảm sát
nguồn:VNexpress.net

Không khóa được phòng, nữ hiệu trưởng Dawn Lafferty Hochsprung đã dùng thân mình để chèn cửa, bảo vệ các học sinh ở bên trong. Bà bị kẻ sát nhân bắn chết.

Hiệu trưởng Dawn Lafferty Hochsprung. Ảnh: AP

Diane Day, một nhà trị liệu làm việc tại trường tiểu học Sandy Hook, kể rằng bà đang ngồi họp với nữ hiệu trưởng Hochsprung và các giáo viên khác lúc 9h30 sáng 14/12 thì nghe thấy tiếng súng nổ.

“Chúng tôi chỉ mới ngồi vào bàn trò chuyện được 5 phút thì nghe thấy tiếng ‘pop. pop. pop’ “, WSJ dẫn lời bà Day kể. “Tôi sợ quá liền chui xuống gầm bàn”.

Trong khi đó, bà Dawn Hochsprung và một nhà tâm lý học của trường lập tức rời phòng và chạy ra bên ngoài.

“Họ không lưỡng lự gì về việc sẽ đối mặt hay đứng nhìn những gì đang diễn ra”, bà Day kể tiếp. “Ban đầu chúng tôi nghe thấy tiếng bọn trẻ la hét, sau đó mọi thứ yên ắng và tất cả những gì có thể nghe được chỉ là tiếng súng nổ”.

Tại một căn phòng, do cửa không có ổ khóa, bà Hochsprung đã dùng thân mình để chèn cho cửa khép chặt, không bị bung ra, chặn tên sát nhân xông vào giết hại các học sinh. Tuy nhiên, cũng vì thế mà bà bị bắn vào chân và tay.

Hochsprung là một trong 6 người lớn bị giết cùng 20 em học sinh trong vụ thảm sát sáng qua ở trường Sandy Hook.

“Bà ấy là một người anh hùng”, bà Day nói.

Bà Hochsprung,47 tuổi, tốt nghiệp cử nhân chuyên ngành giáo dục đặc biệt và đã lấy bằng thạc sĩ những năm 90. Bà đã thăng tiến qua nhiều cấp bậc, làm việc trong các trường tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông ở Connecticut.

Bà chỉ vừa nhậm chức hiệu trưởng ở trường tiểu học Sandy Hook, thành phố
Newtown cách đây hai năm. Trường có gần 600 học sinh từ mẫu giáo đến lớp 4.

“Hochsprung là một nhà lãnh đạo niềm nở nhưng nghiêm túc”, Tom Prunty, một người bạn có cháu gái học ở Sandy Hook và không bị thương trong vụ xả súng nhớ lại. “Cô ấy thực sự tốt bụng và rất vui vẻ, nhưng cô cũng là một phụ nữ rất khó tính. Cô ấy là đúng là kiểu thầy mà bạn muốn có cho con em mình. Và những đứa trẻ cũng rất yêu cô ấy”.

Mùa hè năm ngoái, Hochsprung là một trong 15 nhà giáo trên toàn nước Mỹ và là người đầu tiên ở Connecticut được nhận vào học chương trình tiến sĩ 27 tháng ở New York.

Gần đây, bà Hochsprung còn lắp đặt một hệ thống an ninh mới tại trường để đảm bảo an toàn cho học sinh. Mỗi vị khách đến thăm trường sau khi cổng khóa lúc 9h30 sáng đều phải rung chuông ở trước cửa. Một nhân viên sẽ sử dụng hệ thống giám sát trực quan để quyết định xem vị khách đó có được phép vào trường hay không.

Các bậc phụ huynh và các vị khách đến trường phải báo cáo trực tiếp với văn phòng chính và đăng ký tên tuổi. Phụ huynh được yêu cầu trình thẻ căn cước nhân viên bảo vệ không nhận ra họ.

Chính vì thế, sự ra đi của một nữ hiệu trưởng tài năng, nhiệt huyết và đam  mê đã để lại sự tiếc thương lớn cho cả cộng đồng người dân thành phố Newtown và bang Connecticut.

Anh Ngọc

 

Về cuốn ‘Bên Thắng Cuộc’

Về cuốn ‘Bên Thắng Cuộc’

Nguyễn Giang

bbcvietnamese.com

Thứ tư, 12 tháng 12, 2012

Mốc thời gian quan trọng: Sài Gòn 30 tháng 4 năm 1975

Khi tin ‘giải phóng miền Nam’ lan  đến một vùng quê Hà Tĩnh, một cậu bé còn chơi với bạn ở ngoài ruộng và bọn trẻ đã ‘buông nhau ra thôi không đánh vật’ nữa, nhưng cuộc giằng co chọn lối đúng và sai cho cả một dân tộc hóa ra mới chỉ bắt đầu và còn chưa kết thúc.

Với cậu bé chăn trâu ngày đó  mà nay thành danh với cái tên blogger Osin, hành trình vào đời và nghiệp làm báo cũng bắt đầu từ tháng 4/1975 khi sự ‘nhận mặt nhau’
diễn ra có triệu người vui và triệu người buồn của hai miền Nam Bắc Việt Nam sau cuộc nội chiến quốc tế hóa.

Khi được đọc bản thảo ‘Bên Thắng Cuộc’ (cả hai tập), tôi băn khoăn không hiểu vì sao Huy Đức không đặt tựa cho sách là ‘Bên Thắng Trận’ với cả sự oai hùng, hào khí
cách mạng như truyền thông chính thống vẫn nêu?

Có phải trận chiến quân sự và ý thức hệ dù lớn lao đến đâu cũng chỉ là một cuộc cờ và trận chiến vì tâm hồn và tương lai Việt Nam vẫn chưa dứt?

Những suy luận đến từ cuốn sách chắc sẽ còn nhiều, vì chỉ trong vòng vài tuần qua, số bài bình luận về cuốn ‘Bên Thắng Cuộc’ đã xuất hiện đông đảo với đầy
đủ những lời khen nhưng cũng có một số ý phê bình, đa số tôn trọng và không gay gắt.

Vì thế nên ở đây, tôi chỉ chia sẻ một số cảm quan riêng và tập trung vào những gì tôi nghĩ rằng sách đã gợi mở ra và tạo đà cho những người viết trong và ngoài nước đi
tiếp.

Trước hết, cuốn sách mổ xẻ khá rành mạch, chi tiết và làm mới lại nhiều giai đoạn lịch sử, biến cố, sự kiện quan trọng trong một thời kỳ cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam từ 1975 đến Đổi Mới.

Các đoạn có giá trị nhất, nhiều tư liệu mới nhất và tổng hợp được cách nhìn của các bên nhất phải kể đến giai đoạn lực lượng cộng sản Nam và Bắc tiến vào Sài Gòn,
và thời kỳ quân quản rồi thống nhất hai miền.

“Cuốn sách của tôi bắt đầu từ ngày 30-4-1975, ngày nhiều người tin là miền Bắc đã giải phóng miền Nam. Nhiều người thận trọng nhìn lại suốt hơn ba mươi năm, giật mình với cảm giác bên được giải phóng hóa ra lại là miền Bắc”

Sau đó là các diễn biến của thời kỳ đánh tư sản, tiêu diệt văn hóa, văn nghệ tự do, quy kết loại trừ tư bản Hoa kiều, cưỡng bức kinh tế mới, cho tới cuộc chiến với Khmer Đỏ cùng thời gian các nỗ lực duy chí ý nhằm áp đặt mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa bao cấp trên cả nước, đưa đến các thảm họa nhân đạo và sự suy sụp kinh tế.

Ở các chương này, ngòi bút Huy Đức tỏa sáng trong giọng văn âm thầm, cố gắng giữ vẻ bình thản nhưng bên trong sôi sục, thậm chí có chỗ nghẹn đi vì các biến cố đau đớn cho hàng triệu người mà anh chứng kiện cận cảnh, nhất là ở trong tâm thức một người đi bộ đội về và từ Bắc vào sống trong Nam.

Qua các chương đó, người đọc dù thuộc các thế hệ sau có thể hình dung ra được khá rành mạch vì sao sự mê tín với một mô hình độc tôn đã khiến lãnh đạo Đảng cầm quyền ở Việt Nam liên tiếp sai lầm mà các di chứng vẫn còn đang là chính sách hiện hành dù đã được bớt liều nhờ tác động khách quan và sự tự ý thức.

Dòng đời trong lịch sử

Cách viết ‘sử ký’ di chuyển từ bối cảnh lịch sử chung đến hoạt động của các nhân vật chính đã dựng lại nhiều hình ảnh sống động nhờ số lượng phong phú các tư liệu nguồn mà tác giả ghi lại hoặc phỏng vấn trực tiếp với nhiều nhân chứng, người trong cuộc ở cả các cấp cao.

Cuộc đời riêng, hoạt động và suy nghĩ, tính toán cá nhân và chính trị của các ông Lê Duẩn, Võ Nguyên Giáp, Võ Văn Kiệt, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ…được tái hiện rõ rệt.

Chuyện tình yêu, hôn nhân, gia đình vợ con họ được kể lại, ghi lại vừa đủ để phụ thêm cho các hiểu tính cách, các bước ngoặt trong đời những nhân vật này trong
bối cảnh xã hội, lịch sử mà không sa đà vào chuyện riêng tư.

Chẳng hạn cuộc tình và cuộc đời làm vợ thứ nhì của ông Lê Duẩn mà bà Nguyễn Thụy Nga phải gánh chịu cho thấy một giai đoạn mà văn hóa chính trị cộng sản rất hà khắc, thậm chí tàn khốc với việc riêng của tất cả mọi người, kể cả những nhân vật cao cấp, ngược hẳn với thời kỳ tung hê, thả cửa của quan chức hiện nay.

Một cách nhìn khác xuyên qua những tư liệu quý mà Huy Đức thu lượm và tìm cách kiến giải là dòng ‘sinh hoạt quân sự’.

Ông Võ Văn Kiệt đến hội nghị sơ kết Thanh niên Xung phong năm 1981 ở Đắc Nông

Lồng vào các chiến dịch tiến vào Sài Gòn năm 1975, chiến tranh biên giới Tây Nam, xung đột Trung – Việt, hay đi ngược về thời kỳ kháng Pháp, chiến tranh Mỹ – Việt là
các chân dung sỹ quan, tướng lĩnh, nhân chứng của nhiều phía.

Các trận đánh, các cuộc ra quân, những vụ thảm sát, tàn phá của quân Pol Pot, quân Trung Quốc được mô tả bằng ngòi bút của người làm báo, viết phóng sự nên sống
động hơn nhiều so với các cuốn tiếng Việt từ trước tới nay về cùng chủ đề mà tôi được đọc.

Các vụ ‘thâm cung bí sử’ trong chính trường Việt Nam, nhất là giới tướng lĩnh như cái chết của các tướng Nguyễn Chí Thanh thời chiến tranh, rồi những chuyện đột tử của
các tướng Hoàng Văn Thái, Lê Trọng Tấn, Đinh Đức Thiện sau này cùng một âm mưu bao vây, hạ thấp tướng Võ Nguyên Giáp được mô tả thật sinh động.

Cuộc đời và các suy tư của ông Võ Văn Kiệt mà tác giả có thời gian gặp gỡ nhiều cũng được trình bày lại khá đầy đủ, cho người đọc cơ hội thấy được chân dung một
nhân vật cộng sản miền Nam luôn trăn trở để càng về cuối đời lại càng về gần với tinh thần dân tộc.

Nhân chứng và tư liệu

Đã có người khác đã bình luận về phương pháp viết của Huy Đức, gồm cả phần được và phần thiếu sót nên ở đây, tôi chỉ muốn chú ý đến cách sử dụng tư liệu của tác
giả để tạo dựng bối cảnh quốc tế hoặc khu vực cho phần nội dung Việt Nam của anh.

Giai đoạn viết về cuộc cách mạng dân chủ Đông Âu và Liên Xô sụp đổ không phải là phần mạnh nhất của tác giả.

Nhà báo Huy Đức và TBT Lê Khả Phiêu: bản thân tác giả là nhân chứng của nhiều sự kiện lịch sử

Huy Đức chủ yếu sử dụng lời kể của tiến sỹ Lê Đăng Doanh về chuyến đi của Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh sang Đông Đức, cuộc gặp Erich Honecker, Mikhail Gorbachev và Nicolai Ceaucescu và tư liệu của Bùi Tín đã xuất bản khá lâu để dựng lại ‘cú sốc thể chế’ mà perestroika và glasnost gây ra cho ban lãnh đạo Hà Nội.

Sang để ‘chấn chỉnh’ lãnh tụ phe cộng sản quốc tế Gorbachev về đường lối xét lại, ông Linh đã cảm lạnh, sốt và ốm (theo cả nghĩa đen và bóng?) khi gặp sự hắt hủi,
coi thường của ‘đồng chí đàn anh’ – dấu hiệu Hà Nội bị Đông Âu bỏ rơi nên dần tìm sang ngả Trung Quốc.

Nhưng cũng vì dựa trên các trích dẫn đó là chính, nhiều lý giải về Đông Âu trong sách không theo kịp các tác phẩm xuất bản tại khu vực này hoặc sách của các tác giả Phương Tây trong 10 năm qua.

“Khi được đọc bản thảo ‘Bên Thắng Cuộc’, tôi băn khoăn không hiểu vì sao Huy Đức không đặt tựa cho sách là ‘Bên Thắng Trận’ với cả sự oai hùng, hào khí cách mạng? “

Nguyễn Giang

Về sự dính líu và cuộc tháo chạy của người Mỹ khỏi Đông Dương, quan hệ Mỹ – Trung về Campuchia cuốn sách cũng dùng quá nhiều luận điểm của nhân vật nổi tiếng thiên kiến và thiên hữu, ông Henry Kissinger trong cuốn ‘Ending the Vietnam
War’ (2003), thiếu hẳn các cuốn mới hơn về Trung Quốc như ‘Inside Ten
Episodes of China’s Diplomacy’ (2006) của Tiền Kỳ Tham.

Các đoạn về quan hệ Trung Xô  hoặc Trung Mỹ hay vai trò chỉ đạo của Moscow với Hà Nội trong nhiều thập niên cũng thiếu nhiều phần đối chiếu từ các sách mới mà giới nghiên cứu Âu Mỹ liên tiếp đưa gia thời gian qua như cuốn ‘Revolution
1989: The Fall of the Soviet Empire’ của Victor Sebestyen (2009) hay ‘Russian’s Cold War’ của Jonathan Haslam (2012).

Nói như thế không phải là để phê phán cuốn sách đầy đủ nhất từ trước tới nay về chính trị Việt Nam mà để bạn đọc Việt Nam tin tưởng rằng chủ đề ‘hệ thống cộng
sản’ vẫn được  giới khoa bảng quốc tế theo đuổi, cập nhật, và trong dòng sách này Bên Thắng Cuộc chắc chắn là một hồ sơ quan trọng nếu được dịch ra ngoại ngữ.

Phần trong nước, tác giả cũng sử dụng khá nhiều các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam để ghi nhận các bước tiến và lùi trong chính sách.

Nhưng vì ở Việt Nam luôn có khoảng cách khá lớn giữa ngôn từ văn bản với chính sách áp dụng thực và kết quả cuối cùng nên cách làm này dù cần thiết cho giới
cần tra cứu, lại dễ khiến bạn đọc bình thường có cảm giác bội thực của một thời phải ăn độn bo bo.

Trái lại, khi đi xa văn kiện, ngòi bút báo chí tinh tế đã giúp tác giả giải mã được chiến lược ‘pháo đài huyện’ mà các con đẻ của nó vẫn đang lãnh đạo đất nước
ngày hôm nay.

Xé rào: ông Trường Chinh thăm nhà máy bột giặt Viso năm 1983

Nào ai nghĩ chính phong trào ông Lê Duẩn tung ra nhằm gây dựng cán bộ trẻ từ huyện để đẩy thẳng lên trung ương hồi đó, theo Huy Đức, đã tạo đà cho ông Nguyễn Tấn Dũng từ huyện Cà Mau, tỉnh Minh Hải hay bà Trương Mỹ Hoa từ huyện Gò Công, tỉnh Tiền Giang và một số nhân vật khác lên cao.

Chính cách để các nhân vật thật tái hiện trong ánh sáng mới của lịch sử và tư liệu khiến ‘Bên Thắng Cuộc’ không nằm vào dạng tác phẩm nghiên cứu academic mà giống ký sự hay non-fiction biographic history tựa như của Simon Sebag Montefiore
trong ‘Stalin: The Court of the Red Tsa’ hay ‘Jerusalem: The Biography’.

‘Bên Thắng Cuộc’ còn nhiều phần phát hiện thú vị khác về ‘người trong cuộc’ mà tôi tin là bạn đọc sẽ đánh giá cao, và nếu những gì tác giả viết ra có gây dư luận
khen chê hay tạo ra tranh luận thì cũng là điều tốt vì đã lâu người đọc tiếng Việt chưa có trong tay một bộ sách đầy đủ, chân thực và nhiều tính gợi mở như thế về đất nước họ.

Và nếu vì đọc ‘Bên Thắng Cuộc’ mà có các tác giả khác nung nấu muốn viết thêm, viết lại, viết tiếp về chủ đề Việt Nam thì hẳn cũng là một thành công ‘ý tại ngôn
ngoại’ cho tác giả.

 

Thánh Gioan Thánh Giá

Thánh Gioan Thánh Giá

(1541 – 1591)

14 Tháng Mười Hai

 

Gioan là thánh vì cuộc đời ngài là một nỗ lực quả cảm dám sống trọn vẹn với tên của ngài: “Gioan của Thánh Giá”. Sự điên rồ của thập giá cuối cùng đã được thể hiện. Câu
nói bất hủ của Ðức Kitô: “Ai muốn theo ta hãy từ bỏ chính mình, vác thập
giá mình mà theo ta” (Máccô 8:34b) là câu chuyện cuộc đời Thánh Gioan. Mầu
Nhiệm Vượt Qua — từ sự chết đến sự sống — đã được thể hiện trong cuộc đời
Thánh Gioan như một người cải cách, một nhà thơ thần bí và là một linh mục thần
học.

Sinh ở Tây Ban Nha năm 1542, Gioan hiểu được sự quan trọng của tình yêu tự hiến là nhờ cha mẹ. Cha ngài đã hy sinh của cải, danh vọng và sự an nhàn khi kết hôn với cô con gái của người thợ dệt và vì lý do đó đã bị gia đình từ bỏ. Sau khi cha ngài từ trần, mẹ ngài cố gắng đùm bọc gia đình trong khi họ lang thang đầu đường xó chợ để kiếm
việc làm. Những tấm gương hy sinh ấy đã giúp Gioan theo đuổi tình yêu vĩ đại
của chính ngài dành cho Thiên Chúa.

Dù gia đình đã tìm được việc làm, nhưng vẫn không đủ ăn nên Gioan phải lang thang giữa thành phố giầu có nhất Tây Ban Nha. Năm mười bốn tuổi, Gioan được nhận vào làm việc trong bệnh viện với nhiệm vụ trông coi các bệnh nhân bị chứng bệnh bất trị hoặc bị điên dại. Chính trong sự đau khổ và nghèo nàn này, Gioan đã nhận biết và đã đi tìm hạnh phúc không ở nơi trần gian, nhưng ở nơi Thiên Chúa.

Sau khi Gioan gia nhập dòng Camêlô, Sơ Têrêsa Avila nhờ Gioan tiếp tay trong công việc cải cách. Cả hai đều tin rằng nhà dòng phải trở về với đời sống cầu nguyện. Nhiều tu sĩ Camêlô cảm thấy bị đe dọa bởi sự cải tổ này nên một số tu sĩ đã bắt cóc thánh
nhân. Ngài bị nhốt trong một xà lim nhỏ hẹp và bị tra tấn ba lần một tuần bởi
chính các tu sĩ dòng. Trong cái tăm tối, lạnh lẽo, và cô quạnh của xà lim, tình
yêu và đức tin của ngài bừng lên như lửa. Ngài mất hết tất cả ngoại trừ Thiên
Chúa — và Thiên Chúa đã đem cho ngài niềm vui vĩ đại trong cái xà lim nhỏ bé
đó.

Sau chín tháng tù đầy, Cha Gioan vượt ngục bằng lối cửa sổ duy nhất của xà lim mà ngài đã leo lên đó bằng sợi dây được kết bằng tấm vải trải giường, và đem theo tất cả các bài thơ huyền nhiệm mà ngài sáng tác trong thời gian tù đầy. Vì không biết mình đang ở đâu, ngài phải theo một con chó để đi vào thành phố. Ngài trốn trong bệnh xá
của một tu viện và ở đây ngài đọc thơ cho các nữ tu nghe. Từ đó, cuộc đời ngài
tận tụy cho việc chia sẻ và dẫn giải tình yêu Thiên Chúa.

Lẽ ra cuộc đời nghèo khổ và tù đầy đã biến ngài thành một con người yếm thế cay đắng. Nhưng ngược lại, ngài đã trở thành một người đam mê bí ẩn, sống với sự tin tưởng rằng “Có ai thấy người ta yêu mến Thiên Chúa bởi sự tàn nhẫn đâu?” và
“Ở đâu không có tình yêu, hãy đem lại tình yêu — và bạn sẽ tìm thấy tình yêu.”

Vì niềm vui chỉ xuất phát từ Thiên Chúa nên Thánh Gioan tin rằng những ai tìm kiếm hạnh phúc ở trần gian này thì giống như “một người đang chết đói mà há miệng đớp lấy không khí.” Ngài dạy rằng chỉ khi nào chúng ta dám cắt bỏ sợi dây dục vọng thì
chúng ta mới có thể bay lên cùng Thiên Chúa.

Là một tu sĩ dòng Camêlô, ngài cảm nghiệm sự thanh luyện tâm linh; là vị linh hướng, ngài cảm được cuộc chiến đấu tinh thần nơi người khác; là một thần học-tâm lý gia, ngài diễn tả và phân tích giá trị của sự đau khổ trong các văn bản của ngài. Hầu hết các văn bản của ngài đều nhấn mạnh đến cái giá phải trả của tinh thần kỷ luật,
con đường hiệp nhất với Thiên Chúa là: sống kỷ luật, từ bỏ mình, thanh luyện.
Một cách độc đáo và mạnh mẽ, Thánh Gioan nhấn mạnh đến sự mâu thuẫn của Phúc
Âm: Thập giá dẫn đến sự cứu chuộc, đau khổ dẫn đến sự ngất ngây, tăm tối dẫn
đến sự sáng, khi từ bỏ là lúc làm sở hữu, hy sinh bản thân để kết hợp với Thiên
Chúa. Nếu bạn muốn giữ mạng sống mình thì bạn sẽ mất. Thánh Gioan quả thật là
người “của Thánh Giá.” Ngài từ trần năm 49 tuổi — cuộc đời thật ngắn
ngủi, nhưng trọn vẹn.

Lời Bàn

Qua cuộc đời và văn bản, Thánh Gioan đã để lại cho chúng ta những lời quan trọng. Chúng ta muốn giầu có, an nhàn, thoải mái. Chúng ta không muốn nghe những chữ như hy sinh, hãm mình, thanh luyện, khắc khổ, kỷ luật. Chúng ta chạy trốn thập giá. Thông điệp của Thánh Gioan — cũng như trong Phúc Âm — thì thật rõ ràng: Ðừng chạy trốn — nếu bạn thực sự muốn có sự sống!

Lời Trích

Thomas Merton nói về Thánh Gioan như sau: “Cũng như chúng ta không thể tách rời sự khắc khổ với sự huyền bí thì nơi Thánh Gioan Thánh Giá, chúng ta tìm thấy sự tăm tối và ánh sáng, sự đau khổ và niềm vui, sự hy vinh và tình yêu kết hợp với nhau thật chặt chẽ đến nỗi dường như lúc nào cũng chỉ là một.

Maria Thanh Mai gởi

JACARANDA,

JACARANDA,http://www.nguyenkhapnoi.com/files/2012/11/3.-Together.jpg

Tím rực ngàn hoa tím dễ thương,
Phượng nở năm nay đẹp dị thường
Lạc bước đồi cao trưa lặng lẽ,
Chợt thấy bâng khuâng nẻo vấn vương…
Mùa lên rộng mở tâm thanh thản,
Gió nhẹ nhàng chao mộng mới sang,
Lữ khách nhàn du ngắm sắc hoa,
Đẹp quá đi thôi …chẳng vội vàng…
Ai về xứ Việt quên hay nhớ,
Thấm đượm rừng chiều một sắc thơ,
Trải lên đồi mộng tâm tình đã,
Để lại đâu đây…nét đợi chờ…
Liverpool.9/12/2012.
Song Như.

Kính tặng quý Thầy Cô và các bạn LVC.
Kim Trọng.

Nói cho con người (Thư Cần Giờ 1990-1993): Lm. Chân Tín (12)

Nói cho con người (Thư Cần Giờ 1990-1993): Lm. Chân Tín (12)

Đăng bởi cheoreo lúc 1:24 Sáng 14/12/12

VRNs (14.12.2012) – Sàigòn – Cần Giờ 23/6/1990

Anh Lan mến,

Hôm qua, Công an Tp xuống “làm việc” sáng, chiều, và còn sáng nay. Tóm lại ba buổi
làm việc:

– Sự đóng góp của anh Lan vào ba bài giảng?

– Cho tin về Giáo Hoàng cuối bài 3?

– Soát tài liệu CT trong văn phòng, không có bài giảng, lại thấy trong nhật ký
anh Lan, như thế anh Lan đã góp ý và tài liệu cho bài giảng?

– Đôi khi có nhờ anh ấy tìm cho một tài liệu gì đó, tôi nhớ mà không tìm ra ở
đâu. Đó là bình thường.

– Có tham khảo anh Lan?

-Có đưa cho anh ấy xem. Anh không góp ý vì tôn trọng tôi. Có cho tin tức ngày
Giáo Hoàng ban phép lành cho Roma.

-Về vụ này, anh nói “tia hy vọng” đây là gì?

-Hy vọng giữa Giáo hội và VN có đối thoại trực tiếp không qua trung gian.

-Ai đánh mấy?

-Tôi nhờ cô Diệu, vì là nhân viên của tôi.

-Nhân viên từ hồi nào?

-Đầu tháng 5.

-Cô ấy bảo đã đánh cho anh đã lâu.

-Hồi đó tôi nhờ đôi khi, còn đầu tháng 5, tôi nhận làm nhân viên, nên cô ấy đánh
những gì tôi giao.

-Liên lạc của anh với cô Diệu.

-Câu hỏi kỳ cục. Tôi nhờ đánh máy và liên lạc nhân viên, chớ còn có liên lạc gì
nữa mà hỏi kỳ cục vậy.


Anh biết mẹ cô ta?



Trước cô ta hay sau? Gặp ở đâu?


Sau. Gặp dịp liên hoan tết.


Đánh máy bao nhiêu bản?


Không nhớ.


Đánh để làm gì?


Cho người ta đọc chứ để làm gì?


Cho ai?


Ai cần biết nội dung đích xác.


Ai?


Không nhớ.


Có gửi cho anh Tri bên Pháp?


Không có gửi.


Sao lại có thư cho anh và khen anh? (thư nằm trong hộc).


Thì có ai đó gửi và anh ấy viết về.


Anh quen anh Tri hồi nào?


Năm ngoái.


Bạn của anh Lan?


Vâng.


Thư ấy gửi cho anh Lan hay cho anh?


Tôi không nhớ. Thường gửi cho anh Lan vì hai người ấy bạn thân từ bên Pháp.


Nội dung có hại cho đất nước.


Tôi làm theo lương tâm và vẫn xác tín là tôi làm cho nhân dân và Đất nước. Nếu
Nhà nước cho đó là xấu, thì Nhà nước cứ ra biện pháp, như biện pháp hiện tại.
Vì thế, tôi chấp nhận biện pháp đi đày và chỉ định cư trú. Nhưng không chấp
nhận lý do Nhà nước đưa ra.


Ba bài giảng đó, có ý đồ gì? Sao chỉ nói tiêu cực?


Tôi muốn giúp người dân ý thức tình trạng bi thảm của Đất nước hôm nay để người
dân cùng tôi góp phần vào việc thúc đẩy Nhà nước đổi mới.


Nếu có phần tích cực thêm thì được hoan nghênh.


Tôi không làm việc tổng kết để có cái hay cái dở. Tôi làm công việc bắt mạch
con bệnh để tìm cách chữa trị.


Anh có gửi đi ngoại quốc.


Tôi không gửi đi ngoại quốc.


Sao ông Dominic có thú nhận ở hải quan là anh đưa ba bài giảng khi anh và anh
Lan đến gặp ông ấy ở Phú Nhuận?


Tôi trao cho ông ấy xem ở đây chứ không gửi đi ngoại quốc. Đưa đi là việc của
ông ấy.


Đưa ông ấy để làm gì?


Ông xin tôi cho ông ấy để nghiên cứu.


Sao không nghiên cứu ở Tòa giám mục?


Chắc có. Nghiên cứu thì nghe nhiều tiếng chuông.


Anh biết ông ấy như thế nào?


Tôi biết ông ấy là linh mục dòng Tên đã từng dạy học ở Đà Lạt. Nhưng không quen
ông ấy.


Không quen sao gặp được ông ấy?


Sau mấy bài giảng của tôi, ông có viết vài chữ mời tôi đến.


Gặp mấy lần?


Một lần.


Có đưa cho người ngoại quốc nào nữa không?


Không.


Có gặp ai nữa không?


Có gặp một nhà báo Ý, tờ báo Il Regno.


Có đưa bài giảng?


Không.


Nói gì?


Ông ấy có đọc thư của tôi gửi Hồng y Etchegaray, nên ông muốn hỏi thêm cho rõ.


Tài liệu ngoại quốc do đâu?


Tôi đọc báo ngoại quốc, chỗ này chỗ nọ.


Ông Đỉnh và ông Tri có gửi báo?


Thỉnh thoảng có bài gì liên quan đến Giáo hội VN, các anh ấy có gửi photocopy.


Tri gửi cho anh hay anh Lan?


Nói chung là gửi cho anh Lan vì anh ấy là bạn của anh Lan.


Anh ấy có đưa cho anh xem?


Dĩ nhiên.


Còn anh Đỉnh gửi gì cho anh?


Có gửi thư anh ấy gửi cho CCFD (có trong văn phòng).


Liên hệ với anh Đỉnh như thế nào?


Đỉnh là học trò của tôi. Tôi thấy báo công an bảo Đỉnh là chủ nhiệm Nguyệt san
Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp ở California là sai bét.


Ai gửi cho anh báo ĐMHCG mà người ta khám phá ra trong văn phòng anh?


Tôi không có liên lạc với báo đó. Nếu có một photocopy bài nào đó, thì do giáo
hữu nhận được từ bên kia rồi cho tôi một bản.


Ai cho?


Làm sao nhớ được. Vả lại nhiều lần họ gửi cho tôi trong lúc không có nhà.


Sau ba bài giảng, ông Trị có nhắn nhủ gì anh?


Ông cho biết Nhà nước không vui và yêu cầu tôi stop


Anh có làm theo?


Không, vì hôm Chúa nhật sau đó tôi còn nói một bài ở nhà thờ để giải đáp thắc
mắc: linh mục có được nói về chính trị không?


Nội dung?


Tôi nói: Giáo hội không làm chính trị, không nói chính trị vì chính trị, vì
đảng phái, nhưng có quyền và bổn phận phê phán chính trị khi chính trị không
phục vụ nhân dân.


Có gặp Dương Thu Hương?


Có.


Mấy lần?


Một lần.


Ở đâu?


Cô ấy đến thăm anh Lan và tôi được mời ăn cơm chung.


Có bàn gì?


Chắc cô nghe người ta bàn tán về bài giảng của tôi, nên có lẽ cô ta muốn biết
mặt tôi. Chứ chả bàn gì. Nói chuyện vui hoặc thời sự.


Có quen Lữ Phương?


Có.


Có gặp? Ở đâu? Quen như thế nào?


Có gặp ở văn phòng tôi. Trước kia anh đấu tranh ở Sài Gòn rồi vào bưng, nên
biết anh ấy hồi đó.


Có quen anh Đoàn Thanh Liêm? Có đến nhà? Có đi ăn đám cưới?


Có quen, vì làm việc với nhau trong công việc quận 3 nhờ làm kiều hối. Nhà,
chưa đến bao giờ. Có mời dự đám cưới, nhưng không đi vì bận.


Biết Cao Lập?


Cao Lập là sinh viên tranh đấu, ở tù, tôi đi nuôi với má anh. Nên anh biết ơn
tôi.


Có đến anh không? Gặp ở đâu?


Anh ấy không đến tôi. Tôi có đến nhà anh xem video.


Dịp phục sinh, anh, anh Lan và Cao Lập làm gì ở nhà anh Lan?


Gặp gỡ thường, ăn cơm chung.


Anh Lan có đọc cái gì về hiện tình đất nước?


Tôi không nhớ.


Anh làm gì trong câu lạc bộ kháng chiến cũ?


Tôi được mời đến tham dự.


Họ có giao công tác gì cho anh?


Anh Tạ Bá Tòng có nhờ tôi mời anh em Công giáo tranh đấu trước 75 gặp gỡ. Chỉ
có một lần rồi thôi, vì hình như Thành Ủy không tán thành.


Tài liệu kháng chiến cũ đâu mà anh có? Ai trao cho anh?


Tôi mua ở Câu lạc bộ.


Anh nghĩ thế nào?


Họ là những người 3, 4 chục tuổi đảng. Họ ao ước đất nước đổi mới.


Có gặp thường anh Tòng?


Không.


Anh tập họp cựu tu sĩ dịp Phục sinh?


Họ mỗi năm tổ chức tĩnh tâm và họ muốn ai thì mời giảng. Năm nay họ mời cha
Đào, nhưng ông ấy bận nên có nhờ tôi giảng.


Tĩnh tâm bao lâu, bao nhiêu người dự, anh giảng bao lâu?


Tĩnh tâm một ngày. Có khoảng 3, 4 chục người. Giảng nửa tiếng.


Nội dung?


Giảng về sám hối cá nhân.


Ai viết thư cho ông Bình và Hội đồng Giám mục?


Anh em bàn bạc trao đổi, rồi nhờ anh Hiên viết cho hàng giám mục, anh Thái viết
cho Đức cha Bình.


Anh có mặt.


Dĩ nhiên.


Các anh họp, anh Tri đến vì được mời?


Tình cờ anh đến từ giã đi Pháp.


Ai trao 2 lá thư cho anh Tri?


Anh em đang ký chưa xong, anh xin một bản. Chả ai trao.


Anh quen anh Điệp như thế nào?


Anh Điệp là học trò của tôi. Sau này, anh Điệp phụ trách dưới này, tôi cũng có
giúp vận động giáo dân đóng góp xây dựng hợp tác xã chế biến hải sản Cần Thạnh.


Anh có đầu tư?


Không. Do tiền mục sư Vinay, tôi có giúp gần một nửa số tiền 11 ngàn đô tôi
nhận được, phần khác giúp cho một trường học trên quận 3.


Anh có nhận viện trợ để giúp học trò nghèo.


Cho đến bây giờ, không. Tôi có nhờ giáo dân trong xóm tôi phụ trách làm một quỹ
nhỏ để giúp người nghèo.


Vụ cháy nhà anh xin viện trợ

-Tôi có gợi ý cho anh Trị và anh ấy đứng xin và họ đã cho như thấy đăng trên
báo.

-Anh quen anh Dong hồi nào?

-Không nhớ. Anh em linh mục quen nhau là sự thường.

-Anh Dong mời anh làm lễ?

-Không, tôi lên chơi thấy đôi khi ông bận hay đau như hồi bị tai nạn xe hơi, tôi
gợi ý giúp. Và anh ấy chấp thuận.

-Có gặp trước khi về Duyên Hải?

-Có, tối trước đó, có hai linh mục ở xa về lãnh tiền Thanh Hương tổ chức buổi
cơm thân mật tại nhà anh Dong.

-Còn mấy ông Ý, Diễm, Định?

-Cũng thỉnh thoảng gặp gỡ, bồi dưỡng, giải trí.

-Tại nhà anh Dong anh có trao đổi cho ông Diễm một tài liệu về sinh viên cựu
kháng chiến?

-Tôi không nhớ.

-Tôi đã theo dõi hoạt động của anh trước 75 và thán phục, nhưng tôi thắc mắc lý
do gì anh thay đổi như vậy?

-Tôi trước sau như một. Tôi không thay đổi. Trước cũng như bây giờ, tôi chỉ nghĩ
đến Đất nước, đến nhân dân. Luôn luôn vì nhân dân mà tôi phấn đấu, bất chấp
nguy hiểm. Nếu tôi muốn hưởng thụ thì quá dễ. Tôi và anh Lan là hai người đã
đấu tranh chống Mỹ, chống Thiệu như anh biết. Sau giải phóng tôi muốn hưởng chế
độ này thì có gì khó. Vì sao đến tuổi 70 này mà còn lên tiếng nói thẳng, nói
thật để phải gặp khó khăn? Vì dân, vì Đất nước.

-Những điều anh nói trong bài sám hối, có khi nào anh nói với cấp lãnh đạo?

-Có. 5 năm ở Mặt trận Trung ương, 4 năm ở Mặt trận Tp và trước Đại Hội Đảng 6,
tôi đã lên tiếng với cấp trên. Nhưng đâu còn đó. Một cây làm chẳng nên non, ba
cây chụm lại nên hòn núi cao. Một mình tôi nói không đến đâu. Tôi phải giúp kẻ
khác ý thức để nhiều người nói để giúp Nhà nước đổi mới. Chính vì lý do đó mà
tôi đánh máy các lời phát biểu, những bài giảng để nhiều người ý thức.

-Khi nghe Trần Xuân Bách bị loại, nhà dòng anh có ý kiến gì không?

-Cũng như tất cả người dân khác, khi nghe tin đó, thì cũng bàn tán qua loa vậy
thôi.

– Anh có gửi ba bài giảng cho anh Phụng mang ra Bắc? bao nhiêu bản?

-Anh Phụng ra Bắc không mang theo. Nhưng vì giáo dân ngoài Bắc xôn xao về ba bài
giảng, anh Phụng xin một bản để cho người ta nắm vấn đề chính xác hơn. Anh
Phụng có gửi thư cho tôi (thư nằm trong ngăn kéo).

-Anh gửi ra, mang đi?

-Anh Phụng có giới thiệu 1, 2 người sắp ra Bắc. Tôi có nhờ người mang đến chứ
tôi không gặp họ, nên không biết ai.

-Các giám mục đọc bài của anh có ý kiến gì không?

-Tôi không rõ, vì không gặp ai.

-Ông Nhật có ý kiến gì?

-Tôi cũng không rõ.

-Anh quen với N.V.Ân như thế nào?

-Anh ấy trước có đấu tranh trong phong trào Thanh Lao Công. Nay là giáo dân họ
đạo chúng tôi.

-Anh có thắc mắc với UBĐK? Vấn đề cá nhân?

-UBĐK là một tổ chức của chính quyền. Tôi không có ý kiến. Nhưng khi Ủy Ban đó
can thiệp vào những vấn đề nội bộ Giáo hội, đứng trên cả giáo quyền để thao
túng và làm trung gian giữa Giáo hội và Nhà nước, một thứ trung gian nịnh thần,
tôi phản đối. Tôi muốn giữa Giáo hội và Nhà nước có một sự trao đổi trực tiếp
để xây dựng Đất nước và giải quyết những trục trặc, những khó khăn.

Làm việc trọn ngày 22 và thêm sáng ngày 23/6/1990. Sau đó, có anh Điệp, phó công an huyện, phó công an xã, đại úy Hoàng và ông Lê Minh Cảnh, trưởng phòng PA 16 của Sở Công an, mời tất cả đứng lên để nghe quyết định của UBND Tp ký ngày 6/7/1990 về việc “quản chế công dân Nguyễn Tín”.

1.Phạt quản chế tại Duyên Hải, xã Cần Thạnh, trong thời gian 3 năm, kể từ ngày
lấy quyết định (7/6/1990).

2.Nghiêm chỉnh chấp hành các quy định: tuân các quy định địa phương; chỉ đi lại
trong xã Cần Thạnh, muốn ra ngoài xã phải có phép Công an xã, trường hợp đặc
biệt phải có Công an huyện hoặc Công an thành phố; không được hành nghề tôn
giáo; trình diện Công an xã 15 ngày một lần.

3.Mất quyền công dân trong thời gian quản chế.

4.Chính quyền địa phương, đoàn thể tổ chức thi hành quyết định dưới sự điều hành
của Giám Đốc Công an Tp.

5.Những người trách nhiệm thi hành…

Trên đây là nội dung 3 buổi làm việc với trưởng phòng PA 16 của Sở Công an Tp và
quyết định mới của UBND Tp.

Tái bút: Ông Cảnh: Anh đã được ông Thứ trưởng Nội Vụ cảnh cáo, được anh Trị lưu ý, thế mà ngày chủ nhật sau, anh lại nói thêm một bài chính trị. Như vậy là liều thuốc
không còn hiệu nghiệm. Nhà nước đã cho một liều khác mạnh hơn: chỉ định cư trú
và quản chế tại Cần Thạnh.

Chân Tín: Bài sám hối của tôi cũng là liều lượng mạnh cho Nhà nước, khi mà những
điều tôi đã nói với cấp trên từ trước không còn hiệu nghiệm.

(Hai người cùng cười).

Lm. Chân Tín

(NKNNL 1990-1991, trang 32-38)

 

Hệ lụy gia đình – nhà trường

Hệ lụy gia đình – nhà trường

TRẦM THIÊN THU

Đăng bởi pleikly lúc 12:07 Sáng 14/12/12
nguồn: Chuacuuthe.com

VRNs (14.12.2012)
– Sài Gòn – Quả là chí lý khi tục ngữ khuyên “dạy con từ thuở còn thơ”. Trước khi viết, vẽ, các nhà văn, nhà thơ và họa sĩ phải “thai nghén” ý tưởng đến chín muồi mới thể hiện ra trên giấy. Nếu sai, dù có tẩy xóa khéo léo cũng không thể hết dấu vết. Nicolas Boileau nói: “Trước khi viết, hãy học suy nghĩ” và chỉ có suy nghĩ người ta mới khả dĩ có được phương thức khả thi và hiệu quả. Thật vậy, “thiếu phương pháp thì người tài cũng lỗi, mà có phương pháp thì người thường cũng làm được điều phi thường”. Huống chi là giáo dục, một công việc và một nghệ thuật, đào tạo một con người ắt là điều tối quan trọng với trang giấy trẻ. Giáo dục không chỉ đơn thuần là nuôi con cái đầy đủ về vật chất, mà giáo dục chủ yếu nhằm giúp con cái trở nên người hữu dụng, một công dân tốt cho gia đình, cho xã hội, đất nước và cho giáo hội (với những
người có tín ngưỡng). Chúng sẽ là những người cha, người mẹ trong tương lai. Vậy
thì về tâm sinh lý, trưởng thành nghĩa là biết dẹp bỏ “cái tôi” để biết vì người khác. Cái Tôi là đáng ghét.

Giáo dục nền tảng là giáo dục gia đình. Nhà giáo dục Mỹ – ông Ragan, đã nói: “Nhà trường đầu tiên là gia đình và người thầy đầu tiên là mẹ”. Như vậy, người mẹ rất quan trọng đối với trẻ, vì vốn dĩ nữ tính là hiền từ và dịu dàng. Phụ nữ nào hay nóng nảy, gắt gỏng, nhỏ mọn,… là thiếu tố chất cần thiết trong thiên chức làm mẹ và làm bà (nội,
ngoại). Giáo dục tốt, cha mẹ sẽ hãnh diện và hạnh phúc thấy con cái ích nước, lới nhà, hiếu thảo. Vâng, giáo dục là một thiên chức, một trọng trách khó khăn nhưng cao cả. Không ai lại không ảnh hưởng và thừa hưởng di sản văn hóa của tiền nhân, dù chỉ là vô thức. Bên cạnh nền giáo dục đó, chúng ta cần cập nhật hóa phương pháp giáo dục cho hợp với hoàn cảnh xã hội của thời đại mới, dù vẫn biết phương pháp nào cũng có ưu và khuyết điểm. Thế nên, chúng ta phải chọn lựa kỹ lưỡng và chính xác các điểm tối ưu khả thi.

Song song, sự ảnh hưởng quan trọng khác nữa là nền giáo dục của xã hội, của người thầy. Cùng lúc, trẻ nhận hai nền giáo dục của gia đình và nhà trường. Cả hai đều hỗ trợ toàn diện cho nhau. Nhờ đó, sau khi xa gia đình, xa trường lớp, con người đủ sức khả thi vai trò một con người bản lĩnh. Con người đó, sau bao năm dùi mài kinh sử, đủ kiến thức cơ bản và đủ tư cách làm người, sau những năm tháng học đạo làm người ở gia đình.  Rồi con người đó lại tạo lập một gia đình mới – tế bảo cơ bản của xã hội và đất nước.

Ngày nay, nhiều khoa học mới lạ được mở ra về khoa học kỹ thuật, tâm lý học, giáo dục học, phấn tâm học, xã hội học, là những khoa học có thành tựu nghiên cứu về giáo dục con người. Do đó, trẻ ngày nay tiếp nhận nền giáo dục theo phương pháp khoa học khác xưa rất nhiều, bớt phần nghiêm khắc. Kiểu “gọi dạ, bảo vâng” hoặc “đặt đâu ngồi đó” không còn thích hợp nữa. Thế nhưng, ngày nay các phụ huynh lại quan
ngại về con cái nhiều hơn, nhất là đến tuổi trưởng thành. Đôi khi phụ huynh như
cảm thấy bất lực trong việc giáo dục con cái. Phải chăng gia đình và nhà trường
có lối giáo dục mâu thuẫn?

Vì “chạy đua” nhà trường đã “nhồi nhét” kiến thức để học sinh chán ngán và đuối sức (tinh thần và thể lý). Nhà trường quá chú trọng vào việc lấp đầy kiến thức mà quên dạy học sinh làm người hữu dụng, môn công dân giáo dục bị mờ nhạt trước các môn khoa học khác. Đồng thời, cha mẹ thiếu quan tâm đầy đủ vì công việc thường nhật, lo kiếm tiền nhiều đến nỗi đuối sức và không còn thời gian dành cho con cái. Rất nhiều học sinh đã than vì sự “khập khiễng” đó. Thật vậy, phương pháp sư phạm và sách giáo khoa cứ thay đổi liên tục, học sinh phải “xoay” theo, còn cha mẹ không có kiến thức phù hợp nữa: quan niệm, phương pháp học và làm bài đều lỗi thời. Hai luồng giáo dục bỗng bị “lệch pha”. Nhiều phụ huynh đã chê trách lối nhồi nhét của nhà trường. Gia đình và nhà trường cứ “khoán trắng” hoặc đổ lỗi cho nhau. Học sinh thì mỏi mệt vì 3 “món” tương tự nhau: học chính khóa, học phụ đạo và học thêm. Việc học kín hết thời gian, không còn giờ giải trí hoặc tự học để “tiêu hoá”. Ngay cả giờ ăn cũng vội vàng. Có học sinh phải “thổi kèn” (ăn bánh mì) cho… kịp giờ!

Việc học biến thành cuộc chạy đua, học sinh buộc phải là “những tay đua” nhưng có thể là “những tay đua… kiệt sức”. Vì thế, học cho qua giáo trình, điều đọng lại không bao nhiêu, tạo ra nhiều lỗ hổng kiến thức. Gia đình càng phải kiếm tiền bằng mọi cách để con cái khả dĩ đi học. Học sinh cứ loay hoay với mớ kiến thức từ chương, hối hả lo lắng học thi, chỉ làm giàu cho một sổ giáo viên cuối cấp và những lò luyện thi. Thật
tức cưới khi họ quảng cáo là “Bảo đảm thi đậu” hoặc “không đậu không nhận học phí”. Chẳng qua là “lừa bịp” những người “nhẹ da cả tin”. Phương pháp học như thế chỉ là vô bổ. Thậm chí, có khi sách giáo khoa còn sai “nghiêm trọng”. Dục Tử nói: “Biết là hay mà không tin, đó là Dại. Biết là dở mà không sửa đó là Mê”. Giáo dục đã bị thương mại hóa!

Trước sức ép tiêu cực của xã hội bằng văn hóa đồi trụy: ma túy, và ma lực vật chất, con cái chúng ta khó đứng vững vì còn trẻ người non dạ, ăn chưa no lo chưa tới. Sự không đồng bộ giữa giáo dục gia đình và giáo dục nhà trường khiến trẻ mất niềm tin nơi cha mẹ, dễ sống buông thả, đua đòi. Và ngay cả lòng tôn sư trọng đạo đối với người thầy
cũng giảm sút nhiều. Thế nhưng, cha mẹ và người thầy cũng cần xem lại chính mình. Vì người trên dễ dãi quá thì người dưới sẽ coi thường. Thân quá hóa nhờn!

TRẦM THIÊN THU

Tình Mẫu Tử

Tình Mẫu Tử
Cố bám víu vào một sườn dốc thẳng đứng bên một bờ vực sâu thẳm, bé sư tử con đang kêu gào thảm thiết để cầu cứu…
Mẹ chú nghe được, chạy đến bên vực, thấy con trong lúc vui chơi bị sa bước, mạng sống như chỉ mành treo chuông!

Mẹ đến ngay bờ vực sâu, cùng với 3 sư tử cái khác, và một sư tử đực. Những sư tử cái xúm lại bên nhau, nhưng xem chừng ai cũng sợ đến phiên mình nếu ra tay xuống cứu,
cũng có thể gặp chuyện chẳng lành, nên toan tiến rồi lại thoái, không biết bao nhiêu lần!!! Sau cùng chỉ có một con quyết định, được thúc đẩy bởi cái gọi là tình mẫu tử!

Từ từ từng bước, trong một dáng vẻ khắc khoải như nín thở, mẹ chú rón rén, dùng hết sức lực để giương những vuốt nhọn, bám chặt vào thành vực mà xuống… Chỉ cần một sẩy chân, cả hai mẹ con sẽ bị nát thây dưới lòng vực sâu thẳm.

Ngay vừa lúc sư tử con sắp sửa kiệt lực, mẹ chú đã lượn được xuống phía dưới, há rộng được miệng để ngoạm lấy con.

Rồi cũng bội phần nguy hiểm trên đường đi lên! Đúng là Trời còn thương: vài phút sau, cả hai mẹ con đã đến bến an toàn, để mẹ còn ban cho con một cử chỉ âu yếm!

Cảnh cứu mạng đầy kịch tính ở trên đã được nhiếp ảnh gia đời sống hoang dã Jean-Francois Largot, thâu được vào ống kính máy ảnh, trong khi anh đi thăm viếng một khu rừng bảo vệ hoang thú tại xứ Kenya ở châu Phi.
Anh chị Thụ & Mai gởi

Hy vọng

Hy vọng

Chấm này nối tiếp chấm kia, ngàn vạn chấm thành một đường dài.

Phút này nối tiếp phút kia, muôn triệu phút thành một đời sống.

Chấm mỗi chấm cho đúng, đường sẽ đẹp

Sống mỗi phút cho tốt đời sẽ thánh.

Đường hy vọng do mỗi chấm hy vọng.

Đời hy vọng do mỗi phút hy vọng.

 

Sách “Đường Hy Vọng và Dẫn Giải”

(Câu 978 trang 385)


Cố Đức Hồng Y Nguyễn văn Thuận