Chim Bay Về Biển

Chim Bay Về Biển

Phạm Tín An Ninh

Một mai chim bỏ bay về biển

Ta đứng một mình ngó nhánh sông

Ta khóc nhìn theo giòng nước chảy

Nghe trăm ngọn sóng vỗ trong lòng

(Sương Mai)

Một cánh chim vừa bay ra biển, nhỏ dần rồi mất hút giữa mênh mông. Tôi mơ hồ như hình ảnh của chính mình đang tìm về quê cũ. Hình dung đến thành phố Nha trang xưa, nơi mà nếu không có biển sẽ không còn lãng mạn để người ta nhắc nhớ, đắm say, cũng có thể làm nhẹ đi ít nhiều tiếc nuối của những người Nha trang xa xứ.  Bờ biển cát từng chôn giấu những hang động tuổi thơ và ôm ấp dấu tích của bao cuộc tình thơ mộng, nước biển đã cuốn trôi đi, nhưng không thể xóa mất trong ký ức của nhiều cặp tình nhân mà bây giờ tóc ai cũng bạc. Âm thanh những ngọn sóng rì rào đã dệt nên những bài thơ, những bản tình ca từng làm khuấy động bao trái tim người, mà dư âm dường như vẫn còn vang vọng mãi.

Nha trang đẹp đẽ, hiền hòa và thơ mộng đó bây giờ đã không còn nữa. Đã trở thành một Nha trang xa lạ, như thuộc về ai đó chứ không phải của mình. Đó là cảm nhận xót xa của đám bạn bè tôi, không chỉ người đã rời xa mà cả những người vẫn còn ở lại với Nhatrang, sống với Nhatrang gần trọn một đời.

Nhà văn Nguyễn xuân Hoàng, một đàn anh văn nghệ, cũng là đồng môn huynh trưởng cùng trường Võ Tánh, sau 15 năm trở lại Nhatrang, đã viết:

“Mười lăm năm sau ngày ra khỏi nước, tôi quay trở về như một người xa lạ. Thành phố tôi đã ở thời tuổi nhỏ như nhỏ lại, những con đường quen đã xa lạ, tiếng sóng biển vọng lại âm thanh đều đặn kỳ quái của một vùng biển chết nào. Bãi cát không còn cái màu của thời tôi mới lớn và rừng dương đã bị xóa khỏi bản đồ của trái tim.

… tôi trở về nhìn lại biển xưa thấy không còn lại chút dấu vết nào của những ngày trốn học, những buổi trưa hạnh phúc nằm trên bãi cát, gối đầu lên hai cánh tay, đấp mặt bằng cành lá dừa, ngủ một giấc chờ đến giờ tan học lủi thủi trở về”(truyện Từ Đường- VOA/  01.5.2013)

Một chị bạn cùng trường Võ Tánh, hiện định cư ở thành phố Seattle bên Mỹ. Năm 1954 là một cô bé 7 tuổi, di cư theo gia đình từ Hà nộivào Sài gòn. Ông bố là quân nhân, được bổ nhậm ra một đơn vị ở Nhatrang. Cô rất vui mừng được theo cha ra sống ở thành phố biển. Thi đậu vào lớp đệ thất  trường Võ Tánh. Nhưng chỉ mấy năm sau lại bịn rịn bỏ lại bạn bè, theo bước chân cha ra tận Quảng Nam, rồi Huế. Sau này trở thành cô giáo trung học, lên cao nguyên sống với phố núi và đám học trò Kinh – Thượng, giữa chiến tranh vây bủa, may mắn sống còn trong lần di tản kinh hoàng trên con đường Tỉnh Lộ 7B.Vậy mà một thời tuổi thơ ngắn ngủi ấy lại là mảng quá khứ đẹp đẽ nhất. Trong ký ức và cả trong trái tim, chị đã dành ngăn lớn nhất cho Nha Trang . Sang Mỹ định cư khá lâu, chị háo hức trở về thăm Nha trang, để rồi “chỉ thấy lòng buồn rười rượi, bởi đang đi trên đất Nha trang mà cảm giác như mình là  kẻ lạ, không tìm thấy bóng dáng Nha trang của mình ngày trước”.

Hai người bạn học cùng lớp với tôi cũng ở trường Võ Tánh. Sinh ra ở Huế, nhưng lớn lên và gần trọn một đời sống với Nhatrang. Trước 75 đều là thầy, cô giáo trung học, giờ chỉ âm thầm nhìn đời từng ngày trôi đi vô vị, những đêm mất ngủ thao thức viết những bài thơ buồn trước bao điều đổi thay ngao ngán. Họ vẫn ở lại với Nha trang cho đến hôm nay, sau bao nhiêu lần tưởng chừng Nha trang đã hất hủi, đuổi xô, không còn chỗ cho họ dung thân. Hai người bạn của tôi rất chí tình với bạn, sống chết với quê, vậy mà đã bao lần than thở: “không ra đi như mi, tớ ở lại với Nhatrang mà vẫn không tìm ra Nhatrang của bọn mình ngày trước! Không có gì đau hơn là sống trên chính đất nước mình mà cứ mãi hoài vọng một quê hương!” Họ chỉ còn gặp lại Nhatrang trong ký ức, trong những bài thơ họ viết về một thời quá khứ, nghe chừng đã rất xa xưa:

chiều quá chén nửa đêm tỉnh giấc

mảnh trăng khuya vòi või chờ ai

trong cỏ ướt dế buồn thao thức

giữa quê nhà sao mãi hoài hương.

Từ buổi ấy đồng thu cỏ biếc

nghe âm u gió tạt mùa xa

người đứng giữa trời không – luyến tiếc

nghĩ ngợi gì tóc rủ sương pha.

….

Bao năm tìm lại con đường

nẻo xanh ngần ngại nghe chừng rất xa

chiều thu xứ ấy mù sa

tình thu thuở ấy cũng là chiêm bao.

(đ.ư.v)

Đám học trò bọn tôi thưở ấy, giờ tóc ai cũng bạc. Sau cuộc thăng trầm quá lớn, nhiều lúc bất chợt ngỡ mình giờ là một người nào khác. Dù còn sống ở quê nhà hay lưu lạc tha phương, ai cũng đã phải trải qua một cuộc đổi đời bi thảm. Nhiều người thành công trong cuộc sống mới, tưởng rằng mọi thứ đã lãng quên, nhưng thực ra vết thương lớn, nhỏ trong lòng dường như vẫn còn đó, chưa lành.

Lần trở lại Nha trang duy nhất để tìm bốc mộ thân phụ bên ngoài một trại tù “cải tạo”, cách đây đúng mười năm, tôi đi một mình trên những con đường xưa, nghe sóng vỗ xa xa mà trong lòng chỉ còn dội lại những dư âm ngày cũ.  Tôi may mắn gặp lại vài ba người bạn học. Nhưng dường như tất cả đều nở nụ cười không trọn. Vui đó rồi buồn đó, bởi mỗi người một số kiếp long đong.

Một thằng bạn rất thân, cùng học ba năm cuối ở trường Võ Tánh. To con, đẹp trai và học giỏi. Sau này cũng là bạn lính. Ở tù hơn bảy năm nên bạn bè ai cũng nghĩ là nó đã đi diện HO và đang nổi trôi nơi nào trên nước Mỹ, không ngờ tôi còn gặp lại nó ở Nhatrang. Mặc dù bây giờ nó không được phép ở lại trong ngôi nhà và thành phố xưa của nó.

Sau sáu tháng vào tù, căn nhà nhỏ của nó ở Nha trang bị tịch thu, cô vợ “Bắc Kỳ nho nhỏ” mang ba đứa con (mà đứa lớn nhất mới vừa năm tuổi) giao cho bà nội ở trên Thành, Diên Khánh, rồi sang sông…về đâu đó, không bao giờ trở lại. Bà nội thì già, mấy đứa nhỏ bấu víu vào ông chú, vừa tốt nghiệp kỹ sư Nông Lâm Súc, nhưng bởi có ông anh là “ngụy đang cải tạo”, nên đi làm phụ hồ cho một ông thợ nề là bác họ. Trong lúc phụ hồ sửa sang một bệnh viện, anh làm quen được một chị đầu bếp. Không biết tài ăn nói thế nào mà anh làm cô động lòng trắc ẩn, thương cảm hoàn cảnh mấy đứa cháu dại không mẹ không cha. Cô sẵn sàng làm mẹ nuôi. Với tất cả tiền bạc và tấm lòng, đã cưu mang ba đứa bé không thua gì một người mẹ. Ba đứa nhỏ lớn lên cứ tưởng cô là mẹ. Cái tình mẫu tử này sao mà hiếm hoi và bi tráng quá. Thì ra trong cái thời nhá nhem tình nghĩa ấy vẫn có những tấm lòng còn hơn cả những chữ Từ Bi viết trong mấy ngôi chùa.

Bảy năm sau, thằng bạn tôi được thả về, cúi mình trước người con gái ân nhân để xin nói một lời tạ ơn. Cô nắm tay ngăn lại. Đúng giây phút ấy, bốn mắt nhìn nhau và cùng rơi lệ. Họ ôm nhau, yêu nhau rồi lấy nhau. Hôm gặp chị, tôi tò mò hỏi lý do nào chị lại yêu và lấy thằng bạn khốn cùng của tôi trong lúc chị còn con gái. Chị bảo vì không thể rời xa ba đứa nhỏ mà chị xem như con ruột của mình. Chính cái tình thương và sự gắn bó ấy mà chị trở thành vợ của ba nó. Còn tôi thì lại mơ màng suy ngẫm đến hai chữ duyên nợ của đất trời. Sau này chị làm đầu bếp cho một nhà hàng ở bờ biển Nha trang. Thằng bạn tôi và mấy đứa con vẫn sống trên Thành, vì với cái lý lịch đen, không thể xin được cái hộ khẩu trở về thành phố cũ. Còn chị vợ thì tiếc cái hộ khẩu ở thành phố, mà không muốn chuyển lên vùng quê Diên Khánh.

Cũng chính vì Nha trang đã tạo nên cái hộ khẩu mỗi người mỗi nơi ấy, mà khi thằng bạn của tôi được gọi phỏng vấn xin đi theo diện HO, bị phái đoàn Mỹ từ chối, trả lại hồ sơ và sỉ vả một trận, vì nghĩ chị vợ tốt bụng này chỉ là vợ giả, trả tiền cho nó để được bỏ nước ra đi. Chuyện tình ngay mà lý gian ấy cũng đã làm vợ chồng tốn kém và khốn khổ một thời. Sau mấy lần khiếu nại, cái ân sủng cuối cùng là: chỉ có người cha và ba đứa con được ra đi vào đợt cuối HO. Còn chị vợ sẽ vĩnh viễn không bao giờ được bước chân đến Mỹ.

Bạn tôi quyết định ở lại với người vợ ân tình, mà anh coi như ông trời đã sai xuống dương trần này để gánh vác cho mấy cha con.

Bây giờ ba đứa con đã là người lớn. Thằng bạn tôi ở nhà chăm sóc ngôi từ đường, nuôi mấy con heo và nấu cơm cho con cho vợ. Chị ấy vẫn làm ở khách sạn dưới Nha Trang, tối lại chạy về Diên Khánh!

Hôm đứa con gái lớn lấy chồng, chị khuyên mãi thằng bạn tôi mới báo tin cho bà mẹ ruột bạc tình, bây giờ đang lấy một ông chồng người Thụy Sĩ. Bà ấy cũng vác bộ mặt đầy son phấn trở về. Nhưng đứa con gái chỉ cho bà đến nhà hàng dự tiệc mà từ chối sự hiện diện của bà trong hôn lễ. Con bé bảo rằng, bà chỉ là một cái máy đẻ ra tôi, nhưng mẹ tôi chính là vợ của ba tôi bây giờ.

Tôi rót một ly rượu mừng cho cả cái vô phúc lẫn cái diễm phúc của thằng bạn cũ, nhưng rót đến hai ly để mời vợ nó. Một ly mừng và một ly để nói hộ giùm tôi lòng biết ơn và ngưỡng mộ.

Tôi quay sang bảo thằng bạn:

– Dường như chính phủ Mỹ vừa cho mở lại diện HO, mày thử nộp đơn lại xem sao.

Nó xua tay:

– Tao chẳng cần đi đâu nữa, vì ở đâu có bà vợ tao đây là ở đó có thiên đường.

Tôi đùa:

– Mày nói còn hay hơn mấy ông linh mục trong nhà thờ.

Tôi choàng tay ôm vợ chồng nó mà nước mắt trào ra. Tôi nghĩ, nó vẫn còn tác phong của một thằng lính. Khi chia tay, nó ôm vai tôi buồn bã:

-Mày thấy không, cái thành phố Nha trang mà tao sống cả một thời đẹp đẽ, giờ cũng phụ bạc tao, gây cho gia đình tao bao khốn khó! Từ ngày thuộc về bọn CS, Nhatrang với tao là một vùng đất xấu, lạ lẫm. Mày còn nhớ tác phẩm tiếng Pháp “Le domaine maudit” của ông thầy Cung Giũ Nguyên?

Nha trang bây giờ là thế đó!

Tôi thực sự chưa hiểu, mơ hồ có điều gì không ổn trong cách suy tư của nó. Nhưng tôi cảm được nỗi đau của nó.

Một cô bạn học từ những năm đệ ngũ, đệ tứ bên trường Văn Hóa. Một lần sang Mỹ thăm cô con gái là sư cô ở một ngôi chùa vùng Los Angeles, bất ngờ đọc được bài viết của tôi trong Đặc San Liên trường Võ Tánh & Nữ Trung Học Nha Trang, trong đó tôi có nhắc đến tên nàng, rồi lần mò tìm ra tông tích của tôi. Ngày xưa là một cô bé khá xinh và học giỏi. Sau này có thời làm phóng viên. Ông chồng gốc Võ Bị Đà Lạt, chết một tháng trước ngày có chuyến bay theo diện HO, nên nàng và hai cô con gái không được đến Mỹ. Dắt con lưu lạc khắp nơi, với một số vốn liếng của mẹ cha để lại. Nàng bảo nhiều lúc nhớ Nhatrang lắm, thử quay về, nhưng rồi thấy lạc lõng, mọi thứ chỉ mới đây thôi sao giờ trở thành xa lạ quá, không còn nhiều cảm xúc, nếu có chỉ là đắng cay. Cuối cùng, mẹ con quyết định mua một căn nhà bên cạnh Quan Âm Tự ở Sài Gòn xa lạ. Cô con gái út vừa học đại học vừa tu học trong chùa. Còn nàng thì tu tại gia và cũng là một nhà thơ. Hôm ngồi trên máy bay trở lại Bắc Âu, tôi đọc hết hai tập thơ của nàng ký tặng lúc chia tay. Có nhiều bài tiếc nhớ Nhatrang, nhưng không phải bây giờ mà Nha trang của nàng và của đám bọn tôi ngày trước. Nàng làm thơ Đường thật hay và cảm động. Tôi nghĩ, nếu Đức Phật mà đọc được thơ nàng chắc cũng phải rơi nước mắt xuống tòa sen.

Một thằng bạn khác cùng học trường Võ Tánh. Sau này gặp nhau trong cùng một đơn vị lính. Đánh giặc rất lì, nhưng luôn bị “đì” bởi bản tính ngang tàng không nể mặt cả cấp chỉ huy. Trong khi đang ở tù ngoài Bắc, chị vợ xinh đẹp ở nhà bị đám người thắng trận theo đuổi, dụ dỗ không được rồi chèn ép dọa dẫm, chán chường cuộc sống nên chị lội xuống biển Nha trang tự vẫn, để lại một thằng con trai bốn tuồi. Nơi người ta phát hiện thi thể của chị lại chính là bờ cát, dấu tích yêu đương hẹn hò, thưở hai người mới quen nhau.

Ra tù, không thể sống trên thành phố quê hương một thời đẹp đẽ giờ chỉ còn là mảnh đất thê lương tang tóc, mỗi ngày ám ảnh bởi cái chết đau đớn của người vợ trẻ đẹp dấu yêu, nó dắt mẹ già và đứa con thơ vượt biển. Sang Mỹ, nhờ mẹ chăm sóc cho đứa con, nó vừa đi làm vừa đi học. Được bạn bè khen, nó bảo: “chẳng phải tao siêng năng chăm chỉ gì đâu, nhưng vì tao không muốn còn có chút thì giờ rảnh rang nào để nghĩ ngợi mông lung, hồi tưởng về một quá khứ đau lòng, nên cố đâm đầu vào sách vỡ!”. Nó chưa bao giở về lại Nhatrang. Bạn bè ai cũng phục khi nó lấy được bằng Cao học Tâm Lý ( Master of Psychology) và có công việc làm lương cao, ổn định. Trong đám bạn bè bất hạnh, nó là đứa thành công nhất. Bỗng một ngày được tin nó chết. Chết đau đớn. Thuê phòng trong một khách sạn ở gần nhà, rồi đến đó dùng súng bắn vào đầu mình tự sát, để lại mấy lá thư. Tôi nhận lá thư nó viết cho tôi, được cảnh sát giao lại, nét chữ đẹp đẽ ngay ngắn, chứng tỏ nó rất bình tĩnh trước khi tự kết liễu đời mình.  Đọc xong thấy lòng đau đớn như có trăm ngàn vết chém, vậy mà không biết vì sao tôi không khóc được:

“Xin lỗi mày, tao đi trước mà không kịp chia tay với mày. Bọn mình rồi sẽ như những con chim đã đến lúc phải bay về với biển. Mày đừng nghĩ là tao buồn. Tao vui lắm đó. Thôi thì tao đi trước để dọn chỗ cho bọn mày, đám bạn bè thân thiết nhất của tao. Chỉ có một điều tao tiếc và ân hận là đã không được chết ở chiến trường như bọn thằng Lâm, thằng Bê, thằng Pho, anh Tài, Đức”.

Những người tiễn đưa nó hôm ấy, hầu hết là bạn bè cùng đơn vị xưa, và một số bạn học cùng trường Võ Tánh Nha trang.

Năm ngoái, một chị bạn cùng trường Võ Tánh, học Ban C sau tôi một năm, định cư ở Canada, cũng đã ra đi, sau hơn hai năm chống chọi với căn bệnh ung thư. Tôi và có lẽ hầu hết bạn bè Võ Tánh rất mến phục cô bạn có nặng tấm lòng và rất khí khái này từ những năm còn dưới mái nhà trường. Mọi người đã ưu ái tặng chị biệt danh “Nữ hoàng xuống đường”. Luôn sống hết lòng với bạn bè và đất nước. Quyết liệt trước bất công, bạo lực. Ngay cả những ngày đã lâm bệnh, chị vẫn thường liên lạc trao đổi với tôi về những kỷ niệm Nha Trang, về tình hình chính trị và hy vọng chế độ Công sản man rợ độc tài sẽ sớm cáo chung trên quê hương. Chị ra đi, để lại bao thương tiếc cho gia đình và tất cả bạn bè. Chị mong muốn và dặn dò gia đình, sau khi chị mất được hỏa thiêu và mang tro cốt của chị rải ở ngoài khơi Thái Bình Dương để hương linh của chị theo biển trôi về quê hương. Ở đó có bãi biển Nha trang thơ mộng, nơi chị sống cả một thời tuổi thơ và lớn lên với những vui buồn, vinh nhục.Tôi hình dung một cánh chim hùng vĩ và đẹp đẽ vừa bay về với biển.

Cuối tháng 2/2013, trước khi trở về lại Bắc Âu, tôi bất ngờ nhận được hung tin: hiền thê của một anh bạn qua đời vì một chứng ung thư khó chữa. Chị là cựu nữ sinh Nữ Trung Học Nha Trang, và sau này là một người đàn bà tuyệt vời. Gia đình anh chị là một đại gia đình quân đội. Các con của chị đều là sĩ quan cấp tá trong quân đội Hoa Kỳ, một cô con gái tốt nghiệp từ quân trường nổi tiếng West Point. Sau này đều trở thành những bác sĩ, luật sư. Phu quân của chị là một người bạn, người đàn anh của tôi ở trường Võ Tánh cũng như trong quân đội ngày trước. Con nhà giàu, đẹp trai và tính tình hào phóng. Là môt sĩ quan trẻ đầy phong độ khi tốt nghiệp từ trường Võ Bị Đà Lạt, đối tượng của nhiều cô con gái Nha trang thuở ấy. Ngày anh quyết định làm đám cưới với chị, chắc chắn có nhiều cô tốn khá nhiều nước mắt. Cuộc tình đẹp. Một gia đình thành công, hạnh phúc. Chị luôn bặt thiệp vui vẻ, hết lòng với bạn bè, đồng đội cũ của chồng. Nụ cười lúc nào cũng nở trên môi. Ai cũng quí mến chị. Vậy mà đùng một cái, chị ra đi, đột ngột chẳng ai ngờ.

Hôm dự dám tang chị, rất nhiều bạn bè cùng khóa Võ Bị với anh và đồng môn thân quen thời Võ Tánh, Nữ Trung Học Nha trang, từ mọi nơi về tiễn biệt. Trong nhà nguyện không còn chỗ đứng. Anh chồng ốm nhom, tiều tụy. Khi gặp anh nói lời chia buồn, tôi ôm đôi vai gầy gò mà thấy thương anh, tội nghiệp. Khuôn mặt hốc hác, đôi mắt quầng thâm. Tôi nghĩ là anh đã khóc thầm nhiều lắm, ở cái tuổi đã trải qua bao thăng trầm mất mát, tưởng như không còn nước mắt.

Khi nhìn quan tài chị được đưa vào lò thiêu, cửa lò đóng lại, tôi tưởng tượng, lại thêm một cánh chim đẹp đẽ vừa bay về với biển.

Tôi nghĩ rồi sẽ có môt ngày, thế hệ bọn tôi, những cô cậu học trò rời trường Võ Tánh vào những năm đầu thập niên 60, bây giờ đều đã trên tuổi 70, sẽ lần lượt ra đi. Tất cả cuối cùng rồi cũng sẽ là những cánh chim bay về với biển.

Bỗng lòng tôi chợt thoáng lên một chút băn khoăn. Những cánh chim di xứ ấy sẽ bay trở về đâu, khi Nha Trang ngày xưa của họ đã thực sự không còn. Thành phố đã cho họ một thời tuổi thơ đẹp đẽ, nhưng cũng đã cho họ quá nhiều đớn đau, mất mát sau cuộc đổi đời.  Tất cả những hang động tuổi thơ và dấu tích của những cuộc tình ngày xưa ấy, giờ chỉ còn là cổ tích. Tôi nhớ lại lời thằng bạn còn ở lại Nha trang, nhớ tới thầy tôi, nhà văn Cung Giũ Nguyên, và tác phẩm Le domaine maudit viết từ năm 1961 của thầy.

Phạm Tín An Ninh

(Bắc Âu cuối hạ 2013)

UNG THƯ RUỘT GIÀ

UNG THƯ RUỘT GIÀ (Colon cancer)

Bác sĩ Nguyễn Văn Đức

Mỗi năm, có 11 triệu trường hợp ung thư ruột già mới xảy ra trên toàn thế giới. Riêng tại Mỹ, ung thư ruột già nhiều chỉ sau ung thư phổi, mỗi năm có thêm 150.000 trường hợp, làm thiệt mạng khoảng 50.000 người. Đây rồi chúng ta ngày sẽ sống lâu hơn, người già nhiều hơn, và số người bị ung thư ruột già sẽ tăng lên. Ung thư ruột già đến với phụ nữ hơi nhiều hơn đàn ông một chút.

Hầu hết các bướu độc ung thư ruột già phát sinh từ những bướu thịt lành tính có tên “adenomatous polyps”. Trong lòng ruột già, hay có những chỗ lồi lên, tạo thành những bướu thịt dư ra gọi là “polyp”. Tùy theo cấu trúc của các bướu thịt dư này, người ta chia chúng làm 3 loại: juvenile polyp (nonneoplastic hamartoma), hyperplastic polyp (hyperplastic mucosal proliferation) và adenomatous polyp. Theo thời gian, chỉ có loại bướu thịt dư adenomatous polyp là có thể biến thành ung thư. Đến 30% người lớn tuổi chúng ta có bướu thịt adenomatous polyps trong ruột già, và thường thì chúng im lặng, chẳng gây triệu chứng gì cả để ta biết. Thế mới lo, tuy không phải bướu thịt adenomatous polyp nào sau cũng biến thành ung thư.

Ai dễ bị ung thư ruột già?

Một số yếu tố được xem dễ đưa đến ung thư ruột già:

– Tuổi tác: 90% các trường hợp ung thư ruột già xảy ra ở người 50 tuổi trở lên.

– Di truyền:

25% số người bị ung thư ruột già có người thân trong gia đình cũng bị ung thư ruột già. Như vậy, trong nhiều trường hợp, tính di truyền của loại ung thư này rất mạnh. Đi khám bác sĩ, nếu người thân trong gia đình bị ung thư ruột già, bạn nhớ cho bác sĩ biết.

– Người trước bị ung thư ruột già dễ có ung thư ruột già nữa. Người có bướu thịt adenomatous polyp trong ruột già dễ bị ung thư ruột già hơn người khác.

– Thực phẩm:

Tuy nguyên nhân gây ung thư ruột già chưa được biết rõ, nhưng có lẽ ung thư ruột già là bệnh của những người thích ăn thịt.

Người ta thấy ung thư ruột già xảy ra thường hơn ở người thuộc tầng lớp khá, sinh sống nơi phồn hoa đô hội. Những khảo cứu làm tại nhiều quốc gia khác nhau trên thế giới cho thấy càng ăn nhiều chất đạm từ thịt (meat protein), càng tiêu thụ nhiều dầu mỡ (dietary fat and oil), càng dễ tử vì ung thư ruột già. Di dân từ những nơi ít có ung thư ruột già, khi đến một quốc gia mới có thói quen ăn thịt, cũng sẽ dễ bị ung thư ruột già giống như người bản xứ ở quốc gia mới đến cư ngụ. Người theo đạo Mormons ít ăn thịt ít bị ung thư ruột già hơn những ông bà bạn hàng xóm của họ không theo đạo Mormons, ăn thịt nhiều hơn; và người Nhật, trước ít có ung thư ruột già, bây giờ nhiều hơn, vì nay họ có thói quen ăn uống giống với người phương Tây.

– Bệnh viêm ruột (inflammatory bowel disease):

Nhiều người không may mang bệnh viêm ruột “inflammatory bowel disease” (gồm hai bệnh “ulcerative colitis” và “granulomatous colitis”), cứ hay đi cầu ra máu, đau bụng, lâu lâu lại tắc ruột.

Sau 25 năm mang bệnh với các triệu chứng tái phát như vậy, triển vọng bị ung thư ruột già rất cao (8-30%). Sau 15 năm mang bệnh viêm ruột, căn bệnh vẫn hay hành, cắt bỏ hẳn ruột già sẽ làm giảm nguy cơ ung thư, đồng thời cũng giúp người bệnh đỡ khổ vì các triệu chứng.

– Thuốc lá: hút thuốc lá có thể làm tăng nguy cơ bị ung thư ruột già.

– Thiếu vận động: đời sống thiếu vận động cũng khiến ung thư ruột già dễ xảy ra.

Ngược lại, theo vài khảo cứu, calcium (ít nhất 1000 mg mỗi ngày, từ thực phẩm hoặc thuốc uống) có thể giúp giảm nguy cơ ung thư ruột già, thuốc aspirin và các thuốc chống viêm không chứa steroid (nonsteroidal antiinflammary drugs) như ibuprofen, napoxen, … cũng vậy.

Triệu chứng

Như bạn thấy, ruột già của ta dài, gồm nhiều khúc. Triệu chứng của ung thư ruột già tùy vào chỗ ruột già có ung thư.

Khi mới từ ruột non vào ruột già phía bên phải của bụng, phân tương đối còn lỏng nên ung thư nằm ở đoạn ruột già bên phải bụng (gọi là ruột già lên, ascending colon, vì nó đi từ bụng dưới bên phải lên phía bụng trên bên phải), cả đến khi nó đã rất to, thường không gây triệu chứng gì cả. Bướu ung thư tại nơi đây hay gây loét, khiến chỗ loét cứ âm thầm chảy máu tí một, tí một, mắt ta không nhìn thấy, và phân trông vẫn bình thường. Nhưng chảy máu rỉ rả như vậy, về lâu về dài sẽ đưa đến thiếu máu, loại thiếu máu do thiếu chất sắt (iron deficiency anemia). Người có ung thư ruột già bên phải, vì thiếu máu, hay thấy mệt mỏi, hồi hộp, có khi đau ngực do tim không đủ máu nuôi (angina), thử máu thấy các tế bào hồng huyết cầu vừa thiếu, vừa nhỏ, vừa tái, không đỏ như bình thường, làm ta nghĩ đến loại thiếu máu do thiếu chất sắt. Vì thế, ở người lớn chúng ta, nhất là sau 50 tuổi, ai thiếu máu do thiếu chất sắt nhưng không có lý do nào rõ rệt có thể giải thích việc này (như phụ nữ đã mãn kinh, đâu còn ra kinh mỗi tháng, mà sao vẫn thiếu máu), cần được tìm hiểu xem có ung thư ruột già hay không.

Khi đến đoạn ruột già ngang (transverse colon, chạy từ bụng trên bên phải sang bụng trên bên trái) và ruột già xuống (descending colon) bên trái bụng, phân của ta đã trở thành cứng hơn, nên ung thư ở những phần ruột già này cản phân, khiến phân khó di chuyển, gây đau bụng. Ruột có thể tắc, có khi thủng.

Ung thư vùng trực tràng (rectosigmoid area) gần về phía hậu môn hay làm đi cầu ra máu, đi cầu khó phải rặn cho dữ (tenesmus), phân ra bé hơn bình thường. Có điều, thiếu máu lại ít khi xảy ra. Quả những triệu chứng này hay khiến chúng ta nghĩ đến bệnh trĩ, nhưng bất cứ khi nào đi cầu ra máu, và thói quen đi cầu của chúng ta tự dưng thay đổi, ta nên nghĩ đến ung thư ruột già, nhờ bác sĩ dùng ngón tay khám trực tràng cho ta, hoặc soi vùng trực tràng bằng phương pháp soi proctosigmoidoscopy.

Định bệnh

Nghĩ đến ung thư ruột già, nhất là ở những vị 50 tuổi trở lên, là ta đã đặt được bước chân đầu tiên trên con đường định bệnh.

Chúng ta biết rồi, thiếu máu do thiếu chất sắt ở đàn ông hoặc phụ nữ đã mãn kinh mà không có lý do rõ rệt, ta nghĩ đến ung thư ruột già. Đau bụng, thói quen đi cầu thay đổi (mới bón hoặc tiêu chảy thời gian gần đây thôi), đi tiêu ra máu, đi cầu phải rặn dữ quá, phân ra bé tẹo, …, cũng vậy.

Những phương pháp hiện được dùng để khám phá ung thư ruột già: thử phân hầu tìm xem trong phân có máu không (fecal occult blood test), khám trực tràng bằng ngón tay (digital rectal examination), chụp phim ruột già (barium enema), soi đoạn cuối của ruột già gần về phía hậu môn (sigmoidoscopy), và soi toàn ruột già (colonoscopy).

Soi toàn ruột già được xem là phương pháp khám phá ung thư ruột già chính xác nhất. Sau khi ruột già của bạn được xúc rửa sạch sẽ, bác sĩ đặt một ống soi mềm vào hậu môn bạn và đi ngược lên phía trực tràng, rồi từ từ đi lên cao hơn nữa, quẹo phải trên đoạn ruột cong hình chữ S sigmoid, xong, ngược lên đoạn ruột già xuống bên trái bụng, quẹo trái khi gặp đoạn ruột già ngang, đi hết đoạn ruột già ngang, lại quẹo trái nữa, xuống đoạn ruột già lên bên phải bụng. Với ống soi, vừa đi như vậy, bác sĩ vừa xem xét kỹ lòng ruột già của bạn, và nếu gặp bất cứ chỗ nào khả nghi, sẽ cắt lấy một miếng thịt để đem thử.

Phương pháp soi toàn ruột già tốt, khám phá ung thư rất chính xác, song có thể gây biến chứng chảy máu, thủng ruột già, vì việc đi xa trên cả một cái ruột già dài và vòng vèo như thế, thỉnh thoảng cũng gặp bất trắc. Tuy vậy, những biến chứng này ít khi xảy ra, và nếu cần phải soi toàn ruột già để khám phá hoặc truy tìm ung thư, ta chẳng nên ngần ngại.

Chữa trị

Việc chữa trị ung thư ruột già tùy vào việc ta khám phá được ung thư sớm hay trễ, nó còn tại chỗ hay đã ăn sâu xuống, lan đi xa. Ung thư tiến triển qua 5 giai đoạn (Dukes staging system):

– A: khi ung thư còn ở nông trên lớp niêm mạc lòng ruột già hoặc dưới đó một chút (cancer limited to mucosa and submucosa).

– B1: ung thư xuống đến vùng bắp thịt của lòng ruột già (cancer extends into muscularis).

– B2: ung thư xuống sâu đến lớp bao phủ mặt ngoài ruột già (cancer extends into or through serosa).

– C: ung thư đã ra ngoài ruột già, lan đến các hạch bạch huyết quanh đấy (cancer involves regional lymph nodes).

– D: ung thư lan xa đến các cơ quan khác như gan, phổi, … (distant metastases).

Trước khi chữa, để biết ung thư đã lan đến đâu, chúng ta cần soi toàn ruột già (nếu chưa soi), chụp phim ngực (chest x-ray), phim Cat scan bụng và vùng chậu (abdominal and pelvic CT scan).

Khám phá sớm trong giai đoạn A, khi ung thư mới còn trên lớp niêm mạc, chưa ăn sâu xuống lòng của ruột già, sự chữa trị giản dị, ta mổ cắt béng bướu ung thư là xong, và tỉ lệ sống sót được 5 năm (5-year survival rate) của người bệnh rất cao, trên 90%. Dù vậy, ta vẫn cần theo dõi sát trong vòng 5 năm đầu sau khi mổ cắt bướu ung thư thành công, bằng cách đo chất CEA trong máu (carcinoembryonic antigen, một chất tăng cao trong máu khi có ung thư ruột già) mỗi 3 tháng, khám bệnh đều mỗi 6 tháng, và soi lại hoặc chụp phim ruột già mỗi 3 năm.

Ở các giai đoạn B và C, sau khi giải phẫu cắt bỏ ung thư, thường ta phải trị liệu thêm bằng tia phóng xạ (radiation therapy) và các chất hóa học (chemotherapy), với hy vọng tiêu diệt hết những tế bào ung thư chưa cắt hết được.

Còn để quá trễ, khi ung thư đã sang giai đoạn D, lan xa đến cả các cơ quan khác, sự chữa trị chính là hóa học trị liệu (chemotherapy), dùng những thuốc có tác dụng diệt ung thư, nhờ thuốc đến mọi nơi trong cơ thể có tế bào ung thư để giết chúng hộ ta. Việc này không thành công nhiều, và tỉ lệ sống sót 5 năm của người ung thư chỉ khoảng 5%.

Bài kỳ sau, chúng ta sẽ bàn đến các cách phòng ngừa ung thư ruột già.

Học sinh chém nhau như phim trước cổng trường

Bệnh viện quận 8 cho biết lúc 12g ngày 24/8, khoa cấp cứu có tiếp nhận một thanh niên bị nhiều vết đâm được người đi đường chuyển đến. Do nguy kịch, bệnh viện đã chuyển nạn nhân đến bệnh viện 115 cấp cứu.
Ông Nguyễn Hữu Thanh (46 tuổi) người chuyển bệnh nhân đến bệnh viện thuật lại: “Tôi đi làm về ngang qua trường THPT Tạ Quang Bửu (P.5 Q.8) thấy học sinh nhốn nháo. Một chiếc xe gắn máy ngã lăn lóc trước cổng trường. Nhìn phía trước, một thanh niên mặc đồng phục học sinh đang chạy thục mạng. Phía sau, một học sinh khác của trường Tạ Quang Bửu tay cầm con dao dài khoảng 30cm vấy máu truy đuổi.
Trường Tạ Quang Bửu, chém nhau, học sinh

Trước cổng trường PTTH Tạ Quang Bửu, nơi xảy ra vụ việc.

Tôi chạy tới thì em học sinh chạy trốn có dấu hiệu đuối sức, trong khi phía sau người đuổi tới chỉ còn cách em chừng 4m. Tôi tấp sát vào em nói lớn: “Con lên xe, chú cứu con”. Em học sinh nhảy lên xe, tôi chạy thẳng đến bệnh viện quận 8”.
Chỉ cho chúng tôi xem những vệt máu có dính trên xe, anh Thanh cho biết nếu không cứu kịp thời, em học sinh này sẽ bị đâm tiếp và có thể không bảo toàn được tính mạng.
Còn theo người dân chứng kiến, nạn nhân là học sinh một trường khác đến đón một nữ sinh lớp 11 của trường Tạ Quang Bửu. Khi nữ sinh vừa ngồi trên xe bất ngờ một học sinh của trường Tạ Quang Bửu rút dao đâm từ sau đâm tới. Nhát dao sượt qua tay nữ sinh và ghim thẳng vào người nam sinh ngồi phía trước. Em này ngã xuống và bị đâm thêm một nhát nữa. Sau đó là cuộc rượt đuổi đến cách cầu Tạ Quang Bửu chừng 50m thì được cứu.

Trường Tạ Quang Bửu, chém nhau, học sinh
Em Nguyễn Thị Yến Thanh bước ra từ trụ sở công an P. 5. Trên tà áo dài đồng phục còn dính nhiều vết máu.

Công an phường 5 có mặt tại hiện trường mời nữ sinh bị đâm và một số nhân chứng về cơ quan lấy lời khai. Nữ sinh ngồi sau bị thương nhẹ là Nguyễn Thị Yến Thanh học lớp 11 trường Tạ Quang Bửu và thủ phạm gây án cũng là bạn học cùng lớp với Thanh có tên là Bách. Hiện Bách đã bỏ trốn khỏi hiện trường.
Qua trao đổi với gia đình, được biết nạn nhân trong vụ việc là Mai Anh Tuấn hiện là học sinh trường PHTH Thăng Long ngụ tại P.4, Q.8 đã trải qua phẫu thuật tại bệnh viện 115.
Trả lời P.V VietNamNet về vụ việc, hiệu trưởng trường PTTH Tạ Quang Bửu chỉ trả lời vỏn vẹn: “Chúng tôi không hay biết gì về việc này ?”.
Hiện chưa rõ nguyên nhân và động cơ gây án.
Trần Chánh Nghĩa

Ông Lê Hiếu Đằng: Báo Quân đội Nhân dân ‘bỏ bóng đá người’

Ông Lê Hiếu Đằng: Báo Quân đội Nhân dân ‘bỏ bóng đá người’

23.08.2013

Bài viết “Suy nghĩ trong những ngày nằm bịnh” của ông Lê Hiếu Ðằng, nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, là đề tài được truyền thông Việt ngữ khắp nơi bàn tán sôi nổi trong mấy ngày gần đây. Bài viết mà ông Đằng nói ông gửi cho “bạn bè, đồng đội, nhân sĩ trí thức, văn nghệ sĩ, thanh niên SVHS Việt Nam”, kêu gọi họ hãy dấn thân hành động để đoàn kết dân tộc và xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn.


Với bài viết mang tựa đề “Màn Tung Hứng vụng về” trên báo Quân đội Nhân Dân số ra hôm nay, thứ Sáu 23 tháng 8, tác giả đã mạnh mẽ đả kích những nhận định của ông Đằng. Nội dung chỉ trích bài “Suy nghĩ trong những ngày nằm bịnh” của ông Lê Hiếu Đằng, một đảng viên kỳ cựu có trên 40 tuổi Đảng, là “đầy những lỗi tư duy, lập luận phiến diện, hàm hồ, ấu trĩ”.

Trong một cuộc điện đàm với Ban Việt ngữ VOA, ông Lê Hiếu Đằng nói ông đã trình bày rõ ràng tất cả những gì muốn nói trong bài viết, và giờ đây sẵn sàng tranh luận công khai, nhưng không muốn đáp những chỉ trích của báo Quân đội Nhân Dân.

“Quan điểm của tôi là nếu anh muốn tranh luận công khai thì anh hãy tạo điều kiện, diễn đàn đàng hoàng. Tôi và một số bạn bè tôi sẽ tranh luận công khai. Còn nếu anh chơi kiểu gọi là “bỏ bóng đá người” thì tôi không có nói, không tranh luận làm gì, bởi vì các trang mạng người ta cũng đã thấy cái việc đó không đúng, người ta nói rồi thì tôi nói cũng lặp lại những ý đó thôi. Mà tôi là người trong cuộc thành ra không hay lắm, không khách quan… thì thôi cứ để cho dư luận, công luận người ta phê phán thôi, phải không. Chuyện đó tôi nói rất rõ ràng rồi: tôi đấu tranh rất ôn hòa, công khai minh bạch chứ ai kêu gọi vũ trang hay lật đổ gì đâu! ”

Tác giả Phạm Trung, người viết bài trên tờ Quân đội Nhân dân, nói bài viết của ông Đằng có thể bị các nhóm mà tờ báo nhà nước mô tả là “dân chủ” trong ngoặc kép, khai thác để gây xáo trộn và đổ máu tại Việt Nam. Ông Lê Hiếu Đằng:

“Bây giờ cái khuynh hướng bạo lực ấy không ai chấp nhận được. Thành ra trên trang mạng có những ý kiến quá khích, chửi bới tụi tôi, nhưng mà chúng tôi không để ý. Bây giờ cái thời đại này là cái xu thế là phải đoàn kết để xây dựng đất nước. Cái xu thế đó đang lên thành ra cực đoan của cả hai bên đều không thể chấp nhận được, thành ra tôi để ngoài tai những việc đó, không đáng cho mình nói. Những điều mà tôi muốn nói tôi nói rất rõ rồi. Từng câu từng chữ từng ý rất rõ. Tôi viết tôi phân tích từng điểm một mà, chính trị, rồi mặt xã hội rồi mặt độc lập và chủ quyền dân tộc, tôi nói rất rõ rồi không cần phải nói gì thêm.”

Báo Quân đội Nhân dân, tiếng nói của lực lượng vũ trang và nhân dân Việt Nam, còn nói rằng bài viết của ông Lê Hiếu Đằng là một lời hiệu triệu, sẽ “lôi kéo, kích động gây xáo trộn xã hội dẫn tới cảnh nồi da xáo thịt, thây chất đầy đồng, máu chảy thành sông ” như cảnh đã diễn ra ở các nước Syria, Libya, và Ai Cập.

VIỄN XỨ,

VIỄN XỨ,

Bên dòng sông nhung nhớ,
Em là con đò nhỏ,
Chở vần thơ ra đi,
Xa xa khuất bến bờ…

Lục bình trôi trên sóng,
Hoa tím sầu mênh mông,
Em gởi hồn theo gió,
Tiếc than phận má hồng…

Đêm lạc đời viễn xứ,
Buồn đầy ắp tâm tư,
Phù sa không bồi đắp,
Nên niềm đau nát nhừ…

Đâu đây vang điệu hát,
Bài ca dao phổ nhạc,
Khơi lòng thêm nhung nhớ,
Buồn ơi… sao xót xa…

Ôi dòng đời nghiệt ngã,
Xâm chiếm mãnh hồn ta,
Tim hoang đàng lưu lạc,
Biết đâu sẽ là nhà…

Liverpool.18/8/2013.
Song Như.

Kính gởi quý Thầy Cô và các bạn LVC.
Kính chúc sức khỏe.
KT.

NGẮM SÔNG NHỚ VỀ…


NGẮM SÔNG NHỚ VỀ…

Lặng ngắm bên này cũng dòng sông,
Nắng chói mênh mông sóng ngập lòng,
Bèo trôi nước chảy chiều viễn xứ,
Tím cả mây ngàn nỗi nhớ mong…

Khói tỏa vườn sau bếp nóng tro,
Liễu rủ nhà ai cạnh bến đò,
Dòng sông uốn lượn quanh thôn xóm,
Mục tử ngân nga vọng câu hò…

Nặng gánh đòng đưa cuộc sống quê,
Thiếu nữ trên đê bước vội về,
Hương đồng cỏ nội chân bùn đất,
Thấp thoáng đồi xa ánh trăng thề…

Nhớ quá người ơi đã bấy năm,
Sống kiếp tha hương ước mộng thầm,
Ngày về nối lại vòng tay lớn,
Sưởi ấm tâm tình tóc hoa răm…

Liverpool.20/8/2013.
Song Như.

Kính gởi quý Thầy Cô và các bạn LVC.
Kính chúc sức khỏe.
KT.

Luật sư Trần Vũ Hải: Pháp luật Việt Nam không cấm lập đảng

Luật sư Trần Vũ Hải: Pháp luật Việt Nam không cấm lập đảng

Luật sư Trần Vũ Hải.

Luật sư Trần Vũ Hải.

22.08.2013

Một luật sư có tiếng tại Việt Nam khẳng định Hiến pháp và pháp luật Việt Nam không có điều nào cấm công dân thành lập và tham gia một chính đảng khác ngoài đảng cộng sản.

Luật sư Trần Vũ Hải, người tham gia nhiều vụ án chính trị trong nước, nói các văn bản pháp luật hiện hành cho thấy hoạt động thành lập và tham gia đảng phái chính trị không nhằm lật đổ chính quyền nhân dân không bị coi là bất hợp pháp.

Theo nghiên cứu của luật sư Hải, pháp luật Việt Nam quy định đảng phái không phải xin phép thành lập và điều lệ đảng không cần sự công nhận của nhà nước.

Ông đã gửi thư cho Quốc hội và các nhà luật học đề nghị cho ý kiến về vấn đề thành lập và tham gia đảng phái ở Việt Nam trong lúc vấn đề này đang được dư luận trong và ngoài nước quan tâm, giữa những lời kêu gọi thành lập thêm các đảng đối lập với đảng cộng sản Việt Nam để cạnh tranh, kiểm soát lẫn nhau, thúc đẩy dân chủ và phát triển xã hội.

Luật sư Hải kêu gọi nhà chức trách Việt Nam công bố quan điểm rõ ràng về việc có cấm công dân tham gia thành lập đảng phái hay không, nếu không cấm thì cần nêu rõ việc thành lập nên diễn ra thế nào cho phù hợp pháp luật Việt Nam.

Điều 4 Hiến pháp Việt Nam quy định đảng cộng sản nắm quyền độc tôn lãnh đạo đất nước.

Trong cuộc phỏng vấn do PhoBolsaTV đăng tải cuối tháng 7, Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam, Nguyễn Thanh Sơn tuyên bố dân chủ không nhất thiết phải đa đảng.

TRƯỚC CỬA THIÊN ĐÀNG

TRƯỚC CỬA THIÊN ĐÀNG

Ở trang trong của một nhật báo xuất bản tại Manila, người ta đã đọc được câu chuyện vui sau đây:

Trước cửa Thiên đàng, linh hồn một nông dân xuất hiện xin Thánh Phêrô cho vào hưởng nhan Thiên Chúa.  Thánh Phêrô nghiêm nghị hỏi:

– “Con đã sống như thế nào trên trần gian mà giờ đây con muốn vào Thiên đàng?”

Linh hồn người nông dân trả lời với hết lòng chân thật:

– “Dạ, thưa Thánh Phêrô, 70 năm qua trên trần gian con đã cần cù làm ăn, tuân giữ mọi điều luật Chúa dạy, không bao giờ phạm tội làm mất lòng Chúa.  Con muốn vào Thiên đàng để được hưởng nhan thánh Chúa đời đời”.

Thánh Phêrô nghiêm nghị trả lời:

“Con đợi ta xem lại các bản phúc trình mà thiên thần bản mệnh của con đã gởi về”.  Trong giây phút im lặng, với vẻ mặt nghiêm nghị, thánh Phêrô lần mở ra kiểm soát thật kỹ những phúc trình về cuộc đời của người nông dân.  Quả thực, đúng như lời ông khai báo.  Thánh Phêrô không tìm thấy bất cứ lỗi nào trong các bản phúc trình ấy cả.  Sau giây phút suy nghĩ, thánh nhân nghiêm nghị trả lời cho linh hồn người nông dân:

– “Con không đủ điều kiện để vào Thiên đàng”.  Thánh Phêrô ôn tồn giải thích lý do: “Con có biết không, trên Thiên đàng nầy, kể cả chính bản thân ta đây nữa, tất cả mọi linh hồn vào đây đều là những linh hồn tội lỗi, đã làm phiền lòng Chúa Giêsu rất nhiều, nhưng đã sám hối ăn năn, được Chúa thứ tha, rồi mới vào đây được.  Còn con thì thật là khác thường.  Con suốt đời không phạm tội gì cả.  Vậy con không đủ điều kiện để vào Thiên đàng.  Ta cho con trở lại trần gian sống thêm ít năm nữa xem sao, để con có điều kiện mà trở lại đây vào Thiên đàng”.

**********************************

Đây là một câu chuyện vui có thể giúp chúng ta nhìn vào cuộc đời quá khứ của mình dưới ánh sáng của Lời Chúa hôm nay.  Nước Trời là của những tâm hồn tội lỗi nhưng đã sám hối ăn năn trở về cùng Chúa.  Nào ai dám tự phụ cho mình đã không bao giờ lầm lỗi, không bao giờ làm phiền lòng Thiên Chúa và xúc phạm đến anh chị em xung chung quanh.  Chúng ta không nên có thái độ giả hình, tự phụ, cho mình là trong sạch, tốt lành hơn kẻ khác, xứng đáng được vào Nước Trời.  Đừng tưởng như những người Do Thái, cứ tưởng là dân riêng của Chúa, là con cháu của Abraham là đương nhiên được bảo đảm chắc chắn được vào Nước Trời.  Vì không phải bất cứ ai thưa: “Lạy Chúa, lạy Chúa là được vào Nước Trời”, cũng không phải tất cả những ai đã được diễm phúc đồng bàn ăn uống với Chúa Giêsu, được nghe Ngài giảng dạy trên các đường phố của mình, đều là những người có đủ tiêu chuẩn bảo đảm cho một tấm vé vào cửa Thiên đàng!

Vấn đề là phải phấn đấu “vào qua cửa hẹp”, “phải dùng sức mạnh” mới lọt được cửa hẹp dẫn tới bàn tiệc Nước Trời.  Bởi vì, trước cửa Nước Trời, mọi người đều bình đẳng để vào, không có ưu tiên dành cho những người có lý lịch tốt, hay có gốc gác bự, có ô dù…  Cũng không có chuyện dành chỗ trước, cũng chẳng có chuyện chạy chọt đút lót, cậy quyền cậy thế, hoặc dựa vào thành tích quá khứ để đòi hỏi cho mình quyền ưu tiên.  Vả lại, cũng đừng quan niệm bàn tiệc Nước Trời như một tiệc chiêu đãi có tính cách phô trương trình diễn.  Trái lại, đây phải là một bàn tiệc của những người chiến thắng, mà chỉ có những người đã từng chiến đấu, đã chia sẻ những nỗi gian khổ, đã thông phần vào cuộc khổ nạn của Chúa Kitô mới xứng đáng dự phần.

Điều trớ trêu là không phải con cái trong nhà sẽ là những kẻ nhanh chân nhất và được vào bàn ăn.  Trái lại, chính những kẻ ở xa, những kẻ lặn lội từ bốn phương trời mà đến.  Đối với những người Do Thái đang nghe Chúa Giêsu thì những kẻ từ Đông Tây Nam Bắc mà đến chính là các dân ngoại.  Họ sẽ được vào đồng bàn với các Tổ phụ và các Ngôn sứ, trong khi chính những người Do Thái là con cái trong nhà, những kẻ hãnh diện từng ăn uống thường ngày với Chúa, từng được nghe Ngài giảng dạy, lại phải đứng ngoài gõ cửa tuyệt vọng.  Vì vậy có sự đảo ngược thứ tự vào Nước Trời: “Những người trước hết sẽ trở nên cuối hết, còn những người cuối hết sẽ trở nên trước hết”.

Anh chị em thân mến, Thiên Chúa không theo chủ nghĩa lý lịch.  Trước cửa Nước Trời, Ngài không hỏi mọi người: Có chịu phép rửa tội, có theo kitô giáo, có phải là người Công giáo hay không?  Có phải là Tu sĩ, Linh mục, Giám mục, Hồng y hay Giáo Hoàng?  Điều Ngài đặc biệt quan tâm và xét hỏi, đó là đã có làm và sống như Chúa Giêsu đã làm, đã sống, đã dạy hay không?  Vì thế, đừng lầm tưởng rằng: hễ có tên là Kitô hữu, là người Công giáo, là đạo gốc, là đương nhiên được bảo đảm vào Nước Trời, để rồi tự đắc đứng trên nhìn xuống thương hại hay loại trừ những người anh em ngoại giáo, những người không chia sẻ một tôn giáo, một niềm tin với chúng ta.  Bàn tiệc Nước Trời đón nhận tất cả mọi thành tâm thiện chí.  Nếu chúng ta không thực thi Lời Chúa, không đi theo con đường hẹp của Chúa, thì có thể những người anh em ngoại giáo sẽ vào Nước Trời trước chúng ta, đang khi chúng ta, những người được mời gọi trước lại sẽ bị Chúa từ chối, vì chỉ mang cái nhãn hiệu Kitô hữu mà không có một đời sống đức tin, một đời sống Kitô hữu đích thực.

Nếu Chúa Giêsu mượn hình ảnh bữa tiệc để nói về Nước Thiên Chúa thì chính là để diễn tả sự chia sẻ niềm vui, chia sẻ hạnh phúc với Thiên Chúa và với anh em.  Bởi thế, Thánh Phaolô đã nói với tín hữu Rôma: “Nước Thiên Chúa không phải là chuyện ăn uống, nhưng là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần” (Rm 14,17).

Bàn tiệc Thánh Thể hôm nay phải là dấu chỉ cụ thể của bàn tiệc Nước Trời, nên những gì chúng ta chia sẻ trên bàn thờ, tức là Mình Máu Thánh Chúa, phải được chia sẻ rộng rãi trong cuộc sống.  Nói khác đi, chúng ta không thể bẻ Bánh Thánh với nhau mà không biết chia cơm sẻ áo cho nhau, nghĩa là cho anh em trong cộng đoàn mà thôi, nhưng còn là cho mọi người anh em đang cần được chúng ta chia sẻ. Thực hiện sự chia sẻ cụ thể đó, chính là phấn đấu đi qua cửa hẹp để dự Bàn Tiệc Nước Trời vậy.

Trích trong “Niềm Vui Chia Sẻ”

Anh chị Thụ & Mai gởi

Hậu quả của “Tư duy ngược”

Hậu quả của “Tư duy ngược”

Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2013-08-22

000_Hkg4467982-305.jpg

Một đại biểu với lá phiếu trên tay trong ngày Đại hội toàn quốc lần thứ 11 của Đảng Cộng sản VN tại Hà Nội, 17/1/2011

AFP photo

Ông Lê Phú Khải, tuy là một phóng viên kỳ cựu của Đài truyền hình Trung Ương nhưng không bao giờ gia nhập Đảng Cộng sản mặc dù cả gia đình ông hầu hết là Đảng viên thâm niên. Lý do nào dẫn đến việc từ chối gia nhập Đảng của ông Lê Phú Khải được Mặc Lâm tìm hiểu thêm qua bài phỏng vấn sau đây:

Mặc Lâm: Như chúng tôi được biết ông là một phóng viên kỳ cựu của Đài Truyền hình Trung ương Việt Nam và xuất thân từ một gia đình hầu hết là Đảng viên Đảng Cộng sản nhưng chỉ có ông là không gia nhập Đảng. Xin được hỏi ông lý do nào ông chọn thái độ đứng ngoài Đảng thưa ông?

Ô. Lê Phú Khải: Là vì tôi đọc sách triết học rất nhiều, tôi thấy một xã hội có đối thoại thì mới tiến bộ được. Nếu độc thoại thì không thể nào khá được. Chính vì vậy nhận thấy mình không hợp với một xã hội độc thoại, một Đảng độc thoại như thế.

Đường lối của Đảng phải do đảng viên góp ý thì nó mới thành đường lối. Đàng này đảng viên phải nghe ý kiến nghị quyết của trên xuống và phải chấp hành thì quá phi lý. Đó là tư duy ngược!
– Ô. Lê Phú Khải

Đường lối của Đảng phải do đảng viên góp ý thì nó mới thành đường lối. Đàng này đảng viên phải nghe ý kiến nghị quyết của trên xuống và phải chấp hành thì quá phi lý. Đó là tư duy ngược! Ví dụ như báo Nhân dân nói “đưa nghị quyết đảng vào cuộc sống” như vậy là nghị quyết đảng từ trên trời rơi xuống à? Phải nói là đưa cuộc sống vào nghị quyết đảng mới đúng, để từ đó mới trở thành nghị quyết của Đảng. Đó chính là “Nhận thức luận”  của Lenin đấy. “Từ trực quan sinh động tới tư duy trừu tuợng”.

Tôi có anh bạn ở Cà Mau ra Bắc tập kết sau này anh ấy làm chức cũng lớn. Một lần anh ấy về quê anh ấy bảo: “má ơi nhà mình xa quá”. Bà má nổi đóa bả chửi: “chỉ có mày đi xa chứ nhà mình đâu có xa!” như vậy là tư duy ngược rồi còn gì nữa?

Mặc Lâm: Thưa ông, tuy nhiên có một nghịch lý là từ đó đến nay đã gần 70 năm, số lượng đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn tăng không ngừng, cho đến nay đã có hơn ba triệu Đảng viên so với ngày đầu là 5.000 người. Câu hỏi đặt ra là tại sao số luợng cứ tăng mặc dù sai lầm vẫn rõ ràng như vậy?

Ô. Lê Phú Khải: Chính vì nó tăng như thế cho nên nó mới sai lầm! Bởi vì người ta cần chất lượng chứ không ai cần số lượng. Anh càng tăng bao nhiêu thì chứng tỏ cái chất lượng của anh bấy nhiêu. Số lượng không nói lên điều gì cả khi ngày xưa chỉ có 5.000 đảng viên nguời ta vẫn làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám. Bây giờ kết nạp cả học sinh, sinh viên vào Đảng nữa. Đảng lãnh đạo tuyệt đối thế thì học sinh lãnh đạo thầy à? Nó phi lý ở chỗ đó.

LPK-250.jpg

Ông Lê Phú Khải

Như trong bài viết của anh Lê Hiếu Đằng tôi thấy anh ấy viết rất đúng. Trong trường phổ thông cũng kết nạp học sinh vào đảng, thế thì cái thằng học sinh trong lớp nó còn coi thầy ra cái gì nữa? Vì nó là Đảng cơ mà! còn thầy là nguời ngoài đảng thì làm sao thầy dạy được? như thế có phải là tư duy ngược hay không?

Tôi không phải là đảng viên cũng không phải là nguời cách mạng nhưng tôi là nguời tư duy, và tôi thấy như thế là tư duy ngược cho nên dứt khoát tôi không vào Đảng. Tôi không thể chấp nhận cái tư duy ngược như vậy.

Mặc Lâm: Chúng tôi được biết ông là một phóng viên kỳ cựu của đài Truyền hình Trung Ương và từng có dịp gặp gỡ các nhân vật cao cấp trong chính phủ trong đó có Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Ông từng nói Thủ tướng Đồng là người có thái độ “kiêu ngạo cộng sản”. Theo ông thì đây là bản tính cá nhân hay nảy sinh từ hệ thống Đảng Cộng sản khiến cho Đảng viên thâm nhiễm cá tính này?

Ô. Lê Phú Khải: Không phải riêng ông Đồng đâu, rất nhiều người có chức có quyền như vậy. Do họ không đối thoại mà chỉ độc thoại nên họ rất chủ quan. Họ chỉ cho ý kiến của mình là đúng mà thôi.

Tôi nhớ ngày xưa khi ông nội tôi làm thư ký cho Toàn quyền Đông Duơng thì ông nội tôi kể khi đi đâu thì Toàn quyền cũng mang theo kỹ sư hay các nhà chuyên môn để nghiên cứu việc trồng cây gì nuôi con gì… Toàn quyền Đông Dương không có “quyết”. Chính anh kỹ sư phải xem phải suy nghĩ để “quyết” sau đó có biên bản đàng hoàng. Anh quyết, anh tham mưu sau này có chuyện gì tôi lôi cổ anh ra, như thế mới là khoa học.

Đây là cơ may cho ĐCS vì bây giờ có những người ôn hòa, nhiệt huyết, tâm huyết trong những vấn đề của đất nước, góp ý với Đảng để cùng với Đảng đối lập về tư duy để có đường lối đúng xây dựng đất nước.
– Ô. Lê Phú Khải

Còn bây giờ, một ông lớn xuống. Cây gì ổng thích thì bảo trồng cây đó và không ai được cãi cả. Nay trồng cây này, mai trồng cây kia mà không thăm hỏi gì cả thì chết dân!

Không thể nào tư duy xuôi chiều được mà phải tư duy nhiều chiều và có đối thoại thì mới tìm ra chân lý. Điều đó là quá rõ ràng, là ABC về triết học.

Tôi là một công dân, tôi sống trong chế độ Đảng cầm quyền thì tôi phải chấp nhận vì trước hết tôi phải sống đã. Tuy nhiên tôi không vào Đảng vì lý do đó.

Mặc Lâm: Trước tình cảnh mà ông gọi là tư duy ngược ấy thì đề nghị của ông Lê Hiếu Đằng như ông đã biết là thành lập Đảng Dân chủ Xã hội để đối trọng với Đảng Cộng sản Việt Nam phải chăng là cơ hội để Đảng Cộng sản có dịp tự thay đổi tư duy của mình qua phản biện của Đảng kia hay không?

Ô. Lê Phú Khải: Tôi thấy là quá đúng rồi chứ gì nữa? Đây là cơ may cho Đảng Cộng sản vì bây giờ có những người ôn hòa, nhiệt huyết, tâm huyết… rất nhiệt huyết trong những vấn đề của đất nước thì người ta góp ý với Đảng để cùng với Đảng đối lập về tư duy để có đường lối đúng xây dựng đất nước. Đây là cơ may của Đảng Cộng sản.

Những người này đều có “lý lịch” cùng chung với Đảng Cộng sản và đó là những người yêu nước chân thành. Họ chủ truơng ôn hòa từ trước tới giờ và rất đứng đắn.

Mặc Lâm: Một lần nữa xin được cảm ơn ông.

Đức Thánh Cha Bênêdictô giải thích lý do Ngài từ chức.

Đức Thánh Cha Bênêdictô giải thích lý do Ngài từ chức.


Trần Mạnh Trác

8/21/2013

Đức Thánh Cha Bênêdictô đã giải thích lý do tại sao Ngài từ chức một cách đột ngột.

“Thiên Chúa đã nói với tôi như thế,” Ngài nói.

Các hệ thống thông tin đã đồng loạt đưa tin cuả Thông Tấn Xã Zenit (cuả Toà Thánh) về sự tiết lộ này. Sự tiết lộ xảy ra khi Đức Thánh Cha Bênêdictô đã trả lời một câu hỏi cuả một vị khách đến thăm Ngài vài tuần trước đây, vị khách này xin được giấu tên.

Đức Thánh Cha Bênêdictô cho biết Ngài nghe được tiếng nói cuả Thiên Chuá trong một “kinh nghiệm tâm linh” (
tình trạng ngất trí, xuất thần, nhập định?), chứ không phải là được Chuá hiện ra. Qua những “kinh nghiệm tâm linh” trong nhiều tháng trời như thế, Ngài đã cảm nghiệm rõ ràng Thánh ý cuả Chuá là muốn Ngài thực hiện cái “ước muốn tuyệt đối” của mình là được kết hiệp với Thiên Chúa trong lời cầu nguyện riêng tư.

Bây giờ, sau khi chứng kiến “sức thu hút” của vị kế nhiệm, Đức Thánh Cha Bênêdictô nói thêm rằng Ngài còn xác tín hơn nữa rằng việc từ chức quả là “ý định của Thiên Chúa”.

Sự tiết lộ trên rõ ràng làm đảo lộn biến cố và ý nghĩa lịch sử cuả ngày 11 tháng 2 khi Ngài tuyên bố từ chức trước Hồng Y đoàn rằng “Sức khoẻ, tuổi già của tôi không còn phù hợp với những gánh nặng cuả sứ vụ giáo hoàng”.

Cũng hoàn toàn trái ngược với những báo cáo cuả báo chí cho rằng Ngài đã gần như bị điếc, lờ đờ, ốm yếu và “có vẻ kiệt sức.”

Và còn có những tin đồn đãi thất thiệt cho rằng Ngài đã chán nản sau khi người quản gia đáng tin cậy là Paolo Gabriele bị bắt vì tội rì rỏ những thư từ cá nhân.

Rồi làng báo cuả nước Ý còn tung tin đồn nhảm rằng Ngài đã tuyệt vọng trứơc một mạng lưới vững chắc đang lũng đoạn Giáo Triều, đó là mạng lưới hoạt động hành lang cuả các giám mục đồng tính.

Hãng thông tấn Zenit cho hay Đức Thánh Cha Bênêdictô vẫn gắn bó với kế hoạch là sống một cuộc sống ẩn dật, rất ít tiếp khách và chăm lo cầu nguyện ở tu viện trong khuôn viên Vatican, tận hưởng cảnh đẹp cuả thành phố Rome với vùng núi Apennine làm hậu cảnh xa xa.

“Trong các cuộc gặp gỡ, vị cựu giáo hoàng cũng không đưa ra lời bình luận nào, không tiết lộ bí mật nào, không tuyên bố một lập trường nào để tránh việc bị hiểu lầm rằng đó có thể là ‘lời của một vị Giáo Hoàng Khác’. Ngài vẫn còn dè dặt (reserved) giống như trước đây,” theo tin Zenit.

Một mối lo ngại đã được đặt ra là liệu sự có mặt cuà Ngài trong khuôn viên Vatican có ảnh hưởng gì tới vị kế nhiệm đang phải đấu tranh để tìm một thế đứng không? Nhưng sự “mến chuộng” cuả quần chúng dành cho Đức Phanxicô trong những tháng qua, và sự thay đổi về cách giao tiếp bình dân của vị giáo hoàng mới đã làm cho mối lo ngại trên trở thành dư thừa.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô có vẻ thoải mái với sự hiện diện cuả đức Bênêdictô, thậm chí có thể bông đuà với báo chí hồi tháng 7 vừa qua rằng: “đã có thời chúng ta có tới 2 hoặc 3 giáo hoàng cùng một lúc, họ không thèm nói chuyện với nhau mà chỉ lo đấm đá xem ai mới là Giáo Hoàng thật!”

Có Đức Bênêdictô sống ở Vatican, Đức Thánh Cha Phanxicô nói thêm, “là giống như có một người ông – một người ông khôn ngoan – sống ở nhà”

Sự liên hệ giữa 2 vị có vẻ chặt chẽ. Bức tông thư đầu tiên cuả ĐGH Phanxicô, ban hành tháng bảy vừa qua, đã được Đức Bênêdictô khởi sự khi còn tại chức và Đức Phanxicô tiếp nối công việc sau đó. Mới đây trước khi lên đường đi Rio, Đức Phanxicô đã ghé qua nhà Đức Bênêdictô để xin ý kiến.

Đức Phanxicô cho biết Ngài đã khuyên Đức Bênêdictô tiếp khách và xuất hiện thường xuyên hơn, nhưng cho đến nay Đức Bênêdictô mới chỉ xuất hiện 1 lần với Đức Phanxicô trong một buồi lễ bên trong khuôn viên Vatican. Bình luận về sự kiện này, Đức Phanxicô cho rằng Đức Bênêdictô là một con người “thận trọng” (
Prudence)

Có vẻ cuộc sống ẩn dật cuả Đức Bênêdictô đang được cởi mở rộng hơn ra. Ngày Chúa Nhật vừa qua (18-8-13), theo lời khuyên cuả Đức Phanxicô rằng Ngài nên đi nghỉ dưỡng ở Castel Gandolfo như Ngài đã thường làm mọi năm để tránh cái nóng oi ả cuả Roma, Đức Bênêdictô đã lên đường đi hóng mát và nghe trình diễn nhạc cổ điển trước công chúng, nhưng đã trở về tu viện ngay chiều hôm đó.

Xem video Đức Bênêdictô đi nghỉ mát ở Castel Gandolfo

PHÚC CHO NGƯỜI ĐAU KHỔ

PHÚC CHO NGƯỜI ĐAU KHỔ

Lm. Lê văn Quảng

conggiaovietnam.net

Thật là ngược đời và chói tai khi chúng ta nghe những lời chúc phúc của Thiên Chúa: “Phúc cho những người khóc lóc. Phúc cho những người đau khổ” mà không phải phúc cho những người có đời sống vinh hoa phú quí, ngày ngày yến tiệc linh đình…

Câu chuyện sau đây sẽ giúp chúng ta hiểu được phần nào ý nghĩa của những lời chúc phúc đó:

Jacob, con người giàu có và có nhiều khả năng. Ông có xe và có cả một đoàn súc vật đông đúc. Ông có hai vợ và đông con. Vào một đêm kia, ông có một cảm giác lờ mờ rằng có một cái gì lạ thường sẽ xảy đến cho đời ông, một cái gì đó sẽ đánh dấu ông muôn đời. Nhưng ông không muốn nói với ai ngay cả những bà vợ của ông. Cũng trong đêm đó, ông chổi dậy đưa hai bà vợ, hai nàng hầu và mười một đứa con đi ngang qua vùng đất Tabbok. Ông đã đưa họ đi qua giòng suối cùng với tất cả đoàn súc vật của ông và chỉ còn lại một mình ông bên kia bờ suối. Xảy đến là có một người đến vật lộn với ông cho tới sáng. Chính bên giòng suối ấy, Jacob đã phải vất vả vật lộn suốt một đêm với thiên thần Chúa.

Đây là biểu tượng của một cuộc chiến trường cửu trên trần gian nầy giữa con người và Thiên Chúa. Đây cũng là biểu tượng của những cố gắng của con người để tìm hiểu, để hòa nhập với ý muốn cứu độ thật khó hiểu của Thiên Chúa. Và cuối cùng, đây cũng là biểu tượng của một cuộc chiến đấu gay go của mỗi một người giữa ý muốn của Thiên Chúa và những cám dỗ lôi cuốn của trần thế, của xác thịt.

Thật vậy, con người lúc nào cũng bị giằng co giữa hai điều phải lựa chọn:

– Phục vụ hay quyền bính.

– Chết trên thập giá hay đóng đinh kẻ thù.

Thật không phải dễ để chúng ta có thể tìm ra được một hợp đề giữa những thái cực đó. Có những lúc cái nầy cần phải được ưu tiên hơn cái khác, và nếu có sự ưu tiên thì sự ưu tiên đó phải là sự từ bỏ chính mình, phải là sự tử đạo mà Thiên Chúa Cha đã dành cho chính Con Ngài.

Chúng ta thấy gì trong cuộc chiến giữa Jacob và thiên thần Chúa ? Nhận thấy không thể làm chủ được Jacob, thiên thần Chúa đã đánh vào đùi của ông thật mạnh và thật đau để ông phải đi khập khễnh.

Trong cuộc chiến giữa Thiên Chúa với con người, để chiến thắng Jacob, Thiên Chúa đã đập ông bị thương, đã làm ông nên người tàn tật để ông biết yếu đuối của mình hầu biết tín thác và sống tựa vào Thiên Chúa, cũng như để ông biết sẵn sàng biến đổi thành một con người mới cho một chương trình mới theo ý muốn cứu độ của Thiên Chúa. Ngài muốn đổi tên ông. Ông sẽ không còn là con người cũ Jacob nữa nhưng sẽ trở thành Israel, con người mới của Thiên Chúa.

Israel, con người tàn tật, con người thương vong trong cuộc giao chiến với Thiên Chúa, nhưng bây giờ ông có thể hiểu được ý nghĩa tương quan giữa con người với  Thiên Chúa và giữa con người với nhau.

Trong cái thương vong, cái đau khổ mà ông đã học được từ cuộc chiến ấy, ông hiểu được rằng nhờ đau khổ con người trở nên khiêm tốn, trở nên biết chia xẻ, biết cảm thông với người khác, biết cầu nguyện để xin ơn trên phù giúp, biết cậy trông vào quyền lực của Thiên Chúa chớ không phải cậy trông vào sức mạnh của chính mình.

Quả thật, con người bị khủng hoảng về lý do tại sao đau khổ lại cần phải có, và tự hỏi: không tốt hơn sao nếu có một thế giới không đau khổ, nơi đó không có người tật nguyền, không có kẻ điên, không có người đui, không có kẻ què, không có những chiếc xe lăn, không có những cây nạng gỗ, không có những vành khăn sô…..

Không, không đau khổ, không chiếc băng ca, không vành tang trắng, thế giới nầy sẽ còn nhiều tội lỗi gấp trăm ngàn lần.

Thiên Chúa có thể tạo nên một thế giới không đau khổ. Ngài có thể làm nên một thế giới trong đó mọi người đắm chìm trong hoan lạc. Nhưng không, Ngài đã không làm như thế.

Ngài cho phép chúng ta hưởng một chút niềm vui của cuộc đời nhưng Ngài cũng đòi chúng ta phải làm quen với sự hy tế.

Không cần tưởng tượng đâu xa, hãy nhớ lại những tháng ngày chúng ta còn sống ở Việt nam hay ở bên các trại tỵ nạn. Quanh năm suốt tháng, từ sáng sớm tới chiều tối, trời mưa cũng như trời nắng, chúng ta phải lao động vất vả, cơm không đủ ăn, áo không có mặc, đau không thuốc uống, dẫu thân thể nhọc mệt vì lao lực, nhưng ngày ngày chúng ta vẫn sáng đi lễ, tối đọc kinh, bầu khí gia đình xem ra đạo đức, đầm ấm và hạnh phúc. Bây giờ sống trên những đất nước phù hoa, mọi sự đều sung túc, trời nóng có máy lạnh, trời lạnh có máy sưởi, ra đi có xe cộ, về nhà có truyền thanh truyền hình. Cuối tuần có nhiều thì giờ nghỉ ngơi, có nhiều thì giờ nhậu nhẹt, nhưng người ta không có thì giờ để đi lễ, để thờ phượng Chúa, để cảm tạ muôn hồng ân Chúa đã ban cho cuộc đời may mắn của họ. Và rồi từ đó, hạnh phúc gia đình họ cũng bắt đầu khủng hoảng.

Thật vậy, trong hoan lạc con người sẽ dễ quên mất Thiên Chúa và dễ đi tìm một thần tượng theo sở thích của mình.

Tôi thích lối giải quyết như trong câu chuyện của Jacob. Nó xem ra đơn giản nhưng hữu hiệu. Chính Thiên Chúa đã làm ông đi khập khễnh. Chính Ngài đã gây nên điều đó. Ngài đã để tai ương phá hại mùa màng, để quân thù giết hại dân lành. Ngài có thể can thiệp. Nhưng không, Ngài đã để chúng ta đau khổ.

Nhưng chắn chắn trong khi làm chúng ta đau khổ, Ngài muốn mang lại một cái gì tốt đẹp cho chúng ta từ đó.

Có bị thương vong, chúng ta mới trầm tĩnh con người chúng ta lại. Có khóc, chúng ta mới hiểu được những giọt lệ sầu của những người chung quanh. Có bị giam cầm, chúng ta mới thấy sự quí giá của những tháng ngày được tự do.

Nếu những người Do thái không bị thử thách, không bị đàn áp, không bị bóc lột, không bị khinh khi, không bị nguyền rủa, không bị đánh đập, không bị giết hại, không bị bắt làm thân trâu cày ở miền Aicập, Môisen không thể nào thuyết phục được họ lên đường trở về hứa địa. Nếu sa mạc cũng có đầy những hoa thơm trái ngọt, những giòng suối tươi mát, chắc chắn họ sẽ không thèm trở về đất hứa .

Thật vậy, không có một động lực nào thúc đẩy chúng ta hướng về ngày mai một cách hiệu quả hơn là ĐAU KHỔ. Đó là lý do tại sao thiên thần Chúa đã đánh vào đùi ông Jacob.

Lm. Lê văn Quảng