Tháng 7: Dân Số Thế Giới Là 7.2 Tỉ Người

Tháng 7: Dân Số Thế Giới Là 7.2 Tỉ Người; LHQ: Dân Số Thế Giới Sẽ Tới 10.9 Tỉ Người Vào Năm 2100

(06/15/2013)

nguồn: vietbao.com

NEW YORK – Báo cáo về dân số thế giới của LHQ cho hay: dân số thế giới tháng tới là 7.2 tỉ và sẽ lên tới 10.9 tỉ vào năm 2100 – đa số sự gia tăng là tại các quốc gia đang phát triển có sinh suất cao.

Báo cáo tựa đề “Viễn ảnh dân số thế giới” cho hay dân số toàn cầu đầu thế kỷ tới có thể là trên 16.6 tỉ, hay chỉ là 6.8 tỉ tùy theo phương thức thống kê. Trong mọi trường hợp, dân số của những nước lạc hậu tăng gấp đôi.

Tuy, nhìn chung sự gia tăng dân số đang giảm tốc độ, nhưng sự gia tăng vẫn là nhanh tại châu Phi – dân số tại các nước đã phát triển hầu như không tăng.

Dân số Ấn Độ sẽ qua mặt Trung Quốc và cùng đạt mức 1.45 tỉ người vào năm 2028 – sau đó Ấn Độ có dân số 1.6 tỉ trước khi giảm bớt từ năm 2100.

Dân số Trung Quốc bắt đầu giảm từ năm 2030, dự kiến gồm 1.1 tỉ người vào thời điểm 2100.

Giám đốc khảo sát dân số John Wilmoth cho hay: khuynh hướng dân số có nhiều bất trắc, vì các yếu tố: sinh sản, tử suất và di trú. Nhưng, sự gia tăng nhân số thế giới từ nay đến 2050 là không thể tránh.

VÒNG QUAY ĐỊNH MỆNH

VÒNG QUAY ĐỊNH MỆNH

“Anh có muốn một ly sữa không?”, tôi hỏi một cách nhẹ nhàng.

Khi hắn gật đầu, tôi trông thấy vết dơ dính trên tóc hắn và ngửi thấy mùi khói ám của điếu xì gà trên áo khoác của hắn.

“Hôm nay anh khỏe không?”, tôi hỏi tiếp và đưa cho hắn ly sữa.

Không một lời đáp lại. “Anh còn cần thêm gì nữa không?” Vẫn không có tiếng trả lời.

Việc này không chỉ xảy ra một lần mà là hàng chục lần rồi.  Khi còn thiếu niên, tôi làm cho chương trình “Bánh mì và Cá”, một chương trình do mẹ tôi sáng lập.  Chúng tôi phục vụ bữa ăn cho những người cần giúp đỡ, thường là những người lang thang ở Mineapolis, khu vực St. Paul.

Cho dù làm bất cứ cách nào để động viên tinh thần, tôi vẫn thường bị lúng túng trước thái độ những người này phản ứng với tôi.  Họ không nhìn tôi khi tôi nói chuyện với họ, và họ hiếm khi nào thấy biết ơn.  Tôi như muốn hét lên: “Này, chúng tôi đang làm những điều rất tốt cho mấy người.  Ít nhất mấy người phải cảm ơn chúng tôi chứ!”

Sau khi ngừng làm tình nguyện cho chương trình “Bánh mì và Cá”, tôi tự lèo lái số phận của mình. Hơn mười năm sau, tôi đã phấn đấu có một cuộc sống gần như hoàn hảo, một công việc dạy học, một người chồng tuyệt vời và có đứa con đầu tiên của chúng tôi, Derian.

Niềm hạnh phúc khi có được con bỗng bị đập vỡ khi bác sĩ khám phá ra Derian bị bệnh tim cần phẫu thuật ngay.  Làm sao điều này có thể xảy ra được?  Tôi tự hỏi và cảm thấy rất sốc.

Sau đó, Derian được chuẩn đoán bị mắc hội chứng CHARGE, một căn bệnh không di truyền, và tỉ lệ mắc phải chỉ là một trên mười hai nghìn trẻ em.  Khi ra khỏi bệnh viện, tôi nhận ra rằng không như những vấn đề khác của cuộc sống, với chuyện này tôi không thể làm chủ được.

Căn bệnh này không những ảnh hưởng đến tim của con tôi mà nó còn ảnh hưởng đến tai, mắt, mũi cũng như sự phát triểm của cả cơ thể.  Derian cần phải được điều trị thường xuyên, nghĩa là cần có bác sĩ đến thăm hàng kì và phải vào bệnh viện thường xuyên.

Mười ba tháng sau khi Derian được sinh ra, tôi sinh Connor, đứa con trai thứ hai của chúng tôi, và nhờ trời nó rất khỏe mạnh.

Những lần khám bác sĩ, những cuộc phẫu thuật cho Derian, và việc có đứa con thứ hai khiến tôi phải xin nghỉ dạy không lương.  Trong khi tiền bảo hiểm chỉ đủ trang trải một phần cho tiền thuốc, nhiều người cũng đã đến giúp đỡ và động viên tôi.  Có lần những sinh viên của tôi đã quyên góp được sáu trăm đô la chỉ trong một ngày.  Số tiền này đủ cho tôi trả tiền nhà trong hai tháng và có thể trang trải thêm cho Derian.

Mặc dù Rob là chủ của một cửa hàng quần áo nhưng với những khoản tiền nhà, tiền thuốc và trách nhiệm nuôi nấng của cha mẹ đã khiến anh bị hao tốn khá nhiều. vChúng tôi đã làm những gì tốt nhất có thể làm.  Nhưng đến mùa xuân 1995, chúng tôi quyết định đi tìm sự giúp đỡ.

Tôi có nghe về một chương trình giúp đỡ các bà mẹ và con nhỏ bằng những phiếu ăn.  Tôi đặt sự kiêu hãnh của mình qua một bên và đã xin một cuộc hẹn.

Vào sáng của buổi hẹn, chúng tôi đã phải bàn bạc mãi nên ăn mặc như thế nào để mình trông không giàu quá, nhưng cũng không nghèo quá.  Chúng tôi đã thử ít nhất ba bộ quần áo.  Chúng tôi biết rằng việc ăn mặc sẽ quyết định sự đánh giá khả năng làm mẹ của tôi: không quá vững vàng, nhưng vẫn còn khả năng làm chủ và tự tin.

Cùng với hai đứa nhỏ, chúng tôi đã đi bộ một quãng dài đến điểm hẹn.  Tôi đăng ký và nhìn chung quanh xem những người khác ở khu vực chờ đợi, tự hỏi rằng hoàn cảnh của họ như thế nào.  Lúc đó tôi cảm nhận được vòng xoay nguy hiểm của định mệnh và xấu hổ trước những ấn tượng ngu dốt của tôi về người nghèo.  Và bây giờ thì đến lượt tôi trở thành người nghèo.  Tôi ghét nó.  Tôi không đáng để bị như thế và tôi không thể xoay xở được.  Tôi định nắm chặt lấy tay lũ trẻ và chạy đi.  Nhưng khi nhìn vào đôi mắt sáng của chúng, tôi biết tại sao tôi phải ở lại.

Lần đầu tiên trong đời tôi đã hiểu được vì sao những ngưởi mà tôi từng phục vụ lúc trước lại không tỏ ra biết ơn.  Có ai lại muốn ở trong cảnh khốn khổ này không?  Nó thật thấp kém, và sẽ tồi tệ hơn khi những người – như tôi lúc bé – lại có vẻ như đang ban phát ân huệ và ta phải nợ họ sự biết ơn.

Cầu xin sự giúp đỡ trong lúc cần nhất quả thật khó khăn vô cùng!  Tôi không bao giờ muốn có liên quan tới những người giúp đỡ tôi những thứ mà tôi rất cần.  Sẽ dễ dàng hơn rất nhiều nếu như đứng cách xa và giữ mọi thứ ở mức độ khách quan.

Tôi mím chặt môi khi tên mình được gọi.  Chuyện gì sẽ xảy ra nếu có ai đó nhận ra tôi?  Tôi sẽ rất nhục nhã nếu như ai đó biết tôi đang phải nhận phiếu ăn.  Sau ba tiếng đồng hồ hỏi và kiểm tra, tôi cũng đã có thứ tôi cần.  Và một cuộc tìm kiếm sự tồn tại ngày qua ngày đã bắt đầu; chúng tôi kiên quyết làm được nó.

Sau hai năm rưỡi đấu tranh, linh hồn nhỏ bé của Derian đã ra đi ngày 9 tháng Năm năm 1996.  Tôi biết nó đến với tôi vì nhiều lý do, và tôi sẽ không bao giờ quên những bài học đó: lòng yêu thương và sự cảm thông cho người nghèo, không chỉ là sự thương hại nhất thời và bố thí.

Sau khi trải qua những giai đoạn khó khăn nhất của cuộc đời, Rob và tôi lập ra tổ chức “Tiết kiệm cho người nghèo” để tưởng nhớ Derian.  Nhiệm vụ của tổ chức là giúp đỡ những gia đình ở Minnesota với những trẻ em bệnh hiểm nghèo phải chịu nhập viện trong một thời gian dài bằng trả tiền thế chấp trong một lần.  Trong bốn năm đầu tiên, chúng tôi đã trợ cấp hơn một trăm trường hợp với mức trung bình tám trăm năm mươi đô la.

Chúng tôi thường không được cảm ơn khi trợ cấp một khoảng cho ai đó.  Nhưng điều này chẳng phiền gì, vì tôi biết được cuộc sống như thế nào khi đặt mình vào vị trí của họ.

Giờ đây tôi đã hoàn toàn hiểu được niềm vui của công việc tình nguyện không phải nằm ở từ “cảm ơn” hay cảm giác tốt đẹp mà là khi giúp được những người xung quanh lúc họ cần mình nhất.

Lasty Keech: “Mỗi một đứa trẻ được sinh ra với thông điệp rằng Thượng đế vẫn chưa làm nản chí con người.” Rabindranath Tagore

From: langthangchieutim và

Anh chị Thụ Mai gởi

“A ha! Đêm nay ai cũng cho em

“A ha! Đêm nay ai cũng cho em

 

là xinh nhất đây… a…á…à…đẹp xinh”

A ha! Trong đêm khiêu vũ em như

vừng sao xa khơi… à… a…á… sáng ngời!

(Nhạc Pháp: La Plus Belle Pour Aller Danser – Lời Việt: Phạm Duy)

(Mt 4: 1-2)

Có một lần, bần đạo đọc được ở trên báo, mà là báo đạo rất đàng hoàng, một câu chuyện tiếu lâm nhạt và cũng nhẽo như sau:

“Hôm ấy, vị linh mục nọ được mời đến nhà của giáo dân xyz làm phép nhà và ăn mừng tân gia. Vì là nghi thức không trọng thể và cũng chẳng mang tính chuyên nghiệp của vị thượng tế, nên vị linh mục được mời chỉ mặc thường phục có cổ trắng báo rõ mình là đấng bậc vị vọng, thế thôi. Nhưng, chuyện đeo cổ áo giáo sĩ, đã làm bé em của nhà chủ rất “lấy làm lạ”, cứ là ngắm nhìn suốt, không chán. Kịp nhận ra được điều đó, linh mục nhà mình bèn hỏi nhỏ bé:

-Cha có gì lạ trên người đâu mà sao cháu bé cứ ngó cứ nhìn trâng trâng thế?

-Cháu đâu có nhìn trâng tráo đâu. Thấy cha đeo cái gì mầu trăng trắng nơi cổ, nên mới nhìn.

-Thế cháu có biết cha đang đeo cái gì đây không?

-Dạ biết. Đó là cái để dụ những người mê cha cứ đeo bám cha là chết liền không kịp ngáp!” (xem The Catholic Weekly ngày 05/5/13 tr.5)

Gọi là tiếu lâm nhạt, cũng có lý. Nhưng không nhạt bằng những truyện kể ở quận/huyện nhà Đạo mà có lần bần đạo đây gặp ông cha chánh xứ nọ ở Sydney, cũng cất tiếng hỏi nhỏ: “Dạ thưa, có bao giờ ‘cha’ thấy chán ngấy công việc hàng ngày hay hàng tuần cứ là làm lễ và làm lễ không?” Hỏi, thì hỏi thế chứ có cha/cố nào dám trả lời là chán với ngán cơ chứ? Bởi, nếu có vị nào thấy ngán ngẫm chuyện thường ngày ở huyện, há đã bỏ mọi sự để kiếm việc khác, nghề khác cụng đặng!

Gọi đoạn trích ở trên là tiếu lâm chay hay truyện kể nhạt như nước ốc, cũng không đúng.Đúng hơn, có lẽ ta nên gọi đó là thắc mắc ‘cỏn con’ từ các trẻ mới lớn, chứ đằng này lớp tuổi già đầu tóc dính đầy những “tuyết” thì có gì lạ đâu chứ! Còn lại, là cung cách diễn tả của bé em về sự lôi cuốn/hấp dẫn từ đấng bậc nhà Đạo hệt ý/lời của bài hát có đoạn viết:

“A ha! Đêm nay em muốn nghe những lời ân ái…a à…êm êm.

A ha! Em nghe anh nói yêu em dài lâu nhé anhơi! ..à..a..á.. Lâu dài!

Em mong cho chiếc áo,

Áo tươi mầu em đã chọn kỹ

Một chiếc áo rực rỡ, em vừa thêu.

Em mong cho chiếc áo đó

cũng như là mớ tóc mềm rũ

Được mơn trớn…(ư) dưới tay người.”

(Nhạc Pháp: La Plus Belle Pour Aller Danser – bđd)

Ngôn ngữ mới của tuổi trẻ hôm nay, khi đề cao chiếc cổ áo của ai đó hoặc chức thánh của hàng giáo sĩ đạo mạo, có áo mão/cân đai, viền dài nơi cổ hay sao đó, vẫn là lời chúc tụng/ngợi khen các đấng làm việc cho nhà thờ không ngừng nghỉ. Thế nhưng, có đấng-bậc-làm-việc-cho-nhà-thờ/nhà thánh hăng say không ít, và chẳng biết chán ngán như người ở ngoài, đó mới là quan-niệm vững chắc như đinh đóng cột, mà thôi.

Tuy thế, công việc nhà Đạo của đấng bậc có chức thánh hăng say không ngừng nghỉ, đã là điều khiến nhiều người lấy làm lạ, bèn lân la hỏi:

“Thưa cha. Con là bổn đạo mới vừa trở lại Đạo, nên không thuộc và không hiểu những gì ghi trong sách lễ Rôma mà con đem theo mỗi khi đi lễ, để theo dõi. Đôi khi, con vẫn thắc mắc không biết làm sao lại có lễ kính nhớ thánh này/thánh nọ ghi trong sách ấy để làm gì. Và thêm nữa: có lễ khác lại được ghi như thể: Chúa Nhật Thứ 8 mùa Thường niên Năm 1 là sao con không hiểu. Sao đã là mùa tức mỗi năm chỉ có vài vụ, lại thêm chữ thường niên, tức quanh năm suốt tháng để làm gì và có ý gì? Xin cha bố thí cho một giảng giải, sẽ biếtơn cha mãi.”

Lại thêm câu hỏi mang tính nghiệp-vụ, dễ cho đấng bậc vẫn ngồi đó chờ người hỏi để điều nghiên, kiếm tìm câu giải đáp cho phải phép. Giải và đáp, rất lễ phép như mọi lần, sau đây:

Cảm ơn anh/chị đã có câu hỏi rất ích lợi không chỉ cho anh/chị thôi, mà còn cho nhiều người khác trong Đạo. Vâng. Quả vậy, đây là điều tốt lành để mọi người hiểu được lịch Hội thánh ta lập ra là để mọi người biết mà sống đời phụng vụ cho vẹn toàn. Lịch Hội thánh đặt căn bản trên 5 mùa cả thảy: Mùa Vọng, Mùa Giáng Sinh, Mùa Chay, Phục Sinh và Mùa thường niên.

Lịch Hội thánh bắt đầu bằng Mùa Vọng là đểvọng về với Giáng Sinh. Phải nói, đây là mùa Hy vọng chờ đợi hai việc: thứ nhất, là việc Chúa giáng hạ đi vào lịch sử; và thứ hai, là: Chúa đến lại trong lai thời. Mùa Vọng khởi sự từ Chúa Nhật Thứ Tư trước Giáng Sinh; như thế có 4 Chúa nhật trong Mùa này. Thời gian Mùa này thường thay đổi tùy số ngày trong tuần nào có lễ Giáng Sinh, nhất là vào năm nào lễ này rơi đúng vào ngày Chúa nhật. Trong Mùa này, áo chủ tế mặc cũng như mọi thứ trang hoàng đều mang mầu tía hoặc tímđậm, tức sắc mầu của sám hối, ăn năn, đền tội.

Mùa Giáng Sinh bắt đầu từ ngày 25 tháng Chạp và kết thúc vào lễ Chúa Thanh Tẩy. Đây là mùa lễ vui bởi thế nên, sắc mầu phụng vụ Mùa này phải là mầu trắng. Ở Mùa này, ta mừng kính lễ quan trọng tương tựnhư Lễ Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa thường vẫn rơi vào ngày mồng Một tháng Giêng, rồi đến Lễ Thánh Gia và Hiển Linh qua đó ta cử hành việc các đạo sĩ phương Đôngđến bái lạy Hài nhi Đức Chúa. Khi xưa, Lễ Hiển Linh rơi vào mồng 6 tháng Giêng là ngày mừng Chúa chịu Thanh Tẩy vẫn được mừng vào Chúa Nhật tiếp theo sau.

Ngay sau lễ Giáng Sinh, những ngày đầu ta gọi là Mùa bình thường trong năm, bên tiếng La-tinh là: “tempus per annum”, tức: thời gian kéo dài nhiều tháng. Cũng có thể, lịch sách ở đâu đó dịch cụm từ này thành “Mùa Thường Niên”. Dịch như thế, có lẽ không làm vừa lòng một số người đọc, bởi lẽ: chẳng có thời gian nào thờ phụng Chúa lại gọi là thường niên, thường nhật hết. Trong thời gian này, các bài đọc ở thánh lễ thường nói về các sự kiện Chúa Kitô từng trải trongđời hoạt động của Ngài. Mùa lễ này bao gồm 34 tuần, xen vào đó có các tuần Mùa Chay và lễ Phục Sinh. Thế nên, khi anh/chị đọc sách lễ Rôma thấy có chữ “Tuần thứ 8 Mùa Thuờng Niên” hoặc “Tuần thứ 8 trong năm” có nghĩa như thế. Thông thường, các Bản Tin Giáo Xứ phát hành vào Thánh lễ Chúa Nhật sẽ cho anh/chị biết là mình đang ở tuần nào trong lịch Phụng vụ; có như thế, ta mới tìm ra được ngày lễ kính trong sách. Mùa này, áo lễ vị chủ tế mặc, sẽ là mầu xanh lục, tức sắc mầu của đời thường vươn mạnh trong muôn ngàn cỏ cây. Mùa này cũng như mọi lúc, Hội thánh làm lễ kính các thánh cũng như mừng Chúa và Đức Mẹ cùng các thiên thần, suốt cả năm. Vào lễ kính các thánh, chủ tế sẽ mặc áo mầu đỏ, tức sắc mầuđược dùng để kính các thánh tông đồ và tử vì đạo, các thánh khác sẽ dùng mầu trắng.

Sau một ít tuần thường niên, sẽ đến Mùa Chay, tức mùa chuẩn bị mừng lễ Phục Sinh. Mùa Chay bắt đầu từ Thứ Tư Lễ Tro và sau đó có 6 tuần trọn thêm vào thời gian giữa Lễ Tro và Chúa Nhật thứ Nhất Mùa Chay. Không tính các ngày Chúa nhật hàng tuần kỷ niệm niềm vui Phục Sinh, Mùa Chay gồm 40 ngày là để kỷ niệm thời gian dài những 40 ngày Chúa ăn chay nguyện cầu ở sa-mạc, trước khi Ngài khởi sự hoạt động công khai với công chúng (x. Mt 4: 1-2). Chay mùa kiêng khem, là thời gian để mọi người lo mà hối cải, vì thế nên: sắc mầuđược dùng vào mùa này đều tia tiá hoặc tím đậm. Vào Mùa này, các bài đọc tập trung vào rửa tội, hối cải và đền tội.

Còn, mùa Phục Sinh bắt đầu bằng Lễ Vọng nửađêm thứ Bảy, tức đêm trước ngày Chúa Sống Lại, sau đó sẽ kéo dài 7 tuần và kết thúc vào Chúa nhật Lễ Hiện Xuống, tức vào hội lễ Thánh Thần Chúa ngự xuống với các tông đồ. Phục sinh, là Lễ hội quan trọng nhất trong năm để ta mừng kính Chúa sống lại hầu cứu chuộc con người. Thế nên, diễn tả niềm vui này, Hội thánh dùng mầu trắng là có nghĩa nhất.

Sau Chúa nhật Hiện Xuống, sẽ tiếp tục mùa thường niên cho đến Chúa nhật đầu Mùa Vọng cho chu kỳ phụng vụ năm tiếp theo sau. Chúa nhật cuối Mùa Thường Niên, là lễ Đức Kitô Vua Vũ Trụ.

Cũng nên biết: các bài đọc trong thánh lễ sẽ thayđổi từng năm, theo tiếp chu kỳ 3 năm cho các lễ Chúa nhật và chu kỳ 2 năm cho ngày thường trong tuần. Vào các Chúa nhật như thế, có 3 bài đọc chính trong đó kểcả bài Tin Mừng. Ba bài này sẽ được thay đổi vào mỗi năm trong 3 năm của chu kỳmà Hội thánh có thói quen gọi là Năm A, năm B và năm C. Muốn biết là ta đang cửhành phụng vụ năm nào trong chu kỳ phụng vụ, cần nhớ rõ là: chu kỳ phụng vụ bắtđầu vào năm đầu sau Công nguyên ta gọi là năm A, cứ như thế: các năm sau được chia cho 3 sẽ là năm C.

Chu kỳ gồm các lễ trong tuần gọi là năm 1 và năm 2, chia như thế là tùy con số chẵn/lẻ của năm đó. Bài đọc 1 trong thánh lễcũng thay đổi mỗi năm là theo kế hoạch này. Tuy nhiên, bài Tin Mừng vẫn giữ nhưthế mỗi năm. Chúa nhật bắt đầu Mùa Thường Niên, Hội thánh dùng Tin Mừng theo thánh Máccô là Tin Mừng ngắn nhất và được viết trước tiên. Khi Tin Mừng thánh Máccô kết thúc, Hội thánh lại sẽ cho đọc các đoạn Tin Mừng theo thánh Mátthêu và Luca vốn dĩ không thấy trong Tin Mừng thánh Máccô; sau đó, đến Tin Mừng thánh Luca. Tin Mừng thánh Gioan đặc biệt được dùng vào mùa Phục Sinh.” (xem Lm John Flader, Question Time, The Catholic Weekly 02/6/2013 tr. 10)

Kể rành rọt như thế, làm sao người hỏi và người đọc sai sót được. Kể lể dài dòng, cũng như thể xem phim dài nhiều tập xem khúc cuối đã quên khúc đầu, là chuyện dễ gặp và dễ thấy nơi các vị không đi lễ đều đặn mỗi tuần. Thế nhưng, mục đích mà đấng bậc nêu ra hôm nay không để nhắc nhở những chuyện như thế.

Như thế,tức như thể kể rằng: bạn đạo của ta ở trời Tây cũng như quê nhà, vẫn đều nắm vững ý nghĩa và lý do tại sao Hội thánh lại tổ chức phụng vụ lễ lạy có lớp lang, đàng hoàng. Phải công nhận đây là công việc của các thày dòng khắc kỷthời Trung Cổ hay trước đó, vẫn có thói quen dữ thánh lễ hằng ngày. Có khi mỗi ngày dự lễ và phụ giúp cha chủ tế đến 3, 4 lễ cũng không chừng. Và khi ấy, các lễ đều sử dụng tiếng La-tinh, nên cũng khó. Đó, cũng là kinh nghiệm của bần đạo và bạn đạo nào từng kinh qua (chứ không “kinh” quá), suốt nhiều năm trong Dòng thánh, rất bình thường mà không phài là thường niên, hoặc quanh năm.

Nói đi thì lại nói lại, phụng vụ thời nào cũng đều chú trọng vào chất lượng chứ không phải số lượng thánh lễ hoặc bài đọc mình cử hành, trong các vụ, các mùa, rất quanh năm. Nói lại thì lại nói một cách nôm na rằng: ngày hôm nay, mà đề cập đến vấnđề này, chỉ để ta rà soát chuyện lịch sử nhà Đạo trong quá khứ hoặc quá trình phụng thờ Chúa Chí Thánh, mà thôi.

Nói như thế,ra như thể chỉ muốn nói theo kiểu “con nhà có đạo”, vẫn rất đạo và rất đức, tứcđức độ. Cứ, nếu nói theo kiểu nghệ sĩ ở đời, lại sẽ nói như người viết nhạc hômđó, có câu như:

“A ha! Khi đêm buông xuống

em hay thường mơ ước xa xôi…a…à…á.. Em mơ,

A ha! Em mơ em sẽ mong lụa là…

Em xinh em tươi nhất, ôi nơi trần gian

Cho em khiêu vũ trong đêm thần tiên…”

(Nhạc Pháp: La Plus Belle Pour Aller Danser – bđd)

Hôm nay, trongđời đi đạo, dù là Đạo Chúa hay đạo làm người lại cũng có đấng bậc vị vọng của nhà Đạo, thích ứng thích hợp với cuộc sống ở ngoài đời, lại cứ quan niệm một cách nhè nhẹ, thanh thoát hơi khang khác, như:

“Ngày của Chúa, nhiều vị thường diễn tả việc dự Tiệc thánh như thói quen nguyện cầu, dâng tiến. Tệ hơn, có người lại coi việc cử hành Tiệc như màn độc diễn của vị chủ tế trên bàn thờ. Giáo dân tham dự chỉ với tính cách người dự khán, thôi. Nghĩa là, chỉ đến rồi đi. Đi xem lễ. Đến nhà thờ. Nhất nhất, để thực hiện tổng cộng những sáu điều Hội thánh khuyên răn. Không đi không đến e sẽ mắc tội. Và, là tội trọng.

Vốn mang trong người phong thái ấy, nhiều người vẫn hay đến trễ, về sớm. Chỉ đứng xa hoặc loanh quanh ở ngoài, hút thuốc nói chuyện hoặc liên tưởng chuyện làm ăn nào khác. Tuyệt nhiên, không mang dáng dấp tích cực, hợp tác nơi bàn tiệc. Tiệc Thánh, trước tiên và nhất thiết phải là động thái tích cực của cả cộng đoàn. Bởi, tự bản chất, ý nghĩa của Tiệc là như thế. Chí ít, ta tham dự Tiệc là để thật sự ăn Mình Chúa, và uống Máu Chúa, như đã dạy. Nói cho cùng, tham dự Tiệc không là chuyện đơn độc riêng lẻ, nhưng là việc của cả cộng đoàn. Cộng đoàn tình thương. Dự tiệc lòng Mến. Dự rất đông. Rất tích cực.

Dự Tiệc ngày của Chúa, ta cùng nhau đến vì Thân Mình Ngài. Cùng đến, như những người thân yêu chung tình, cùng ăn cùng uống. Cùng chung sức sống. Đến để bày tỏ lòng biết ơn chân thành, đối với Ngài.Đến, vì “Thánh Thể” thật sự mang ý nghĩa một cảm tạ. Ta đến, không phải vì sợphạm vào điều khuyên thứ ba Hội thánh luôn răn giữ. Ta đến, không vì sợ tội. Không vì sợ vi phạm giới răn Hội Thánh Chúa, khuyên giữ. Ta đến, cũng chẳng phải là giữ chỉ để giữ. Giữ vì sợ mắc tội. Giữ, nhưng không mảy may thuyết phục. Thành thử, có người cứ đến trễ và về sớm. Rồi, cũng chẳng thấy cần phải lưu lại đôi phút để hàn huyên, chia sẻ những tâm tình người đồng Đạo.

Đến dự Tiệc thánh, tuyệt nhiên không là đi“xem lễ” như ta lầm gọi. Bởi, đi xem là xem vị chủ tế độc diễn màn dâng tiến một mình, trên bục cao. Ngược lại, đến dự Tiệc Thánh là việc tham gia vào việc chung. Tham dự và gia nhập tiệc vui rất chung. Ăn chung uống chung, cũng một Mình Máu Rất Thánh của Chúa. Ăn và uống chung, rất công khai. Đầy hưng phấn. Như Chúa từng bày tỏ: “Bằng vào việc này, mọi người sẽ biết các anh là môn đệcủa Thầy, anh em hãy thương yêu nhau” (Yn 13: 35). Và,: “Xin cho chúng nên một để thế gian biết Chađã gửi Con đến” (Yn 17: 21-23)

Đến dự Tiệc, mà mang tâm trạng đơn độc lặng thinh, là chưa hiểu ý nghĩa của sự đồng tâm cộng lực,chung lòng mến. Đến dự Tiệc, là cùng mang tâm tưởng thâm sâu đượm tình mật thiết của cộng đoàn kẻ tin. Tiệc Thánh, không là thời điểm ta tác tạo nên cộng đoàn, mà thôi. Nhưng, là thời gian giúp ta cử hành mừng kính đặc điểm cùng nhau chung phần vui hưởng của cộng đoàn. Thật đáng tiếc: hơn bốn thập niên thời hậu Công Đồng đã trôi qua, mà nhiều vị vẫn còn nhấn mạnh đến yếu tố tu đức cá thể. Chỉ nhắm mục đích tìm sự“rỗi linh hồn”, riêng mình ta thôi.

Vì thế, người dự Tiệc ngày Chúa nhật vẫn cứ hành xử như khách lạ, vừa đến thăm. Khách đến, thiếu vắng cả nụ cười, tối thiểu. Thiếu tình thương. Thiếu hợp tác, đùm bọc. Cả khi, lời “chúc bình an, tay nắm tay” trao cho nhau, cũng chỉ là động tác lấy lệ. Chỉ như phản xạ tự nhiên, rất quen làm. Khác hẳn tâm tình người dự tiệc mừng ngày sinh, rất thân thương. Nói rộng hơn, dự Tiệc Thánh không chỉ đến để nhận bánh thánh hiệp thông, rất giản đơn. Mà, để chia sớt và cùng sẻ san một Bánh Thánh là Mình Ngài. Cùng uống chén Máu cứu độ của chính Ngài. Mình và Máu Đức Chúa đã Phục sinh. Mình Thánh Chúa ta lãnh nhận, không chỉ riêng Mình Đức Kitô thôi, nhưng còn là thân mình của cả cộng đoàn, vẫn được coi như chi thể thân thương đã tháp nhập vào Thân Mình Đức Kitô, đang hiện hữu.(x. Lm Richard Leonard sj, Suy Niệm Lễ Mình Máu Chúa năm C, Bản Tin Gx Fairfield, 02/6/13)

Hôm nay, trong cuộc sống thực tế ở đời, lại cũng có lập trường tuy không cứng ngắc, dài dòng về số lượng của công việc mình làm nhưng là là ý/lời đáng để đời, cần nhớ như truyện kể để thư giãn, rất như sau:

“Truyện rằng:

Tại một trang trại ở miền núi xa xôi, miền Đông bang Kentucky, có một ông cụ sống với người cháu của mình. Mỗi buổi sáng, ông cụ đều dậy rất sớm để đọc sách. Có những cuốn sách ông đã đọc nhiều lần, đến mức cuốn sách sờn cũ, nhưng lúc nào ông đọc cũng say mê và chưa một buổi sáng nào ông quên đọc sách. Cậu cháu trai cũng bắt chước ông, cũng cố gắng mỗi ngày đều ngồi đọc sách. Rồi một ngày, cậu hỏi ông:

Ông ơi, cháu cũng thử đọc sách như ông, nhưng cháu không hiểu gì cả. Hoặc là có những đoạn cháu hiểu, nhưng khi gấp sách lại là cháu quên ngay. Thế thì đọc sách có gì tốt đâu mà ông đọc thường xuyên thế ạ…

Ông cụ lúc đó đang đổ than vào lò, quay lại nhìn cháu và chỉ nói:

Cháu hãy đem cái giỏ đựng than này ra sông và mang về cho ông một giỏ nước nhé!
Cậu bé liền làm theo lời ông, dù rằng tất cả nước đã chảy ra hết khỏi giỏ trước khi cậu bé quay về đến nhà. Nhìn thấy cái giỏ, ông cụ cười và nói:

Nước chảy hết mất rồi! Có lẽ lần sau cháu sẽ phải đi nhanh hơn nữa!
Rồi ông bảo cháu quay lại sông lấy một giỏ nước. Lần này cậu bé cố chạy nhanh hơn, nhưng lại một lần nữa, khi cậu về đến nhà thì cái giỏ đã trống rỗng. Thở không ra hơi, cậu nói với ông rằng “đựng nước vào cái giỏ là điều không thể”, rồi đi lấy một chiếc xô để múc nước. Nhưng ông cụ ngăn lại:

Ông không muốn lấy một xô nước. Ông muốn lấy một giỏ nước cơ mà! Cháu có thể làm được đấy, chỉ có điều cháu chưa cố hết sức thôi!

Rồi ông lại bảo cháu ra sông lấy nước. Vào lúc này, cậu bé đã biết rằng không thể đựng nước vào giỏ được, nhưng cậu muốn cho ông thấy rằng dù cậu chạy nhanh đến đâu, nước cũng sẽ chảy hết ra khỏi giỏ trước khi cậu về đến nhà. Thế là cậu bé lại lấy nước, lại chạy nhanh hết sức, và khi về đến chỗ ông, cái giỏ lại trống rỗng.

Ông xem này. Cậu bé hụt hơi nói – Thật là vô ích!

Cháu lại nghĩ nó là vô ích ư?Cháu thử nhìn cái giỏ xem!

Cậu bé nhìn vào cái giỏ, và lần đầu tiên, cậu bé nhận ra rằng cái giỏ trông khác hẳn ban đầu. Nó không còn là cái giỏ than đen bẩn nữa, mà đã được nước rửa sạch sẽ.

Cháu của ông ơi, đó là những gì diễn ra khi cháu đọc sách. Có thể cháu không hiểu hoặc không nhớ được mọi thứ, nhưng khi cháu đọc, sách sẽ thay đổi cháu từ bên trong tâm hồn, như nước đã làm sạch giỏ than kia vậy. “ (Truyện kể nhận từ điện thư vi tính rất mới)

Nói gì thì nói, kể gì thì kể, cũng nên kể đến lời của bậc thánh hiền vẫn căn dặn người dân trong Đạo/ngoài đời, những lời như sau:

Cho nên,

thưa anh em,

khi họp nhau để dùng bữa,

anh em hãy đợi nhau.

Ai đói, thì ăn ở nhà,

kẻo anh em đến họp mà hoá ra để bị kết án.

(1 Cor 11: 33-34)

Nói cho cùng, họp mặt để dự tiệc Lòng Mến rất Thánh Thể, hay để nguyện cầu Chúa ghé thăm, cũng chỉ nên họp sao cho niềm vui lan tràn, thật thư giãn. Chứ đừng coi đó như bổn phận, hoặc việc đền tội, hay sao đó, thật cũng khó.

Thế đó, là lời cuối được các bạn đạo nhắn nhủ gửi gắm bà con/anh em trong họ ngoài làng, rất thánh hội. Hôm nay. Thời buổi này.

Trần Ngọc Mười Hai

Chỉ biết tuân theo lời vàng ngọc

của chư thánh

chứ không dám

có ý/lời nghịch ngạo

cũng khó nghe.

“Ta cố gọi những giác quan lười biếng,”

“để ghi cho hậu thế phút mơ màng”

(dẫn từthơ Vũ Hoàng Chương)

Lc 9: 18-24

Phút mơ màng Lời Chúa dạy, nay thánh sử đà ghi chú. Ghi rất nhiều về cuộc sống của đấng thánh mà mọi người trân trọng, như trình thuật kể.

Trình thuật, nay thánh Luca kể về việc Chúa khen ngợi thánh Gioan Tiền Hô say mê lập cuộc sống ở sa mạc, đầy khắc kỷ.Sống khắc kỷ một đời người, thánh Gioan lại đã thiết lập Nước Trời như Chúa muốn. Trình thuật điều Chúa muốn, nay tỏ rõ về thánh-nhân thân thương, của cộngđoàn.

Cộng Đoàn Nước Trời, là đề tài được tác giả Josephus tóm gọn ý tưởng về đấng thánh Tiền Hô như người thời đó vẫn quan niệm. Quan niệm của chúng dân thời buổi đó, lạiđã cho rằng: thánh Gioan Tiền Hô là bậc vĩ-nhân luôn khích-lệ dân-con người Do thái hãy phụng thờ Thiên Chúa và sống đời bác ái với anh em. Thánh-nhân lại cũng mời mọi người hãy nhận-lãnh ơn thanh-tẩy nơi giòng chảy Giođan. Tuy là thế,tác-giả lại không nói gì về ngày sinh hoặc chi tiết về gia-đình giòng-họ của thánh Gioan.

Thánh Máccô thì khác, thánh-sử đã thêm đôi điều và bảo: Thánh Gioan là bậc lành-thánh khắc-kỷ đáng kính nể. Ngài là người của sa-mạc. Là, đấng thánh sống đời khổ-hạnh nên đã lôi kéo được nhiều người về lối sống nhiệm-nhặt như ngài chủ trương. Thánh Máccô gọi thánh Gioan là ngôn-sứ đạo hạnh từng vắng bóng nơi lịch sử hằng thế kỷ. Thánh-nhân vẫn là sứ-giả mang thông-điệp gửi đến dân con Do-thái chưa từng biết từ ngày lưu-lạc trở về. Trên hết mọi sự, đấng thánh Tiền Hô đã dấn thân đi trước Chúa, hầu loan báo: “Nước Trời đã cận kề”. Và cũng thế, thánh Máccô lại cũng không nói gì về nguồn-gốc, giòng-tộc cũng như thuở ấu-thời của thánh Gioan Tiền-Hô/Thanh-tẩy đầy gương sống.

Tác giảTin Mừng thứ tư là thánh Gioan Tông đồ, cũng chỉ đặt chỗ đứng khá hạn-hẹp cho đấng thánh Tiền Hô, thôi. Ở Tin Mừng thứ tư, đấng thánh Tiền-hô xuất hiện như đấng bậc tiên-phong chăm lo thanh tẩy cho mọi người. Và thánh-nhân, là chứng-tá đầu đời dám tuyên-xưng Đức Kitô là Đấng Cứu Thế mọi người chờ trông. Và, thánh Gioan Tiền Hô nhận mình không là Đấng Mêsia, cũng chẳng là ngôn-sứ giống như tổ-phụ Môsê mà mọi người chờ mong. Tin Mừng thánh Gioan, cũng không đề cập đến gốc-gác và/hoặc thuở thiếu-thời của đấng thánh Tiên Hô và Thày mình, nữa.

Với thánh Mátthêu, đấng thánh Tiền Hô có chỗ đứng rất trang-trọng ở Tin Mừng. Tựa hồ như Đức Giêsu, thánh Gioan Tiền Hô mang đến cho mọi người một sứ điệp quan trọng: “Nước Trời đã gần kề”, nên: hãy thay đổi tầm nhìn về thế-giới và lối sống cá-nhân, và hãy sống cuộc đời đáng sống để nở mày nở mặt trong hoàn cảnh lịch sử mình đang sống.

Ở Tin Mừng thánh Mátthêu ghi, đấng thánh Tiền Hô chừng như chỉ tập trung mỗi sự việc Chúa sẽ trừng-phạt và trả-đũa về chính con người Ngài. Với thánh Mátthêu, thánh Gioan Tiền Hô tựa hồ đấng thánh giảng rao thuyết pháp về Tin Vui trong Đạo cũngđầy đặn chất giọng và tiếng hô. Thánh sử Mátthêu ghi rằng: chúng dân bình thường đã chấp nhận Chúa, duy mỗi đám Biệt Phái và bè Sađuxê lại vẫn nói không. Và, thánh Mátthêu đã đặt để nơi Chúa lời khen thánh Gioan Tiền Hô cao cả hơn bất cứ ai trong nhân lọai. Về gốc nguồn tiểu sử thánh Gioan Tiền Hô, thánh sửMátthêu cũng không đặt nặng.

Riêng thánh-sử Luca lại coi đấng thánh Tiền Hô như đấng bậc thuộc chế độ xưa cũ, là cầu nối cho hệ-thống rất mới của Đạo Chúa. Và, ông là người đầu tiên nói về cội nguồn của Đức Giêsu xuất tự Thiên Chúa. Tin Mừng thánh Luca diễn tả sứ-điệp mới từthánh Gioan: hãy san sẻ của ăn/thức uống cho người thiếu thốn. Chớ thu-thập thái quá những gì mình chỉ đáng hưởng. Chớ chèn ép/thống trị mọi người, nhưng hãy hài lòng với những gì mình đang có bằng thu nhập mình nhận lãnh. Và, hãy nhận ơn thanh tẩy tại giòng chảy Giođan, để trở thành dân con Đức Chúa.

Trong khi đó, sứ-điệp Chúa trao ban còn cao cả vượt quá đất nước Do thái. Sứ điệp này,được thánh Luca tóm tắt trong dụ-ngôn người Samaritanô nhân-hiền và truyện kể về người con hoang phá tán của cải của bậc cha ông. Tất cả cốt để nói trước về cuộc thanh lọc cả hoàn-vũ với mọi người, chứ không chỉ mỗi thanh tẩy bằng nước trên sông Giođan. Thanh Tẩy Chúa muốn nói, là thanh lọc bằng Thần Khí Chúa, Đấng ngự đến từ lễ Ngũ Tuần và còn tiếp tục mãi sau này.

Nhiều người vẫn cứ hiểu việc thánh Gioan Tiền Hô họat-động thanh tẩy giống như sinh hoạt phụng vụ ở nhà thờ. Nhưng không phải thế. Thật sự thì, thánh Gioan Tiền Hô tụ họp mọi người từ nơi xa xôi đến với ông, để đưa họ vào giòng chảy Giođan đầm mình ở đó trong chốc lát rồi lội nước băng sông cuối cùng sẽ đặt chân lên đất lành đã hứa và đòi quyền làm chủ như Chúa hứa ban. Đất hứa ban, nay bị Đế quốc chiếm hữug và lũng đoạn. Thế nên, công việc của thánh Gioan Tiền Hô là giúp mọi người đòi lại quyền của người Do-thái làm chủ miền đất Chúa hứa, tức: một động-thái chính-trị quyết chống-trả mọi bức-ép từ phía Đế-quốc. Thánh Gioan Tiền Hô là người của quần chúng. Ông cũng là đấng thánh thiết-lập các nghi-thức mang ý-nghĩa chính-trị khá nhức nhối đối với mọi người.

Thánh Luca lại cũng kể cho ta biết lập-trường/quan-niệm và sự ra đời của thánh Gioan Tiền Hô. Một phần truyện kể, lại cũng nói đến Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa đã ghé thăm người chị họ là bà Êlizabét than mẫu của thánh Gioan và cùng hát lên lời ‘Xin Vâng’, rất cảm tạ. Có điều lạ, là: chừng như hai bà mẹ đều đồng thanh hát lên lời ca ý-nhị ấy. Cũng có thể, cả thánh Gioan nữa lại đã hiệp-thông hát xướng cũng nhưthế, trong bụng mẹ.

Thánh Luca cũng hàm-ẩn cung-cách ‘chính trị của người Đạo Chúa và người theo Do-thái giáo’đúng qui-cách trong lời ca do thánh-nhân đặt nơi miệng Đức Mẹ, lúc Mẹ thai nghén cưu-mang Ngài. Mẹ đã cùng với Con của Mẹ đi vào chính-trị của Thiên-Chúa mà ta gọi là bài ca ‘Xin Vâng’ qua đó Mẹ hiên ngang hát: “Thiên Chúa sẽ làm rất nhiều việc qua Con Một Ngài, là Đức Giêsu. Đó chính là thánh ý của Ngài, nay diễn tả với con người.

Lời ca ‘Xin Vâng’ do Mẹ hát, rõ ràng mang nặng tính-chất xúc-tác, đại để như:

Ngài làm tiêu tán lũ kiêu căng,

Hạ kẻ quyền-năng khỏi ngôi báu,

Suy tôn người khiêm nhượng.

Đói khó, Người cho no phỉ sự lành,

giàu sang Người xua đuổi về không.” (Lc 1: 49-53)

Xem như thế,việc đó không mang ý-nghĩa của sự sùng kính/sốt sắng, nhưng là ngòi nổ chính trị. Bởi lẽ, vấn đề của mọi thời vẫn là: tính kiêu căng/ngạo mạn; kẻ có quyền vẫn cứ xử không công bằng, luôn chèn ép người khiêm tốn, đói nghèo. Người giàu vẫn làm giàu trên xương máu kẻ khác… Chủ đề này vẫn xuyên suốt ở Tin Mừng thánh Luca nơi chương đoạn mà ta gọi là truyện kể về thời ấu thơ của Chúa. Đó không là văn chương cho trẻ nhỏ. Đó chính là đường lối chính trị của người lớn khôn.

Có lẽ, mọi người cũng nên tìm hiểu các vấn đề như thế, cả khi mình không tổ chức lễ Giáng sinh đình đám rất phàm tục. Ta không thể đưa Chúa vào với lễ này đến khi nào tađem chính trị của tín-hữu trưởng thành vào với cảnh-trí của thế giới. Tiệc Thánh ta dự, phải là lời tuyên xưng gửi giới cầm quyền buộc họ thực-thi trao trả mọi của cải trên thế giới cho mọi người sống ở đó. Và, khi phân phối của cải của họ, giới cầm quyền phải đặt ưu-tiên phát không cho người bị bỏ quên bên rìa xã hội và kẻ đói khát. Chính-trị đúng-đắn phải là ‘chính trị’ dành để của cải trên thế giới cho hết mọi người, không thiên vị ai. Bởi, thế giới hôm nay và mọi thời, vẫn là thế giới của cộng-đồng dân chúng đang sống đúng ý-nghĩa giađình, cộng đoàn.

Trong tâm tình cương-quyết như thế, ta hãy cất lên lời lẽ rất thi-ca, mà rằng:

“Kìa một cõi trăm hình muôn vạn tiếng,

Đương dần phai dần hiện tắt rời vang.

Ta cố gọi những giác quan lười biếng,

Để ghi cho hậu thế phút mơ màng.”

(Vũ Hoàng Chương – Chết Nửa Vời)

Hậu thế nay, tuy đã chết nửa vời, nhưng vẫn còn nhớ và còn ghi lại phút mơ màng khi nhìn về cuộc sống của thánh-nhân từng lên tiếng mời gọi mọi người quan-tâm đến Nước Trời. Tiếng của ngài vẫn cứvang vọng trong sa-mạc chờ người đến với Chúa, để thở than. Thở và than, không chỉ mỗi chuyện buồn chán, mà cả chuyện dân gian, thường nhật cõi thế trần, rất tươi vui.

Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh

Mai Tá lược dịch

Cách sống của cha tôi

Cách sống của cha tôi

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ Reader’s Digest)

Người ta có thể CHỌN nhiều thứ cho cuộc đời mình, trừ hai thứ: Cha mẹ và nơi sinh. Cha mẹ nào cũng có điều đặ biệt riêng với con cái, nếu không thì làm gì có cha mẹ. Cha mẹ mà tuyệt vời như thế, huống chi Thiên Chúa. Chúa nhật thứ ba trong Tháng Sáu là Ngày Hiền Phụ. Bạn còn cha? Bạn thật hạnh phúc. Bạn không còn cha? Thật bất hạnh: “Còn cha gót đỏ như son, Đến khi cha chết gót con lấm bùn” (Ca dao). Vậy đó, nhưng khi cha còn sống, con có nhiều cách nhìn về người cha của mình… Sự hối hận thường đồng nghĩa với sự muộn màng!

Tôi vẫn thắc mắc rằng không biết có ai phá kỷ lục viết thư của cha tôi hay không.

Khi còn là sinh viên, tôi rất nhớ nhà. Suốt ba năm ròng rã, cha tôi cứ cách một ngày lại viết cho tôi một lá thư. Viết là chuyện quá dễ đối với cha tôi, thế nhưng cứ cách ngày lại viết thư suốt ba năm thì quả là “tâm phục, khẩu phục”.

Thư của cha tôi luôn nâng đỡ tôi, khích lệ tôi, và an ủi tôi. Thư luôn mở đầu bằng câu: “Shuet, con gái yêu dấu nhất của cha”. Còn hạnh phúc nào hơn với một sinh viên xa nhà như tôi chứ? Cha tôi luôn viết trên loại giấy có in hoa hồng lớn như thể hiện tình thương của người dành cho tôi.

Cha tôi tên là Kwok-Chi Tam, một con người tự lập, giỏi lịch sử Trung quốc và văn chương Tây phương, nhưng cũng rất giỏi văn chương Trung quốc. Người thường làm anh Paul và tôi “quê độ” bằng cách trích ra những bài thơ mà chúng tôi quên tiệt. Đã đi dạy nhiều năm, cha tôi quen nhiều sinh viên. Các sinh viên đều nói cha tôi khả dĩ bật một mẩu phấn tào thành âm thanh thú vị.

Ban ngày cha tôi đi dạy, ban đêm viết kịch bản phim. Tôi biết cha tôi mệt mỏi nhưng không bao giờ than phiền. Căn hộ chật hẹp, cha mẹ ngủ trong buồng, còn anh em tôi ngủ trên sàn nhà. Vào những dịp sinh nhật, anh em tôi được ăn thịt gà, và thực sự cảm thấy hạnh phúc bên cha mẹ. Được học hết tú tài, ai học được nữa thì cha mẹ vẫn cho đi học, và luôn động viên học chứ không hề trách mắng. Chúng tôi hiểu giá trị của sự giáo dục và kiến thức, nhất là mang ý nghĩa từ những hy sinh của cha mẹ.

Khi cuộc sống tạm ổn, cha mẹ đỡ vất vả, anh em tôi đã có nghề nghiệp, lại là lúc cha tôi bị ung thư tuyến tụy bất khả trị. Năm 1981, gia đình có ba người sinh nhật vào tháng Năm, nhưng không tổ chức vì buồn khi thấy cha tôi bệnh nặng như thế. Và rồi định mệnh cũng cướp mất cha tôi vào năm sau.

Đám tang cha tôi được tổ chức rất lớn. Rất nhiều người đến phúng điếu, đường phố chật người đưa tiễn và đứng chào tỏ lòng thương tiếc khi linh cữu cha tôi đi qua. Tôi hãnh diện vì uy tín của cha tôi đối với mọi người ở mọi lứa tuổi.

Một năm sau, tôi sinh con gái đầu lòng, đặt tên là Laura. Khi Laura bốn tuổi, tôi sinh con trai đặt tên là Paul. Khi chúng đủ hiểu biết, tôi luôn kể cho các con biết về ông ngoại của chúng, luôn yêu thương và quan tâm vợ con dù ông rất vất vả.

Đó là bài học cha tôi đã dạy tôi bằng chính cuộc sống mẫu mực của người: Tận tụy với gia đình, cần cù lao động, và kiến thức sâu rộng. Cha tôi nghiêm nghị mà không khắt khe, ít nói mà vẫn dễ gần gũi, thương yêu mà không nhu nhược, khắt khe với chính mình mà lại nhân hậu với người khác. Một ngày nào đó, khi các con khôn lớn, tôi sẽ cho chúng đọc những lá thư mà cha tôi đã viết cho tôi ngày xưa. Đó là gia bảo của người cha kính yêu đã để lại cho tôi. Quả là gia sản vô giá!

Tôi quyết tâm sống xứng đáng là con của cha tôi, và tôi sẽ giáo dục cac con cũng noi gương sống tốt của ông ngoại: Nói ít, làm nhiều.

MO-SHUET TAM

TRẦM THIÊN THU (Chuyển ngữ từ Reader’s Digest)

Lòng tin và sự xấu hổ

Lòng tin và sự xấu hổ

Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng đọc diễn văn trong phiên họp khai mạc cuộc họp Shangri-La bàn về an ninh khu vực Đông Nam Á, ngày 31/5/2013.

Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng đọc diễn văn trong phiên họp khai mạc cuộc họp Shangri-La bàn về an ninh khu vực Đông Nam Á, ngày 31/5/2013.

Nguyễn Hưng Quốc

13.06.2013

nguồn:VOA

Nhân nhắc đến khái niệm lòng tin chiến lược trong bài nói chuyện của ông Nguyễn Tấn Dũng, chúng ta thử bàn về chuyện lòng tin trong chính trị nói chung. Nói đến lòng tin, ở đây tôi chỉ muốn tập trung vào sự tin cậy (trust, chứ không phải faith hay belief) và chỉ giới hạn trong phạm vi chính trị đối nội, trong nội bộ một quốc gia.

Trước hết, hầu như ai cũng biết sự tin cậy là một trong những yếu tố quan trọng nhất để mọi người có thể sinh hoạt chung với nhau trong xã hội, từ phạm vi nhỏ và riêng tư nhất là gia đình và bạn bè đến những phạm vi lớn hơn như các cơ sở làm ăn buôn bán hoặc các đoàn thể và cuối cùng, sinh hoạt chính trị trong cả nước. Nền tảng của cái gọi là đạo đức công dân, thật ra, là vấn đề tin cậy: mình tin người khác và làm cho người khác tin mình bằng cách, trước hết, tự mình làm cho mình đáng tin cậy. Nền tảng của dân chủ, nghĩ cho cùng, cũng là sự tin cậy: tin cậy vào thiện chí của người khác và vào quyết định của đa số (biểu hiện cụ thể nhất là qua các lá phiếu).

Trong chính trị đối nội, lòng tin có ba loại: tin vào các nhà lãnh đạo, tin vào các tổ chức công quyền và tin vào cơ chế.

Trong các tổ chức công quyền, nổi bật nhất là lập pháp (tập trung vào Quốc hội – ở một số nước, có hai hình thức chính Thượng viện và Hạ viện), hành pháp (tập trung vào phủ Tổng thống và/hoặc văn phòng Thủ tướng) và tư pháp (qua hình ảnh của toà án cũng như công an). Ranh giới giữa lòng tin vào các nhà lãnh đạo và các tổ chức công quyền không hoàn toàn rạch ròi: Ở các cơ quan hành pháp, người ta có khuynh hướng nhìn vào người lãnh đạo cao nhất (tổng thống hoặc/và thủ tướng); còn ở các cơ quan khác, từ lập pháp đến tư pháp, vai trò tập thể nổi bật hơn vai trò của cá nhân, do đó, người ta có thói quen nhìn vào cả cơ quan hơn hơn là từng người cụ thể, ngay cả là người lãnh đạo cao nhất.

Đối với các nhà lãnh đạo, lòng tin cũng có nhiều loại: Một, tin vào cá tính và đạo đức của họ; và hai, tin vào lý tưởng cũng như các chính sách mà họ theo đuổi. Trong hai loại lòng tin ấy, cá tính của người lãnh đạo là yếu tố quan trọng đầu tiên, có vai trò thu hút quần chúng nhất. Không có cá tính mạnh và không có sức cuốn hút quần chúng, không ai có thể trở thành lãnh tụ được, nhất là ở các quốc gia dân chủ, nơi để trở thành lãnh tụ, người ta phải trải qua những cuộc tranh cử và bầu cử gay gắt, trước hết, trong nội bộ đảng, và sau đó, trong phạm vi quốc gia. Nhưng yếu tố đầu tiên này tức khắc trở thành thứ yếu khi người ta trở thành lãnh tụ thực sự. Khi trở thành lãnh tụ, yếu tố được quần chúng quan tâm nhất lại là lý tưởng và từ đó, chính sách của họ. Lý tưởng, vốn thường lớn và chung chung, là yếu tố đầu tiên để gây chú ý và sự đồng cảm. Tuy nhiên, yếu tố chính để quần chúng đánh giá giới lãnh đạo chính là đường lối và chính sách, tức những khía cạnh nhằm hiện thực hoá lý tưởng mà họ tuyên truyền. Đối với đường lối và chính sách, ba điều kiện căn bản nhất là: một, rõ ràng; hai, nhất quán; và ba, hiệu quả. Xuyên suốt từ đầu đến cuối, vấn đề đạo đức của nhà lãnh đạo luôn luôn là một vấn đề quan trọng. Có điều, ở đây là đạo đức công dân chứ không phải là đạo đức cá nhân. Những cái gọi là hiền lành, khiêm tốn, hòa nhã, dễ thương, mau nước mắt, v.v. đều thuộc loại đạo đức cá nhân. Là đạo đức cá nhân, chúng chỉ có ý nghĩa trong phạm vi liên-cá nhân, giữa người này và người khác, trong một không gian có giới hạn. Điều người ta quan tâm nhất ở nhà lãnh đạo là thứ đạo đức công dân, trong đó, nổi bật nhất là sự trong sạch, tinh thần trách nhiệm và tôn trọng pháp luật, bởi vậy, ba cái xấu thường dễ bị theo dõi và lên án nhất chính là tham nhũng, vô trách nhiệm và lạm dụng quyền hành.

Đối với các tổ chức, nội dung của cái gọi là lòng tin chỉ tập trung chủ yếu vào khía cạnh thực hành với hai nội dung chính: năng lực và tính hiệu quả. Tiêu chí để đánh giá việc thực hành là hiến pháp và luật pháp. Nói đến năng lực và tính hiệu quả của các cơ quan, người ta phải đối chiếu việc thực hành của các cơ quan ấy so với các quy định ghi trong hiến pháp và luật pháp. Nếu nhiệm vụ chính của công an, chẳng hạn, là bảo đảm an ninh và an toàn trong xã hội thì năng lực và tính hiệu quả của công an cần phải được đo lường và đánh giá trên mức độ tội phạm các loại trong xã hội.

Đối với cơ chế, lòng tin chủ yếu tập trung vào tính lý tưởng, tính hiệu quả và sự bền vững của nó.

Qua ba loại lòng tin ở trên, chúng ta có thể nhận thấy sự khác biệt giữa các xã hội dân chủ và các xã hội phi dân chủ.

Ở các xã hội dân chủ, từ Mỹ đến Úc và toàn bộ các quốc gia Tây Âu và Bắc Âu, dân chúng có thể mất lòng tin vào giới lãnh đạo hay các cơ quan công quyền, nhưng họ luôn luôn tin tưởng vào cơ chế. Cơ chế dân chủ mà họ thiết lập và hoàn thiện suốt cả trăm năm hoặc lâu hơn nữa không những có tính lý tưởng cao, phù hợp với những bảng giá trị phổ quát của nhân lại (tôn trọng tự do cá nhân và sự bình đẳng giữa mọi người cũng như tinh thần thượng tôn pháp luật) mà còn có tính hiệu quả trong việc vận hành kinh tế, an sinh xã hội và đặc biệt, quản trị đất nước. Hơn nữa, mọi người còn tin tưởng vào sự bền vững của nó: Một mặt, giới lãnh đạo hay các cơ quan công quyền có thể thay đổi, nhưng cơ chế dân chủ thì không; mặt khác, chính cơ chế ấy bảo đảm mọi sự thay đổi quyền lực đều diễn ra một cách êm thắm, không gây nên bất cứ một xáo trộn nào trong xã hội. Chính vì vậy, ở hầu hết các nước dân chủ, tâm lý quần chúng thường khá an tâm sau các cuộc bầu cử. Trong bầu cử, người ta có thể tranh đấu với nhau một cách dữ dội nhưng bầu cử xong, tuy có kẻ thắng người thua và tuy sẽ có những chính sách khác nhau, mọi người vẫn biết rõ một điều: tự do, dân chủ, nhân quyền và pháp chế vẫn được tôn trọng và duy trì. Dưới chính phủ mới, một số người có thể bị cắt bớt một phần trong các trợ cấp thất nghiệp hay trợ cấp xã hội, chẳng hạn, nhưng chắc chắn, sẽ không có ai bị bỏ đói, bị tước đoạt đất đai hay bị bắt bỏ tù một cách vô lý vì một số phát ngôn hay vì tham gia một cuộc biểu tình nào đó.

Cũng chính vì tin cậy vào cơ chế nên ở các quốc gia Tây phương, hầu như không ai nghĩ đến chuyện gây bạo loạn để lật đổ chính quyền. Mọi sự thay đổi, nếu có, đều diễn ra bên trong cơ chế, với các luật chơi gắn liền với cơ chế.

Ở các nước phi dân chủ, ngược lại, điều người ta ít tin nhất, lại là cơ chế. Thoạt đầu, chế độ phi dân chủ nào cũng khuếch đại tính lý tưởng của nó để thu phục nhân tâm. Nhiều người sẵn sàng tin và có người sẵn sàng hy sinh tính mạng để thực hiện các lý tưởng ấy. Nhưng cái thiếu nhất của các chế độ độc tài là tính hiệu quả. Khái niệm hiệu quả ở đây không chỉ giới hạn trong phạm vi kinh tế mà còn trải rộng ra mọi phạm vi khác, từ luật pháp đến xã hội, văn hóa, chính trị và nhân quyền. Cứ nói mãi đến tự do nhưng đi đâu cũng đối đầu với công an, lúc nào cũng có nguy cơ bị công an còng tay hay đạp vào mặt; cứ nói mãi đến dân chủ, nhưng tranh cử thì hạn chế, bầu cử thì gian lận, bộ máy công quyền đều được giao phó cho những kẻ bất tài nhưng có nhiều “quan hệ”… dần dần người ta sẽ mất hết niềm tin. Chính vì có sự trái ngược giữa tính lý tưởng và tính hiệu quả như vậy, mọi chế độ độc tài đều thiếu hẳn tính ổn định và bền vững. Kiểu tuyên truyền ưu tiên cho ổn định ở các nước độc tài, trong đó có Việt Nam, là một lối ngụy biện đầy nghịch lý, bởi, tự bản chất, đã độc tài thì không thể ổn định, và vì không ổn định, nó cũng không thể bền vững.

Đó chính là tình trạng ở Việt Nam hiện nay.

Lần lượt, nhiều người, ngay cả những kẻ từng cúc cung phục vụ chế độ gần như cả đời, đều nhận ra một điểm: tất cả các khuyết điểm ở Việt Nam đều bắt rễ từ một cái lỗi chính, có người gọi là “lỗi hệ thống”. Lỗi hệ thống tức là lỗi ở cơ chế. Lỗi ở cơ chế chủ yếu là lỗi ở ba khía cạnh: một, phương thức lên cầm quyền (thường, một cách chính đáng, phải gắn liền với các cuộc bầu cử tự do); hai, ở phương thức phân quyền (yêu cầu tối thiểu là tính chất độc lập của tư pháp, và đằng sau nó, lực lượng công an); và ba, phương thức kiểm soát quyền lực (chỉ đáng tin cậy khi, thứ nhất, người kiểm soát độc lập với người bị/được kiểm soát; và thứ hai, từ nhiều nguồn khác nhau. Ở Tây phương, cơ cấu kiểm soát quyền lực thường chằng chịt nhiều tầng và từ nhiều góc độ khác nhau, từ tư pháp đến truyền thông, các tổ chức chính trị đối lập, các tổ chức phi chính phủ và, bàng bạc khắp nơi, dân chúng).

Lâu nay, dường như chính quyền Việt Nam cảm thấy tuyệt vọng trong việc củng cố lòng tin của dân chúng vào cơ chế nên bộ máy tuyên truyền của họ thường hiếm khi đề cập đến cơ chế, vốn gắn liền với chế độ. Họ chỉ sử dụng biện pháp tiêu cực là cấm đoán việc phê phán cơ chế hoặc lâu lâu vẽ vời vài chuyện nhăng nhít (trong đó, mới nhất là việc bỏ phiếu tín nhiệm giới lãnh đạo) để mị dân hoặc lừa dân với ảo tưởng là cơ chế ấy đang trong tiến trình tự hoàn thiện. Nhưng cố gắng xây dựng lòng tin dựa trên lời hứa hẹn là nó đang tự thay đổi và hoàn thiện chỉ là một trò chơi nửa vời của những kẻ đang biết là mình thua cuộc. Nó thiếu hẳn tự tin. Và cũng thiếu lòng tin ở cơ chế.

Trước đây, bộ máy đảng và chính quyền tập trung thật nhiều công sức vào việc gây dựng lòng tin vào các nhà lãnh đạo bằng cách thần thánh hóa, hoặc ít nhất, thần tượng hóa một người nào đó, trước là Hồ Chí Minh, sau là Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp. Nhưng với giới lãnh đạo thuộc các thế hệ sau, các nỗ lức ấy bị biến thành tuyệt vọng ngay cả trước khi họ bắt đầu thực hiện. Lý do chính, tôi nghĩ, là do sự phát triển của truyền thông. Với thế hệ lãnh đạo đầu tiên, việc thần thánh hóa tương đối dễ: dưới mắt dân chúng, ông Hồ Chí Minh, chẳng hạn, lâu lâu mới thoáng qua một lần. Toàn bộ hình ảnh của ông là do các cán bộ tuyên truyền hoặc chính ông vẽ ra. Không ai có thể kiểm tra được cả. Giới lãnh đạo gần đây, đi đâu cũng có các ống kính chĩa vào ghi hình và ghi âm, rất dễ bộc lộ những sự hớ hênh trong cả trí tuệ lẫn nhân cách. Huống gì hầu hết các nhà lãnh đạo gần đây đều thuộc loại kém cỏi. Họ khó đủ sức để giữ được lòng tin của quần chúng.

Dĩ nhiên, nói đến lòng tin của dân chúng đối với lãnh đạo Việt Nam, chúng ta khó tìm ra một bằng chứng cụ thể nào để phân tích. Bầu cử thì gian lận; các cuộc điều tra dư luận thì bị cấm đoán, mọi cố gắng tìm kiếm số liệu đều trở thành vô vọng. Nhưng ít nhất cũng có một số người biết chắc chắn là dân chúng không tin giới lãnh đạo: Đó chính là giới lãnh đạo hiện nay. Biết, nên họ sợ và tìm mọi cách để tránh né việc đối đầu với việc bày tỏ cách đánh giá của dân chúng. Họ biết chắc chắn một điều: nếu để dân chúng tự do bộc lộ lòng tin, họ sẽ chỉ đạt được số âm.

Như vậy, ở đây, chúng ta lại thấy một khía cạnh khác: Ở Việt Nam, không phải chỉ có việc dân chúng mất lòng tin vào cơ chế, cơ quan công quyền và giới lãnh đạo mà còn có hiện tượng bản thân giới lãnh đạo cũng không tin vào cơ chế và đặc biệt, vào quần chúng. Họ không bao giờ dám để dân chúng phát biểu một cách tự do và trung thực. Họ cũng không dám để dân chúng được tự do lựa chọn. Đây đó, họ giải thích lý do tại sao Việt Nam không thể đa đảng: đa đảng sẽ gây nên hỗn loạn. Tại sao đa đảng, ở các nơi khác không gây nên hỗn loạn mà ở Việt Nam thì có? Họ trả lời: Tại dân trí Việt Nam còn thấp! Nói thế tức là không tin vào trí tuệ, vào phán đoán, và cuối cùng, sự lựa chọn của dân chúng.

Trên diễn đàn quốc tế, giới lãnh đạo Việt Nam nói đến lòng tin, nhưng một trong những bi kịch lớn nhất ở Việt Nam là không ai tin ai cả. Trong quan hệ xã hội, người ta không tin nhau. Trong quan hệ chính trị, dân chúng không tin nhà cầm quyền và nhà cầm quyền, ngược lại, cũng không tin dân chúng. Khi lòng tin bị đánh mất, yếu tố thống trị mọi quan hệ xã hội và chính trị chỉ còn là sự giả dối.

Giả dối thì ở đâu cũng có, nhưng ở Việt Nam, sự giả dối có hai điểm đặc biệt: Thứ nhất, nó không phải chỉ hiện diện, thậm chí, không phải chỉ phổ biến mà còn thống trị mọi sinh hoạt và mọi loại quan hệ; và thứ hai, chính vì tính chất thống trị ấy, nó trở thành một điều bình thường, không còn làm cho ai xấu hổ cả.

Không có một xã hội nào có thể lành mạnh nếu thiếu sự tin cậy và không có một nền đạo đức nào có thể đứng vững nếu thiếu sự xấu hổ.

Tiếc, Việt Nam thiếu cả hai.

Blogger Phạm Viết Đào bị “bắt khẩn cấp”

Blogger Phạm Viết Đào bị “bắt khẩn cấp”

Blogger Phạm Viết Đào (DR)

Blogger Phạm Viết Đào (DR)

Thanh Phương RFI

Tại Việt Nam, hôm qua 13/06/2013, lại có thêm một blogger bị bắt giữ, đó là nhà văn Phạm Viết Đào. Đây là blogger Việt Nam thứ hai bị bắt giữ trong vòng chưa tới một tháng, trong bối cảnh chính quyền Hà Nội gia tăng trấn áp những người viết bài trên mạng chỉ trích chính phủ.

Theo tin của Thông tấn xã Việt Nam, hôm qua, Cơ quan an ninh điều tra Công an thành phố Hà Nội ra Lệnh bắt khẩn cấp đối với ông Phạm Viết Đào, hiện sống tại Hà Nội. Blogger này bị xem là có hành vi “lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân”. Thông tấn xã Việt Nam cho biết thêm là trong quá trình thực hiện lệnh khám xét, bắt khẩn cấp, ông Phạm Viết Đào “có thái độ chấp hành”.

Nguyên là một quan chức Bộ Văn hóa và Thông tin, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam và đảng viên, ông Phạm Việt Đào đã trở thành một trong những nhà bình luận nổi tiếng về tình hình Việt Nam và trang blog của ông thu hút rất nhiều độc giả. Những bài viết của ông thường chỉ trích các lãnh đạo cao cấp của Đảng và chính phủ, cũng như đề cập đến các vấn đề nhạy cảm như chính sách của Việt Nam đối với Trung Quốc trên vấn đề tranh chấp lãnh hải Biển Đông.

Trang mạng nguyentandung.org ngay từ hôm qua đã có bài giải thích các lý do bắt giữ blogger Phạm Viết Đào, trong đó có việc ông bị xem là đã “ nói sai sự thật nhằm gây bất ổn chính trị, hoang mang, làm mất niềm tin của nhân dân vào các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà Nước (chửi bới Tổng Bí thư, Thủ tướng Chính phủ, Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Bí thư Đà Nẵng Nguyễn Bá Thanh nay là Trưởng ban Nội chính Trung Ương), chửi bới chế độ, đòi đa nguyên đa đảng.”

Kể từ tối hôm qua, trang blog của ông Phạm Viết Đào không thể được truy cập nữa. Vụ bắt giữ ông Phạm Viết Đào xảy ra tiếp theo sau vụ bắt giữ một blogger nổi tiếng khác của Trương Duy Nhất, chủ trang blog “Một góc nhìn khác”, ngày 26/05, cũng với tội danh “lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân”.

Theo nhận định của hãng tin AP, vụ bắt giữ nhà văn Phạm Viết Đào cho thấy Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng lo ngại trước nguy cơ từ các hoạt động thông tin trên mạng. Cho tới gần đây, đảng vẫn nắm độc quyền thông tin, nhưng nay vô số trang blog và Facebook chuyển tải rất nhiều thông tin về các đấu đá nội bộ, các thất bại về chính sách đến hàng triệu người, khiến dân chúng thêm bất mãn với sự cầm quyền của đảng.

Trả lời hãng tin AP, tiến sĩ Nguyễn Quang A, cho rằng vụ bắt giữ ông Phạm Viết Đào nhằm buộc mọi người phải “câm miệng lại” và vụ này cho thấy chính quyền đang “suy yếu”.

Theo thống kê của AP, cho đến hiện giờ trong năm nay đã có 38 blogger và nhà hoạt động dân chủ bị bắt ở Việt Nam, gần bằng với số người bị bắt của cả năm 2012

Việt-Mỹ hợp tác hỗ trợ nhân đạo

Việt-Mỹ hợp tác hỗ trợ nhân đạo

  • Một bệnh nhân được đo mắt ở thành phố Ðồng Hới, tỉnh Quảng Bình trong Chương trình Operation Pacific Angel 2013. (U.S. Air Force photo by Staff Sgt. Sara Csurilla)

Một bệnh nhân được đo mắt ở thành phố Ðồng Hới, tỉnh Quảng Bình trong Chương trình Operation Pacific Angel 2013. (U.S. Air Force photo by Staff Sgt. Sara Csurilla)

13.06.2013

VOA

Mỹ và Việt Nam đã bắt đầu tiến hành một hoạt động nhân đạo vào ngày 10 tháng 6 trong khuôn khổ chương trình gọi là Operation Pacific Angel.

Chương trình này đang bước vào năm thứ 6 và là hoạt động nhân đạo chung giữa hai nước, do Không quân Mỹ ở Thái Bình Dương dẫn đầu.

Trung tá Tom Laitinen, chỉ huy hoạt động hỗ trợ năm nay, cho biết họ đã cung cấp dịch vụ chăm sóc y tế và giúp xây cất.

Ông nói những hoạt động này hướng đến việc xây dựng một mối quan hệ Việt-Mỹ tốt đẹp hơn, vừa giữa quân đội với quân đội, và quân đội với thường dân, phòng khi xảy ra những thảm họa thiên nhiên hay khủng hoảng an ninh.

Các chuyên gia y tế trong của chương trình này đã dựng một trạm y tế tạm thời để khám răng, khám mắt, khám sức khỏe phụ nữ, làm vật lý trị liệu và cung cấp dịch vụ y tế cơ bản cho ít nhất 2.500 bệnh nhân.

Ráng Chiều Đẹp Hơn Nắng Bình Minh!

Ráng Chiều Đẹp Hơn Nắng Bình Minh!

Thứ sáu đầu tháng sáu là lễ Kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, ngày thế giới xin ơn thánh hoá các linh mục. Tháng Sáu cũng có “Ngày của Cha”. Nhận lời uỷ thác của người linh mục lãng tử, tôi đến thăm một nơi như nắng đang dần tắt, những người cha già ở đó khi đời xế bóng trong âm thầm mà rất bình an. Niềm bình an chỉ có được khi họ tin tưởng phó thác vào lòng thương xót của Chúa, chứ không phải vào những ảo ảnh phù phiếm thế gian…

Như nắng đang dần tắt….

Chỉ cách thế thôi, một hàng rào, mà thế giới hình như đã chia hai. Kể từ khi đặt chân vào và chạm hai gốc sứ với nhiều hoa trắng đang tỏa hương, tôi lạc vào một thế giới khác. Thế giới của những người như nắng đang dần tắt.

Tĩnh lặng. Tĩnh lặng tưởng như không người. Cái yên tĩnh khiến chính bản thân khách lạ cũng không dám bước bình thường, phải rón rén nhẹ nhàng, kẻo làm vỡ mất một bầu khí rất mỏng manh, rất bình lặng.

Có một căn phòng cửa mở, có lẽ cả tòa nhà ba tầng cổ xưa này duy nhất có một phòng này mở cửa, khiêm nhu phía trên gắn hai chữ xanh cũng quá cũ theo thời gian : Văn Phòng.

Không có người chăng ? À ! Một sơ đang lúi húi làm một việc gì đó. Màu áo xám động đậy theo cử động đôi tay. Hóa ra khi làm cái việc tỷ mỉ ấy, người nữ tu đã bỏ lại sau lưng mình cả một cuộc đời. Mới đó mà cũng đã mấy chục năm với màu áo xám này. Sơ đã quên đi đời thiếu nữ để trở thành một người mẹ vô cùng đặc biệt.

Khi phát hiện ra khách,mỉm cười nhẹ nhàng : “Con ngồi chờ chút nhé ! Để sơ đóng nốt chỗ sữa chua này cho xong. Phải làm luôn chứ thứ thực phẩm này ngưng lại bỏ ngang là hỏng ăn luôn con ạ !”

Chút kiên nhẫn của tôi có đáng là bao so với sự kiên nhn của đôi vai gy tưởng như rất nhỏ nhắn của sơ. Người nữ tu ấy đã gắn bó với mái ấm này cùng với hai cộng sự để chăm sóc những người “đặc biệt”. Những người làm “cha”, có “con”, mà vĩnh viễn không bao giờ lập gia đình !

– Đấy con à ! Cha T. mới mất, còn cha H. thì vừa nhập viện. Sơ vừa giặt xong áo cho ngài. Coi nè, sạch không ? Để chiều còn đem vào viện.

Mặt bàn khách, dưới tấm kiếng dày, có nhiều ảnh các linh mục rạng rỡ cười, là các cha hưu dưỡng tại đây. Các ngài đã ra đi bình an hoan hỉ trong Chúa.

Hiện giờ ở đây chỉ còn 12 cha già thôi con ạ ! Cha lớn tuổi nhất là cha V. Thiếu một năm nữa là đầy trăm tuổi rồi đó ! Ờ… Con nhận xét rất đúng. Ở đây tĩnh lặng quá đúng không ? Thì già cả rồi mà ! Có cha giờ luôn trong phòng, chẳng còn bước xuống cầu thang được nữa, nói chi ngó ra đời sống ngoài kia. Chúa sắp đặt rồi con. Ừ, đợi sơ, sơ sẽ dắt con đi thăm từng cha. Chắc các ngài mừng lắm đấy !

·       Như hoa rã cánh rơi không tiếng-chẳng hái mà hoa cũng hết dần

Tôi muốn mượn hai câu thơ của Xuân Diệu để viết tiếp về nơi này, “Như hoa rã cánh rơi không tiếng – chẳng hái mà hoa cũng hết dần.” Theo chân người nữ tu, tôi lần lượt vô thăm một số cha già. Gõ cửa cho đúng phép tắc vậy thôi, khi nghe tiếng mời vào là khách chủ động đẩy ca vônhiều cha rất yếu, chỉ mấy bước chân từ ghế ra cửa cũng đã là rất khó.

Cha già đầu tiên tôi gặp, đầu cạo trọc, móm mém rất dễ thương. Cha mặc sẵn áo chùng đen. “Để lỡ có ai vào mình phải chỉnh tề, không làm xấu danh Chúa!” Cha cho biết thế. Rồi cha tự xoa cái đầu láng o, cười móm mém : “Ở nhà Chúa mà làm một sư cụ xem sao. Nói đùa con đó. Cha mới đi bệnh viện về. Người ta cạo đầu truyền nước biển và tiện chăm sóc cho đỡ cực vậy mà !”

Tôi xúc động chẳng biết nói gì, khi chính người mục tử 96 tuổi đời ấy nhắc tôi : “Con ráng đi thăm từng cha nha ! Ông này thì điếc. Ông kia thì mắt mờ rồi nè. Còn cụ kia thì không nói được nữa, cấm khẩu rồi. Chắc vài hôm nữa Chúa đón về thôi con ạ…

Khi tôi nói người linh mục dòng không về nơi này được, có ý ủy thác tôi tới thăm các cha già, thì cha rưng rưng lệ và nói : “Ừ, trước đây ông đó ghé cha hoài. Cha biết ông đó vẫn được người ta gọi là linh mục lãng tử, thế thì nhắc ổng phải ráng ra đi. Đức Giêsu cũng là lãng tử vì Người phiêu bạt khắp chốn, không có nơi tựa đầu. Lãng tử là người sống “an nhiên tự tại”, không bám trụ vào cái gì, không bám vào chức tước địa vị, vào quyền lực thế gian, cũng không bám vào ai cả ngoại trừ Thiên Chúa. Cả chúng con cũng phải ra đi. Phải để tình Chúa xót thương đến với nhiều người, nhất là người nghèo khổ. Muốn cách nào thì cách !”

Có những căn phòng cửa đóng, sơ cho biết cha mệt, đang ngủ rồi. Chúng tôi lặng lẽ đi qua. Người già giấc ngủ hiếm hoi, để các ngài chợp mắt

Tôi vô phòng thăm cha V. là người lớn tuổi nhất trong nhà hưu dưỡng này. Cha không thể nằm được mà ngồi trên một ghế được chế tạo như một cái giường. Nửa nằm nửa ngồi thế mới duy trì được hơi thở mong manh như sương khói.

Tôi run run nắm tay cha già. Bàn tay gần như đã khô, làn da chẳng khác nào loại giấy gió mà người ta vẽ tranh đông hồ, mỏng đục và trong suốt, nhìn rõ từng tĩnh mạch. Cha nằm đó bất động, không thể nói được gì nữa, chỉ nằm thế thôi. Cha sống đời thực vật, để duy trì sự sống cho cha, các sơ phải cạy miệng nhỏ từng giọt sữa.

Tôi khóc. Vâng, tôi đã khóc. Để những giọt lệ lăn trên gò má, tôi cố ngăn tiếng nấc nghẹn ngào. Chẳng phải trước mặt tôi là những con người đã từng “một thời vang bóng” đó sao ? Có những cha đã xây bao nhiêu nhà thờ, trường học, coi sóc bao nhiêu giáo xứ, nhà trường, bệnh viện, trung tâm. Có những cha đã từng đi du học nhiều nước, từng đọc thiên kinh vạn quyển, viết bao nhiêu sách, dạy bao nhiêu học trò. Có những cha bước chân truyền giáo đã đi khắp vùng đất nước, lặn lội hang cùng ngõ hẻm, đưa bao nhiêu người vào Đạo, thực hiện biết bao chương trình bác ái xã hội. Học trò của các cha bây giờ có người làm giám mục, bề trên, giám đốc, cha sở… Giáo dân của các ngài bây giờ nhiều người thành danh, con đàn cháu đống, nhà cao cửa rộng, nắm chức vụ cao cấp trong nước cũng như tản mạn ở nhiều nước trên thế giới. Bây giờ có mấy người còn nhớ đến người thầy, người cha của mình năm xưa ? Bao tinh hoa học vấn cùng sức khỏe các cha đã vắt hết, vắt cạn, đã dâng trọn để làm vinh danh Chúa. Những người mục tử đã sống hết mình vì đoàn chiên, hết lòng với giáo hội, giờ biết mình tuổi già sức yếu lặng lẽ rút vào bóng tối để cho lớp đàn em tiến lên. Những ngọn đèn dầu leo lắt ấy vẫn tiếp tục đóng góp cho giáo hội bằng lời cầu nguyện âm thầm, bằng những hy sinh chịu đựng đau ốm bệnh tật và nỗi cô đơn quạnh hiu…

Muốn tôi vơi bớt nỗi xúc động trào dâng, sơ đưa tôi tới một phòng khá đặc biệt. Phòng toàn sách là sách, lọt thỏm trong nhà sách tựa như cái kho đó là một cụ già đôi mắt tinh anh. Cụ có thói quen rất lạ lùng : 89 tuổi nhưng có thể đứng trò chuyện với khách cả tiếng đồng hồ. Ngay cả khi tôi lấy ghế mời cha ngồi, cha vẫn không chịu mà đứng thế như một cách rèn bản thân. Cha đã 89 tuổi.

Cha già nói với tôi : “Con ạ ! Uống nước phải nhớ nguồn. Không có cha mẹ là không có mình. Các con phải nhớ điều đó !”

Cha cập rập lấy ra bức ảnh phụ mẫu của ngài tặng cho tôi và tiếp lời : “Nghe cha dặn nè. Đi đâu thì đi. Làm gì thì làm. Vào nhà thờ là giản dị, dùng tiếng mẹ đẻ của mình. Cha vẫn nhắc các linh mục trẻ rằng giảng dạy bớt pha tạp tiếng Tây. Nếu trích dẫn bằng tiếng nước ngoài là phải chú giải ngay cho bà con người ta hiểu. Giảng gì thì phải đơn giản thực tế dễ hiểu. , mà cha quên… Con là giáo dân, đâu có phải là linh mục chớ !”

Rồi cha đọc cho tôi một câu thơ cổ, chắc là thơ từ thuở người ta còn học tam tự kinh :

“Trai thì chữ hiếu làm đầu,

Gái thì đức hạnh làm câu sửa mình.”

Bỗng như là khói sương, cha dặn tôi : “Con ghé hết các cha chưa ? Nhớ ghé cha Xuyên. Ngài không được khỏe.”

Tôi cắn chặt môi, nén tiếng khóc nức nở : “Cha ơi! Cha Xuyên mới qua đời rồi ! Hóa ra con người tinh thông, tài giỏi trước mặt tôi dù có thể đứng cả tiếng đồng hồ không mỏi lại không thể đi lại bình thường, không thể xuống ba tầng cầu thang bộ, và trí nhớ đã lẫn khi quên mất người bạn mới qua đời. Thế giới của cha là kho sách nhuốm bụi này với bao tinh hoa trí tuệ. Cha rất vui khi ai đó tới chơi để cha có dịp trò chuyện.

Khi tôi chuẩn bị ra về, sau khi đã gửi lại đầy đủ các phần quà do người linh mục lãng tử ủy thác đến từng người trong tòa nhà cổ kính này, thì có một anh giáo dân ghé thăm.

Sơ mừng rỡ : “Ồ may quá! Sơ đang đợi anh đây. Chịu khó vào giúp sơ một tay, chứ mình sơ loay hoay không làm được !”

Thì ra có những món đồ bị hỏng : vài cái bàn long chân, những vòi nước cũ kỹ hoen rỉ đã hư mục, mấy bóng đèn chập chờn, ổ khoá bị hóc, cây quạt bị hỏng…

Vâng, nơi này không chỉ là nỗi cô đơn của người già. Nơi này còn là khó khăn của những người phục vụ phải loay hoay nuôi các cha già, mà tuổi tác bệnh tật giờ giống như trẻ thơ, rất và rất cần được nâng niu chăm sóc kỹ lưỡng.

Thầm lặng trước đài Đức Mẹ, tôi ao ước. Một ao ước rất giản dị là có nhiều giáo dân và các mục tử tới nơi này như con cháu về nhà thăm viếng chính cha mẹ mình, để những nơi cô tịnh này được rộn ràng bước chân, tíu tít lời thăm hỏi và rộn rã nụ cười. Đó là cách tri ân những hạt lúa đang chấp nhận mục nát dần đi để cánh đồng truyền giáo trổ sinh nhiều hoa trái. Sự mục nát ấy thật có giá trị và rất đáng nâng niu.

Cảm ơn ông, người linh mục lãng tử, cảm ơn một tấm lòng lặng lẽ sẻ chia. Rời nhà hưu dưỡng, khi nắng chiều đang dần tắt, vài cánh hoa sứ rơi rụng trên vai, vẳng nghe tiếng kinh từ trong ngôi nhà nguyện, thấy những bóng hình già yếu, run run tay chắp, mắt nhắm nguyện cầu, tôi chợt thấy “đôi khi ráng chiều đẹp hơn nắng bình minh…”

THU HƯƠNG

Từ bỏ… để gặp gỡ , Hay gặp gỡ… rồi từ bỏ???

Từ bỏ… để gặp gỡ

Hay gặp gỡ… rồi từ bỏ???

Lung Linh

Tôi là một cô gái điếm nổi tiếng trong vùng với nhan sắc trời cho duyên dáng mặn mà.

Khách hàng của tôi khá đa dạng trong đó có cả những ngài biệt phái đạo mạo, nhà luật sĩ nghiêm trang, thậm chí một vài tư tế có vẻ cao siêu thánh thiện nữa đấy…

Ban ngày, họ lên mặt đạo đức xa lánh, khinh rẻ những người hè hạ như tôi…Nhưng ban đêm, với bóng tối đồng lõa, họ tìm tới tôi như con hổ đói mồi… ngấu nghiến ăn một món fast food cho thỏa ‘con lợn lòng’…rồi mau chóng lẻn đi vào ngõ hẻm tối hù… nơm nớp lo sợ bị người khác bắt gặp…

Thỉnh thoảng, lúc nửa đêm về sáng, tôi trằn trọc.. không tài nào ngủ được. Những câu hỏi liên tục tra tấn tâm trí tôi:

–  Tại sao cũng là con người mà tôi lại phải mang thân phận nhơ nhớp như thế này?

–  Tại sao cũng là con người mà tôi lại bị coi như một món đồ chơi cho những kẻ thừa tiền rửng mỡ??

–  Tại sao cũng là con người mà tôi không thể ngẩng mặt lên với đời. mọi người khinh bỉ tôi, tìm cách xa lánh tôi???

Và tôi không thể nào tìm ra câu giải đáp cho cuộc đời khốn khổ của mình.

Bất ngờ một hôm, tôi nghe người ta kháo láo với nhau về một chàng Giêsu nào đó. Kẻ khen, người chê…khiến cho tôi càng thêm tò mò. Tôi ăn mặc thật kín đáo, trộn lẫn vào đám đông để tìm hiểu xem chàng Giêsu này thế nào.

Quả thực, tôi đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Chàng rất khác người.

Những lời chàng nói thực mãnh liệt và tràn đầy tình thương:

“Phúc cho anh em khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xoá tên như đồ xấu xa.
Ngày đó, anh em hãy vui mừng nhảy múa, vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.

Thực thế sao??? bấy lâu nay tôi cứ tưởng đã làm thân gái điếm bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xoá tên như đồ xấu xa.. thì chỉ có một con đường duy nhất đó là ngưỡng cữa hỏa ngục đang mở rộng để một ngày nào đó lũ quỷ dữ hè nhau lôi tôi vào đó.

Nay lại nghe chàng nói như thế lòng tôi bừng lên một niềm hy vọng sáng ngời.

Cụ thể hơn, một hôm tôi nghe chàng tuyên bố:

“Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần.
Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn.”

Tôi có cảm tưởng không phải chàng nói cho các môn đệ của chàng…mà dường như chàng nói với chính tôi đây. Chàng đang kêu gọi tôi sám hối ăn năn.

Khi chữa bệnh cho người bị bệnh phong, chàng giơ tay đụng vào anh ta và bảo:

“Tôi muốn, anh sạch đi.”

Thế là tôi bắt đầu xây mộng… hy vọng một ngày nào đó chàng cũng chạm vào tôi và nói: Tôi muốn, cô sạch đi.”

Mới tuần trước đây, tôi âm thầm theo chàng và chứng kiến một cảnh tượng đầy cảm động trong đám con con trai bà góa thành Naim. Chàng lại gần, sờ vào quan tài và nói:

Này người thanh niên, tôi bảo anh : hãy trỗi dậy !

Lại một lần nữa ước mộng của tôi rực sáng hơn.

Đúng rồi. tôi cũng phải chỗi dậy thôi.

Và thời cơ đã đến. tôi nghe nói chàng sẽ dự tiệc tại nhà ông Simon, một người Pha ri sêu. Thế là tôi chuẩn bị một bình bạch ngọc đựng dầu thơm.

Thấy tôi vừa bước vào, nhà mấy tay Pharisêu tính ra chận lại..không ngờ trong đó có hai ‘khách hàng’ của tôi, tôi khẽ kín đáo liếc mắt. Họ dội lại, nhường lối cho tôi bước vào.

Thấy chàng, nước mắt tôi trào ra…người ta cứ tướng đó là những giọt lệ ăn năn. Không phải vậy.. mà đó là niềm vui gặp gỡ người mà tôi âm thầm quý mến từ lâu.

Rồi tôi lấy dầu thơm mà đổ lên chân chàng.

Tay Giuđa, một môn đệ của Thầy, có vẻ tiếc cho bình bạch ngọc dầu thơm. Nhưng tôi, lúc đó được ở bên Thầy, tôi sung sướng quá, chẳng còn thiết bất cứ sự gì nữa.

Tuy Phúc âm không không nói rõ, nhưng từ đó tôi bỏ hẳn nghề ăn sương tệ hại này và quyết tâm âm thầm làm môn đệ Thầy….

Những lời Thầy nói quả thực là khó hiểu… thậm chí khó có thể chấp nhận nổi.

–  Có ngươi báo tin rằng có Mẹ thầy và anh em thầy ở ngoài kia. Thầy liền chỉ ngay những người ngồi chung quanh

Ai là mẹ tôi ai là anh em tôi?

Trời!!! nghe có vẻ bất hiếu thế không biết?

–  Khi nói về Áp-ra-ham, Thầy dám tuyên bố:

“Thật, tôi bảo thật các ông: trước khi có ông Áp-ra-ham,

thì tôi, Tôi Hằng Hữu!”

Họ liền lượm đá để ném Người. Nhưng Đức Giê-su lánh đi và ra khỏi Đền Thờ

Xin lỗi… không biết Thầy có Nổ quá không?? Bị ném đá cũng phải thôi!!!

–  Kinh khủng hơn nữa thầy dám sánh mình ngang bằng Thiên Chúa

“Tôi và Chúa Cha là một.”
Người Do-thái lại lấy đá để ném Đức Giê-su.

Bị ném đá cũng phải thôi!!!

Bởi vì ông là người phàm mà lại tự cho mình là Thiên Chúa.

Nhưng trước khi chịu khổ hình, Thầy đã để lại cho các môn đệ những lời thật tuyệt vời, êm ái và ngọt ngào…

Ngày đó, anh em sẽ biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em.

Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy.

Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con,

Sau khi Thầy về trời, tôi thường lui vào góc vườn khuất kín để vừa nhớ Thầy vừa nghiền ngẫm những lời cuối cùng cực kỳ thân thương này.

Thật kỳ diệu thay!!! sau nhiều năm tháng, tôi dần dần nhận ra rằng:  quả thực mình đang ở lại trong tình thương của Thầy. Tôi ở trong Thầy và Thầy ở trong tôi.

Thì ra… nhờ được gặp gỡ Thầy rồi…tôi mới từ bỏ.

Trước hết là từ bỏ nghề ăn sương..

Rồi từ bỏ những tư tưởng tiêu cực: tự ti mặc cảm tội lỗi, hỏa ngục, hình phạt,

Bắt đầu đón nhận tư tưởng tích cực: tập vui sống với Chúa trong lòng mình….