Tản mạn chuyện giáo dục

Tản mạn chuyện giáo dục

Tác giả: TRẦM THIÊN THU

Tiếng trống khai trường đã điểm, năm học mới bắt đầu. Khai giảng niên học cũng là khởi đầu trách nhiệm mới, trách nhiệm của học sinh và sinh viên, trách nhiệm của quý thầy cô và quý phụ huynh.

Tuy nhiên, ngày 3-8-2012, báo Tuổi Trẻ đưa tin: 40% giáo viên cho rằng nếu được chọn lại nghề, họ sẽ không theo nghề sư phạm. Đây là kết quả của một cuộc khảo sát đã được nêu lên trong cuộc hội thảo khoa học, với chủ đề “Cải Cách Công Tác Đào Tạo Giáo Viên Phổ Thông”, diễn ra tại trường Đại học Sư phạm Saigon. Tin đó cho thấy một thực tế buồn!

VỀ VẤN ĐỀ THẾ NÀO?

Như mọi người đều biết rằng ngày tựu trường là ngày khai giảng, ngày nhập học sau những tháng ngày hè. Nói đầy đủ và đơn giản là “bắt đầu năm học mới”. Cái háo hức đậm “chất học trò”, nhất là những em lần đầu bước chân vào sân trường, chính thức là học sinh. Ai cũng có một thời ngồi ghế nhà trường, trung bình là 12 năm, như vậy ai cũng được học với nhiều thầy, cô.

Cái gì bắt đầu cũng quan trọng, vì “đầu xuôi” thì “đuôi lọt”. Các công ty và các cơ sở kinh doanh chọn ngày tốt để khai trương, những người buôn bán cũng coi trọng ngày khai trương sau kỳ nghỉ Tết dài. Chắc chắn ngày tựu trường cũng là sự kiện quan trọng, quan trọng không chỉ với học sinh, sinh viên, mà còn quan trọng với thầy cô và cha mẹ. Nhà văn Thanh Tịnh đã mô tả sự háo hức của một cậu học trò nhỏ lần đầu tiên đi học trong truyện “Tôi Đi Học” rất nổi tiếng của ông.

Có một thời người ta khôi hài định nghĩa thế này: “Sư phạm là ăn như (nhà) sư và ở như phạm (nhân)”. Ý nói tới cảnh khổ của sinh viên học ngành sư phạm và các giáo viên. Học sinh là tương lai của một quốc gia, có thể nói rằng quốc gia đó hưng thịnh hay yếu kém là một phần do lớp trẻ đó. Văn là người. Giáo dục tạo tính cách. Tính cách của một người có thể ảnh hưởng tới những người xung quanh, thậm chí tính cách còn có thể tạo nên số phận
con người.

Ca dao nói: “Ai ơi, đừng lấy học trò – Dài lưng, tốn vải, ăn no lại nằm”. Ôi chao, sao mà “tệ” vậy! Chẳng lẽ “cái học” ngày nay đã “hỏng” rồi chăng? Người ta không còn muốn “cái chữ” chất đầy “cái bụng” rồi ư?

Thầy cô là những người giáo dục, mệnh danh là nhà mô phạm, gọi chung là “người thầy”, rất cần thiết đối với xã hội và đất nước. Người Việt chúng ta thường nói: “Thầy nào, trò nấy”. Thầy đàng hoàng thì trò lễ phép, thầy giỏi thì trò khá. “Gần mực thì đen, gần đèn thì
rạng” là điều tất yếu. Có “lương sư” thì mới có “hưng quốc”. Người thầy cần như vậy mà ngày nay không được coi trọng. Tiền bạc không là gì, nhưng đó là cái cơ bản nhất để người thầy sinh sống, thế mà lương không đủ sống thì làm sao còn tâm trí mà chuyên tâm giáo dục?

Hồi học lớp Năm (ngày xưa gọi là lớp Nhất), người thầy của tôi chỉ dạy tiểu học mà có thể lo đầy đủ cho vợ và 10 đứa con, con lớn của ông còn trở thành bác sĩ. Điều đó cho thấy gia đình ông đủ sống nhờ đồng lương của ông, và ông cũng thoải mái mà lo việc dạy học. Còn ngày nay, chúng ta đừng e ngại hoặc che giấu sự thật, mà phải can đảm chấp nhận một thực tế phũ phàng là “40% giáo viên cho rằng nếu được chọn lại nghề, họ sẽ không theo nghề sư
phạm
”, như báo Tuổi Trẻ cho biết. Có vậy thì chúng ta mới có thể vực dậy nền giáo dục của nước nhà. Dục Tử nói chí lý: “Biết đúng mà không theo là dại, biết sai mà không sửa là mê”. Cái “mê” nguy hiểm hơn cái “sai”. Còn Khổng Tử xác định: “Có lỗi mà không sửa mới thành ra có lỗi”.

LÀM SAO ĐỂ NGƯỜI THẦY YÊU NGHỀ GIÁO?

Một câu hỏi vừa dễ vừa khó! Thiết tưởng, trước tiên người thầy phải có “cái tâm”, tức là yêu nghề và quan tâm vấn đề “hoàn thiện con người” như Chúa Giêsu dạy: “Hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5:48). Con người càng ngày càng lương thiện thì tội phạm cũng giảm theo. Nghề gì cũng vậy, không thích thì không thể
tận tụy với nghề, muốn thích thì phải hiểu biết tường tận: “Vô tri bất mộ”.

Cũng vậy, người thầy không yêu nghề và không muốn truyền đạt cho thế hệ sau những điều tốt – cả kiến thức và đạo đức, thì đó chỉ là người thầy giả danh. Song song với điều này, người thầy còn cần an tâm về mức lương, không phải đắn đo việc “làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm, làm thêm giờ nghỉ”, không phải dạy phụ đạo hoặc dạy thêm, không phải chạy theo thành tích, không bị so sánh trong việc dạy trường bình thường hoặc dạy trường điểm,
trường chuyên.

Nghề giáo là nghề cao cả vì được gọi là “kỹ sư tâm hồn”. Người thầy muốn bỏ nghề vì bị nhiều áp lực, kể cả việc không còn “tôn sư trọng đạo”, vì không vững lập trường, và bị tác động quá nhiều bởi ngoại tại. Người thầy mà thiếu lập trường, không có quan điểm rõ ràng thì làm sao có thể dạy học trò thành tài, chứ đừng nói thành nhân? Mà “thành nhân” quan trọng hơn “thành tài”. Thiết tưởng, muốn yêu nghề giáo thì người thầy phải tự kiểm điểm bản thân, tái củng cố lập trường và có lòng yêu thương thực sự.

PHỤ HUYNH CÓ NÊN GIÚP NGƯỜI THẦY YÊU NGHỀ GIÁO?

Lại một vấn đề nan giải hơn! Cha mẹ là những người thầy đầu tiên của mỗi con người, nhất là người mẹ. Chắc hẳn cha mẹ cũng có chút kinh nghiệm trong việc giáo dục. Tuy nhiên, việc giúp quý thầy cô yêu nghề là điều không đơn giản, thậm chí còn nhiêu khê!

Dù không có kinh nghiệm trong việc giáo dục con cái, nhưng theo thiển ý của tôi, trước tiên phụ huynh phải tôn trọng thầy cô để con cái nhận thức đúng về việc “tôn sư trọng đạo”. Học nhiều hay ít, học giỏi hay kém thì vẫn phải học đạo làm người, vì tục ngữ phân định: “Tiên học lễ, hậu học văn”. Cái “lễ” vẫn quan trọng hơn cái “văn”. Nhưng có lẽ người ta đã quá coi trọng bằng cấp, coi trọng bề ngoài, coi trọng cái “lượng” hơn cái “phẩm”, như người “tham đó, bỏ đăng”, thế nên hậu quả đã và đang xảy ra “nhãn tiền” khi ai cũng than phiền là “đạo đức xuống cấp!

Được phụ huynh thương, được học trò yêu, người thầy có thể như được tiếp sức mạnh để quyết định “tất cả vì học sinh thân yêu”. Nhưng cũng phải nói thẳng rằng “thầy phải ra thầy”, thầy không ra thầy thì không thể trách người khác không tôn trọng mình. “Lương sư hưng quốc” nghĩa là người thầy phải lương thiện và chân chính thì mới khả dĩ giáo dục thế hệ con em trở thành những công dân tốt, nhờ có những công dân tốt thì đất nước mới hưng thịnh. Công dân tốt cũng là Kitô hữu tốt, và Kitô hữu tốt cũng là công dân tốt, nhờ đó mà
Giáo hội càng ngày càng tốt đẹp và thánh thiện theo đúng ý Đức Kitô.

Ngoài ra, phụ huynh cũng nên thường xuyên trao đổi tâm sự và chia sẻ với giáo viên như những người bạn, để có thể thông cảm lẫn nhau và nâng đỡ nhau khi gặp khó khăn trong việc giáo dục, nhất là đối với những “ngựa chứng trong sân trường”.

Có nhiều dịp bàn luận và rút ra được kinh nghiệm nào là ưu điểm hoặc khuyết điểm, rồi cùng nhau hành động tốt hơn hoặc kịp thời chấn chỉnh. Hai bên không nên “đùn đẩy” hoặc giao “trọn gói” cho nhau. Mỗi bên đều có trách nhiệm giáo dục chung.

VĨ NGÔN

Cuộc đời ai cũng phải học nhiều thứ, học không ngừng. Người thầy không chỉ dạy về kiến thức, mà quan trọng hơn phải là dạy làm người, nghĩa là cách sống nhân bản, tích cực sống đạo đức của một con người. Chúng ta không chỉ học ở trường học, mà còn phải học thêm nhiều ở trường đời, đặc biệt là trường tâm linh. Chúa Giêsu là Đại Giáo Sư của Trường Tâm Linh. Bài học của Ngài dễ học và dễ thuộc, nhưng không dễ thực hành: Yêu thương. Học đến chết vẫn chưa thông suốt “bài học yêu”. Muốn thông suốt thì chỉ có nước theo cách thức
của Chúa Giêsu dạy: “Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm
nhường”
(Mt 11:29).

Chúc các học sinh và sinh viên biết nỗ lực học tập để hữu ích trước tiên cho bản thân, cho gia đình, sau đó là cho xã hội, cho đất nước, cho Giáo hội. Chúc quý thầy, cô biết tận tụy với công việc cao quý nhưng cũng đầy trách nhiệm, và chúc quý phụ huynh tích cực cộng tác giáo dục con em thành nhân.

TRẦM THIÊN THU

nguồn: từ Maria Thanh Mai gởi

Vượt qua chính mình

Vượt qua chính mình

Tác giả: TRẦM THIÊN THU

Đăng bởi pleikly
lúc 12:16 Sáng 8/09/12

VRNs
(08.09.2012) – CatholicHerald – Đây là câu chuyện thật “đầy xương máu”
của Matthêu Fradd, 28 tuổi. Chúng ta cùng rút ra bài học riêng khi đọc chuyện
đời anh trong việc chiến thắng tật “nghiện phim tươi mát”, và anh muốn giúp
người khác cũng có thể chiến thắng tật xấu như vậy. Thiết tưởng, câu chuyện của
anh có ích lợi cho chúng ta trong cuộc sống.

Matthêu Fradd bắt đầu xem phim “tươi mát” từ khi anh 8 tuổi. Anh thấy một tạp chí ở nhà
kho của một người bà con và anh bị nó “quyến rũ”. Anh cứ loanh quanh tìm điều
gì đó tương tự, và lúc anh 11 hoặc 12 tuổi, anh và một người bạn đi ăn cắp báo
ở mấy quầy báo và ở các cây xăng. Đó là những tờ báo Playboy (tay ăn chơi) hoặc
Penthouse (nhà thổ, nhà điếm). Fradd lợi dụng lúc người ta không để ý thì anh
lấy giấu trong áo.

Đó là câu chuyện mà anh kể nhiều lần trên đài truyền hình và đài phát thanh, kể
cho nhiều người ởCanada, Ai-len và Mỹ. Anh làm vậy vì anh cho rằng hình ảnh khiêu
dâm vô hại, nhưng ma quỷ dùng nó để làm mất khả năng yêu thương của con người.
Anh nói rằng nó làm suy nhược nam giới và làm thoái hóa nữ giới.

Anh và vợ là Cameron cùng con gái sống ở Ottawa, Canada. Anh nói rằng bước ngoặt
đời anh là Ngày Giới Trẻ 2000 ở Rôma. Lúc đó anh hoàn toàn không biết về tình
trạng của mình và càng đi lễ ít càng tốt. Khi diễn ra Đại hội Giới trẻ, anh bị
thu hút bởi chuyến đi tới Âu châu. Anh nói: “Tư tưởng đó lớn dần theo đức
tin hoặc khám phá Chúa Giêsu hoặc lắng nghe ĐGH nói. Thật lòng thì tôi cũng
không ham thích”.

Anh bị thuyết phục bởi các thanh niên khác trên máy bay. Anh nói: “Tôi chưa bao
giờ gặp các Kitô hữu trẻ thực sự tin vào niềm tin của họ, họ sống ngoài giáo
huấn của giáo hội về mọi thứ, kể cả về giới tính. Tôi chưa gặp những người bình
thường như vậy. Không chỉ bình thường mà rất lạnh nhạt, nhưng tự tin”
.

Anh bắt đầu cầu nguyện xin một dấu chỉ có Thiên Chúa hiện hữu. Trước đó lâu, có vẻ
như lời cầu nguyện của anh được đáp lại. Anh cho biết: “Tôi chưa bao giờ cảm
thấy vui như vậy. Tôi chỉ có cảm giác tràn ngập là Thiên Chúa có thật, Ngài yêu
thương tôi, và nếu đó là sự thật thì điều đó thay đổi mọi thứ được bao nhiêu?
Đó là quá trình tiệm tiến của sự thánh hóa”
.

Anh nhận nhiều lời khuyên về hình ảnh khiêu dâm từ các linh mục. Một số người nói
với anh rằng đó là “sự chuẩn bị khủng khiếp đối với hôn nhân”, những người khác
nói đó chỉ là “sự giải trí lành mạnh đối với giới trẻ” (Fradd cảm thấy cách nói
này không thỏa mãn).

Anh bỏ một thời gian không xem hình ảnh đồi trụy. Anh gia nhập Bộ quản lý mạng ở
Canada, và đi làm công tác đạo đức trong nước suốt một năm. Anh kết hôn năm
2006. Lúc này anh “không phải chống trả nhiều mà chỉ thi thoảng”. Anh đã sa ngã
tồi tệ. Anh nói: “Khi vợ tôi đọc Kinh thánh với các phụ nữ khác, nói với họ
về phẩm cách phụ nữ, thì tôi xem hình ảnh tươi mát”
.

Anh nói anh cảm thấy “rất xấu hổ”, và anh nói với linh mục giải tội rằng anh “yếu
đuối và mệt mỏi” vì cứ tái phạm hoài. Vị linh mục đề nghị anh xin Đức Trinh nữ
Maria trợ giúp. Anh không tin sẽ tác dụng nhưng anh nghĩ cứ thử xem sao. Anh
tâm sự: “Từ hôm đó, tôi đọc kinh Mân Côi và cầu nguyện theo ý đó. Sau mỗi chục
kinh Mân Côi, tôi nâng chuỗi Mân Côi lên trên đầu như sợi xích ở hai tay và
nói: “Lạy Đức Mẹ, xin nhận xâu chuỗi của Mẹ, bây giờ con lột bỏ xiềng xích
của lòng ham muốn đê hèn”
. Cuối cùng anh cảm thấy “cơn nghiện bỏ đi”. Và
anh đã bỏ được tật xấu đó mãi mãi.

Matthêu Fradd nói thêm: “Điều đó không xảy ra qua đêm, tôi không có ý nói nó không thể
nào lại xảy ra. Sự thuần khiết là cuộc chiến thường nhật. Nó không là đích để
bạn đạt tới và bạn tỉnh thức nghĩ rằng: Ồ, tôi thuần khiết rồi. Là một
Kitô hữu, sự thuần khiết không là đích đến, Nước Trời mới là đích đến”.

Chỉ vài tháng sau, Fradd không biết có thể giúp người khác bằng cách nào khi họ
phải đấu tranh như mình. Anh thu băng lời nói và tung lên các trang mạng “rẻ
tiền” mà anh đã từng xem. Anh được nhiều người trên thế giới trao đổi qua
e-mail.

Năm 2009, một linh mục cho anh 12.000 USD để chuyển trang ThePornEffect.com
thành cái gì đó “sạch sẽ” và chuyên nghiệp. Hiện nay, trang này mỗi ngày có
khoảng 7.000 lượt truy cập, có những bài viết và phỏng vấn những người đã làm
về công nghệ phim ảnh khiêu dâm, kể cả Donny Pauling (một cựu nhà xuất bản báo
Playboy), và April Garris (một cựu diễn viên đóng phim tươi mát).

Trang này cũng có diễn đàn “The Revolution” (Cách mạng), dành cho những người đang
muốn “vượt qua chính mình”, với những câu chuyện chiến thắng chính mình của
những người đã bỏ được thói xấu đó và mục “battle cry” (cuộc chiến nước mắt)
của những người đang giữa đường chiến đấu. Trang này gây xúc động và tự
thuật: Đọc để cảm nghiệm.

Fradd khuyên người ta nên chân thật và thừa nhận rằng những người đi nhà thờ vẫn có
thể nghiện xem hình ảnh tươi mát. Anh nói: “Những người ngồi kế tôi trong
nhà thờ có thể không tin có vấn đề về phim ảnh khiêu dâm, có thể họ cũng xem và
nghiện”
. Có những người “dị ứng” khi nói về phim ảnh khiêu dâm. Fradd bây
giờ cũng vậy.

Anh nhận ra rằng “quỷ dâm dục” không dễ triệt nếu không cẩn trọng. Anh tổ chức
những buổi họp mặt tại các quán bar hoặc CLB nhạc jazz để nói chuyện về công
nghệ phim ảnh dồi trụy. Có khi anh phỏng vấn Garris hoặc Pauling trên sân khấu.
Anh nói: “Mọi người có thể đến một môi trường lãnh đạm, mua ít rượu và chỉ
để nghe nói chuyện… Đó là cách Phúc âm hóa cũng thuyết phục được 50%”
.

Từ kinh nghiệm thực tế của mình, Fradd khuyên ăn chay, chầu Thánh Thể và lần chuỗi
Mân Côi. Anh nói: “Nếu không thể khước từ một miếng bánh, một ly cà-phê, thì
làm sao có thể cưỡng lại cơn cám dỗ về phim ảnh tươi mát? Cầu nguyện mà không
ăn chay cũng giống như đấu quyền anh với hai tay bị trói phía sau lưng vậy, và
ăn chay mà không cầu nguyện chỉ như ăn kiêng mà thôi”
.

Vấn đề không phải là xem hay không xem phim ảnh xấu, mà là cố gắng hoàn thiện và
nên thánh. Fradd nói thêm: “Chúng ta muốn là loại người đó thì khi chúng ta
chết, ma quỷ sẽ mở tiệc ăn mừng. Nó sẽ nói: Cảm ơn Chúa đã đi xa. Tôi không
muốn ma quỷ ăn mừng, và tôi nghĩ chắc hẳn các bạn cũng muốn như tôi”
.

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ CatholicHerald.co.uk)

 

Xưng tội, Rước Lễ lần đầu của cháu ngoại.

Xưng tội, Rước Lễ lần đầu của cháu ngoại

Tác giả: Phùng văn Phụng 

http://translate.google.com/translate?hl=en&sl=vi&tl=en&u=http%3A%2F%2Fkeditim.net

  

Colby xúng xính trong bộ đồng phục quần dài đen, áo sơ mi trắng, có thắt nơ đỏ ở cổ áo. Con gái mặc đầm, đội khăn lúp trên đầu. Các cháu vui vẻ, hân hoan, nói cười ríu rít, trong khi các cô giáo lăn xăn, sắp xếp chỗ ngồi cho các em. Các em thực tập đọc bài đọc 1 và 2 cũng như đọc lời cám ơn quý Cha, quý thầy cô và cha mẹ, ông bà. Năm nay khoảng một trăm bảy mươi em xưng tội, rước lễ lần đầu. 

Các cháu trai ngồi bên phải, các cháu gái ngồi bên trái. Nhìn các cháu tuởng chừng như những “thiên thần bé nhỏ”. Khi rước lễ, theo sự hướng dẫn của thầy cô, từ trong hàng ghế, thứ tự đi ra đứng hàng dọc, chầm chậm đi lên gần cung thánh để được rước lễ lần đầu.

 Colby năm nay vừa đã được 9 tuổi là tuổi xưng tội, rước lễ lần đầu. Mỗi tuần ông ngoại đều chở hai cháu ngoại đi nhà thờ vì hai ngày cuối tuần hai cháu ngoại ở với ông bà ngoại để đi học đàn Piano, học Giáo lý, Việt ngữ ở Giáo xứ Đức Kitô Ngôi Lời Nhập thể

Trọn ngày thứ bảy, khi các em tĩnh tâm từ 8 giờ sáng cho đến ba giờ chiều thì phụ huynh cũng được hướng dẫn đến hội trường để tìm hiểu cách xưng tội để giúp con em mình.

Năm nay các cháu phải học thuộc Kinh Lạy Cha, Kinh Kính Mừng và Kinh Sáng Danh, Kinh 10 điều răn và Kinh ăn năn tội. Colby đọc thuộc lòng bằng tiếng Việt  Kinh Lạy Cha, Kinh Kính Mừng, Kinh Sáng Danh và Kinh 10 điều răn nhưng tới Kinh ăn năn tội thì Colby chỉ đọc thuộc lòng bằng tiếng Mỹ mà thôi.

Mỗi thứ bảy cháu về sống với ông bà ngoại. Ông ngoại tập dạy thêm cho Colby kinh 10 điều răn trước khi ngủ. Vậy mà hơn hai tháng cháu mới thuộc hết kinh 10 điều  răn. Còn Kinh ăn năn tội mặc dầu dạy cho Colby tiếng Việt nhưng Colby không thể đọc trọn câu kinh bằng tiếng Việt được. Colby được học cách:

 Xét mình

 Ăn năn tội  Dốc lòng chừa

 Xưng tội

 Đền tội.

Trong hội trường có nhiều phòng mỗi phòng có các Cha ngồi chờ các cháu vào xưng tội. Tất cả các em cùng lớp với Colby ngồi thứ tự theo hàng dọc, ngay ngắn trước phòng bên phải của hội trường chờ đợi xưng tội. Tôi đứng gần đó để chờ xem thái độ của Colby ra sao?

Sau khi xưng tội xong, Colby đi ra nắm tay ông ngoại kéo đến phòng Đền tội.

Phòng đền tội là một phòng tối ở bên phải của trường “Mẫu Tâm”. Cuối phòng có để bàn thờ Chúa chịu nạn, trên tường đèn thật sáng chiếu vào hình Chúa chịu nạn.

Colby quỳ xuống hai bàn tay chấp lại trước ngực, đọc kinh Lạy Cha. Ông ngoại cũng quỳ với cháu ngoại nghe cháu ngoại đọc kinh. Sau khi đọc kinh xong cháu đứng dậy cúi đầu và kéo ông ngoại ra khỏi phòng.

Xưng tội là làm hòa với Thiên Chúa thông qua Linh mục đại diện Chúa lắng nghe lời thú tội của hối nhân, để hướng dẫn, “advise” để con người trở lại thân thiết với Chúa, gần gủi Chúa hơn và cũng từ đó kết hợp với mọi người.

Cháu được rước lễ là được gặp gỡ Chúa trong mình Thánh Chúa để được thánh hóa, được ơn nghĩa Chúa trong đời này lẫn đời sau.

Cảm tưởng của ông bà, cha mẹ khi con cháu được rước lễ lần đầu thật vô cùng sung sướng và cảm động vì cháu đã lớn, đã biết phân biệt tội lỗi, được rước Mình Máu Thánh Chúa, được gần gũi Chúa, biết yêu mến Chúa và được Chúa yêu thương. Thiên Chúa sẽ hướng dẫn chăm lo cho đời sống hàng ngày của các cháu, cũng như các cháu biết tin tưởng  vào Thiên Chúa toàn năng. 

Bà nội(người thứ ba bên trái) kế là Michelle (chị của Colby) Colby (áo trắng, thắt nơ đỏ)

ở truớc nhà thờ Ngôi lời Nhập Thể

Xin cám ơn cô giáo Thảo, các thầy cô đã bỏ rất nhiều thì giờ công sức trong  nhiều năm qua để hướng dẫn dạy dỗ tiếng Việt và giáo lý cho các cháu để các cháu không quên cội nguồn là người Việt nam và biết kính Chúa, yêu người ngay từ thời còn nhỏ.

Phùng văn Phụng

 Ngày 05 tháng 06 năm 2010

HAI BỨC HÌNH

HAI BỨC HÌNH

THẬT ĐAU LÒNG!
XIN CHUA XÓT THƯƠNG!

Chỉ cần nhìn 2 bức hình thấy thấm thía cho kiếp con người.

Hai hình ảnh thu hút hàng ngàn lượt bình luận trong thời gian ngắn.


Một bức chụp một đứa trẻ bị bỏ rơi, cuốn bao quanh thân hình bằng một tấm vải mỏng. Em được đặt trên trụ của lan can đường trong tình trạng côn trùng bò kín khắp người.

 

Cư dân mạng đang share hình ảnh đau lòng “một đứa trẻ bị bỏ rơi” khiến những người nhìn vào thật đau xót. (Nguồn: Facebook) Bức ảnh xuất hiện trên facebook vào 16h chiều ngày 11/8, ngay lập tức đã thu hút sự quan tâm của hàng ngàn người với những lời bình luận bày tỏ sự thương xót. Bạn trẻ có nickname Quỳnh Quắn Quít bày tỏ: “khổ thân đứa bé quá!”. Bạn Carolyn Le xúc động: “Nhìn xong muốn nổi da gà. Tội nghiệp bé!”. Cũng nhiều ý kiến phẫn nộ. Nickname Tiểu Xà viết : “Mong em sớm được siêu thoát. Thay mặt bố mẹ những người vô trách nhiệm với em, chị xin lỗi vì cảm thấy quá nhục nhã … Ngoài những “like” những “comment” thì chị không biết làm gì hơn là lời hứa sẽ không bao giờ biến mình thành người mẹ vô trách nhiệm … Rồi em sẽ là 1 thiên thần”. Nick name Lệ Hằng tỏ ra bất bình: “Niềm hạnh phúc của phụ nữ là đựợc làm mẹ, thế mà người mẹ này lại bỏ đi đứa con mà mình mang nặng đẻ đau ra nó. Người mẹ này là người thật nhẫn tâm và ác độc”… Bức ảnh thứ hai đăng tải ngày 14/8 trên mạng xã hội face book cũng gây xúc động đến rơi nước mắt.

 

Một bức ảnh cảm động rơi nước mắt. (Nguồn: Facebook) Bức ảnh được đăng lên chưa đầy 11 giờ mà đã nhận được hơn một ngàn lượt “like” và bình luận. Trong bức ảnh, theo nhiều người đó là một người đàn ông trung niên cõng người mẹ già của mình lên chùa thắp hương. Bức ảnh đã lay động tình mẫu tử của nhiều bạn trẻ. Nickname Rau Khoai viết: “Mẹ không có cánh, không vòng thánh. Nhưng trong mắt con mẹ vẫn là thiên thần.” Trong hàng ngàn lượt bình luận, câu nói được thốt lên nhiều nhất là: Con yêu mẹ! Con xin lỗi mẹ! Đây là cơ hội để nhiều bạn bầy tỏ tình cảm của mình với mẹ. Đôi khi chỉ là một câu nói mà chưa chắc ai cũng có thể nói ra. HaLy Phú tâm sự: “Thật tuyệt vời! Nhưng, rất ít người có thể nói được câu nói: “Con yêu mẹ”. Mình cũng chưa nói được.” Hai bức ảnh, hai hoàn cảnh hoàn toàn khác nhau, nhưng nó đều là tình mẫu tử nói riêng, và là tình người nói chung. Khi xã hội càng phát triển thì những tình cảm tốt đẹp của con người ngày càng bị bụi bặm của cuộc sống che lấp. Nhìn lại hai bức ảnh và có những khoảng lặng cho riêng mình, ta sẽ ngỡ ra nhiều điều…   

 Nhật Linh

 nguồn: Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

CHÂN PHƯỚC TÊRÊSA CALCUTTA NỮ TU (1910-1997)

 CHÂN PHƯỚC TÊRÊSA CALCUTTA NỮ TU (1910-1997)

 NGÀY 05 – 09

 

Mẹ Têrêsa Calcutta là một phụ nữ nhỏ bé về thể lý nhưng đã được cả thế giới nhận biết qua hành động yêu thương của Mẹ đối với những con người nghèo khổ nhất trong các người nghèo. 

Mẹ sinh tại Albani (nay là Skopje), Macedonia, lúc đó là một phần của đế quốc Ottoman. Tên thật của Mẹ là Agnes Gonxha Bojaxhiu, là con út trong 3 người con. Gia đình có một thời gian sống khá thoải mái nhờ công việc xây dựng của người cha phát đạt. Nhưng cuộc sống hoàn toàn thay đổi sau khi người cha đột ngột qua đời.

Trong những năm còn đi học, Mẹ Têrêsa tham gia một Hội Tương tế Công giáo và thích đi truyền giáo ở ngoại quốc. Lúc 18 tuổi, Mẹ vào Dòng nữ Loreto ở Dublin. 

Năm 1928, cô Agnes từ giã mẹ ruột lần cuối và đi tới miền đất mới với cuộc sống mới. Năm sau, cô Agnes được vào nhà tập ở Darjeeling, Ấn Độ. Từ đó cô lấy tên Têrêsa và chuẩn bị cho đời sống phục vụ. Cô được sai tới một trường nữ trung học ở Calcutta để dạy lịch sử và địa lý cho các nữ sinh con nhà giàu. Cô không thể không chú ý tới xung quanh là dân nghèo, khổ sở, cơ cực. Những hình ảnh đói nghèo bệnh tật đó cứ theo cô mãi. 



 

Năm 1946, khi đi xe lửa tới Darjeeling để cấm phòng, nữ tu Têrêsa nghe được điều mà về sau Mẹ giải thích là “ơn gọi trong ơn gọi”. Mẹ kể: “Sứ điệp rõ ràng. Tôi phải rời tu viện để giúp đỡ người nghèo khi sống giữa họ”. Vì Mẹ nghe tiếng gọi rời khỏi Dòng nữ Loreto để “theo Chúa Kitô đến những khu nhà ổ chuột để phục vụ Ngài giữa những người nghèo nhất trong những người nghèo”. 

  Sau khi được phép rời Dòng Loreto, Sơ TÊRÊSA lập một dòng mới và đảm trách công việc mới. Sơ học y tá vài tháng rồi trở lại Calcutta, tại đây Sơ sống trong những khu nhà ổ chuột và mở trường học cho trẻ em. Mặc sari trắng (sari là trang phục phụ nữ thường nhật cũa người dân Ấn Độ) và đi dép, Sơ mau chóng được người ta biết là một bà tốt bụng, hàng xóm của họ – nhất là những người nghèo và bệnh tật, Sơ biết nhu cầu của họ qua những lần thăm viếng họ. Sơ chọn Sari là thường phục và cũng là tu phục của dòng. 

Công việc mệt nhọc, nhưng Mẹ được nhiều người tình nguyện tới giúp, một số là học sinh cũ của Mẹ, và đó là những người nòng cốt của Dòng Truyền giáo Bác ái._ Những người khác giúp đỡ bằng cách cho lương thực, quần áo, đồ dùng, nhà cửa,… 

 

Năm 1952, thành phố Calcutta tặng Mẹ một cơ sở cũ, Mẹ dùng làm nhà cho những người hấp hối và nghèo khổ. Khi dòng phát triển nhiều, dòng còn phục vụ các trẻ mồ côi, các trẻ bị bỏ rơi, người nghiện rượu, người già và những người vô gia cư.

 Trong hơn bốn mươi năm, bà chăm sóc người nghèo, bệnh tật, trẻ mồ côi, người hấp hối, trong khi hoàn tất nhiệm vụ lãnh đạo dòng tu phát triển khắp Ấn Độ, và đến các quốc gia khác.

 
Năm 1970, Mẹ Teresa trở nên một nhân vật nổi tiếng thế giới với các hoạt động nhân đạo cứu giúp người nghèo và những người sống trong hoàn cảnh tuyệt vọng. Một phần người ta biết rõ hơn về Mẹ cũng là nhờ một quyển sách và cuốn phim tài liệu tựa đề Something Beautiful for God của Malcome Muggeridge. Mẹ được trao Gải Nobel Hòa Bình năm 1979 một sự vinh danh cho các hoạt động nhân đạo của Mẹ.  
Dòng Thừa sai Bác ái của Mẹ Teresa tiếp tục phát triển, đến thời điểm Mẹ từ trần, tổ chức từ thiện dồng tu của Mẹ đang điều hành 610 cơ sở truyền giáo tại 123 quốc gia, trong đó có các nhà trọ và nhà tình thương cho người mắc bệnh HIV/AIDS, cũng như bệnh nhân phong hủi, và lao. Các bếp ăn từ thiện, các chương trình tư vấn cho gia đình và trẻ em, các trại mồ côi, và trường học. 

 


Me được mời giảng cho Hội Đồng Giám Mục Thế Giới 

Nhưng Thiên Chúa đã gọi Mẹ ra về vào ngày 5-9-1997. Nước Ấn Độ đã làm Quốc Tang cho Mẹ. Mẹ đã được cả thế giới ngưởng mộ kính yêu, và thương tiếc 



Ngày 19-10-2003, trong một nghi thức của giáo hội, chân phước GH Gioan Phaolô II đã tuyên bố Mẹ Têrêsa là chân phước trước 300.000 khách hành hương tại quảng trường Thánh Phêrô, trong đó có hàng trăm nữ tu Dòng Truyền giáo Bác ái (Missionaries of Charity) mà chính Mẹ đã thành lập năm 1950 (thuộc dòng giáo phận). Ngày nay dòng còn phát triển thêm các dòng chiêm niệm nam và nữ, có cả dòng cho các linh mục. 



Trong bài giảng, CP GH Gioan Phaolô II đã gọi Mẹ têrêsa là “một trong những nhân cách xứng đáng của thời đại chúng ta” và là “hình ảnh của người Samari nhân hậu”. Ngài nói rằng cuộc đời của Mẹ Têrêsa là “bản tuyên ngôn can đảm của Phúc âm”. Mẹ Têrêsa được phong chân phước chỉ sau 6 năm Mẹ qua đời. 

TS. sơ lược

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

Nhân chứng sống của Lòng Chúa Thương Xót

Nhân chứng sống của Lòng Chúa Thương Xót

                                                                      tác giả:  TRẦM THIÊN THU

http://translate.google.com/translate?hl=en&sl=vi&tl=en&u=http%3A%2F%2Fkeditim.net

 

 Đây là câu chuyện có thật đã xảy ra với một người đàn ông Phi-luật-tân, rồi ông đã bỏ tất cả mọi sự và đi khắp nơi để làm chứng về Lòng Chúa Thương Xót (LCTX). Mời quý vị cùng đọc để hiểu và cảm nhận điều kỳ diệu…
Có sự hứng thú và kinh ngạc vào sáng ngày 2-3-1993 tại bệnh viện Chong Hua, TP Cebu (Phi-luật-tân). Một người đàn ông tên là Stanley Villavicencio đã chết lâm sàng, nhưng bỗng dưng ngồi bật dậy và tự tay rút ống trợ thở ra khỏi mũi, rồi bước đi như người bình thường.
Trước đó 3 ngày, tim ông đã ngừng đập, da đã tái nhợt từ đầu đến chân, và các cơ phận không còn dấu hiệu của sự sống. Các bác sĩ xác nhận ông không còn dấu hiệu của sự sống. Do đó gia đình đã chuẩn bị lo hậu sự, và sẽ an táng ông tại nghĩa trang Queen City Garden.
Nhưng ông Stanley sống lại! Mọi người kinh sợ và chạy tán loạn. Ai cũng ríu người lại, kể cả vợ ông!
Từ sự chết đến sự sống
Điều gì đã xảy ra? Khi ông chết lâm sàng (chính xác là 3 ngày), ông Stanley cho biết ông đã gặp Chúa Giêsu. Ông nói rằng Chúa Giêsu mặc áo dài trắng sáng và ngực phát ra những tia sáng chói. Chúa cho ông thấy một màn hình lớn chiếu cuộc đời ông phát sáng. Khi ông làm điều gì sai thì “phim” chạy chậm lại, rõ từng chi tiết điều sai trái. Ông thấy Nhà nguyện Thánh Tâm bị người ta dùng làm nơi cờ bạc và rượu chè. Ông kể: “Một cận cảnh lớn về việc ham ăn ham uống của tôi được chiếu rõ trên màn hình!”. Sau đó ông nói: “Tại sao có cảnh này? Hẳn là trên trời không có ban kiểm duyệt vì nhìn rất xấu, nhưng dù tôi nhắm mắt cũng vẫn thấy cảnh đó”.
Một lúc sau, Chúa Giêsu nói: “Hãy trở lại đó vì con vẫn còn nhiều việc phải làm. Nếu có sứ điệp nào cho con, Ta sẽ hiện ra với con trong giấc mơ”. Vì thế, sau 3 ngày, ông Stanley trở lại từ kẻ chết. Nhưng từ lúc đó, cuộc đời ông không như vậy nữa.
Ông đã bỏ làm việc ở Aviation Security Command (AVSECOM) để bước theo tiếng gọi của Chúa Giêsu. Một quyết định khó khăn lúc đó, vì ông có tới 10 đứa con – trong đó ông có 3 con nuôi.
Truyền bá Lòng Chúa Thương Xót
Qua giấc mơ và đặc ngữ nội tâm, Chúa Giêsu đã hướng dẫn ông Stanley truyền bá việc sùng kính Lòng LCTX. Ông đã có hơn 30 lần gặp hoặc nói chuyện với Chúa. Chúa Giêsu đã nói với ông: “Này con, con sẽ làm chứng về lần đến cuối cùng của Ta”.
Trường hợp của ông Stanley đã được Giáo hội điều tra và đã được công nhận là xác thực (declared authentic). Ông được sự giúp đỡ của ĐHY Ricardo Vidal và Đức ông Cristobal Garcia của GP Cebu, Đức ông Cristobal Garcia linh hướng cho ông.
Từ một người bình thường và sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, ông Stanley đã đi khắp thế giới để nói về LCTX. Ngoài các quốc gia ông tới, ông đã được mời tới Hoa Kỳ, Anh quốc, Ai-len, Hong Kong, Macau, và Trung quốc. Ông tới các nhà thờ và kết quả có nhiều người được chữa lành bệnh, thậm chí là có phép lạ xảy ra. Ông cũng đã làm nhân chứng trước mặt các hồng y và các giám mục tại Tòa Thánh.
Trong thư gởi ĐHY Vidal đề ngày 25-11-2001, Trevor Collett ở miền Bắc Anh quốc đã viết về điều kỳ diệu từ buổi nói chuyện của ông Stanley. Trong thư có đoạn viết:
“Lúc 3 giờ chiều, nhiều người đứng dậy cùng cầu nguyện với LCTX. Có một phụ nữ đã bỏ xưng tội 50 năm. Sau khi nghe ông Stanley nói chuyện, phụ nữ này rất vui mừng và quyết định xưng tội vào ngày hôm sau! Có nhiều người khác đã rước lễ nhiều năm mà không xưng tội đúng cách, thậm chí có một số người còn phá thai, nhưng sau khi nghe ông Stanley làm chứng, ai cũng quyết định xưng tội vào thời gian sớm nhất. Các phụ nữ trẻ đã có ý định phá thai nhưng lại đổi ý và giữ lại đứa con. Một người đàn ông Mỹ đã “săn” ông Stanley khắp nơi trên đất Hoa Kỳ và Ai-len, nay mới gặp được ông Stanley tại Birmingham (Anh quốc) nên quá đỗi vui mừng”.
Ông Stanley đã đến nhiều tỉnh tại Phi-luật-tân. Trong số những người đầu tiên trở lại Công giáo nhờ kinh nghiệm “sống lại” của ông là một bác sĩ đã chứng kiến ông chết lâm sàng 3 ngày. Bác sĩ này là người theo dõi bệnh trạng của ông. Sau đó, bác sĩ này vào tu trong chủng viện và đã thụ phong linh mục.
Phúc cho ai có lòng tin!
Một lần ông Stanley đến nhà thờ giáo xứ Đức Mẹ Dâng Chúa Giêsu ở BF Homes Parañaque ngay trước Tuần Thánh. Ông đã thu hút người nghe bằng sự chân thật và thẳng thắn. Có những lần ông nói với nhiều người tội lỗi rằng họ có thể cảm thấy sức mạnh và quyền năng của Chúa trong con người khiêm nhường và bình thường. Ông nói: “Nhà thờ này là nơi thứ 4.779 tôi đã làm chứng về LCTX”. Trong khi hỏi đáp, một bé gái hỏi ông rằng Chúa Giêsu nhìn thế nào. Ông nói: “Guwapong-gwapo!” (rất đẹp trai).
Thánh Faustina đã từng bật khóc khi nhìn thấy Chúa Giêsu, linh ảnh LCTX được vẽ lại theo hướng dẫn của Chị. Thánh Faustina nói với Chúa Giêsu: “Ai sẽ vẽ Chúa đẹp như chính Chúa?”. Ngài trả lời: “Không phải là đẹp về màu sắc hoặc hình ảnh, mà là vẻ đẹp của chính ân sủng”.
Các thánh đã bỏ mọi sự mà theo Chúa khi các ngài thấy được Vẻ Uy Nghi của Chúa. Những cuộc gặp gỡ siêu nhiên đó đã làm cho các ngài thành những con người khác thường. Nhưng đa số đều là những con người bình thường. Chúng ta có cần gặp riêng Chúa Giêsu hoặc trải nghiệm khác thường trước khi chúng ta quyết định thay đổi cách sống hay không?
Lạy Chúa Giêsu, chúng con tín thác vào Ngài! Tạ ơn Chúa đã gởi cho chúng ta một người Phi-luật-tân làm Tông đồ của LCTX.
TRẦM THIÊN THU 

(Chuyển ngữ từ All-About-The-Virgin-Mary.com)

Đối chất ma quỷ

Đối chất ma quỷ

                                                               TRẦM THIÊN THU

Đăng bởi pleikly lúc 1:33 Sáng 28/08/12

 

VRNs (28.08.2012) – virgin-mary  – Với những câu chuyện thật của những người và những ngôi nhà bị “ma ám”, cuốn “Exorcism: Encounters with the Paranormal and the Occult” (Trừ quỷ: Đọ sức với Siêu linh và Huyền bí) là sách mà bạn không thể bỏ xuống sau khi đọc vài trang. Nhưng khác với những cuốn tiểu thuyết tiêu biểu về ma quái, ma cà rồng, và những ngôi nhà ma ám, cuốn sách này hoàn toàn đáng tin vì là sách được viết bằng ngòi bút “sắc bén” của LM Jose Francisco C. Syquia, giám đốc Văn phòng Trừ quỷ của TGP Manila (Archdiocese of Manila Office of Exorcism), và được viết theo giáo lý Công giáo.

Tôi đã đọc cuốn sách này vài năm trước nhưng rồi để nó “ngủ yên” trên kệ sách. Tới một ngày cuối tháng Hai, lúc chúng tôi nghi là gia đình của con trai tôi là “đích nhắm” của ma quỷ. Tôi không an tâm. Đứa cháu nội yêu dấu của tôi là Juan Lorenzo bị “nhắm” tới. Là bà nội sẽ làm gì? Tôi cầu nguyện nhiều, dâng những việc hy sinh cho Chúa – và lấy sách của LM Syquia để được hướng dẫn.

Tôi bảo cháu viết ra những trải nghiệm của cháu và các chiến lược của ma quỷ, và tôi nghĩ nên viết về sách của LM Syquia làm sườn cho câu chuyện. Khi làm vậy, tôi nhận ra rằng tôi đang “khiêu chiến” với ma quỷ. Nhưng khi bạn phụng sự Thiên Chúa, bạn cứ tiến lên vì bạn cảm thấy Thiên Chúa đang thôi thúc bạn. Do đó, khi viết bản tóm lược này về cuốn sách của LM Syquia, tôi hy vọng sẽ làm cho bạn biết nhiều hơn về ma quỷ và sự hiện diện thật của ma quỷ (active presence) trên thế gian này.

MA QUỶ HIỆN HỮU!

Ai là các loại ma quỷ này? Theo LM Syquia giải thích, chúng là các thiên thần sa ngã vì kiêu ngạo và bị Tổng lãnh thiên thần Micae tống khứ khỏi Thiên đàng. Chúng ghét Thiên Chúa và chiến trường của chúng là thế gian, nơi chúng chiến đấu với các thiên thần của Thiên Chúa để giành lấy các linh hồn.

LM Syquia cũng cảnh báo chúng ta về tục lệ chữa bệnh mê tín (nhất là ở các vùng quê). Nhiều người trong chúng ta đã nghe nói về đủ loại thần linh ở chỗ này hay chỗ nọ. LM Syquia giải thích: “Đó chỉ là ma quỷ, chúng có sức mạnh như thiên thần và chúng vẫn hiện hữu sau khi sa ngã”.

Nói về việc ma quỷ tấn công một người nào đó, LM Syquia cho biết có 3 dạng. Dạng thứ nhất và phổ biến nhất là “chiếm hữu”, tức là ma quỷ kiểm soát thân xác của người đó – nhưng nó không thể kiểm soát linh hồn của người đó. Có 2 giai đoạn “câu thúc” của ma quỷ: ám ảnh và khống chế. Ám ảnh là bị ma quỷ kiềm chế thân xác nên có những ý tưởng quái gở trong ý nghĩ của người bị quỷ ám. Giai đoạn cao độ là lúc xuất hiện ý nghỉ muốn tự tử. Khống chế nghiêm trọng hơn ám ảnh. Có những “gánh nặng” hoặc nỗi thống khổ hành hạ người đó, có thể người đó cảm thấy đau nhức về thể lý, rối rắm về trí tuệ, bệnh tật về tâm lý (tâm bệnh), trầm cảm, nhìn thấy những cảnh kinh dị, và gặp ác mộng về ma quỷ. “Bị khống chế dữ dội” cũng giống như “bị ám ảnh” nhưng ma quỷ hoàn toàn kiểm soát nạn nhân.

LM Syquia liệt kê những cách mà ma quỷ có thể “ám” cả một gia đình. Ví dụ: Qua các chứng bệnh như bệnh tim, nhức đầu và đau bao tử; sự phân rẽ trong gia đình; bệnh về tâm lý và cảm xúc như tức giận và trầm cảmj; những cơn cám dỗ; kém lòng tin vào Thiên Chúa; thất bại trong công việc và các nỗ lực khác.

Trong chuyện trừ quỷ của cháu nội Juanlo của tôi, ma quỷ đã thể hiện qua các vết bầm tím trên cổ của cháu nội tôi, không thể giải thích về nguyên nhân của các vết bầm tím đó.

LM Syquia cũng cảnh báo về sự bành trướng của “Trào lưu Thời Đại Mới” (New Age Movement): “Sự ảnh hưởng huyền bí trong Thời Đại Mới có thể dễ dàng phát hiện bằng cách kiểm tra các tiêu đề sách. Có những cuốn sổ tay của ma thuật, tử vi và bói toán,… Giới trẻ đang bị thu hút vào các bộ phim như ‘Harry Potter’ và ‘Ma Thuật’, các trò chơi như ‘Dungeons and Dragons’ hoặc chương trình truyền hình như ‘Charmed’. Ngay cả trẻ em cũng không an toàn”.

LM Syquia liệt kê các cách áp dụng và các khí cụ của Trào lưu Thời Đại Mới mà người Công giáo nên tránh. Đó là những trò chơi ma thuật, bùa ngải, bói toán, cờ bạc, thôi miên, trầm mặc tiên nghiệm (transcendental meditation), phim ảnh và trò chơi khiêu dâm,… Nhiều người Công giáo đi lễ hằng ngày mà vẫn mua sách tử vi để “tham khảo”. Điều này chứng tỏ “miệng nam mô mà bụng một bồ dao găm”, chỉ tin Chúa bằng miệng!

VŨ KHÍ TÂM LINH

Thật vui khi Giáo hội đã cho chúng ta một số vũ khí mạnh mẽ để chống lại ma quỷ. Nhưng trước hết, chúng ta cần phân biệt 2 thuật ngữ: trừ quỷ và giải thoát. Chúng ta đã biết người trừ quỷ. Có thể chúng ta không biết rằng một linh mục phải có phép của đấng bản quyền (giám mục) mới được trừ quỷ. LM Syquia trích lời của Giáo luật: “Phép đó từ đấng bản quyền địa phương chỉ được ban cho một giáo sĩ có lòng đạo đức, hiểu biết, cẩn trọng và chính trực”.

Mặt khác, trong cuốn “Exorcist: A Spiritual Journey” (Người trừ quỷ: Hành trình tâm linh), LM Syquia định nghĩa “người giải cứu” (deliverance minister) là “linh mục, tu sĩ, hoặc giáo dân với đặc sủng giải thoát… Họ dùng các kinh nguyện giải thoát (không phải Nghi thức Rôma về Trừ quỷ) để xua đuổi ma quỷ khỏi người bị ám…”. Việc dùng kinh nguyện giải thoát được coi là trừ quỷ riêng tư.

Cũng trong cuốn sách nói trên, LM Syquia trích lời Thánh Alphong Liguori: “Việc trừ quỷ riêng tư là được phép đối với mọi Kitô hữu; việc trừ quỷ theo nghi thứ chỉ được phép đối với những người đã được chỉ định làm việc đó, và chỉ được phép của giám mục”.

Rất hiếm linh mục trừ quỷ, chúng ta có thể quy tụ nhóm để cầu nguyện giải thoát cho người bị quỷ ám, hoặc có thể cầu nguyện giải thoát chính mình (nếu bạn muốn có bản sao, xin nhắn tin về số +639178121362).

LM Syquia liệt kê một số “vũ khí” hiệu quả: Nước phép, ảnh tượng đã làm phép (đặc biệt là ảnh Thánh Bênêđictô), Áo Đức Bà và Ảnh Đức Mẹ Làm Phép Lạ, Chuỗi Mân Côi, nến phép, và sách kinh nguyện.

Đức Mẹ rất uy quyền. LM Syquia kể một câu chuyện mà ngài tin Đức Mẹ đã cứu ngài trừ quỷ rất khó khăn trong một bệnh viện nọ.

LM Syquia nhấn mạnh điều khác là các Kitô hữu phải “ở trong tình trạng ân sủng”. Tham dự Thánh lễ và rước lễ luôn là vũ khí cực mạnh chống lại ma quỷ. Như vậy, khi bị vây hãm, Kitô hữu nên cố gắng tham dự Thánh lễ thường xuyên.

CHỈ CÓ va LUÔN LÀ CHÚA GIÊSU

Trong cuốn sách về “những chuyện kinh dị”, tôi thích nhất chương “Only Jesus and Always Jesus” (Chỉ có và luôn là Chúa Giêsu). LM Syquia nói rằng, khi bị ma quỷ tấn công, người ta tập trung vào ma quỷ, như thời gian trôi qua, người trừ quỷ hoặc người giải thoát nhận biết Thiên Chúa quyền năng biết bao! Vì “Thiên Chúa luôn cùng chiến đấu với chúng ta và không bao giờ rời xa chúng ta”. Quan trọng nhất là “tiếp tục tiến tới sự thánh thiện”. Thật vậy, khi bạn cảm thấy bị ma quỷ bao vây, bạn không còn sự giải thoát nào khác ngoài Thiên Chúa.

Khi tôi đặt tựa đề “Đối chất ma quỷ” cho bài viết này, tôi nên giải thích thêm. Thực ra, chúng ta không thể và không nên “đối mặt ma quỷ”. Ma quỷ là các thiên thần sa ngã nên rất mạnh hơn chúng ta. Chúng ta phải luôn “nhân Danh Chúa Giêsu” mà chống lại ma quỷ. Như vậy, chiến thắng của chúng ta luôn là chiến thắng của Chúa Giêsu. Ngài là sức mạnh của chúng ta và là Đấng bảo vệ chúng ta. Xin chúc tụng Chúa Giêsu và Thánh Danh Ngài: “Khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ” (Pl 2:10).

Lourdes Policarpio

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ all-about-the-virgin-mary.com)

_______________________________________________________________

Giáo Dục Bi Thảm

Giáo Dc Bi Thm

                                                                                      (09/03/2012)

                                                                              trích: Vietbao.com

Bạn thân,
Một thời chúng ta nhìn các thầy giáo, cô giáo như những vị thần linh… nhưng bây giờ thì không như thế nữa.

Một thời, chúng ta lắng nghe các thầy cô nói từng lời, nghiền ngẫm từng chữ… và không bao giờ chất vấn, nghi ngờ gì hết. Bởi vì, thầy cô nói bằng tấm lòng muốn trao truyền kiến thức, và muốn chúng ta giỏi, muốn chúng ta siêng năng, và muốn chúng ta thành công ngoàì đời.

Thầy cô là những người cho chúng ta chữ, cho chúng ta hiểu về cuộc đời, cho chúng ta hiểu về ẩn nghĩa của Truyện Kiều, khi nàng tuyệt sắc Thúy Kiều bị xã hội xô đẩy vào lầu xanh, cũng y hệt như những tinh hoa đẹp nhất của giới trí thức thời cụ Nguyễn Du bị lịch sử xô đẩy, trong đó có những người phảỉ bán đi sự lương thiện…

Bây giờ thì khác. Báo Tuần Việt Nam qua bài viết của tác giả Nguyễn Trọng Bình đã nêu vấn đề ngay ở tựa bài: “Giáo dục có đang… ‘vô cảm’?” Bài viết đầy những hình ảnh đau đớn của nền giáo dục, chuyện chạy trường, chạy bằng cấp, chạy việc… trích như sau:

“…Khoảng mươi năm trở lại đây trong ngôn ngữ tiếng Việt bỗng xuất hiện một từ mới: “Chạy trường”. Hiểu một cách nôm na “chạy trường” là cách mà các quý vị phu huynh của các em học sinh, sinh viên từ bậc học mẫu giáo cho đến đại học phải bỏ tiền ra để nhờ vả, chạy chọt cho con em họ có cơ hội vào học ở những ngôi trường phần nhiều được đánh giá là có “chất lượng tốt”.

Những trường này thường được  “bảo chứng” bằng những mỹ từ như: Trường đạt chuẩn quốc gia, trường chuyên, trường điểm, hay trường quốc tế…. Hoặc có khi “chạy trường” với mong ước con em mình được học ở những ngôi trường gần nhà để nhằm tiện lợi cho việc chăm sóc và đưa đón con em lúc đến trường.

Có ai ngờ những đứa trẻ chỉ mới bắt đầu vào mẫu giáo mà cha mẹ của chúng phải tất tả ngược xuôi để tìm một chỗ xứng đáng. Để được người ta “ươm mầm” sự… giả dối trong sự đổi chác và thực dụng….

Vấn đề “chạy bằng cấp và chạy kiến thức” chủ yếu xảy ra từ cấp trung học phổ thông trở lên. Ở cấp học này chuyện “chạy bằng cấp và kiến thức” nhìn chung là do hậu quả của việc tổ chức thi cử “tưởng là nghiêm túc nhưng kì thực là rất lỏng lẽo” mà ra.

Cuộc khảo sát của 1 nhóm nghiên cứu về việc gian lận trong thi cử đối với 500 học sinh mới đây là 1 minh chứng rõ ràng nhất cho vấn đề này. Có tới 400 em học sinh thừa nhận mình có gian dối trong thì cử với nhiều hình thức khác nhau…

Đối với những cấp bậc cao hơn như đại học, hay sau đại học thì việc chạy bằng cấp và kiến thức rõ ràng nhất là ở khâu thực hiện đề tài luận văn (cử nhân), luận án (thạc sĩ, tiến sĩ) tốt nghiệp.

Đây còn là 1 đại nạn, 1 thực trạng đáng xấu hổ nhất trong hệ thống giáo dục đại học và sau đại học ở nước ta hiện nay.

Xấu hổ là vì ngay chính bản thân những thầy cô giáo toàn những thạc sĩ, tiến sĩ, phó giáo sư, GS… nhưng có không ít người đã không ngần ngại nhận phong bì từ sinh viên, học viên của mình để rồi châm chước và cho qua những luận văn, luận án không xứng đáng mà mình hướng dẫn hay phản biện.

Đau đớn hơn có người còn ra giá với học trò của mình và nếu như học trò nào đó không biết “vâng lời” thì có khi phải nhận lấy những hậu quả xấu. Những việc làm này rõ ràng chỉ có thể nói đó là sự “mất nhân tính” của những con người vốn đang gánh trên vai trọng trách “trồng người” cho xã hội….

Và “chạy việc”

Một sinh viên để có thể cầm trên tay mảnh bằng đại học (ít nhất là 4 năm) phải đánh đổi không biết bao nhiêu công sức và tiền bạc của gia đình. Đến khi ra trường các em phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt của xã hội trong hành trình xin việc để tự lập, mưu sinh.

Thế nhưng vẫn có những người thầy không ngần ngại “ra giá” với các em về một chỗ làm nào đó nhờ sự quen biết của họ. Thử hỏi học trò mới ra trường thì làm gì có tiền (từ vài chục đến vài trăm triệu) để đưa cho thầy cô mong có được chỗ làm…”

Làm sao bây giờ? Làm sao tìm ra những người thầy thơ mộng nhiều thập niên trước… Chắc chắn vẫn còn đó, ở đâu đó, vẫn còn những thầy giáo, những cô giáo thật tâm quan tâm tới các em… Thật là may mắn, là đại cơ duyên cho những ai gặp các vị thầy đáng kính như những trang sách cổ.

Thánh Grêgôriô Cả

Thánh Grêgôriô Cả

(540?–604)

   Trong cuộc đời Thánh Grêgôriô Cả, sự nghiệp sau nổi tiếng hơn sự nghiệp trước. Ngài là trưởng thánh bộ Rôma trước khi 30 tuổi. Năm năm sau đó, ngài từ chức, sáng lập sáu đan viện trên các phần đất của ngài ở Sicilia và chính ngài là một tu sĩ dòng Biển Ðức (Benedictine) ở Rôma.

 Sau khi thụ phong linh mục, ngài là một trong bảy phó tế của đức giáo hoàng, và ngài còn giữ chức vụ sứ thần tòa thánh ở Constantinople, Ðông Phương. Sau đó ngài được gọi về làm đan viện trưởng, và vào lúc 50 tuổi, ngài được chọn làm giáo hoàng bởi hàng giáo sĩ và giáo dân Rôma.

 Ngài thẳng tính và kiên quyết. Ngài cách chức các linh mục bất xứng, cấm không được lấy tiền khi phục vụ, và ngài lấy tất cả quỹ riêng của đức giáo hoàng để chuộc các tù nhân bị phe Lombard bắt, săn sóc những người Do Thái bị bách hại và các nạn nhân của nạn dịch tễ cũng như nạn đói kém. Ngài rất lưu tâm đến việc trở lại của nước Anh nên đã sai 40 đan sĩ của Ngài đến hoạt động ở đây. Ngài nổi tiếng vì những cải cách phụng vụ, và củng cố sự tôn trọng học thuyết. Người ta đang tranh luận xem có phải chính Ngài là người chịu trách nhiệm phần lớn nhạc bình ca (Gregorian) hay không.

 Thánh Grêgôriô sống trong giai đoạn luôn luôn có bất hòa vì sự xâm lăng của phe Lombard và vì những tương giao khó khăn với Giáo Hội Ðông Phương. Khi Rôma bị tấn công, chính Ngài là người đến chất vấn vua Lombard.

 Một sử gia Anh Giáo đã viết: “Không thể nào tưởng tượng được những gì sẽ xảy ra trong thời Trung Cổ–thật lộn xộn, vô trật tự–nếu không có triều đại giáo hoàng; và nói về giáo hoàng của thời trung cổ, vị cha chung đích thực là Ðức Grêgôriô Cả.”

 Cuốn sách của ngài, Cách Chăm Sóc Mục Vụ, nói về nhiệm vụ và đặc tính của môt giám mục, đã được đọc trong bao thế kỷ sau khi ngài chết. Ngài diễn tả vị giám mục chính yếu như một y sĩ mà nhiệm vụ chính là rao giảng và duy trì kỷ luật. Trong các bài giảng thực tế của ngài, Thánh Grêgôriô có tài áp dụng phúc âm hàng ngày vào nhu cầu đời sống của giáo dân. Ðược gọi là “Cả”, Thánh Grêgôriô được nâng lên một vị trí ngang hàng với Thánh Augustine, Thánh Ambrôsiô và Thánh Giêrôme như một trong bốn vị tiến sĩ nòng cốt của Giáo Hội Tây Phương.

 Lời Bàn

Thánh Grêgôriô thích là một đan sĩ, nhưng ngài sẵn sàng phục vụ Giáo Hội trong các phương cách khác khi được yêu cầu. Ngài đã hy sinh những sở thích của ngài trong nhiều phương cách, nhất là khi làm Giám Mục Rôma (Giáo Hoàng). Một khi được kêu gọi để phục vụ công ích, Thánh Grêgôriô đã dùng hết khả năng để chu toàn nhiệm vụ.

 Lời Trích

“Nói cho cùng có lẽ không khó để người ta từ bỏ của cải, nhưng chắc chắn là thật khó để từ bỏ chính mình. Khước từ những gì mình có là chuyện nhỏ; nhưng khước từ cái tôi của mình, đó mới thật đáng kể” (Thánh Grêgôriô, Bài Giảng về Phúc Âm).

 Maria Thanh Mai gởi

Bụi phù hoa

Bụi phù hoa

tocngan k1

WGPSG — “Một cô gái tên Muối đã có tình nhân mà còn làm đám cưới với một anh Việt kiều Mỹ, định sau này sẽ ly dị chồng để rước người tình qua. Nhưng đến ngày đàng trai đến rước lại không thấy cô dâu đâu khiến cho công trình mồi chài bao ngày tháng trở thành công cốc. Nguyên nhân vì đâu? Tại sao cô lại không về làm cô dâu để thực hiện chương trình đánh lừa anh chàng Dick ngơ ngáo kia?

Số là tối hôm trước ngày rước dâu, sau khi nhậu nhẹt say sưa, nhảy nhót tưng bừng cho đến gần sáng, cô Muối cùng tình nhân thuê khách sạn ngủ, dự định sáng mai về cũng còn kịp chán. Muốn cho đêm tạm biệt thêm vui, họ phi một đợt xì ke (ma túy), sau đó họ lăn ra ngủ. Đến gần chiều hôm sau cả hai mới giật mình tỉnh dậy. Cô Muối hối hả lên xe, chạy về.

Xe hoa đã lên đường được hơn nửa giờ rồi.!”

“Có mấy em bé rất muốn làm thiên thần, Thượng Đế trao cho mỗi bé một cái chân đèn bằng đồng, và bảo chúng trong lúc chờ Ngài trở lại, hãy giữ cái chân đèn sao cho luôn được sáng bóng. Nhưng rồi một tuần đã trôi qua đi mà vẫn chưa thấy Thượng Đế trở lại, tất cả các em bé đã nản chí, không còn chùi bóng chân đèn của mình nữa.

Một hôm, Thượng Đế đột nhiên đến thăm, chân đèn của mỗi đứa bé lười nhác đều đã đóng một lớp bụi dày, chỉ duy có em bé mà thường ngày cả bọn vẫn kêu bằng thằng ngốc, dù cho Thượng Đế chưa thấy đến, hằng ngày bé vẫn nhớ lời dặn, lau chùi cái chân đèn sáng bóng.

Kết quả em bé ngốc này được trở thành thiên thần.”

Hai câu chuyện: một cô dâu gian dối bị vuột mất chàng rể và một em bé bị bạn bè xem là ngốc nhưng nhờ tính kiên trì đã đạt được ước mơ, là những minh họa điển hình cho Tin Mừng thánh Matthêu hôm nay.

Nếu Kitô hữu chúng ta cứ suy nghĩ một cách chủ quan rằng mình đã giữ đạo tốt lắm rồi nên không lo chỉnh đốn cách sống đạo cho đẹp lòng Chúa, chúng tôi sẽ rơi vào trường hợp như cô dâu Muối. Trong ngày tái ngộ, Chúa sẽ nói với chúng ta rằng: “Ta chẳng biết các ngươi là ai”.

Giữa thời buổi yêu chuộng vật chất và duy tục như ngày nay, con người sống như thể rằng mình không bao giờ chết, nên để cho tâm hồn mình bị che phủ bởi bụi phù hoa. Chúng ta thà làm ’em bé ngốc’ lội ngược dòng để giữ được lòng trinh trong Chúa đã ban cho còn hơn để đời mình bị cuốn theo chiều gió hư vong.

Lạy Chúa Giêsu mến yêu, chúng con có mong ước tốt nhưng với bản tính yếu mềm của con người, không có Chúa giúp chúng con không làm gì được. Xin cho chúng con luôn hướng về trời là cùng đích của đời tín hữu, hầu có thể đón Chúa trở lại trong hân hoan.

Vậy anh em hãy tỉnh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào (Mt 25,13).

 Maria Thanh Mai gởi

NGƯỜI CON GÁI VIỆT NAM

NGƯỜI CON GÁI VIỆT NAM

                                                                                                                HẠNH NGUYÊN

                                                                                                           trích Ephata: 525

 VTT ZZAUG 22  JPEG HTVY

             Huỳnh Thục Vy

             Trịnh Kim Tiến

“Trịnh Kim Tiến, tên em gắn liền với những biến cố vui buồn của đất nước trong gần một năm qua. Dòng nước mắt em khóc cha, ông Trịnh Xuân Tùng, bị công an đánh chết, làm bao nhiêu người Việt Nam trong và ngoài nước khóc theo. Nhìn tấm hình em khóc, tôi cảm thấy thương em vô cùng vì trong giọt nước mắt của em có bóng của đời mình.

Vài tuần sau, nhìn Kim Tiến mỉm cười cùng các bạn hiên ngang đi giữa lòng chế độ độc tài, lòng tôi chợt dâng lên niềm hãnh diện:

“Khi em xuống đường vì Hoàng Sa, Trường Sa

Đồng bào bước cùng em

Thanh niên, sinh viên, học sinh bước cùng em

Sài Gòn bước cùng em

Hà Nội bước cùng em

Trong nước bước cùng em

Ngoài nước bước cùng em”

( Trần Trung Đạo – Những cánh én của mùa xuân dân tộc )

Tôi cũng như bao người Việt Nam xa xứ nặng lòng với quê hương mang tâm trạng như nhà thơ Trần Trung Đạo, dõi theo những thăng trầm của vận mệnh dân tộc, buồn vui với non sông cùng bước chân những người yêu nước. Kim Tiến đã làm bao người khóc cùng em khi cha em bị đánh gần chết giữa công đường, hân hoan nhìn dáng đứng thướt tha hiên ngang trong tà áo dài truyền thống khi biểu tình bảo vệ Hoàng Sa – Trường Sa:

“Thấy áo em bay giữa cờ gió lộng
Xin nghiêng mình tặng Em nhành Nguyệt Quế
Viết bài ca tặng Em Người Con Gái Việt Nam !
Gửi đến Em ! Người Con Gái Da Vàng !
Gửi đến Em ! Người Con Gái Việt Nam !” 

( Nhạc và lời Dzuylynh – Người Con Gái Việt Nam ) 

Mới đây bao người uất ức cùng em khi biết bản án bất công của những người hành xử pháp luật ( xem ghi chú bên dưới ). Em đã trở thành người con của Chúa: Monica Trịnh Kim Tiến, sau nhiều đau thương mất mát. Hôm nay tôi chúc mừng hạnh phúc khi bên em có người bạn đời Phaolô Thành Nguyễn đồng hành đi tìm công lý. Kim Tiến chọn ngày thành hôn cũng gần ngày kính thánh Bổn Mạng Monica, vị thánh quan thầy giới hiền mẫu. Hiếm có những trường hợp trong gia đình cả hai mẹ-con cùng là Thánh, nhất là trong hoàn cảnh gia đình tưởng như tan nát tuyệt vọng lại biến thành hạnh phúc tuyệt vời góp phần cho Giáo Hội vị đại Thánh Augustinô.

Ai mà không đau lòng khi nhìn những giọt nước mắt nơi em ngày cha mất cách tức tưởi, tiếng khóc của em không hẳn chỉ cho cha mà còn là tiếng kêu thê lương của cả một dân tộc oằn oại bao năm dưới luật pháp kẻ bạo tàn, nhà báo Lê Diễn Đức đã xót xa:

“Tiếng khóc em thảm thiết cứa vào thịt da.

Em, người con gái mất cha !

Uất ức, đau thương trùm lên mặt phố !”

( Lê Diễn Đức – Em đi tìm công lý nơi nào ? )

Nếu trước đây tôi vui mừng khi chị Tạ Phong Tần trở về mái nhà Cha và hãnh diện danh hiệu “Nhà Báo Tự Do Công Giáo” khi chị mạnh dạn viết những bài đấu tranh cho Công Lý và Sự Thật. Hôm nay niềm vui trong tim gấp bội hơn khi biết tin Kim Tiến, Thục Vy cùng đón nhận Đức Tin Công Giáo. Việc trở về cùng Cha không bao giờ là một sự muộn màng: người đến trước ( giờ thứ nhất ) hoặc đến sau ( giờ thứ 25 ) rốt cuộc cũng chỉ hưởng công… một đồng. Sự trở về của các cô từ chính trong tâm hồn cảm nghiệm Chúa chắc hẳn hơn một số người theo Đạo dòng như tôi. Có câu danh ngôn nào đã nói: Cánh cửa này đóng sẽ mở cho ta cánh cửa khác, như ánh sáng cuối đường hầm, niềm tin chính là ân điển của Thiên Chúa luôn bao bọc và mời gọi chúng ta ở những thời điểm khác nhau.

Chị Tạ Phong Tần về với Chúa như Thánh Phaolô Tông Đồ Dân Ngoại, trong thư gửi chúc mừng Kim Tiến, Thục Vy, Hoàng Vy chị đã viết: “Chúng ta cùng nhau cám ơn Chúa, cám ơn Đức Mẹ, cám ơn Giáo Hội đã cho chúng ta niềm tin và sự sống, đặc biệt chị muốn cám ơn các tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế đã làm cầu nối để chúng ta đến được với Chúa. Bất cứ ai tha thiết với công lý, sự thật và tình thương đều có thể gặp được Chúa, qua kinh nghiệm của chúng ta, chị tin như thế. Bốn chị em mình mỗi người được gặp Chúa theo nhiều kiểu khác nhau. Chị khác các em, chị bước ra từ vũng lầy của tuổi trẻ sai định hướng, chị đến với Chúa trong một cuộc gặp gỡ tình cờ, tuổi xuân của chị có quá nhiều sai lầm mà ngày ấy chị ngỡ tưởng mình đúng hướng…” ( http://www. chuacuuthe. com/archives/34947 – Thư gửi Hoàng Vi, Thục Vi và Kim Tiến ).

Còn Kim Tiến, chị đã cảm nghiệm: “Không phải anh em chọn Thầy mà chính Thầy đã chọn anh em” ( Ga 15, 16 ), đúng vậy, chính Chúa đã chọn tôi làm con của Người. Câu nói này đến bây giờ, sau khi trải qua nhiều biến cố, thăng trầm, tôi mới hiểu được hết ý nghĩa của nó. Thật là khó nói hết ra những điều kỳ diệu mà Chúa đã mang đến cho tôi, thật sự nó rất huyền bí” ( Kim Tiến – Chúa trong tôi ).

Phần Maria Thục Vy khi được hỏi về lý do trở nên người con Chúa, cô viết: “Con tin rằng cuộc đời con không phải do con người quyết định mà được. Lúc con bị bắt, con tự nhiên thấy mình luôn được chở che. Con chưa hiểu vì sao con lại có cảm giác ấy. Nhưng con hy vọng nếu có một Đấng cao vời mà con chưa từng biết thì con mong các cha giúp cho con một cơ hội để bước vào con đường nhận biết Ngài. Đó là những lời con nói thật lòng mình” ( Nữ Vương Công Lý ).

Ban đầu, khi đọc những bài viết của Huỳnh Thục Vy, biết cô còn rất trẻ nhưng tư tưởng nhận định rất lớn, tôi còn hơi chút hòai nghi, nhưng hôm nay niềm tin và sự ngưỡng vọng cô là một điều khẳng định không chỉ nơi tôi mà còn biết bao nhiêu người. Nhà báo Lê Diễn Đức đã từng nhận xét Huỳnh Thục Vy là “một cô gái trẻ mà hiểu biết rộng, thông minh, có nhân cách trong sáng, can đảm, mãnh liệt nhưng rất ôn hòa trong các bài viết xuất sắc về các giá trị dân chủ, quyền công dân hay xã hội dân sự, được sự mến mộ và cảm phục của đông đảo người Việt trên khắp thế giới…”, hay “Cái đẹp của Huỳnh Thục Vy không chỉ của một người, nhưng là cái đẹp của cả một non sông” ( Nguyễn Bá Chổi – Một bông hồng cho Thục Vy ), và “nhà thơ năm chữ” Thái Bá Tân đã phác họa thật tâm đắc:

“Cháu – Cô gái xinh đẹp,

Đẹp cả ngoài lẫn trong.

Nhìn cháu mà cứ nghĩ,

Cái đẹp của non sông.”

( Thái Bá Tân – Huỳnh Thục Vy )

Thượng Đế là nguồn chân thiện mỹ từ trong sâu thẳm của con người, dù bạn theo bất cứ tôn giáo nào, đạo đức tâm linh, nhân bản có những chuẩn mực căn bản rất gần nhau, tình đồng loại, nghĩa đồng bào, lòng yêu quê hương thể hiện rất gần gũi. Huỳnh Thục Vy mang một ước mơ cháy bỏng cho dân tộc, thể hiện qua nhiều bài viết: “Tôi thương dân tộc tôi – dân tộc anh hùng có bốn ngàn năm Văn hiến đã và đang phải gò lưng nuôi cả một chế độ độc tài bất công, không những thế lại bị tước hết các quyền tự do được sống như những con người chân chính và có ý chí. Trong tình yêu thương ấy, với nhiệt huyết trào dâng trong lòng một cô gái trẻ, tôi đang mơ một ngày cả nước Việt Nam từ Hà Nội, Đà Nẵng, Sàigòn, tất cả chúng ta – những người Việt Nam không phân biệt già trẻ, nam nữ, Phật giáo đồ hay con Chúa… cùng xuống đường trong những khẩu hiệu chống độc tài, tham những, đòi quyền tự do dân chủ. Và rồi sẽ cùng nhau kiến tạo một Việt Nam với diện mạo mới”.

Chính tình thương vô biên nguồn Chân Thiện Mỹ của mọi tôn giáo chân chính, cộng với những đau thương từ gia đình thôi thúc trong cô lòng yêu nước hoài bão cho tương lai dân tộc. “Thục Vy sinh năm 1985 tại Tam Kỳ. Tình yêu quê hương và nỗi đau mười năm tuổi thơ là những ngày đi thăm cha trong tù, đã hun đúc tâm hồn của cô bé xinh đẹp, hồn nhiên lớn lên bên giòng sông Bàn Thạch, Quảng Nam thành một nhà lý luận chính trị vững vàng. Kiến thức Thục Vy dẫn chứng trong các bài viết vượt trội hơn tuổi tác và điều kiện trưởng thành thiếu thông tin bên ngoài mà em đã phải trải qua. Sinh ra và lớn lên trong một chế độ độc tài, một nền giáo dục ngu dân lạc hậu, cây bút Huỳnh Thục Vy nổi bật như một bông hoa hiếm hoi mọc lên giữa rừng gai nhọn. Có thể nhiều khi em cũng cảm thấy cô đơn, nhưng từ trong nỗi cô đơn đó đã sáng lên niềm kiêu hãnh… Huỳnh Thục Vy không chỉ là niềm vui của tuổi trẻ Việt Nam mà còn cho tất cả những ai đang nặng lòng với đất nước” ( Trần Trung Đạo – Những cánh én của mùa xuân dân tộc ).

“Dải đất Việt Nam 
Nằm co ro như một kẻ ăn mày 
Đang thoi thóp cuộc đời trên góc phố 
Như giọt lệ chảy dài nhưng chưa nhỏ 
Như chiếc lưng khòm Mẹ gánh cả trời thương.
Thuở Hùng Vương 
Đi chân đất dựng sơn hà 
Bao nhiêu máu đã âm thầm đổ xuống 
Khi Trưng Trắc trầm mình trên sông Hát 
Chỉ mong giữ tròn trinh tiết với giang san.” 

( Trần Trung Đạo – Thưa Mẹ Chúng Con Ði )

Điều khẳng định chắc chắn đau khổ của phụ nữ Việt Nam hơn bất cứ người phụ nữ nào trên thế giới, hai gánh quê hương gia đình luôn oằn trĩu đôi vai. Thân phận quê hương và gia đình đã quyện vào máu xương người phụ nữ Việt Nam. Có nơi đâu trên trái đất này con người phải trải qua hàng ngàn năm chinh chiến, nếu hình ảnh chinh phu oai hùng đi vào hùng sử thì bóng thầm lặng chinh phụ mòn mỏi chờ chồng dạ sắt son đã thành truyền thống của phụ nữ Việt Nam. Cho tôi xin trân trọng gọi thầm mãi tiếng yêu thương lẫn tự hào đến bao Anh Thư Liệt Nữ nước Việt: Bà Trưng, Bà Triệu, Bùi Thị Xuân, Cô Bắc, Cô Giang… và hôm nay con cháu các vị anh hùng vẫn tiếp tục hy sinh vì đại nghĩa, dấn thân cho Việt Nam hôm nay hướng đến tương lai. Những cái tên hôm nay: Đặng Thị Kim Liêng, Lê Thị Công Nhân, Phạm Thanh Nghiên, Đỗ Thị Minh Hạnh, Hồ Thị Bích Khương, Bùi Thị Minh Hằng, Huỳnh Thục Vy, Trịnh Thị Kim Tiến, Tạ Phong Tần… đã và mãi mãi đi vào lòng người, là những tấm gương cổ vũ sức mạnh tiềm tàng lòng yêu nước của dân tộc một thời gần như quên lãng:

“Cho con thầm lặng gọi tiếng: Mẹ ơi !

Mẹ của Lê Sơn, Mẹ của Tạ Phong Tần.

Như hạt cải mục ươm mầm dưới đất.

Để sớm mai cả dân tộc hồi sinh”.

( Tú Anh – Cho con thầm gọi )

Đức Hồng Y Peter Turkson, Chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh Công Lý và Hòa Bình khẳng định rằng: “Các tấn kịch và bắt bớ chống lại các Kitô hữu sẽ không ngăn cản được việc làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa”. ( Linh Tiến Khải dịch – Bách hại không thể ngăn chặn chứng nhân Kitô hữu )

Bác ái là căn bản của đời sống mọi Kitô hữu, không thể chỉ kính mến Thiên Chúa trong Nhà Thờ bằng câu kinh tiếng kệ, điều quan trọng là bạn hãy làm chút gì đó cho những người anh em để thực thi công lý và tình thương. Ý chí nơi Kim Tiến thật đáng khâm phục, blogger Mẹ Nấm đã ghi lại cuộc trò chuyện với cô:

“Tôi cảm thấy công lý này cần tự mình giành lấy, và tôi sẽ đứng ra trước tòa để tranh luận công khai minh bạch trong phiên tòa sắp tới. Tôi sẽ nhìn thẳng vào các vị quan toà, những người đang nắm giữ trong tay cán cân công lý để khẳng định với họ một điều rằng: công lý không bao giờ chết, nó chỉ đang bị chèn ép…

Tôi tin rằng con đường tôi đi luôn có bạn bè và đồng bào tôi cùng đồng hành và chia sẻ. Thật sự đến giờ này, tôi chỉ biết cảm ơn mọi người. Mọi người đã cho tôi sức mạnh, đã cho tôi niềm tin. Niềm tin để cố gắng sống cho đúng nghĩa một con người, niềm tin rằng mỗi cá nhân, dù nhỏ bé đến đâu cũng có thể góp phần, góp sức, góp một viên gạch khiêm tốn nhưng cực kỳ cần thiết để xây dựng nhà Việt Nam thân yêu, không phải cho chúng ta mà cho thế hệ mai sau”. ( Mẹ Nấm – Chị có về được không ? )

Tôi viết bài này giữa lúc hôn lễ của Maria Kim Tiến và anh Paul Thành Nguyễn đuợc tổ chức tại Nhà Thờ Kỳ Đồng Sàigòn, Chúa Nhật 26.8.2012 và cũng được biết tin thêm là vào ngày 3.9.2012 đến đây, Maria Huỳnh Thục Vy và Lê Khánh Duy sẽ làm lễ thành hôn tại Tam Phú, Tam Kỳ, Quảng Nam. Mừng cho hai em có niềm tin, hạnh phúc bên những người chồng đồng chí hướng tương trợ, giúp đỡ, an ủi trong đời sống hôn nhân và hành trình đi tìm công lý cho cha, cho gia đình, cho dân tộc dưới sự bảo trợ của Đức Maria, Thánh Phaolô, Thánh Monica… để rồi một ngày nào đó:

“Em ngày mai hái những cành hoa của tình yêu, công lý

Cắm lên mộ cha và lên mảnh đất này

Cho Hà Nội thu về tay ấm lại cầm tay ?

( Lê Diễn Đức – Em đi tìm công lý nơi nào ? )

Ghi Chú:

Phiên tòa sơ thẩm ngày 13.1.2012 tại Tòa Án Nhân Dân Hà Nội diễn ra rất nhanh chóng, sơ sài và bất công với tội danh ‘làm chết người trong khi thi hành công vụ’ với bản án chỉ 4 năm tù giam tuyên phạt bị cáo Nguyễn Văn Ninh, tất cả những người đồng phạm đều không phải chịu bất cứ trách nhiệm nào Tòa Án robot’, ngày 14.5.2012, tại phiên tòa phúc thẩm trong một phiên xử kín, anh chị em ruột nạn nhân không được tham dự, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hình sự vì không triệu tập đầy đủ nhân chứng…, nên gia đình yêu cầu hoãn lại phiên tòa và đề nghị triệu tập đầy đủ những người liên quan. Trong phiên phúc thẩm ngày 17.7.2012, bạn Kim Tiến đã tự tham gia tranh luận trong phiên tòa, không luật sư. ( Hà Minh Thảo – Những Người Việt Công Giáo Mới ).

HẠNH NGUYÊN, Boston, 26.8.2012

 

 

 

 

SỰ THẬT

SỰ THẬT

                                                                             tác giả: PHÙNG VĂN HÓA

                                                 trích báo: Ephata 525

 Cư dân mạng hiện đang xôn xao bàn tán, có người còn tỏ ra choáng váng trước tin ông Từ Hoài Khiêm ( Xu Huaiqian ) 44 tuổi, tổng biên tập một tờ báo Đảng Cộng Sản Trung Quốc, vừa nhảy lầu tự sát hôm 25.8.2012 vừa qua. Lý do cái chết này được cho biết là ông ta bị trầm cảm vì đã không thể nói ra được điều muốn nói: “Tôi đau đớn vì dám nghĩ nhưng lại không dám nói ra. Nếu dám nói thì lại không dám viết và nếu dám viết thì cũng chẳng có nơi nào chịu đăng bài tôi cả. Tôi ngưỡng mộ những cây bút tự do nhưng tôi không thể rời hệ thống vì nếu làm như vậy thì gia đình tôi sẽ chịu hậu quả” ( Nguồn BBC ngày 25.8.2012 ).

Hệ thống được nói tới là Đảng Cộng Sản, còn những cây bút tự do đó là những người viết trong các nước Dân Chủ. Sống mà không dám nói, dám viết ra những suy nghĩ, quan điểm lập trường của mình, điều ấy là một mối nguy chẳng những cho cá nhân ấy mà còn cho cả đất nước dân tộc. Tại sao ? bởi vì như vậy là không sống trong sự thật mà đã không sống sự thật thì tất cả chỉ là dối trá, lừa đảo để rồi đưa đến hậu quả diệt vong không thể tránh. Bằng chứng là Thủ Tướng Đức, bà Angela Markel người đã từng sống dưới chế độ Cộng Sản Đông Đức, nhân dịp kỷ niệm ngày 20 năm bức tường Berlin sụp đổ, và ông Medeved cựu Tổng Thống Nga, người đã sinh ra, sống và được giáo dục bởi chế độ xô viết nhân dịp kỷ niệm 50 năm chiến thắng Đệ Nhị Thế Chiến; cả hai đều tuyên bố đại ý rằng: “Chế độ Cộng Sản là một guồng máy tạo ra sự dối trá, lừa đảo bịp bợm và giết người, chẳng những giết chính dân tộc nó mà còn giết những dân tộc khác.” ( Nguồn Chu Chỉ Nam – Tại sao chế độ Cộng Sản lại là một guồng máy lừa đảo giết người lớn nhất trong lịch sử nhân loại ? ).

Con người cần phải sống sự thật, thế nhưng điều hết sức khó khăn, hơn nữa có thể nói là không thể phân biệt đâu là sự thật, đâu là dối trá. Trước tòa, Philatô hỏi Chúa Giêsu, vậy ngươi là vua sao ? Chúa đáp: “Đúng như ngươi nói, Ta là Vua. Cốt vì việc ấy mà Ta sanh ra, cũng cốt vì cớ ấy mà Ta đến thế gian để làm chứng cho sự thật. Hễ ai thuộc về sự thật thì đều nghe tiếng Ta”. Philatô hỏi Sự Thật là gì ? ( Ga 18, 37 – 38 ). Đức Kitô không trả lời câu hỏi của Philatô, bởi Ngài biết rõ dù có nói cũng vô ích, ông ta không thể hiểu. Chẳng những không riêng gì Philatô mà tất cả người thế gian cũng không thể hiểu.

I. Thế gian không có sự thật

Từ Hoài Khiêm nói rằng mình ngưỡng mộ những cây bút tự do bởi cho rằng những con người trong các nước Dân Chủ ấy dám viết và nêu lên sự thật. Thế nhưng có hẳn là báo chí trong những quốc gia ấy phản ảnh đúng sự thật hay không ? Để có câu trả lời thì cũng không khó, bởi dù sao đó cũng chỉ là một nghề để kiếm sống hoặc địa vị danh vọng gì đó. Một khi đã là nghề nghiệp thì cũng phải tuân thủ những luật tắc của nó và luật tắc ở đây chính là lợi nhuận. Báo có nhiều độc giả thì sống, trái lại thì… ngỏm. Nói chung, toàn thể người ở cõi thế gian này đều chỉ sống vì lợi nhuận và lợi nhuận ấy dù trong bất kỳ tính chất nào, trong sạch hay dơ bẩn thì cũng đều chỉ có một cứu cánh là để thỏa mãn cho “Cái Tôi” mà thôi.

Bao lâu còn vì “Cái Tôi” mà làm thì dù cho có là hành vi tôn giáo đi nữa cũng không thể có sự thật, mà đã không sống sự thật thì ắt sẽ sống trong giả dối. Hết thảy con người đều sống giả dối bởi chưng không ai lại không bị tội nguyên tổ làm cho hư hỏng. Nguyên tổ vì nghe theo sự lừa dối của rắn Satan nên đã ăn trái cây phân biệt mà Thiên Chúa đã cấm, thế nên bị đuổi ra khỏi Vườn Địa Đàng ( St 3, 24 ). Chính bởi vậy, Đức Kitô nói Satan là cha của sự nói dối: “Các ngươi ra từ cha các ngươi là ma quỷ và các ngươi muốn làm theo tư dục của cha các ngươi. Từ ban đầu nó là kẻ giết người chẳng đứng trong lẽ thật, vì trong nó không có lẽ thật đâu. Khi nó nói dối thì tự mình nó nói, vì nó vốn là kẻ nói dối cũng là cha của sự ấy” ( Ga 8, 44 ).

Từ ban đầu Satan là kẻ nói dối và sự dối trá ấy tinh vi đến độ y như là thật. Bà Eva còn đang lưỡng lự thì rắn quả quyết: “Hai người chẳng chết đâu, nhưng Đức Chúa Trời biết rằng hễ ngày nào hai người ăn trái đó thì mắt mình mở ra sẽ như Đức Chúa Trời biết điều thiện điều ác” ( St 3, 4 ). Có vẻ như Satan… không nói dối vì sau khi ăn cây phân biệt cả hai ông bà nguyên tổ chẳng những không chết mà mắt còn… mở ra. Tuy nhiên cái chết đây không phải là chết phần xác nhưng là chết tâm linh: “Đoạn mắt hai người liền mở ra, biết mình lõa lồ bèn lấy lá cây vả đóng khố che thân” ( St 3, 7 ). Khi mắt xác thịt mở ra thấy mình lõa lồ tức là cái thấy của sự phân biệt nam nữ, giầu nghèo, sang hèn, có không ( thị phi ) được mất v.v…

Chính cái thấy của sự phân biệt ấy là nguồn gốc tội ác đưa đến khổ đau cho con người. Bởi thấy có nam có nữ mà nảy sinh dục vọng luyến ái nọ kia. Bởi thấy có ngôn ngữ màu da khác biệt mà kỳ thị chủng tộc. Bởi thấy có giàu nghèo sang hèn mà nảy sinh tỵ hiềm ganh ghét đố kỵ…

Hết thảy những cái thấy mang tính phân biệt đều là lừa dối nhưng bởi là lừa dối của Satan nên con người khó thể nhận biết. Ở đây có thể kể ra hai cuộc lừa dối mang tính… toàn cầu vô tiền khoáng hậu cho cả hai phía Cộng Sản và Dân Chủ Tây Phương.

Chủ Nghĩa Cộng Sản lấy chiêu bài đấu tranh giai cấp để xây dựng thế giới đại đồng vô giai cấp. Nhưng đại đồng đâu chẳng thấy mà chỉ thấy những chế độ độc tài đảng trị nối tiếp nhau. Bà Rosa Luxembourg, người bạn chiến đấu của Lénine, trước khi chết trong ngục tù chế độ ( 1919 ) đã viết một bức thư gửi cho ông ta: “Cái độc đảng và nhà nước độc tài mà anh lập ra anh bảo rằng nó phục vụ nhân dân và thợ thuyền. Nhưng trên thực tế nó chẳng phục vụ một ai cả, vì nó đã đi ngược lại với những nguyên tắc chính của Chủ Nghĩa Xã Hội, đó là tôn trọng tự do dân chủ” ( Nguồn: Chu Chỉ Nam – đã dẫn ).

Một người đã để cả đời tranh đấu cho lý tưởng Cộng Sản, ấy vậy mà cho đến lúc sắp chết trong lao tù vẫn còn ảo tưởng về nguyên tắc tự do dân chủ của Chủ Nghĩa Xã Hội thì thật khó mà hiểu, nếu không nhận ra đây chỉ là một trong vô vàn nạn nhân của Satan, cha đẻ của dối trá.

Mặt khác, ảo tưởng tự do dân chủ không phải chỉ có ở nơi người Cộng Sản mà còn là một cái gì đó… hấp dẫn cho cả những người theo đuổi lý tưởng dân chủ. Ảo tưởng ấy cách nay hơn một thế kỷ đã bị Đức Thánh Cha Pio IX vạch rõ: “Việc phổ thông đầu phiếu là một vết thương phá hỏng trật tự xã hội và đúng ra nó xứng đáng được gọi là “Sự nói dối phổ cập”. Ma quỷ chắc chắn có cùng ý kiến như nó đã để lộ cho thấy trong một cuộc trừ tà. Nó không giấu diếm ý dồ chính trị của nó… Nó tự tuyên bố là người Cộng Hòa nhiệt tình: Tự Do – Bình Đẳng – Huynh Đệ và Cộng Hòa Pháp. Chính ma quỷ dùng những lời lẽ ấy mà chào những khách đến thăm ( người bị quỷ nhập ). Một hôm ông Spies thị trưởng Selestat nói với hắn: “Ngu, mày không biết điều mày nói !” Nó liền đáp: “Tôi biết điều tôi nói, hoan hô Tự Do, Bình Đẳng, Huynh đệ. Lúc đó chúng tôi sẽ được việc lắm” ( Michel Servant – Ngày của Chúa ).

Tự Do – Bình Đẳng – Huynh Đệ ( Liberté – Égalité – Fraternité ) là ba lý tưởng căn bản được nêu lên trong Cách Mạng Pháp 1789 và rồi đã được các nướ c dân chủ Tây Phương lấy đó để làm mục tiêu hành động. Satan hoan hô tự do bình đẳng huynh đệ và đồng thời nó cũng biết rất rõ đó chỉ toàn là ảo tưởng. Nhưng với con người thì lại coi đây như là lý tưởng cần thực hiện để có được cuộc sống hạnh phúc.

Lý do khiến Satan biết rõ đó chỉ là ảo tưởng bởi vì trong ba yếu tố ấy loài người không thể thực hiện được điều thứ ba, tức tình huynh đệ. Trong những thể chế thực sự dân chủ, người ta có thể tương đối có tự do và bình đẳng, thế nhưng nếu không có tình huynh đệ coi hết mọi người như anh chị em một nhà thì rút cục cũng chẳng thể nào có tự do bình đẳng, nếu không muốn nói là hỗn loạn.

Một mặt Satan hoan hô nhưng mặt khác nó lại nói lúc đó chúng tôi sẽ được việc lắm. Cái gọi là… “được việc” ấy là khi người ta nói rằng mình tranh đấu cho tự do bình đẳng thì ngay khi ấy cũng là lúc mà ganh ghét hận thù nổi lên. Tất cả nguyên nhân khiến không thể có tự do bình đẳng là vì không có tình huynh đệ. Đức Kitô nói: từ ban đầu Satan là kẻ giết người chẳng đứng trong lẽ thật thì việc giết của nó chính là giết chết tình huynh đệ – đệ huynh ở nơi con người. Đức Kitô xuống thế hầu đem lại cho nhân loại Sự Thật và chỉ trong Sự Thật ấy nhân loại mới có thể tìm đến với nhau như anh em một nhà.

II. Con đường đưa tới sự thật

Để có thể đi tới bất cứ nơi nào thì cần phải biết đường, còn như không biết thì hỏi, người ta sẽ chỉ cho. Đối với đường đời đã vậy, còn đường đạo tức đường thực hiện tâm linh thì việc hỏi, thắc mắc lại còn quan hệ hơn gấp bội. Không hỏi không nghi thì không bao giờ có lời giải đáp. Tuy nhiên việc hỏi ấy có thể đưa đến kết quả khác nhau, chấp nhận hay không chấp nhận. Người Do Thái vây quanh Chúa Giêsu chất vấn: “Thầy để chúng tôi vơ vẩn đến chừng nào. Nếu thầy là Đấng Kitô thì hãy nói tỏ tường cho chúng tôi” ( Ga 10, 24 ).

Đối với câu hỏi này cũng như của Philatô hỏi sự thật là gì. Chúa không  trực tiếp trả lời, bởi biết họ không tin. Thế nhưng trường hợp các Tông Đồ thì khác, sau khi nghe Chúa nói mình đi để chịu chết thì Tôma hỏi: “Thưa Chúa chúng tôi chẳng biết Chúa đi đâu làm sao biết đường ?” Chúa Giêsu đáp: “Ta là đường, là sự thật, và là sự sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” ( Ga 14, 5 – 6 ).

Qua câu trả lời này, ta thấy Đức Kitô chẳng những rất ân cần với các Tông Đồ mà còn trở nên con đường để những ai theo Ngài có thể bước đi trên đó. Mặc dầu Chúa nói mình là đường, là sự thật, sự sống nhưng như thế không có nghĩa có thể dừng lại trên con đường này. Dừng như thế thì Đường Giêsu sẽ ắt thành… đường cụt. Lý do bởi vì có đường thì phải đi mà đã đi thì phải đến một nơi chốn nào đó chứ chẳng lẽ lại cứ đi vơ đi vẩn ? Đức Kitô đã nói một cách rõ ràng rằng không ai đến được với Cha mà không qua Thầy. Điều ấy chứng tỏ cứu cánh con đường Giêsu phải là Đấng Cha chứ không phải là Ngài.

Thời này là thời Tục Hóa tức Giải Thiêng ( désacralisation ) mà đã giải thiêng thì tất nhiên không thể còn cứu cánh là Đấng Cha nữa. Một khi đã không còn Đấng Cha như một cứu cánh thì cũng không thể có sự thật. Tại sao ? Bởi vì sự thật chỉ đến với con ngườii khi nào nó nhận biết được phẩm vị Con Thiên Chúa ở nơi chính mình.

Quả thật, con người được dựng nên giống Hình Ảnh Thiên Chúa ( St 2, 26 ) tức Con của Ngài, nhưng do ảnh hưởng tội nguyên tổ mà chúng ta như đã hoàn toàn quên mất phẩm vị cao quý ấy. Cũng bởi vì quên nên con người mới sa đà vào đủ thứ giống tội nhưng lại chẳng cho đó là tội. Tội khiến làm cho che lấp Sự Thật tức phẩm vị Con Thiên Chúa nơi mình. Vì vậy Đức Kitô nói: “Nếu các ngươi cứ ở trong Đạo Ta thì thật là môn đệ Ta, các ngươi sẽ nhận biết sự thật và sự thật sẽ giải thoát các ngươi” ( Ga 8, 31 – 32 ).

Chúa là Đấng Giải Thoát nhưng sự giải thoát ấy hoàn toàn không phải do phép mầu hay quyền năng nào mà nó chỉ đến với chúng ta khi nhận biết sự thật. Lý do nhận biết sự thật lại giải thoát là vì sự thật ấy vốn dĩ đã có ở nơi mỗi người, chỉ cần nhận ra là được.

Sự thật cần nhận biết ấy như đã nói đó chính là Hình Ảnh Thiên Chúa và cũng là Nước Trời mầu nhiệm mà Đức Kitô rao giảng: “Người Pharisêu hỏi Chúa Giêsu về Nước Đức Chúa Trời chừng nào đến thì Ngài đáp: “Nước Đức Chúa Trời không đến cách mắt thấy được. Người ta cũng sẽ không thể nói đây này hay đó kia, vì này, Nước Đức Chúa Trời ở trong lòng các ngươi” ( Lc 17, 20 – 21 ).

Nước Trời là nước vô cùng mầu nhiệm, ấy vậy mà nước ấy lại chẳng có ở đâu khác ngoài mình và đây mới chính là Sự Thật chúng ta cần hết lòng tìm kiếm. Tìm kiếm địa vị sang giàu ở thế gian là việc cũng chẳng phải dễ. Thế nhưng dù cho nó có được thì cũng chẳng ra gì nếu không muốn nói là chỉ chuốc vào mình lo âu phiền muộn. Đang khi đó con đường tâm linh đem lại cho ta Sự Thật, một Sự Thật vĩnh cửu chẳng bao giờ tàn, chẳng bao giờ phai.

Tuy nhiên để có được Sự Thật ấy thì ngoài con đường tín thác, cậy trông vào Chúa Giêsu chẳng còn con đường nào khác.

PHÙNG VĂN HÓA,

 9.2012