Bến Tre: Nhà 4 Người Tự Tử; Hà Tĩnh: 2 HS Lớp 7, 11 Tự Tử

Bến Tre: Nhà 4 Người Tự Tử; Hà Tĩnh: 2 HS Lớp 7, 11 Tự Tử

(03/08/2013)                   nguồn:vietbao.com

HANOI — Tự tử đang trở thành nan đề tại Việt Nam. Những bản tin mới đây cho biết nhiều trường hợp tự tử rất đau lòng đã xảy ra: báo Người Lao Động hôm Thứ Năm kể chuyện một gia đình 3 người ở Bến Tre đã tự tử cùng lúc, trong đó người phụ nữ đang mang thai tháng thứ 7; và VietnamNet hôm Thứ Tư kể chuyện một học sinh lớp 7 ở Hà Tĩnh đã treo cổ tự tử trong nhà, và cũng ở Hà Tĩnh một nữ sinh lớp 11 nhảy sông tự tử.

Báo Người Lao Động ghi nhận rằng vào khoảng 10 giờ ngày 7-3, người nhà ông Lê Thành Trung (36 tuổi ngụ ấp 1 xã Sơn Đông, TP Bến Tre, tỉnh Bến Tre) phát hiện ông chết trong tư thế treo cổ. Vợ ông Trung là bà Nguyễn Thị Kim Phượng (35 tuổi, đang mang thai tháng thứ 7) và con là Lê Huy Phát (7 tuổi) nằm chết trên giường.

Khám nghiệm các nạn nhân, Bệnh viện Đa khoa Nguyễn Đình Chiểu (bệnh viện tỉnh Bến Tre) kết luận bà Phượng và cháu Phát chết do uống thuốc rầy.

Bản tin cũng nói, Công an tỉnh Bến Tre cho biết cả hai vợ chồng ông Trung là nhân viên ngân hàng, nguyên nhân dẫn đến bi kịch có thể do nợ nần.

Trong khi đó, thông tấn VietnamNet hôm Thứ Tư ghi nhận tin từ Phó Trưởng Công an xã Cẩm Thạch Trần Duy Thiệu cho biết, theo như người nhà kể lại, khoảng 18h tồi ngày 06/3, chị Nguyễn Thị Tiến (mẹ cháu, trú thôn 4) đi làm về thì phát hiện con trai là Đinh Văn Tuấn (SN 2000, đang học lớp 7 trường THCS Cẩm Thạch) treo cổ ngay bên cửa sổ.

Bản tin nói, lúc đó, người nhà tháo dây ra, gỡ người xuống để sơ cứu nhưng đã quá muộn. Cậu bé đã tử vong, người bầm tím, co cứng.

Viên chức Trưởng xóm 4 nói rằng: “Cháu bé này rất ngoan, học giỏi, gần đây không có biểu hiện gì bất thường. Chỉ nghe bạn học kể lại là lúc chiều cháu vi phạm lỗi nên bị cô phạt lau nhà.”

Cũng tin VietnamNet, nói rằng trước đó, rạng sáng ngày 6/3, tại huyện Thạch Hà cũng đã xẩy ra một vụ học sinh chết đuối thương tâm do tự tử. Nạn nhân là nữ sinh đang học lớp 11 Trường THPT Nguyễn Trung Thiên.

Bản tin viết: “Nhiều dấu hiệu cho thấy, nữ sinh này đã bị ức chế tâm lý do bị thầy chủ nhiệm truy chuyện mất ghế nhựa trong lớp.”

Nếu những chuyện học sinh tự tử xảy ra tại Mỹ, Bộ Giáo Dục hẳn là phải điều tra các giáo viên liên hệ, có thể sẽ truy to hình sự nếu có yếu tố bạo hành bằng ngôn ngữ hay kỳ thị, đồng thời sẽ khiển trách ban giám hiệu. Tuy nhiên tại VN, ban giám hiệu và thầy cô đều đứng chung dưới “lá cờ của đảng lãnh đạo,” cho nên không ai bận tâm gì.

Blogger Huỳnh Ngọc Chênh đoạt giải thưởng Công dân mạng 2013

Blogger Huỳnh Ngọc Chênh đoạt giải thưởng Công dân mạng 2013

Blogger Huỳnh Ngọc Chênh

Blogger Huỳnh Ngọc Chênh

(huynhngocchenh.blogspot.com)

RFI

Ngày 07/03/2013, tổ chức Phóng viên không biên giới, với sự hỗ trợ của tập đoàn tin học Google, quyết định trao tặng giải thưởng Công dân mạng – Netizen 2013 cho blogger Việt Nam Huỳnh Ngọc Chênh. Trong thời gian từ 27/02 đến 05/03, hơn 40 000 người sử dụng internet đã bỏ phiếu qua mạng YouTube của tổ chức Phóng viên không biên giới, lựa chọn người được giải, trong số 9 ứng viên.

Theo Phóng viên không biên giới, ông Huỳnh Ngọc Chênh là một trong những blogger có ảnh hưởng nhất tại Việt Nam. Hiện nay, blog của ông mỗi ngày có khoảng 15 000 người đọc, nhưng lại bị ngăn chặn ở Việt Nam. Người đọc phải dùng phần mềm để vượt qua hệ thống kiểm duyệt.

Ông Huỳnh Ngọc Chênh không ngần ngại chỉ trích chính phủ và bảo vệ quyền tự do ngôn luận. Ông tập trung vào các vấn đề dân chủ, nhân quyền và các tranh chấp lãnh thổ giữa Việt Nam và Trung Quốc ở Biển Đông. Do các bài viết này, ông đã bị chính quyền đe doạ, bị theo dõi và nghe trộm điện thoại. Bất chấp tất cả các vấn đề gặp phải, ông vẫn tiếp tục viết và trả lời các câu hỏi của các cơ quan truyền thông nước ngoài về những chủ đề nhậy cảm nhất ở Việt Nam.

Khi biết tin được trao giải Công dân mạng 2013, ông Huỳnh Ngọc Chênh cho biết giải thưởng tác động lớn đối với bản thân ông, tạo cho ông một nguồn cảm hứng mới, động viên toàn thể các blogger, những nhà báo tự do khác ở Việt Nam, những người đang bị ràng buộc, hạn chế về tự do ngôn luận.

Lễ trao giải thưởng Công dân mạng sẽ được tổ chức vào ngày 12/03/2013, tại trụ sở của chi nhánh Google Pháp, ở Paris, nhân Ngày Thế giới chống kiểm duyệt internet.

Năm 2008, lần đầu tiên, tổ chức Phóng viên không biên giới khai trương Ngày Thế giới chống kiểm duyệt internet, với mục đích duy trì mạng internet tự do, tất cả mọi người đều có thể tiếp cận. Năm 2010, tập đoàn Google liên kết với Phóng viên không biên giới lập giải thưởng Cộng dân mạng và hàng năm, trao giải thưởng này cho những người sử dụng internet, blogger hoặc nhà ly khai sử dụng internet có những hoạt động nổi bật trong lĩnh vực bảo vệ quyền tự do ngôn luận trên internet. Giải Công dân mạng có tiền thưởng là 2500 euro.

Trả lời phỏng vấn RFI, blogger Huỳnh Ngọc Chênh cho biết cảm tưởng của ông khi biết tin được trao giải thưởng này:

Blogger Huỳnh Ngọc Chênh-08/03/2013

 

08/03/2013

 

Nghe (08:20)

 

 

 

Miếng bánh mì cháy

The Burned Biscuits

The Burnt Biscuits (Story)

When I was a kid, my mom would prepare special breakfast every now and then. And I remember one night in particular, after a long, hard day at work. On that evening so long ago, my mom placed a plate of eggs, sausage and extremely burned biscuits in front of my dad. I remember waiting to see if anyone noticed! Yet all my dad did was reach for his biscuit, smile at my mom and ask me how my day was atschool. I don’t remember what I told him that night, but I do remember watching him smear butter and jelly on that biscuit and eat every bite!

When I got up from the table that evening, I remember hearing my mom apologize to my dad for burning the biscuits. And I’ll never forget what he said: Honey, I love burned biscuits.

Later that night, I went to kiss Daddy good night and I asked him if he really liked his biscuits burned.

He wrapped me in his arms and said, Your Momma put in a hard day at work today and she’s real tired. And besides – a little burnt biscuit never hurt anyone! You know, life is full of imperfect things…..and imperfect people. I’m not the best at hardly anything, and I forget birthdays and anniversaries just like everyone else.

What I’ve learned over the years is that learning to accept each other’s faults – and choosing to celebrate each other’s differences – is one of the most important keys to creating a healthy, growing, and lasting relationship.

And that’s my prayer for you today. That you will learn to take the good, the bad, and the ugly parts of your life and lay them at the feet of God. Because in the end, He’s the only One who will be able to give you a relationship where a burnt biscuit isn’t a deal-breaker!

We could extend this to any relationship. In fact, understanding is the base of any relationship, be it a husband-wife or parent-child or friendship!

Don’t put the key to your happiness in someone else’s pocket – keep it in your own.

God Bless You….. now, and always….
Miếng bánh mì cháy

Khi tôi còn là một đứa trẻ, mẹ luôn tất bật chuyện nấu nướng, dọn dẹp, và chuẩn bị chu đáo cho tất cả mọi người. Tối nọ, sau cả ngày lao động vất vả, mẹ đặt đĩa trứng, xúc xích và những miếng bánh mì quá lửa lên trước mặt ba tôi. Tôi đã chờ đợi xem phản ứng của ba như thế nào, hẳn ông sẽ rất giận dữ. Tuy nhiên, tất cả những việc ông làm là lấy bánh mì bị cháy, quệt bơ mứt, ăn với xúc xích từng miếng một, và mỉm cười với mẹ. Sau đó, ba quay sang hỏi tôi hôm nay đi học thế nào.Khi tôi đứng dậy vào phòng học bài, tôi nghe tiếng mẹ nói xin lỗi ba vì làm bánh mì cháy. Và tôi sẽ không bao giờ có thể quên điều ba tôi nói: “Em yêu à, anh rất thích những miếng bánh mì cháy”.Tối muộn đó, ba vào giường hôn lên trán và chúc tôi ngủ ngon. Không kìm nén được, tôi liền hỏi ba rằng “Ba thực sự thích ăn những miếng bánh bị cháy?”. Ba ôm tôi vào lòng và nói: “Mẹ của con đã phải làm việc rất vất vả cả ngày, và mẹ thực sự mệt, bên cạnh đó chỉ một chút bánh bị cháy không bao giờ có thể làm tổn thương bất kỳ ai. Con biết không, trong cuộc sống, còn có rất nhiều thứ không hoàn hảo, và cả những con người không hoàn hảo. Ba cũng không phải là người tốt nhất, có lúc ba đã quên ngày sinh nhật của mẹ, quên những kỉ niệm giống như bất kỳ ai, nhưng mẹ con chưa bao giờ đòi hỏi hay trách móc gì cả”. Cái mà tôi học được trong nhiều năm qua, chính là biết chấp nhận những lỗi lầm của nhau, và vui mừng với những nét độc đáo của nhau. Chúng ta có thể mở rộng bất kì mối quan hệ nào, thực tế, sự thấu hiểu là nền tảng cơ bản cho mọi mối quan hệ bao gồm tình bạn, tình vợ chồng hay cha mẹ – con cái. Đừng đặt chìa khoá hạnh phúc của bạn trong túi người khác, hãy giữ nó cho mình nhé.

(Theo LFD)

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Trước khi chết Tổng Thống Chavez làm hoà với Giáo Hội và trở về với Chúa

Trước khi chết Tổng Thống Chavez làm hoà với Giáo Hội và trở về với Chúa
Nguyễn Long Thao

3/7/2013                                                  nguồn:Vietcatholic.net
Caracas, Venezuela, Thông tấn xã CNA của Giáo Hội Công Giáo Hoa Kỳ trích dẫn một nguồn tin đáng tin cậy ở Venezuela cho biết Tổng thống Hugo Chavez trước khi chết vì bệnh ung thư đã sám hối trở về với Giáo Hội Công Giáo và đã được chịu các phép bí tích sau cùng.

Khi thông báo cho quốc dân biết về cái chết của Tổng Thống Chavez vào ngày 5 tháng 3, Phó Tổng thống Nicolas Maduro nói Tổng Thống đã trở về với Chúa và ông đã dùng cụm từ “bám lấy Chúa Kitô (Clinging to Christ) để chỉ hành động của Tổng Thống Chavez trong những tuần lễ cuối đời. Vào lúc lâm chung Tổng Thống đã yêu cầu được phó linh hồn và xin nhận bí tích xức dầu.

Kể từ khi ông lên nắm quyền vào năm 1999, Tổng thống Chavez là một người hung hăng chống đối Giáo Hội Công Giáo. Ông chống lại chính sách công bằng xã hội của Kitô Giáo và muốn thiết lập một chính sách xã hội chủ nghĩa theo ý mình. Năm 2002, Tổng thống Chavez đã gọi các Giám Mục Venezuela là “khối ung nhọt” phá hoại các mục tiêu cách mạng của mình. Đồng thời ông nêu đích danh Tòa Thánh Vatican đừng can thiệp vào công việc nội bộ đất nước của ông.

Trong những năm gần đây, Tổng thống Chavez đôi khi tham dự nghi thức tôn giáo tại các nhà thờ của giáo phái khác. Rồi vào tháng Tư năm 2012, giới truyền thông rất ngạc nhiên khi ông xuất hiện tại một nhà thờ Công giáo ở quê hương minh là vùng Barinas để tham dự nghi thức Tuần Thánh. Ông đeo tràng hạt quanh cổ của mình và cầu nguyện xin cho được lành bệnh. Các ống kính truyền hình ngoại quốc thường chiếu hình ông Chavez cầm thánh giá hôn trước mặt các ký giả. Tháng Bảy năm ngoái, Tổng thống Chavez đã yêu cầu được gặp Hội Đồng Giám Mục Venezuela

Sau cái chết của Tổng thống Chavez, Đức Hồng Y Jorge Urosa của tổng giáo phận Caracas đang ở tại Rome tham dự bầu Giáo hoàng đã gửi lời chia buồn tới chính quyền Venezuela và yêu chính quyền áp dụng các điều khoản trong Hiến pháp để duy trì trật tự công cộng, hòa bình và đoàn kết nhân dân.

Nguyễn Long Thao

TRỞ VỀ

TRỞ VỀ
Nguoi cha nhan hau 2.jpg

Người cha không đi tìm đứa con út như tìm chiên lạc.

Nó đã dùng tự do để quyết định ra đi, và người cha tôn trọng quyết định đó.  Nhưng ông vẫn ngong ngóng chờ con.

Niềm hy vọng vẫn không ngừng nhen nhúm.

Người cha thấy con trước khi nó kịp thấy cha.  Con ốm yếu, hôi hám, bội bạc, chẳng làm cha xa tránh.

Tình thương trào dâng khiến bước chân cha vội vã.  Vòng tay cha lớn quá, nụ hôn cha nồng nàn.
Áo đẹp, dép mới, nhẫn đeo tay, ca nhạc, tiệc tùng, múa nhảy: tất cả chỉ để thông báo cho mọi người biết rằng đây là con tôi, vẫn là con vì chưa bao giờ không là con.

Nhưng người cha không chỉ thương con út.  Con cả mới là đích nhắm của câu chuyện này.

Anh quá hiếu thảo, quá vâng phục cha từng li từng tí.  Anh không đi hoang, không ăn chơi, chỉ chăm lo đồng áng.  Ai cũng thấy anh là người con mẫu mực.

Nhưng biến cố đứa em trở về đã làm lộ con người thật của anh.

Tuy luôn ở trong nhà cha, nhưng anh lại ở ngoài tim cha.  Anh không hiểu được tại sao cha lại nhu nhược đến thế, bao dung đến độ bất công với anh.  Đãi tiệc với thịt bê béo để mừng đứa con hoang đàng, còn anh, một con dê để lai rai với bạn bè cũng không có. Anh không thể vui với cha, càng không thể vui với em.  Anh tức giận vì thấy quyền lợi mình bị xâm phạm.  Rốt cuộc anh không chịu vào nhà!

Hoá ra cả hai người con vừa khác, lại vừa rất giống nhau.  Cả hai đều ở ngoài nhà cha, chấp nhận chịu đói.

Con út không thấy hạnh phúc bên cha nên ra đi.  Con cả không chia sẻ được hạnh phúc của cha nên không vào.

Sám hối là trở về với tình cha.  Cả hai người con đều cần trở về, trở vào.

Sám hối là trở lại với tình yêu, niềm vui, sự sống.

Nhưng trở về chẳng phải là chuyện dễ dàng.

Chẳng ai muốn nhận là mình đã đi lầm đường.  Người anh cả cần dẹp bỏ tự ái để vui vẻ vào nhà. Người em út cần khiêm tốn mới gặp cha và gia nhân trong tình trạng thân tàn ma dại.

Để trở về cần đứng lên hay bỏ chỗ mình đang đứng.

Từ bỏ thì đớn đau nhưng hạnh phúc thật tuyệt vời.

Hạnh phúc lớn nhất không phải là tài sản vật chất, mà là khám phá ra mình có chỗ trong trái tim cha. Cha yêu mình dù mình hư hỏng, bất trung.  Cha yêu mình không phải vì mình ngoan ngoãn, được việc. Cha yêu mình chỉ vì mình là con.  Cha không muốn mất một đứa con nào.

Trở về với Cha đòi ta giang tay đón lấy người em.  Đó không phải là “thằng con của cha”, nhưng là “em của con”.

Trở về với Cha, với tha nhân cũng là trở về với mình.  Tôi chợt nhận ra mình quá ư giàu có.

***************************************

Lạy Cha, người con thứ đã muốn tự định đoạt lấy đời mình.  Chúng con vẫn rơi vào tội của người con thứ, khi coi Cha như người cản trở hạnh phúc của chúng con.  Chúng con thèm được tự do bay nhảy ngoài vòng tay của Cha; nhưng tự do ấy lại biến chúng con thành nô lệ.  Hạnh phúc do thế gian ban tặng thì bọt bèo.  Như người con thứ, chúng con bỗng thấy mình tay trắng, rơi xuống chỗ cùng cực và bị cái chết đe doạ.

Lạy Cha đầy lòng bao dung, xin kéo chúng con trở về với Cha mỗi ngày, giúp chúng con điều chỉnh những đam mê lệch lạc.  Xin nâng chúng con đứng lên trong niềm vui vì tin rằng tình Cha lớn hơn tội chúng con vạn bội.  Ước gì những vấp ngã khiến chúng con lớn lên, thấy mình mong manh, thấy Cha rộng lượng.  Ước gì sau mỗi lần được Cha tha thứ, chúng con lại thấy mình hiền hoà hơn với tha nhân.

Trích trong ‘Manna’

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Đức tin trong giới trẻ ngày nay

Đức tin trong giới trẻ ngày nay

Tu sĩ Michael Paul Gallagher, SJ (Dòng Tên), giải thích rằng nền văn hóa mới mà chúng ta đang sống ngày nay không nhất thiết là chống lại niềm tin Kitô, nhưng nó kêu gọi giới trẻ ngày nay quyết định cuộc sống và tâm linh của mình.

Vài tháng trước tại Rôma, tôi có hẹn và đến sớm, tôi dùng thời gian ngắn ngủi đó để cầu nguyện. Bên trong nhà thờ đang có thánh lễ kỷ niệm ngày cưới. Đôi vợ chồng lớn tuổi ngồi ở ghế đặc biệt ngay trước bàn thờ và con cháu ngồi ở hàng ghế trước, ai cũng tươm tất và lộng lẫy.

Linh mục đang giảng, khoảng cầu nguyện riêng của tôi không đủ thinh lặng như tôi muốn. Tôi nghe lời giảng – nhưng với cảm giác buồn gia tăng. Linh mục khen đôi vợ chồng già đã sống chung thủy với nhau 50 năm qua, nhưng rồi tiếp tục chỉ trích “văn hóa hiện đại” thiếu nền tảng, xa rời các giá trị Kitô giáo, ích kỷ và vụn vỡ luân lý. Ngài có vẻ hơi khác với các thế hệ đang nghe ngài nói. Tôi an tâm vì phải rời nhà thờ để đi theo lịch hẹn.

Tại sao hồi tưởng giai đoạn này ở đây? Vì linh mục đó có phần đúng: văn hóa hiện đại có thể làm con người tản mác như đoàn chiên không người chăn mà Phúc âm nói tới. Tiếng nói của ngài có vẻ không đúng với tôi. Ngài không cố gắng bước vào thế giới của giới trẻ hoặc không nhận ra các nhu cầu khác của họ. Ngài có vẻ không thấy cái gì tốt trong cách sống mà họ phải sống.

Từ chủ đề xử lý đức tin theo dạng văn hóa này, hãy để tôi tưởng tượng ra một cách khác. Không chỉ trong một bài giảng. Có nhiều điều để suy nghĩ.

Khi còn sống, ĐGH Gioan-Phaolô II đã thành lập Hội đồng Giáo hoàng về Văn hóa (Pontifical Council for Culture) tạiVatican. Tôi làm việc ở đó 5 năm trong đầu thập niên 1990. Ý tưởng đầu tiên của ngài là vươn xa ra thế giới của văn hóa sáng tạo: các nhà tư tưởng, các nghệ sĩ, các văn sĩ, các nhà trí thức,… Đó là lĩnh vực mà ĐGH Gioan-Phaolô II đã quan tâm đặc biệt, tự hóa thân thành một triết gì, một thi sĩ và một kịch sĩ.

Tuy nhiên, trong những năm tiếp theo, ngài mở rộng phạm vi của Hội đồng bao gồm điều mà ngài gọi là “văn hóa sống” (living culture). Dần dần giáo hội nhận ra rằng văn hóa bình thường này là một cách thể hiện mạnh mẽ, định hình cách sống của mỗi người. Như không khí chúng ta hít thở, chúng ta đồng hóa cách nhìn của thế giới, một số giả định thường ẩn về quyền ưu tiên của cuộc sống. Loại văn hóa này là vấn đề của cách sống hơn là các tư tưởng minh nhiên. Nó giống như một tảng băng, lớn có thể nhìn thấy nhưng nhưng không ảnh hưởng gì. Nó như một ngôn ngữ mà chúng ta học và cứ cho là vậy. Nó cho chúng ta những gì chúng ta gọi là “ý nghĩa chung”.

Đại dương văn hóa bình thường này bao quanh chúng ta và đã thay đổi nhiều trong thế hệ vừa qua hoặc khoảng đó. Chúng ta có thể mô tả thế nào về các sự thay đổi này và tầm ảnh hưởng của chúng đối với đức tin? Trước hết, nó đơn giản và hợp nhất hơn trước. Ít nhất là tại Ai-len cho tới thập niên 1960. chúng ta sống trong một thế giới được che chở, theo nghĩa đen là văn hóa vùng đảo (island culture). Đức tin Kitô giáo là một phần di sản hầu như của mọi người. Đức tin đó được lưu truyền trong các gia đình, các giáo xứ và các trường học.

Nhưng ngày nay, tôi nghĩ đây là vấn đề lớin bị linh mục Rôma kia khinh suất, đức tin không thể là một di sản trơn tru như vậy. Nó phải là một quyết định và thường là quyết định lội ngược dòng. Thế nên vấn đề chính là: Giáo hội có thể làm gì để nuôi dưỡng quyết định đó? Có thể ngôn ngữ cũ hơn của đức tin, với sự nhấn mạnh về đức vâng lời và thực hành các bí tích, sẽ nuôi dưỡng người ta như trong quá khứ.

Đôi vợ chồng già kỷ niệm kim khánh hôn nhân kia đã trưởng thành trong thời kỳ đầu của sự chuyển giao đức tin. Có thể họ thấy ý nghĩa sâu xa về Thiên Chúa qua lòng chung thủy của họ đối với việc tham dự phụng vụ. Nhưng con cháu của họ có thể “bơi” trong vùng biển khác, lẫn lộn những dòng nước trái ngược, để nói như vậy. Con đường của họ đến với Chúa Kitô sẽ phải ít thụ động hơn, cá nhân hơn, tâm linh hơn, nhiều tận tụy minh nhiên hơn.

Điều này có phải “văn hóa hiện đại” là kẻ thù của đức tin? Không nhất thiếtnhưng nó phức tạp hơn và dễ lầm lẫn hơn. Trong thời đại mới và kỹ thuật mới, những cách diễn tã cũ về đức tin có thể không có vẻ không quá khả nghi và không thực tế như vậy. Cần có những lối vào mới, không quy trách cho văn hóa.

Vài tháng trước khi được bầu làm giáo hoàng, lúc đó Hồng y Ratzinger đã trả lời phỏng vấn của một tờ báo của Ý hơi chống giáo hội và trả lời câu hỏi về tình hình mới đối với đức tin bằng những từ thế này: “Cốt lõi của Kitô giáo là câu chuyện yêu thương giữa Thiên Chúa và loài người. Nếu chúng ta có thể hiểu điều này bằng ngôn ngữ cảu ngày nay, mọi sự khác sẽ theo sau… Cách sống ngày nay rất khác và do đó mà cách tiếp cận thông minh là chưa đủ. Chúng ta phải cho người ta những khoảng sống của cộng đồng và của sự phát triển dần dần chung với nhau”.

Nhận biết thử thách mới này là bước đầu tiến về cách nói mới. Đó sẽ là tiếng nói của sự mời gọi chứ không là mệnh lệnh. Đó sẽ là cố gắng đánh thức những ước muốn còn ngủ quên trong tâm hồn mọi người. Điều đó sẽ cho họ khí cụ để hỏi về các phương diện nông cạn của văn hóa đang bao quanh.

Theo một ý nghĩa nào đó, đức tin sẽ luôn ở trong độ căng với đức tin, nhưng như vậy không có nghĩa là chỉ nên than vãn về điều đó. Theo cách nói của thần học gia người Đức Dorothy Soelle: “Điều gây thất kinh trong văn hóa của chúng ta là đa số người ta không có ngôn ngữ để nói về chiều kích tâm linh”.

Lời nhận xét nổi tiếng của Karl Rahner cũng tương tự: “Các tín hữu ngày mai sẽ là những người thần bí hoặc không còn đức tin nữa”. Ông không có ý nói mọi người sẽ trầm mặc hoặc có cảm nghiệm khác thường về Thiên Chúa. Ông nói về sự thần bí hàng ngày, về khả năng nhận ra tiếng gọi và hoa trái Thánh Thần trong những cách chọn lựa và cảm nghiệm bình thường.

Những điều này có nghĩa là đức tin trong tương lai sẽ cần chín muồi hơn để “sống sót” trong một nền văn hóa nhiêu khê hơn, như cây cối chỉ có thể sống trong giông bão nếu rễ của nó đâm sâu và mạnh. Hãy lặp lại lời thơ của thi sĩHopkins:

Niềm hy vọng với lời cầu

Làm đâm bén rễ vào sâu đất màu

(Our hope and our prayer becomes: send our roots rain).

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ CatholicIreland.net)

Anh chị Thụ& Mai gởi

 

Giọt nước mắt

Giọt nước mắt

Ai sinh ra cũng khóc. Đứa bé khóc được là thân nhân vui mừng, đứa bé không khóc thì thân nhân… lo. Vậy khóc là “tín hiệu tốt” chứ không phải là cười.

Rồi khôn lớn dần, trong cuộc sống, ai cũng đã từng hơn một lần rưng rưng nước mắt hoặc đầm đìa nước mắt. Mà nói đến nước mắt là nói đến trạng thái khóc. Thường thì khóc là thể hiện tâm trạng buồn. Nhưng cũng có thể khóc vì vui, như thi hào Nguyễn Công Trứ mô tả: “Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười”. Buồn mà lại cười, đó là lúc người ta quá buồn, buồn muốn phát điên, buồn muốn khóc, và rồi khóc đến cạn nước mắt. Có thể đó là “cái bí ẩn” trong cách nói của người Việt Nam thường nói: “Buồn cười quá!”.

Cụ Nguyễn Công Trứ đã từng “khóc”, vì ông đã “ngồi buồn mà trách ông xanh” và mong ước:

Kiếp sau xin chớ làm người

Làm cây thông đứng giữa trời mà reo

Nhưng với chúng ta, những người có niềm tin vào Đức-Kitô-tử-nạn-và-phục-sinh, chúng ta có quyết tâm tích cực hoàn toàn khác:

Kiếp sau xin vẫn làm người

Và làm thánh giữa Nước Trời trường sinh

Chúng ta không chỉ “vẫn làm người”, vì thân xác chúng ta cũng được sống lại và lên trời, đặc biệt là còn làm “thánh nhân”. Nhưng trước khi “về Nhà Cha” hưởng phúc trường sinh vinh quang, chúng ta không thể không phải chịu đau khổ, nghĩa là có những lúc buồn nẫu ruột, buồn đến chết, buồn đến bật khóc,… đến nỗi những người kém lòng tin đã tự tử.

Khóc có nhiều kiểu. Khóc có nhiều nguyên nhân. Khóc có nhiều mức độ. Thế nên nước mắt cũng có nhiều loại, kể cả “nước mắt cá sấu”. Và tất nhiên, nước mắt không chỉ có vị mặn mà còn có những vị khác nữa!

Với nhạc sĩ Ngô Thụy Miên, ông có “giọt nước mắt ngà”: “Em đứng bên sông buồn, nhìn cuộc tình trôi qua và lòng người phôi pha. Trên hai đóa môi hồng, nụ cười đã đi xa. Ôi giọt nước mắt nào cho cuộc tình đầu… Thôi một giọt nước mắt này, cho cuộc tình đam mê, cho người tình trăm năm… Giọt lệ nào thương vay, tình đành tràn mi cay… Ôi giọt nước mắt ngà cho cuộc tình đầu tiên!”. Giọt-nước-mắt-ngà của NS họ Ngô là giọt-lệ-tình-sầu, một “kiểu” nước mắt của riêng ông.

Người đời có nhiều loại nước mắt, riêng người Công giáo có thêm loại nước-mắt-ăn-năn, nước-mắt-khóc-cho-tội-mình mang vị mặn chát, nhưng đó là loại nước-mắt-thánh-thiện rất cần thiết. Nước mắt làm cho sáng mắt, và nước mắt có thể làm “trôi đi” phần nào nỗi buồn.

Tác giả Thánh vịnh có kiểu khóc thế này: “Tôi lang thang như người khóc mẹ, tôi tủi buồn cúi mặt xuống mà đi” (Tv 35:14). Nước mắt chảy nhiều đến nỗi tác giả “xin lấy vò mà đựng nước mắt” (Tv 56:9), và thường đem “nước mắt hoà nước uống” (Tv 102:10). Có những giọt nước mắt bình thường hoặc tầm thường, nhưng có những giọt nước mắt quý giá – gọi là châu lệ.

Thánh Phaolô cũng đã từng phải khóc: “Tôi phải than khóc nhiều người trước đây đã phạm tội, mà nay chẳng chịu ăn năn hối cải về những việc ô uế, gian dâm và phóng đãng họ đã làm” (2 Cr 12:21).

Thánh sử Luca tường thuật: “Có một phụ nữ tội lỗi cúi sát chân Chúa Giêsu mà khóc. Chị lấy nước mắt mình mà tưới ướt chân Ngài, lấy tóc mình mà lau, rồi hôn chân Ngài và lấy dầu thơm mà đổ lên” (Lc 7:38). Những giọt nước mắt như vậy thực sự là châu lệ, vì đầy tâm tình sám hối và tin yêu. Do đó, Chúa Giêsu đề cao tấm gương của phụ-nữ-tội-lỗi này: “Yêu nhiều nên được tha nhiều” (Lc 7:47).

Thứ Sáu Tuần Thánh là ngày Đại Tang của Giáo hội, đúng ra là Thế Giới Tang. Nhiều người chú trọng nhiều đến “bề ngoài”, lo “bày tỏ” bằng những cách để đánh vào thị hiếu của giới bình dân. Nếu thực sự ngoại tại có thể giúp nội tại thì cũng tốt, nhưng đừng thái quá. Điều cần là “đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng” (Ge 2:13). Khóc cho tội và chết cho tội là thành tâm sám hối và quyết tâm chừa tội, đó mới là cách Chúa muốn. Cứ lo “diễn” bề ngoài mà không chú ý nội tâm thì chắc chắn Chúa không muốn.

Chính Đức Giêsu cũng đã khóc vì thương tiếc thành Giêrusalem (x. Lc 19:41), nhưng khi người ta than khóc Ngài vì thấy Ngài vác Thập giá, dù Ngài đang rất mệt mỏi và đau đớn mà vẫn ráng quay lại nói: “Hỡi chị em thành Giêrusalem, đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận mình và cho con cháu” (Lc 23:28).

Đó cũng chính là lời cảnh báo Ngài nói thẳng với chúng ta. Và rồi khi “Ngài ngự đến giữa đám mây”, nghĩa là lúc Ngài đến thế gian lần thứ hai, “ai nấy sẽ thấy Ngài, cả những kẻ đã đâm Ngài. Mọi dân trên mặt đất sẽ đấm ngực than khóc khi thấy Ngài” (Kh 1:7).

Cuộc đời là chuỗi-đau-khổ-đầy-nước-mắt, nhưng chính đau khổ lại là diễm phúc: “Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an” (Mt 5:5). Khóc không bị chê trách mà được chúc phúc. Giọt-nước-mắt đó đầy vị-mặn-yêu-thương. Chỉ có một loại nước mắt tệ hại nhất và vô phúc nhất là giọt-nước-mắt-trong-hỏa-ngục, vì phải đời đời “khóc lóc và nghiến răng” (Mt 8:12; Mt 13:42; Mt 13:50; Mt 22:13; Mt 24:51; Mt 25:30; Lc 13:28).

Chúa Giêsu đã dùng chính sự thất bại để chiến thắng, dùng chính đau khổ để đạt vinh quang, và dùng chính cái chết để đạt sự phục sinh. Đấng Cứu Thế đã vậy thì chúng ta không thể không như Ngài – nghĩa là cũng phải khóc lóc và rơi lệ hằng ngày. Tuy nhiên, Ngài đã chết để chúng ta được sống, và rồi “Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt chúng ta” (Kh 7:17; Kh 21:4).

Lạy Chúa Cha hằng hữu đầy lòng thương xót, vì tội lỗi khốn nạn của chúng con mà Ngài bắt Đức Kitô, Con Yêu Dấu của Cha, phải chết đau thương. Chúng con thành tâm xin lỗi Đức Giêsu Kitô, xin cho nước mắt của chúng con được hòa với Máu và Nước của Ngài để nài xin lòng thương xót cho chính chúng con và toàn thế giới. Chúng con khẩn thiết Chúa Cha thương xót và tha thứ cho chúng con, xin giúp chúng con trung tín với Ơn Chúa để đừng làm khổ Đức Giêsu chút nào nữa. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa của chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

Anh chị Thụ & Mai gởi

Đừng để đến mai.

Đừng để đến mai.

Margaret Mitchell, tác giả cuốn tiểu thuyết rất nổi tiếng “Gone with the Wind”, dịch ra nhiều thứ tiếng, tiếng Việt là “Cuốn theo chiều gió”.

Trong tiểu thuyết này, nhân vật chính là cô Scarlet, từ đầu tới cuối chuyện cô thường nói câu: “Để mai sẽ lo chuyện đó“. Tới trang cuối cùng khi đã mất người chồng thứ ba là Rhod Bluster, Scarlet còn nói: “Để mai tôi sẽ chiếm lại Rhed Bluster“.

Chính người thuật truyện nói rằng Margaret là một người Công Giáo xa Giáo Hội đã nhiều năm, cứ hoãn việc trở về với Giáo Hội.  Và có ai nhắc thì bà ta chuyên lặp lại câu:  “Để mai sẽ lo chuyện đó” .

Bà bị tai nạn xe hơi tại Atlanta, Georgia.

Một người bạn rất thân của bà ta kể lại rằng khi mê man bất tỉnh, bà ta cứ lặp đi lặp lại câu này:  “Để mai sẽ lo  chuyện đó”. Nhưng đã không có “mai” nữa!!!

Bà chết ngày 16 tháng 6 năm 1949.

Lời Chúa: (Luca 12,39-40):  Nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, hẳn ông ta đã không để nó khoét tường nhà mình. Anh em cũng vậy, hãy sẵn sàng, vì chính lúc anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến”.

Lm. Đoàn Quang

chị Nguyễn Kim Bằng gởi

 

Blogger Tạ Phong Tần được vinh danh là 1 trong 10 Phụ nữ Can Đảm của Thế Giới

Blogger Tạ Phong Tần được vinh danh là 1 trong 10 Phụ nữ Can Đảm của Thế Giới

nguồn: VOA

Blogger Tạ Phong Tần, cựu đảng viên đảng Cộng sản Việt Nam

Blogger Tạ Phong Tần, cựu đảng viên đảng Cộng sản Việt Nam

06.03.2013

​​Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ loan báo trong ngày Quốc Tế Phụ Nữ thứ Sáu sắp tới, Bộ Ngoại giao sẽ vinh danh 10 phụ nữ có những thành tích ngoại hạng xứng đáng được trao Giải Phụ Nữ Can Đảm của Thế Giới.

Một thông cáo của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, ghi ngày 4 tháng Ba, loan báo Ngoại trưởng Kerry và Đệ Nhất Phu Nhân Hoa Kỳ Michelle Obama sẽ chính thức trao giải cho 10 phụ nữ đặc biệt này, tại một buổi lễ được cử hành vào lúc 3 giờ chiều tại Hội trường Dean Acheson của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ ở thủ đô Washington.
​​
Trong danh sách những người được giải thưởng có Blogger Tạ Phong Tần, hiện đang thọ án tù 10 năm tại Việt Nam, nên sẽ đuợc trao giải khiếm diện.

Bà Tạ Phong Tần có trang blog mang tên “Công lý và Sự Thật”, với hàng trăm bài viết phản ánh những bất công xã hội, các vụ tịch thu đất đai, và tệ nạn tham nhũng trong các cơ quan chính quyền Việt Nam.

Giải Phụ Nữ Can Trường Thế giới của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ là một giải thường niên để vinh danh các phụ nữ trên khắp thế giới đã chứng tỏ lòng can đảm ngoại hạng cũng như khả năng lãnh đạo trong việc cổ vũ cho các quyền phụ nữ và trao quyền cho nữ giới, bất chấp những gian nguy cho cá nhân mình.

Từ khi giải này được thiết lập năm 2007, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã vinh danh tất cả 67 phụ nữ đến từ 45 quốc gia.

Nguồn: Office of the Spokesperson, State Dept.

THĂM CHỒNG

THĂM  CHỒNG
Thương tặng chồng và các con tôi,những người đã
chung góp đau khỗ với tôi trên quê hương..
BẠCH – TUYẾT

Chúng tôi yêu nhau khi còn ở Trung học,sáu năm sau mới cưới nhau Và khi đã có năm đứa con,chưa bao giờ xa nhau quá một tuần.Vậy mà khi đất nước được gọi là”giải phóng “năm 75,vợ chồng tôi phải chia tay…không biết bao giờ mới được gặp mặt…
Đứng trước cỗng trường Petrus Ký ,chi ngăn cách có cái cỗng rào ,nhưng tôi cảm thấy đã có cái ngăn cách thật sư rồi ,một sự ngăn cách vô cực!Tôi nhìn bóng dáng của chồng tôi xa dần…xa dần.
Bao nhiêu đau khỗ của người đàn bà bơ vơ với năm đứa con thơ dại -lớn nhứt 11 tuổi và nhỏ nhứt mới biết nói bập bẹ-ngày qua tháng lại sống trong đợi chờ thương nhớ và tuyệt vọng…tôi hận thù cộng sản bấy nhiêu.
Khi nhận được lá thơ đầu tiên của chồng tôi từ miền Bắc ,tôi quyết định phải đi thăm.
Không rành đường đi,không biết nơi đến,trong tay võn vẹn một bao thơ(viết bằng ám số )với chữ Vĩnh Quang(Vĩnh Phú )tôi cùng người dì chồng quãy gần 100 ký lô ra đi sáng mùng bốn Tết mùa Xuân năm 79.
Tôi không biết phải tả làm sao cho hết nỗi sơn trường của một người đàn bà mang trong tay 7 giỏ hành lý nặng, phương tiện chuyên chở không có,đến nỗi khi mệt mõi quá tôi và dì tôi phải mang mỗi lần 1 giỏ một và đi trỡ lại xách tiếp…thành quãng đường dài gấp ba lần.Vậy mà chúng tôi lại đi lạc đường,thay vì Vĩnh Phú Tam Đão gần hơn tôi lại đi Vĩnh Phú  Ấm Thượng.Chúng tôi phải lui trỡ lại 80 cây số…
Đến ngày thứ sáu tôi tới trại Vĩnh Quang A,sau khi trình giấy tờ,hồi họp chờ đợi…Hai người cán bộ cộng sãn đang kè hai bên một người trẻ tuổi ,gương mặt sáng láng…nhưng không đi dược vì thiếu dinh dưỡng.Tôi rụng rời…nhưng không phải chồng tôi ,đó là một sĩ quan trẻ Sài Gòn có thân nhân miền Bắc thăm nuôi. Còn tôi cán bộ cho biết là Vĩnh Quang A không có tên anh ấy ,phải đi bộ thêm 5 cây số nữa để tới trại B.Chúng tôi quãy gánh ,leo núi tới trại B là 3 giờ chiều. Nhưng lại thêm một thất vọng nữa người can bộ cầm phong thơ trã lại “rất tiếc là anh ấy khong có ở đây”.
Sáu ngày đêm chỉ uống nước và ăn vặt…ba lần đi lạc ,tôi chán nãn và muốn khóc thốt lên với dì tôi:”Nếu không tìm ra dược ảnh ,con quăng đồ đạc này xuống hố và nhảy theo…chứ không về nhà khi chưa gặp được mặt chồng” Người cán bộ thấy vậy động lòng?cầm bao thơ một lần nữa…vô trại tìm.
Dì cháu tôi đứng ngay ngoài cỗng chờ đợi.Ba mươi phút sau tôi nhìn thấy từ xa chồng tôi-bốn năm trời mới được thấy mặt-mặc bộ đồ bà ba đen tươi cười khi thấy tôi.Tôi la lên :”Dì ơi…anh Cẩn kìa…tìm được rồi dì ơi…”
Chúng tôi được ngồi nói chuyện ở “phòng tiếp tân”(?) ngăn cách bỡi cái bàn dài
người cán bộ cộng sãn ngồi ở giữa ,vợ chông tôi ngồi đối diện theo sự “hướng dẫn”của cán bộ chứ không được ngồi gần .
Câu đầu tiên anh nói với tôi :”Anh không ngờ được vì em là người đầu tiên từ
Sài Gòn ra thăm ở trại này!”Sau đó anh chỉ ngồi mĩm cười để nghe tôi nói.Còn tôi
thật bình tĩnh ,tôi rất ghét khóc trước mặt kẽ thù.Tôi mốn cho họ thấy rằng dù tôi bị
mất tất cả:mất chồng ,mất của cải ,mất niền tin ,mất tự do…tôi vẫn luôn tươi cười
trước họ. Tôi nói thao thao bất tuyệt chuyện nhà cữa ,chuyện con cái ngoan và học giỏi(thật sự con tôi cũng rất ngoan và học giỏi ,đó cũng là niềm tự hào để tôi sống ).Tôi muốn níu thời gian ngừng lại ,chồng tôi chắc cũng nghĩ như tôi.Anh không hề ăn uống gì cả mặc dù thức ăn đang bày ra cả bàn và tôi biết anh đã thiếu ăn từ năm này đến tháng kia…Anh chăm chú nghe và đắm đuối nhìn tôi như muốn nuốt trọn tôi vào tim óc của anh.
Nữa giờ sau người cán bộ chấm dứt câu chuyện của chúng tôi:”Thôi anh thu xếp đồ đạc để vô trại.”
Chồng tôi đứng dậy nắm lấy tay tôi ,hôn phớt nhẹ lên trán một cái.Tôi rụng rời không phải vì xúc động bỡi cái hôn mà vì thương chồng quá…lo sợ anh ấy phải bị nặng nhẹ kiễm điễm…Chồng tôi gánh quà vô trại ,tôi đau xót ngậm ngùi đứng nhìn bóng dáng anh từ từ khuất dần…
Bấy giờ tôi mới bật khóc,bao nhiêu nỗi uất hận chất chứa bấy lâu nay…tuôn tràn ra.Tôi khóc như chưa bao giờ được khóc.
Chiều Xuân ở Tam Đão thật ãm đạm ,mưa bay lất phất ,chung quanh tôi là đồi núi chập chờn ,cao ngất.
Dì cháu tôi ở lại trại một mình với cây đèn bão leo lét.Tôi khóc suốt đêm đó ,từ Nam ra Bắc ,6 ngày đi đường vất vã ,gần nhau trong gang tấc mà chỉ được nhìn nhau có nữa tiếng đồng hồ.Bây giờ người trong ngục tối ,kẽ ở ngoài trại…biết đến bao giờ mới đươc gặp nhau đây?
Tiếng kẽng đỗ rùng rợn buổi sáng ,chỉ có ở với cộng sãn mới thấm thía tiếng kẽng này ,nó báo hiệu cho một ngày nô dịch lê thê của dân Việt Nam.Chúng tôi từ giã núi đồi ,từ giã”trại tiếp tân”lạnh lẽo…từ giã người yêu quý nhứt đời…đau xót
,ngậm ngùi xách túi nhẹ ra về.
Mười lăm ngày sau tôi mới về tới nhà gặp lại các con.Tôi bị mất ngủ khi đi thăm chồng về >Nhắm mắt là chập chờn hình ảnh chồng tôi ,nhắm mắt là lờ mờ hình ảnh người sĩ quan trẻ không đi được vì thiếu ăn…chập chờn từng đoàn người tù binh đi làm khỗ dịch ngoài ruộng ,bên núi ,Họ lặng lẽ âm thầm…
Tôi thấy xót xa đau đớn và thương tất cả những sĩ quan cùng cảnh với chồng mình ,họ phải sống nhục nhằn ,đói khát ,đọa đày trong lao tù miền Bắc.Tôi buôn bán trỡ lại và sống thật tiện tặng để có tiền đi thăm nuôi .Ba tháng sau tôi lại tiếp tục đi thăm…cứ như vậy kéo dài hơn 7 năm…
Và “ngày trở về”của anh ấy cũng là một kỹ niệm đẹp khó quên trong đời tôi..
nhưng mà có nghĩa lý gì khi được “tự do”với cộng sãn? Chồng tôi tiếp tục ở vào ngục tù thư hai ,dù được gần vợ con ,anh bị”quản chế”tại nhà thêm 6 năm nữa.
Bây giờ cả gia đình tôi được định cư tại CT theo diện H.O Chúng tôi sống là để chờ cái ngàycon cái mình được sống được thở không khí tự do này!Nhưng chúng tôi rất ngỡ ngàng e ngại…Phải khó khăn lắm mới lèo lái con thuyền cho vững ,cái bến bờ tự do này quá nhiều cám dỗ cho những kẽ thơ ngây ,non dại như con chúng ta.
Các con tôi đã lớn ,đã biết là sau lưng nước Việt Nam thân yêu ,gia đình tôi đã bỏ lại tất cả trong đó có những tình cảm thiêng liêng chân thật của những người ở lại..Chúng phải hiểu rằng vì sao lại bỏ atts cả để ra đi…
…Cầu xin ơn trên gia hộ cho đám con chúng ta ,những người H.O.bạc phước này,phải sống cho thành người làm việc cho xứng đáng ,đừng để mang tai tiếng
tủi hỗ vong linh những người đã bỏ mình trên quê hương ,trong chốn lao tù cộng sãn…tũi hỗ cho những bậc cha mẹ trót mang cái nghiệp H.O.
Nguyễn Ngọc Bạch-Tuyết

Lời Tỏ Tình

Lời Tỏ Tình
Phạm Thành Châu
Tác giả sinh quán tại Hội An, Quảng Nam , tốt nghiệp Đốc Sự Học Viện Quốc Gia Hành Chánh Việt Nam Cộng Hoà, hiện là cư dân Virginia . Nhà văn Phạm Thành Châu đã cộng tác với các báo Van, Thế Kỷ 21 và có ba tập truyện ngắn đã xuất bản. Nhân vật trong truyện của anh thật tuyệt vời! Họ chung tình quá sức.

***
Sau khi chiếm được nam Việt Nam, năm 1975, Cộng Sản miền Bắc lùa số lớn công chức, quân nhân, đảng viên các đảng phái quốc gia, các nhà tu hành của các tôn giáo miền Nam, ra Bắc “khổ sai biệt xứ”. Liên Xô có Xi-bê-ri thì Việt Nam có vùng núi non Tây Bắc khắc nghiệt, tuy không lạnh bằng Xi-bê-ri nhưng cũng đủ cho tù chết dần.

Chết vì lạnh, vì đói, vì lao động kiệt sức và

vì bịnh mà không có thuốc chữa.
Thông thường, tù phải tự đốn cây, cắt tranh làm lán cho mình ở, phải phá rừng, làm rẫy trồng trọt khoai củ nuôi thân. Nhà nước Cộng Sản không phải tốn phí nuôi tù cải tạo. Ban ngày tù vào rừng lao động, chiều về, vào lán, cán bộ coi tù khóa cửa lại, sáng hôm sau, mở cửa cho tù đi lao động tiếp.
Mấy năm đầu, tù chết quá nhiều nên chính quyền Cộng Sản Việt Nam cho thân nhân tù được gửi thuốc, áo quần (giới hạn) bằng đường bưu điện, về sau được thăm nuôi, nghĩa là được gặp mặt tù và tiếp tế lương thực, mùng mền, thuốc men…giúp tù chịu đựng, tiếp tục khai phá núi rừng và chết chậm hơn.
Trong chuyện nầy, tôi không kể về những sinh hoạt trong nhà tù mà kể về một anh bạn tù nằm cạnh tôi.
Anh Hùng, (nằm cạnh tôi) là người ít nói nhưng thường quan tâm đến người khác. Buổi tối, vào lán, thấy ai có vẻ trầm tư, suy nghĩ, là anh sà đến, nói huyên thuyên những chuyện trên trời dưới đất, chuyện nào cũng khiến người nghe bật cười. Thế là người bạn đó bớt buồn. Khi quay về, anh bảo tôi
– Khá rồi! Lo buồn làm mình suy sụp nhanh nhất.

Nhanh hơn cả bịnh hoạn. Chỉ cần mất ngủ vài ba đêm là không đủ sức gượng dậy.
Ai cũng biết điều đó, nhưng rất khó vượt qua, nhất là những người không được thăm nuôi, thậm chí không nhận được thư của thân nhân gửi vào.

Họ được gọi là “con bà xơ” (nữ tu), ý nói là con hoang trong trại mồ côi do các bà xơ (soeurs) nuôi dưỡng.

Các tù nhân con bà xơ nầy, mỗi khi thấy người nào ra thăm thân nhân, đem đồ tiếp tế vào là họ tránh chỗ khác, tìm những người cùng hoàn cảnh (không có thăm nuôi) mà chuyện trò, ăn mấy củ khoai, củ sắn với nhau. Được tặng thức ăn (thăm nuôi) họ có thể nhận một lần, lần sau thì từ chối.
– Xin cám ơn anh, tôi nhận thì không có gì tặng lại. Anh thông cảm cho tôi. Xin giữ lấy.
Trong tù, chỉ nghĩ đến miếng thịt, cây kẹo cũng đủ chảy nước miếng, vì cơ thể quá cần, nhưng nhận chút thực phẩm của bạn cho, lấy gì trả lại?
Tôi với anh Hùng, may mắn, được vợ thăm nuôi, dù cả năm chỉ được một lần và chỉ được một xách nhỏ. Một gói đường tán đen, gói cá khô, ít đậu và gạo, ít thuốc men, chỉ vậy thôi, vì tiền xe cộ đi hàng nghìn cây số (từ miền Nam ra núi rừng tây bắc), ăn uống dọc đường…hết cả!

Chúng tôi nghèo quá, nhưng vợ chồng gặp mặt nhau là may rồi. Tôi mừng, nhưng anh Hùng lại mừng hơn. Lần thăm nuôi nào anh cũng bảo.
– Đây là lần chót!
Thế nên, mỗi khi được gọi tên ra gặp thân nhân thì anh ngạc nhiên.
– Ai thăm tôi? Bà cụ thì quá yếu, không đi nổi!
Tôi cười bảo.
– Không phải vợ thì ai vào đây?
Theo vợ tôi kể, trong một lá thư gửi cho tôi, chỉ một lần vợ tôi cùng đi thăm nuôi với vợ anh Hùng mà hai người thành bạn thân. Cả hai đều ở trong một con hẻm vùng Đa Kao lại có chồng là bạn nằm cạnh nhau trong tù, cùng hoàn cảnh nên hai người đàn bà thương nhau, thường giúp đỡ nhau trong việc buôn bán mưu sinh.
Vì thấy anh vui hơi quá đáng mỗi khi được thăm nuôi nên tôi tò mò, cố tìm hiểu vì sao? Đúng ra, trong tù không nên biết chuyện gia đình người khác, nếu người đó không tự ý kể ra. Tôi không nhớ mình đã gợi ý cách nào khiến cho anh Hùng kể chuyện vợ con của anh.
Sau đây là câu chuyện theo lời Anh kể.
. . .

– Tôi là con trai độc nhất của bà cụ tôi. Đúng hơn, tôi là độc đinh của cả giòng họ nhà tôi. Nếu mẹ tôi không sinh ra tôi thì coi như họ Hoàng Đắc của tôi tuyệt tự.

Mẹ tôi săn sóc, chăm lo cho tôi, vì tình thương mà cũng vì trách nhiệm bên nhà chồng giao phó, là phải có người thừa tự, lo nhang khói, cúng giỗ để vong linh ông bà, tổ tiên khỏi bơ vơ, thành ma đói, ma khát, vất vưỡng trong cõi u minh.

Thế nên, khi tôi vừa xong tú tài là mẹ tôi lo tìm vợ cho tôi, vì bà sợ tôi vào quân đội, không biết chết lúc nào, sẽ không kịp có con trai để nối dõi tông đường.

Tôi thì không để ý đến chuyện đó. Ngay trong thời đi học, bạn bè yêu cô nầy, cô kia, tôi chỉ biết bài vở và các môn thể thao như đá banh, học võ…
Đến khi thi xong tú tài một, tôi tình nguyện đi sĩ quan Thủ Đức. Mẹ tôi, thời trẻ là đảng viên một đảng phái Quốc Gia, thông hiểu tình hình đất nước, bà cụ bảo tôi “Khi tổ quốc lâm nguy, làm con dân phải có bổn phận cùng với mọi người bảo vệ đất nước, bảo vệ đồng bào.

Những tên trốn lính, sống chui, sống nhủi chỉ thêm nhục. Nhưng con phải lấy vợ, sinh con trai để sau nầy lo nhang khói cho ông bà, tổ tiên”.

Mẹ tôi hỏi tôi có để ý cô nào chưa? Tôi thưa rằng “Mẹ xem cô nào vừa ý mẹ thì cưới cho con chứ con không có người yêu”. Mẹ tôi đến nhà các bà bạn, ngắm nghía cô nầy, dọ hỏi cô kia, cuối cùng bà chọn được một cô.

Mẹ tôi nhờ người mai mối, gia đình cô ta đồng ý ngay. Để tôi được gặp cô gái, mẹ tôi mua một ít trái cây, sai tôi đem đến biếu gia đình cô ta.

Hình như cô gái không biết có sự xếp đặt giữa hai gia đình nên cô ta tiếp tôi rất hồn nhiên, vô tư như với bạn bè. Tôi thấy cô cũng xinh, hiền lành, vui vẻ nên về thưa với mẹ tôi rằng “Mẹ thấy vừa ý thì con xin vâng lời”.

Quả thật, cô gái hoàn toàn không biết gì về việc cô sẽ là vợ tôi. Trước ngày tôi vào quân trường, hai gia đình muốn tổ chức lễ hỏi, cưới luôn một lần. Lúc đó, cô gái mới được thông báo. Cô ta phản đối quyết liệt. Hóa ra cô đã có người yêu.
Sau nầy tôi mới biết, người cô yêu là một nhà thơ. Anh chàng có dị tật ở chân nên anh ta khỏi phải đi lính. Nhờ thế anh ta yên tâm vui chơi và ăn bám gia đình.

Hết làm thơ đăng báo tán tỉnh cô nầy, cô kia thì la cà các quán cà phê, quán nhậu. Con gái mới lớn, cô nào cũng mơ mộng. Anh chàng thi sĩ nầy làm thơ ca tụng, tỏ tình với cô vợ tương lai của tôi thì chẳng khác gì bỏ bùa cô ta.

Cô ta yêu mê mệt chàng thi sĩ, quyết cùng chàng “Một túp lều tranh hai quả tim vàng”. Bất ngờ cô bị ép phải lấy tôi làm chồng. Cô tuyên bố thẳng thừng với cha mẹ rằng cô ta sẽ trốn đi với chàng thi sĩ, nếu không trốn được mà bị ép duyên, cô ta sẽ uống thuốc rầy tự tử.

Gia đình cô ta hình như có xích mích gì đó với gia đình “nhà thơ” nên không muốn làm sui gia với họ. Thế nên bà mẹ mới bảo với con gái rằng

“Mầy muốn trốn theo trai thì cứ trốn đi, nhưng không được theo thằng chó chết của nhà đó. Nếu mầy theo nó, thì nhớ ba ngày sau quay về dự đám ma tao.

Còn mầy muốn tự tử thì tao mua cho mầy chai thuốc rầy, nhưng uống nửa chai thôi, để một nửa cho tao. Nuôi mầy khôn lớn để mầy làm nhục cha mẹ…”

Lời tuyên bố đó khiến cô gái không còn lựa chọn nào khác. Thế nên, trước ngày cưới, cô ta hẹn tôi ra một quán nước.
Sáng đó, chúng tôi gặp nhau. Tôi ngồi đối diện. Quán vắng người nên cô ta chẳng cần giữ lời, tấn công tôi ngay “Tôi và anh không hề quen biết nhau, không thù oán nhau, tại sao anh cố tình phá vỡ tình yêu của chúng tôi?

Anh có biết, vợ chồng không có tình yêu mà sống với nhau là sống trong địa ngục không?”
Tôi trả lời “Đây là chuyện hai gia đình với nhau. Cô không bằng lòng lấy tôi thì cứ nói thẳng với ba mẹ cô hoặc nói với mẹ tôi.

Tôi không có ý kiến. Tôi không cần vợ, nhưng mẹ tôi cần có cháu nội trai để nối dõi tông đường.

Tôi sẽ vào quân đội. Chiến tranh rất ác liệt. Đời lính chiến, hành quân liên miên, cưới cô về, được bao nhiêu lần chúng ta gặp nhau?

Để có con, còn khó hơn. Và có thể một ngày, một tuần, một tháng sau đó, tôi tử trận.

Cô sẽ thành quả phụ. Nhanh lắm. Tôi nói sự thật để cô đủ lý do từ chối việc cầu hôn của tôi”

Cô yên lặng lắng nghe. Tôi cũng suy nghĩ, lựa lời một lúc mới nói tiếp

“Nếu bị ép duyên, và nếu không còn con đường nào khác để làm vui lòng cha mẹ cô, cô nên lấy tôi.

Vì sau khi ra trường sĩ quan, tôi sẽ chọn binh chủng tác chiến, tôi sẽ leo lên bàn thờ nhanh lắm. Khi tôi chết rồi, gia đình cô không còn quyền cấm cô về sống với người cô yêu.

Mà dù tôi chưa tử trận, khó khăn của tôi vẫn là phải có con trai cho mẹ tôi an tâm. Tôi đề nghị thế nầy. Sau khi là vợ tôi, dĩ nhiên là tôi đi hành quân, đâu có về nhà thường xuyên được…

Cô cứ hẹn hò với người yêu, miễn sao đừng cho thiên hạ biết, khi nào có bầu, cô ra đơn vị tìm tôi rồi quay về nhà.

Mục đích để hợp thức hóa đứa bé trong bụng cô. Tôi sẽ không ghen tương gì mà mẹ tôi lại mừng vì đã làm tròn bổn phận đối với gia tộc tôi…”

Chưa nghe hết câu, cô chồm qua bàn, thẳng tay tát tôi một tát tai, nảy đom đóm mắt “Tôi cấm anh không được nhục mạ tôi theo lối nói vô học đó. Anh xem tôi là hạng người gì?..”

Rồi cô ôm mặt, gục xuống bàn khóc nức nở. Cô khóc to, như rống lên rồi lấy khăn bịt miệng mình lại để tự kềm chế.

Tôi kinh hoàng, vội qua ngồi cạnh cô, lắp bắp

“Tôi xin lỗi! Tôi xin lỗi! Cô tha thứ cho tôi” Tôi định choàng tay qua vai cô để vỗ về thì cô xô mạnh tôi ra, khiến tôi suýt ngã ngữa. Cô cứ cúi đầu thút thít mãi. Tôi chán nản, nghĩ rằng, tốt nhất về thưa với mẹ tôi rút lui vụ cưới hỏi nầy để khỏi rắc rối, có khi gây oán thù với cô ta và cả người tình của cô nữa.
Tôi đứng lên, đến quày trả tiền. Cô chủ quán hỏi tôi “Có chuyện gì vậy?” Tôi lắc đầu, quay lại bàn nước, ngồi cạnh cô để tránh tia mắt cô đang nhìn đăm đăm phía trước như người xuất hồn.

Tôi nói “Tôi đã hiểu cô, đã biết mối tình của cô. Xin cô yên tâm. Tôi sẽ báo cho mẹ tôi hủy bỏ vụ nầy. Cô được tự do”.

Tôi định đứng lên thì cô ra dấu tôi ngồi xuống. Cô nói mà không nhìn tôi “Anh chẳng có lỗi gì trong chuyện nầy. Gia đình tôi nhất quyết gả tôi cho người khác.

Ai cũng được, ngoại trừ người tôi yêu” Rồi cô quay nhìn tôi, mắt long lên, môi mím lại “Tôi đồng ý lấy anh. Nhưng tôi cho anh biết. Anh chiếm đoạt được trinh tiết của tôi, chiếm đoạt được thân xác tôi nhưng không thể chiếm đoạt được trái tim tôi. Đừng hi vọng tôi sẽ thương yêu anh. Tôi không thù anh, nhưng tôi không thể yêu thương ai ngoài người tôi yêu. Tôi cũng cho anh biết trước rằng, về làm vợ anh, dù đến mãn đời, tôi thề sẽ không bao giờ nói tiếng yêu thương với anh, không bao giờ hôn anh. Mong anh cũng làm như thế”

Tôi giận sôi gan, nhưng cố bình tĩnh “Tôi sẽ giữ lời. Tôi thề sẽ không nói thương yêu với cô, không hôn cô, vì tôi biết chúng ta chẳng hề yêu thương nhau.

Tôi cũng yêu cầu cô nhớ lời thề đó. Sau nầy, nếu tôi tử trận, xin cô đừng giả vờ khóc, vì tôi biết đó là ngày vui của cô, ngày cô được giải thoát để về với người cô yêu.

Không cưới cô thì mẹ tôi cũng tìm một cô khác cho tôi. Từ hôm nay cho đến tuần sau, cô có thể báo cho mẹ tôi biết quyết định của cô.

Mà dù đã là vợ tôi, cô vẫn tự do. Cô có thể gặp người yêu của cô bất cứ lúc nào, chỉ mong cô cố gắng cho mẹ tôi một đứa cháu trai. Xin cô giúp tôi”

Kể đến đấy anh Hùng hỏi tôi “Nếu vào trường hợp tôi, anh sẽ nghĩ sao?

Chúng tôi da~ có ba mặt con với nhau, nhưng không bao giờ tôi nghĩ rằng cô ta còn lưu lại trong gia đình tôi cho đến ngày tôi vô tù như hôm nay”

Anh quay ra sau, lục trong xách nhỏ, lấy ra mấy tấm hình, trao cho tôi “Anh nhìn xem, mấy đứa nhỏ nầy giống ai?” Tôi nhìn và nói ngay “Giống anh chứ giống ai? Con anh phải không? Hai thằng nhỏ nầy là anh em sinh đôi?”

Anh trầm tư “Để tôi dài dòng một chút. Trước khi vào quân trường, tôi cưới vợ. Khi còn đang thụ huấn trong Thủ Đức, được tin vợ sinh, tôi về phép, vào nhà bảo sanh.

Vợ tôi sinh con gái. Tôi ôm đứa bé vào lòng. Lúc đó, tôi không thắc mắc, ai là tác giả của sinh vật bé bỏng đó, nhưng không hiểu sao, tôi thương nó quá. Tôi ngắm nghía nó, hôn nó, thì thầm với nó mà quên cả chung quanh. Lúc đặt con xuống bên cạnh vợ, cô ta nắm lấy bàn tay tôi, nhìn tôi, nước mắt ứa ra.

Cô ta khóc. Tôi hiểu ý nên nói “Xin lỗi! Nhưng tôi thương nó. Lần sau, cố giúp tôi một thằng con trai…”
Tôi ngắt lời anh “Bộ hai người xưng tôi chứ không anh em gì cả sao?” “Cô thì xưng em với tôi, còn tôi, khi chán nản hoặc chỉ có hai người, tôi xưng “tôi” và nói trống không. Khi có người thứ ba thì tôi “anh, em” như vợ chồng bình thường… Sau đó, cô sinh đôi, hai thằng con trai. Khi tôi đi tù thì hai thằng con được gần hai tuổi.
– Hai anh chị thề thốt với nhau rằng sẽ không hôn, không nói tiếng yêu thương với nhau, rồi có giữ lời không?
– Tôi có vợ mà tâm lý không giống những ông khác. Tôi chỉ làm bổn phận. Tôi đâu cần tình yêu mới làm chuyện vợ chồng được. Khi cô ta vừa sinh hai thằng con trai, tôi dự định, hễ hai đứa nhỏ cứng cáp thì tôi sẽ nói với cô rằng muốn li dị thì tôi ký tên ngay để cô được tự do, nhưng tôi chưa kịp nói thì đi tù.

Thế nên, mỗi khi tôi được gọi ra thăm nuôi, anh thường nghe tôi tự hỏi “Ai thăm nuôi mình?” vì tôi cứ đinh ninh là cô ta đã bỏ tôi để về với người tình, để khỏi nuôi mấy đứa nhỏ, khỏi nuôi mẹ tôi, khỏi thăm nuôi tôi.
– Anh có thể nói thật tình cảm của anh đối với vợ anh cho tôi nghe được không? Anh có thương vợ không?
Anh trầm ngâm.
– Chỉ sau nầy, khi tôi vào tù, cô ta không bỏ chúng tôi, lại phải vất vả, bương chải để nuôi sống bao nhiêu người trong gia đình tôi, tôi mới nghĩ rằng cô là vợ tôi.

Nếu chúng tôi có yêu nhau trước đó thì sự hi sinh của cô ta còn có chút ý nghĩa. Đằng nầy…Không ai có thể bắt cô phải cưu mang chúng tôi.

Đó là sự bất công. Trước kia, tôi không màng đến ý nghĩ, tình cảm của vợ tôi. Chúng tôi ít nói chuyện với nhau. Đúng ra là không có dịp. Tôi hành quân liên miên, vài ba tháng về phép một lần.

Hai mươi bốn giờ phép mà gần tối mới về đến nhà, sáng sớm lại phải ra đơn vị. Vả lại, tôi thương các con tôi lắm.

Vừa bước vô nhà, chào mẹ tôi xong là tôi quấn quít với con, hôn hít đứa nầy, bồng ẵm đứa kia, đưa chúng ra đường mua quà, kẹo bánh.

Lần nào về phép tôi cũng ôm con mà cứ nghĩ rằng, đây là lần cuối mình được gần các con. Ra trận, đạn như vãi trấu, bạn bè, đồng đội tôi ngã xuống ngay bên cạnh. Trước sau gì cũng đến lượt mình. Còn vợ tôi, tôi cảm tưởng như giữa hai đứa có một bức tường vô hình ngăn cách, và cô ta, sinh con xong, bồng nó, đưa qua bức tường vô hình đó, trao cho tôi.

Chúng là con tôi. Vì ám ảnh đó mà mọi sự săn sóc, lo lắng của cô dành cho tôi, tôi tưởng như của một cô bạn gái cùng lớp giúp bạn trong một buổi đi chơi chung ngoài trời, vậy thôi.

Mỗi khi tôi về phép, thấy tôi bước vào nhà là cô vội lo nước nôi, khăn tắm, áo quần để sẵn đó rồi chạy ra chợ mua thức ăn, chạy về, chui vào bếp, nấu nướng, dọn lên.

Ăn xong, lại dọn rửa, rồi giặt giũ áo quần cho tôi, phơi phóng, sắp xếp, chuẩn bị mọi thứ trong xách để sáng sớm là tôi chỉ việc đeo lên vai, về đơn vị.

Cô xoay tròn như chong chóng. Tôi thì tắm con, đút cơm cho chúng, rồi chơi đùa, kể chuyện cho chúng nghe, ru chúng ngủ, không màng đến vợ, không nhìn đến mẹ.

Người ngoài nhìn vô, đó là một gia đình bình thường. Mẹ tôi thì vui lắm, cứ khen con dâu ngoan hiền. Bà cụ không biết dĩ vãng của cô, cũng không thấy những đợt sóng ngầm đang kiên trì, thì thầm gọi cô thoát ly.
<!–[if !supportLineBreakNewLine]–>
<!–[endif]–>

Bây giờ, ở tù kiểu nầy thì chỉ có chết hoặc mục xương trong tù vì chẳng ai biết ngày về. Cái chết đối với thằng lính chiến như tôi thì sá gì, nhưng tôi thương các con quá, chỉ mong được về để lo cho chúng và săn sóc vợ tôi để đền đáp bao khổ nhọc mà cô ta đã phải chịu đựng.
Từ khi nghe anh Hùng kể chuyện gia đình, tôi cũng đâm ra hồi hộp mỗi khi nghe tên anh ta được gọi ra thăm nuôi. Tôi tưởng tượng mẹ anh Hùng hoặc bà cụ nhờ một người nào đó gặp anh và báo tin rằng vợ anh đã bỏ đi lấy chồng rồi.

Nhưng lần nào cũng là chị ta. Lần đầu được giới thiệu là vợ anh Hùng, tôi thấy chị ta, tuy đen và ốm, xác xơ vì sinh kế nhưng còn phảng phất những nét thanh tú và quí phái. Chị ta, thời trẻ, ắt đã làm bao trái tim bọn con trai xao xuyến.
Mỗi lần ra thăm nuôi, anh Hùng, tôi và vài người tù ngồi một bên chiếc bàn dài, đối diện (bên kia bàn) là thân nhân của tù. Đầu bàn có một công an ngồi theo dõi, lắng nghe tù và thân nhân chuyện trò.

Tù chỉ có 15 phút gặp người thân nên ai cũng cố nói thật nhiều, hỏi thật nhiều những điều cần thiết.

Tôi cũng gấp rút chuyện trò với vợ nhưng cũng để ý xem vợ chồng anh Hùng có gì khác thường không? Hình như anh Hùng không nhìn vợ mà hơi cúi xuống vẻ đắn đo, suy nghĩ.

Trái lại chị vợ ngồi nhìn chồng đăm đăm như thôi miên anh ta.
Thông thường, trong lúc gặp gỡ, người vợ để bàn tay bên cạnh cai giỏ quà thăm nuôi, phía khuất tia nhìn của công an, người chồng biết ý sẽ để bàn tay mình lên bàn tay vợ, bóp nhẹ.

Bao nhiêu năm xa cách, chỉ cần chạm nhẹ hai bàn tay với nhau cũng đủ cho vợ chồng ngây ngất, rung động cả thể xác và tâm hồn.

Giây phút đó quí giá hơn bao nhiêu lần ôm ấp nhau mà vợ chồng đã trải qua. Vợ anh Hùng cũng để tay bên giỏ thăm nuôi. Anh Hùng chỉ đụng rất nhẹ vào tay vợ, như vô tình rồi rút tay về. Chị ta vẫn để yên bàn tay và chờ đợi. Anh Hùng lại đụng nhẹ tay vợ lần nữa, rồi lại rút về. Cả hai yên lặng. Rồi hình như anh nói nho nhỏ gì đó với vợ.
Thời gian thăm gặp qua rất nhanh. Lúc chia tay, anh Hùng xách gói quà thăm nuôi đi thẳng mà không ngoái nhìn người thân như các tù nhân khác.
Chúng tôi ở tù trên 10 năm nhưng chỉ ở chung lán trại hơn 3 năm, sau đó bị phân tán đi các trại tù khác. Dù vậy, tình bạn giữa chúng tôi đã như ruột thịt.

Bảy năm sau, chúng tôi mới gặp lại nhau ở trại tù Z 30, Xuân Lộc. Sau đó, chúng tôi cùng ra tù một lần, vào năm 1986.
Chúng tôi, hai thằng tù trung niên mà trông đã hom hem. Tóc đã có sợi bạc, chân tay như những khúc xương khô. Vợ tôi và vợ anh Hùng, sau mười năm vất vả, cũng đã là hai chị nạ dòng đen thui, đầu tóc, áo quần tả tơi vì suốt ngày lê lết đầu đường xó chợ. Hai người mua đi bán lại từng đôi giày cũ, áo quần cũ, răng vàng bạc vụn, đồng hồ hư, radio hư…Nghĩa là ai bán gì cũng mua, ai mua gì cũng có.
Thời bấy giờ, tù về xã hội chỉ làm được các nghề chân tay như đạp xích lô, bán vé số, vá xe đạp…Tôi và anh Hùng, mỗi người một chiếc bàn con, mỗi cạnh hai gang tay, đặt bên lề đường, ngồi bán vé số, kiếm tiền phụ với vợ mua gạo. Lúc đó vợ tôi và vợ anh Hùng mới lấy lại chút bình tĩnh, không còn lo thất sắc mỗi ngày vì lũ con đói.
Đầu thập niên 1990, có chương trình tù cải tạo được đi Mỹ. Gia đình tôi và gia đình anh Hùng đến cùng tiểu bang Virginia nhưng khác thành phố, cách nhau hơn hai giờ lái xe.

Bước chân đến xứ người với hai bàn tay trắng, chúng tôi phải làm gấp đôi người khác, vì lao động chân tay, lương hướng chẳng bao nhiêu. Sáng sớm đã ra khỏi nhà, khuya mới về. Chúng tôi chỉ gọi điện thoại trò chuyện, hỏi han nhau mà thôi.

Tôi không còn để ý đến chuyện xưa của vợ chồng anh Hùng, cũng không bao giờ kể cho vợ tôi nghe. Đàn bà bép xép, một chuyện kỳ lạ như thế thì không bà nào để yên trong bụng được.
Hơn bảy năm ở xứ Mỹ, vài đứa con của gia đình tôi và gia đình anh Hùng đã tốt nghiệp đại học, có việc làm, phụ với cha mẹ lo cho các em nên chúng tôi đã bớt giờ làm việc, có dịp thăm viếng nhau.

Bao nhiêu năm mới gặp lại, thấy anh Hùng khỏe mạnh, hồng hào hơn trước, chị vợ cũng mập tròn, mặt mũi tươi rói, gặp lại vợ tôi như gặp cố nhân, hai người tíu tít hỏi han, chuyện trò vui vẻ. Nơi xứ người bơ vơ nên chúng tôi coi nhau như anh em một nhà.
Đột nhiên, một buổi tối, khoảng mười giờ, điện thoại reo, vợ tôi bắt máy rồi la lên.
– Sao? Chị nói sao? Anh Hùng bị gì mà đưa vô bịnh viện cấp cứu? Chị nói chuyện với ông xã em. Em run quá!
Vợ tôi đưa điện thoại cho tôi.
– A lô! Anh Hùng bị gì vậy chị?
Bên kia đầu giây, giọng vợ anh Hùng hốt hoảng.
– Không hiểu sao. Ăn tối xong ảnh ngồi xem TV. Thình lình, ảnh kêu “Đau đầu quá!” rồi gục xuống bất tỉnh. Em gọi xe cứu thương đến đưa vô bịnh viện. Hiện em đang ở phòng cấp cứu. Ảnh chưa tỉnh. Em rối trí quá! Không biết mình phải làm gì đây?
– Chị báo cho sắp nhỏ biết chưa?
– Dạ rồi. Nhưng đứa gần nhất cũng phải 5 giờ lái xe, đứa ở xa, sáng mai mới đi máy bay về.
– Ảnh không sao đâu. Chị bình tỉnh. Đưa vô bịnh viện là yên tâm.Tụi tôi sẽ đến ngay bây giờ. Lên xe, chúng tôi sẽ nói chuyện sau. Nhớ là phải bình tỉnh. Hai giờ nữa chúng tôi sẽ đến bịnh viện.
Ban đêm, xa lộ 95 không đến nỗi kẹt xe. Từ Richmond hướng về thành phố Falls Church , phía bắc tiểu bang, gần hai giờ, chúng tôi đã có mặt tại bịnh viện. Bịnh viện về đêm thật yên tĩnh. Theo sự hướng dẫn của nhân viên trực, chúng tôi đi rất nhẹ dọc hành lang để tìm phòng hồi sức.
<!–[if !supportLineBreakNewLine]–>
<!–[endif]–>

Anh Hùng nằm trên giường với đủ thứ dây nhợ, ống trợ thở nối với dàn máy sát tường. Một cái máy điện tâm đồ với lằn sóng xanh chạy đều đều, yếu ớt. Chị Hùng quì bên cạnh, nắm tay chồng, thì thầm.
– Anh cố gắng nghe em nói. Em chỉ nói một câu thôi. Em không nói được cho anh nghe thì em đau khổ suốt đời, ân hận suốt đời. Anh có thương em không? Thương em thì nghe em nói. Nghe anh! Tội nghiệp em mà anh…
Chúng tôi đứng bên cạnh mà chị vẫn không hay biết. Vợ tôi cúi xuống vỗ nhẹ vai chị, chị quay lại, đứng lên, ôm vợ tôi, nước mắt trào ra.
– Ảnh không nghe em nói! Ảnh không biết gì nữa. Sao em ngu quá? Không nói khi ảnh còn khỏe mạnh. Mà thình lình, ảnh bị như vầy…
Chị nói lảm nhảm như người mất trí. Vợ tôi không hiểu gì cả nhưng vẫn vỗ về, nhỏ nhẹ.
– Ảnh không sao đâu. Em biết, nhiều người bị như vậy, sẽ tỉnh lại. Chị đừng lo. Bác sĩ nói sao?
– Bác sĩ nói ảnh bị xuất huyết não, đang chuẩn bị, sẽ mổ ngay. Em sợ, người ta mổ rồi ảnh đi luôn. Em mà không nói được cho ảnh nghe, chắc em chết theo để linh hồn em được gặp ảnh, nói mấy lời…
Vợ tôi lại nhìn tôi, không hiểu chuyện gì quan trọng, khẩn cấp đến độ phải nói ra cho người sắp chết nghe. Đáng ra, chính người bịnh mới cần trăn trối trước khi từ giả cõi đời. Vợ tôi, biết rằng chuyện gia đình người ta, không nên tò mò, chỉ trấn an.
– Sáng mai, mổ xong là ảnh tỉnh dậy, sẽ nghe chị nói. Chị yên tâm. Bình tỉnh mà chuẩn bị tinh thần, cầu xin Trời Phật phù hộ ảnh tai qua nạn khỏi.
Nhưng chị ta như không nghe, cứ lảm nhảm.
– Bao yêu thương, săn sóc ảnh giành cho em, em hiểu, em đón nhận, nhưng sao em ngu quá, không nói cho ảnh biết em cũng yêu thương ảnh…
Vợ tôi ngớ ra, tưởng chị điên thật rồi. Vợ chồng yêu thương nhau, đâu cần phải nói ra mới hiểu?

Chỉ mình tôi biết điều đó. Tôi nói với chị ta.
– Xin chị bình tỉnh. Tôi sẽ cố giúp chị xem sao. Tôi với anh Hùng thân thiết còn hơn ruột thịt. Hi vọng, tôi nói ảnh sẽ nghe.
Nhìn điện tâm đồ, thấy những gợn sóng rất yếu ớt, tôi biết, có mổ cũng rất ít hi vọng, nhưng tôi tin, sự sống trong anh ta vẫn còn. Tôi ra dấu cho chị Hùng đến bên cạnh rồi cúi sát tai anh, nói chậm rãi.
– Tôi là Nguyễn văn Chánh, bạn anh đây. Chúng ta ở tù chung, khi còn ở bên Việt Nam , anh còn nhớ không? Anh cố gắng nghe tôi nói, một điều rất quan trọng…

Nếu anh nghe được, anh chấp nhận, xin anh chuyển động mi mắt hoặc con ngươi của mắt anh. Vợ anh đang đứng bên anh đây. Vợ anh nói rằng, chị chỉ yêu thương một người duy nhất trong đời là anh mà thôi. Anh có nghe không, có chấp nhận không?
Mọi người im lặng, chăm chú nhìn đôi mắt đang nhắm nghiền của anh Hùng. Đột nhiên, đôi mi của anh Hùng chuyển động như muốn mở ra rồi nhắm lại.

Tuy rất nhẹ nhưng mọi người đều thấy rõ. Chị Hùng ôm chồng khóc òa lên. Tin rằng anh Hùng có nghe tiếng khóc của vợ nên một lúc sau tôi mới ra dấu cho chị yên lặng, rồi nói vào tai anh Hùng.
– Bây giờ, vợ anh, chị Hùng sẽ nói cho anh nghe. Chị yêu thương anh từ lúc nào. Anh cố gắng nghe vợ anh nói.
Tôi bước lùi cho chị Hùng quì xuống, cúi sát tai chồng và nói, từng tiếng một.
– Anh Hùng. Anh là chồng em. Em yêu thương chỉ một mình anh. Em yêu thương anh từ ngày đầu, từ đêm đầu, từ giây phút đầu em trở thành vợ anh… Em lạy anh. Đừng giận em nghe anh! Xin anh thương em. Em là vợ anh. Tội nghiệp em. Nghe anh!
Nói đến đó thì nghẹn lời, chị đứng lên lùi lại, hai tay để lên ngực, nhưng mắt vẫn không rời đôi mắt chồng. Mọi người nín thở chờ đợi. Rồi đôi con ngươi dưới hai mi mắt nhắm nghiền của anh Hùng chuyển động nhẹ, hướng về phía chị Hùng và dừng lại.

Tôi nói với chị.
– Anh Hùng đã hiểu chị, đã chấp nhận lời yêu thương của chị.
Bỗng chị Hùng lảo đảo, níu tay vợ tôi rồi ngã quị xuống, bất tỉnh.

Vợ tôi đỡ lấy chị, ngồi bệt xuống sàn, ôm chị vào lòng. Tôi bảo vợ.
-Không sao đâu. Bị xúc động mạnh. Để anh đi gọi y tá…
Thật ra, là chị ấy đã trăn trối với chồng.

Phạm Thành Châu

Anh Nguyễn v Thập gởi