Xưởng may đen Việt Nam tại Nga : Địa ngục trần gian

Xưởng may đen Việt Nam tại Nga : Địa ngục trần gian

Thứ năm 20 Tháng Chín 2012

Tú Anh nguồn: RFI

Vụ hỏa hoạn thiêu sống 14 công nhân Việt Nam trong một xưởng may bất hợp pháp ở Yegoreev và tai tiếng bóc lột nhân viên như nô lệ ở hai công ty Vinastar và Victoria đã đánh động công luận Nga. Cảnh sát nhập cuộc điều tra trong khi chờ đợi quốc hội điều chỉnh luật lao động nhập cư để ngăn chận tệ nạn bốc lột nhân công như nô lệ.Theo một nguồn tin thông thạo, có khoảng 3000 xưởng may « đen » do người Việt làm chủ tại Nga.

Để tìm hiểu thêm, RFI đặt câu hỏi với ba nữ nhân công vừa được chủ « trả » về Việt Nam với hai bàn tay trắng sau hai năm làm việc không lương.

Sự thật về các công ty may mặc do một số người Việt làm chủ tại Nga đã phơi bày. Sau vụ « nổi dậy » của công nhân Vinastar hồi tháng 4 năm nay, đến lượt một nhóm nữ công nhân của hãng Victoria cầu cứu hồi đầu tháng 8. Qua sự hỗ trợ của Liên minh bài trừ nô lệ mới CAMSA và lời kêu cứu của gia đình nạn nhân, ngày 12/08/2012, năm nữ nhân công đã về đến Việt Nam.

Cũng ngay ngày hôm đó, thì tại Nga, 14 đồng nghiệp của họ ở một công ty khác đã bị chết
cháy.Thông tin trên báo chí Việt Nam nói là « do chập điện ». Do đâu mà tai nạn xảy ra giữa ban ngày mà các nạn nhân không thể chạy thoát ? Sự thật cho thấy là họ bị chủ nhốt trong phòng và khóa cửa bên ngoài. Tin từ truyền thông Nga và cảnh sát điều tra cho biết như sau :

Vào lúc 16 giờ 20 ngày 12/08/2012 trong một xưởng may đen tại phố Công xã Paris,
nhà số 16, thành phố Yegoreev, đã xảy ra một vụ cháy, làm 14 người bị thiệt mạng. Tất cả các công nhân này đều là người Việt Nam, 7 nam, 7 nữ. Vụ cháy diễn ra cách Matxcơva 70 km về phía đông nam.

Họ bị chết trong lúc đang làm việc. Theo điều tra sơ bộ, vụ cháy xảy ra do bị chập điện
trong một căn phòng 30 m2 trên tầng hai của tòa nhà văn phòng lớn, nhưng những
công nhân này bị chết oan uổng không phải vì điện bị chập, mà do họ bị khóa trái cửa lại, bên ngoài cửa còn bị chặn một cái búa to, nên họ đã không thoát được ra ngoài.”

Đến khi đội phòng cháy và bộ cứu hộ khẩn cấp đến giải thoát thì chỉ cứu được 1 người, ở
tình trạng bị thương nặng đã được dưa đi cấp cứu. Các công nhân này làm việc trong một xưởng may đen của người Việt. Xưởng của họ thuê thuộc địa phận một nhà máy sản xuất vải bông ở trung tâm thành phố.

Sau khi đến dập tắt đám cháy, cảnh sát còn phát hiện thêm một căn phòng khác, có 60 công nhân Việt Nam, hoàn toàn không có giấy tờ tùy thân đang sinh sống. Theo lời bà Irina
Gumennaya, người đại diện của cục điều tra vùng ngoại ô, thì những công nhân sống trong những điều kiện ” hoàn toàn không thể tưởng tượng được, chật chội, thiếu vắng mọi điều kiện vệ sinh tối thiểu, dây điện trần chạy khắp nơi”.

Sau vụ cháy này, cảnh sát Nga đã khởi tố vụ án theo điều 219 bộ luật hình sự của Nga là
không tuân thủ luật an toàn chống cháy, gây nên cái chết của nhiều người. Cảnh sát đang truy tìm người chủ của xưởng may này, nhưng theo những nguồn tin khác nhau, chủ xưởng đang ở Việt Nam.

Ngày 13-9, bộ ngoại giao của Nga cũng đã lên tiếng chia buồn với gia đình các nạn nhân và đề nghị các cơ quan chức năng của nga phải điều tra cụ thể, tìm ra thủ phạm và có những biện pháp nhằm ngăn ngừa các tai nạn tương tự có thể xảy ra trong tương lai.

Chủ tịch quỹ “Di dân thế kỷ 21” ông Viacheslav Postavnin, cựu phó chủ tịch Cục di
trú Liên Bang Nga, cho biết, ông sẽ để nghị thay dổi một loạt các điều luật để ngăn ngừa việc sử dụng lao động trái phép. Hạ viện Saint Peterburg sẽ tiến hành các thủ tục đề nghị, và sau đó sẽ chuyển lên Hạ viện của Liên bang để xem xét và thông qua.

Áp lực từ nạn nhân và công luận đã làm cho Vinastar và Victoria để cho những công nhân này trở về Việt Nam.

Tuy nhiên 5 công nhân của xưởng Victoria đã không được ông chủ « Lập đen » trả lương. Họ cho biết đã phải về lại quê hương với bàn tay trắng sau một thời gian dài, người ba năm kẻ 18 tháng, phục vụ không công cho những «đại gia» thế kỷ 21 nhưng bị đối xử tệ hơn thời Trung cổ.

RFI đặt câu hỏi với ba trong số các nạn nhân : chị Trần thị Thu Nga ở Phú Thọ, chị Bùi Thị Mịa ở Ninh Bình và chị Nguyễn Thị Thúy Liễu, quê ở Bến Tre.

Chị Thu Nga : « Đầu năm 2012 này thì ( Victoria) có tất cả là 150 người nhưng có hơn 30 người tìm cách trốn thoát được…. khi có tin một công ty bị cháy thì cháu xem TV nhưng
không rõ cháy vì lý do gì, nhưng các anh chị điện về cho biết thì chỗ cháu làm thì vì công an đến kiểm tra nên phải sơ tán mất hai ngày. Bên đó mỗi lần công an kiểm tra thì tụi cháu bị lùa lên phòng, chèn chặt cửa bên ngoài. Lúc ấy, chúng cháu cũng nghĩ là lúc ấy mà có hỏa hoạn thì không thể chạy thoát
…. »

Tại Nga có rất nhiều công ty do người Việt làm chủ như xưởng giày, xưởng mộc hoặc cửa hàng buôn bán công khai nhưng con số này rất ít. Phần đông công nhân tập trung vào
xí nghiệp may mặc mà theo giới thạo tin có thể lên đến 3000. Các đường dây của họ sử dụng miếng mồi « lương cao » để thu hút dân quê Việt Nam chất phác, vì nghèo nên sẵn sàng hy sinh đi xa để nuôi sống gia đình. Chị Thúy Nga cho biết là qua tận nơi mới biết bị lừa và bị lừa tối tâm mày mặt : giấy tùy thân bị tịch thu, làm việc không có thời lượng và an ninh bản thân không được bảo đảm :

« Vì nghèo nên nuốn đi bươn chải nhưng không may qua bên ấy thì vất vả quá làm việc mười mấy tiếng đồng hồ từ 11 giờ trưa đến 3 giờ sáng, ăn xong lại làm khi nào mệt quá thì xin quản lý cho nghỉ nhưng mà không có ấn định tuần làm mấy ngày, ngày nào cũng như ngày nào, đêm cũng như ngày chỉ ở trong nhà không biết lúc nào là đêm, lúc nào là ngày, chỉ biết đi làm, không biết người Nga làm luật lao động ra sao …”

Theo luật lao động Nga thì đồng lương tối thiểu của một công nhân Nga không có tay nghề là 12.000 rúp (400 đô la Mỹ) và thời gian lao động mỗi tuần là 40 giờ. Tại sao các ông chủ Việt Nam lại bắt nhân viên người Việt lao động 16 giờ mỗi ngày và không có ngày nghĩ hàng tuần ?

Công nhân bị đặt trong tình trạng cá chậu chim lồng phải chăng là chủ có dụng ý không tính chuyện lâu dài mà chỉ chờ đến lúc vắt chanh xong thì bỏ vỏ ?

Chị Bùi Thị Mịa : “ Từ lúc em sang ấy đến lúc về là 18 tháng lúc em xuống sân bay Việt
Nam , em không có một đồng tiền trong tay…làm việc mỗi ngày 16, 17 tiếng đồng hồ ..ăn uống thì mỗi tháng được một lần rau quả tươi …”
Là một trong số các nữ công nhân được Liên minh bài trừ nô lệ mới vận động cứu thoát, chị  Thúy Liễu , quê ở Bến Tre cũng xác nhận là đã bị Victoria trấn áp cho đến lúc lên máy bay. Tiền đồng nghiệp đóng góp phụ giúp cũng bị ông chủ « Lập đen » ăn chận và ông này vẫn tiếp tục trấn áp những người còn ở lại :«Có một lần em cùng hai người bạn trốn đi …trong đó có Duy. Ông Lập đánh Duy …không cho sử dụng điện thoại … hôm qua em liên lạc với Duy mà không được…. »

Từ Nho Quan, Ninh Bình, chị Bùi Thị Mịa cho biết là sau những đợt khám xét của cảnh sát Nga, đến lần cuối cùng vì Victoria không phản ứng kịp lùa công nhân đi giấu nên chủ
phải thả cho về nước nhưng với… bàn tay trắng: «Em làm việc 18 tháng , xuống đất được hai lần, một lần tiễn người về Việt Nam, một lần vì ốm đau em xin quản lý cho ra hít khí trời thì được ra một tiếng đồng hồ… 150 người thì hết 140 người bị bệnh vì ăn uống không sạch sẽ… »

Bất bình trước tình trạng lường gạt này, anh Dũng, chồng của chị Thúy Liễu nói là phải truy tố trừng phạt những kẻ « buôn người » : « Em đề nghị phải truy tố những người này về tội buôn bán người. Cái này là hành vi mua bán người chứ không phải đi lao động gì hết….. » Nhưng người dân quê hiền lành này tuy vậy rất an phận. Họ chỉ mong các tổ chức thiện nguyện can thiệp với chính phủ Nga giúp ngăn chậntệ nạn nô lệ mới.

Theo một số nhân chứng thì sứ quán Việt Nam tại Nga rất tích cực can thiệp trợ giúp nạn
nhân trong thời gian gần đây. Tuy nhiên, đại diện ngoại giao chỉ can thiệp khi tai tiếng đổ bể. Có một số người cho rằng do tình hình kinh tế tại Việt Nam xuống dốc trong ba năm trở lại đây nên xuất khẩu lao động là một giải pháp để tình hình xã hội tại Việt Nam bớt căng thẳng.

Trong khi đó thì tại Nga, trong cộng đồng người Việt, chỉ có người nghèo mới giúp người đồng hương trong cơn khốn cùng. Giới « đại gia » Việt Nam thì chỉ nghĩ đến tiền đầu
tư của họ hơn là qua tâm đến nổi đau khổ của những công nhân cần tiền gửi về nuôi con, nuôi bố mẹ ở quê nghèo.

Thánh Lorenzo Ruiz và Các Bạn

Thánh Lorenzo Ruiz và Các Bạn

(1600?-1637)

22 Tháng Chín

Lorenzo sinh trưởng ở Manila và bố là người Trung Hoa, mẹ là người Phi Luật Tân, cả hai đều là Kitô Hữu. Bởi thế ngài biết tiếng Hoa và tiếng Tagalog từ bố mẹ, và ngài còn biết
tiếng Tây Ban Nha từ các cha Ða Minh mà ngài thường giúp lễ và dọn lễ cho các cha.
Ngài sống về nghề chuyên môn viết chữ đẹp (calligrapher), biên chép lại các tài liệu trong một dạng tự tuyệt vời. Ngài là hội viên trung kiên của Hội Ái Hữu Mai Khôi dưới sự bảo trợ của các cha Ða Minh. Ngài lập gia đình và được hai trai một gái.

Cuộc đời Lorenzo thay đổi bất ngờ khi ngài bị kết tội sát nhân. Chúng ta không được biết gì hơn ngoài lời kể của hai cha Ða Minh là “Lorenzo bị nhà cầm quyền lùng bắt vì
tội giết người mà ngài có mặt tại hiện trường hoặc họ ghép tội cho ngài.”

Vào lúc đó, ba linh mục Ða Minh, Antonio Gonzalez, Guillermo Courtet và Miguel de Aozaraza, chuẩn bị dong buồm sang Nhật mặc dù ở đó đang bắt đạo dữ dội. Cùng đi với họ có một linh mục Nhật Bản, Vicente Shiwozuka de la Cruz, và một giáo dân tên Lazaro, bị phong cùi. Lorenzo, đang lẩn tránh nhà cầm quyền nên muốn được nhập bọn, và mãi
cho đến khi ra tới biển thì Lorenzo mới biết là họ sang Nhật.

Họ đổ bộ ở Okinawa. Lorenzo có thể tiếp tục đến Formosa, nhưng, ngài viết, “Tôi quyết định ở lại với các cha, vì nếu đến đó người Tây Ban Nha sẽ treo cổ tôi.” Họ ở Nhật không được bao lâu thì bị lộ tẩy, bị bắt và bị giải đến Nagasaki. Ðây là một nơi mà máu người Công Giáo đã chảy thành sông. Khoảng 50,000 người Công Giáo sống ở đây đã bị phân tán hay bị chết vì đạo.

Các linh mục thừa sai, cũng như Lazaro và Lorenzo bị tra tấn một cách dã man: sau khi bị đổ nước vào cổ họng, họ được đặt nằm ngửa trên mặt đất. Một tấm ván dài được đặt trên bụng nạn nhân, và các tên lính đạp lên tấm ván để nước ứa ra từ miệng, mũi và tai
nạn nhân.

Vị bề trên của họ, Cha Antonio, đã chết trong cùng ngày. Vị linh mục người Nhật và Lazaro vì khiếp sợ khi bị tra tấn bằng tăm tre đâm vào đầu ngón tay, nên đã chối đạo. Nhưng cả hai đã lấy lại cản đảm khi được các bạn khuyến khích.

Khi đến phiên Lorenzo bị tra tấn, ngài hỏi người thông dịch, “Tôi muốn biết nếu bỏ đạo, họ có cho tôi sống không.” Người thông dịch không hứa hẹn gì, và Lorenzo, trong những giờ sau đó đã cảm thấy đức tin mạnh mẽ hơn. Ngài trở nên dũng cảm, ngay cả gan dạ với các lý hình.

Cả năm người bi giết chết bằng cách treo ngược đầu trong một cái hố. Chung quanh bụng của họ bị đeo bàn gông và đá được chất lên các bàn gông để gia tăng sức ép. Họ bị trói chặt để máu luân chuyển chậm hơn và như thế cái chết sẽ kéo dài hơn. Họ bị treo như
thế trong ba ngày. Vào lúc đó, Lorenzo và Lazaro đã chết. Ba vị linh mục Ða Minh vẫn còn sống, nên bị chặt đầu.

Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong thánh cho sáu vị này và 10 người khác, là những người Á Châu và Âu Châu, nam cũng như nữ, là những người đã loan truyền đức tin ở Phi Luật Tân, Formosa và Nhật. Thánh Lorenzo Ruiz là người Phi Luật Tân đầu tiên tử đạo.

Lời Bàn

Là những Kitô Hữu ngày nay, chúng ta tự hỏi không biết làm thế nào để đứng vững trong hoàn cảnh như các vị tử đạo phải đối diện? Chúng ta thông cảm với hai vị đã có lần từ chối
đức tin. Chúng ta hiểu giây phút thử thách hãi hùng của Lorenzo. Nhưng chúng ta cũng thấy sự can đảm–không thể giải thích bằng ngôn ngữ loài người–xuất phát từ kho tàng đức tin của họ. Sự tử đạo, giống như đời sống, là một phép lạ của ơn sủng.

Lời Trích

Quan án: “Nếu tao cho mày sống, mày có từ bỏ đức tin không?”

Lorenzo: “Tôi không bao giờ làm điều đó, vì tôi là một Kitô Hữu, và tôi sẽ chết cho Thiên
Chúa, và nếu tôi có cả ngàn mạng sống tôi cũng sẽ dâng lên cho Thiên Chúa. Bởi thế, ông muốn làm gì thì làm.”

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

 

Giỗ 100 năm Hàn Mặc Tử:Có Chở Trăng Về Kịp Tối Nay ?


Giỗ 100 năm Hàn Mặc Tử:Có Chở  Trăng Về Kịp Tối Nay ?

LM. Giuse Trương Đình Hiền

9/20/2012                             nguồn: Vietcatholic.net

(Bài chia sẻ trong thánh lễ kỷ niệm 100 năm sinh nhật thi sĩ Hàn Mặc Tử )
(22/11/1912 – 22/11/2012)
Kính thưa cộng đoàn Phụng Vụ,
Trong bầu khí ấm cúng, thân thương của Bàn Tiệc Thánh Thể hôm nay, thánh lễ
dành kỷ niệm 100 năm ngày sinh của thi sĩ Hàn Mặc Tử, một nhà thơ Công Giáo,
một vì sao chói lọi trên vòm trời thi ca Việt Nam thế kỷ 20, quả thật chúng
ta thấy gần gũi dường nào và ấm cũng biết bao:
– Ấm cúng với nhau, bên nhau trong niềm tin phục sinh – cõi vĩnh hằng và
trong đồng cảm văn hóa, văn hóa của thi ca mà người đón mời và nối kết hôm
nay – thi sĩ Hàn Mặc Tử, đang hiện diện cách vô hình.
– Gần gũi với cõi thiêng liêng, với Đấng Thiên Chúa yêu thương và toàn năng,
một sự gần gũi mà hình như chỉ có ngôn ngữ thi ca của Hàn Mặc Tử mới diễn đạt
cách tài tình và sống động:
Cả trời bỗng tiêu diêu như báu vỡ:

Nên tiếng vang thầm dội đến thâm tâm,
Mà ta ngỡ đấng tiên tri muôn thuở

Giữa đêm nay còn đứng giảng Phúc Âm. (Nguồn Thơm)
Hôm nay chúng ta tưởng niệm một người đã khuất nhưng trong một “bàn tiệc
của sự sống”; niềm tin đã nối kết kẻ sống và người đã ra đi trong niềm
hoan vui đoàn tụ và hy vọng phục sinh. Cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn rất chí lý
khi diễn tả cảm nhận nầy trong ca khúc “Nối vòng tay lớn”:
“Người chết nối linh thiêng vào đời và nụ cười nở trên môi”. Tôi
tin chắc rằng, nếu thi sĩ Hàn Mặc Tử mà sống lại và hiện diện như chúng ta và
với chúng ta trong bối cảnh nầy, chắc anh đã có một bài thơ khác về cái chết,
về sự sống bên kia sẽ đầy hy vọng, tươi sáng hơn những bài thơ mà anh đã sáng
tác khi liên tưởng tới cái chết của chính mình, một sự hiện hữu của thế giới
bên kia mà anh cảm nhận quá ư cô đơn, đen tối, lạnh lùng:
Tôi vẫn còn đây hay ở đâu ?

Ai đem tôi bỏ dưới sông sâu ?
Sao bông phượng nở trong màu huyết ?
Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu ? (Những Giọt Lệ)

Hoặc:
Rồi hồn ngắm tử thi hồn tan rã,

Bốc thành âm khí loãng nguyệt cầu xa.
Hồn mất xác, hồn sẽ cười nghiêng ngả,
Và kêu rêu thảm thiết khắp bao la. .. (Hồn lìa khỏi xác)

Hoặc:
Một mai kia ở bên khe nước ngọc

Với sao sương Anh nằm chết như trăng
Không tìm thấy nàng tiên mô đến khóc
Đến hôn Anh và rửa vết thương tâm (Duyên kỳ ngộ)

Mà quả thật, hôm nay, trên cõi vĩnh hằng, chắc chắn anh đã cảm nhận khác rồi.
Đặc biệt hôm nay, và trong suốt bao tháng năm qua, tưởng nhớ đến anh không
chỉ là “bông phượng nở trong màu huyết” để “Nhỏ xuống lòng tôi
những giọt châu”, hay để “nàng tiên mô đến khóc ” và hôn Anh
và rửa vết thương tâm”. ..mà như nhận xét của Kiều Văn:
“Hơn nửa thế kỷ qua, không thể đếm xuể những con người thuộc mọi tầng lớp,
mọi trình độ, đã nghiêng mình kính cẩn trước anh linh Hàn Mặc Tử, không thể
đong được những dòng lệ mà người đời đã nhỏ xuống khóc người thi sĩ tài hoa
bạc mệnh ấy”
(Trích trong bài khảo luận: “Hàn Mặc Tử Anh là ai
? của Hoàng Vũ Thuật)
Nhưng cho dù anh thế nào và nhiều người ở đây đã biết về anh ra sao, thì
trong ngày kỷ niệm 100 năm anh mở mắt chào đời, 100 năm anh được Thượng Đế
trao ban cuộc sống làm người và làm con Thiên Chúa, chúng ta cũng phải một
lần sơ lượt cuộc đời và sự nghiệp của anh, như nghĩa cử “đập cổ kính ra
tìm lấy bóng”, một cái bóng vĩ đại trên thi đàn Việt Nam và trong vườn
thơ Công Giáo.
Hàn Mạc Tử hay Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí. Sinh ngày 22.9.1912
tại làng Lệ Mỹ, tổng Võ Xá, huyện Phong Lộc (nay là Đồng Hới), tỉnh Quảng
Bình. Được rửa tội ngày 25.9.1912 tại nhà thờ Tam Tòa với tên thánh Phanxicô
Assisi và 21 năm sau – 1933 – chịu phép Thêm Sức tại nhà thờ Chính Tòa Qui
Nhơn với tên thánh là Phanxicô Xavie. Thân phụ và thân mẫu của thi sĩ là Vinh
Sơn Phaolô Nguyễn Văn Toản và Maria Nguyễn thị Duy.
Nhà thơ Hàn Mạc Tử là người con thứ tư trong một gia đình có 8 anh chị em:
anh trai là Nguyễn Bá Nhân, hai chị là Nguyễn Thị Như Nghĩa, Nguyễn Thị Như
Lễ và bốn em trai là Nguyễn Bá Tín, Nguyễn Bá Hiếu, Nguyễn Văn Hiền, Nguyễn
Văn Thảo. Vì là một nhà nho học, ông Nguyễn Văn Toản đã chọn Ngũ Thường
(Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí Tín) của Ðức Khổng Tử để đặt tên cho các con với ước
mong chúng sẽ bước theo vết chân của các bậc thánh hiền.
Do hoàn cảnh gia đình, thi sĩ phải di cư và sống nhiều nơi: Sa Kỳ Quảng Ngãi
(1924-1926), Qui Nhơn (1926-1928), Học Pellerin ở Huế (1928-1930), làm công
chức ở Qui Nhơn (1930-1933), sống và viết báo tại Sài Gòn (1934-1936), về lại
Qui Nhơn và tạm trú nhiều nơi khi trỗ bệnh hiểm nghèo (1937-1940). Ngày
20.09.1940 nhập trai phong Qui Hòa với số hiệu bệnh nhân 1134 để được các nữ
tu dòng Phan Sinh Thừa Sai Đức Mẹ chăm sóc.
Sau 52 ngày được các nữ tu, đặc biệt sơ Julienne và Mẹ Nhất Maria Juetta, tận
tình săn sóc, cùng một người bạn thân đồng bệnh đồng đạo người Huế, ông
Nguyễn Văn Xê, giúp đỡ, nhà thơ tài hoa bạc mệnh Hàn Mạc Tử đã nhẹ nhàng tắt
thở lúc 5 giờ 45 sáng ngày 11 tháng 11, 1940, hưởng dương 28 tuổi.
Sau đây là “gia tài văn hóa” của Hàn Mặc Tử:
– Lệ thanh thi tập Thơ
– Gái quê Thơ
– Nắng xuân Giai phẩm
– Đau thương Thơ
– Xuân như ý Thơ
– Thượng thanh khí Thơ
– Cẩm châu duyên Thơ
– Duyên kỳ ngộ Kịch
– Quần tiên hội Kịch
– Chơi giữa mùa trăng Thơ văn xuôi
Sau 72 năm từ khi thi sĩ qua đời (1940), đã có không biết bao nhiêu phê bình,
đánh giá, nghiên cứu, mổ xẻ. Nhà phê bình Trần Văn Lý trong tiểu luận văn học
tái bản năm 2006, đã xếp Hàn Mặc Tử là một trong 4 thi sĩ tiêu biểu đáng nhớ
nhất của thế kỷ 20.
Riêng trong lãnh vực niềm tin và thi ca nơi hàn Mặc Tử, linh mục Trần Quý
Thiện đã có những nhận xét chí lý:
“Hàn Mặc Tử, một thi nhân, một nhà thơ Công Giáo, một tâm hồn thuấn nhầm
Niềm Tin Công Giáo sâu sắc, được nuôi dưỡng bằng kinh nguyện, bằng đời sống
nội tâm phong phú thánh thiện, đã khám phá được những chiều kích mới lạ vượt
qua những niềm đau bất hạnh mà thi nhân đã trải qua. Càng đọc thi phẩm bất hủ
Ave Maria càng đưa chúng ta tới bến bờ huyền nhiệm trong thế giới vô hình.
Phải chăng qua đó, nhà thơ đã đi tiên phong trong sứ mệnh trình bày một nền
Thần học Á Châu dựa trên những suy tư và văn hóa lâu đời của Á Châu. Ðem tôn
giáo vào thơ, lấy nguồn cảm hứng thơ trong tôn giáo phải chăng Hàn Mạc Tử đã
đi đúng con đường mà sau này Tông Huấn Giáo Hội Á Châu đã trình bày. Ðây
chính là một vinh dự cho Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, vì có một người con đã
đóng góp và khai phá một con đường mới trong Văn Học Việt Nam”
.
Nhưng có lẽ để tóm kết những gì đặc biệt nhất, thâm sâu nhất, tuyệt vời nhất
về giá trị thi ca nơi Hàn Mặc Tử, cả đạo lẫn đời, nhiều người có thể tâm đắc
với nhận xét của thi sĩ Chế Lan Viên, người bạn và nhà thơ đồng thời với Hàn
Mặc Tử: “Tôi xin hứa hẹn với các người rằng, mai sau, những cái tầm thường,
mực thước kia biến tan đi và còn lại của cái thời kỳ này chút gì đáng kể, đó
là Hàn Mặc Tử”.
Kính thưa cộng đoàn,
Trong khung cảnh Phụng Vụ của thánh lễ tưởng niệm hôm nay, đặc biệt, qua gợi
ý của trích đoạn Tin Mừng Luca về “Dụ ngôn người gieo giống”, tôi chỉ xin
chia sẻ đôi điều về người thi sĩ mang danh “thi sĩ của đạo quân Thánh Gi
1. Hàn Mặc Tử: người đã đem hạt giống Lời Chúa, hạt giống đức tin nhập thể
vào đời bằng ngôn ngữ thi ca.
Để xác định ý nghĩa nầy chúng ta có thể đọc lại chính quan niệm của anh về
thơ:
“Đức Chúa trời tạo ra trăng, hoa, nhạc, hương là để cho người đời hưởng
thụ, nhưng người đời u mê phần nhiều không biết tận hưởng một cách say sưa,
và nhân đấy chiêm nghiệm lẽ mầu nhiệm, phép tắc của Đấng Chí tôn. Vì thế, trừ
hai loài trọng vọng là “ thiên thần” và “ loài người”, Đức Chúa Trời phải cho
ra đời một loài thứ ba nữa: “ loài thi sĩ”! Loài này là những bông hoa rất
quí và rất hiếm, sinh ra đời với một sứ mạng rất thiêng liêng: Phải biết tận
hưởng những công trình châu báu của Đức Chúa Trời đã gây nên, ca ngợi quyền
phép của Người, và trút vào linh hồn người ta những nguồn khoái lạc đê mê,
nhưng rất thơm tho tinh sạch…Cho nên tất cả thi sĩ trong đời phải qui tụ,
phải đi khơi mạch thơ ở Đức Chúa Trời. Thi sĩ không phải là một người thường.
Với một sứ mệnh của Trời thi sĩ phải biết đem cái tài năng ra ca ngợi Đấng
Chí Tôn, và làm cho người đời thấy rõ vẽ đẹp của thơ, để đua nhau nhìn nhận
và tận hưởng…”
(Thư gửi cho Trọng Miên: Quan niệm về Thơ).
Và phải chăng đó chính dòng chảy bất tận thiên thu của công trình “hội nhập
hạt giống Lời Chúa” mà ngay từ thuở hồng hoang Cựu ước, các tác giá Thánh
Kinh thể hiện với “Diễm Tình Ca”, với “Thánh Vịnh”, với những hình ảnh thơ
mộng nơi Isaia, tình tứ nơi Hô-sê hay huyền ảo, mầu nhiệm với Ê-giê-ki-en,
Đa-ni-en…
Chỉ một đôi câu trong bài thơ “Thánh Nữ Đồng Trinh”, thi sĩ Hàn Mặc Tử đã cho
chúng ta cái cảm nhận thật sống động về mầu nhiệm Nhập Thể-Giáng Sinh:
Hỡi Sứ Thần Thiên Chúa Gabriel,

Khi người xuống truyền tin cho Thánh Nữ,
Người có nghe xôn xao muôn tinh tú?
Người có nghe náo động cả muôn trờỉ
Người có nghe thơ mầu nhiệm ra đời…(

Thánh Nữ Đồng Trinh)
Và đó chính cuộc gặp gỡ, giao duyên của những con người đã từng có những cảm
nhận sâu xa về đức tin, về Lời Chúa để có thể “bật ra” những diễn cảm thâm
thúy, hay ho mà lịch sử Giáo Hội đã minh chứng qua các chứng nhân như Giáo
phụ Augustinô, các nhà thần bí như Têrêsa Avila, Gioan Thánh Giá…
Riêng Hội Thánh Việt Nam, trước Hàn Mặc Tử, cũng đã có bao nhiêu con người đã
vận dụng thơ văn để chuyển tải Lời Chúa, để truyền bá đức tin mà hôm nay
chúng ta xác nhận bằng ngôn ngữ của thời đại đó là những cuộc “hội nhập văn
hóa”.
2. Hàn Mặc Tử: Người đã biến cuộc đời thành mảnh đất tốt để hạt giống đức tin
sinh hoa kết trái phong phú.
Với chỉ 28 năm trong cuộc đời tại thế mà trong đó là lao đao lận đận trong bể
khổ bến mê, thất bại trong đường tình, đớn đau vì bệnh tật. Thế nhưng, Hàn
Mặc Tử không vì thế mà để cuộc đời mình chìm đắm trong thất vọng nảo nề, thui
chột trong đầu hàng bế tắc. Anh đã sống hết mình và đã biến mình thành một “hạt
giống chịu mục nát với thời gian”, một “mảnh đất tốt để trỗ sinh nhiều hoa
trái”. Anh đã nói:
“Tôi đã sống mãnh liệt và đầy đủ. Sống bằng tim, bằng phổi, bằng máu, bằng
lệ, bằng hồn. Tôi đã phát triển hết cả cảm giác của Tình Yêu. Tôi đã vui,
buồn, giận hờn đến gần đứt cả Sự Sống”. (Lời tựa của tập Thơ Điên 1938)
Trong ý nghĩa đó, quả Hàn Mặc Tử đã gia nhập những thế hệ nhân chứng mà thi
sĩ đã tự nhận đó là “đạo quân Thánh giá”:
“Đây thi sĩ của đạo quân Thánh giá,

Nửa đêm nay vùng dậy để tung hô,
Để sớt cho cả xuân xuân thiên hạ
Hương mến yêu là lộc của lời thơ”.

(Nguồn Thơm)
Kính thưa quý vị, trong bàn Tiệc Thánh Thể hôm nay, trong niềm tin vào sự
Phục Sinh của Chúa Kitô, chúng ta tin rằng, Hàn Mặc Tử đang cùng chúng ta
tham dự bàn Tiệc Tạ Ơn nầy, đang cùng nhau dâng lời ca ngợi tạ ơn Chúa, tôn
vinh Đức Mẹ Đồng Trinh, lời tôn vinh ca ngợi vượt qua không gian và thời gian
mà ngày xưa chính thi sĩ đã từng cảm nhận:
Ngọc như ý vô tri còn biết cả

Huống chi tôi là Thánh thể kết tinh
Tôi ưa nhìn Bắc Đẩu rạng bình minh,
Chiếu cùng hết khắp ba ngàn thế giớị..
Sáng nhiều quá cho thanh âm vời vợi,
Thơm dường bao cho miệng lưỡi khong khen

. (Thánh Nữ Đồng Trinh)
Và có lẽ, nói về Hàn Mặc Tử sẽ không bao giờ ta nói hết, chia sẻ về người thi
sĩ mang tiếng “Điên” nầy sẽ không bao giờ cạn. Bởi chính anh ta cũng chỉ là
một nổi khát vọng vô bờ như hình ảnh con chim phượng hoàng bay cao, bay cao
lên mãi như lời thơ anh:
Phượng Trì! Phượng Trì!Phượng Trì! Phượng Trì!

Thơ tôi bay suốt một đời chưa thấu,
Hồn tôi bay đến bao giờ mới đậu

.
Và như thế, để tưởng niệm 100 năm ngày sinh của Hàn Mặc Tử hôm nay, chúng ta
cũng chỉ như một khách sang sông mượn chiếc thuyền chở trăng về quá khứ cho
kịp tối nay:
Thuyền ai đậu bến Sông Trăng đó,

Có chở trăng về kịp tối nay?

(Đây thôn Vỹ Dạ)
Để nói với Hàn Mặc Tử rằng: Yên tâm đi thi sĩ, chúng tôi ở đây, bây giờ vẫn
dành cho anh một tình cảm đậm đà, đậm đà như tim anh đã từng rung lên khi về
thăm thôn Vỹ:
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh,

Ai biết tình ai có đậm đà?

(Đây thôn Vỹ Dạ)
Và như thế, chúng ta đã sẵn sàng cùng với anh tiến dâng cuộc đời làm hy lễ.
Amen.
LM. Giuse Trương Đình Hiền

Thiên Chúa có kêu gọi bạn ?

 

Thiên Chúa có kêu gọi bạn ?

 

Tác giả JACK GRAHAM

Bạn có nhận ra Thiên Chúa đặc biệt kêu gọi bạn trong cuộc đời này? Ngài thực sự
kêu gọi bạn đấy!

Có thể bạn không cảm thấy Thiên Chúa hướng dẫn bạn trở nên một nhà truyền giáo
hoặc người giảng thuyết, nhưng bạn vẫn được kêu gọi. Đó là nhiệm vụ mà bạn
không được lẩn trốn!

Trong Kinh thánh, 5 lần Chúa Giêsu kêu gọi những người theo Ngài “đi” vào thế
gian và làm chứng về Ngài. Đó cũng là điều chính xác Ngài đang nói với chúng ta
ngày nay. Ngài kêu gọi bạn làm nhân chứng của Ngài. Và bạn có thể bắt đầu từ
ngay nơi bạn đang ở!

Chúng ta được Ngài kêu gọi, điều đó chắc chắn, không còn gì mà nghi ngờ. Bạn có
nghe thấy tiếng Ngài gọi? Bạn có chú ý lời mời gọi đó và vâng theo Thánh Ý
Ngài? Điều đó rất quan trọng để bạn thực hiện.

Bạn biết đó, Thiên Chúa đã đặt những người đặc biệt trên đường đời của bạn. Họ
cần biết những gì Thiên Chúa đã làm cho bạn. Họ cần nghe nói về phúc lành và
bình an của Thiên Chúa. Họ cần biết Thiên Chúa yêu thương họ, thương xót họ, và
họ cần biết Ngài có tương lai hy vọng dành cho họ.

Vậy hãy can đảm trong Đức Kitô! Hãy cầu nguyện cho những người có nhu cầu trong
cuộc đời họ. Hãy làm chứng về Hồng ân Cứu độ của Thiên Chúa. Đó là lời mời gọi
dành cho bạn, là nhiệm vụ mà Thiên Chúa đã tin tưởng trao cho bạn. Hãy hành
động ngay bây giờ, bạn nhé!

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ Jesus.org)

Lễ Thánh Lm Anrê KIM, Phaolô CHONG, và các bạn tử đạo – 20/9/2012

Từ trẻ nhặt rác đến ứng cử viên giải Hòa bình Thiếu nhi Quốc tế

Từ trẻ nhặt rác đến ứng cử viên giải Hòa bình Thiếu nhi Quốc tế
nguồn: VOA

Kesz ngồi đằng sau một cậu bé 5 tuổi lắng nghe một bài học. Kesz bị bỏng nặng hồi 8 năm trước tại một bãi rác ở gần thủ đô Manila
Simone Oredain
17.09.2012
MANILA — Từ đi nhặt rác đến vận động cho quyền trẻ em, một cậu bé xuất thân từ thành phố Cavite gần thủ đô Manila của Philippines đang là một trong 3 ứng cử viên cho giải thưởng Hòa bình Thiếu nhi Quốc tế. Giải thưởng thường niên này ghi nhận những đóng góp đáng kể trong việc đối phó với các vấn đề của trẻ em và dự kiến sẽ được công bố trong tuần này tại thành phố The Hague. Từ Manila, thông tín viên Simone Orendain tường trình về cậu bé 13 tuổi tên Kesz, người sáng lập ra một tổ chức đã giúp hơn 10.000 trẻ em có hoàn cảnh như chính cậu.
Kesz nở nụ cười rạng rỡ trước những đứa trẻ ăn mặc nhếch nhác đang chen chúc ngồi nghe cậu đọc một câu chuyện về một chú chuột đi lên mặt trăng để tìm pho mát. Chúng tụ tập ngồi quanh một chiếc bàn trong trung tâm giữ trẻ chỉ có 1 phòng này ở Barangay Muzon, một cộng đồng nghèo khó ven vịnh Manila.
Kesz và một số tình nguyện viên trẻ tuổi nữa dạy bọn trẻ đọc hiểu, quyền trẻ em, vệ sinh cá nhân và trồng rau.
Kesz nói: “Em nhìn thấy bản thân mình qua những đứa trẻ này. Khi em đi đến những thành phố khác và nhìn thấy lũ trẻ xin ăn trên đường phố, em như thấy hình ảnh của chính mình. Vì thế mà em muốn dốc lòng giúp chúng.”
Từ lúc Kesz mới 2 tuổi cậu đã phải đi xin ăn, ăn cắp vặt và nhặt rác tại bãi rác nơi gia đình cậu sinh sống. Cậu nói ở nhà cậu bị ngược đãi và sau đó cậu bỏ trốn.
Kesz đọc câu chuyện về một chú chuột đi lên mặt trăng để tìm pho mát
​​Một ngày nọ, các thành viên của Câu lạc bộ 8586, một nhóm Kitô hữu vận động cho trẻ em tìm thấy Kesz đang ngủ bên ngoài một cửa hàng tạp hóa. Efren Penaflorida nhớ lại cậu bé 4 tuổi Kesz khắp người đầy ghẻ choàng tỉnh dậy và vội xin tiền.
Anh Penaflorida nói: “Nhưng tất nhiên là chúng tôi không cho tiền. Điều mà tôi và người hướng dẫn của tôi KB làm là mời cậu bé tham dự lớp học xe đẩy mà trong đó chúng tôi cho em thức ăn và một nền giáo dục cơ bản. KB bây giờ là người giám hộ của Kesz.”
Lớp học xe đẩy là một chương trình học tập khác dành cho trẻ em đường phố, một hình thức trường học mini di động có cung cấp bữa ăn và đồ dùng vệ sinh cá nhân.
Người sáng lập Câu lạc bộ 8586, Harnin “KB” Manalaysay, gửi Kesz trở về nhà với cam kết trả tiền học phí cho cậu bé. Nhưng thay vì đi học cậu lại buộc phải đi nhặt rác. Khi Kesz 5 tuổi, cậu bị những người nhặt rác bâu quanh xe chở rác xô ngã vào đống lốp xe đang cháy. Câu lạc bộ 8586 trả chi phí điều trị bỏng cho Kesz nhưng sau đó mẹ Kesz bỏ rơi cậu.
Kesz cho biết: “Mẹ em nói ở với Câu lạc bộ 8586 tốt hơn vì em sẽ được chăm sóc.
Bà ấy cũng nói em là người gây xui xẻo cho bà ấy.”
Dưới sự dìu dắt của Manalaysay và những người hướng dẫn khác, vận hạn của Kesz
đã thay đổi. Cậu bé 6 tuổi trở thành học sinh xuất sắc. Khi cậu vừa tròn 7 tuổi, Kesz đã ước một điều ước quan trọng vào dịp sinh nhật của mình.
Kesz nói thêm: “Em ước rằng trẻ em nghèo khó cũng nhận được những thứ mà em đã
nhận được.”
Kesz nói cậu muốn trẻ em nghèo có những thứ như dép xỏ ngón, đồ chơi và bánh kẹo, những thứ mà cậu từng có. Đây là khởi đầu cho sứ mệnh đầy tham vọng của Kesz. Những món quà mà Kesz ước vào sinh nhật mình hàng năm giờ đây có thêm quần áo, đồ dùng vệ sinh cá nhân và một thông điệp giản đơn gửi đến cho bọn trẻ, rằng đừng đánh mất hy vọng bởi vì chính các em cũng có thể đảo ngược lại cuộc đời của mình.
Khi chương trình được nhân rộng, Kesz và một nhóm những tình nguyện viên trẻ tuổi bắt đầu dang tay giúp đỡ đến hàng ngàn trẻ em nghèo khó ở Manila. Mùa xuân năm rồi, tổ chức Campioning Community Children vươn ra ngoài Philippines để đến với trẻ em cơ nhỡ ở Indonesia.
Klarence Baptista, một giám sát viên tình nguyện 22 tuổi, nói nguyên tắc làm việc của Kesz quả là phi thường.
Cô Baptista nói “Kesz giống như một thứ ánh sáng soi đường và truyền cảm hứng cho những người xung quanh chỉ đơn giản bằng cách giúp đỡ người khác.”
Nhưng quá khứ khó khăn vẫn đeo đuổi Kesz. Sau khi cậu được đề cử giải thưởng Hòa bình, Kesz bắt đầu nhận được những lời đe dọa tống tiền vì được giới truyền thông để ý tới. Sự việc này khiến cậu phải lánh xa công chúng và chỉ sử dụng tên “Kesz” thay vì tên họ đầy đủ để bảo vệ danh tính của mình.

Thánh Anrê Kim Taegon, Phaolô Chong Hasang và Các Bạn

 

Thánh Anrê Kim Taegon, Phaolô Chong Hasang và Các Bạn

 

20 Tháng Chín

 

Anrê Kim Taegon là linh mục Ðại Hàn đầu tiên và là con của một người trở lại đạo. Cha của ngài, ông Ignatius Kim, được tử đạo trong thời cấm đạo năm 1839 và được phong thánh năm 1925. Sau khi được rửa tội vào lúc 15 tuổi, Anrê phải trải qua một hành trình dài 1,300 dặm để gia nhập chủng viện ở Macao, Trung Cộng. Sáu  năm sau, ngài xoay sở để trở về quê hương qua ngả Mãn Châu. Cùng năm ấy ngài vượt qua eo biển Hoàng Sa đến Thượng Hải và thụ phong linh mục. Khi trở về quê, ngài có nhiệm vụ thu xếp cho các vị thừa sai vào Ðại Hàn qua ngã đường biển, nhằm tránh né sự kiểm soát biên phòng. Ngài bị bắt, bị tra tấn và sau cùng bị chặt đầu ở sông Han gần thủ đô Hán Thành.

Thánh Phaolô Chong Hasang là một chủng sinh, 45 tuổi.

Kitô Giáo được du nhập vào Ðại Hàn khi Nhật xâm lăng quốc gia này vào năm 1592, lúc
ấy có một số người Ðại Hàn được rửa tội, có lẽ bởi các binh sĩ Công Giáo người Nhật. Việc truyền giáo rất khó khăn vì Ðại Hàn chủ trương bế quan tỏa cảng, ngoại trừ những hành trình đến Bắc Kinh để trả thuế. Một trong những chuyến đi này, khoảng năm 1777, sách vở tài liệu Công Giáo của các cha dòng Tên ở Trung Cộng được lén lút đem về để dạy bảo người tín hữu Kitô Ðại Hàn. Giáo Hội tại gia bắt đầu thành hình. Khoảng mười năm sau đó, khi một linh mục Trung Hoa lén  lút đến Ðại Hàn, ngài thấy có đến 4,000 người Công Giáo mà chưa có ai được gặp một vị linh mục. Bảy năm sau, số người Công Giáo ấy lên đến khoảng 10,000 người. Sau cùng, tự do tôn giáo được ban hành vào năm 1883.

Khi Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đến Nam Hàn năm 1984 để phong thánh, ngoài Thánh Anrê và Phaolô, còn 98 người Ðại Hàn và ba vị thừa sai người Pháp, tất cả đều
tử đạo trong khoảng 1839 và 1867. Trong số đó có các giám mục và linh mục, nhưng hầu hết là giáo dân: 47 phụ nữ, 45 quý ông.

Trong những người tử đạo năm 1839 là Columba Kim, một phụ nữ 26 tuổi. Ngài bị cầm tù,
bị tra tấn bằng vật dụng bằng sắt nung nóng và than. Ngài và người em là Agnes bị lột quần áo và bị giam chung với những tù nhân hình sự, nhưng họ không bị làm nhục. Sau khi Columba phàn nàn về sự sỉ nhục này, từ đó về sau không một phụ nữ nào bị nhục nhã như vậy nữa. Hai người bị chém đầu. Một em trai 13 tuổi, Phêrô Ryou, bị tra tấn dã man đến độ em có thể lấy da thịt của mình mà ném vào quan toà. Em bị xiết cổ cho đến chết. Protase Chong, một người quý tộc 41 tuổi, sau khi bị tra tấn ông đã chối đạo và được thả tự do. Sau đó, ông trở lại, tuyên xưng đức tin và bị tra tấn cho đến chết.

Lời Bàn

Chúng ta bàng hoàng khi thấy sau khi được thành lập, Giáo Hội Ðại Hàn hoàn toàn là
một Giáo Hội của giáo dân khoảng hơn một chục năm. Làm thế nào mà giáo hội ấy sống còn khi không có bí tích Thánh Thể? Ðiều này cho thấy, không phải các bí tích không có giá trị, nhưng phải có một đức tin sống động trước khi thực sự được hưởng ơn ích của bí tích Thánh Thể. Bí tích là dấu chỉ của sự hoạt động và đáp ứng của Thiên Chúa đối với đức tin sẵn có. Bí tích làm gia tăng ơn sủng và đức tin, nhưng chỉ khi nào sẵn có một điều gì đó để được gia tăng.

Lời Trích

“Giáo Hội Ðại Hàn thì độc đáo vì được thành lập hoàn toàn bởi giáo dân. Giáo Hội còn non yếu, thật trẻ trung nhưng thật vững mạnh trong đức tin, và đã đứng vững sau những
đợt sóng bách hại mãnh liệt. Do đó, chỉ trong vòng một thế kỷ, Giáo Hội đã kiêu hãnh với 10,000 vị tử đạo. Cái chết của các vị tử đạo này trở thành men cho Giáo Hội và đưa đến sự triển nở huy hoàng của Giáo Hội Ðại Hàn ngày nay. Ngay cả bây giờ, tinh thần bất khuất ấy vẫn còn trợ giúp cho người tín hữu của Giáo Hội thầm lặng ở miền bắc bên kia vĩ tuyến” (ÐGH Gioan Phaolô II, bài giảng trong lễ phong thánh).

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

Thánh Januarius

Thánh Januarius

19 Tháng Chín

 

Ngài là giám mục và tử đạo, có khi còn được gọi là Gennaro, ngài nổi tiếng từ lâu vì
máu của ngài hóa lỏng vào ngày lễ kính. Januarius là giám mục của Benevento,
nước Ý, bị chặt đầu cùng với phó tế Festus; thầy đọc sách Desiderius; các phó tế Sosius và Proculus; và hai giáo dân, Eutyches và Acutius. Tất cả đều bị bắt khi đến thăm Sossus, là phó tế và đang bị tù ở Pozzuoli. Sau khi bị bắt, họ bị quăng vào đấu trường để gấu xé xác nhưng chúng không làm hại các ngài, bởi đó họ bị chém đầu.

Không ai có thể giải thích được sự kiện máu thánh nhân hóa lỏng xảy ra hàng năm khi
ngày lễ này được cử mừng qua bao thế kỷ, và đã có từ bốn trăm năm nay.

Lời Bàn

Học thuyết Công Giáo xác định rằng phép lạ có thể xảy ra và có thể được công nhận
— thật không khó đối với những ai tin vào Thiên Chúa. Tuy nhiên, sự khó khăn là khi chúng ta phải quyết định xem sự kiện ấy hoặc không thể giải thích theo nghĩa tự nhiên, hoặc không giải thích được. Chúng ta phải cố gắng tránh sự nhẹ dạ, là dấu chỉ của sự bấp bênh. Trái lại, khi các khoa học gia thích nói về “tính xác suất” hơn là “luật” tự nhiên, thì cũng không có gì quá đáng khi nghĩ rằng Thiên Chúa rất “khoa học” để làm những điều
kỳ diệu nhằm thức tỉnh chúng ta với những phép lạ hàng ngày qua chim muông, hoa
cỏ hay mưa tuyết.

Lời Trích

“Một khối lượng mầu đen chiếm nửa bình thủy tinh nhỏ được đậy kín, và được cất giữ trong một hộp đựng ở vương cung thánh đường Naples là máu của Thánh Januarius, đã hóa lỏng 18 lần trong năm… Hiện tượng này đã có từ thế kỷ 14… Truyền thuyết nói
rằng Eusebia, là người đã cất giữ máu thánh nhân sau khi ngài bị tử đạo… Khi máu hóa lỏng, người ta đưa hộp thánh tích tới gần bàn thờ, là nơi được tin rằng đang chôn cất đầu của thánh nhân. Trong khi tín hữu cầu nguyện, thường rất huyên náo, vị linh mục xoay chiếc hộp vài lần trước sự chứng kiến của giáo đoàn  cho đến khi máu hóa lỏng… Một vài cuộc thử nghiệm đã được thi hành, nhưng không thể giải thích hiện tượng này bằng luật tự nhiên. Tuy nhiên, cũng có những phép lạ tương tự với máu của các Thánh Gioan Tẩy Giả, Stephen, Pantaleon, Patricia, Nicholas Tolentino và Thánh Aloysius Gonzaga — hầu hết trong vùng lân cận của Naples” (Sách Bách Khoa Công Giáo)

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

Vợ chồng trẻ Quận Cam 70% ly dị


Vợ chồng trẻ Quận Cam 70% ly dị

September 18, 2012   nguồn: Báo Nguoi-Viet.com

Thiên An/Người Việt

Nhiều người mang chuyện ly dị ra chỉ để hù dọa vợ hay chồng mình khi nóng giận, nhưng dựa trên những số liệu gần đây của Sở Kiểm Kê Dân Số Hoa Kỳ (US Census Bureau) thì không ít những lời nói vu vơ đó sẽ có thể trở thành là sự thực, nhất là trong khu vực Quận Cam.


Trẻ em là những người bị thiệt thòi nhất khi cha mẹ ly dị. (Hình minh họa: TORU
YAMANAKA/AFP/Getty Images)
Tài liệu của US Census Bureau năm 2010 cho biết tỉ lệ ly dị trung bình của nước Mỹ là khoảng 50%, tiểu bang đi đầu là California 60% mà Quận Cam là vùng có tỉ lệ ly dị cao nhất, gần 70%.
Từ nhiều năm trở lại đây, tỉ lệ lập gia đình trong dân số Hoa Kỳ ngày càng giảm, trong khi con số ly dị từ các cặp vợ chồng đó ngày một tăng lên. Cứ ba cặp đôi nào vượt qua được các thử thách và quyết định đi tới hôn nhân, thì chỉ 1 trong số đó sẽ giữ được mái ấm của mình. Với tỉ lệ ly dị cao tới gần 70% giữa các đôi vợ chồng ở Quận Cam, có thể nói rằng những đứa trẻ nào ở Quận Cam, mà có được cả ba lẫn mẹ để thưa chào trước khi đi học hay khi về nhà, là những đứa trẻ may mắn. Những
đứa trẻ không có được may mắn đó sẽ phải đối mặt với nhiều vấn đề về tâm lý cũng như các phương diện khác của cuộc sống. Con gái sống với cha hay con trai sống với mẹ thường có những khó khăn trong việc bộc lộ cảm xúc. Con gái sống với mẹ thường có tinh thần trách nhiệm cao, nhưng dễ trở nên già dặn hơn các bạn đồng trang lứa. Ðáng buồn hơn, một số có thể trở nên hư hỏng và đánh  mất tương lai của chúng. Thống kê cho thấy con trai thiếu sự dạy dỗ của cha  có tỉ lệ phạm tội cao gấp đôi mức bình thường.
Bà Lynne Diamond, người sáng lập  và là giám đốc của Divorce Wizards ở Newport Beach nói, “Ðau lòng nhất là  những đứa trẻ, có những đứa mới ba tuổi không biết sẽ ra sao.” Có những đôi  vợ chồng cần sự cố vấn của bà hơn 30 tiếng mới quyết định được việc họ sẽ  chia nhau nuôi dạy con như thế nào trong khoảng thời gian sau ly dị. Công việc của bà Diamond là chuyên về hòa giải và cố vấn cho các vụ ly dị. Bà có  bằng thạc sĩ tư vấn và đã làm trong ngành 17 năm nhưng bà cũng cho biết là  hầu hết các cặp vợ chồng đã điền đơn ly dị thì cũng khó được hòa giải thành công, nhất là các cặp vợ chồng đã tìm tới luật sư. Tuy từng học và lấy bằng  luật, bà Diamond bày tỏ sự thiếu thiện cảm của mình với những luật sư trong lĩnh vực ly dị.
Tòa thường lấy $1,000 cho một cuộc ly dị, bất kể đó là một cuộc ly dị đơn giản hay phức tạp. Với con cái và tài sản giữa hai bên, việc ly dị dễ trở nên rắc rối khiến cho cặp vợ chồng phải nhờ tới sự giúp đỡ của luật sư. Khi một bên đã gọi luật sư thì bên kia thường sợ thua thiệt và gọi một luật sư khác cho riêng mình. Bà Diamond lấy một cái tên từ danh sách khách hàng dài sáu trang của bà, danh sách các cặp vợ chồng phải nhờ tới sự trợ giúp của luật sư. Ðôi vợ chồng mà bà lấy để làm ví dụ đã phải ra tòa 31 lần với luật sư của họ. Mỗi bên đã trả $150,000 cho luật sư của mình.
Ly dị là tốn kém, nhưng tiền bạc thường không phải là điều mất mát lớn nhất từ các vụ ly dị. Với các bậc làm cha làm mẹ, tranh giành quyền nuôi dạy con cái luôn là điều làm họ đau đầu nhất. Người may mắn hơn sẽ được giữ con trong khi người kém may mắn hơn sẽ chỉ được gặp con theo một thời khóa biểu vạch sẵn. Người không có việc làm tốt và ổn định không những sẽ mất quyền giữ con mà còn phải đóng tiền child
support cho người kia. Những người sau khi ly dị sẽ gặp nhiều sức ép tài chính hơn, cho con cái cũng như nhà ở hay thức ăn, những thứ mà giờ đây không còn được chia sẻ bởi người chồng hay người vợ của mình nữa.
Các cặp vợ chồng đến gặp bà  Diamond tới từ các độ tuổi và tầng lớp khác nhau, 20 tuổi có, 80 tuổi có, nghèo có, giàu có. Lý do cãi vã và ly dị cũng vô vàn, mỗi cặp mỗi cảnh. Tất cả đều mong khi ly dị xong họ có thể kết thúc các vấn đề trong đời sống vợ
chồng của mình. Việc ly dị là không hề đơn giản nhưng lại là phương án tốt nhất mà một số người có thể chọn cho mình. Với họ, đó có thể là một quyết định sáng suốt. Với một số khác, khi họ nhận ra được sự phức tạp của việc ly dị thì đã trễ.
Cứ 10 cặp vợ chồng ở Quận Cam thì 7 cặp sẽ kết thúc trong sự tan vỡ. Theo khảo sát thì ba cặp còn lại cũng nghĩ tới việc ly dị nhưng họ không biến ý nghĩ đó thành hiện thực. Trong cuộc sống hiện đại khi thời gian là vàng bạc, con người dường như quyết định mọi thứ nhanh chóng hơn, kể cả việc chấm dứt đời sống vợ chồng. Khi nghĩ tới việc ly dị như một phương án để kết thúc cho mọi khó khăn trong đời sống gia đình,
thiết nghĩ một chút thời gian để nói chuyện với nhau có thể giữ bạn lại ở bên phía 30% may mắn của các cặp vợ chồng ở Quận Cam.

Bộ trưởng Đức gốc Việt Philipp Rösler thăm Việt Nam

Bộ trưởng Đức gốc Việt Philipp Rösler thăm Việt Nam

Bộ trưởng Bộ Kinh tế và Công nghệ Đức Philipp Rösler

 

18.09.2012

Bộ trưởng Bộ Kinh tế và Công nghệ Đức Philipp Rösler hiện ở Việt Nam trong chuyến công du châu Á kéo dài 4 ngày.

Được biết, chuyến đi với sự tháp tùng của khoảng 50 đại diện doanh nghiệp Đức nhằm tăng cường quan hệ kinh tế giữa Hà Nội và Berlin.

Ông Rösler nhận định rằng Việt Nam là một trong những quốc gia ‘đang vươn lên trong khu vực tăng trưởng kinh tế ASEAN, và Đức muốn ‘có quan hệ đối tác chặt chẽ và mở rộng mối quan hệ’ với Việt Nam.

Ngoài cuộc gặp với Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và các giới chức cấp cao khác của Việt nam, ông Rösler dự Diễn đàn đối thoại Đức-Việt với đại diện giới kinh tế.

Hôm 17/9, Bộ trưởng Rösler đã có bài phát biểu trước sinh viên Đại học Kinh tế Quốc dân ở Hà Nội, và tại đây, ông đã được trao bằng Tiến sĩ danh dự.

Ngoài các cuộc gặp trên, ông còn tới thăm một số doanh nghiệp, dự lễ khánh thành Trường phổ thông giao lưu Đức-Việt và một Trung tâm công nghệ Đức-Việt.

Năm 2011, Việt Nam và Đức đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược, và giao thương giữa hai nước đã tăng 28%, lên tới 5,7 tỷ euro.

Trước đây, ông Rösler, 39 tuổi, từng tới thăm Việt Nam nhưng trên danh nghĩa cá nhân.

Trả lời phỏng vấn tờ Spiegel của Đức trước khi tới Hà Nội, ông Rösler nói rằng Việt Nam là một phần của cuộc đời ông.

Ông Rösler cũng bày tỏ hy vọng rằng các doanh nghiệp Đức sẽ được hưởng lợi từ chuyến thăm của ông. Ông cho rằng Việt Nam là quốc gia đang lên, và đã đạt được nhiều thành quả trong những năm vừa qua, nhưng vẫn còn tồn tại nhiều thách thức, nhất là vấn đề pháp quyền.

Ông Rösler từng bị bỏ rơi bên ngoài một cô nhi viện Công giáo trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam, rồi được đưa sang Đức, và tại đây, ông đã được nhận làm con nuôi.

Nguồn: German Embassy, SPIEGEL VietNamNet Bridge

Thánh Giuse Cupertino

Thánh Giuse Cupertino

(1603-1663)

 

18 Tháng Chín

Thánh Giuse Cupertino là người nổi tiếng bay bổng khi cầu nguyện Ngay từ lúc
nhỏ, Giuse đã ưa thích cầu nguyện. Sau một thời gian sống với các tu sĩ dòng Capuchin, ngài gia nhập dòng Conventual (một nhánh của dòng Phanxicô). Sau một thời gian ngắn trông coi lừa cho nhà dòng, Giuse được đi học để làm linh mục. Mặc dù việc học đối với ngài thật khó khăn, nhưng Giuse đã hiểu biết nhiều qua sự cầu nguyện. Ngài được thụ phong linh mục năm 1628.

Việc  bay bổng khi cầu nguyện của Thánh Giuse đôi khi là thập giá cho ngài, vì nhiều
người đến xem như đi xem xiệc. Tuy được ơn sủng đặc biệt này nhưng ngài thật khiêm tốn, kiên nhẫn và vâng phục, dù có nhiều khi bị thử thách nặng nề và cảm thấy như bị Thiên Chúa bỏ quên. Suốt cuộc đời, ngài ăn chay và đeo một giây xích sắt trong người.

Nhà dòng thuyên chuyển thánh nhân đến nhiều nơi vì ích lợi cho ngài cũng như cho
toàn thể cộng đoàn. Ngài bị báo cáo lên Tòa Thẩm Tra và bị điều tra, nhưng cơ
quan này không kết tội ngài.

Thánh Giuse Cupertino được phong thánh năm 1767. Trong cuộc điều tra để lập hồ sơ
phong thánh, người ta ghi nhận có đến 70 lần ngài bay bổng.

Lời Bàn

Trong khi việc bay bổng là dấu hiệu bất thường của sự thánh thiện, Thánh Giuse cũng
được người đời nhớ đến qua những dấu chỉ bình thường của ngài. Ngài cầu nguyện
khi tâm hồn tăm tối, và ngài sống theo Tám Mối Phúc Thật. Ngài dùng “vật sở hữu độc đáo” là ý chí tự do của ngài để ca ngợi Thiên Chúa và phục vụ các tạo vật của Người.

Lời Trích

“Hiển nhiên điều mà Thiên Chúa mong muốn trên tất cả mọi sự là ý chí mà chúng ta được tự do lãnh nhận qua sự tạo dựng của Thiên Chúa, và chiếm hữu như của riêng mình. Khi một người tự rèn luyện sống theo các nhân đức, và đạt được điều đó là nhờ sự trợ giúp của Thiên Chúa, Ðấng phát sinh mọi điều thiện hảo. Ý chí là điều mà con người có được như một vật sở hữu độc đáo”(Thánh Giuse Cupertino, trích từ bài đọc ngày lễ kính trong sách nhật tụng của dòng Phanxicô).

Nguồn: Maria Thanh Mai gởi

Đức tin và việc làm

Đức tin và việc làm

 

Một chiếc đồng hồ bằng vàng mà không chỉ đúng giờ thì vô ích

Một cây xum xuê cành lá mà không có trái thì cũng vô ích

Một chiếc đèn cẩn đầy kim cương mà không cháy sáng được thì cũng vô ích.

Cho nên Thánh Giacôbê nói: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết”

Linh đạo người tông đồ:

Hoa trái của thinh lặng là cầu nguyện

Hoa trái của cầu nguyện là đức tin

Hoa trái của đức tin là tình yêu

Hoa trái của tình yêu là phục vụ

Hoa trái của phục vụ là bình an

Hoa trái của bình an là là bác ái

Mẹ Têrêsa Calcutta

S.T.