Cột điện trên facebook của Bill Gates là “đặc sản” độc quyền Việt Nam

Cột điện trên facebook của Bill Gates là “đặc sản” độc quyền Việt Nam

nguồn:dântri.com.vn

(Dân trí) – Nhà tỉ phú nổi tiếng Bill Gates đăng lên facebook của ông bức ảnh cột điện chằng chịt dây điện mà ông chụp được ở đường phố Việt Nam kèm theo status: Tại Việt Nam, nhu cầu năng lượng đang tăng 14% một năm. Lưới điện cũ này bị quá tải. Nhưng đất nước như Việt nam làm sao để giải quyết nhu cầu điện ngày càng tăng”.
>>  Dân mạng Việt gây náo loạn Facebook của Bill Gates

Cột điện trên facebook của Bill Gates là “đặc sản” độc quyền Việt Nam

Những dòng trên status không có gì ghê gớm, nhu cầu điện tăng là chuyện đương nhiên, là rất bình thường. Vậy tại sao facebook của tỉ phú Mỹ thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng như vậy?

Câu trả lời là vì cái cột điện. Có lẽ cộng đồng không quan tâm đến chuyện thiếu điện ở Việt Nam, mà sửng sốt trước cái cột điện như con quái vật trên đường phố. Bao nhiêu năm nay, dân mình thấy nó quá quen thuộc, quen thuộc đến độ chúng ta không xem nó là quái dị, là bất bình thường, là xấu xí, là nguy hiểm… Chùm dây điện trên đầu, chạy ngang qua cửa sổ nhà, dây điện từng gây chết người, móc vào cổ người đi đường, nhưng chẳng có gì quan trọng.

Nhưng cái cột điện với chùm dây mạng nhện “đặc sản” thuần Việt Nam trên facebook của Bill Gates đã gây sốc cho cả thế giới. Ở thế kỷ này rồi mà vẫn còn có quốc gia khai thác và truyền tải điện như Việt Nam quả thật rất đáng để tò mò. Những công dân văn minh của thế giới văn minh giật mình kinh hãi khi thấy cột điện nguy hiểm này, họ tự hỏi vì sao nó mất thẩm mỹ và mất an toàn như vậy mà vẫn cứ tồn tại ngay giữa đường phố của thủ đô Việt Nam.

Nhưng họ chưa biết rằng, không phải chỉ một cột mà ông Bill Gates chụp, còn có hàng vạn cột điện tệ hơn vậy trên khắp đường phố Hà Nội, TPHCM và nhiều thành phố khác của Việt Nam.

Nhiều người Việt Nam cảm thấy xấu hổ khi chuyện cái cột điện tệ hại được cộng đồng mạng đem ra bình luận. Ông tỉ phú người Mỹ đến Việt Nam và đã giới thiệu cho cả thế giới biết về sự lạc hậu của đất nước Việt Nam chỉ qua một tấm ảnh. Tấm ảnh đó rất điển hình, rất khái quát và rất trung thực về sự phát triển của ngành điện Việt Nam. Không trách ông Bill Gates, chỉ trách chúng ta quá tụt hậu và kém cõi.

Những người lãnh đạo ngành điện Việt Nam có xấu hổ khi hình ảnh quốc gia bị chính cái cột điện của các ông làm cho xấu xí trước mắt thiên hạ không?

Ngành điện độc quyền kinh doanh, bấu vào bầu sữa ngân sách, làm ăn thua lỗ, điện luôn không đủ cung cấp cho sản xuất và tiêu dùng. Những tồn tại và yếu kém đó bao năm không giải quyết được, hệ thống đường dây “quái vật” cũng thế, nó là một trong những sản phẩm từ sự yếu kém mà ra.

Cùng với cột điện và hệ thống dây điện trong thành phố, đô thị Việt Nam còn có hai thứ “đặc sản” khác là kẹt xe và ngập nước. Du khách nước ngoài đến Việt Nam luôn được thưởng thức quang cảnh kẹt xe. Nếu gặp cơn mưa, có thể câu cá hay chống xuồng đi trên đường phố. Những hình ảnh “ngộ nghĩnh” đó không thiếu ở các kênh thông tin, mạng xã hội. Làm một công dân có lòng tự trọng, thấy đó là một nỗi đau, huống chi là làm lãnh đạo.

Lê Chân Nhân

Người tình của cha

Người tình của cha

Cha tôi nói, trong gia đình, quan trọng là người đàn bà. Giữ được êm ấm hay đổ vỡ cũng là do người đàn bà.

Mẹ tôi mất cách nay đã 10 năm. Kể từ ngày ấy, cha chưa một lần rời khỏi cái tổ ấm chứa đựng 50 năm hạnh phúc với 10 đứa con “trứng gà, trứng vịt” của cha mẹ. Cha bảo, cha không muốn đi đâu khi không có mẹ.

Ấy vậy mà vừa rồi, thằng Út gọi điện: “Cha nói muốn lên Sài Gòn thăm con cháu một chuyến”. Tụi tôi thấy lo lo. Người ta hay nói, một người già bỗng dưng muốn đi thăm bạn bè, thân hữu, cháu con thì chắc chắc sẽ có thay đổi lớn. Dù vậy, nghe bảo cha chịu đi chơi thì mấy anh em tôi rất mừng, vội vàng mướn xe về đón cha lên. Mấy anh em phân công nhau: cha ở với mỗi đứa 1 tuần. Cứ thế mà xoay tua. Nếu hết tua mà cha vẫn còn muốn ở chơi thì bắt đầu làm lại tua thứ hai. Thỏa thuận xong đâu đấy rồi, vậy mà bỗng dưng cha đổi ý: “Cha ở với vợ chồng con Bảy. Trước nay, con Bảy nấu ăn giống mẹ, cha vừa miệng nhất”.

Vậy là tôi, con Bảy cuống quýt dọn dẹp nhà cửa để đón cha về. Biết ý cha, ngày nào tôi cũng hỏi: “Hôm nay cha muốn ăn gì để con mua?” Cha bảo: “Cha lớn tuổi rồi, ăn uống bao nhiêu đâu, gì cũng được”. Tuy cha nói vậy, nhưng ngày nào tôi cũng cố gắng đổi món. Hôm thì cá rô kho tộ, bữa thì tôm kho tàu, thịt ba rọi nướng; bữa thì tôi nấu bánh canh, bún bò cho cha ăn… Theo thói quen, hôm nào tôi cũng chờ cha gắp vài đũa rồi hỏi: “Cha ăn được không cha?” Cha gật đầu: “Con là đứa biết ý cha nhất”. Thấy vậy, 2 thằng con tôi cũng bắt chước. Mỗi khi lên bàn ăn, tụi nó lại tranh nhau hỏi: “Ông ngoại, ngon không ông ngoại?” Cha tôi xoa đầu hai thằng cháu: “Ngon. Nhưng mẹ con nấu không giống bà ngoại nấu…”

Sau câu nói, tôi thấy mắt cha rơm rớm. Có lẽ cha nhớ mẹ. Mấy chục năm vui buồn, tôi chưa bao giờ nghe cha mẹ nặng lời với nhau. Cha không bao giờ kêu mẹ bằng “bà” mà gọi bằng “mẹ sắp nhỏ”. Cha kêu như thế dù “sắp nhỏ” của cha mẹ có đứa đã ngót nghét năm mươi tuổi.

Mãi sau này khi mẹ mất, cha mới kể, lúc đầu, khi ông bà nội đi hỏi cưới mẹ cho cha, cha chê mẹ xấu nên đã bỏ đi biệt xứ. Hơn 3 năm sau, cha trở về, thấy mẹ vẫn còn ở vậy. Lân la làm quen, chuyện trò cha mới phát hiện mẹ là một cô gái hiền lành, đảm đang, hiếu thảo. Cha hỏi, sao mẹ chưa chịu lấy chồng thì mẹ trả lời: “Lấy người bạc bẽo như anh thì thà ở vậy còn hơn”. Lúc đó, cha trở ngược, năn nỉ mẹ ưng lấy cha. Năn nỉ riết, mẹ cũng xiêu lòng nhưng giao hẹn: “Lấy tui rồi thì không được lẹo tẹo với mấy đứa xóm trên nghen. Anh mà có gì với tụi nó thì tui chết trước bỏ anh đó”. Cha nghe vậy thì mừng húm vì “mấy đứa xóm trên” đã đi lấy chồng hết trơn rồi.

Vậy là cha mẹ thành vợ thành chồng. Rồi mẹ sinh anh Hai, anh Ba, chị Tư, chị Năm, chị Sáu, con Bảy là tôi và các em Tám, Chín, Mười, Út. Sau này, có những lúc nhà gặp khó khăn, chúng tôi cứ hay cật vấn: “Sao cha mẹ đẻ chi mà nhiều vậy?” Mẹ cười hiền lành: “Đẻ cho sạch ruột thì thôi, chớ có biết gì đâu mà kế hoạch như bây giờ?”

Cái chuyện cha mẹ đẻ tới 10 đứa con cứ bị chúng tôi đem ra làm đề tài bàn tán mỗi khi có dịp vui vầy. Đứa nào cũng nghĩ, chắc cha mẹ hạnh phúc lắm mới cho ra nhiều con như thế! Mãi sau này, trong một lần anh em tụ tập, anh Hai mới kể lại một câu chuyện mà nghe xong đứa nào cũng ôm bụng cười lăn, cười bò. Chẳng biết anh Hai có thêm thắt hay không, nhưng anh cam đoan là “nghe dượng Chín kể sao, anh kể lại i sì…”

Lần đó, mẹ sanh chị Năm được non tháng thì nghe tin cha có vợ bé. Tối tối, hai người ngủ với nhau dưới ghe đậu ngoài vàm kinh. Chả là cha tôi buôn trái cây đường dài từ miền Tây lên thành phố, hay chở trái cây đi Sài Gòn bằng ghe mà. Lần đó, cha đi 2 ngày thì có người báo cha chưa đi, còn neo ghe ngoài vàm để lên thêm hàng. Họ còn nói, thấy có người phụ nữ thấp thoáng trong mui ghe. Nghe vậy thì mẹ lên cơn ghen. Cái thói thường đàn bà, hễ đụng tới chuyện chồng chung thì đã “ba máu, sáu cơn”, cỡ nào cũng phải bắt tận tay, day tận mặt.

Nửa đêm hôm đó, mẹ mượn chiếc xuồng, bơi ra chỗ cha đậu ghe. Mẹ hành sự êm đến nổi chẳng ai hay biết. Mẹ bò vô mùng rồi mà cha vẫn ngủ say như chết. Bắt gặp tại trận cha với người đàn bà khác, mẹ suýt ngất đi, nhưng rồi mẹ bình tĩnh quơ hết quần áo của hai người rồi lia đèn pin vào mặt họ. Khi nhận ra tình thế hiểm nghèo, cha năn nỉ mẹ tha cho và hứa không bao giờ tái phạm. Mẹ chỉ vào mặt cha: “Ông ngồi yên đó, để tui dạy cái đứa dám giựt chồng tui”. Cha sợ thì ít, mà lo mẹ bị lên cơn sản hậu thì nhiều nên ngồi im re.

Mẹ đưa trả quần áo cho người phụ nữ kia, bảo chị ta mặc vào rồi nằm xuống. Chị ta răm rắp làm theo. Mẹ nhịp nhịp cái roi tre thủ sẵn lên mông chị ta: “Nè, cô có biết anh Tám là chồng tui không? Biết hả? Biết sao còn dám rù quến? Đàn ông nào cũng có thói trăng hoa, không ít thì nhiều. Chồng tui không có lỗi. Ảnh mà hư hỏng là tại cô dụ dỗ. Cái thứ đàn bà lăng loàn, hư thân mất nết. Tui đánh cô 20 roi cho cô chừa”. Người phụ nữ kia run lẩy bẩy nhưng không dám trả treo. Còn mẹ tôi thì chỉ nói được vậy rồi… xỉu!

Ấy vậy mà từ đó về sau, cha một lòng, một dạ, không bao giờ dám léng phéng nữa… Thế nên, sau khi mẹ mất, dù đã 10 năm, nhưng bữa cơm nào, cha cũng xới một chén cơm cho mẹ và rủ rỉ: “Mẹ sắp nhỏ về ăn cơm với tui”. Đã mấy lần, chúng tôi bảo cha thôi đừng cúng nữa để mẹ siêu thoát thì cha nhất định không chịu…

Cha ở chơi được một tuần thì anh Hai nhớ ra: “Cha rất thích bánh xèo. Anh em mình dẫn cha đi ăn bánh xèo đi”. Vậy là anh Hai làm chủ xị bữa tiệc bánh xèo ở cái quán nổi tiếng của thành phố. Đến nơi, chúng tôi gọi đủ thứ bánh xèo: hải sản, nấm, thập cẩm, củ hủ dừa… Khi người ta bưng bánh xèo thơm phức, giòn rụm ra, cha ngắt một miếng cho vào miệng rồi lấy đũa vạch cái bánh xèo ra săm soi: “Bánh xèo gì lạ lùng vậy?” Cha chê bánh mỡ dầu nhiều, nhân bánh “hỏng giống ai”. Đặc biệt, bột bánh vừa bỡ, vừa nhạt, vừa hôi vì cho nhiều bột nghệ được pha chế sẵn…

Biết cha nhớ bánh xèo mẹ làm, nên mấy chị em chúng tôi quyết định phải tự tay đổ bánh xèo cho cha ăn. “Cha có ăn uống bao nhiêu đâu mà làm chi cho cực vậy?” Tuy cha nói vậy, nhưng chúng tôi biết cha rất vui. Tôi ngâm gạo rồi đi mướn người ta xay, chớ không làm bằng bột pha sẵn bán ngoài tiệm. Lúc pha bột, cha ngồi kế bên chỉ dạy: cho vào bột nước cốt dừa vừa phải, đậu xanh cà ngâm một đêm cho tróc vỏ rồi đãi sạch nấu mềm, hành hương xắt nhuyễn, lòng đỏ trứng, muối, đường, chút nước nghệ tươi rồi nêm nếm vừa ăn. Nhân bánh thì chỉ có thịt vịt bằm nhuyễn xào vừa ăn, tép bạc, củ sắn, nấm rơm. Riêng món rau ăn kèm thì thật hoành tráng: Anh Hai lùng sục khắp nơi để mang về nào là đọt chiết, đọt xoài, bằng lăng, húng quế, đinh lăng, lá cách; cộng với diếp cá, sà lách, tần ô, rau thơm, húng lủi, cải bẹ xanh… Chị Năm còn cất công đi mượn về cái chảo gang và cái bếp than.

Kể ra như vậy để mọi người thấy là anh em tôi đã chuẩn bị bữa tiệc bánh xèo cho cha chu đáo như thế nào. Tôi lại được tín cẩn giao nhiệm vụ đổ bánh xèo. Trước khi làm thật, tôi đã “xé nháp” cả chục lần, để canh sao cho được cái bánh xèo giòn rụm ngoài rìa nhưng phía trong không bị khét, nhân bánh rãi đều để gắp miếng bánh chỗ nào cũng có thịt vịt, có tép, có đậu xanh… Cha ăn được non cái bánh rồi gật gù: “Cũng khá đó con, nhưng vẫn chưa bằng mẹ”.

…Ngày cuối cùng trước khi cha về lại quê, anh em chúng tôi họp mặt đầy đủ. Dâu rể, con cháu gần ba chục người, ngồi chật nhà anh Hai. “Cha yếu rồi, không biết có còn lên chơi với con cháu được nữa không. Có điều cha muốn nói với tụi con là, đàn ông hay ham thích của lạ, thích bay nhảy, nhưng cuối cùng cũng quay về nhà. Trong gia đình, quan trọng là người đàn bà. Giữ được êm ấm hay đổ vỡ cũng là do người đàn bà. Nói vậy không phải cha bao che cho mấy thằng rể hay anh Hai, anh Ba mà cha muốn nói với con Tư, con Năm, con Sáu, con Bảy, con Tám, con Chín, con Mười là phải rộng lượng, cái gì đáng nói thì nói, không đáng thì bỏ qua. Có như vậy gia đình mới êm ấm”.

Chúng tôi lặng thinh. Cha cũng trầm ngâm hồi lâu rồi cất tiếng: “Nói vậy, chớ cha cũng có lỗi với mẹ, nên mẹ mới bỏ cha mà đi sớm như vậy”. Nói rồi, cha lại rơm rớm nước mắt. Năm nay, cha đã tám mươi tư tuổi rồi mà hình như trong tim cha, không có ai ngoài mẹ…

Tuyết Anh

Tình bạn tuyệt vời của người xưa

Tình bạn tuyệt vời của người xưa

02920120821151629

Chuyện kể rằng vào đời nhà Tống ở Trung quốc có một đôi bạn thân, cả hai người đều học rộng, tài cao. Về phẩm hàm là quan nhất, nhị phẩm. Đó là nhà văn Vương An Thạch và nhà thơ Tô Đông Pha .Văn chương, thơ phú của cả hai người đều rất nổi tiếng, Vương An Thạch giữ chức Tể  tướng Còn Tô Đông Pha thì làm quan cai trị một vùng Hai người là bạn thân chơi với nhau từ lâu nhưng do mỗi người lại có năng khiếu và sở trường riêng, người này giỏi văn còn người kia thì lại giỏi về thơ, vậy cho nên Tô Đông Pha không  phục Vương An Thạch, coi bạn không giỏi bằng mình. Biết là bạn coi thường mình nhưng Vương An Thạch chỉ im lặng không nói gì cả. Có một lần Vương An Thạch chủ động mời Tô Đông Pha đến tư dinh Tể tướng của mình chơi để đàm đạo chuyện văn chương. Khi Tô Đông Pha đến, Vương An Thạch cố ý vắng mặt một cách tế nhị khi Tô Đông Pha bước vào thư phòng của ông . Vì không thấy chủ, lại thấy trên bàn có một bài thơ đã làm xong và một bài đang viết dở. Vì giỏi thơ, khi nhìn thấy có thơ là ông liếc mắt đọc ngay. Một bài có đôi câu như sau:

“ Minh nguyệt sơn đầu khiếu

Hoàng khuyển ngọa hoa tâm”.

Tô Đông Pha nhíu mày, nhăn trán suy nghĩ : Minh nguyệt là ánh trăng sáng, mà khiếu là hót. Vậy thì ánh trăng sáng, sao mà lại hót được ở đầu núi nhỉ? Câu tiếp là Hoàng khuyển là con chó vàng thì làm sao lại ngọa ( nằm) được ở trong tâm ( giữa) bông hoa ?. Ông lắc đầu và tỏ rõ ý coi thường tác giả của bài thơ. Ông nghĩ “ Vậy mà người ta cứ đồn là Vương An Thạch giỏi”? Nhân lúc vắng chủ nhà, và sẵn tiện có bút mực tại chỗ, ông sửa lại ngay hai câu thơ là :

“ Minh nguyệt sơn đầu chiếu

Hoàng khuyển ngọa hoa âm”

Có nghĩa là ánh trăng chiếu nơi đầu núi và con chó vàng nằm dưới bóng của bông hoa. Sửa xong hai câu thơ trên, Tô Đông Pha tỏ vẻ rất hài lòng và cho rằng khi đọc lại hai câu thơ này thì Vương An Thạch phải phục tài của mình lắm. Thơ phải sửa như thế mới đúng ngữ và nghĩa chứ !

Đọc tiếp bài văn thứ hai, thấy Vương An Thạch  tả cảnh mùa đông lạnh lẽo, tuyết rơi, hoa cúc rụng tơi tả. Tự liên hệ, ông thấy rất bực mình vì trên thực tế không bao giờ có chuyện hoa cúc lại rụng. Với hoa cúc, khi tàn héo nó vẫn cứ bám vào đài và thân hoa cho đến khi cây cúc chết.( Hoa cúc như vậy nên các đôi trai gái khi yêu thường lấy hoa làm biểu tượng để tặng cho nhau thể hiện sự chung thủy của mình) Ông cầm bút viết ngay vào bên cạnh bài văn để nói thẳng với tác giả rằng “ Hoa cúc không bao giờ rụng cả”. Biết mình chức, tước và phẩm hàm còn dưới Vương An Thạch nên lúc ra về suy nghĩ lại, ông biết mình phạm thượng, vì Vương An Thạch là quan đầu triều, chỉ dưới có một mình vua ( dưới một người, trên muôn vạn người). Thế nào mình cũng sẽ bị trị tội, bị trả thù là cái chắc. Quả đúng như dự đoán, sau một thời gian ngắn Tô Đông Pha nhận được “ trát” điều đi nhậm chức tận vùng phương Bắc xa xôi như đi “đầy”. Tô Đông Pha hối hận và nhận ra hậu quả việc làm bồng bột của mình ! Còn với tể tướng Vương An Thạch, sau khi ban “trát” điều Tô Đông Pha đi, ông hạ lệnh” các quan lại địa phương mà Tô Đông Pha đến làm việc là phải tạo mọi điều kiện  thuận lợi cho ông tìm hiểu đất đai, thổ nhưỡng cũng như thiên nhiên vùng đó và phải đối xử với tiên sinh Tô Đông Pha như  bậc đại khách” Là một người yêu thiên nhiên và biết cảm thông với nỗi thống khổ của người dân ở vùng đất khô cằn, khắc nghiệt, Tô Đông Pha thường xuyên tiếp xúc với dân, ông thỏa sức du ngoạn để tìm hiểu về con người và đất đai khắp vùng. Vì sống hòa đồng và hết sức thân thiện với mọi người nên ông đi đến đâu cũng được từ quan đến dân đón tiếp chân thành và nồng thắm. Có một lần đến thăm một làng quê nọ Tô Đông Pha bỗng nghe thấy tiếng chim lạ hót véo von, tiếng hót rất trong lại vang vọng vào núi đá. Nhà thơ hỏi đấy là loại chim gì mà hót hay như vậy ? Những người dân địa phương trả lời : Đấy là tiếng hót của chim Minh Nguyệt.  Có một lần khác khi đi thăm một vườn trồng hoa, thấy mọi người đang bắt sâu, đó là một loại sâu lạ nằm giữa bông hoa để ăn nhụy. Ông hỏi đó là sâu gì thế ? Những người nông dân trả lời : Đó là sâu Hoàng Khuyển. Thì ra trên thực tế có cả loại chim Minh Nguyệt và loài sâu Hoàng Khuyển thật. Vì tự cao không hiểu hết ý và  tự sửa bài thơ của Vương An Thạch, làm sai nội dung và tứ thơ hay của bài thơ ! Thời gian trôi đi, khi mùa đông phương Bắc lạnh lẽo tràn về, Tô Đông Pha ngồi trong nhà nhìn ra ngoài  thấy tuyết trắng xóa bay đầy trời và ở dưới vườn nhà những cánh hoa cúc bị tuyết bám vào rụng rơi lả tả. Nhà thơ lại giật  mình lần nữa và không tránh được tiếng thở dài, thì ra có hoa cúc rụng thật. Chỉ có điều là nó rụng trong hoàn cảnh và môi trường như thế nào mà thôi. Ông ngồi suy nghĩ và hồi tưởng lại những sự việc đã diễn ra trong thời gian vừa qua, thấy rõ sự hiểu biết quá cạn cợt của mình, nghĩ việc mình được bổ nhiệm làm quan nơi xa xôi, được tiếp xúc, du ngoạn và được đón tiếp thịnh tình lại có thêm nhiều hiểu biết và những vốn sống phong phú ở một vùng thiên nhiên kỳ thú nhưng cũng vô cùng khắc nghiệt này. Tô Đông Pha bỗng nhận ra bạn mình  Vương An Thạch, quan Tể tướng – Nhà văn không phải là người tầm thường, không phải trả thù hay “ đầy” mình lên biên cương mà chính là quan tâm tạo điều kiện cho mình đi “ thực tế” để có thêm vốn sống và kiến thức  từ trong dân gian. Vừa thấm thía, vừa biết ơn cộng với sự cảm phục, nhà thơ Tô Đông Pha liền ngồi viết thư tạ lỗi với tể tướng Vương An Thạch.

.Sưu tầm.

NHỮNG CON SỐ BẢY MAY MẮN

NHỮNG CON SỐ BẢY MAY MẮN

Từ Kinh Thánh cho đến sòng bạc, con số 7 thường được xem là con số may mắn, hoàn hảo và kỳ diệu. Chúa Giêsu bảo chúng ta hãy tha thứ bảy mươi lần bảy cho những ai lỗi phạm đến mình.  Rõ ràng Ngài có ý muốn bảo chúng ta tha thứ đến vô cùng.  Sách Sáng Thế nói về bảy ngày tạo dựng, Kinh Thánh nói về bảy tổng lãnh thiên thần, và Sách Khải Huyền nói về Bảy dấu niêm phong Mặc Khải.  Kinh Thánh đầy dẫy con số bảy.  Phải mất vài trang để liệt kê ra cho hết.
Những gì có trong Kinh Thánh Kitô giáo cũng có trong các văn hóa khác.  Có bảy phúc thần trong thần thoại Nhật Bản, các Phật tử tin rằng khi mới hạ sinh, Đức Phật bước bảy bước.  Trong đạo Do Thái, có bảy ngày than khóc, buổi giảng kinh hàng tuần cũng được chia thành bảy phần riêng biệt, có bảy phúc lành được đọc lên trong đám cưới Do Thái, tân lang và tân nương mừng hạnh phúc trong vòng bảy ngày, và có bảy cảm xúc căn bản hướng đến Thiên Chúa.  Trong truyền thống Hồi giáo, có bảy thiên đàng bảy thế gian, bảy ngọn lửa trong địa ngục, bảy cửa lên thiên dàng, và bảy cửa xuống địa ngục.
Và còn có nhiều điều có liên hệ với con số 7: Có bảy châu lục trên thế giới, bảy màu cầu vồng, bảy ngày trong tuần, bảy nốt nhạc căn bản, bảy ngôi sao trong chòm Đại Hùng, và bảy thiên thể thấy được bằng mắt thường.  Số bảy là mã điện thoại ở Nga.  Ở Bắc Mỹ, các giải bóng chuyền, bóng rỗ, và hockey chính đều chia cuộc đua vô địch thành loạt bảy trận, và nhiều vận động viên ưu tú chọn số bảy làm con số áo, kể cả Mickey Mantle.  Các sòng bạc cũng rất thích con số 7.  Xếp được một hàng số bảy là cách chơi của rất nhiều trò may rủi.

Chúa Giêsu, Đạo Do Thái, Hồi giáo, Phật giáo, tự nhiên, cách xếp tuần, mã điện thoại của Nga, các giải thể thao chính, Mickey Mantle, và các sòng bạc – và bây giờ là một điều khác nữa!  Chẳng tình cờ khi người ta dùng rất nhiều số bảy:
Ví dụ như: chúng ta có đủ kiểu số bảy trong thần học và trong giáo hội:
Thần học Kitô giáo nói về bảy Ơn Chúa Thánh Thần: Khôn ngoan, Hiểu biết, Lo liệu, Sức mạnh, Thông minh, Đạo đức, và Kính sợ Thiên Chúa. Về Bảy mối tội đầu: Kiêu ngạo, Ghen tỵ, Giận dữ, Biếng nhác, Tham lam, Ham ăn, và Dâm dục; cũng như về bảy nhân đức tương ứng: Khiêm nhường, Rộng rãi, Nhẫn nhịn, Siêng năng, Nhân từ, Tiết độ, và Trong sạch.  Giáo hội cũng nói về bảy lời cuối cùng của Chúa Giêsu: “Xin Cha tha cho họ vì họ không biết việc họ làm”; “Thật, ta bảo thật, hôm nay, ngươi sẽ được ở cùng ta trên thiên đàng”; “Lạy Cha, con xin phú linh hồn trong tay Cha”; “Thưa bà, này đây là con bà… Đây là mẹ con”; “Lạy Cha, sao Cha bỏ con?”; “Ta khát”; “Mọi sự đã hoàn tất”.
Mohandas Gandhi cũng nói về bảy Tội lỗi của xã hội: Chính trị không nguyên tắc, không làm mà có ăn, buôn bán vô đạo đức, hưởng lạc vô lương tri, tri thức thiếu nhân cách, khoa học thiếu nhân đạo, và tôn kính Thượng đế mà không chịu hy sinh.  Và về điều này, Công giáo La Mã cũng đã có Bảy Luận đề về Huấn Giáo Xã hội của Giáo hội Công giáo: Mạng sống và phẩm giá con người; yêu cầu đối với gia đình, cộng đồng, và bổn phận; quyền và trách nhiệm; chọn người nghèo và người cô thế; giá trị của lao động và quyền của người lao động; tình đoàn kết; và chăm lo cho những gì được Thiên Chúa tạo dựng.
Giáo hội Công giáo La Mã có Bảy Bí tích:
rửa tội, thêm sức, Thánh Thể, giải tội, xức dầu bệnh nhân, truyền chức thánh, và hôn phối.  Bảy Việc thương người: Cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc, cho kẻ cơ nhỡ trú ngụ, thăm viếng người ốm, thăm viếng tù nhân, và chôn xác kẻ chết.  Và kèm theo là Bảy Việc thương người phần hồn: Sửa dạy kẻ ngu muội, lấy lời lành mà khuyên người, răn bảo kẻ có tội, nhịn kẻ mất lòng ta, tha kẻ dễ ta, yên ủi kẻ âu lo, và cầu cho kẻ sống và kẻ chết.  Hơn nữa, Giáo hội Công giáo La Mã còn tôn kính Bảy sự thương khó Đức Mẹ: Lời tiên tri của ông Simeon, chạy nạn đến Ai Cập, lạc mất Chúa Giêsu trong đền thánh, gặp Chúa Giêsu trên đường Núi Sọ, Chúa Giêsu chết trên thập giá, nhận xác Chúa Giêsu trong tay, chôn cất Chúa Giêsu vào huyệt đá.
Và tất nhiên, vẫn chưa hết, chúng ta còn có Bảy Kỳ quan thế giới, dù bây giờ người ta đang tranh cãi nhau xem chính xác nên chọn cái nào làm kỳ quan: Một số đồng ý với danh sách cũ, Bảy kỳ quan của thế giới cổ đại, số khác lại ủng hộ Bảy kỳ quan của thế giới hiện đại, số khác lại nói về Bảy kỳ quan của thế giới Đương đại, và số khác nữa lại nhất quyết rằng những kỳ quan thật sự của thế giới này được dựng nên bởi tự nhiên và liệt kê ra Bảy kỳ quan Tự nhiên của thế giới.
Vậy đâu là danh sách xác đáng đây?  Những cái nào mới đúng là Bảy kỳ quan thế giới?
Gần đây trên Internet có xuất hiện câu chuyện thế này:
Một giảng viên yêu cầu các học sinh nêu tên Bảy kỳ quan thế giới.  Một số, chắc chắn có nhờ vào các phương tiện điện tử, nhanh chóng đưa ra những danh sách khác nhau.  Tuy nhiên, một cô gái trẻ, không dùng đến những tìm kiếm trên mạng như thế, đã tự viết ra danh sách của mình.  Bảy kỳ quan thế giới, theo kết luận của cô là: NHÌN, CẢM, NẾM, NGỬI, SỜ, THỞ và YÊU. Tôi tin rằng, danh sách đó, thắng vượt tất cả mọi danh sách khác và chứa đựng đủ tất cả bí tích thiêng liêng.


Fr. Ron Rolheiser

Què quặt 26 năm, nhờ đọc kinh Mân côi, Mẹ Maria đã cho khỏi

Què quặt 26 năm, nhờ đọc kinh Mân côi, Mẹ Maria đã cho khỏi

Ông Phêrô Sửu, thuộc giáo xứ Thanh Hóa, Bảo Lộc, giáo phận Đà-lạt, đã kể lại việc mình được ơn lạ đặc biệt của Đức Mẹ như sau:

“Năm ấy tôi lên 14 tuổi, cha mẹ cho tôi đi học. Một hôm bỗng thấy hai đầu gối tê tê, buồn buồn, có phần đau nhức… đang đi có lúc phải ngồi bệt xuống, một lúc lâu mới đứng dậy được. Về mách với mẹ, mẹ lại mắng:

– “Cứ vật nhau mãi với trẻ con, đau gì mà đau!”

Chừng một năm tôi không còn đi được nữa, bấy giờ cha mẹ mới lo tìm thầy chạy thuốc, nhưng quá rồi, vô ích, tiền mất tật mang, nhà nghèo hết tiền uống thuốc. Cha tôi bảo:

– “Thôi, nó chịu tật vì bệnh gia truyền rồi, ông nội nó cũng vậy, chịu què đến chết, không tài nào chữa được.”

Tôi nay què thật. Sau đó hết đau nhưng đã thành tật: Chỉ ngồi, muốn xê dịch phải nhảy chồm như con cóc, hai bàn tay thành chín dạn, ai thấy cũng cười, trẻ con chế nhạo! Nhưng Chúa thương, cho tôi làm việc như người lành lặn. Tôi chuyên môn làm nghề đơm tôm cá. Người ta lội xuống nước đến đầu gối; tôi lội xuống thì nước đến cổ, đến cằm, thế mà tôi vẫn kiếm được nhiều cá, tôm hơn người và mẹ tôi đi bán cũng đắt hàng hơn người khác, khiến có người ghen: có tật có tài. Phần tôi, tôi tin chắc Đức Mẹ thương vì gia đình tôi nghèo, cha tôi yếu bệnh, đến khi tôi được 30 tuổi thì cha tôi không làm gì được nữa, chỉ còn mẹ, tôi và một em gái. Cha tôi bây giờ chỉ lo đi giúp đỡ kẻ liệt, đọc sách, mời cha xức dầu hoặc đưa của ăn đàng .v.v…

Một hôm cha tôi giúp một kẻ liệt nhà giàu, ông có nhiều ảnh thánh, hôm ấy ông mua được bức ảnh Đức Mẹ mới tinh, về treo trên bàn thờ, còn bức ảnh cũ ông bảo treo nhà dưới. Đó là ảnh Đức Mẹ hồn xác lên trời, cha tôi xin, ông liền cho ngay; cha tôi mang về bảo tôi sửa bàn thờ và treo lên rồi bắt tôi mỗi ngày ba buổi: sáng, trưa, tối đến trước ảnh đó ngắm và đọc 50 kinh mân côi, cầu xin với Đức Mẹ cho đứng lên được mà đi nhà thờ cho người ta khỏi chia trí. Tôi mừng lắm, tuân theo lời cha dạy, mỗi lần đến trước ảnh Đức Mẹ, tôi lần chuỗi sốt sắng và tha thiết cầu xin với Mẹ, cho tôi đi đứng như thường, kẻo mỗi lần lên rước lễ mà nhảy như cóc thì cả nhà thờ chia trí lắm.

Thi hành như lời cha dạy được bốn tháng, một hôm, tự nhiên tôi muốn đi xưng tội mà nhà tôi ở xa nhà xứ độ ba cây số, đường đất bị mưa lầy lội, nếu tôi cứ chồm nhảy sẽ lấm bẩn hết quần áo. Vì thế mẹ tôi phải cõng đi. Nhưng vì già yếu, cõng được một quãng thì mệt, liền đặt tôi xuống, tôi cởi áo quần dài, mặc quần cụt nhảy mà đi để mẹ tôi khỏi phải cõng. Đến nhà xứ, vào nhà quen trọ, thôi thì người lớn trẻ con bu nhau lại xem tôi và cười nhạo. Tôi xấu hổ quá, nhưng cắn răng chịu đựng. Tối đến tôi nhảy đi xưng tội. Sáng mai, tôi nhảy đi lễ, ngồi tựa cột dưới cuối nhà thờ. Lúc lên rước lễ, tôi nhảy lên làm cho mọi người chia trí. Sáng ngày thứ hai, tôi nhảy ra nhà thờ thật sớm, lên ngồi với trẻ con cho gần cung thánh để dễ nhảy lên rước lễ. Nhưng lúc đọc Phúc Âm, mọi người đứng lên cả, tôi cứ ngồi, liền bị ông quản vụt cho một roi và mắng:

– “Thằng lười, Phúc Âm mà không đứng! Đi lễ làm gì!”. Tôi đành nín thinh chịu trận.

Sáng sau hết, tôi đi lễ không dám ngồi với trẻ con nữa, tìm cột cuối mà dựa. Lễ xong, mọi người ra về cả, một mình tôi ở lại, tôi nài xin với Mẹ cho tôi được đứng lên dễ dàng, để đi lễ, rước Chúa .v.v… Tôi nài xin rất tha thiết, sốt sắng, thỉnh thoảng ngó xuống chân mà khóc… thầm thĩ giờ lâu, bỗng có tiếng lương tâm xúi giục “bám vào cột mà đứng”. Tôi liền bám hai tay vào cột, rướn mình lên, thấy nhẹ nhàng và đứng thẳng lên được. Tôi cứ đứng yên như người mê hoảng, chẳng biết gì, một lúc định thần lại, tưởng mình mơ, mà quả thật mình đã đứng được. Tôi bỏ hai tay ra, cám ơn Chúa và Đức Mẹ, ra cửa nhà thờ, nhưng sợ người ta thấy mà bỡ ngỡ, liền bỏ hai tay xuống mà nhảy như trước để về nhà trọ. Đến nhà, tôi đứng lên, kêu người nhà ra xem…cả nhà bỡ ngỡ vui mừng. Tôi từ giã nhà trọ trở về nhà mình. Cả nhà vui mừng quá, quì xuống tạ ơn Chúa và Đức Mẹ. Tin này vang ra nhanh chóng, nên làng nước tuốn đến hỏi thăm và xem sự lạ chật ních nhà. Bấy giờ tôi đã được 40 tuổi, bị què 26 năm. Từ lúc tôi đứng lên được, đi được, thì chân tôi nở nang lớn dần đều đặn như chân thường chứ không gầy còm khô đét như lúc có tật.

Đức Mẹ đã thương cho tôi khỏi què, tôi định sẽ “đi ở” giúp việc cho các cha, đêm ngày làm tôi Chúa, sau khi lo liệu gia đình cho em gái, nhưng thánh ý Chúa lại khác. Sau một năm lành bệnh, cha tôi tỏ cho tôi biết: năm trước đi giúp kẻ liệt, có một ông nhà giàu ốm nặng, trối lại: hễ ông chết, giao phó đứa con gái duy nhất của ông cho cha tôi, để cho con ông và con cha tôi thành gia thất, vì cô ta là con út mà mẹ đã mất. Cha tôi hỏi ý tôi, tôi xưng thú với cha, mình đã 42 tuổi, xấu xí, ai chịu ưng. Nhưng việc phải đến đã đến, cha Giuse Maria Uy, chánh xứ Phúc Lang, Thanh Hóa đã làm phép cưới cho chúng tôi. Chúa đã ban cho chúng tôi được tám đứa con, bốn trai bốn gái. Chúa cất về trời hai trai, hai gái lúc sơ sinh. Năm nay tôi đã 64 tuổi, tôi và bạn tôi định đăng lên báo chi ơn đặc biệt Đức Mẹ đã ban, để cám ơn và cao rao lòng nhân thành hay thương xót của Đức Mẹ, để tôi được thỏa mãn lòng đền ơn Đức Mẹ trước khi nhắm mắt.

Đau thương át cả niềm vui

Đau thương át cả niềm vui

Lm. VĨNH SANG, DCCT

Tháng Chín 9, 2013 – Blog Thành Viên

VRNs (09.09.2013) – Ephata – Tôi trở về Sàigòn trong trạng thái mệt mỏi và âu lo, một tuần lễ cho hành trình “xuyên Việt” với nhiều cảm xúc đối nghịch, những bâng khuâng muộn phiền, những trăn trở dằn vặt… Tất cả đã không cho tôi một giấc ngủ sâu thư giãn…

Tôi rời Sàigòn đến Vinh tham dự lễ thụ phong Giám Mục của Đức Cha Phụ Tá Giáo phận Vinh. Giáo Dân Vinh khoảng 500.000 người, quy tụ phần lớn ở tỉnh Nghệ An, một phần còn lại ở hai tỉnh Quảng Bình và Hà Tĩnh. Dân Vinh xưa nay vẫn “máu lửa”, cứ nhìn những trận bóng đá có câu lạc bộ Sông Lam Nghệ An tham dự thì biết, vàng rực cả một sân bóng, dù trận cầu đá ở bất cứ đâu, xa đến mấy thì các cổ đông viên vẫn tìm đến, ủng hộ hết mình.

Tòa Giám Mục Xã Đoài ngày 4 tháng 9 hôm ấy cũng vậy, một ngày trước đó, lớp lớp người đã ùn ùn kéo về, Ban Trật Tự đã phải làm việc cật lực, đường dẫn vào Tòa Giám Mục vừa trải đá đã được tưới nước liên tục để tiếp đón trên dưới 20.000 người về dự. Lễ xong, thoát ra khỏi khu vực hành lễ quả là một kỳ tích. Thánh Lễ kéo dài gần 3 tiếng đồng hồ hết sức chu đáo và trang trọng cả hình thức lẫn nội dung.

Nhưng ngay sau một niềm vui thánh thiện của Giáo Phận, lúc 14g00 cùng ngày, trên các mạng xã hội đã nhanh chóng loan tin tức và hình ảnh về cuộc tấn công vào Giáo Dân tại Mỹ Yên, Nghi Phương, Nghệ An. Chiều hôm ấy chúng tôi như ngồi trên lửa, nỗi lo lắng muộn phiền bàng hoàng, lấn át cả niềm vui, lòng dạ đau như cắt khi nhìn thấy cảnh máu chảy lênh láng, từng thân người đổ xuống, tiếng la hét vang trời. Ở nơi nghỉ đêm, tôi nhớ đến vị tân Giám Mục vừa thụ phong, ngài nghĩ gì khi con cái của ngài bị đánh tan tác? Những lẵng hoa tươi thắm và hoành tráng đắt tiền mà nhà cầm quyền các cấp, các ban ngành đoàn thể, mang đến mừng ngài có còn ý nghĩa gì nữa không? Ngay từ chiều hôm trước ngày thụ phong, ngài nói chuyện với chúng tôi với những nét băn khoăn trên gương mặt, ngài buồn buồn ngỏ lời tha thiết xin chúng tôi cầu nguyện cho Giáo Phận, cho anh chị em ở Mỹ Yên.

1

Rời Vinh, chúng tôi ra Hà Nội rồi đi Hưng Hóa, cơn mưa tầm tã cả ngày 5 tháng 9 khiến Ban Tổ Chức lễ thụ phong Giám Mục phải quyết định cử hành Thánh Lễ bên trong Nhà Thờ Chính Tòa Giáo Phận. Những trận mưa làm lở núi đất, tắc nghẽn giao thông. Có một cha trên đường về tham dự Lễ bị đất đá bít đường, núi sạt lở, trong khi ngồi bên đường chờ giải tỏa, ngài nhìn thấy ngay trước mắt mình chiếc xe có container đậu lại, bị lún đường, nghiêng dần và lăn xuống vực. Mưa và lũ đã ngăn trở các Giáo Dân Giáo Phận Hưng Hóa về tham dự Lễ thụ phong Giám Mục của mình. Lời cám ơn cùng với những lời chúc tụng trong ngày tấn phong vị tân Giám Mục có khẩu hiệu “Mang lấy mùi chiên” lập tức có… “mùi” thật. Chiều hôm đó, tin tức loan đi cùng với số thiệt hại về của cải cũng như nhân mạng không nhỏ.

2

Chuyện lũ chuyện lụt gây chết người, mất mát của cải năm nào cũng xảy ra. Vỗ ngực xưng mình là tiến bộ, cách mạng công nghiệp, từng bước đi lên vững chắc, vậy mà có mỗi cái chuyện “cỏn con” là ngăn chặn phá rừng, ngăn chặn khai thác khoáng sản, đào bới núi rừng, quy hoạch hợp lý và khoa học hệ thống thủy điện cũng không làm nổi, để rồi cứ thế hàng năm cứ có người chết, cứ có thiệt hại lên đến con số hằng chục tỷ. Ai chết cứ chết, ai đau đớn cực khổ cứ cực khổ, kẻ giàu có cứ phát lên, thu tóm của cải đầy túi, ngông nghênh giữa bàn dân thiên hạ. Học trò lớn bé cứ phải nhai đi nhai lại mãi bài học về chiến thắng của Cách Mạng Xã Hội Chủ Nghĩa, về vinh quang của giai cấp vô sản… Điểm dưới trung bình mấy loại bài này thì đừng mong tốt nghiệp!

Ngày lễ đã trôi qua, trong cái mệt mỏi sau đó, hẳn Đức Cha Phụ Tá Giáo Phận Hưng Hóa đã không thể ngủ được, khi ngay trên địa bàn ngài được giao nhiệm vụ coi sóc đã xảy ra những chuyện thê lương như vậy. “Mùi chiên” thánh thiêng của Con Chiên mang tên Giêsu ngay lập tức được hòa vào mùi tử khí, mùi tan hoang, mùi đau khổ của đàn chiên nghèo 10 tỉnh miền Tây Bắc.

Tôi đã hứa cầu nguyện và đồng hành với các ngài, lòng tôi cũng chẳng được nghỉ yên.

Lm. VĨNH SANG, DCCT, 8.9.2013

Nguồn: Ephata 578

Chân dung Mẹ Têrêsa Calcutta

Chân dung Mẹ Têrêsa Calcutta

TRẦM THIÊN THU chuyển ngữ

Đăng bởi lúc 2:13 Sáng 8/09/13

chuacuuthe.com

VRNs (08.09.2013) – Sài Gòn – Chân phước Mẹ Têrêsa Calcutta cả đời đấu tranh cho giá trị nhân phẩm của những con người nghèo khổ nhất, đã nêu gương luân lý làm cầu nối các khoảng cách về văn hóa, giai cấp và tôn giáo. Một con người có vóc dáng nhỏ bé nhưng lại có trái tim “cực đại” và đầy lòng nhân ái. Bà nói: “Ngay cả những người giàu cũng khao khát tình yêu, muốn được quan tâm, muốn có ai đó thuộc về mình”.

Cha mẹ của bà là người Albani. Bà sinh ngày 26-8-1910 tại Shkup (nay là Skopje), thuộc Cộng hòa Nam Tư (Macedonia), trước đó là Yugoslavia, với tên “cúng cơm” là Agnes Gonxha Bojaxhiu. Bà là con út trong 3 người con. Lúc bà 7 tuổi, cha của bà bị giết, nên bà quan tâm chính trị. Tuổi thiếu niên, bà là thành viên của nhóm bạn trẻ trong giáo xứ, gọi là nhóm Tương tế Tôn giáo (Sodality), dưới sự hướng dẫn của một linh mục Dòng Tên, bà cảm thấy quan tâm việc truyền giáo. Lúc 17 tuổi, bà gia nhập Dòng Nữ tử Loreto ở Ai-len, một dòng chuyên về giáo dục, rồi bà được gởi tới Bengal năm 1929 để vào nhà tập. Bà chỉ lõm bõm tiếng Anh nhưng vẫn khấn lần đầu, với tên dòng là Têrêsa (chọn theo tên của Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu).

Đến năm 1950, nữ tu Têrêsa lập Dòng Truyền giáo Bác ái (Dòng Thừa sai Bác ái, Missionaries of Charity). Bà nhận Giải Nobel Hòa bình năm 1979 và nhận Giải Bharat Ratna (भारत रत्न, nghĩa là “Viên Ngọc Ấn Độ”, giải thưởng cao nhất của Ấn Độ dành cho người dân) năm 1980. Trước đó, năm 1962, bà đã được chính phủ Ấn trao giải Padma Shri. Trong những thập niên kế tiếp bà được trao tặng các giải thưởng lớn như Giải Jawaharlal Nehru về Hiểu biết Quốc tế năm 1972.

Trong thời kỳ Ấn Độ bị người Anh đô hộ (British Raj), trường Loreto nhận rất ít người Ấn, đa số là người Hindu Bengal, con gái các gia đình có thế lực ở Calcutta, nhưng đa số giáo viên vẫn là các nữ tu gốc Ai-len. Nữ tu Têrêsa không thuộc Dòng Nữ tử Loreto nữa nhưng thi thoảng bà vẫn về thăm. Bà dạy ở các trường nữ khác trong 3 năm trước khi (như bà nói) “theo Chúa đến với người nghèo khổ”. Theo các nữ sinh nói, sự gián đoạn đó không hoàn toàn thân thiện, ít là phần các nữ tu Dòng Loreto.

Hình ảnh nữ tu Têrêsa nhỏ bé, với tấm khăn choàng sari (trang phục của phụ nữ Ấn) xõa xuống vai và lưng, bước đi trên đường đá đỏ, trông thật giản dị và khiêm nhường. Bà luôn có một hoặc hai nữ tu choàng sari đi theo. Bà là con người kỳ lạ của thế kỷ XX. Có thể bà “khác người” vì chúng ta không thấy nữ tu nào choàng sari như vậy. Nhưng đó là thói quen của nữ tu Têrêsa vùng Calcutta, bà “quên” mình là người Albani để hòa nhập và hoàn toàn nên giống các phụ nữ Ấn.

Chính phủ đã “ầm ĩ” chống truyền giáo nhưng chưa bao giờ làm khó các nữ tu truyền giáo.

Đầu thập niên 1950, các học sinh không có đạo ở Nhà Loreto đã nghi ngờ ý định của Mẹ Têrêsa trong việc giúp đỡ các trẻ em đường phố hoặc trẻ mồ côi. Bà đang cứu vớt chúng để “dụ” đưa chúng vào đạo Công giáo? Cứ hai tuần một lần, Mẹ Têrêsa nói chuyện để vận động phụ nữ không phá thai và bảo vệ sự sống. Dự định của Mẹ Têrêsa là chăm sóc những người bệnh ở thời kỳ cuối, những người đến Đền Kalighat để được chết gần “thánh địa”. Mẹ Têrêsa không mong kéo dài sự sống cho họ, nhưng buồn về tình trạng nhơ uế và cô độc của họ trong thời gian cuối đời. Mẹ Têrêsa quan ngại về tỷ lệ tử vong và ám ảnh về cách chết của họ, ngược với quan niệm của người Hindu về sự tái sinh và sự chết là được giải thoát khỏi maya.

Mẹ Têrêsa lập một trại phong (Leprosarium) ở ngoại ô Calcutta, trên khu đất do chính phủ cấp. Bà là người lý tưởng hóa hơn là người lập dị. Người phong cùi bị coi thường không chỉ ở Calcutta mà ở khắp Ấn Độ, đến vài xu lẻ cũng không ai muốn bố thí cho họ. Ai cũng sợ bị lây nhiễm. Từ đó, người ta cũng có ánh mắt không thiện cảm với Mẹ Têrêsa.

Từ năm 1970, Mẹ Têrêsa trở nên một nhân vật nổi tiếng thế giới với các hoạt động nhân đạo cứu giúp người nghèo và những người sống trong hoàn cảnh tuyệt vọng, một phần cũng nhờ cuốn sách và bộ phim tư liệu tựa đề “Something Beautiful for God” (Điều tốt đẹp dành cho Chúa) của Malcome Muggeridge.

Bà không chỉ là nhà truyền giáo, mà còn là một “lương y” tận tình chăm sóc người phong cùi. Cách dấn thân của bà đã thay đổi người dân Calcutta, chính các nữ tu Dòng Loreto cũng trở lại tìm bà.

Dân Calcutta rất quý mến Mẹ Têrêsa. Các chị em ở trường nữ Loreto hồi thập niên 1970 đều trở nên các bà vợ tốt, có địa vị trong xã hội và tình nguyện hoạt động xã hội theo ý định của Mẹ Têrêsa, nhất là vì trại phong. Những năm sau, Mẹ Têrêsa rất tin tưởng những phụ nữ tốt nghiệp trường Loreto.

Số phận những người vận động luân lý dễ bị tổn thương vì các thay đổi của thói đạo đức giả hoặc tùy tiện của các chiến dịch. Những kẻ gièm pha đã kết tội Mẹ Têrêsa là phóng đại cảnh nghèo khổ của dân Calcutta. Mẹ Têrêsa luôn phải phải đấu tranh, dù vẫn bị người ta chỉ trích nhưng hoạt động của bà không suy giảm. Thậm chí bà còn thành công và cảm hóa chính những người đã nghi ngờ hoặc những người ghen ghét bà. Chính Mẹ Têrêsa đã thay đổi nhiều trái tim, đó là phép lạ thực sự vĩ đại.

Mẹ Têrêsa nói: “Ở Tây phương có sự cô đơn, điều mà tôi gọi là bệnh-phong-của-Tây-phương. Bằng nhiều cách, nó còn tệ hơn người nghèo của chúng tôi tại Calcutta. Tôi không bao giờ từ chối một đứa trẻ nào, không bao giờ, dù chỉ một”.

Năm 1950, cũng là năm Mẹ Têrêsa lập Dòng Truyền giáo Bác ái, ĐGH Piô XII đã phê chuẩn dòng này. Mẹ Têrêsa cũng đã từng có những lần sang thăm Việt Nam, chính Gx Thanh Đa (giáo hạt Gia Định, Saigon) đã được vinh dự đón tiếp Mẹ.

Vì tuổi cao sức yếu, Mẹ Têrêsa qua đời ngày 5-9-1997, sau hơn nửa thế kỷ phục vụ những người cùng đinh trong xã hội trong đức ái của Chúa Giêsu. Mẹ Têrêsa được ĐGH Gioan Phaolô II tôn phong chân phước ngày 19-10-2003.

Lạy Chân phước Têrêsa, xin ban cho chúng con trái tim nhân hậu như Mẹ để chúng con yêu thương mọi người, nhất là những người nghèo khổ, những người bị ruồng bỏ, những người bị ngược đãi,… Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

Kinh cầu Chân phước Mẹ Teresa Calcutta

Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con truyền bá hương thơm của Ngài tới mọi nơi con đến. Xin đổ vào linh hồn con tràn ngập tinh thần và tình yêu của Ngài. Xin làm thấm nhuần và sở hữu con hoàn tòn để cả cuộc đời con là ánh sáng của Ngài. Xin chiếu sáng con và ở trong con để mỗi linh hồn con giao tiếp đều có thể cảm nhận sự hiện hữu của Ngài trong linh hồn con. Xin để các linh hồn nhìn lên và không còn thấy con nữa mà chỉ thấy Chúa Giêsu. Xin ở lại với con và con sẽ bắt đầu tỏa sáng như Ngài tỏa sáng, tỏa sáng để thành ánh sáng cho người khác. Amen.

+ Kinh cầu này dùng làm Tuần Cửu Nhật kính nhớ CP Mẹ teresa Calcutta từ 27-8 tới 5-9.

(http://catholicism.about.com/od/dailyprayers/qt/Daily-Prayer-Of-Mother-Teresa.htm)

TRẦM THIÊN THU chuyển ngữ

Những tỷ phú không cho con thừa kế tài sản

Những tỷ phú không cho con thừa kế tài sản

Thay vì để lại toàn bộ tài sản kếch xù cho con, rất nhiều tỷ phú trên thế giới lại dành hầu hết số tiền của mình để làm từ thiện.

1. Warren Buffett

Warren Buffett là một nhà đầu tư và nhà từ thiện nổi tiếng trên thế giới. Ông đã từng tuyên bố sẽ dành 99% số tài sản của mình để làm từ thiện, ngay cả khi ông còn sống hay sau khi ông qua đời.

Theo tạp chí Fortune, tỷ phú Warren Buffett sẽ thực hiện lời hứa của mình khi quyết định quyên góp 83% số tài sản của mình vào quỹ từ thiện do vợ chồng tỷ phú Bill Gates thành lập.

Tỷ phú Warren Buffett cho biết ông không hề lo lắng về con cái của mình. Trong một lá thư gửi tới tổ chức từ thiện của Bill Gates, ông Warren Buffett viết “Tôi chỉ đưa cho con mình đủ tiền để chúng biết rằng chúng có thể làm bất cứ điều gì mình muốn, nhưng cũng không quá nhiều khiến chúng tưởng rằng chúng chẳng cần làm gì cả.”

Những tỷ phú không cho con thừa kế tài sản 1

2. Pierre Omidyar

Ông chủ eBay đã trở thành tỷ phú khi mới 31 tuổi. Theo tạp chí Forbes, tỷ phú người Pháp này đã dành toàn bộ công sức cũng như tiền bạc của mình để giúp đỡ những người kém may mắn, thay vì dành toàn bộ tài sản cho 3 con.

Vào năm 2010, tỷ phú Pierre Omidyar đã tham gia vào tổ chức từ thiện do tỷ phú Gates và Buffett thành lập. Trong suốt thời gian qua, tỷ phú Pierre Omidyar cũng luôn chia sẻ cổ phần tại eBay cho tổ chức từ thiện Omidyar Network của mình.

Ngoài ra, ông Pierre Omidyar cùng vợ mình chính là những tình nguyện viên cá nhân tích cực nhất chống nạn buôn người trên thế giới.

Những tỷ phú không cho con thừa kế tài sản 2

3. Michael Bloomberg

Ông Michael Bloomberg được trả 1 USD cho chức vụ thị trưởng Thành phố New York bởi số tài sản rất cao 19,5 tỷ đô la của ông. Là 1 trong những người giàu nhất nước Mỹ, thế nhưng, ông cũng dành phần lớn tài sản để quyên góp cho trường ĐH Johns Hopkins, Tổ chức Carnegie và hàng nghìn các tổ chức phi lợi nhuận khác.

Trong bức thư gửi tới tổ chức The Giving Pledge, ông Bloomberg viết rằng “Trong vài năm tới đây, tôi sẽ dành hầu hết số tiền của mình để làm từ thiện.”

Thậm chí, sau khi ông qua đời, 2 người con gái của ông cũng sẽ có nhiệm vụ tiếp quản công cuộc làm từ thiện của cha.

Những tỷ phú không cho con thừa kế tài sản 3

4. Gina Rinehart

Gina Rinehart – người phụ nữ giàu nhất Australia – muốn loại bỏ tên của 4 người con ra khỏi danh sách thừa kế của gia đình.

Chính bà là người thừa kế công ty từ cha mình, ông Lang Hancook. Tuy nhiên, theo dữ liệu tòa án được truyền thông Australia đưa tin thì bà lại không tin tưởng bất cứ người con nào của mình bởi bà cho rằng “Không có đứa nào trong số chúng có đủ khả năng, năng lực, kiến thức và trách nhiệm để quản lý số tài sản của gia đình.”

Những tỷ phú không cho con thừa kế   tài sản 4

5. Bill Gates

Bill Gates là một trong những người giàu có nhất thế giới. Tuy nhiên, ông cùng người vợ Melinda của mình không hề có ý định giữ số tài sản kếch xù ấy cho bản thân hay cho 3 đứa con cửa họ.

Tỷ phú Bill Gates từng nói “Tôi không nghĩ rằng việc đưa tiền cho các con là điều tốt cho chúng cũng như toàn xã hội.”

Bởi vậy, ông đã thành lập quỹ từ thiện the Bill & Melinda Gates Foundation vào năm 1994. Và cho tới thời điểm hiện tại, quỹ từ thiện này đã quyên góp được 37 tỷ đô la.

Những tỷ phú không cho con thừa kế tài sản 5

6. Jackie Chan

Vào năm 2011, ngôi sao truyền hình Jackie Chan đã quyết định dành một nửa số tiền làm từ thiện sau khi ông qua đời. Ông cũng cho biết ông không hề có ý định để lại số tài sản của mình cho đứa con trai của mình. Ông nói “Nếu có khả năng, con trai tôi sẽ tự kiếm tiền bằng công sức của nó. Còn nếu không, nó sẽ chỉ lãng phí tiền của của tôi mà thôi.”

Những tỷ phú không cho con thừa kế tài sản 6

7. Bernard Marcus

Chủ tịch bán lẻ hàng nội thất Home Depot, Bernard Marcus sở hữu số tài sản 1,5 tỷ đô la. Tuy nhiên, ông cũng không muốn con cái thừa kế số tài sản của mình. Ông từng cho biết sẽ quyên góp phần lớn số tài sản của mình cho giáo dục và những trẻ em khuyết tật.

Những tỷ phú không cho con thừa kế tài sản 7

8. Nigella Lawson

Nigella Lawson là tác giả vô cùng nổi tiếng của ngành truyền thông Anh. Trước khi kết hôn với người chồng giàu có Charles Saatchi, cô cũng đã trở thành tỷ phú.

Mặc dù xuất thân từ một gia đình giàu có, nhưng cô cho rằng cô sẽ không để con cái có được bất cứ lợi thế nào về mặt tài chính. Cô nói “Tôi quyết tâm không để con cái có được sự đảm bảo nào về mặt tài chính. Nó sẽ khiến cho con cái tôi bị phụ thuộc và không có khả năng kiếm tiền.”

Những tỷ phú không cho con thừa kế tài sản 8

9. John Arnold

John Arnold từng được mệnh danh là tỷ phú trẻ nhất của ngành chứng khoán. Dù mới 40 tuổi nhưng vào tháng 10 năm ngoái, John Arnold đã đóng cửa quỹ đầu tư Centaurus Energy của mình để về hưu. Hiện tại, Centaurus Energy cùng vợ dành phần lớn thời gian cũng như tiền bạc để đầu tư phát triển những ý tưởng khoa học đột phá. Cả 2 vợ chồng tỷ phú đều không có ý định cho con thừa kế số tài sản của gia đình.

Những tỷ phú không cho con thừa kế tài sản 9

10. George Lucas

George Lucas là một nhà sản xuất phim, đạo diễn, diễn viên, tác giả kịch bản người Mỹ và chủ tịch hãng Lucasfilm.  Ông được biết đến với vai trò tác giả của loạt phim khoa học viễn tưởng Chiến tranh giữa các vì sao và bộ phim phiêu lưu Indiana Jones. George Lucas cũng là một tỷ phú với tài sản 3.9 tỷ đô la.

Năm ngoái, ông đã cam kết dành một nửa số tài sản của mình để quyên góp vào quỹ từ thiện Bill Gates and Warren Buffett’s Giving Pledge.

Những tỷ phú không cho con thừa kế tài sản 10

20 BÍ QUYẾT ĐỂ LOẠI TRỪ CĂNG THẲNG

20 BÍ QUYẾT ĐỂ LOẠI TRỪ CĂNG THẲNG     1/ Hãy yêu thích việc mình làm, bạn sẽ cảm thấy thú vị hơn và làm việc hiệu quả hơn    2/ Xét lại các yếu tố gây căng thẳng. Cố loại bỏ những yếu tố nào gây trói buộc và gây bực mình vô ích    3/ Đừng tìm cách làm vừa lòng tất cả mọi người. Bạn cần hiểu rằng: ta không thể nào làm được điều đó.    4/ Hãy sống đúng với con người mình. Tránh phí phạm năng lực một cách vô ích.    5/ Hãy biết làm vui lòng mình và lo nghĩ đến mình.    6/ Thỉnh thoảng hãy ra nơi thanh vắng và nhìn lại nội tâm mình.    7/ Hãy bộc lộ xúc cảm: Hãy nói ra những điều mình nghĩ, những điều mình cảm nhận.    8/ Muốn tránh dằn vặt suy tư, hãy đối diện với các vấn đề của mình. Đừng hoãn lại hôm sau những gì mình làm được hôm nay.    9/ Đừng để những thay đổi quan trọng trong cuộc sống xảy ra liên tục trong thời gian quá gần nhau. Những căng thẳng chồng chất sẽ làm bạn không đủ thời gian để giải quyết.    10/ Dành thì giờ để làm việc mình ưa thích, hoặc chỉ ngồi mà mơ mộng vẩn vơ.    11/ Mỗi ngày thực hiện hai lần thư giãn (mỗi lần 15 phút).     12/ Hãy tập thể dục, hãy làm tiêu hao bớt năng lượng. Hans Selye nói "Như khi ta đói thì ăn ngon miệng hơn, ta cần phải mệt thì nghỉ ngơi mới thoải mái trọn vẹn".    13/ Thỉnh thoảng để xe ở nhà mà đi bộ.    14/ Đừng hy sinh thì giờ nhàn rỗi của mình.    15/ Hãy sống điều độ, dùng thức ăn đầy đủ, đúng bữa và ngủ đủ giấc.    16/ Hãy bắt đầu với bữa ăn sáng đầy đủ chất bổ.    17/ Hãy mỉm cười! Tương quan của bạn với những người xung quanh sẽ tốt hơn.    18/ Hãy hít sâu vào khi mình bực bội. Khi chú ý đến hơi thở thì nỗi bực tức đã vơi đi một nửa rồi.    19/ Hãy học cách yêu thương (bằng những cử chỉ âu yếm). Tình yêu là liều thuốc an thần tốt nhất.    20/ Tránh xa tiếng ồn, đừng xem truyền hình trong khi ăn. Hãy tìm cho mình những giây phút thinh lặng và yên tĩnh.    ( Tác giả: David Niven, Ph. D.)

20 BÍ QUYẾT ĐỂ LOẠI TRỪ CĂNG THẲNG

1/ Hãy yêu thích việc mình làm, bạn sẽ cảm thấy thú vị hơn và làm việc hiệu quả hơn

2/ Xét lại các yếu tố gây căng thẳng. …Cố loại bỏ những yếu tố nào gây trói buộc và gây bực mình vô ích

3/ Đừng tìm cách làm vừa lòng tất cả mọi người. Bạn cần hiểu rằng: ta không thể nào làm được điều đó.

4/ Hãy sống đúng với con người mình. Tránh phí phạm năng lực một cách vô ích.

5/ Hãy biết làm vui lòng mình và lo nghĩ đến mình.

6/ Thỉnh thoảng hãy ra nơi thanh vắng và nhìn lại nội tâm mình.

7/ Hãy bộc lộ xúc cảm: Hãy nói ra những điều mình nghĩ, những điều mình cảm nhận.

8/ Muốn tránh dằn vặt suy tư, hãy đối diện với các vấn đề của mình. Đừng hoãn lại hôm sau những gì mình làm được hôm nay.

9/ Đừng để những thay đổi quan trọng trong cuộc sống xảy ra liên tục trong thời gian quá gần nhau. Những căng thẳng chồng chất sẽ làm bạn không đủ thời gian để giải quyết.

10/ Dành thì giờ để làm việc mình ưa thích, hoặc chỉ ngồi mà mơ mộng vẩn vơ.

11/ Mỗi ngày thực hiện hai lần thư giãn (mỗi lần 15 phút).

12/ Hãy tập thể dục, hãy làm tiêu hao bớt năng lượng. Hans Selye nói “Như khi ta đói thì ăn ngon miệng hơn, ta cần phải mệt thì nghỉ ngơi mới thoải mái trọn vẹn”.

13/ Thỉnh thoảng để xe ở nhà mà đi bộ.

14/ Đừng hy sinh thì giờ nhàn rỗi của mình.

15/ Hãy sống điều độ, dùng thức ăn đầy đủ, đúng bữa và ngủ đủ giấc.

16/ Hãy bắt đầu với bữa ăn sáng đầy đủ chất bổ.

17/ Hãy mỉm cười! Tương quan của bạn với những người xung quanh sẽ tốt hơn.

18/ Hãy hít sâu vào khi mình bực bội. Khi chú ý đến hơi thở thì nỗi bực tức đã vơi đi một nửa rồi.

19/ Hãy học cách yêu thương (bằng những cử chỉ âu yếm). Tình yêu là liều thuốc an thần tốt nhất.

20/ Tránh xa tiếng ồn, đừng xem truyền hình trong khi ăn. Hãy tìm cho mình những giây phút thinh lặng và yên tĩnh.

( Tác giả: David Niven, Ph. D.)

TỪ BỎ HẾT

TỪ BỎ HẾT

Suy Niệm:

Sống là chấp nhận từ bỏ.

Có những điều xấu phải từ bỏ
như tật nghiện thuốc lá, ma tuý, rượu chè, trụy lạc…
Cũng có điều tốt phải bỏ, để chọn một điều tốt hơn:
chọn nghề, chọn trường, chọn chỗ làm, chọn bậc sống…
Từ bỏ thường làm ta sợ và tiếc.
Bỏ chiếc giường êm để thức dậy đi lễ sáng.
Tắt tivi vì đến giờ đọc kinh tối gia đình.
Dành Chúa Nhật để học giáo lý và làm việc xã hội.
Nếu từ bỏ vì yêu, ta sẽ thấy nhẹ hơn, dễ hơn.
Người mẹ thức trắng đêm để đan nốt chiếc áo cho con.
Người mẹ là mẹ hơn qua những hy sinh vất vả.
Từ bỏ vì yêu chẳng bao giờ thiệt thòi, mất mát.
Cuộc sống văn minh cho ta nhiều chọn lựa.
Con người dễ chọn cái tầm thường hơn cái cao cả,
chọn khoái lạc phù du hơn hạnh phúc vững bền,
chọn lợi ích cho cá nhân tôi hơn là cho tập thể.
Xem ra con người thích cái dễ dãi hơn.

Kitô hữu là người đã chọn theo Ðức Giêsu.

Làm môn đệ Ngài là chọn đi vào đường hẹp, cửa hẹp.
Ngài đòi ta đặt tất cả dưới Ngài, yêu Ngài trên mọi sự,
trên những người thân yêu, trên của cải tinh thần, vật chất,
trên mạng sống mình, trên cả hiện tại tương lai.
Những thụ tạo trên thật đáng trân trọng,
nhưng chúng chỉ có giá trị tương đối
khi sánh với Ðức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người.
Kitô hữu là người sống từ bỏ như Ðức Giêsu.
Ngài đã bỏ vinh quang thần linh để làm người như ta,
đã sống và đã hiến mạng sống vì yêu Cha và nhân loại.
Từ bỏ là đi vào cửa hẹp cùng với Ðức Giêsu.

 

Phép Rửa đã cho chúng ta trở thành môn đệ Ðức Kitô.

Nhưng để là môn đệ đích thực của Ngài,
chúng ta cần từ bỏ mãi cho đến khi nhắm mắt.
Từ bỏ phải là thái độ nội tâm cần gìn giữ luôn.
Chúng ta dễ nghiêng như tháp Pisa.
Ðiều hôm nay chưa dính bén, mai đã thấy khó gỡ.
Ðiều đã bỏ từ lâu, nay lại bất ngờ hấp dẫn.
Từ bỏ điều tôi có, và cứ có thêm mỗi ngày
thật là một cuộc chiến lâu dài và gian khổ.
Chúng ta không được nửa vời, lừng khừng, thỏa hiệp.
Tháp đã bắt đầu xây, cuộc chiến đã khai mào.
Không còn là lúc ngồi xuống mà tính toán nữa.
Cần đầu tư để xây tháp, cần dồn sức để tiến quân.
Cầu từ bỏ mọi vướng víu để tiếp tục trung tín.
Vẫn có những Kitô hữu chịu dở dang và bại trận,
vì họ không dám sống đến cùng ơn gọi làm môn đệ.

Từ bỏ là cách diễn tả một tình yêu.

Khi yêu người ta vui lòng từ bỏ tất cả.
Ước gì chúng ta vui khi gặp viên ngọc quý là Ðức Giêsu,
dám bán tất cả để thấy mình giàu có.

 

Cu Nguyn

Lạy Chúa Giêsu,

sống cho Chúa thật là điều khó.

Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con.

Chúa đòi con cho Chúa tất cả

để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa.

Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa

để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa.

Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà

để cây đời con sinh thêm hoa trái.

Chúa cương quyết chinh phục con

cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.

Xin cho con dám ra khỏi mình,

ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan

để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa,

dù phải chịu mất mát và thua thiệt.

Ước gì con cảm nghiệm được rằng

trước khi con tập sống cho Chúa

và thuộc về Chúa, thì Chúa đã sống cho con

và thuộc về con từ lâu. Amen.

 

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

So sánh GDP đầu người của Việt Nam với vài nước Á Châu

So sánh GDP đầu người của Việt Nam với vài nước Á Châu

Trần-Đăng Hồng, PhD

image

Hiện nay, năm 2013 nước Việt Nam giàu hay nghèo? Câu hỏi được trả lời trong bài đọc “So sánh GDP đầu người của Việt Nam với vài nước Á Châu cuả tác giả Trần-Đăng Hồng, PhD.

image

Ngày nay, người Việt nào cũng biết là Việt Nam còn nghèo. Chữ “giàu” hay “nghèo” chỉ diễn tả tình trạng định tính chung chung, ta không biết được giàu hay nghèo ở mức độ nào, vì vậy cần phải định lượng bằng con số để có thể so sánh dễ dàng.

Để so sánh mức sống (living standards) giữa các vùng hay quốc gia, các nhà kinh tế xử dụng chỉ số GDP đầu người (GDP per capita). GDP (Gross Domestic Product) là tổng sản phẩm nội địa tính bằng tiền của tất cả sản phẩm và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong phạm vi lãnh thổ hay quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định, thường là một năm. GDP đầu người là số trung bình (bình quân) của GDP toàn quốc chia cho dân số. Để so sánh mức sống giữa các quốc gia, GDP đầu người phải được chuyển đổi theo cùng một hệ thống tiền tệ, US Dollar (US$). Tuy nhiên, mức sống tùy thuộc vào giá cả và hối xuất của mỗi quốc gia, để chính xác hơn, tính GDP đầu người theo sức mua tương đương (Purchasing Power Parity, PPP) trên cơ sở chênh lệch giá cả hàng hóa ở nước đó so với giá cả hàng hóa tương tự ở Hoa Kỳ.

Từ năm 2010, báo chí cho biết GDP toàn quốc của Trung quốc rất lớn, khoảng $5880 tỉ cho năm 2010, vượt qua Nhật Bản ($5470 tỉ), và nay đứng hàng thứ 2 sau Hoa Kỳ. Tuy đứng thứ 2 thế giới, nhưng mức sống của người Tàu còn rất nghèo so với người Nhật, vì GDP đầu người của Trung quốc chỉ $7.500 trong lúc của Nhật là $34.000 (4,5 lần cao hơn Trung quốc), chưa kể đến sự chênh lệch quá lớn giữa người nghèo và người giàu ở Trung quốc

Dựa vào chỉ số GDP công bố cho thời gian một hai thập niên qua, chúng ta biết Việt Nam hiện nay còn rất nghèo, nhưng không biết nửa thế kỹ trước Việt Namgiàu hay nghèo. May mắn, mới đây (2012), cơ quan Ngân Hàng Thế Giới (World Bank) và Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF, International Monetary Fund) công bố chỉ số GDP đầu người cho 185 quốc gia, bắt đầu từ năm 1960 (1).

Vì không phải là chuyên gia về chính trị kinh tế, người viết bài này không dám lạm bàn về nguyên nhân hay chánh sách kinh tế. Phần này để bạn đọc tự tìm hiểu (hay đã hiểu). Thiển giả chỉ trình bày lại các dữ kiện khô khan của số liệu do WB và IMF cung cấp bằng các biểu đồ dễ dàng theo dõi hơn.

Việt Nam năm 1960

image

Biểu đồ 1. So sánh GDP (US$) đầu người giữa vài quốc gia Á châu năm 1960 (Vẽ từ tài liệu 1)

Theo biểu đồ 1, vào thời điểm 1960, trong số 10 quốc gia Á châu, Việt Nam Cộng Hòa (VNCH, South Vietnam, 223$) có GDP đầu người đứng sau Singapore (395$), Malaysia (299$), Philippines (257$), nhưng nhiều  hơn Nam Hàn (155$), hơn gấp đôi Thailand (101$), gấp 2,4 lần Trung quốc (92$), gấp 2,7 lần Ấn độ (84$), và gấp 3 lần Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (North Vietnam, 73$).

Trong thời gian từ 1954 đến 1975, năm 1960 là năm VNCH có nền kinh tế huy hoàng nhất. Vào năm này VNCH xuất cảng (xuất khẩu) tổng cộng 84 triệu US$, gồm 2 sản phẩm chánh là cao su (40 triệu US$) và gạo (27,7 triệu US$).  Riêng về xuất cảng gạo, năm 1960 là đỉnh cao nhất kể từ 1955 với khoảng 340.000 tấn, nhưng giảm dần sau đó, và từ 1965 Nam VN phải nhập cảng (nhập khẩu) 271.000 tấn, năm 1966 khoảng 434.000 tấn, và 1967 khoảng 749.000 tấn gạo (3). Tổng sản lượng quốc gia VNCH năm 1960 là 82 tỉ đồng VN, trong số này gồm có 4,481 tỉ đồng (5,5%)  là tiền viện trợ (3). Hối xuất chính thức trong đầu thập niên 1960 là 1US$ = 118 đồng Ngân Hàng Quốc Gia VN (VNCH, South Việt Nam), trong lúc hối xuất chợ đen năm 1968 là 235-245 đồng (3).

Cũng cần nhắc lại là thời điểm 1960, chiến tranh du kích đã phá hủy khá nhiều nền kinh tế ở nông thôn của Miền Nam, nhất là sản xuất cao su và lúa gạo. Theo tài liệu 2, từ 1955 đến 1961, chính phủ VNCH đã gia tăng đầu tư, nhờ vậy kỹ nghệ (công nghiệp) và nông nghiệp phát triển mạnh, nhưng sau 1961, các yếu tố trên bị suy giảm vì chiến tranh. Vì vậy, năm 1967, lợi tức đầu người (income per capita) Việt Nam Cộng Hòa giảm xuống 126 US$, trong lúc Thái Lan tăng lên 141 US$ (3).

Việt nam trước 1960

Câu hỏi là trước 1960, Việt Nam có nền kinh tế ra sao? Theo Anne Booth (2003), vì hậu quả của đệ nhị thế chiến và chiến tranh dành độc lập sau đó, cho tới năm 1960, vài nước Á châu như Indonesia, Miến Điện và Việt Nam vẫn chưa khôi phục lại GDP đầu người của thời tiền chiến.

Chẳng hạn, Miến Điện có thời kỳ kinh tế huy hoàng nhất là năm 1929 có GDP cao hơn năm 1960 tới 68%. Riêng Việt Nam, đặc biệt là Nam Kỳ có thời kỳ kinh tế huy hoàng nhất là năm 1938, có GDP cao hơn năm 1960 là 69%. Vì Đệ nhị thế chiến (1939-1945) tiếp theo chiến tranh với Pháp (1945-1954) kinh tế Việt Nam kiệt quệ, suy giảm nặng nề, mải tới năm 1956 kinh tế mới bắt đầu tăng trưởng trở lại ở Miền Nam, và năm 1960 Việt Nam Cộng Hòa chỉ mới phục hồi được 60% của GDP đầu người của năm 1938 (4).

Như vậy, ở cuối thập niên 1930s, Việt Nam có một nền kinh tế hùng mạnh có hạng của Á Châu, chỉ đứng sau Nhật Bản, có lẻ ngang ngửa với Malaysia (lúc này Singapore còn là lãnh thổ của Malaysia), Philippines, và hơn hẳn các quốc gia khác như Thái Lan, Trung quốc, Triều Tiên, Ấn Độ và Indonesia.

GDP đầu người của Việt Nam và vài nước Á Châu từ 1980 đến 2011

Việt nam thống nhất lãnh thổ từ sau biến cố 30/4/1975. WB không có công bố số liệu GDP của Việt Nam trong 4 năm từ 1976 đến 1979. Vì vậy, ở đây chỉ trình bày từ năm 1980 cho tới nay (2011).

Biểu đồ 1 trình bày GDP đầu người của 7 quốc gia Á Châu  trong thời gian 31 năm kể từ 1980 đến 2011.

Trong thời gian 1980 – 2011, có 3 thời kỳ khủng hoảng kinh tế thế giới gồm 1984-1986, 1997-2003 và 2008. Mỗi kỳ khủng hoảng phải mất vài ba năm mới phục hồi lại. Chẳng hạn cuộc khủng hoảng 1997, phải mất 6 -7 năm Singapore mới phục hồi, nhưng chỉ 1 năm với khủng hoảng 2008, trong lúc Nam Hàn với khủng hoảng năm 2008 tới nay mới phục hồi. Thái Lan, Indonesia, Philippines và Việt Nam coi như không bị ảnh hưởng gì (biểu đồ 1).

Theo biểu đồ 1, mọi quốc gia đều có tăng trưởng, nhưng với vận tốc tăng trưởng khác nhau. Nếu tính theo vận tốc tăng trưởng thì Singapore và Nam Hàn mạnh nhất, kế là Malaysia. Mặc dầu Nam Hàn có vận tốc tăng trưởng cao hơn chút ít, nhưng mức khởi đầu quá thấp, nên Nam Hàn vẫn chưa thể nào bắt kịp vàSingapore vẫn còn tiếp tục dẫn đầu. Còn Việt Nam phát triển chậm nhất, vẫn ở vị trí chót trong số 7 quốc gia Á Châu nói trên (biểu đồ 1).

image

Biểu đồ 2. Biến đổi chỉ số GDP đầu người (US$) của Singapore (1), Nam Hàn (2), Malaysia (3), Thái Lan (4), Indonesia (5), Philippines (6) và Việt Nam (7) qua thời gian 31 năm kể từ 1980 đến 2011.

Thay đổi vị thứ. Trong vòng 31 năm qua, Singapore vẫn giữ hàng đầu. Tuy nhiên, Nam Hàn nhảy hạng từ thứ 3 của năm 1980 lên hạng 2 vào năm 1985, và Malaysia tuột hạng từ 2 xuống  3. Philippines từ hạng 4 xuống hạng 6  trong lúc Thái Lan nhảy từ hạng 5 lên hạng 4 từ 1987, và Indonesia nhảy lên hạng 5 từ 2005. Việt Nam vẫn tiếp tục giữ hạng chót trong số 7 quốc gia nói trên.

Cách biệt GDP của vài quốc gia lân cận với Việt Nam.

Bảng 1. Số lần cách biệt GDP đầu người giữa một quốc gia đối chiếu với ViệtNam (tỉ số của GDP quốc gia đối chiếu/GDP của Việt Nam) ở hai thời điểm 1980 và 2011. Cột 4 là số lần gia tăng GDP của năm 2011/GDP của năm 1980 của một quốc gia. Cột 5 là số năm cần thiết để GDP tăng lên gấp đôi…

image

Theo Bảng 1, GDP đầu người  của Singapore nhiều 9,25 lần GDP của Việt Nam vào năm 1980, và chênh lệch tới 35,86 lần vào năm 2011. Thái Lan và Indonesiachỉ hơn Việt Nam chút ít vào năm 1980 (1,35 và 1,14 lần), nhưng nay Indonesiagấp 2,5 lần và Thái Lan gấp gần 4 lần Việt Nam.

Trong vòng 31 năm qua, GDP của Nam Hàn gia tăng 13 lần, tức chỉ cần 4,7 năm GDP tăng gấp đôi, Singapore 10 lần tức mỗi 6 năm GDP gấp đôi, Thái Lan 7,8 lần trong khi Việt Nam chỉ 2,7 lần, tức Việt Nam phải mất hơn 23 năm GDP mới tăng gấp đôi (Bảng 1). Như vậy, càng về sau Việt Nam càng tụt hậu.

Việt Nam có thể bắt kịp Thái Lan không?

Nhìn biểu đồ 2, chúng ta thấy là Việt Nam sẽ không bao giờ bắt kịp được Philippines, Indonesia, Thái Lan, chứ đừng mơ tưởng bắt kịp Malaysia, Nam Hàn hay Singapore.

Để có thể tiên đoán chính xác, tác giả dựa vào số liệu do IMF cung cấp trong 10 năm qua (2002-2011) để vẻ lại mức tăng trưởng GDP đầu người cho mỗi quốc gia. Sau đó, dùng máy vi tính thử nghiệm các mô hình toán học để vẻ nhiều đường biểu diễn, rồi chọn một đường biểu diễn nào phù hợp có độ chính xác cao nhất. Kết quả cho thấy là các đường biểu diễn cho các quốc gia trình bày trong biểu đồ 3 có độ chính xác cao nhất (R2 từ 0.944 cho Malaysia và 0.988 cho ViệtNam). Ở mỗi đường biểu diễn, chương trình toán học thống kê cũng cho một phương trình. Giải đáp bài tính lần lượt giữa hai phương trình của hai quốc gia để tìm ẩn số thời gian nơi hai đường biểu diễn gặp nhau, tức là thời kỳ GDP của quốc gia này bắt kịp một quốc gia khác.

image

Biểu đồ 3. Đường biểu diễn biến đổi chỉ số GDP đầu người (US$) của Singapore (1), Nam Hàn (2), Malaysia (3), Thái Lan (4), Indonesia (5), Philippines (6) và Việt Nam (7) qua thời gian 10 năm từ 2002 đến 2011. Đường biểu diễn do chương trình toán học thống kê cho kết quả phù hợp với các số dữ kiện với độ chính xác rất cao (R2 từ 0.944 cho Malaysia và 0.988 cho Việt Nam).

Kết quả phân tích toán học bằng máy vi tính cho thấy đường biểu diễn tăng trưởng GDP đầu người của mỗi quốc gia không phải là một đường thẳng (linear) như mắt ta thấy, mà là một đường cong theo hình dạng của một cánh parabole (parabolic curve). Càng xa trục tâm 0, đường biểu diễn càng cong lên hơn, tức vận tốc tăng trưởng theo phương trình lũy tiến.

image

Biểu đồ 4. Đường biểu diễn tiên đoán GDP đầu người trong thời gian 50 năm tới (trục tâm 0 là năm 2013) cho Singapore (1), Nam Hàn (2), Malaysia (3), Thái Lan (4), Indonesia (5), Philippines (6) và Việt Nam (7). Tiên đoán dựa theo vận tốc tăng trưởng của thời gian 2002-2011 của biểu đồ 3.

Cần nhớ rằng ở thời điểm 0 (tức năm 2013), các quốc gia không khởi hành cùng ở mức 0, mà ở những vị trí khác nhau trên trục tung (Y). Chẳng hạn Việt Nam có tọa độ 1.660 US trong lúc Singapore ở tọa độ 50.899 US$, tức GDP hiện có của các nước này ở thời điểm 2013. Ngoài ra, vận tốc lũy tiến (độ cong) của mỗi quốc gia cũng đều khác nhau.

Theo tiên đoán của biểu đồ 4, Indonesia sẽ bắt kịp Thái Lan trong 23 năm tới (tức 2036) và kịp Malaysia vào 2095. Nam Hàn có vận tốc tăng trưởng lũy tiến chỉ hơn Singapore chút đỉnh nên Nam Hàn vẫn chưa bắt kịp trong thế kỷ 21.

Riêng phần Việt Nam, vì vận tốc gia tăng thấp hơn mọi quốc gia, nên tiếp tục ở hạng chót, không những không bắt kịp được nước nào mà càng ngày càng tụt hậu, càng nghèo nếu so với các nước trên.

Biểu đồ 5 trình bày dữ kiện cung cấp bởi IMF tiên đoán tăng trưởng GDP từ 2011 đến 2017, cũng xác định rằng Việt Nam sẽ không bao giờ bắt kịp các quốc gia nói trên, nếu vẫn tiếp tục tăng trưởng với cường độ hiện tại (vận tốc ban đầu = (1374 – 440)/10 = tức tăng thêm 93.4 US/năm).

image

Biểu đồ 5. Tiên đoán GDP đầu người do IMF  thực hiện cho thời kỳ 2011 – 2017 cho Malaysia (3), Thái Lan (4), Indonesia (5), Philippines (6) và Việt Nam (7). Vẽ từ tài liệu của IMF (1).

Vì vậy, muốn bắt kịp các nước nói trên, Việt Nam phải có vận tốc tăng trưởng ban đầu tăng cao hơn nữa, trước nhất để bắt kịp Philippines, sau mới tới Thái Lan.

Sau đây là các bài tính với giả sử rằng Việt Nam từ năm 2013 lần lượt đạt được vận tốc tăng trưởng GDP từ thấp lên cao, trước nhất bằng Philippines, rồi Thái Lan, rồi tới Indonesia, Malaysia, Singapore và Nam Hàn.


Nếu Việt Nam tăng vận tốc tăng trưởng GDP ban đầu bằng Philippines (tăng thêm từ 93,4 lên 133 US$/năm), Việt Nam vẫn tiếp tục tụt hậu, vì vậy muốn bắt kịp Philippines phải có vận tốc tăng trưởng cao hơn, càng cao hơn thì bắt kịp sớm hơn.


Nếu Việt Nam có vận tốc tăng trưởng ban đầu và vận tốc lũy tiến (độ cong) bằng Indonesia hiện nay (ban đầu tăng thêm 259 US, tuy thấp nhưng lũy tiến tăng nhanh, xem đường cong ở biểu đồ 5), Việt Nam sẽ bắt kịp Philippines vào năm 2023, bắt kịp Thái Lan vào năm 2040, và bắt kịp Malaysia vào 2093.


Nếu Việt Nam có vận tốc tăng trưởng ban đầu bằng Thái Lan (tăng thêm 337,5 US$/năm, cao 3,6 lần hơn VN), Việt Nam sẽ bắt kịp Philippines trong 4,5 tới, tức giữa năm 2017, nhưng không bao giờ bắt kịp Thái Lan.

Nếu Việt Nam có vận tốc tăng trưởng bằng Malaysia hiện nay (tăng thêm 600 US/năm), Việt Nam sẽ bắt kịp Philippines vào năm 2015, Indonesia vào 2019, Thái Lan năm 2028, nhưng không bắt kịp Malaysia, Nam Hàn và Singapore.

Nếu Việt Nam có vận tốc tăng trưởng của Nam Hàn hiện nay (tăng thêm 1583 US$/năm), Việt Nam sẽ bắt kịp Philippines và Indonesia vào năm 2014, Thái Lan năm 2017, Malaysia vào 2022, Singapore vào 2117 (104 năm nữa).


Nếu Việt Nam có vận tốc tăng trưởng bằng Singapore hiện nay (tăng thêm 2724 US$/năm), Việt Nam sẽ bắt kịp Philippines vào giữa năm 2014, Indonesia vào cuối 2014, Thái Lan năm 2018, Malaysia vào 2020, nhưng không bắt kịp Nam Hàn và Singapore.


Trên đây chỉ là giả thuyết, bởi vì muốn đạt được vận tốc tăng trưởng ban đầu bằng Philippines (tăng thêm từ 93 lên 133 US$/năm) cũng vất vả lắm rồi.

image

Ông Lý Quang Diệu và sách mới xuất bản đầu năm 2013 “Hãy cảnh giác với Trung Quốc”.

Qua ba thập kỷ nhiệm quyền của Lý Quang Diệu, Singapore từ một quốc gia đang phát triển nay đứng trong hàng ngũ những quốc gia phát triển nhất thế giới, mặc cho dân số ít ỏi, diện tích nhỏ bé và tài nguyên thiên nhiên nghèo nàn. Lý Quang Diệu thường nói rằng tài nguyên duy nhất của Singapore là người dân và tinh thần làm việc hăng say của họ. Ông nhận được sự kính trọng của nhiều người Singapore, đặc biệt là những người lớn tuổi, họ luôn nhớ đến khả năng lãnh đạo của ông trong thời kỳ độc lập và tách rời khỏi Malaysia. Lý Quang Diệu vẫn thường được xem là nhà kiến trúc cho sự phú cường của Singapore ngày nay, mặc dù vai trò này có sự đóng góp đáng kể của phó thủ tướng, Tiến sĩ Goh Keng Swee, nhân vật chịu trách nhiệm xây dựng và phát triển nền kinh tế Singapore.

image

10 quốc gia có GDP đầu người dẫn đầu thế giới năm 2030 và 2040

Sau đây là danh sách của Citygroup công bố vào tháng 2/2011 tiên đoán về 10 quốc gia và lãnh thổ (như Hồng Kông) có GDP đầu người dẫn đầu thế giới vào năm 2030 và 2040 (1).

Theo bảng xếp hạng tiên đoán này, Singapore dẫn đầu thế giới, tiếp theo làNorway, Switzerland và Canada trong năm 2030 và 2040. Nam Hàn từ vị trí 9 năm 2030 sẽ lên vị trí 6 năm 2040, Hoa Kỳ tụt từ thứ 7 xuống thứ 9, trong lúc Hồng Kông không còn nằm trong danh sách “Top Ten” của năm 2040, mà thay thế bằng Anh quốc.

image

Tài liệu tham khảo

1.List of countries by past and future GDP (nominal) per capitahttp://en.wikipedia.org/wiki/List_of_countries_by_past_and_future_GDP_(nominal)_per_capita

2.Economy of the Republic of Vietnam

http://en.wikipedia.org/wiki/Economy_of_the_Republic_of_Vietnam

3. Timothy Hallinan (1969). Economic prospects of the Republic of Vietnam.www.rand.org/pubs/papers/2008/P4225.pdf

4. Tran Van Tho (2003). Economic development in Vietnam during the second half of the 20th century: How to avoid the danger of lagging behind. In: The Vietnamese Economy: Awakening the dorming dragon, ed. by Binh Tran Nam and Chi Do Pham, Routled Curzon, 2003, Chapter 2.

5. Anne  Booth (2003). The Burma Development Disaster in Comparative

Historical Perspective. SOAS Bulletin of Burma Research, Vol. 1, No., 1, Spring 2003, ISSN 1479-8484

Trần-Đăng Hồng, PhD

Cám ơn Anh Lê Khôi gởi