THIÊN ĐẠO CHÍ CÔNG

THIÊN ĐẠO CHÍ CÔNG

Lm. Mai Đức Vinh

6/18/2013   nguồn: Vietcatholic.net

Trong bài giảng trên núi, cũng gọi là Tám Mối Phúc Thật hay Hiến Chương Nước Trời, Chúa Giêsu long trọng tuyên bố với những người vây quanh Ngài rằng: ‘Phúc cho anh chị em là những kẻ bị người ta nói xấu, vu khống và bách hại vì danh Ta. Anh chị em hãy vui mừng vì phần thưởng dành cho anh chị em ở trên trời thật lớn lao’ (Mt 5,11-12). Đọc lịch sử truyền giáo tại Việt Nam, cách riêng, đời sống và cuộc tử đạo của các tiền nhân, chứng nhân Tin Mừng, trên Quê Hương chúng ta vào thời điểm 1583-1886, chúng ta thấy lời chúc phúc của Chúa trên đây đã ứng nghiệm thật rõ nét: các ngài bị hiểu lầm và vu oan đủ điều, bị hành hạ và giết chết đủ dạng thức vì danh Chúa. Chúa rất trân trọng lòng hy sinh chịu oan ức và đau khổ, cũng như cái chết đắt giá của các Thánh Tử Đạo… Và Chúa không để các ngài bị thua thiệt, Chúa đã ân thưởng các ngài nhãn tiền ngay tại thế qua những dấu lạ thật diệu huyền.

Từ điều suy nghĩ trên đây, tôi lần đọc lại những lời dạy của tổ tiên được trao truyền lại cho người Việt Nam qua những câu ca dao tục ngữ, những truyện cổ tích, và những lời hay ý đẹp của cổ nhân, tôi sung sướng nhận ra những tia sáng tương hợp. Quả vậy, tuy không mang chất liệu siêu nhiên, nhiều câu ca dao tục ngữ, nhiều câu truyện cổ tích và nhiều lời hay ý đẹp của cổ nhân là những dấu chứng hùng hồn về phong thái của các Đấng Tử Đạo: Vì Chúa, vì Đức Tin Công Giáo, nhưng cũng vì những xác tín tôn giáo và luân lý cổ truyền, vì những đức tính bao gồm trong tam cương ‘Thiên Địa, Quân Thần, Phụ Mẫu’ và ngũ thường ‘Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín’ mà các thánh tiền nhân đã bình thản chấp nhận và can tràng chịu đựng mọi vu khống, mọi hành hạ, mọi án tử… đồng thời hân hoan được Trời thương nâng đỡ, ban sức mạnh và cho nhiều dấu lạ làm vinh danh Thiên Chúa và dân tộc… Tóm lại, các Thánh Tử Đạo không chỉ làm chứng về tình yêu dâng lên cho Thiên Chúa, nhưng còn biểu dương các tinh túy tôn giáo, luân lý và văn hóa của dân tộc.

Từ những gợi ý trên đây, tôi sẽ trình bày năm điểm trong bài viết mang tên là ‘Thiên Đạo chí công’ nghĩa là ‘Đạo Trời thật công bằng’: 1) Những lời dạy của tổ tiên. 2) Những hiểu lầm đáng tiếc 3) Những vu oan ác nghiệt. 4) Những hành nhục và tử nhục. 5) Những dấu lạ ân thưởng.

I. NHỮNG LỜI DẠY CỦA TỔ TIÊN

1. Trong ca dao tục ngữ

• Ai cũng biết: ‘Trời không đóng cửa đuổi ai’, ‘Trời nào có phụ ai đâu’, ‘Trời sinh Trời chẳng phụ nào’, ‘Khi nên Trời giúp công cho’. ‘Ở hiền gặp lành, những người nhân đức trời dành phúc cho’. ‘Thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong’. ‘Thiên đạo hảo hoàn’.

• Bởi vì ‘Thiên đạo chí công’, ‘Thiên bất dung gian’, ‘Lưới trời lồng lộng thưa mà khó lọt’. ‘Cứ trong nghĩa lý luân thường, làm người phải giữ kỷ cương mới mầu; Đừng cậy khoẻ chớ cậy giàu, Trời kia còn ở trên đầu còn kinh’. ‘Đạo trời báo phục chẳng lâu, hễ là thiện ác đáo đầu chẳng sai’.

• Cho nên khi gặp gian nan, không thất vọng, không thù oán, nhưng xác tín ngửa mặt lên mà ‘van trời’, ‘vái trời’, ‘có trời biết’, ‘xin trời xét’, ‘xin trời phù hộ’, ‘mong trời biết cho’, ‘vì trời đã định’, ‘xin theo ý trời’… ‘Cóc kêu ba tiếng thấu trời, huống lọ lời cầu của người hiếu trung’…

2. Trong những câu chuyện cổ:

• Sự tích dưa hấu: Anh Mai An Tiêm, vì tin vào thuyết luân hồi, nên tuyên bố rằng ‘mọi vật trong nhà đều là tiền thân của tôi cả’. Nghe vậy, Hùng Vương và các cận thần phản đối cho là vô ơn với Trời và với Vua, nên bắt đi đầy cả gia đình. Tại đảo đi đày, thấy vợ buồn bã, thất vọng vì bị vu oan, nên lâm kiếp đầy ải, Mai An Tiêm đã nói an ủi: “Trời sinh voi, trời sinh cỏ. Trời luôn có mắt, cứ phấn chấn lên, đừng sợ’… Rồi khi trồng được dưa hấu thơm ngon, Mai An Tiêm ôm lấy vợ mà nói: “Trời nuôi sống và thưởng công chúng ta thật” (1).

• Truyện tấm cám: Tấm và Cám là hai chị em cùng cha khác mẹ. Tấm ở với dì ghẻ là mẹ của Cám. Tấm bị Cám và dì ghẻ lường gạt và đày đọa đủ điều… Nhưng Tấm luôn được Trời phù hộ… Cấu trúc của câu truyện đầy nét thần thoại, tuy nhiên làm nổi bật ý nghĩa: Người đơn thành bao giờ cũng được Trời giúp đỡ, chở che và cho mọi may mắn. Đúng là ‘ở hiền gặp lành’ (2).

• Truyện Quán Tử. Quán Tử là chàng trai nghèo, sống độc thân… nhưng rất hiếu thảo với cha mẹ và tổ tiên, lại nhân hậu đối với mọi người, kể cả loài vật… Nhờ đó mà luôn được đền bù, tránh được mọi rủi ro và được ân thưởng bội hậu. Quả là ‘những người nhân đức, Trời dành phúc cho’ (3).

• Truyện bốn người bạn: Ất, Bính, Đinh, Giáp là bạn thân lâu năm. Nhưng Giáp đã làm nhiều truyện động trời phản bội Ất: cướp vợ của Ất, giết vợ của mình rồi vu khống cho Ất, vu oan cho Ất muốn cướp vợ của Giáp… Vì thế, Ất bị bắt và bị tòa án xử tử. Bính và Đinh biết rõ tính trung thực của Ất, đã đến xin Giáp là người bạn giàu có nhất, cứu nguy cho Ất. Giáp từ chối thẳng thừng và còn vu oan thêm cho Ất… May, vừa lúc đao phủ giơ gươm chém đầu Ất, thì cô đầy tớ của Giáp, cô biết rõ câu chuyện, đã chạy ra xin đao phủ ngưng tay, và cô kể cho mọi người hiện diện biết rõ sự thật của câu chuyện… Nhờ đó Ất được tha, tìm lại được vợ. Còn Giáp phải mất nhiều tiền mua chuộc quan tòa, nên cũng được tha. Nhưng lúc Giáp từ tòa án ra về, bị sét đánh chết. Khi người ta khiêng xác của Giáp đi chôn, một con cọp không biết từ đâu nhảy tới và công mất xác của Giáp… Mọi người bảo nhau: ‘Thiên bất dong gian’ (4).

• Truyện Quan Âm Thị Kính: Thị Kính là vợ của Thiện Sĩ. Hai vợ chồng luôn tâm đồng ý hợp. Thế nhưng một hôm Thiện Sĩ đang ngủ ngon, Thị Kính thấy chồng có một cái râu độc, nàng muốn cắt cái râu độc ấy đi. Vừa cầm kéo lên, Thiện Sĩ giật mình dậy hô lớn lên rằng: ‘Nàng cầm kéo muốn giết tôi’. Mẹ chồng nghe vậy cũng ùa vào kết án Thị Kính… Thị Kính bị hành hạ đủ điều và sau cùng bị đuổi ra khỏi nhà… Từ đó, mỗi khi có những vụ oan ức lớn, người ta thường nói: ‘oan như oan Thị Kính’. Vì thế mới có câu ca dao: ‘Chỉ Trời mới thấu tâm can, trước bao oan nghiệt chỉ than với Trời’ (5).

• Trong truyện Kim Vân Kiều: Vào thế kỷ XVIII, ông Nguyễn Du (1765-1820) tác giả của cuốn ‘Đoạn Trường Tân Thanh (Kim Vân Kiều) không ngại viết lên những trường hợp người ta bịa đặt điều ác cho nhau, vu oan cho nhau để thỏa mãn dục vọng tham lam hay trả thù, trả oán. Đây, ông Nguyễn Du nói đến một trường hợp điển hình của một lời vu cáo:

Đầy nhà vang tiếng ruồi xanh,

Rụng rời khung dệt, tan tành gối mai.

Đồ tế nhuyễn của riêng tây,

Sạch-sành-sanh vét cho đầy túi tham!

Điều đâu ai buộc, ai làm?

Này ai dan-dập, giật giàm bỗng dưng?

Hỏi ra sau mới biết rằng:

Phải tên xưng xuất là thằng bán tơ!

Một nhà hoảng hốt ngẩn ngơ,

Tiếng oan dậy đất, án ngờ lòa mây.

Không những chỉ có đoàn tham quan ô lại đến phá phách nhà Vương-Ông trong dịp oan ức này mà có thể ở mọi thời, lúc nào cũng có vô số người sung vào đoàn ruồi xanh như thế! (6).

3. Những lời khuyên của tiền nhân.

• ‘Muốn giữ được lương tâm, nuôi được linh tính, cần phải chịu khổ, chịu phiền thì con người mới thuần thục’ (Lưu Trực Trai).

• ‘Lửa bốc cao, nước chảy xuống thấp, thế mà lửa bao giờ cũng thua nước’ (Văn Trung Tử).

• ‘Lấy oán báo oán thì oán chồng chất, lấy đức báo oán thì oán tiêu tan’ (Phật Thích Ca).

• ‘Một bên là quần chúng, một bên là bản thân, hai bên đều trọng cả. Nhưng gặp trường hợp cần, thì phải hy sinh bản thân để cứu giúp quần chúng’ (Khuyết danh).

• ‘Cắn chặt răng để chịu thiệt, đứng vững gót để làm người’ (Cổ ngữ).

• ‘Vật trong thiên hạ chẳng gì mềm bằng nước, thế mà to vô hạn, sâu vô cùng, mạnh không sức nào địch nổi’ (Hoài Nam Tử).

• ‘Độ lượng to lớn bao nhiêu thì phúc trạch cũng to lớn bấy nhiêu. Có mưu sâu độc bao nhiêu thì tai vạ cũng sâu độc bấy nhiêu’ (Minh Tâm Bửu Giám).

• Người biết ‘đạo’ tất không khoe, người biết ‘nghĩa’ tất không tham, người biết ‘đức’ tất không thích tiếng tăm lừng lẫy (Trương Cửu Thành).

II. NHỮNG HIỂU LẦM ĐÁNG TIẾC

1. Bầu khí hiểu lầm.

Những cuộc bách hại ác nghiệt đối với đạo Công Giáo từ 1583 đến 1838 bắt đầu từ những hiểu lầm. Tôi trích lại đây một đoạn trong cuốn ‘Lịch Sử Đạo Thiên Chúa tại Việt Nam’, tác giả Hồng Lam ghi rằng: ‘Người Việt Nam ta xưa nay vốn tính tình hòa nhã, trung hậu, không hề có ác cảm với người ngoại quốc, như các giáo sĩ và với người Tây phương đầu tiên đã công nhận. Vì thế mà giáo sĩ mới vào nước ta, đều được dân chúng tỏ vẻ hoan nghênh. Cả đến vua quan trong nước vào thời bấy giờ cũng có ý muốn thân thiện với người ngoại quốc, để bắt chước việc buôn bán trong nước, và có khi cũng để lợi dụng sức mạnh và sự tài giỏi của người vào công việc của mình’. Nhưng tiếc thay, về sau, chỉ vì nhiều sự hiểu lầm đáng tiếc mà gây nên những mối nghi kỵ giữa người ngoài và người Việt Nam ta, rồi giữa đồng bào Công Giáo với đồng bào lương. Hồi đó các giáo sĩ và các nhà buôn Tây phương thường bị coi là những kẻ do thám, hoặc những người dọn đường cho các nước thực dân Âu châu có ý dòm ngó nước ta. Đạo Thiên Chúa bị coi lầm là một tà đạo có thể làm hại đến thuần phong mỹ tục và những tập quán cổ truyền trong nước. Còn những kẻ theo đạo thì bị coi là đi ngược với luân thường đạo lý, có thể làm đảo lộn trật tự cựu truyền, và lay chuyển cả nền tảng luân lý, và có thể đẩy nước nhà đến sự suy vong. Một ít việc bất ngờ xảy ra, và một số người ghen ghét, đố kỵ hoặc cạnh tranh về vấn đề tôn giáo lại càng giúp cho mối ngờ vực đó tăng thêm’ (7). May thay, giữa bầu khí ngột ngạt vì hiểu lầm như vậy, cũng nổi lên những vì sao muốn xóa tan những vòm mây hiểu lầm. Đó là những vua chúa hay quan quyền ngỏ lời bênh vực hay ca tụng đạo Thiên Chúa, như vua Gia Long (DMAH 2, tr.7), tướng Lê Văn Duyệt (DMAH 2, tr.26) (8), chí sĩ Phan Đình Phùng với khẩu hiệu ‘Lương Giáo thông hành’ (DMAH 3,339)… Nhưng đặc biệt là bản tấu của quan thượng Nguyện Đăng Giai dâng lên vua Tự Đức. Ông nhận xét: “Cách thức của đạo này (Công Giáo) chinh phục lòng người như sau: trước hết họ chinh phục một người, đàn ông cũng như đàn bà, rồi trở thành một gia đình, một xóm đạo. Họ nuôi ăn những người đói kém, cho quần áo những người bị lạnh lẽo, giúp đỡ những người bất hạnh, an ủi những người sầu khổ, họ tụ họp đông để tiễn đưa những người quá cố. Họ không phân biệt quốc gia mà coi mọi người như một, như thân thuộc vậy… Như thế thì làm sao khuyên nhủ họ theo đường lối của chúng ta được? Các sách vở của họ tuy không viết bằng chữ đẹp như của chúng ta, nhưng không chứa đựng những điều gì sai trái nguy hại cho loài người. Các lời giảng dạy của họ chỉ có một mục đích là làm cho con người trở nên đức hạnh và làm ích cho người khác. Họ sống bằng lòng với tình trạng, đóng thuế rất sòng phẳng, không có trộm cướp hay làm loạn. Sáng chiều họ đọc kinh, cố gắng trở nên tốt hơn, hầu được hạnh phúc trên trời… Tôi nghĩ cứ để người Công Giáo sống an bình. Nếu đây là tà đạo, thì ‘sự thật khó hủy diệt còn cái dối trá tự nó sẽ tiêu tan. Chúng ta hãy thực hành đạo chúng ta một cách rầm rộ, để người ta sẽ thấy đạo lý giả trá xấu xa tan biến đi như tuyết tan dưới ánh mặt trời’ (DMAH 3, tr.59-61).

2. Đạo Hoa Lang:

Theo cuốn ‘Để tìm hiểu Lịch Sử Đạo Thiên Chúa ở Việt Nam đầu thế kỷ XVII, thì ‘Vào lúc đầu, giáo sĩ chưa biết tiếng, người thông dịch mới hiểu lờ mờ và nói bập bẹ vài ba tiếng Bồ, vì thế việc diễn giảng gặp rất nhiều khó khăn. Người ta cũng chưa biết phải gọi đạo mới này là đạo gì. Thế là người ta đã gọi đạo do người Bồ đưa tới là đạo người Bồ. Gaspar Louis viết: “Thực ra họ cũng nhận đức tin, nhưng chỉ tin theo cách đại khái rằng đạo người Bồ tốt hơn đạo của họ”. Borri kể lại câu chuyện nực cười, khi người ta hỏi xem có muốn theo đạo Kitô không, thì người ta đã nói: “Con nhỏ muốn vào lòng Hoa Lang chăng?” với ý nghĩa là ‘muốn vào đạo Hoa Lang’ tức là đạo người Bồ. Về sau, nhiều người căn cứ vào đó mà hiểu lầm đạo Thiên Chúa là ‘đạo quái gở’, là ‘đạo tà’, là ‘đạo ngoại quốc’. Khi thông thạo tiếng Việt, và nhờ có chữ quốc ngữ, các thừa sai mới cắt nghĩa được cho người ta hiểu: không phải ‘đạo Hoa Lang’ hay ‘đạo của người Bồ’, nhưng là ‘Đạo chung của mọi người, tức là đạo Công Giáo’. Cha A. de Rhodes, trong cuốn ‘Phép Giảng tám ngày’, ngài để nguyên chữ la tinh ‘Ecclesia catholica apostolica’ (9). Thời Chúa Trịnh Sâm, nhiều tín hữu bị khắc trên trán ba chữ ‘Hoa Lang Đạo’ (10). Để đánh tan sự hiểu lầm này, thày giảng Inhaxiô đã thưa cùng chúa Thượng Vương: ‘Kính thưa chúa thượng, đạo hạ thần theo không phải là đạo Bồ Đào Nha, nhưng là đạo của Chúa Trời Đất’ (DMAH 1, tr.37).

3. Không thờ cúng Tổ Tiên:

Đây là một hiểu lầm lớn nhất, tai hại nhất, đánh vào con tim và tâm não của người Việt Nam hơn cả. Câu ‘đi đạo Thiên Chúa là bỏ cha bỏ mẹ’ đã phổ biến từ đó. Không phải chỉ là một sự hiểu lầm của giới bình dân, nhưng cả của giới trí thức và quan quyền, vua chúa. Nhất là sau khi công bố Hiến chế Ex quo sungulari providentia (1742) của Đức Giáo Hoàng Biển Đức XIV, cấm mọi hình thức tôn kính người đã mất (11). Hầu hết trong các sắc lệnh cấm đạo đều ‘coi việc không thờ kính tổ tiên là lý do chính yếu’. Chẳng hạn vua Nguyễn Nhạc đã tuyên bố năm 1785 rằng: “Trẫm muốn tiêu diệt đạo Âu Châu, vì nó đã lan tràn trong nước. Đó là giáo phái không thờ kính tổ tiên…” (DMAH 1, tr. 211). Nguyễn Ánh tức vua Gia Long, tuy rất thiện cảm với đạo Thiên Chúa, nhưng không theo đạo, vì đạo cấm thờ kính Tổ Tiên (DMAH 3, tr.3-4). Mở đầu sắc lệnh cấm đạo năm 1833, vua Minh Mệnh tuyên bố: “Ta, Hoàng Đế Minh Mệnh, truyền lệnh cấm các người Tây Phương đến truyền đạo Giatô, vì chúng… không thờ kính Tổ Tiên…” (DMAH 3, tr.34). Rồi đại diện cho giới Nho Sĩ và phong trào Văn Thân, ông Nguyễn Đình Chiểu đã chửi xéo người Thiên Chúa giáo bằng câu thơ:

Thà mù mà giữ đạo nhà,

Còn hơn có mắt ông cha không thờ.

Quả thật, từ các vua chúa, quan quyền và đa số dân chúng chưa hiểu được rằng ‘Hiếu thảo là giới răn thứ IV trong 10 điều răn của Thiên Chúa truyền dạy, cũng như cách thức bề ngoài tuy khác nhưng cốt lõi vẫn là một. Đạo hiếu hay cách thế tôn kính đối với người quá cố mà đạo Công Giáo dạy người tín hữu phải giữ, phải sống còn nghiêm túc và sâu xa hơn… đức hiếu thảo cổ truyền và việc thờ kính Tổ Tiên hiện có’. Sự hiểu lầm này cũng có một phần đáng tiếc về phía các linh mục truyền giáo Phanxicô, Đaminh và Thừa Sai Ba Lê thiếu sự phân biệt nghi thức với niềm tin và vội coi mọi lễ nghi cúng bái là dị đoan, trái tín lý. Hầu hết các vị tử đạo đều bị chất vấn ‘tại sao các ngươi lại bất kính tổ tiên, đó là một tội nặng’. Chúng ta hãy nghe linh mục Laurensô Nguyễn Văn Hưởng trả lời: ‘Thưa quan, nói rằng bên đạo chúng tôi không thờ kính tổ tiên là điều vu khống và bỏ vạ. Người lương lấy cơm, cá thịt, trái cây mà cúng ông bà cha mẹ đã qua đời, còn chúng tôi không dùng những thức ăn mà cúng, vì biết ông bà cha mẹ đã chết rồi, thì không ai ăn được nữa, không còn hưởng nhờ các thức ăn đó. Nhưng chúng tôi nhớ đến ông bà cha mẹ tối sáng. Hằng ngày cầu xin cho các ngài được hạnh phúc trên thiên đàng. Hơn nữa, chúng tôi tuân giữ các lời ông bà cha mẹ răn dạy hầu giữ luật luân lý và làm vinh danh cho các ngài’ (DMAH 3 tr. 114).

4. Một số quan điểm về tôn giáo và phong tục.

Người ta ác cảm với đạo Thiên Chúa vì cho rằng đạo mới này đảo lộn trật tự xã hội và vi phạm tục lệ quốc gia:

• ‘Trời-Phật’ Vì xưa kia Việt Nam nội thuộc nước Tàu nên chịu ảnh hưởng cả Nho giáo, Lão giáo và Phật giáo. Đến thời Việt Nam độc lập, thì theo sử chép, vua Đinh Tiên Hoàng là người làm cho đạo Phật lớn mạnh và trở thành như ‘quốc giáo’, đặc biệt về sau vào các triều nhà Lý, nhà Trần. Từ đó người Việt Nam quen miệng kêu ‘Trời Phật’ muốn đồng hóa Phật với Trời hay đặt Phật ngang với Trời. Đến khi đạo Thiên Chúa được rao giảng ở Việt Nam thì quan điểm tôn giáo như trên thay đổi: Trời là Thượng Đế, Tạo Hóa là Thiên Chúa tối cao, duy nhất. Phật không phải là Trời, không thể đồng hàng với Trời, không được coi là Thượng Đế hay Thiên Chúa. Điểm này làm cho nhiều vua quan, nhiều chức sắc Phật giáo và nhiều người dân hiểu lầm và sinh ghét đạo Thiên Chúa.

• ‘Trời-Đất’. Trong thời Bắc thuộc, tức thời nhà Hán đô hộ nước Việt Nam, hai quan thái thú Tích Quang và Sĩ Nhiếp đã du nhập đạo Nho vào nước ta. Đạo Nho phát triển mạnh và đã tạo nên cho nước ta ‘một giới trí thức’ trong đó có vua chúa, quan quyền và nho sĩ. Thời nhà Lê, Nho giáo được coi như quốc giáo. Vì thế quan niệm Trời-Đất (Thiên-Địa, Dương-Âm) được đề cao: Mặc dầu Trời là đấng tối cao chỉ huy mọi vật trong vũ trụ, mọi vật đều có một cha mẹ chung sinh ra là Trời và Đất. Trời sinh ra các ‘loài đực’, đất sinh ra các ‘loài cái’. Đang khi đó đạo Thiên Chúa dạy: Trời hay Thượng Đế duy nhất dựng nên hết mọi vật, kể cả Đất (trong Nho giáo) cũng do Thượng Đế hay ông Trời (trong Nho giáo) dựng nên. Đây là điểm làm cho giới trí thức thời xưa hiểu lầm và chống đối đạo Thiên Chúa.

• ‘Quân-thần, Phụ-tử’: Theo Nho giáo, vua có quyền tuyệt đối trên quần thần và dân chúng. Cũng vậy người cha có quyền tuyệt đối trên con cái, như lời ghi của sử gia Trần Trọng Kim: “… Con phải theo cha, tôi phải theo vua, ai trái với cái đạo ấy, thì mang tội nặng, đáng chém giết” (12). Đạo Thiên Chúa thay đổi quan niệm: chỉ mình Thiên Chúa có quyền tuyệt đối trên mọi người, mọi vật. Tuy nhiên, Ngài kính trọng tự do lương tâm của mỗi người.

• + ‘Đa thê’: Phong tục Việt Nam cho phép người đàn ông cưới nhiều vợ, tục đa thê. Đạo Thiên Chúa dạy ‘chỉ một vợ một chồng’. Chính Nguyễn Ánh đã nói với Đức Cha La Mothe: ‘Đạo của Đức Cha là một đạo tốt lành, nhưng nghiêm khắc quá, ai mà có thể giữ được? Tôi không thể nào chỉ cưới một vợ’ (DMAH 2, tr.5).

• ‘Nộp tiền cúng tế’. Khi chưa có những làng Công Giáo thuần nhất, mà còn tình trạng người Công Giáo thiểu số trong một làng, thì vấn đề đặt ra là người Công Giáo có buộc phải góp tiền tổ chức các lễ cúng tế theo phong tục quốc gia nữa hay không? Hai Đức Cha Labarette và La Mothe đã xin với Nguyễn Ánh miễn chuẩn cho người Công Giáo khỏi giữ nhiệm vụ này. Nguyễn Ánh để cho các quan cứu xét. Các quan từ chối và để quyền đó cho các hương chức, vì đây là tục lệ quốc gia (DMAH 2, tr.5).

III. NHỮNG VU OAN ÁC NGHIỆT

Những hiểu lầm đáng tiếc chúng ta vừa nêu lên nhiều khi đã biến thành hay tạo nên những vu oan ác nghiệt. Chẳng hạn:

1. Móc mắt’: Khi thấy Nguyễn Ánh bao dung đạo Thiên Chúa và còn trao hoàng tử Cảnh cho Đức Cha Bá Đa Lộc huấn luyện, nhiều quan trong triều tức giận và muốn bày cớ vu khống đạo Thiên Chúa. Vậy, có một quan lại tố cáo rằng: các thừa sai lấy mắt người chết làm hạt ngọc rồi nhét bông vào mắt thay thế. Vị quan còn nói: ông thấy trong nhà thờ có nhiều hạt ngọc như thế. Nghe vậy, Nguyễn Ánh nói: “Nếu quả có thật như vậy, thì người Công Giáo sẽ bị trừng phạt; ngược lại, nhà ngươi sẽ bị chém đầu”. Ông quan thú nhận là chỉ nghe như thế. Nguyễn Ánh bèn ra lệnh chém đầu vị quan vu cáo này. Nhưng nhờ sự can thiệp của Đức Cha Bá Đa Lộc, ông quan được khoan hồng (DMAH 2,3-4). Thế nhưng, trong đầu óc các quan vẫn còn coi điều vu khống quái ác trên đây là thật. Bằng chứng là năm 1826, Bộ Lễ đã làm kiến nghị dâng lên vua Minh Mạng xin trừ diệt đạo Giatô, trong đó có câu: “…Những người rao giảng khuyến dụ dân theo đường hư hỏng, những người móc mắt người ốm, nếu bị bắt sẽ bị phạt theo trọng tội” (DMAH 2, tr.22). Đến năm 1835, ngay lúc sắp xử lăng trì cha Giuse Marchand Du, quan còn hỏi cha: “Vì lý do gì bên đạo móc mắt người chết?’. – Cha trả lời vắn gọn: “Không bao giờ tôi thấy như vậy” (DMAH 2, tr.82). Mãi tới năm 1856, trong phiên tòa xử cha Laurensô Nguyễn Văn Hưởng (bị trảm quyết 27.4.1856), quan đầu tỉnh Hà Nội còn hỏi cha: “Tại sao khi người ta đau ốm, các đạo trưởng đến khoét mắt đem về làm thuốc cho người ta mến và theo đạo? Cha Hưởng thưa: “Bẩm quan lớn, điều ấy không đúng. Bên Phật giáo họ ghét đạo nên bỏ vạ chúng tôi như vậy. Những người kẻ liệt thì cũng một nửa còn sống, nếu khoét mắt thì họ mù làm sao còn xem được nữa. Vì khi còn khỏe, người ta hay dùng ngũ quan mà phạm tội, nên khi họ ốm đau, chúng tôi đến xức dầu thánh nơi con mắt và chân tay để trừ tội và ma quỷ chứ không làm sự gì khác” (DMAH 3, tr.113-114).

2. Từ vu cáo móc mắt đến các vu cáo quái đản khác.

• Năm 1836 các quan đã làm kiến nghị dâng lên vua Minh Mệnh và vu cáo đạo Công Giáo như sau: “Các thừa sai dùng bánh nhiệm mầu để mê hoặc dân chúng và làm cho họ cố chấp giữ đạo. Các thừa sai còn lấy mắt người chết pha lẫn vào hương để làm thuốc chữa bệnh. Trong khi cử hành hôn phối, đạo trưởng bắt làm những điều đồi bại” (DMAH 2,86).

• Năm 1837 Quan tổng Hào nói với thầy giảng Phanxicô Xaviê Cần (bị xử giảo 1837) như sau: “Ta nghe nói các linh mục thường móc mắt đàn bà ốm yếu bỏ vào chum nước có chó ngao, rồi lấy nước làm bùa mê rảy trên dân chúng, có thật vậy không?” – Thầy Cần thưa: “Thưa quan, đó là điều bịa đặt vu khống hoàn toàn. Các đạo trưởng rất thành thật và không bao giờ nói dối” (DMAH 2, tr.102).

• Năm 1838, Dưới thời Tây Sơn, tổng đốc Lê Văn Đức đã hạch hỏi thày giảng Phaolô Mĩ: “Tại sao đã có lệnh vua cấm theo đạo mà ngươi còn theo? Trong đạo có những chuyện móc mắt, làm bùa mê, rồi các đạo trưởng thông gian với phụ nữ…”. – Thầy Mĩ trả lời: “Thưa quan lớn, chúng tôi xả thân cầu đạo, nếu có khoét mắt người nào thì anh em con cái họ để chúng tôi sống chăng? Nếu trong đạo chúng tôi có chuyện đồi tệ như quan tố cáo, thì chúng tôi dạy bảo ai được. Mà nếu chúng tôi đi tu, lại ăn ở thể ấy thì vợ chồng người ta để chúng tôi đến nhà mình nữa chăng? (DMAH 2, tr.273).

• Hơn thế, chính vua Minh Mệnh, trong sắc lệnh ra ngày 29.7.1839, còn mạt sát đạo Công Giáo: “Đạo này không tuân giữ luật nước, đầy rẫy sự giả dối, rao giảng những điều phi lý như thiên đàng, nước thánh… các đạo trưởng móc mắt người chết và dụ dỗ đàn bà con gái…” (DMAH 2, tr.289).

3. Vấn đề chính trị.

Từ sự hiểu lầm ‘đạo Thiên Chúa là đạo ngoại quốc, đạo do người ngoại quốc du nhập vào’, triều đình làm sao khỏi nghi ngờ và nghi kỵ? Xưa cũng như nay, nhiều kẻ thù của Giáo Hội vẫn cố tìm cách ghép buộc ‘công trình truyền giáo với việc nước Pháp thôn tính đất nước Việt Nam dưới chiêu bài đòi tự do buôn bán và tự do tôn giáo’ (DMAH 3, tr.124). Tôi nghĩ họ cần có cái nhìn đứng đắn của ông Toan Ánh. Ông viết: “Nhiều người thường quan niệm sai lầm rằng đạo Thiên Chúa cùng tới Việt Nam với thực dân Pháp. Sự thật, đâu có phải. Đạo Thiên Chúa đã truyền sang Việt Nam từ lâu, trước hồi Pháp thuộc, từ đầu thế kỷ XIV, nhưng sự truyền giáo đã gặp khó khăn, nên sự phát triển không được mạnh mẽ lắm. Thực dân Pháp tới Việt Nam, mục đích của họ cốt để thôn tính đất nước, nô lệ hóa nhân dân, còn công việc khai thông đạo giáo, đó là công việc của các tu sĩ truyền giáo… Và tình thương đã quảng bá đạo Chúa… Tóm lại, Thiên Chúa giáo đã tới Việt Nam trước thực dân và trải nhiều thế kỷ đã lan rộng để ngày nay trở nên một tôn giáo quan trọng tại Việt Nam” (13).

Từ sự hiểu lầm ‘đạo Chúa là đạo ngoại quốc, đạo do người ngoại quốc du nhập vào Việt Nam’, triều đình và giới Nho sĩ đã nghi ngờ các thừa sai và khối Công Giáo, nhất là khi ‘dã tâm của người Pháp muốn thôn tính nước Việt Nam mỗi ngày một hiển hiện’. Tuy nhiên, đọc lại các sắc lệnh, các chỉ dụ cấm đạo của các chúa, các vua cũng như các kiến nghị của các quan triều thần, chúng tôi không thấy một lý do chính trị nào được nêu lên, ngoại trừ khẩu hiệu ‘bình tây sát tà’ của phong trào Văn Thân: ý đồ của họ là cho rằng ‘Nước Việt Nam bị Pháp thôn tính là vì đạo Công Giáo’; ‘Đạo Công Giáo là tả đạo, cần tàn sát và tiêu diệt’. Và họ đã dấy quân thi hành, gây nên bao nhiêu tang tóc trong thời gian 1864-1883 (14). Trước cảnh ‘nước mất nhà tan’ này, chính vua Tự Đức đã ca tụng lòng trung thành của người Công Giáo và công nhận người Công Giáo đã bị vu oan (15) Sau đây là hai vụ vu oan chính trị đáng chú ý:

• Vụ cha Giuse Marchand Du bị nghi là có liên hệ với giặc Lê Văn Khôi. Năm 1833, dân tình chán ghét vua Minh Mệnh, nhiều cuộc nổi loạn bùng nổ. Đáng quan tâm nhất là tại tỉnh Gia Định, Lê Văn Khôi nổi loạn vì uất ức trước thái độ của quan lớn đối với Lê Văn Duyệt. Kể từ tháng 7.1833, giặc Lê Văn Khôi chiếm trọn vùng Nam Kỳ và ông nghĩ rằng: nếu có một thừa sai tây phương ở trong thành thì sẽ nắm phần thắng. Nên ông cho quân đi bắt cha Du lúc ấy đang ở xứ Mặc Bắc. Khi quan Đội Miêng cho lính ập tới, cha Du trả lời: “Tôi chỉ lo giảng đạo mà thôi, việc chiến tranh tôi không biết chi. Nếu Chúa sai tôi đi đánh giặc thì một mình tôi một tỉnh, tôi cũng không sợ”. Đội Miêng bảo: “Trong Thành có đông người Công Giáo lắm. Nếu cha không đi ông Khôi sẽ chém đầu những người Công Giáo”. Vì thế, cha Du để họ bắt dẫn đi… Về sau, cha Du bị bắt và ra trước tòa các quan triều đình. Các quan hỏi cha: “Người ta thấy cha ở trong thành, vậy cha có làm gì giúp giặc không?”. – Cha Du trả lời: “Tôi chỉ giảng đạo và biết có việc giảng đạo mà thôi”. Lần khác các quan lại hỏi: “Ông có giúp Khôi làm giặc không?”. – Cha Du thưa: “Không. Ông Khôi cho quân đi bắt tôi đem về Sàigòn. Việc chiến tranh tôi không biết gì, tôi chỉ giảng đạo, cầu nguyện và làm lễ thôi”. – “Có phải ông đã giúp tên Khôi viết thơ xin quân Xiêm và giáo dân Đồng Nai đến giúp y không?”. – “Ông Khôi ép tôi viết thơ song tôi không chịu và nói cho ông biết, đạo cấm làm chuyện chính trị. Tôi cũng nói: thà chết chứ tôi không làm như thế được. Ông Khôi còn đem mấy thơ đến xin tôi ký vào. Tôi không chịu và xé thơ trước mặt ông”. Sau cùng các quan làm án tâu lên vua Minh Mệnh, xin ‘xử bá đao về hai tội: Là đạo trưởng, không chịu đạp ảnh Thánh Giá, và có dính líu với nghịch tặc’. Vua Minh Mệnh chấp thuận và cho đi xử bá đao ngày 30.11.1835. Đầu cha Du bỏ vào thùng đem rêu rao khắp nơi, sau cùng đem về Huế, bỏ vào cối xay nát ra và bỏ xuống biển (DMAH 2, tr. 73-84).

• Vụ liên quân Pháp và Tây Ban Nha tấn công Đà Nẵng: Thánh Hồ Đình Hy là một quan chức được vua Tự Đức tín nhiệm, trao cho nhiều công tác và thăng quan tiến chức đều, đến tước thái bộc và làm quan tam phẩm. Vì thế nhiều quan triều ghen ghét, tìm cách hãm hại quan Hồ Đình Hy. Vậy, nhân vụ liên quân Pháp và Tây Ban Nha ở ngoài khơi cửa Hàn, lăm le xâm chiếm Đà Nẵng. Các quan triều xấu bụng đã làm đơn dâng lên vua Tự Đức buộc tội quan Thái Bộc là liên lạc với người Pháp, họ xin vua bóc chức quan Hồ Đình Hy và trừng trị xứng đáng. Trong bản án còn nêu lên hai tội: cả gan tin theo tà đạo, lại liên lạc với nhiều đạo trưởng và còn nhờ linh mục Oai cho con đi học ở Singapore. Mặc dầu đã bị tra khảo nhiều lần, Hồ Đình Hy vẫn một mực chối không có liên lạc gì với quân Pháp. Vua Tự Đức tin theo những lời vu khống ác độc của các quan triều, đã y án: quan thái Bộc Hồ Đình Hy bị trảm quyết ngày 22.5.1857 (DMAH 3, tr.150-160).

• Văn Thân vu khống và bày trò gian ác để gây thù oán giữa dân lương với đạo Công Giáo (DMAH 3, tr.331-332):

+ Văn Thân đồn thổi: ‘Đức Cha Sohier đã mang về 400 cân thuốc độc để triệt hại các vua và các quan hầu đem người Công Giáo lên làm vua. Lúc đó, dân lương nào không theo đạo sẽ giết hết’.

+ Đức Cha Theurel địa phận Tây Bắc cho biết: ‘Văn Thân vu cáo người Công Giáo bỏ thuốc độc vào các giếng nước’.

+ Đức Cha Cezon địa phận Trung cho biết: ‘Văn Thân thuê người đi bỏ thuốc độc vào các ao hồ và giếng nước và nếu bị bắt thì nói rằng ‘người Công Giáo thuê’. Đã có 100 người bị bắt và khai rằng ‘Văn Thân đã thuê họ’.

+ Đức Cha Gauthier địa phận Vinh báo động: ‘Văn Thân giả mạo một lá thư mang tên ngài, ra lệnh cho hai họ đạo Hội Yên và Phủ Lý phải cử năm người đi đốt phá và bỏ thuốc độc vào giếng của các làng bên cạnh… Kết quả là hai họ đạo Hội Yên và Phủ Lý bị chính Văn Thân đến đốt cháy’.

+ Văn Thân còn phao lên rằng ‘các thày lang Công Giáo làm thuốc độc bán cho dân. Vì thế một ông lang Công Giáo đã buộc phải uống một lúc hết các thuốc ông bán… Kết quả, ông bị chết vì thuốc hành’.

4. Những vụ khác do các sư sãi, thày phù thủy vu khống và xúi dân khiếu nại:

• Năm 1625, hai nhà sư đã kiện lên chúa Sãi rằng: người Công Giáo bỏ bê tổ tiên và tục lệ quốc gia. Vịn vào đó, chúa Sãi ra lệnh ‘không ai, dù là Công Giáo, được bỏ bê các lễ lạy trong làng’ (DMAH 1, tr.12).

• Năm 1627, các thày cúng và sư sãi lại tố cáo với Trịnh Tráng: các lễ nghi bên đạo là một phù phép giết người, và xin chúa Trịnh canh chừng kẻo các thừa sai phù thủy giết hết các nhân tài và tướng giỏi để chuẩn bị nổi loạn dễ dàng. Họ cũng vu khống là các thừa sai liên lạc với nhà Mạc và chúa Nguyễn trong Nam. Đặc biệt cha Đắc Lộ là một phù thủy cao tay. Vì thế chúa Trịnh ra lệnh cấm dân chúng không được liên lạc với các đạo trưởng tây phương và không được theo đạo Giatô giả dối… (DMAH 1, tr.107-108).

• Năm 1663 các sư sãi lại vu khống và khiếu nại lên chúa Trịnh: người Công Giáo phá chùa, bẻ tượng… Sự hiện diện của đạo Công Giáo là nguyên cớ gây nên tai ương mưa lụt, hạn hán… Nghe vậy, vua Cảnh Trị ra lệnh cho các quan đi các làng, thấy có ảnh đạo phải tịch thu và bắt dân Công Giáo phải tuân giữ các tục lễ cúng bái của làng xã và của quốc gia (DMAH 1, tr. 122-123).

• Năm 1698 các thày phù thủy và sư sãi lại xúi dân làng Thương Lo làm đơn tố cáo lên chúa Minh Vương: Người Công Giáo bẻ gãy tượng phật, phá chùa và lấy các đồ thờ. Minh Vương cho người đi điều tra thì, chùa không hư hại gì và tượng Phật đã gãy tay từ hai chục năm trước (DMAH 1, tr.70-71).

IV. NHỮNG HÀNH NHỤC VÀ TỬ NHỤC

Hệ quả của những hiểu lầm và vu cáo như trên là các cuộc bắt đạo cứ từ từ bùng nổ, các chúa, các vua, các quan chức đều nuôi lòng ghen ghét, hoài nghi, và tìm mọi lý do, mọi hoàn cảnh khả dĩ để tiêu diệt đạo Công Giáo, nhất là thời vua Minh Mệnh, Tự Đức và phong trào Văn Thân. Trong nước dần dần thành hai khối ‘một bên là lương dân, quan quyền và vua chúa, một bên là dân Công Giáo với các thừa sai và thày giảng’. Một bên có quyền, có quân, một bên chỉ có niềm tin để chịu đựng mọi thua thiệt, mọi đàn áp, mọi hành nhục và tử nhục với tinh thần hiền lành, kiên nhẫn, can tràng… vẫn một lòng kính vua chúa, quan quyền, thương cha mẹ, yêu đồng bào… nhưng thờ Chúa là trên hết…. Thánh Philippê Phan Văn Minh đã diễn bầu khí bách hại đó như sau:

Lừng lẫy oai hùng tiếng đã rân,

Chỉ truyền cấm đạo khắp xa gần.

Thánh đường chốn chốn đều tiêu triệt,

Giáo hữu người người chịu khổ tân.

Linh mục giảo lưu, hình giảm khốc,

Cận thần trảm quyết, lính đồ thân.

Há rằng vương đế làm nhân chánh,

Sao nỡ phiền hà hại chúng nhân.

(Bắt đạo thơ)

Như trên chúng ta thấy, hơn ba trăm năm đạo Công Giáo, hay các linh mục, thày giảng và giáo dân nam nữ, già trẻ, đều sống trong bầu khí ‘nghi ngờ, vu oan và bách hại’. Ít có thời gian được ‘tương đối bình an’. Tuy có một vài tiếng nói của vua chúa hay quan quyền bênh vực khen lao đạo Công Giáo, vì quyền lợi hay vì thời cơ, đều èo ẹt như một tia sáng nhỏ giữa đêm khuya mịt mù. Ai bảo vua Gia Long hay Nguyễn Ánh là người bênh vực đạo? (xem DMAH 2, tr.3-6). Ai bảo tiếng nói của quan triều Lê Văn Duyệt (DMAH 2, tr.26), hay Nguyễn Đăng Giai (DMAH 3, tr.59) được lắng nghe và xoay chiều tình thế có lợi cho đạo Công Giáo?…

Mọi người Công Giáo sống trong ‘bản án tập thể’ là theo đạo ngoại quốc, đạo ‘hoa lang’, đạo ‘Bồ Đào Nha’; mang trên má hai cụm từ ‘hoa lang đạo’ hay ‘tả đạo’; bị coi như những người khờ dại, đần độn, để người ta quyến dũ và mê hoặc, ‘bỏ đạo quốc gia đi theo đạo Giatô dạy điều giả dối, điên rồ và phi lý…’. Khiếu nại cùng ai, khi nhà bị cướp, bị đốt, bị chiếm? Nuối tiếc chi được khi bó buộc ra khỏi nhà, đi sống ‘phân sáp’ hay lưu đày… Đúng như lời thánh Phaolô nói: “đành chịu mọi thua thiệt để được Chúa Giêsu!”. Nếu là linh mục hay thày giảng, các ngài phải ẩn tránh, lén lút, trốn hết nhà này qua nhà khác, tránh mọi dòm ngó của quan quyền, lính tráng hay ‘những người dân ghét đạo’. Nhiều khi phải trốn ẩn dưới hầm, ngoài đồng, trong rừng…

Khi bị bắt, lập tức mang gông, ngồi cũi, dẫn bộ về nộp cho quan huyện, quan tỉnh… để vào tù đợi ngày ra xử. Nhiều trường hợp các quan đòi tiền mua chuộc. Ngày ra tòa trước mặt các quan là ngày bị hỏi cung, bị dụ dỗ, bị nguyền rủa, bị buộc tội, bị những trận đòn 50, 100, 150 roi, tuỳ theo là roi mây, roi trượng, roi đuôi trâu, roi móc thịt… Bị đánh nhừ tử, và trở lại tù… Sau hai, ba lần hỏi cung và tra tấn, các quan lập biên bản, tức làm bản án, nộp lên hoàng đế. Khi hoàng đế ‘y án’, các quan sẽ thi hành bản án. Có nhiều loại án, hoặc đánh đòn và nộp tiền phạt rồi tha về đặc biệt đối với thường dân và phụ nữ; có khi bị bỏ chết đói trong tù; có khi thả vào chuồng voi cho voi giẫm chết, có khi bị lưu đày xa quê hương và làm công dịch, có khi bị lưu đày hay phát vãng đến tận miền xa xôi, nước độc…. Hầu hết các vị tử đạo, nhất là các giám mục, linh mục, thày giảng, quan chức hành chánh, sĩ quan hay binh lính thuộc quân đội và các chức sắc trong họ đạo, đều bị xử tử. Xử tử bằng hình thức xử giảo, chém đầu, xử trảm, lăng trì, bá đao, xử tử bêu đầu ba ngày, xử tử ném xác xuống sông sâu hoặc biển khơi, có trường hợp còn bỏ đói, chôn sống hay thiêu sống!

Có lẽ tử đạo đau đớn nhất và nhục nhã nhất là trường hợp của thánh linh mục Giuse Marchand Du: Ngài bị xử bá đao ngày 30.11.1835 tại họ Thọ Đúc (Huế). Ngài bị trói vào thập tự, miệng ngậm đầy đá sỏi và khóa lại bằng tre, để khi chịu đau kêu không ra tiếng. Vào giờ xử, lý hình tháo cha Du ra khỏi thập tự, trói vào cọc. Hai tên lý hình một người cầm kìm, một người cầm dao để xẻo ra từng miếng thịt. Hai tên lý hình khác đứng bên đếm từng miếng thịt lắt ra và ghi vào sổ. Sau hồi trống lệnh, lý hình xẻo trán cha Du trước để da phủ xuống che kín mắt của cha, sau đó lấy kìm lôi hai vú ném xuống đất. Lần lượt lý hình lấy kìm bấm và lôi thịt ra từ hai bên mông, cắt đứt ném xuống đất. Lúc ấy cha Du không còn sức nữa, gục đầu xuống và linh hồn về với Chúa. Thấy cha đã chết, tên lý hình cầm đao sắc, kéo đầu lên và chém đứt cổ, bỏ đầu vào thúng vôi. Lý hình xô xác cha xuống đất và tiếp tục cắt thân thể cha ra thành trăm mảnh, hết bổ dọc đến bổ ngang như bổ xẻ một khúc cây. Vì cha Du sống khắc khổ, chịu hành hạ nhiều nên không còn máu chảy ra. Khi xong xuôi tất cả, lý hình gom các miếng thịt vụn lại bỏ vào mấy thúng rồi đem nộp cho quan để vất xuống sông. Còn đầu bỏ vào thùng đem bêu khắp nơi trên đất nước. Đầu cha Du tới Hà Nội ngày 02.01.1836. Sau cùng đầu cha Du được đưa về Huế bỏ vào cối xay nát ra và ném xuống biển. Không ai giữ được một di tích nào của cha Du (DMAH 2, tr.84).

Đọc lại cái chết tử đạo của tiền nhân, đặc biệt cái chết đau thương của cha Du, ai lại không thấy hữu tình, hữu lý, những lời Thánh Thi của Kinh Chiều lễ các Thánh Tử Đạo:

Muôn thử thách, vì Chúa đâu xá kể,

Không hé một lời oán trách thở than,

Chẳng xôn xao, lòng thơ thới yên hàn,

Trước sau vẫn hiền hòa luôn kiên nhẫn.

Hay lời thơ của thánh linh mục Phlippê Phan Văn Minh:

Dĩ nhược thắng cương minh chứng rõ,

Kiếp sau hiện hữu sống muôn đời

V. NHỮNG DẤU LẠ ÂN THƯỞNG

‘Phúc cho anh chị em, là những kẻ bị người ta gièm pha, vu khống đủ điều và bách hại vì danh Ta. Anh chị em hãy vui mừng phấn khởi, vì phần thưởng dành cho anh chị em thật lớn lao’ (Mt5, 11-12). Vâng, các thánh Tử Đạo tiền nhân của chúng ta đã thấu hiểu lời chúc phúc của Chúa Giêsu hơn ai hết. Các ngài cũng nằm lòng những lời dạy của tổ tiên chúng ta nêu lên ở trên (số I). Lời chúc phúc của Chúa Giêsu và những lời dạy của tổ tiên đã ăn sâu vào xương tủy máu huyết của các ngài, nên các ngài can tràng chấp nhận mọi hy sinh vì đức tin, mặc ai gièm pha, nghi kỵ, vu khống và bách hại. Những trận đòn nhừ tử, những cái chết đau thương không làm các ngài suy giảm đức hiền hoà và nhẫn nhục. Các ngài ý thức rõ các ngài chết cho ai, chết vì ai. Tất cả vì Chúa, vì quê hương, vì dân tộc, vì đồng lúa của Giáo Hội hoàn vũ và Giáo Hội Việt Nam, vì phần rỗi của mình và của đồng bào… Các Thánh Tử đạo là những người bỏ mọi sự đi theo Chúa đến tận cùng. Các ngài đáng được Chúa thưởng bội hậu trên thiên đàng, và ngay ở trần thế. Phần thưởng bội hậu của các thánh trên trời, chúng ta chỉ biết hân hoan chúc mừng theo lời Chúa dạy ‘thật bội hậu, thật lớn lao’, và theo mức độ cảm nghiệm hạn chế của chúng ta hay như lời Giáo Hội thường hát:

Thật khôn tả, nguồn vinh quang vô tận,

Chúa dành cho bậc tử đạo anh hùng:

Áo huy hoàng thắm đỏ máu tôi trung,

Đây rực rỡ mũ triều thiên chiến thắng…

(Thánh thi kinh chiều 2 lễ Tử Đạo)

Còn những phần thưởng Thiên Chúa ban cho các thánh Tử Đạo tại Việt Nam ngay ở trần gian, thì ngoài đời sống gương mẫu, ngoài tinh thần can đảm chịu đựng mọi gian lao vì đức tin, và dũng lực chấp nhận cái chết đau thương vì danh Chúa mà chúng ta có thể nhận ra nơi mỗi vị, chúng ta cũng có thể dựa vào những điều lịch sử ghi lại để nêu lên như những dấu chứng tiêu biểu về ‘phần thưởng bội hậu’ mà Thiên Chúa dành để cho các tôi trung của Chúa. Quả vậy, đọc lịch sử truyền giáo tại Việt Nam, đọc truyện mỗi vị tử đạo, đã được phong thánh hay chưa, là người bản xứ hay người ngoại quốc, chắc chắn không ai dám phủ nhận: ‘những dấu chứng về phần thưởng bội hậu ngay ở trần gian, thật phong phú dưới nhiều dạng thức’. Chúng ta không thể nêu lên hết, dưới đây chỉ là những dấu chứng độc đáo nơi một số vị tử đạo mà thôi:

1. Năm 1663: Ông Alexi Đậu là con trai của một thương gia Nhật, và bà mẹ, người Việt Nam Công Giáo. Bà bị voi dày chết vì đạo. Khi đi ra Pháp trường với người bạn tên là Toma Nhuệ, ông mặc áo lụa trắng mới, bình tĩnh vui vẻ lạ thường. Khi lý hình chém đầu ông Toma, ông Alexi Đậu còn nói vui vẻ: “Bạn tôi đã đi hết đoạn đường và đoạt chiến thắng. Bây giờ đến lượt tôi đi theo”. Rồi ông đưa đầu cho lý hình và hỏi xem đã đúng cách chưa. Khi lý hình đã chém đứt cổ và tung đầu lên, người ta còn nhìn thấy vẻ mặt tươi vui suốt hai ngày liền. Hơn thế, ông Alexi Đậu còn hiện ra với người lính đã chém đầu mình, trong đoàn ngũ các thánh hân hoan, và cám ơn người lính đã giúp mình đạt được ước nguyện (DMAH 1, tr.51).

2. Năm 1658, thời chúa Trịnh Tráng, ông Phanxicô là người Công Giáo tử đạo đầu tiên của Giáo Hội miền Bắc. Ông đã đổ máu ra để làm cho công việc truyền giáo của các thừa sai trổ sinh nhiều kết quả phong phú. Đặc biệt Chúa đã làm nhiều phép lạ thưởng công ngài và các thừa sai không thể kể hết. Sách vở còn ghi: Nhờ khấn nguyện với ông Phanxicô, một giáo dân đã chữa lành 30 người bị quỷ ám. Nhờ khấn nguyện với ông Phanxicô, một cô gái tỉnh nghệ an đã cứu người mẹ hấp hối hồi tỉnh và khoẻ lại bình thường. Một người khác đi trong rừng, gặp một cụ già nằm liệt sắp chết, đã cầu khấn với ông Phanxicô, rồi lấy nước làm phép cho cụ già uống, cụ liền khoẻ lại và trở về nhà (DMAH 1, tr.110).

3. Năm 1723, thời chúa Trịnh, cha Bucharelli bị bắt với 9 giáo dân. Cả 10 người bị giam trong chuồng voi. Ngày 11.10, các ngài bị dẫn ra pháp trường. Cha Bucharelli khích lệ giáo dân: “Chỉ còn ít giờ nữa, chúng ta sẽ được tự do, thoát khỏi đời sống trần thế khổ cực này, Thiên Chúa sẽ dắt đưa chúng ta lên trời”. Đoàn người anh hùng bước ra pháp trường cách vui vẻ giữa tiếng kêu của xiềng xích và tiếng cầu kinh. Lương dân, quân lính và lý hình rất bỡ ngỡ về thái độ bình tĩnh vui tươi của các ngài. Tới Đồng Mơ, nơi hành quyết, cha Bucharelli quì xuống đất, cất lời cầu nguyện sốt sắng, 9 giáo dân cũng làm theo: hai tay đưa ra sau, nghển cổ lên cho lý hình làm việc bổn phận. Từng cái đầu một rơi xuống, máu nóng tuôn chảy chan hòa tưới đỏ khu đất. Trời tối sụp lại. Các lý hình vội vã đi về, để lại cho dân chúng tự do thấm máu và tôn kính các anh hùng tử đạo. Những người lương dân chứng kiến vụ việc, nói với nhau: “Đạo Công Giáo là một đạo thánh, không sớm thì muộn, Trời sẽ báo oán cho những người thánh này” (DMAH 1, tr. 158).

4. Năm 1745, thời chúa Trịnh Doanh, cha Tế và cha Đậu dòng Đaminh, bị lính dùng gươm chém đầu ngày 22.1.1745. Dân chúng chen nhau thấm máu đào của hai cha. Tối hôm ấy, xác hai cha được tắm rửa và an táng tại xứ Kẻ Bùi. Nhưng hai xứ Trung Linh và Trung Lễ đòi quyền được chôn cất xác của hai cha. Vì thế, một tuần sau, Đức Giám Mục cho phép đào xác hai cha lên để đưa về Trung Linh mai táng trong nhà thờ. Lạ thay, xác các ngài không bốc mùi thối, nhưng mọi người đều ngửi thấy một hương thơm lạ lùng thoát ra… (DMAH 1, tr.179). Chứng kiến cái chết của cha Tế và cha Đậu, một tên lý hình đã thốt lên: “Rồi đây đói kém và thiên tai sẽ đổ xuống trên chúng ta. Tại sao cứ phải giết các đạo trưởng không hề trộm cắp giết người? Chúng ta đều biết rõ họ là đấng thánh”. Lòng tôn kính các đấng anh hùng tử đạo đã lôi kéo nhiều người đến mộ các ngài để cầu nguyện… Nhiều người đã được ơn lạ. Như trường hợp sau đây mà ông Giuse Can đã thề là chuyện có thật: “Thầy già Khiêm đã kể lại cho tôi nghe truyện lý hình Chân Nhuệ đã bắt cha Đậu trước đây, bị đau ốm lâu dài. Sau khi nghe biết cha Đậu đã chết vì đạo thánh, thì ông ta hối cải cầu xin với cha Đậu phù hộ, ông ta được khỏi bệnh cách lạ lùng. Ông ta đã từ bỏ thần phật đã theo đạo do cha Đậu rao giảng trước đây”. Một trường hợp khác được kể lại là người giữ chùa bị đau nặng, dù đã cầu đảo các thần phật và chạy chữa thuốc men nhưng vẫn không khỏi. Một người Công Giáo đến thăm, lặng lẽ nhúng miếng vải đã được thấm máu đào của cha Đậu vào ly nước rồi cho bệnh nhân uống mà không nói gì cả. Bệnh nhân vừa uống hết ly nước thì khoẻ mạnh lại. Ông từ giã chùa và sau xin trở lại đạo (DMAH 1, tr.188-189).

5. Năm 1798, cha Gioan Đạt, người Thanh Hóa, bị trảm quyết và được Chúa cho nhiều dấu lạ xảy ra nhờ lời cha Đạt bầu cử. Nghe vậy, Đức Cha Monger coi sóc địa phận Tây Đàng Ngoài, đã ra lệnh tìm nhân chứng tường thuật lại cuộc tử đạo của cha Đạt. Có ba bài tường thuật đầy đủ. Một bài của y sĩ Huyền Trang, một bài của thày Tăng cùng bị giam với cha, và một bài của thày Benoit Huy. Ngoài ra có nhiều nhân chứng kể lại những phép lạ Chúa ban cho cha Đạt làm, như trường hợp sau đây: Ông Phêrô Vũ Văn Thang kể lại “Cháu trai của tôi bị chứng bệnh đau bụng kinh niên, nhiều khi đau kinh khủng, không thuốc nào chữa được. Tôi liền đi đến mộ cha Đạt đọc năm kinh Lạy Cha, năm kinh Kính Mừng, rồi nhổ vài ngọn cỏ trên mộ ngài đem về nấu nước cho cháu uống. Vừa uống xong bát nước, cháu khỏi bệnh ngay, không đau lại nữa”. Một người khác cũng làm chứng “Tất cả nhà tôi đều tin chắc rằng cậu Đam được chữa khỏi là do lời bầu cử của cha Đạt” (DMAH 1, tr.244).

6. Năm 1833, thời vua Minh Mệnh, cha Phêrô Tùy bị xử trảm tại Thanh Trì (Hà Nội). Ngay khi đến nơi hành quyết, trời bỗng nhiên u tối vì mây đen bao phủ. Những người lý hình nói với nhau: “Ông này có phải là một vị thần không mà trời bỗng dưng ra tối tăm làm vậy?” Thày Bernard Thu làm chứng về đời sống và cuộc tử đạo của cha Tùy như sau: “Nhiều lần tôi nghe kể lại những phép lạ do lời bầu cử của cha thánh nhưng chưa ai viết ra. Tuy nhiên, riêng tôi, tôi tin chắc chắn rằng nhiều lần khi tôi chữa trị cho các bệnh nhân nan y, tôi thường cầu khấn với cha Tùy, chính ngài đã chữa họ lành. Tôi cũng biết chắc một sự kiện khác là đang khi lương dân không làm sao ngăn chặn được sâu phá hoại mùa màng, tôi liền chạy đến cầu nguyện với cha Tùy và rảy nước thánh trên ruộng lúa. Lời cầu nguyện của tôi được chấp nhận. Mọi người sửng sốt thấy ruộng của họ bị sâu phá hoại còn ruộng của tôi thì trổ bông. Tôi cho họ biết lý do và họ ca ngợi Đấng Tử Đạo… Mấy năm sau người ta cải táng và đem xác cha về Pháp. Khi mở mộ ra, người ta ngửi thấy mùi thơm tho dịu ngọt tỏa ra và nước trong bao quanh xác ngài. Nhiều bệnh nhân uống nước này và được khỏi bệnh lập tức. Một số người khác giữ nước này để khi đau sẽ dùng tới” (DMAH 2, tr.50-51).

7. Năm 1837, cha Tân bị xử lăng trì tại Sơn Tây. Khi tiếng chiêng nổi dậy, năm người lý hình tiến ra, chặt đầu cha Tân và phân thây làm bốn miếng. Họ vất ra xa từng miếng một, trừ miếng bụng, họ mổ ra lấy gan của ngài chia nhau mà ăn. Vì họ nghĩ rằng: ‘ăn gan của người chết vì đạo, họ sẽ được thừa hưởng lòng can đảm’. Khi cuộc xử đã bế mạc, một y sĩ Công Giáo, hai người lính và hai chị nữ tu ở lại lượm nhặt các phần thân thể của cha Tân đem về chôn ở làng Chiêu Ẩn. Qua năm 1838, giáo dân xứ Bách Lộc mới cải táng đưa xác cha Tân về chôn trong nhà kho của nhà dòng Mến Thánh Giá. Từ đó giáo dân quen đến viếng và gọi là nhà mồ. Người ta kể rằng: dân chúng tranh nhau thấm máu cha Tân, vì họ nghĩ: ‘Máu bên đạo thiêng lắm, đem về nhà thì quỷ không dám quấy phá nữa’. Người ta còn thuật lại hai phép lạ đã xảy ra do lời cha Tân bàu cử. Một lần có quan quân lùng bắt, nhà dòng mang đồ đạo chạy lên rừng trốn, đêm về nhà thì thấy nhà sáng trưng như có người thắp đèn. Lần khác, có đám nhà cháy, các bà chạy đến cầu nguyện tại mồ cha Tân, lập tức đám cháy ngưng lại, lửa lụi xuống (DMAH 2, tr. 97-98).

8. Năm 1838, cha Phêrô Nguyễn Văn Tự bị trảm quyết tại Nam Định. Khi lý hình vung gươm chém đầu lìa khỏi cổ và tung lên ba lần cho mọi người thấy như tục lệ vốn có, thì dân chúng, Công Giáo và bên lương, chen nhau thấm máu của cha Tự. Người ta chen lấn nhau đến nỗi một số người ngã trên vũng máu và làm cho cả đám người dấy máu của đấng Tử Đạo. Nhiều phép lạ đã xảy ra, chứng tỏ Thiên Chúa muốn cho mọi người ta hiểu của lễ hy sinh mà cha Tự đã dâng lên cho Thiên Chúa, đẹp lòng Ngài biết bao nhiêu. Vừa khi cha được dẫn tới nơi xử, thì trời bỗng dưng tối sầm lại và có ba tràng sấm vang dội. Rồi khi đầu cha rơi khỏi xác, một đoàn chim sẻ từ đâu bay tới đậu chung quanh như để chào đón linh hồn thánh thiện của cha. Một người Công Giáo lấy khăn tay thấm máu cha, lạ lùng thay, ông thấy ba hình in trên vải: một hình cha Tự, một hình tên đao phủ và một hình bối cảnh của pháp trường. Một em bé ngoại đạo mắc bệnh đau bao tử đã lâu năm, người ta cho em uống một ly nước có hòa thêm máu của cha, tự nhiên em được khỏi bệnh hẳn. Cậu Thanh con quan Tuần đã lấy được một miếng vải của cha thánh, nhiều người muốn mua lại, nhưng cậu không bán. Cậu quen nói: ‘Từ khi tôi có miếng vải này, tôi hết bị ma quỷ quấy nhiễu’. Theo lời thày giảng Tín, một tên lính ăn xôi cúng, bị quỷ nhập, thầy lấy nước thánh rảy lên, nó chỉ cười. Ông Loan nhớ ra mình còn giữ được cái kiếm lý hình đã chém cha Tự. Ông ta lấy ngay thanh kiếm ép vào cổ người bị quỷ ám, lập tức anh ta được lành. (DMAH 2, tr.229-230).

9. Năm 1838, y sĩ Giuse Lương Hoàng Cảnh bị xử trảm tại Bắc Ninh. Tới nơi xử, người ta tháo gông của cụ ra, bắt cụ quỳ cúi đầu xuống. Một hồi chiêng vang dội, lý hình chém đầu cụ rơi khỏi cổ. Lương dân xô nhau thấm máu và xâu xé tấm áo cụ mang trên mình, đến nỗi quan và lính không sao cản ngăn nổi. Sau đó người ta chôn tạm xác cụ ở bên sườn đồi. Hai người lương đã ăn cắp xác cụ Cảnh và đòi người Công Giáo phải trả 36 quan tiền mới trả lại. Trên đường đi đến nghĩa trang, người ta bó buộc phải có đò mới qua sông được. Thế mà hôm nay, khi tới sông Câu, đò đã không có, nước lại dâng cao. Những người Công Giáo hộ tống xác cụ Cảnh quỳ xuống sốt sắng xin Chúa cho có đò hay phương thế nào để đưa xác cụ Cảnh qua sông. Lạ thay, nước xuống thật nhanh chưa từng có. Người ta có thể đi qua sông dễ dàng, đem được xác cụ Cảnh tới nơi họ muốn an táng cụ. Mọi người hân hoan cám ơn Chúa và coi đó như một phép lạ Chúa làm để ân thưởng người tôi trung của Ngài (DMAH 2, tr. 234).

10. Năm 1838, cha Vinhsơn Nguyễn Thế Điểm bị xử giảo tại Đan Sa. Nếu trong bản án của cha Điểm quan tỉnh vu cáo là ‘ngài đã dùng phù phép kín đáo để dụ dỗ người ta theo đạo’, thì khi ngài vừa bị xử giảo, Thiên Chúa đã cho ngài làm nhiều phép lạ vinh danh Chúa. Khi cải táng cha Điểm về Hướng Phương có xảy ra một sự lạ: một cậu học sinh ăn cắp một miếng xương đốt ngón tay của cha Điểm đem về nhà chơi. Không bao lâu, cậu lên cơn đau bụng kinh khủng. Cha Tự biết chuyện, liền bảo cậu phải đem trả lại đốt xương. Cậu học trò vâng lời đem để trên mộ cha Điểm. Lập tức cơn đau bụng chấm dứt và không bao giờ trở lại nữa. Hai chuyện khác: một gia đình Công Giáo ở gần mộ của cha Điểm. Họ sợ khi có bắt đạo, họ sẽ bị liên lụy. Vì thế một đêm khuya, họ cả gan ra san bằng mộ của cha Điểm. Chỉ hai hôm sau, người chồng bị tai nạn chết cách đau thương. Người vợ hối hận, nhận tội và cầu nguyện xin cha Điểm thứ tha. Cũng tương tự, một nông phu dám dắt trâu đến ăn cỏ và đạp lên mộ của cha Điểm. Trâu của ông bỗng nhiên liệt hai cẳng sau. Ông sợ quá, vội khấn xin cùng cha Điểm, trâu của ông mới đặng khỏi (DMAH 2, tr. 268-269).

11. Năm 1839, ông Toma Nguyễn Đệ bị xử giảo tại Cổ Mễ. Sau khi quân lính buộc dây vào cổ ông Đệ và kéo cho chết nghẹt, dân chúng ùa vào thấm máu và lấy các di tích của ngài. Giữa nửa đêm, một người Công Giáo chạy vào vác xác thánh Đệ đưa về Kẻ Mốt. Ông kể lại câu chuyện xảy ra trong khi ông vác xác thánh như sau: “Tôi vác xác thánh vào lúc nửa đêm. Bất chợt xác ngài tỏa ra ánh sáng chỉ đường cho tôi phải đi về đâu. Khi tới bờ sông tôi rất lo lắng vì tôi biết chắc chắn không có đò vào giờ đó, thì làm sao tôi qua được bờ bên kia? Nhưng trái với ý nghĩ của tôi, lúc đó nước rút xuống rất thấp đến nỗi tôi có thể lội qua bờ bên kia cách dễ dàng. Hơn nữa, khi tôi đến làng Kẻ Mốt, tôi thấy cổng làng đã mở, dù cổng làng luôn đóng chặt vào lúc ban đêm. Tôi vác xác thánh vào nhà thờ và đặt trên bàn thờ. Lúc đó không có đèn sáng trong nhà thờ, nhưng có ánh sáng phát ra lạ lùng từ xác của vị thánh. Thật là một dấu lạ!” (DMAH 2, tr. 372).

12. Năm 1840, thày Toma Toán bị kết án ‘bỏ đói tới chết’. Khi quan biết thày Toma đã chết thật, quan truyền chôn xác thày cùng một chỗ quen chôn xác tù nhân. Ông Phêrô Dần và hai giáo dân khác đã đút tiền để lấy xác thày cho vào quan tài và chôn cất tử tế. Sắp sửa chôn thì có hai người đàn bà đã giúp thày trong tù, chạy đến xin được nom thấy mặt thày lần cuối cùng. Nắp quan tài được mở ra, mọi người kinh ngạc khi thấy mặt thày chiếu sáng với một vẻ đẹp siêu thoát. Họ liền cắt lấy một ít tóc của thày và chia nhau giữ làm kỷ niệm. Thày được chôn cất lại như cũ (DMAH 2, tr. 437).

13. Năm 1842, cha Phêrô Khanh bị xử trảm tại Hà Tĩnh. Người ta kể: hôm xử án cha Khanh trời nắng đẹp khắp nơi. Thế nhưng, lúc 10 giờ sáng, cha Khanh vừa quỳ xuống cầu nguyện trên pháp trường thì tự nhiên trời sập tối, rồi đến khi cha Khanh bị chặt đầu, thì trời lại đổ mưa thật lớn trong vòng ba phút. Người lương đi coi rất đông, thì thầm với nhau: ‘Tại sao trời nắng mọi chỗ, chỉ có nơi xử là mưa?’ Hoặc: ‘Xử cụ đạo có mưa làm vậy là sự lạ!’. Ngay khi cha bị chém đầu, đồng bào ùa vào thấm máu. Tính ra có tới 500 tờ giấy thấm máu cha Khanh. Dù là mùa hè, thân xác của cha Khanh vẫn thơm tho, không mùi hôi thối, nét mặt vẫn tươi tốt, máu chảy ra vẫn đỏ đến nỗi nhiều người tưởng cha Khanh chưa chết. Khi cha Nghiêm hỏi: “Tại sao xác cha Khanh vẫn mềm hè?”. Dân chúng thưa: “Bẩm vì xác thánh thì mềm!”. Xác cha Khanh được an táng trong nhà thờ họ đạo. Một số ơn lạ được ban xuống cho người kêu xin, nhất là việc được sinh con dễ dàng, nhờ lời bầu cử của cha Khanh (DMANH 3, tr. 37-38).

14. Năm 1857, cha Phaolô Lê Bảo Tịnh bị xử chém tại Nam Định. Trong thời gian từ 1831 đến 1838, khi còn là thày giảng, nhiều lần thầy Phaolô được Đức Giám Mục sai đi Macao đón các thừa sai và lấy đồ về cho nhà chung. Lần cuối cùng đồ hàng bị cướp, thày Phaolô phải lưu lại Macao một năm để thưa kiện và lấy lại đồ đã bị cướp. Rồi trong một đêm Đức Mẹ đã hiện ra nói với thầy: “Phaolô, Phaolô, khi về Việt Nam, con sẽ phải chịu khổ vì đạo”. Thầy không tin, thày tưởng một mỹ nhân nào đến cám dỗ, nên thầy hỏi lại bằng tiếng latinh, tiếng việt, tiếng trung hoa. Hỏi tiếng nào, Đức Mẹ trả lời bằng tiếng ấy: “Ta là Đức Bà Maria”. Dầu vậy thầy Tịnh vẫn không tin cho tới khi bị bắt ở Thạch Tổ năm 1841 (DMAH 3, tr.131).

15. Năm 1858, cha Đaminh Mầu bị chém đầu tại Hưng Yên. Cha nổi tiếng về lòng yêu mến kinh Mân Côi, cha luôn đeo chuỗi Mân Côi bên ngoài cổ. Xác cha Mầu được giáo dân đem về an táng trong nhà thờ Mai Lĩnh tỉnh Hưng Yên. Trước tòa án điều tra năm 1864, nhiều người đã làm chứng được ơn lạ nhờ lời bầu cử của cha Mầu: Ông Đaminh Đỗ thuộc họ Đức Bà Thượng Lạc, xứ Kẻ Điền quyết đáp mình đã được khỏi bệnh đau bụng nguy kịch; bà Thị Chi, 50 tuổi, thuộc làng Lập Bái, cũng tuyên chứng mình được khỏi quỷ ám cách lạ lùng năm 1884; Ông Cai Thìn, người lương, cũng quả quyết mình được khỏi bị quỷ ám nhờ cầu khấn trên mộ cha Mầu (DMAH 3,tr.197).

16. Năm 1861, ba Đức Cha Vọng (Liêm), Đức Cha Tuấn và Đức Cha Vinh cùng bị trảm quyết một ngày tại Hải Dương. Bản án cấm không một ai được vào thấm máu các ngài. Nhưng khi hành quyết ba đấng xong, các quan đi về hết, dân chúng tự do ùa vào thấm máu của ba Đức Cha và họ được chứng kiến nhiều phép lạ, xảy ra ngay từ lúc hành quyết, như trời tối sập lại, hương thơm tỏa ra từ thân xác của các ngài, những đàn bướm trắng đến đậu trên xác các ngài. Riêng đầu của ba Đức Cha, sau ba ngày bị bêu nắng, đã được giáo dân bày mưu chiếm lại: Giáo dân đãi lính canh ăn một bữa cơm thật thịnh soạn. Trong lúc lính ăn vui vẻ, giáo dân lợi dụng trời đã nhá nhem tối, lấy ba củ chuối thế vào ba cái đầu bọc trong bao bố. Lính không ngờ, họ đem ba củ chuối ném xuống sông. Còn giáo dân, đứng đầu là ông tổng Oánh, lấy áo gói ba cái đầu của ba Đức Cha đem về an táng trong nhà thờ thánh Gioan ở Yên Dật. Các bà dòng xin cái áo quý đó để giữ làm kỷ niệm, nhưng ông tổng Oánh không chịu. Ông đã dùng chiếc áo này cứu được nhiều bệnh nhân nhờ phúc đức của các Đấng tử đạo: Ba đứa con ông lên đậu mùa, ông tổng Oánh lấy chiếc áo phủ lên chúng, cả ba đứa được khỏi bệnh. Ông cũng giữ được một tấm vải thấm máu Đức Cha Vọng: Hễ soi ra ánh sáng, người ta nhìn thấy cây thánh giá. Còn thân xác ba Đức Giám Mục, sau này, người Công Giáo đã chuộc về với giá 100 quan tiền. Đêm cải táng, nhiều luồng sáng tỏa ra từ thân xác các ngài, thật lạ lùng. Hơn thế, dù đã chôn hơn ba tháng rồi, khi đào lên, cả ba thân xác vẫn còn nguyên vẹn, tươi tốt và tỏa hương thơm ngào ngạt (DMAH 3, tr.290).

17. Thời gian 1883-1886, phong trào Văn Thân và Cần Vương nổi lên tàn sát đạo Công Giáo cách dã man nhất trong lịch sử, từ Hà Nội, Hải Dương, Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Huế… đổ vào miền Nam. Nhưng thiệt hại nhất là Bình Định: có 8 thừa sai, 7 linh mục, 270 nữ tu, 24.000 giáo dân bị giết chết. Ngoài ra toà giám mục, 2 chủng viện, 10 tu viện, 17 nhà mồ côi, đều bị tàn phá. Các họ đạo cũng chung số phận, chỉ có hai họ đạo thoát nạn. Chính trong cuộc tàn sát này, Đức Mẹ đã hiện ra cứu chữa dân làng Trà Kiệu (DMAH 3, tr. 336-338)

* * * * *

Đức Giáo Hoàng Gregoriô XVI (1834-1846) được nhiều sử gia như Goyau và Schmidlin tặng khen là ‘vị giáo hoàng truyền giáo của thế kỷ XIX’. Ngay khi vừa lên ngôi, ngài đã quan tâm đến những cuộc bắt đạo đẫm máu tại Việt Nam và Trung Hoa. Riêng với Giáo Hội non trẻ tại Việt Nam, đức Grêgoriô XVI đã phát động một chiến dịch có tầm mức hoàn vũ, xin mọi Kitô hữu cầu nguyện đặc biệt cho giáo dân được kiên trì trong mọi thử thách. Đồng thời, năm 1840, ngài viết thư yên ủi và khích lệ tinh thần can đảm sống đức tin, tuyên chứng đức tin và chết vì đức tin của các linh mục, tu sĩ và giáo dân Việt Nam. Ngài viết “Các con thân yêu, các con là những người đã can đảm không chối đạo, các con đừng bao giờ nản lòng vì những khốn khổ, hãy ngước mắt trông lên trời nơi dành cho những người chiến thắng đạt được triều thiên bất tử. Ngày gian khổ thì vắn vỏi, nhưng theo sau bao nhiêu an ủi và phần thưởng dồi dào và hạnh phúc trường sinh đang chờ đợi chúng con. Các con sẽ không phải chịu bắt bớ hành hạ tàn nhẫn mãi như vậy đâu. Sẽ có ngày, các con được lau sạch nước mắt, được thoát khỏi cơn bão táp khủng khiếp và sẽ được an bình phụng sự Thiên Chúa hằng sống và chân thật”. Lời của Đức Thánh Cha Gregoriô XVI đã tóm tắt những gì chúng ta trình bày trong chương sách này. Ngài cũng mở ra cho chúng ta một viễn tượng tương lai ‘sau cơn giông trời lại sáng’, ‘sau gian lao thử thách sẽ có trời mới đất mới’ hay như lời Chúa chúc phúc: “Phúc cho anh chị em khi bị người ta gièm pha, vu khống, bắt bớ và giết hại vì danh Ta. Anh chị em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh chị em ở trên trời thật lớn lao” (Mt 5,11-12). Nói một cách khác sát với chủ đề của bài viết: tiếp theo những gièm pha, vu khống, hình nhục và chết nhục là những dấu lạ ân thưởng tại thế, báo hiệu ‘phần thưởng bội hậu trên trời’. Cũng có thể nói vắn gọn theo văn hóa Việt Nam: “Thiên Đạo chí công”, Đạo Trời thật công bằng!.

——————

(1) Nguyễn Đồng Chi, ‘Kho tàng truyện Cổ Tích’ 1, tr. 7-13.

(2) Nguyễn Đồng Chi, sd 4, tr. 211-223.

(3) Nguyễn Đồng Chi, sd 5, tr.12-15.

(4) Nguyễn Đồng Chi, sd 5, tr. 148-154

(5) Nguyễn Đồng Chi, sd 5, tr. 105-110.

(6) Phạm Đình Tân, ‘Tâm Hồn Việt Nam’ (1988), bài ‘Nguyễn Du, thi sĩ đau khổ’, tr.54.

(7) Hồng Lam, ‘Lịch sử đạo Thiên Chúa tại Việt Nam’, 1944, Đại Việt xuất bản, Huế, tr.23-24. Đoạn này được Trịnh Việt Yên trưng lại trong cuốn ‘Máu Tử Đạo Trên Đất Việt Nam’. 1949, tr. 19-20. Có hai việc đáng tiếc to lớn và tai hại là ‘tranh dành vấn đề quyền hành và cãi nhau về vấn đề nghi lễ thờ cúng tổ tiên’ xem Phan Phát Huồn, ‘Việt Nam Giáo Sử’ I, tr. 188-200.

(8) Vũ Thành, Dòng Máu Anh Hùng ba cuốn 1, 2, 3. Trong bài này tôi trưng dẫn nhiều và viết tắt là (DMAH, 1, 2, 3, tr….). Chúng tôi trích dẫn hoặc dựa theo bộ sách của cha Vũ Thành, vì đọc các chú giải hay thư mục ở phần cuối của mỗi cuốn, chúng tôi yên tâm về nguồn liệu lịch sử liên hệ đến Giáo Hội Việt Nam mà cha đã nghiên cứu và xử dụng.

(9) Nguyễn Khắc Xuyên, ‘Để Hiểu Lịch Sử Đạo Thiên Chúa ở Việt Nam đầu thế kỷ XVII’ C.A. 1994, tr. 52-54.

(10) Trịnh Việt Yên, sd, tr. 26.

(11) Đỗ Quang Chính sj, ‘Hòa mình vào xã hội Việt Nam’, nxb Tôn Giáo, 2008, tr.222. Cao Kỳ Hương, ‘Đạo Hiếu của người Công Giáo’, Hà Nội, 2010, tr. 42+48-54. Phan Phát Huồn, sd, tr. 196-200.

(12) Trần Trong Kim, ‘Việt Nam Sử Lược’, 2, tr.186. xem Phan Thiết, ‘Đất Việt, Người Việt, Đạo Việt’ 1995, tr.345.

(13) Toan Ánh, ‘Tín Ngưỡng Việt Nam’ quyển hạ, tr. 17-18.

(14) Xem: Vũ Thành, sd 3, tr.330-339, Phan Phát Huồn, sd 2, tr.512-519. Chúng ta có thể đọc lời nhận định của sử gia Trần Trọng Kim: “Nước ta mà không chịu khai hóa ra như các nước khác là cũng bởi bọn sĩ phu cứ giữ thói cũ, không chịu theo thời thế mà thay đổi. Nay sự suy nhược của mình sờ sờ ra đấy, thế mà vẫn cứ không chịu mở mắt ra mà nhìn, lại vì sự tức giận một lúc mà việc nông nổi càn dở, để cho thiệt hại thêm, như thế thì cái tội trạng của bọn sĩ phu đối với nước nhà chẳng to lắm ru?” (sd 2, tr.289).

(15) Phan Phát Huồn, sd 2, tr.513

Thánh Anê Lê Thị Thành

Mẹ gia đình (+1841)

Hỏi đáp Y học: Bệnh tiểu đường

Hỏi đáp Y học: Bệnh tiểu đường

VOA

Bác sĩ Hồ Văn Hiền

14.06.2013


Chuyên gia phụ trách giải đáp thắc mắc y học kỳ này là Bác sĩ Hồ Văn Hiền, chuyên khoa nhi và y khoa tổng quát, có phòng mạch và đang làm việc cho các bệnh viện ở Bắc Virginia.

Thính giả Huỳnh Ngọc Tuấn ở Quảng Nam Email đến câu hỏi về bệnh tiểu đường như sau:

“Thưa Bác sĩ

Tôi tên Huỳnh Ngọc Tuấn, 55 tuổi, hiện ở Tam Kỳ- Quảng Nam, cân nặng 48- 50kg, cao 1m64.

Tôi bị bệnh tiểu đường túyp 2 đã hơn 10 năm.
Hiện nay mỗi ngày tôi uống 2 viên Diamicron 30mg vào buổi sáng.

Tập thể dục buổi chiều 30 phút mỗi ngày, chỉ số đường huyết 150- 170mg/dl, sau ăn 2h, nếu giữ nghiêm ngặt khẩu phần là 1 chén cơm đầy + một khúc cá+ một lát thịt nhỏ và một chén canh rau. Và cứ 3h ăn nhẹ một miếng bánh nếu không sẽ tụt đường huyết.
Có một Bác sĩ khuyên tôi nên uống một viên Diamicron vào buổi sáng, buổi trưa uống một viên Metformin 500mg sau khi ăn.
Xin hỏi Bác sĩ tôi có nên làm theo chỉ dẫn đó không?

Có phương pháp gì tốt hơn mong Bác sĩ và quý Đài chỉ giúp.

Xin đa tạ.”


Chúng tôi đã chuyển thắc mắc cho bác sĩ Hồ văn Hiền, và sau đây là phần giải đáp của bác sĩ Hiền:

Choice of treatment of diabetes type 2 in 55 y.o. patient.

Bệnh nhân 55 tuổi, nam, Body Mass Index (BMI) 17.85 (CN 48kg, cao 164cm), underweight (BMI dưới 18.50), tiểu đường týp 2, uống 60mg gliclazide (Diamicron) buổi sáng, đường máu 150-170mg 2 giờ sau khi ăn, hỏi có nên ướng thêm metformin 500mg sau khi ăn trưa không?

Như mọi khi, tôi xin khẳng định rằng tôi không thể tư vấn về cách chữa bệnh cho riêng một người nào đó. Tôi chỉ xin bàn một số điểm để chúng ta cùng học hỏi, hoàn toàn với mục đích thông tin mà thôi.

1) Về mức đường máu 2 giờ sau khi ăn (2 hour-postprandial glucose level): người ta khuyến cáo nên giữ < 140mg (7.8)cho người <50 tuổi, <150mg (8.3 mmoles) cho người 50-60 tuổi, và < 160mg/dl (8.9 mmoles) cho người trên 60 tuổi.

2) Hemoglobin A1c: để có một ước lượng về mức đường được kiểm soát có tốt không trong một thời gian dài đáng kể, người ta đo mức Hemoglobin A1c của người đó.

Bình thường, một phần nhỏ hemoglobin (huyết sắc tố mang trong hồng cầu) của chúng ta dược gắn kế với đường glucose (4-6%), gọi là glycohemoglobin. Ở người bị tiểu đường tỷ số này cao hơn. Đa số bác sĩ cho rằng cách tốt nhất để đánh giá sự kiểm soát mức đường trong máu người bệnh tiểu đường là bằng cách đo một glycohemoglobin gọi là A1c hemoglobin của người đó. Người ta đo A1c hemoglobin, 3-4 tháng một lần, và mức hemoglobin A 1c không bị ảnh hưởng bởi những yếu tố ngắn hạn, mới xảy ra trước đó như ăn, ít hơn, nhiều hơn, tập thể thao nhiều ít, thay đổi thuốc.

●    Ở ngườibình thường, Hemoglobin A1c< 5.7%,
●    Prediabetes (có cơ nguy sẽ bị tiểu đường) 5.7-6.4.
●    Tiểu đường: Hemoglobin A1c > 6.5%

Hội Tiểu đường Mỹ (ADA)khuyên nên thực hiện mức dưới 7% cho người lớn bệnh tiểu đường. Nếu cao hơn 7%, nên nhờ bác sĩ điều trị điều chỉnh lại cách trị liệu.

3) Thuốc Diamicron MR là một loại nhóm sulfonylurea thế hệ thứ 2, tác dụng kích thích tế bào beta của tuỳ tạng (pancreatic beta cells) tiết ra insulin; không bán bên Mỹ. Thuốc tác dụng chừng 12 giờ, và không dùng cho người yếu gan hoặc yếu thận.

Hiện nay, các bs ở Mỹ được khuyến cáo dùng thuốc metformin là thuốc hàng đầu (first line drug) cho bệnh tiểu đường mới được định bệnh.

Thuốc Metformin mới hơn, tác dụng bằng cách giảm sự sản xuất ra glucose mới từ gan (hepatic gluconeogenesis) và ít gây hạ đường máu hơn (hypoglycemia). Thuốc cải thiện mức đường cao lúc đói cũng như sau khi ăn (fasting and postprandial hypoglycemia),cũng như mức mỡ triglycerides ở người mập, mà không làm lên cân như các loại sulfonylurea.Thuốc không được dùng ở người yếu cơ năng thận hay gan, có thể gây chứng nhiễm axit lactic [lactic acidosis].

Viên metformin: 500mg, 850mg, 1000mg. Bác sĩ tăng liều từ từ để đạt kết quả thích hợp, thường uống 1- 3 lần / ngày (24 h), cùng với thức ăn cho đỡ xót ruột. Liều tối đa là 2550 milligram/ngày; thường thường bs cho dùng dưới 2000mg/ngày.

4) Nên để ý: về hoạt động thân thể (physical activities) cần phải tập đều đặn, chừng 30 phút mỗi ngày. Có thể hoạt động theo sở thích như làm vườn, dọn dẹp nhà cửa, đi bộ nhanh (brisk walking), bơi,đạp xe đạp, học lớp aerobic, nhảy múa, bất cứ việc gì làm ra mồ hôi ít nhiều, làm nhịp tim đập nhanh hơn (theo American Diabetes Association).Nếu chỉ tập cho có, lơ là có thể không hiệu nghiệm mấy.

Hoạt động cơ thể trên 150 phút/ tuần giúp giảm nguy cơ phát bệnh tiểu đường, giúp kiểm soát bệnh lúc đã phát bệnh, hạ huyết áp, và giảm các bệnh tim mạch.

5) Vitamin D có thể đóng vai trò quan trọng trong kiểm soát bệnh tiểu đường.Nếu có phương tiện, người ta đo mức vitamin D trong máu (25 OH D) và cố gắng giữ trên 30 ng/ml. Ở ngoài nắng đủ lâu để da phỏng nhẹ (mild sunburn) cũng giúp cơ thể chúng ta tạo ra chừng 20,000 đơn vị vitamin D. Chúng ta (người lớn, 19-65 t ) cần chừng 600 đơn vị mỗi ngày (thức ăn hoặc uống thuốc bổ), mức an toàn chừng < 4000 units/ ngày (The Endocrine Society, Practice Guideline, 2011).

Tóm lại, metformin có thể là một lựa chọn tốt giúp kiểm soát đường máu cho bệnh nhân tiểu dường typ 2.Trường hợp thính giả cần hỏi trực tiếp bs của mình. bác sĩ có thể nghĩ đến thử hemoglobin A1c, dùng metformin thay thế cho thuốc đang dùng nếu kết quả hiện nay không như ý muốn.Bệnh nhân cần được hướng dẫn để tập thể thao, hoạt động thể chất đều đặn, ở mức nặng nhọc (intensity) đáng kể, thích hợp với mình; ngoài ra bệnh nhân cân nhẹ so với chiều cao, cần để ý đến cách ăn uống, xem mức vitamin D đủ hay chưa, vì các bằng chứng gần đây cho thấy vitamin D có thể đóng vai trò trong bệnh tiểu đướng.

Chúc bệnh nhân may mắn.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền
Ngày 21 tháng 5 năm 2013

Đọc thêm:
1) Diabetes Health Center
http://diabetes.webmd.com/glycohemoglobin-ghb#hw8435
2)Ideas for exercise
http://www.diabetes.org/food-and-fitness/fitness/ideas-for-exercise/
3) Julie Chen: Is Vitamin D good for diabetics?
http://www.huffingtonpost.com/julie-chen-md/vitamin-d-diabetes-_b_2220128.html
4) The Endocrine Society, Clinical Practice Guideline
http://www.medscape.org/viewarticle/802995?src=wnl_cme_cmewm_obgy


NIỀM TIN CỦA HAI CHA CON

NIỀM TIN CỦA HAI CHA CON

Hãy giữ những người mà bạn thật sự yêu thương trong vòng tay của mình, thì thầm vào tai họ, nói với họ rằng: “bạn yêu thương họ nhiều như thế nào…!”

Đây là một câu chuyện cảm động về tình cha con trong cuộc động đất lịch sử tại Armenia năm 1989.

Vào năm 1989 tại Armenia có một trận động đất lớn 8,2 độ Richter đã san bằng toàn bộ đất nước và giết hại hơn ba mươi ngàn người trong vòng chưa đầy bốn phút.  Giữa khung cảnh hỗn loạn đó, một người cha chạy vội đến trường học mà con ông đang theo học.

Tòa nhà trước kia là trường học nay chỉ còn là đống gạch vụn đổ nát. Sau cơn sốc, ông nhớ lại lời hứa với con mình rằng: “Cho dù chuyện gì xảy ra đi nữa, cha sẽ luôn ở bên con!”  Và nước mắt ông lại trào ra.  Bây giờ khi nhìn vào đống đổ nát mà trước kia là trường học thì không còn hy vọng.

Nhưng trong đầu ông luôn nhớ lại lời hứa của mình với cậu con trai.  Sau đó ông cố nhớ lại cửa hành lang mà ông vẫn đưa đứa con đi học qua mỗi ngày.  Ông nhớ lại rằng phòng học của con trai mình ở phía đằng sau bên tay phải của trường.  Ông vội chạy đến đó và bắt đầu đào bới giữa đống gạch vỡ.

Những người cha, người mẹ khác cũng chạy đến đó và từ khắp nơi vang lên những tiếng kêu than “Ôi, con trai tôi!”, “Ôi, con gái tôi!”.  Một số người khác với lòng tốt cố kéo ông ra khỏi đống đổ nát và nói đi nói lại: “Đã muộn quá rồi!”, “Bọn nhỏ đã chết rồi!”

“Ông không còn giúp được gì cho chúng nữa đâu!” “Ông hãy về đi!”

“Ông đi đi, không còn làm được gì nữa đâu!” – “Ông chỉ làm cho mọi việc khó khăn thêm thôi!”

Với mỗi người, ông chỉ đặt một câu hỏi: “Anh có giúp tôi không?”

Và sau đó với từng miếng gạch, ông lại tiếp tục đào bới tìm đứa con mình.  Đến đó có cả chỉ huy cứu hỏa và ông này cũng cố sức khuyên ông ra khỏi đống đổ nát: “Xung quanh đây đều đang cháy và các toà nhà đang sụp đổ.  Ông đang ở trong vòng nguy hiểm.  Chúng tôi sẽ lo cho mọi việc.  Ông hãy về nhà đi!”

Người đàn ông chỉ hỏi lại: “Anh có giúp tôi không?”

Sau đó là những người cảnh sát và họ cũng cố gắng thuyết phục ông ta “Ông đang xúc động, mọi việc đã xong hết rồi.

Ông đang gây nguy hiểm cho cả những người còn lại, Ông về đi, chúng tôi sẽ lo cho mọi việc!”

Và với cả họ ông cũng chỉ hỏi: “Các anh có giúp tôi không?”

Nhưng không ai giúp ông cả. Ông tiếp tục chịu đựng một mình, vì ông phải tự mình tìm ra câu trả lời cho điều day dứt ông: Con trai tôi còn sống hay đã chết?

Ông đào tiếp… 12 giờ… 24 giờ… ,

sau đó ông lật ngửa một mảng tường lớn và chợt nghe tiếng con trai ông.  Ông kêu lớn tên con: “Armand!” Ông nghe: “Cha ơi, con đây, cha!  Con nói với các bạn đừng sợ vì nếu cha còn sống cha sẽ cứu con và khi cha cứu con thì các bạn cũng sẽ được cứu…”

“…Cha đã hứa với con là dù trường hợp nào cha cũng ở bên con, cha còn nhớ không?  Và cha đã làm được, cha ơi”

“Có chuyện gì xảy ra vậy?  Ở đó ra sao rồi con?”  Người cha hỏi.

“Tụi con còn lại 14 trên tổng số 33, cha ạ, tụi con sợ lắm, đói, khát…”

“… Nhưng bây giờ tụi con đã có cha ở đây.

Khi tòa nhà đổ, ở đây tạo ra một khoảng không nhỏ và thế là tụi con còn sống.”

“Ra đây đi con!”

“Khoan đã cha!

Để các bạn ra trước, con biết rằng cha không bỏ con.  Có chuyện gì xảy ra con biết là cha chắc chắn sẽ không bỏ rơi con!”

*****************************************
Khi đối diện với một thảm kịch tang thương hay một tai họa hiểm nghèo,… thường con người hướng lời van xin về một Đấng Tối Cao?

Con người sẽ cầu nguyện với Đấng Tối Cao khi bị vây hãm với thần chết, với bệnh hiểm nghèo, với những huyền bí ngoài sự hiểu biết của con người?

Cái trực giác sâu kín này đã đến từ đâu, mà mỗi con người chúng ta đều tìm đến trong những giờ phút hiểm nguy của cuộc đời?

 

Sưu tầm

From: langthangchieutim

Anh chị Thụ & Mai gởi

Làng Fatima, Bồ Ðào Nha

Làng Fatima, Bồ Ðào Nha

Trần Nguyên Thắng/ATNT Tours & Travel

Nếu bạn đang đâu đó trong đất nước Portugal vào ngày 13 tháng 5, thì có lẽ bạn sẽ thuê xe đi Fatima ngay chỉ vì một lý do duy nhất: một Thánh lễ quốc tế được tổ chức ở đây mỗi năm một lần để kỷ niệm ngày Ðức Mẹ Maria đã hiện ra nói chuyện với 3 đứa trẻ chăn cừu vào năm 1917.

Rất nhiều tín đồ Thiên Chúa Giáo và du khách từ khắp mọi nơi đổ dồn về thánh địa Fatima vào ngày này. Hình như tôi có được duyên lành với địa danh linh hiển Fatima nên tôi có mặt ở đây đúng vào ngày Thánh lễ mà không hề có sự sắp xếp trước.

Nhà nguyện Ðức Mẹ Hiển Linh, Vương Cung Thánh Ðường và quảng trường Fatima vào ngày 13 tháng 5. (Hình: ATNT Tours & Travel)


Fatima chỉ cách Lisbon khoảng 120km về hướng Bắc và bây giờ không còn là một ngôi làng nhỏ vùng quê nữa.

Những ngôi nhà gạch, những building đã thay thế những ngôi nhà xiêu vẹo năm xưa. Ðức Mẹ hiển linh cũng đã gần 100 năm rồi! Câu chuyện kể vào ngày 13 tháng 5 năm 1917, 3 đứa trẻ chăn cừu Lucia, Francisco, và Jacinta đã có cơ duyên được gặp Ðức Mẹ. Bà hiện ra bên trên cây sồi (holmoak) và được Lucia mô tả là hình ảnh “Bà mặc áo trắng, tay cầm chuỗi hạt. Hình ảnh Bà sáng chói hơn cả mặt trời.”
Cả 3 đứa trẻ không phải chỉ gặp Ðức Mẹ 1 lần mà chúng đã gặp Bà đến 6 lần. Năm lần gặp đều đúng vào ngày 13 của các tháng 6, 7, 9, 10. Một lần thì chúng gặp gỡ Bà vào ngày 19 tháng 8. Nội dung chính vào các lần gặp gỡ, Ðức Mẹ đã gửi thông điệp và những tiên tri đến con người qua 3 đứa trẻ. Những điều tiên tri đó đúng như thế nào thì cũng tùy theo suy tư và đức tin của từng người. Nhưng riêng tôi thầm nghĩ một điều là 3 đứa trẻ, đứa lớn nhất là Lucia cũng chỉ mới 10 tuổi, Francisco 9 tuổi và đứa nhỏ nhất Jacinta mới 7 tuổi. Chúng đều ở một cái tuổi (vào thời đó) con nít chưa biết nói dối. Việt Nam mình có câu “đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ” nên tôi tin là chúng “nói thật,” có nghĩa là tôi tin vào những thông điệp và những tiên tri của “Bà áo trắng hiện trên cây sồi” đã nói với các đứa trẻ chăn cừu đó.

Tượng Thánh Giá trên quảng trường Fatima và rất đông người tham dự buổi Thánh lễ. (Hình: ATNT Tours & Travel)


Nhưng hai đứa trẻ Francisco và Jacinta chết sớm 2 năm sau đó vì bệnh. Riêng cô bé Lucia thì sau này trở thành nữ tu của Religious Sister of Saint Dorothy. Bà mất năm 2005 thọ 97 tuổi. Theo những thông tin của Fatima thì sau này Lucia vẫn còn gặp Ðức Mẹ thêm 3 lần nữa, một vào tháng 10, 1925, một vào 15 tháng 2, 1926 và lần cuối vào đêm 13 rạng sáng 14 tháng 6, 1929.
Những gì “Bà áo trắng, sáng hơn cả mặt trời” đã nói với các đứa trẻ chăn cừu trở thành 3 điều tiên tri bí mật Fatima. Hai điều bí mật đầu đã được Lucia nói ra sớm, nhưng điều thứ 3 thì mãi đến năm 1944 Luciua mới tiết lộ cho Tòa Thánh Vatican. Ðiều bí mật thứ nhất nói về sự chấm dứt Thế Chiến Thứ I và sự khởi đầu của Thế Chiến Thứ II. Ðiều bí mật thứ hai nói về sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới. Ðiều “bí mật thứ ba Fatima” thì lại bị Tòa Thánh Vatican giữ kín cho đến ngày 13 tháng 5, 2000 mới được Ðức Giáo Hoàng John Paul II công bố. Ðó là lời tiên tri về sự việc Ðức Thánh Cha bị ám sát và sự ăn năn thống hối trở về lại niềm tin Thiên Chúa của nước Nga. Câu chuyện về các điều bí mật Fatima cũng đã ít nhiều được nhân loại biết đến, mức độ tin như thế nào thì cũng tùy theo đức tin của mỗi người.

Tượng Ðức Mẹ được đặt ngay chỗ cây sồi, nơi Ðức Mẹ đã hiện
ra gặp 3 trẻ chăn cừu. (Hình: ATNT Tours & Travel)

Mỗi năm vào trước ngày 13 tháng 5 các tín đồ Thiên Chúa Giáo từ khắp nơi đổ về
ngôi làng Fatima nhỏ bé để tham dự buổi Thánh lễ ngày Ðức Mẹ hiển linh. Nhiều
đoàn người đã cắm lều chung quanh quảng trường Fatima vì vào tuần lễ này không
dễ dàng tìm được hotel tại Fatima. Cả thành phố nhỏ bé Fatima chỉ có vào khoảng
10,000 phòng trong khi số lượng người đến đây có khi đến hàng trăm ngàn mỗi khi
có dịp cử hành các buổi Thánh lễ.

Tôi đến Fatima hơi trễ, hơn 10 giờ sáng, nên cứ tưởng Fatima ít người. Khi bước
chân vào đến quảng trường thì mới kinh ngạc. Số lượng người đông vô số kể,
không làm sao có thể vượt lên đến khu vực Nhà-Nguyện-Ðức-Mẹ-Hiển-Linh. Thánh lễ
đã bắt đầu trước đó ít lâu, những lời cầu nguyện của vị giám mục dâng lễ vang
lên trong những speaker treo quanh quảng trường.

Số lượng khoảng 200,000 người đến từ khắp nơi trên thế giới, tụ hội về đây tham
dự Thánh lễ. Ðiểm đặc biệt là mọi người đã tụ hội với một thái độ thân thiện
cởi mở cho dù không cùng màu da, không phân biệt dân tộc, không phân biệt tuổi
tác. Một điều thực tế không hề đơn giản chút nào khiến tôi suy nghĩ về hai chữ
đức tin. Có lẽ đức tin đã mở được cửa trái tim yêu thương của con người nên
người ta nhân nhượng nhau, tặng nhau nụ cười nhiều hơn khuôn mặt cau có. Có thể
sau khi ra khỏi quảng trường Fatima, khi không còn nhìn thấy nhà nguyện Ðức Mẹ
Hiển Linh nữa thì người ta lại trở lại với cái “thật” con người, bao nhiêu nụ
cười mất đi cả, bao nhiêu nhân nhượng thân thiện yêu thương trả lại cõi trên.
Không biết có phải khi đức tin đi vắng, con người chỉ còn gìn giữ được sự giận
dữ, đố kỵ, bon chen, dối trá và ích kỷ.

Người thiếu phụ Phi Châu đi bằng hai đầu gối cùng đàn con
dâng hoa Ðức Mẹ. (Hình: ATNT Tours & Travel)

Cả quảng trường hát vang những lời thánh ca, tôi không hiểu được một chữ (ngoài
chữ Amen) vì các vị giám mục làm lễ bằng tiếng Portugese, đôi khi có cả tiếng
Anh. Khắp quảng trường, đâu đâu cũng thấy người đứng kín khắp nơi, hướng về
ngôi nhà nguyện Ðức Mẹ Hiển Linh đọc kinh cầu nguyện và hát thánh ca. Người
hướng dẫn địa phương cho biết năm 2000 khi Ðức Giáo Hoàng John Paul II đến
Fatima thì con số người tham dự lên đến nửa triệu người, một con số không thể
hình dung được ở không gian quảng trường Fatima. Bên ngoài quảng trường những
ai không có chỗ đứng, đành phải đi dạo quanh hoặc ngồi đợi hết Thánh lễ rồi mới
đi vào khu nhà nguyện, hướng về tượng Ðức Mẹ tìm một chỗ đứng đọc kinh. Buổi
Thánh lễ khá dài, suốt từ 10 giờ sáng mãi đến gần 1 giờ trưa thì các tín đồ mới
hát chào và vẫy khăn chia tay với Ðức Mẹ.

Tháng 5, Fatima tuy có mát vào buổi chiều tối nhưng lại khá nóng vào buổi trưa,
sức nóng lên đến hơn 90 độ F, có những cụ già đã không chịu nổi cái không khí
nóng bức lẫn sự đông người nên ngất xỉu và đành phải bỏ ngang Thánh lễ. Nhưng
hình ảnh làm tôi cảm động nhất là những hình ảnh như bà mẹ da đen Phi Châu, tay
cầm bó hoa tay dắt ba đứa con thơ, có đứa còn ngồi trên xe đẩy. Bà quì và đi
bằng hai đầu gối để đến bên Ðức Mẹ dâng hoa cầu nguyện. Có bà mẹ Châu Mỹ bế con
thơ trên tay, vừa quì vừa đi bằng hai đầu gối vừa đọc kinh cầu nguyện. Bà mẹ
này hãy còn trẻ lắm, nhưng sao lại có được một đức tin như vậy! Có người phụ nữ
lớn tuổi đến từ Brazil, hai đầu gối bà quá mỏi cộng với sức nóng giữa trưa, gần
như không còn bò nổi trên đường đến bên nhà nguyện Ðức Mẹ Hiển Linh, nhưng bà
đã quyết không bỏ cuộc. Tôi nhìn theo từng bước cố gắng của bà. Bà vừa quì, vừa
bò lê vừa làm dấu Thánh giá mỗi khi quá mệt và cuối cùng bà cũng đến nơi, mắt
hướng về tượng Ðức Mẹ với nụ cười rạng rỡ.

Dù xác thân mệt mỏi, nhưng với đức tin mãnh liệt, nhiều
tín đồ vẫn không bỏ cuộc. (Hình: ATNT Tours & Travel)

Ngoài những hình ảnh cảm động như trên, còn có hình ảnh làm tôi kinh ngạc khi
bắt gặp người phụ nữ ngồi lật từng trang kinh ngồi đọc giữa quảng trường hực
nóng. Và dĩ nhiên còn nhiều hình ảnh khác cũng tô đậm vào tâm hồn tôi trong
buổi thánh lễ Fatima 13 tháng 5. Làm sao tôi có thể diễn tả hết được sự cảm
động trong tâm tư của mình trước những hình ảnh như thế!

Ba trăm ngàn người tham dự một buổi meeting không phải là một số lượng nhỏ.
Nhưng làm sao để số lượng người lớn như vậy có một không gian thân thiện cởi mở,
nụ cười nhiều hơn tiếng la hét thì không phải là dễ. Những ngày tháng qua ở các
đất nước vùng Trung Ðông cũng có hàng chục ngàn người tụ họp để đòi hỏi một nhu
cầu nào đó trong đời sống, nhưng người ta đã được những gì sau đó. Những hận
thù tiếp nối, những điều đau thương liên tục xảy ra. Những cuộc tụ họp đó không
dựa vào đức tin, không dựa vào tình yêu thương nên người ta không nhân nhượng
nhau, người ta chỉ có bạo lực hận thù để đạt đến những điều nhất thời, để thỏa
mãn một yêu sách nào đó, nên người ta vẫn chạy trong vòng đau khổ. Phải chăng
Thượng Ðế đã ngủ quên trong đức tin của họ!

Từ thế kỷ 20 chủ nghĩa cộng sản đã có cả một khoảng thời gian dài tưởng rằng có
khả năng ngự trị trên trái đất này, tưởng rằng có thể dùng bạo lực tiêu diệt
giai cấp để đem lại cơm no áo ấm cho nhân loại. Nhưng chỉ hơn 80 năm thì con
người muốn quên hẳn đi chủ nghĩa cộng sản, quay mặt với quá khứ cộng sản và rất
ghê sợ nó. Chưa có một đất nước nào theo chủ nghĩa cộng sản mà đời sống tinh
thần người dân đất nước đó được bình yên thăng tiến thì còn nói gì đến chuyện
đủ ăn đủ mặc. Di sản của chủ nghĩa cộng sản để lại cho xã hội của họ là những
gian dối, lừa lọc, tham ô, ích kỷ từ cá nhân đến gia đình và xã hội. Cần bao
nhiêu năm nữa thì những di sản này mới tẩy sạch được trong các xã hội cộng sản
cũ. Hãy thử tìm xem có một đất nước nào theo chủ nghĩa cộng sản mà có một hàng
ngũ lãnh đạo liêm chính và một sự công bằng tối thiểu cho người dân!

Ngồi đọc kinh giữa trời nắng gắt tại quảng trường Fatima.
(Hình: ATNT Tours & Travel)

Chính nước Nga cũng đã quay lưng với chủ nghĩa cộng sản trở về với nguồn cội Chính
Thống Giáo của mình, trở về với niềm tin vào Thiên Chúa và Ðức Mẹ. Ngôi nhà thờ
Chúa Cứu Thế vĩ đại đã được xây lại ngay tại trung tâm Moscow. Ngôi nhà thờ
Chúa Cứu-Rỗi-Trên-Máu, Ðại giáo đường Ðức Mẹ Kazan và đại thánh đường St. Issac
tại St. Petersburg và biết bao nhiêu ngôi nhà thờ bé nhỏ khác cũng đã được
trùng tu xây dựng lại to lớn hơn, nguy nga tráng lệ hơn ngày xưa để trả về lại
cho tâm linh người dân Nga một sức sống niềm tin mãnh liệt hơn bao giờ hết. Bí
mật thứ ba của Fatima là nước Nga ăn năn trở lại không còn là bí mật nữa, chúng
ta đã và đang chứng kiến ngay từ đầu thế kỷ 21. Một mảnh tường đổ vỡ Berlin
được đem về dựng trong quảng trường Fatima như là một kỷ niệm nói về sự chia
tay của con người đối với chủ nghĩa cộng sản.

Fatima mang những thông điệp từ một tôn giáo tạo thành một niềm tin, một đức
tin cho con người sống trong tình thương yêu đùm bọc, thân thiện và nhân nhượng
lẫn nhau. Có những đức tin mình chỉ học được khi nhìn thấy những người khác
biểu lộ đức tin đó. Tôi không phải là tín đồ Thiên Chúa Giáo nhưng tôi cũng
chưa bao giờ lại cảm thấy rõ ràng Ðức Mẹ lại đến gần tâm tư tôi như thế. Không
phải số lượng người tham dự Thánh lễ 13 tháng 5 đã thu hút tôi mà chính những
người cho tôi nhìn thông suốt được đức tin nơi họ, bất chấp mọi sự cực khổ để
đến gần Ðức Mẹ. Ðiều đó mới chính là cục nam châm thu hút tâm hồn tôi trong
ngày Thánh lễ. Ðức tin luôn ở trong tâm hồn con người.

Anh Nguyễn v Thập gởi

Hàng loạt người ‘bỗng dưng lăn ra chết’ sau khi nhậu

Hàng loạt người ‘bỗng dưng lăn ra chết’ sau khi nhậu

nguồn:vietnam.net

http://vietnamnet.vn/vn/xa-hoi/127446/hang-loat-nguoi–bong-dung-lan-ra-chet–sau-khi-nhau.html

Hàng loạt đàn ông là trụ cột trong các gia đình ở thôn Liên Sơn 2 (xã Phước Vinh, Ninh Phước, Ninh Thuận) lăn ra chết đột ngột sau khi uống phải thứ rượu không rõ nguồn gốc bán trên địa bàn xã.

Trong những ngày đầu tháng 5 vừa qua, hàng loạt đàn ông là trụ cột trong các gia đình ở thôn Liên Sơn 2 (xã Phước Vinh, Ninh Phước, Ninh Thuận) lăn ra chết đột ngột sau khi uống phải thứ rượu không rõ nguồn gốc bán trên địa bàn xã.

Sự việc xảy ra đến nay đã hơn 2 tuần nhưng vẫn khiến cho hàng ngàn người dân sống trong cảnh hoang mang, lo sợ.

Vợ mất chồng, con mồ côi cha vì rượu

Người chết,  uống rượu, 1700 lần

Di ảnh của Mang Cạch

Trở lại thôn Liên Sơn vào một chiều tháng 5/2013, từ đầu đến cuối thôn bao trùm cờ trắng lẫn trong tiếng khóc than ai oán bởi chỉ trong vòng mấy ngày đã có tới 9 người chết do ngộ độc rượu.

Nạn nhân được xác định là Mang Cạch (51 tuổi), Mang Phớ (53 tuổi), Mang Hơn (54 tuổi), Mang Hoa (46 tuổi), Mang Xoai (57 tuổi), Mang Hiệu Bơi (61 tuổi), Bay Ngọc Dũng (37 tuổi), Katơ Dáng (25 tuổi), Mang Xanh Bái (47 tuổi) và hai nạn nhân đang được cấp cứu gồm: Nguyễn Văn Ngà (SN 1966), Trần Ngọc Đen (SN 1988).

Anh Nguyễn Văn Ngà, người vừa qua cơn nguy kịch trong Bệnh viện Ninh Thuận run rẩy cho biết: “Tôi và mấy người bạn khi có tiệc vui hay liên hoan thường mua rượu ở quán Năm Mùa (ngay cuối thôn Liên Sơn 2). Hôm 2/5, tôi cùng Mang Cạch, Mang Dương sang mua mấy lít rượu, khi uống được mấy ly thì thấy nôn nao, ói mửa nên về trước.

Về đến nhà, tôi bỗng dưng sùi bọt mép và co giật từng cơn, may nhờ gia đình đưa vào viện cấp cứu kịp thời nên mới thoát chết”. Khi anh Ngà nhập viện xong thì cũng chính là lúc Mang Cạch, Mang Dương chết.

Thoát chết cùng ngày với anh Ngà còn có Trần Ngọc Đen, chỉ vào bụng mình, Đen bảo: “Các bác sĩ rửa ruột rồi mà tôi vẫn còn cồn cào lắm. Hôm đó, tôi mua rượu ở quán tạp hóa bà Hường cùng thôn về nhậu tại nhà, mới chỉ uống đến ly thứ 6, thứ 7 thì xây xẩm mặt mày, ói mửa, chân tay co giật”.

Người chết,  uống rượu, 1700 lần

Đám tang Mang Xanh Bái

Trước sự việc trên, bà Thu Hường, chủ quán tạp hóa cho hay: “Chúng tôi chỉ biết nhập rượu từ nơi khác về chứ không tự nấu nên không biết trong rượu đó chứa những gì. Khi biết những người dân bị ngộc đốc chết, tôi rất bất ngờ và sợ hãi!”.

Tại nhà Mang Cạch, người thứ 9 bị chết trong đầu tháng 5 vừa qua, không khí tang tóc bao trùm từ ngoài ngõ.

Ông Nguyễn Văn Đường, người dân đến phúng viếng chia buồn: “Chỉ trong có mấy ngày mà hàng chục bà vợ ở xóm này phải sống góa bụa, nhiều đứa trẻ phải mồ côi cha, đau đớn quá!”.

Ngay sát vách nhà Mang Cạch là nhà Mang Hơn, chôn cất chồng xong đã 2 hôm nay nhưng bà Mang Hút vẫn nằm bẹp trên giường vì buồn bã.

Bà nói trong nghẹn ngào: “Hôm đó là ngày nghỉ lễ nên ông ấy mới cùng hàng xóm mua ít rượu về uống cho vui, ngờ đâu uống xong thì hộc máu ra chết. Mới ngoài 50 tuổi, giờ bỏ lại đàn con nheo nhóc, tôi thì bị bệnh phổi chẳng biết những ngày tới sẽ sống ra sao!”.

Rượu độc bày bán tràn lan

Trao đổi với PV về sự việc trên, ông Nguyễn Mông, Chủ tịch UBND xã Phước Vinh cho biết: “Từ trước đến nay trên địa bàn xã chưa từng xảy ra cùng một lúc 9 đám tang thế này nên ngay khi nhận được tin báo, chúng tôi đã đề nghị Trạm y tế xã kiểm tra, xác minh làm rõ”.

Người chết,  uống rượu, 1700 lần

Trần Ngọc Đen đang điều trị ở Bệnh viện Ninh Thuận

Sáng ngày 6.5 vừa qua, Sở Y tế Ninh Thuận cho biết thứ rượu mà những người dân ở thôn Liên Sơn 2 uống và bị ngộ độc chết đã được Viện Pasteur Nha Trang xét nghiệm và kết quả là cả 4 mẫu rượu đều chứa hàm lượng methanol – là loại cồn công nghiệp tuyệt đối không được uống – cao gấp 1.500-1.700 lần so với mức cho phép.

Cũng theo Sở Y tế Ninh Thuận, loại rượu nồng độ methanol cao thế này, khi uống vào sẽ bị phá hủy khả năng kiểm soát của hệ thần kinh, gan và não bộ.

Theo ông Lê Minh Định – Giám đốc Sở Y tế Ninh Thuận, hiện kết quả xét nghiệm các mẫu rượu đã được chuyển cho cơ quan công an tiến hành truy tìm nguồn gốc cũng như xác định ai là người đứng ra pha chế cồn công nghiệp vào rượu gây chết người hàng loạt ở Phước Vinh.

Theo Chi cục An toàn vệ sinh thực phẩm Ninh Thuận, methanol có thể gây ra tử vong khi nồng độ cồn trong máu đạt tới 0,5%; nồng độ 0,3 – 0,4% gây ra tình trạng hôn mê.

Tài liệu y khoa cũng chỉ ra mối liên quan tỷ lệ thuận giữa methanol và sự phát triển của vi khuẩn acinetobacter baumannii gây viêm phổi, viêm màng não và viêm nhiễm hệ bài tiết. Vì vậy khi pha methanol vào rượu thì người uống vào sẽ rất nguy hiểm.

Theo ghi nhận của chúng tôi, mặc dù đã có 9 người chết, nhiều người đang được cấp cứu trong Bệnh viện Đa khoa Ninh Thuận nhưng quan sát trên nhiều trục đường chính ở khu vực Phước Thiện, Bảo An (nơi nhập rượu không rõ nguồn gốc cho xã Phước Vinh) vẫn nườm nượp người đi chở những can rượu dạng 45 lít nhập vào các đại lý.

Một chủ đại lý thú nhận: “Dân ở đây ưa rẻ nên chấp nhận uống rượu trôi nổi không rõ nguồn gốc trên thị trường. Rượu này nấu bằng gạo hay cái gì thì cũng không biết được, chúng tôi chỉ nhập về và bán vào Phước Vinh thôi”.

Người chết,  uống rượu, 1700 lần

Một góc Liên Sơn 2 với trẻ con nheo nhóc

Theo bà Hường và chủ quán Năm Mùa cho biết đầu mối nhập rượu cho họ là ông Nguyễn Đình Toàn (xã Phước Sơn).

Hiện tại, Công an xã Phước Vinh đã thu giữ toàn bộ số rượu còn lại của ông Toàn. Bước đầu ông Toàn khai với cơ quan chức năng rượu của ông hoàn toàn được nấu từ gạo nguyên chất.

Tuy nhiên, theo nhiều người dân địa phương cũng như hàng xóm nhà ông Toàn cho biết rất ít khi thấy ông nấu rượu. Có thể ông đã dùng loại men đặc biệt của Trung Quốc hay pha thêm methanol.

Ông Nguyễn Huy Hùng, một người từng có nhiều năm làm trong ngành chế biến thực phẩm và pha chế cồn ở thị trấn Phước Dân, Ninh Phước, cho biết thêm: “Nếu một lít rượu bình thường bỏ thêm 300ml methanol và pha thêm 4 lít nước lã nữa thì sẽ có ngay 5 lít rượu, có đầy đủ mùi vị mà người bình thường khó phát hiện được!”.

Sau khi vụ việc đau lòng xảy ra, ngày 3.5, ông Võ Đại, Phó chủ tịch UBND tỉnh Ninh Thuận, đã trực tiếp đến thôn Liên Sơn 2 chỉ đạo các ngành chức năng cần sớm tìm ra nguồn gốc loại rượu mà các nạn nhân đã uống. Đến thăm hỏi, chia buồn với thân nhân những người chết, ông Đại đã dùng tiền cá nhân hỗ trợ 1 triệu đồng/gia đình.

Cùng với đó, ông Đại cũng cho biết đã chỉ đạo Sở LĐ-TB&XH tỉnh Ninh Thuận khẩn trương xem xét hỗ trợ các gia đình này theo quy định.

Cùng với đó, UBND huyện Ninh Phước cũng hỗ trợ chi phí mai táng cho 9 người chết với số tiền 1 triệu đồng/trường hợp và gấp rút đưa ra các phương án tuyên truyền tác hại của các loại thực phẩm không rõ nguồn gốc cho người dân trên địa bàn huyện.

(Theo Dòng Đời)

Cô bé 10 năm làm bạn với rừng hoang dã châu Phi

Cô bé 10 năm làm bạn với rừng hoang dã châu Phi

Tippi sinh ra ở Namibia nhưng được theo chân cha mẹ là cặp đôi nhiếp ảnh gia động vật bôn ba khắp nơi ở châu Phi. Cô bé có một cậu anh trai voi và người bạn thân là một con báo gấm.

Những hình ảnh ghi chép về cô bé Tippi Benjamine Okanti Degre trải qua 10 năm đầu đời trong bụi rậm châu Phi, sống hòa nhập với các động vật hoang dã như người thân trong gia đình. Hiện nay, Tippi đã 23 tuổi và cuốn sách “Tippi: My book of Africa” hiện đang rất nóng trên kệ sách khắp thế giới.

 

Cha mẹ Tippi đã dành tuổi thơ của con gái trong rừng châu Phi suốt 10 năm đầu đời

Cha mẹ cô là người Pháp và vốn yêu thích công việc nhiếp ảnh cuộc sống hoang dã nên họ đã bắt đầu hành trình đặc biệt của mình ở nhiều nơi trên đất châu Phi. Hàng ngày, Tippi phải đảm bảo không cho lũ khỉ ăn cắp chai lọ, đồ đạc của mình. Và vô tình cô đã yêu thích chính những loài động vật ở đây. Giống như một sân chơi vĩ đại, họ sống trong một túp lều, hoàn toàn tự nhiên, và cô bé Tippi thật may mắn khi được thức dậy dưới ánh nắng mặt trời chói chang và trong vòng tay cha mẹ mình.

Tippi trò chuyện với động vật bằng giọng nói thân thiện và ánh mắt trìu mến đến từ trái tim ngây thơ của mình, Thậm chí cô còn không để ý tới sự khác biệt vê kích thước với chú voi mà cô nhận là anh trai. Có một mối liên kết vô hình ràng buộc giữa con người nhỏ bé với những sinh vật nơi hoang dã châu Phi. Cô bé chưa từng sợ hãi khi sống như vậy.

Tippi hạnh phúc lăn ra ngủ với cậu bạn thân

Đôi khi chuyện không may vẫn thường xảy ra mặc dù không quá nghiêm trọng. Bố mẹ Tippi từng sợ hãi khi thấy một chú sư tử nhỏ mút ngón tay của con gái trong sự thích thú. Một thời gian sau khi tấm hình đó được chụp lại, bé sư tử đã lớn đùng và nhận ra người bạn thuở xưa. Chú sư tử Mufasa nhảy xổ tới thân thiện gạt đuôi mạnh vào Tippi khiến cô ngã nhào xuống đất. Kể từ đó, bố mẹ không để đôi bạn lại gần nhau vì họ sẽ không biết con sư tử sẽ làm gì cô bé nữa.

Chú khỉ đầu chó Cindy rất hay ghen tị với bạn mình

Sự cố thứ 2 là khi Tippi gặp chú khỉ đầu chó Cindy ở một vũng nước, nó đã ghen tị với cô mà nhảy vào giật tóc cô bé kéo mạnh. Tippi khá đau đớn nhưng động vật hoang dã thì không thể đoán trước được hành vi của chúng.

Bé Tippi giờ đã 23 tuổi và đang theo học ở Pháp

Trở lại quê hương Pháp sau 10 năm sống với thế giới hoang dã, Tippi gặp nhiều khó khăn trong việc hòa nhập cuộc sống hiện đại, Cô rất nhớ lũ bạn động vật thuở thơ ấu. Và cuốn sách mà cô kể lại là những kỷ niệm không bao giờ quên của một đứa trẻ hồn nhiên được lớn lên cùng voi, báo và khỉ đầu chó là bạn thân.

Cô bé sống hòa nhập trong xã hội người thổ dân ở Namibia

Tippi tham gia một chuyến thu lượm hoa quả cùng phụ nữ và trẻ em thổ dân

Người anh trai đồ sộ của Tippi rất thân thiện

Những đứa trẻ thổ dân rất yêu Tippi. Chúng vô cùng thích thú với làn da và mái tóc của cô bé

Giải khát bằng rễ cây trong đầm lầy Okavango cùng người thổ dân San Brushmen ở bắc Namibia

Anh chàng thổ dân Tkui vẽ mắt của Tippi bằng nhựa lấy từ quả mọng trong rừng

Anh còn hướng dẫn co bé cách sử dụng cung tên săn bắn

Đôi khi, trăn đá cũng kết bạn với Tippi



Dạo chơi trên lưng đà điểu thuần hóa đón nắng mới là thú vui hàng ngày của Tippi

Chú mèo rừng trông khá hiền lành và tình nguyện làm gối ngủ cho cô bé

Anh Nguyễn V Thập gởi

Ngày của cha: Bàn tay cha

Ngày của cha: Bàn tay cha

Đăng bởi lúc 9:04 Sáng 16/06/13

VRNs (16.06.2013) – Sài Gòn – Cuối đông khí lạnh viếng thăm miền Đông Nam Bộ mang theo những cơn gió đông khô hanh khiến những chiếc lá vàng còn vương lại trên những cánh rừng cao su bạt ngàn cứ vơi dần sau mỗi buổi hoàng hôn lịm tắt. Cái nắng cái gió Miền Nam không đủ sức thui chột những chồi non đang đâm chồi nảy lộc, cũng không đủ lực thiêu rụi những bông hoa dại mong manh nở sớm, nhưng cũng đủ làm cha tôi phải khốn đốn, khó ăn mất ngủ do bệnh nứt tay nẻ chân hành hạ. Cứ mỗi độ cuối năm, bàn tay cha tôi trở nên nhăn nhúm, khô cứng, queo quắt dần rồi xuất hiện triệu chứng nứt nẻ, giống như có ai đó nỡ nhẫn tâm dùng dao lam cứa ngang xẻ dọc hành hạ kẻ thù cho hả giận. Bàn tay cha vốn đã nham nhám, thô kệch xấu xí, thời tiết lại đổi thay, khiến mười ngón tay nứt nẻ ví tựa như ruộng lúa khô nứt khi gặp phải hạn hán lâu ngày.

Tôi tu học xa nhà, cuối năm mới có dịp đoàn tụ vài tuần với gia đình. Những khoảnh khắc ngắn ngủi gần bên mẹ bên cha, được lắng nghe những lời chia sẻ, tâm sự về những biến cố thăng trầm trong gia đình thật tuyệt vời! Nhà quê thanh vắng yên bình, không gian khoáng đãng thoáng mát làm cho lòng người cũng cảm thấy thoải mái, dễ chịu hơn nhiều so với cuộc sống phố thị chật hẹp đông người. Đêm đông lành lạnh hài hòa giữa con người với vẻ đẹp tuyệt mỹ của thiên nhiên. Trời đêm trong xanh vời vợi, lấp lánh những vì sao, được tỏa sáng nhờ ánh trăng non thượng tuần dọi xuống khoảng sân phía mẹ cha ngồi. Dẫu đêm đông, tiết trời có se lạnh nhưng riêng tôi cảm thấy bình an, ấm áp lạ lùng khi được lòng kề lòng bên phụ mẫu.

Lâu ngày gặp con, hai ông bà huyên thuyên đủ điều: nào là chuyện cha xứ vừa tổ chức thánh lễ Tạ ơn khánh thành gian cung thánh mới, đến niềm vui chị Năm có thêm hài nhi bụ bẫm, bàn về việc tổ chức họp mặt gia đình, lại trở về với công việc ruộng vườn chăn nuôi… vẫn là những đề tài muôn thuở. Tôi chăm chú lắng nghe vì không biết đến bao giờ mới có cơ hội “ngàn vàng” như đêm nay.

Trời dần khuya, vầng trăng ngủ tự bao giờ. Mẹ gợi ý đi nghỉ để sáng mai cha còn phải dậy sớm ngăn nước tưới ruộng vườn. Im lặng chốc lát, cha nhỏ giọng: “Mấy hôm nay tôi khó ngủ lắm má mày ơi!”. Mẹ tỏ vẻ ngạc nhiên trước lời cha vừa nói, vì mấy chục năm trời chung sống có bao giờ ông than khó ngủ đâu! Mẹ biết rõ xưa nay ông thuộc mẫu người chăm chỉ, phận ông vất vả như ong, như gà bới mồi cả ngày, hết ruộng đến vườn rồi lại quay sang chăm sóc đàn bò, đàn lợn. Tối đến ông mệt lã, cơm nước xong vừa đặt lưng xuống là ngáy như sấm. Mẹ trách ba suốt đời chỉ biết hy sinh lo cho người khác mà chẳng bao giờ chịu quan tâm đến  bản thân mình. Ông tự biện hộ:

– Mấy hôm rồi tiết trời thay đổi, vào dịp cuối năm chân tay tôi lại trở chứng nứt nẻ như mọi lần, nhưng kỳ này buốt đau, nhức nhối khó chịu hơn nhiều. Đêm lạnh với tay kéo chăn lên đắp, những vết xước nứt nẻ nơi từng ngón tay, ngón chân vướng vào sợi vải nhói đau đến thốn tim. Già rồi! khó dỗ dành giấc ngủ như thời trai trẻ năm xưa.

Lời cha vừa nói khiến tôi lặng người, cúi gằm xuống đất chẳng dám nhìn thẳng vào mặt cha, không an ủi được lời nào bởi quá xúc động. Bất ngờ cha cầm lấy tay tôi nắn bóp liên hồi rồi vui vẻ tươi cười quay sang phía mẹ :

Mấy ông trong Ban Hành Giáo bảo rằng: “Bệnh nứt tay nẻ chân này chủ yếu là do di truyền, dù ông có ở thành phố hay làm giám đốc trong công ty cũng không thể tránh khỏi. Sang mùa mưa, khi gió đông qua tự nó sẽ khỏi”. Cha tôi nói tiếp:

– Tầm bậy! chẳng di với truyền gì cả. Má mày xem tay con mình đây này: mịn màng, trắng đỏ như con nhà giàu chứ có sao đâu! Nếu ngày xưa ông nội không chết vì bom đạn, bà nội không rơi vào tình cảnh túng nghèo, tuổi thơ được cắp sách đến trường, không phải chăn trâu ở mướn thì bây giờ bàn tay tôi cũng trắng đẹp, lành lặn như con mình thôi.

Đặt bàn tay trong lòng tay cha, tôi cảm nhận hơi ấm bình an đang lan tỏa cùng với niềm hạnh phúc trào dâng ngập tâm hồn, nhưng bất chợt nhói đau. Dường như có ai đó vừa cứa vào tim mình. Nâng niu trân trọng bàn tay nứt ngang nẻ dọc và đen đủi của cha, tôi thấy nó tựa như những cánh đồng gặp phải hạn hán, nham nháp như vỏ mít tố nữ, sần sùi chẳng khác nào quả chôm chôm nhãn hay trái sầu riêng là mấy, nhưng nào ai có ai hiểu bàn tay ấy đem đến sự ấm no, bàn tay dải dầu gió sương nhưng dịu ngọt, thơm hương nhân đức, làm nên hình ảnh người cha mẫu mực chịu thương chịu khó nuôi dạy chín anh chị em tôi khôn lớn nên người trong hoàn cảnh hết sức ngặt nghèo.

Mẹ chăm chú nhìn cha với lòng thương cảm lẫn hờn trách: “Sao mấy hôm nay ba mày không nói để tui bảo con nó đi mua thuốc hoặc chở ông đến bệnh viện da liễu.”

– Cha trấn an mẹ: “Không sao! Mấy hôm nữa sẽ khỏi thôi mà. Chỉ ngại mỗi lần đi lễ, lúc cha trao Mình Thánh Chúa, tôi ngại không dám ngửa tay đón nhận mà chỉ rước bằng miệng, chẳng giống ai cả!  Trước khi đi lễ hay dự tiệc, tôi đã rửa tay nhiều lần bằng thuốc tẩy hòa với chanh hoặc xà bông, chà đến rướm máu thế mà vết bùn, mủ trái cây vẫn không sao sạch được. Năm hết tết đến, tay chân đen đủi, nứt buốt thế này thì đi đâu được. Má mày chịu khó đi thay tôi vậy!

Làm sao cha tôi có thể tẩy trắng những gam màu của bùn đất, của nhựa cây in đậm trên đôi tay được, trong khi ngày nào ông cũng thường xuyên tiếp xúc với việc đồng áng dãi dầu mưa nắng.

Mẹ kể thưở ấu thơ do yếu đau suy dinh dưỡng, tôi chập chững lê từng bước té lên ngã xuống ngàn lần, cha kiên nhẫn cầm tay mà dẫn bước tôi đi. Ngày đầu tiên tôi cắp sách đến trường, bàn tay cha nâng bổng tôi vượt qua con đê đầu làng trong những chiều mưa gió tả tơi. Những lần tôi nghịch ngợm mải chơi, cha đã “ thưởng” cho tôi những trận đòn bằng thân dâm bụt, vài giờ sau lại âm thầm lấy muối chà sát hết tất cả những chỗ tím bầm, rồi nhẹ nhàng vỗ về trìu mến.

Ngày tôi vào đại học, niềm vui trong cha vỡ lở, ông giang rộng bàn tay sần sùi xấu xí ôm choàng lấy tôi đến nghẹt thở. Tôi xa nhà lên phố nhập học cũng bàn tay ấy xoa nhẹ lên mái đầu, dúi vào túi tôi những đồng tiền chắt chiu, dành dụm từ những hy sinh, mồ hôi, “máu”và cả nước mắt. Trước sân tu viện, bàn tay cha đã ôm choàng lấy tôi hôn lấy hôn để trong ngày tôi mang trên mình chiếc áo dòng tu, khởi đầu cuộc đời người tu sĩ.   Bàn tay cha mãi mãi theo tôi theo dòng chảy thời gian. Khi té ngã thất bại, người cầm tay nâng tôi lên mà an ủi động viên . Khi tôi chuẩn bị cho những bước ngoặt quan trọng trong đời hay tiến thêm bước nữa trong lý tưởng đời tu, bàn tay ấy không bao giờ níu kéo,lưỡng lự hay tiếc nuối nhưng hoàn toàn tôn trọng tự do của tôi. Cha thường chia sẻ với tôi rằng: “Hạnh phúc nhất là được tự do và đạt được những gì mình mơ ước.”

Đêm đã chìm dần vào khuya, sau buổi gặp gỡ đêm ấy, tôi trở về phòng mà không sao chợp mắt. Đồng hồ vẫn gõ nhịp đều đều, tôi cố lắng tai để nghe rõ tiếng thở an giấc của cha như ngày nào nhưng hình như ông vẫn chưa ngủ. Tôi nóng lòng chờ đợi tiếng gà điểm canh ba, mong trời sáng mau mau để phóng xe ra phố chợ tìm mua cho được phương thuốc hiệu quả nhất mang về cho cha. Bao giờ kết thúc những ngọn gió đông đón xuân về ấm áp để bàn tay cha không còn nhức buốt tái tê?

Tạ ơn Chúa đã ban tặng cho con người cha nghèo với đôi tay gầy rám nắng.

PV.VRNs

“A FATHER’S HANDS” – BÀN TAY CỦA CHA

“A FATHER’S HANDS” – BÀN TAY CỦA CHA

Bác sĩ Nguyễn Ý Đức.

conggiaovietnam.net

Viết bởi một người ẩn danh, nhân dịp ngày “Father’s Day”.

Bài viết nói lên cái công lao của người Cha đối với các con lớn như núi Thái Sơn. Lời văn nhẹ nhàng, ý văn thắm thiết, diễn tả chân tình, xúc động.

Xin thoát chuyển ra Việt ngữ, để những người con cùng đọc.

Và suy gẫm…

Bác sĩ Nguyễn Ý Đức.


“Cha tôi, năm nay khoảng ngoải 90 tuổi, đang ngồi uể oải trên tấm ghế dài ngoài hiên. Không cử động, ông cúi đầu chăm chú nhìn hai bàn tay. Tôi ngồi xuống cạnh ông. Ông không để ý tới sự có mặt của tôi và càng ngồi lâu tôi tự hỏi không biết ông có bình thường. Sau cùng, dù không muốn quấy rầy ông nhưng cũng muốn coi xem ông ra sao, tôi hỏi, “ ông vẫn thường đấy chứ?” Ông ngẩng đầu, nhìn tôi, nở một nụ cười.

“Bố vẫn bình yên, cảm ơn con đã hỏi thăm”. Ông trả lời với giọng nói mạnh và trong.

“Con không có ý định quấy rầy cha, nhưng thấy cha chỉ ngồi đó chú mắt nhìn đôi bàn tay thì con muốn biết cha vẫn không sao đấy chứ”.

“Có bao giờ con ngắm đôi bàn tay của con không?” ông hỏi. “Bố muốn nói con nhìn thật kỹ cơ?”

Từ từ, tôi mở rông hai bàn tay và nhìn. Tôi lật qua lật lại nhiều lần. Thực ra chưa bao giờ tôi làm như vậy và tự hỏi không biết ông muốn nói gì.

Cha tôi mỉm cười và bắt đầu kể chuyện như sau:

“Con hãy tập trung nghĩ tới đôi bàn tay mà con đang có, bàn tay đã phục vụ con trong những năm tháng vừa qua. Hai bàn tay dù nhăn nheo, co rúm và yếu đuối đã là những dụng cụ mà cha sử dụng suốt đời để vươn ra, tiếp nhận, ôm ấp sự sống.

“Những bàn tay đã chống đỡ cho cha khỏi té trên sàn nhà khi chập chững bước đi. Bàn tay đưa cơm vào miệng, phủ áo lên mình. Bàn tay mà khi còn bé bà nội dạy chắp tay cầu nguyện. Bàn tay cột dây giầy và kéo cao đôi ủng. Bàn tay lau khô nước mắt các con, đã vuốt ve những thương yêu trong cuộc đời của cha. Chúng cũng lau những giọt lệ tiễn biệt của cha khi anh con lên đường nhập ngũ.

“Những bàn tay đã từng dơ bẩn, nhẵn nhụi và gầy gò, sưng húp và cong co. Chúng vụng về lóng cóng khi cha ẵm con lúc mới lọt lòng mẹ. Bàn tay mang chiếc nhẫn cưới cho mọi người hay là cha đã thành hôn và thương yêu một người rất đặc biệt.

“Bàn tay đã viết gửi về nhà những lá thư, run lẩy bẩy khi cha chôn cất ông bà và mẹ con. Đôi bàn tay đã ôm ấp các con, vỗ về lối xóm và run run tức giận khi cha không hiểu chuyện đời. Chúng đã bao che mặt cha, chải gỡ tóc cha, lau rửa thân hình cha. Chúng đã từng nhớp nháp và ướt át, cong và gẫy, khô và gầy. Và cho tới bây giờ, khi mà nhiều nơi trên cơ thể của cha không còn hoạt động bình thường thì đôi bàn tay đó vẫn nâng cha đứng lên, đặt cha nằm xuống và lại vẫn chắp lại cầu nguyện. Những bàn tay này là chứng nhân quá khứ của cha và sự thăng trầm của cuộc đời cha.”

“Nhưng quan trọng hơn là cũng chính những bàn tay đó mà Thượng Đế vươn ra, cầm lấy đưa cha về nhà. Và cầm tay cha, Thượng Đế sẽ nhấc cha lên cạnh Người và cha sẽ dùng bàn tay để ngưỡng mộ sờ lên mặt Chúa…”

Sau ngày hôm đó, tôi sẽ không bao giờ nhìn bàn tay tôi như vậy.

Nhưng tôi nhớ Thượng Đế đã vươn ra và nắm tay cha tôi, đưa cha tôi về nhà.

Khi bàn tay tôi đau vì thương tích hoặc khi vuốt má các con tôi, chồng tôi, tôi nghĩ tới Cha tôi. Tôi biết là Cha tôi đã được vuốt ve, trìu mến và dẫn dắt bởi bàn tay của Thượng Đế.


A Father’s Hands

My Dad, some ninety plus years now, sat feebly on the patio bench. He didn’t move, just sat with his head down staring at his hands. I sat down beside him. He didn’t acknowledge my presence and the longer I sat I wondered if he was okay.

Finally, not really wanting to disturb him but wanting to check on him at the same time, I asked him if he was okay. He raised his head and looked at me and smiled.

Yes, I’m fine, thank you for asking, he said in a clear strong voice. I didn’t mean to disturb you, Dad, but you were just sitting there staring at your hands and I wanted to make sure you were alright.

“Have you ever looked at your hands?” he asked. “I mean really looked at your hands?”

I slowly opened my hands and stared down at them. I turned them over, palms up and then palms down. No, I guess I had never really looked at my hands as I tried to figure out the point he was making.

Dad smiled and related this story: “Stop and think for a moment about the hands you have, how they have served you well throughout your years. These hands, though wrinkled, shriveled and weak have been the tools I have used all my life to reach out and grab and embrace life.”

“They braced and caught my fall when as a toddler I crashed upon the floor. They put food in my mouth and clothes on my back. As a child my mother taught me to fold them in prayer. They tied my shoes and pulled on my boots. They dried the tears of my children and caressed the love of my life. They wiped my tears when my son went off to war.”

“They have been dirty, scraped and raw, swollen and bent. They were uneasy and clumsy when I tried to hold you as a newborn daughter. Decorated with my wedding band they showed the world that I was married and loved someone special.”

“They wrote the letters home and trembled and shook when I buried my parents and spouse. They have held children, consoled neighbors, and shook in fists of anger when I didn’t understand. They have covered my face, combed my hair, washed and cleansed the rest of my body.”

They have been sticky and wet, bent and broken, dried and raw. And to this day when not much of anything else on me works real well these hands hold me up, lay me down, and again continue to fold in prayer. These hands are the mark of where I’ve been and the ruggedness of my life.”

“But more importantly it will be these hands that God will reach out and take when He leads me home. And with my hands He will lift me to His side and there I will use these hands to touch the face of Christ.” —-

After that day, I will never look at my hands the same again.

But I remember God reached out and took my Dad’s hands and led him home. When my hands are hurt of sore or when I stroke the face of my children and husband I think of Dad. I know he has been stroked and caressed and held by the hands of God.

Tác giả: Bác sĩ Nguyễn Ý Đức. (song ngữ Việt Anh)

Hai bát phở bò

Hai bát phở bò

riêng tặng những người con hiếu thảo nhân ngày của Cha

phobo

Vào một buổi chiều mùa xuân lạnh lẽo, trước cửa quán xuất hiện hai vị khách rất đặc biệt, một người cha và một người con. Nói đặc biệt là bởi vì người cha bị mù. Người con trai đi bên cạnh cẩn mẫn dìu người cha. Cậu con trai còn rất trẻ, trạc mười bảy, mười tám tuổi, quần áo đơn giản, lộ rõ vẻ nghèo túng, nhưng vẫn không dấu nổi nét thư sinh, dường như cậu vẫn đang là học trò phổ thông…

Cậu con trai tiến đến trước mặt tôi: “Cho hai bát phở bò!”, cậu nói to. Tôi đang định viết hoá đơn, thì cậu ta hướng về phía tôi và xua xua tay. Tôi ngạc nhiên nhìn cậu ta, cậu ta nhoẻn miệng cười biết lỗi, rồi chỉ tay vào bảng giá treo ở trên tường, phía sau lưng tôi, bảo tôi rằng chỉ làm một bát phở cho thịt bò, bát kia chỉ cần rắc chút hành thôi. Lúc đầu, tôi hơi hoảng, nhưng sau đó chợt hiểu ra ngay. Hoá ra, cậu ta gọi to hai bát phở thịt bò như vậy là cố tình để cho người cha nghe thấy, chắc là tiền không đủ, nhưng lại không muốn cho cha biết. Tôi cười với cậu ta tỏ vẻ hiểu ý.

Người bồi bàn nhanh nhẹn bưng lên ngay hai bát phở nóng hổi. Cậu con trai chuyển bát phở bò đến trước mặt cha, ân cần chăm sóc: “Cha, có phở rồi, cha ăn đi thôi, cha cẩn thận kẻo nóng đấy ạ!”.. Rồi cậu ta tự bưng bát phở nước về phía mình. Người cha không vội ăn ngay, ông cầm đũa dò dẫm đưa qua đưa lại trong bát. Mãi lâu sau, ông mới gắp trúng một miếng thịt, vội vàng bỏ miếng thịt vào bát của người con.

“Ăn đi con, con ăn nhiều thêm một chút, ăn no rồi học hành chăm chỉ, sắp thi tốt nghiệp rồi, nếu mà thi đỗ đại học, sau này làm người có ích cho xã hội.” Người cha nói với giọng hiền từ, đôi mắt tuy mờ đục vô hồn, nhưng trên khuôn mặt đầy nếp nhăn lại sáng lên nụ cười ấm áp. Điều khiến cho tôi ngạc nhiên đó là, cái cậu con trai đó không hề cản trở việc cha gắp thịt cho mình, mà cứ im như thóc đón nhận miếng thịt từ bát của cha, rồi lại lặng lẽ gắp miếng thịt đó trả về.

Cứ lặp đi lặp lại như vậy, dường như thịt trong bát của người cha cứ gắp lại đầy, gắp mãi không hết. “Cái quán này thật tử tế quá, một bát phở mà biết bao nhiêu là thịt.” Ông lão cảm động nói. Kẻ đứng ngay bên cạnh là tôi, chợt toát hết cả mồ hôi, trong bát chỉ có vài mẩu thịt tội nghiệp, được sắt mỏng như lá lúa. Người con trai nghe vậy vội vàng tiếp lời cha: “Cha à, cha ăn đi, bát của con đầy ắp không biết để vào đâu rồi đây này”. “Ừ… ừ, con ăn nhanh lên, ăn phở bò thực ra cũng có chất lắm đấy.”

Hành động và lời nói của hai cha con đã làm chúng tôi rất xúc động. Chẳng biết từ khi nào, bà chủ cũng đã ra đứng cạnh tôi, lặng lẽ nhìn hai cha con họ. Vừa lúc đó, cậu Trương bồi bàn từ bếp đi ra, bê một đĩa thịt bò vừa thái, bà chủ làm dấu ra hiệu bảo cậu đặt lên bàn của hai cha con nọ. Cậu con trai ngẩng đầu tròn mắt nhìn một lúc, bàn này chỉ có mỗi hai cha con cậu ngồi, cậu ta vội vàng hỏi lại: “Anh để nhầm bàn rồi thì phải, chúng tôi không gọi thịt bò.” Bà chủ mỉm cười bước lại chỗ họ: “Không nhầm đâu, hôm nay chúng tôi kỷ niệm ngày mở quán, đĩa thịt này là quà biếu khách hàng”. Cậu con trai cười cười, không hỏi gì thêm.

Cậu lại gắp thêm vài miếng thịt bỏ vào bát người cha, sau đó, bỏ phần còn thừa vào trong một cái túi nhựa. Chúng tôi cứ im lặng chờ cho hai cha con ăn xong, rồi lại dõi mắt tiễn hai cha con ra khỏi quán. Mãi khi cậu Trương đi thu bát đĩa, đột nhiên kêu lên khe khẽ. Hoá ra, đáy bát của cậu con trai đè lên mấy tờ tiền giấy, vừa đúng giá tiền của một đĩa thịt bò, được viết trên bảng giá của cửa hàng. Cùng lúc, tôi, bà chủ, và cả cậu Trương chẳng ai nói lên lời, chỉ lặng lẽ thở dài, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ riêng …

(Sưu tầm )

Anh Nguyễn V Thập gởi

Tháng 7: Dân Số Thế Giới Là 7.2 Tỉ Người

Tháng 7: Dân Số Thế Giới Là 7.2 Tỉ Người; LHQ: Dân Số Thế Giới Sẽ Tới 10.9 Tỉ Người Vào Năm 2100

(06/15/2013)

nguồn: vietbao.com

NEW YORK – Báo cáo về dân số thế giới của LHQ cho hay: dân số thế giới tháng tới là 7.2 tỉ và sẽ lên tới 10.9 tỉ vào năm 2100 – đa số sự gia tăng là tại các quốc gia đang phát triển có sinh suất cao.

Báo cáo tựa đề “Viễn ảnh dân số thế giới” cho hay dân số toàn cầu đầu thế kỷ tới có thể là trên 16.6 tỉ, hay chỉ là 6.8 tỉ tùy theo phương thức thống kê. Trong mọi trường hợp, dân số của những nước lạc hậu tăng gấp đôi.

Tuy, nhìn chung sự gia tăng dân số đang giảm tốc độ, nhưng sự gia tăng vẫn là nhanh tại châu Phi – dân số tại các nước đã phát triển hầu như không tăng.

Dân số Ấn Độ sẽ qua mặt Trung Quốc và cùng đạt mức 1.45 tỉ người vào năm 2028 – sau đó Ấn Độ có dân số 1.6 tỉ trước khi giảm bớt từ năm 2100.

Dân số Trung Quốc bắt đầu giảm từ năm 2030, dự kiến gồm 1.1 tỉ người vào thời điểm 2100.

Giám đốc khảo sát dân số John Wilmoth cho hay: khuynh hướng dân số có nhiều bất trắc, vì các yếu tố: sinh sản, tử suất và di trú. Nhưng, sự gia tăng nhân số thế giới từ nay đến 2050 là không thể tránh.

VÒNG QUAY ĐỊNH MỆNH

VÒNG QUAY ĐỊNH MỆNH

“Anh có muốn một ly sữa không?”, tôi hỏi một cách nhẹ nhàng.

Khi hắn gật đầu, tôi trông thấy vết dơ dính trên tóc hắn và ngửi thấy mùi khói ám của điếu xì gà trên áo khoác của hắn.

“Hôm nay anh khỏe không?”, tôi hỏi tiếp và đưa cho hắn ly sữa.

Không một lời đáp lại. “Anh còn cần thêm gì nữa không?” Vẫn không có tiếng trả lời.

Việc này không chỉ xảy ra một lần mà là hàng chục lần rồi.  Khi còn thiếu niên, tôi làm cho chương trình “Bánh mì và Cá”, một chương trình do mẹ tôi sáng lập.  Chúng tôi phục vụ bữa ăn cho những người cần giúp đỡ, thường là những người lang thang ở Mineapolis, khu vực St. Paul.

Cho dù làm bất cứ cách nào để động viên tinh thần, tôi vẫn thường bị lúng túng trước thái độ những người này phản ứng với tôi.  Họ không nhìn tôi khi tôi nói chuyện với họ, và họ hiếm khi nào thấy biết ơn.  Tôi như muốn hét lên: “Này, chúng tôi đang làm những điều rất tốt cho mấy người.  Ít nhất mấy người phải cảm ơn chúng tôi chứ!”

Sau khi ngừng làm tình nguyện cho chương trình “Bánh mì và Cá”, tôi tự lèo lái số phận của mình. Hơn mười năm sau, tôi đã phấn đấu có một cuộc sống gần như hoàn hảo, một công việc dạy học, một người chồng tuyệt vời và có đứa con đầu tiên của chúng tôi, Derian.

Niềm hạnh phúc khi có được con bỗng bị đập vỡ khi bác sĩ khám phá ra Derian bị bệnh tim cần phẫu thuật ngay.  Làm sao điều này có thể xảy ra được?  Tôi tự hỏi và cảm thấy rất sốc.

Sau đó, Derian được chuẩn đoán bị mắc hội chứng CHARGE, một căn bệnh không di truyền, và tỉ lệ mắc phải chỉ là một trên mười hai nghìn trẻ em.  Khi ra khỏi bệnh viện, tôi nhận ra rằng không như những vấn đề khác của cuộc sống, với chuyện này tôi không thể làm chủ được.

Căn bệnh này không những ảnh hưởng đến tim của con tôi mà nó còn ảnh hưởng đến tai, mắt, mũi cũng như sự phát triểm của cả cơ thể.  Derian cần phải được điều trị thường xuyên, nghĩa là cần có bác sĩ đến thăm hàng kì và phải vào bệnh viện thường xuyên.

Mười ba tháng sau khi Derian được sinh ra, tôi sinh Connor, đứa con trai thứ hai của chúng tôi, và nhờ trời nó rất khỏe mạnh.

Những lần khám bác sĩ, những cuộc phẫu thuật cho Derian, và việc có đứa con thứ hai khiến tôi phải xin nghỉ dạy không lương.  Trong khi tiền bảo hiểm chỉ đủ trang trải một phần cho tiền thuốc, nhiều người cũng đã đến giúp đỡ và động viên tôi.  Có lần những sinh viên của tôi đã quyên góp được sáu trăm đô la chỉ trong một ngày.  Số tiền này đủ cho tôi trả tiền nhà trong hai tháng và có thể trang trải thêm cho Derian.

Mặc dù Rob là chủ của một cửa hàng quần áo nhưng với những khoản tiền nhà, tiền thuốc và trách nhiệm nuôi nấng của cha mẹ đã khiến anh bị hao tốn khá nhiều. vChúng tôi đã làm những gì tốt nhất có thể làm.  Nhưng đến mùa xuân 1995, chúng tôi quyết định đi tìm sự giúp đỡ.

Tôi có nghe về một chương trình giúp đỡ các bà mẹ và con nhỏ bằng những phiếu ăn.  Tôi đặt sự kiêu hãnh của mình qua một bên và đã xin một cuộc hẹn.

Vào sáng của buổi hẹn, chúng tôi đã phải bàn bạc mãi nên ăn mặc như thế nào để mình trông không giàu quá, nhưng cũng không nghèo quá.  Chúng tôi đã thử ít nhất ba bộ quần áo.  Chúng tôi biết rằng việc ăn mặc sẽ quyết định sự đánh giá khả năng làm mẹ của tôi: không quá vững vàng, nhưng vẫn còn khả năng làm chủ và tự tin.

Cùng với hai đứa nhỏ, chúng tôi đã đi bộ một quãng dài đến điểm hẹn.  Tôi đăng ký và nhìn chung quanh xem những người khác ở khu vực chờ đợi, tự hỏi rằng hoàn cảnh của họ như thế nào.  Lúc đó tôi cảm nhận được vòng xoay nguy hiểm của định mệnh và xấu hổ trước những ấn tượng ngu dốt của tôi về người nghèo.  Và bây giờ thì đến lượt tôi trở thành người nghèo.  Tôi ghét nó.  Tôi không đáng để bị như thế và tôi không thể xoay xở được.  Tôi định nắm chặt lấy tay lũ trẻ và chạy đi.  Nhưng khi nhìn vào đôi mắt sáng của chúng, tôi biết tại sao tôi phải ở lại.

Lần đầu tiên trong đời tôi đã hiểu được vì sao những ngưởi mà tôi từng phục vụ lúc trước lại không tỏ ra biết ơn.  Có ai lại muốn ở trong cảnh khốn khổ này không?  Nó thật thấp kém, và sẽ tồi tệ hơn khi những người – như tôi lúc bé – lại có vẻ như đang ban phát ân huệ và ta phải nợ họ sự biết ơn.

Cầu xin sự giúp đỡ trong lúc cần nhất quả thật khó khăn vô cùng!  Tôi không bao giờ muốn có liên quan tới những người giúp đỡ tôi những thứ mà tôi rất cần.  Sẽ dễ dàng hơn rất nhiều nếu như đứng cách xa và giữ mọi thứ ở mức độ khách quan.

Tôi mím chặt môi khi tên mình được gọi.  Chuyện gì sẽ xảy ra nếu có ai đó nhận ra tôi?  Tôi sẽ rất nhục nhã nếu như ai đó biết tôi đang phải nhận phiếu ăn.  Sau ba tiếng đồng hồ hỏi và kiểm tra, tôi cũng đã có thứ tôi cần.  Và một cuộc tìm kiếm sự tồn tại ngày qua ngày đã bắt đầu; chúng tôi kiên quyết làm được nó.

Sau hai năm rưỡi đấu tranh, linh hồn nhỏ bé của Derian đã ra đi ngày 9 tháng Năm năm 1996.  Tôi biết nó đến với tôi vì nhiều lý do, và tôi sẽ không bao giờ quên những bài học đó: lòng yêu thương và sự cảm thông cho người nghèo, không chỉ là sự thương hại nhất thời và bố thí.

Sau khi trải qua những giai đoạn khó khăn nhất của cuộc đời, Rob và tôi lập ra tổ chức “Tiết kiệm cho người nghèo” để tưởng nhớ Derian.  Nhiệm vụ của tổ chức là giúp đỡ những gia đình ở Minnesota với những trẻ em bệnh hiểm nghèo phải chịu nhập viện trong một thời gian dài bằng trả tiền thế chấp trong một lần.  Trong bốn năm đầu tiên, chúng tôi đã trợ cấp hơn một trăm trường hợp với mức trung bình tám trăm năm mươi đô la.

Chúng tôi thường không được cảm ơn khi trợ cấp một khoảng cho ai đó.  Nhưng điều này chẳng phiền gì, vì tôi biết được cuộc sống như thế nào khi đặt mình vào vị trí của họ.

Giờ đây tôi đã hoàn toàn hiểu được niềm vui của công việc tình nguyện không phải nằm ở từ “cảm ơn” hay cảm giác tốt đẹp mà là khi giúp được những người xung quanh lúc họ cần mình nhất.

Lasty Keech: “Mỗi một đứa trẻ được sinh ra với thông điệp rằng Thượng đế vẫn chưa làm nản chí con người.” Rabindranath Tagore

From: langthangchieutim và

Anh chị Thụ Mai gởi