Mừng lễ Giáng Sinh 2012 tại Thánh thất Bàu Sen

Mừng lễ Giáng Sinh 2012 tại Thánh thất Bàu Sen
Một mùa Giáng Sinh nữa lại về. Những người Công giáo hẳn đã quen với hình ảnh thân thương của hang đá, máng cỏ, với không khí nôn nao của những ngày chuẩn bị đón mừng đại Lễ. Nhưng có bao giờ bạn mừng Lễ Giáng Sinh ở một không gian không thuộc khuôn viên nhà thờ giáo xứ chưa? Mời bạn cùng Ban Mục vụ Đối thoại liên tôn trải nghiệm không khí ngày lễ Giáng Sinh nơi Thánh Thất Bàu Sen của các bạn đạo Cao Đài nhé!
Không gian Thánh Thất Bàu Sen hôm nay là sự hòa quyện tinh tế giữa Đông và Tây, một hồ sen nho nhỏ làm nền cho Thiên Nhãn kỳ vương cao trên nền trời xanh, được điểm thêm hình ảnh những quả châu màu đỏ. Màu của không khí Giáng Sinh hòa cùng màu xanh cánh sen của làng quê Việt Nam. Nơi góc sân, một hang đá nhỏ đơn sơ với mái nhà tranh, nơi gia đình Thánh Gia cư ngụ…
Sau lời cầu nguyện dâng lên Đức Chí Tôn, mọi người cùng lắng nghe chia sẻ của linh mục Phanxicô Xaviê Bảo Lộc, trưởng Ban MVĐTLT đề tài “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Những bạn đạo Cao Đài và các tín hữu Công giáo có dịp nhìn lại lịch sử của ngày lễ Giáng Sinh cũng như niềm vui của những người có Chúa ở cùng.
THÁNH THẤT BÀU SEN: MỪNG CHÚA GIÁNG SINH

Đáp lời, giáo sỹ Huệ Ý nhắc lại truyền thống thờ Trời của của người Việt ta. Từ ngàn xưa, khi chỉ có vua mới được gọi là Thiên Tử, thì người Việt đã cảm nhận sự xa vời vợi của vị “Thiên Tử” này, trong khi ngước mắt lên, họ có thể thấy cả bầu trời rộng lớn phía trên đầu. Ông bà ta đã cắm một cây cột giữa sân nhà, lập một bàn thờ nhỏ chỉ một hai gang tay, đó là Bàn Thiên, là nơi thờ Trời. Trong niềm tin dân gian, khi đó ông Trời đang ở cùng chúng ta. Và trong giáo lý Cao Đài có dạy con người luôn hướng thượng và tu tập:
“Tu là học để làm Trời
Phải đâu muôn kiếp làm người thế gian”
Bạn sẽ ngạc nhiên khi nghe các Đạo tỷ Cao Đài hát rất tâm tình bài “Chứng nhân tình yêu” của linh mục Nguyễn Duy. Một bài thánh ca các tín hữu quen nghe trong thánh đường được cất lên tâm tình trong không gian mang nét Á Đông với lư đèn, các bài vị cùng hương trầm lan tỏa…
Buổi lễ kết thúc với bữa cơm chay huynh đệ. Có một Đạo huynh Cao Đài nói vui: “Ngộ hén, cơm chay mà có cả cơm rượu, đây là rượu của Gia-tô ban cho trong ngày vui này!”.
Giáng Sinh đang trở nên ngày lễ dân gian của toàn xã hội, là ngày của niềm vui và là dịp để tri ân nhau, trao tặng những món quà nhân ái và thắt chặt mối tương giao bằng hữu. Nhưng để có được niềm vui hôm nay, mỗi người chúng ta cần tạ ơn về món quà đầu tiên được trao ban nơi hang đá nhỏ Bêlem, trong một đêm đông lạnh giá cách nay hơn hai ngàn năm. Ước mong sao Chúa Hài Đồng luôn ngự trị trong tâm hồn chúng ta mọi ngày, để tất cả cùng đồng tâm xây dựng đại gia đình nhân loại tốt đẹp hơn.
Nguồn:  nhipcautamgiao
Maria Thanh Mai gởi

BÌNH MINH,

BÌNH MINH,

Bỏ lại sau lưng những mộng mơ,
Lắc lẻo con thuyền lạc bến thơ,
Vung cao mãnh lưới tìm nơi cũ,
Giữa chốn hư vô sự bất ngờ…
Bình minh rạng rỡ tâm tư sáng,
Ảm đạm vầng mây nắng xóa tan,
Rào thưa chắn lối đường sinh lộ,
Vượt thoát mênh mông dẫu muộn màng…
Cuộc sống bình an biết ở đâu?
Trải rộng dòng sông một bóng nâu,
Quanh năm vất vả nhiêu khê quá,
Mộng tưởng giàu sang được lẻ nào?
Liverpool.27/12/2012.
Song Như.

Kính gởi Quý Thầy Cô và các bạn LVC.

CHIẾC CẦU,

CHIẾC CẦU,

Em đi bỏ lại cây cầu,
Dòng trôi nặng trĩu mối sầu tương tư,
Chìm sâu mấy vạn ngôn từ,
Hồn anh đắm đuối còn nhừ nỗi đau,
Giang đầu biết sẽ ra sao?
Khi nào gặp lại cùng nhau …đứng nhìn…
Em đi lặng lẽ làm thinh,
Riêng anh gậm nhấm ân tình khuất sâu…
Còn đâu chiếc bóng muôn màu,
Trong hồn của kẻ ôm sầu mất nhau…
Liverpool.27/12/2012.
Song Như.

Kính gởi Quý Thầy Cô và
các bạn LVC.

Chúc vui vẻ

CHỖ Ở

CHỖ Ở

1. Từ vấn đề chỗ ở hiện nay

Càng ngày đất càng chật vì người đông, nhất là ở đô thị. Có những quốc gia không còn chỗ ở cho người dân. Người ta đang phải đặt ra nhiều vấn đề, nhiều giải pháp cho chuyện này. Vấn đề nhà cửa đất đai hiện nay đang lên cơn sốt. Đây là điều rất quan trọng trong cuộc sống. Vì có an cư mới lạc nghiệp. Vì quan trọng như thế cho nên người ta mới đầu tư và đổ dồn rất mạnh cho việc này.

Người giàu sang, kẻ có quyền muốn ở nơi sang trọng, đẹp đẽ. Người nghèo khổ, kẻ yếu thế phải chịu ở nơi tồi tàn, thiếu thốn.

Thực tế đã có nhiều sự thách thức, tranh giành, chiếm đoạt, chém giết nhau để có được mảnh đất, căn nhà…Tất cả cũng chỉ vì chỗ ở. Có khi bất chấp mọi mối tương quan miễn là làm sao có được một chỗ ở ngon lành là được ; vì vậy có thể xảy ra bất cứ điều gì khủng khiếp nhất người ta cũng sẵn sàng.

Giới ‘cò mồi’ nhà đất rất chịu khó luồn lách để kiếm mồi vì đó  là nghề của họ. Nghe mấy ‘cò’ nói chuyện giới thiệu được căn nhà, mảnh đất ngon cho khách thì họ cũng vui lắm vì vừa được hoa hồng vừa giúp được việc cho khách.

Người còn sống lo chỗ ở cho mình đã vậy mà còn quan tâm đến thế hệ con cái nữa. Trước khi chết, nếu chưa lo cho con cái được mảnh đất, căn nhà hẳn hoi thì cha mẹ chưa an tâm. Đó cũng là trách nhiệm lớn.

Đang ở đâu sung sướng rồi thì cũng không muốn đi chỗ khác. Chết lúc này thì tiếc lắm ! Bắt phải đến chỗ mình không thích thì cũng không vui mấy. Kể cả được chọn chưa chắc đã muốn đổi chỗ nếu nơi đang ở tốt hơn, hay hơn, thuận lợi hơn. Chính vì thế khi phải dời bỏ căn nhà trần gian này người ta nghĩ cũng buồn. Người thân thì khóc lóc.

Có nhiều lý do để buồn. Buồn vì mình không được ở căn nhà này nữa. Buồn vì mình không được sở hữu điều gì nơi căn nhà này nữa. Buồn vì chỗ ở của mình phải thay đổi vĩnh viễn. Buồn vì không còn sống với người thân nữa. Buồn vì tiếc nuối đủ thứ cả. Tất cả những thói quen ấy đã xây dựng cho mình một chọn lựa, một nếp sống không muốn thay đổi nên cũng có thể nghĩ : giá đừng chết thì hay ! Cũng vì thế, người ta quên mất hay không dành bao nhiêu cho chỗ ở đời sau mà đáng lẽ ra mình phải đầu tư rất mạnh, rất sớm ngay khi đang ở đời này. Để đến khi phải chuyển chỗ ở trần gian mới cuống cả lên thì chẳng kịp sự gì nữa, chứ chưa nói đến việc có thời gian mà viết tờ di chúc. Rồi có khi vì thế mà mất cả chì lẫn chài ấy chứ. Đấy là điều mà mình phải cố gắng suy nghĩ ngay bây giờ. Nếu bây giờ nghĩ luôn thì kể ra cũng còn chưa muộn lắm.Cuộc đời của người Ki tô hữu là một hành trình đi tìm chỗ ở. Chỗ ở cho hôm nay và mai sau.

2. Đến chỗ ở mai sau

Linh hồn có một chỗ ở riêng của nó. Chỗ ở này rất quan trọng. Quan trọng nhất. Người vô thần hay kẻ không tin có đời sau thì chẳng quan tâm đến việc này. Có khi họ còn mỉa mai nữa. Làm sao biết được linh hồn có và cần có một chỗ ở riêng ? Nơi nó sống ở đâu ? Hỏi chuyện này xem ra rất trẻ con và viển vông, không thực tế. Nhưng chúng ta cần phải đặt vấn đề lại để suy tư cho nghiêm túc, chính xác và đầy đủ.

Nhân viên của ông chủ đã giới thiệu, quảng cáo, maketing về một vùng đất mới cho chính cha của mình. Vùng đất có nhiều chỗ ở. Nhưng giá cả rất cao. Thế nhưng ai cũng có thể mua được. Ngược lại có người không biết cách mua dù có khả năng trong tay. Vùng đất đó là vùng Đất Hứa hay là Nước Trời hoặc Thiên Đàng hoặc nói thân mật hơn gọi là Nhà Cha. Chúa Giêsu Kitô một nhân viên tiếp thị, môi giới, cò mồi về nhà đất đã quảng cáo cho nhân loại về chỗ ở trong Nhà Cha mình như sau : « Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở ; nếu không Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó » (Ga 14, 2-3). Nhà Cha rộng đến như thế. Nhà Cha có nhiều chỗ ở đến như thế. Nhà Cha lý tưởng đến như thế. Nhưng điều kiện để có được chỗ ở trong Nhà Cha thì rất cao. Đòi hỏi thì rất khó. Việc tuyển chọn thì rất kỹ. Mà lối đi thì chỉ có một con đường như Chúa Giêsu đã quả quyết : « Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy » (Ga 14,6).

Có được chỗ ở trên trời không dễ dàng đâu. Phải chấp nhận hy sinh, đánh đổi rất lớn. Cũng chưa hẳn là có nhiều tiền nhiều quyền là mua hay chạy chọt được. Muốn có một chỗ ở nơi vùng Đất Hứa đòi người ta phải hy sinh đánh đổi cách dứt khoát. « Nước Trời chỉ chiếm được bằng sức mạnh »… Phải đánh đổi cả thân xác, mạng sống, danh dự, tiền bạc, sức khỏe,vv …để có thể vào được Nhà Cha.

Chúa Giêsu đã đi trước dọn chỗ ở cho chúng ta. Hành trình dọn chỗ ở của Ngài thật vất vả gian nan. Hành trình đó chính là con đường trải qua thập giá và sự chết. Ngài mời gọi tất cả mọi người : « Ai muốn theo tôi phải từ bỏ chính mình mà vác thập giá hằng ngày mà theo tôi ». Có được chỗ ở trong Nhà Cha không đơn giản. Mặc dù Chúa Giêsu luôn muốn rằng : ‘Thầy ở đâu thì anh em cũng sẽ được ở đó với Thầy’ nhưng liệu chúng ta có muốn để rồi dám dấn thân triệt để theo những đòi hỏi của Ngài không ?

Giáo hội muốn đọc lên cho chúng ta trong mỗi thánh lễ an táng và cầu hồn câu này « …và khi nơi nương náu ở trần gian bị hủy diệt tiêu tan thì lại được một chỗ ở vĩnh viễn trên trời » (Kinh tiền tụng I, Cầu cho người đã qua đời) để người ta luôn sống trong niềm hy vọng phấn khởi và dù có chết cũng không đau buồn nuối tiếc điều gì. Đó cũng là một cái nhìn, một sự so sánh rất rõ ràng, chính xác mà mỗi kitô hữu cần hiểu thấu đáo.

Thực tế người ta lo đầu tư cho nhà cửa, đất đai, chỗ ở trần gian quá nhiều mà lo cho chỗ ở đời sau quá ít hay thậm chí quên luôn nữa. Quả là sự lệch lạc nghiêm trọng, nguy hiểm quá.

Người ta lo đặt cọc đặt móng cho căn nhà tạm bợ vật chất nhưng lại quên lo đặt cọc, đặt móng cho chỗ ở vĩnh viễn trên trời.

Liệu xác thì có chỗ ở ngon lành, sang trọng, mát mẻ còn linh hồn mình có được như thế không hay lại phải ở nơi « lửa không hề tắt » (Mt 3,12), nơi « phải khóc lóc nghiến răng » (Mt 13,42), nơi « giòi bọ rúc rỉa » thì khổ biết chừng nào ?!

Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn

Maria Thanh Mai gởi

RIÊNG MÌNH MỘT TIỆC TẠ ƠN

RIÊNG MÌNH MỘT TIỆC TẠ ƠN

Trong dịp Lễ Tạ Ơn đã qua, Tân một mình ghé quán phở đường Bolsa ăn trưa. Vì đông khách, chủ quán dùng một dãy bàn dài đặt ngay cửa ra vào, coi như bàn chung của những thực khách đi riêng rẽ. Cứ ghế nào trống thì một thực khách được xếp vào, bất kể là ai. Tình cờ, Tân được sắp ngồi đối diện với một bà khoảng ngoài sáu mươi đang ngồi ăn cơm. Tân lịch sự chào bà này trước khi ngồi xuống, xong kêu tô phở như thường lệ.

Nhìn sang phía bà này, Tân lấy làm lạ, sao bà này ăn trưa chỉ có một mình mà sao lại gọi lắm món thế, không giống ai cả. Vốn quen nghề điều tra và thẩm vấn, Tân vui vẻ gợi chuyện:

– Bà thường hay ăn trưa ở đây không?

Bà đáp:

– Lâu lắm mới sang đây, nay ăn bữa trưa cho vui rồi mai về.

Nghe tiếng Huế, người cùng miền, Tân đã hiểu một phần lý do: Người Huế vẫn còn ảnh hưởng tục vua chúa, tuy không ăn uống được nhiều hơn ai, nhưng lại thích có nhiều món trong một bữa ăn, dù nhiều ít. Tân hỏi tiếp:

– Vậy bà không phải người ở đây sao?

Được lời như mở tấm lòng bà đáp:

– Hồi trước tôi cũng có ở Cali , thỉnh thoảng cũng đến đây ăn. Kỳ Lễ Tạ Ơn này sang thăm Cali, sẵn đi lang thang, ghé vào đây ăn một bữa rồi mai về lại Texas.

À, thế Tân mới hiểu thêm lý do: Bữa ăn này coi như “Tiệc Lễ Tạ Ơn” của bà. Từ từ, Tân tiếp:

– Bà thấy vùng này bây giờ có vui không?

Nghe giọng Tân cũng là người miền Trung, hay hỏi và chịu nghe, cảm thấy như thể người thân, bà mới vừa ăn, vừa lai rai nói chuyện như để giải tỏa nỗi lòng u uẩn khôn khuây của mình. Tân chú ý nghe và nhớ, thuật lại đại khái như sau:

Từng đã bị kinh hoàng và may thoát cảnh bị đập đầu chôn sống trong trận Mậu Thân, nên khi Việt Cộng sắp tiến chiếm Huế vào mùa xuân 1975, vợ chồng bà bồng giắt bốn đứa con chạy thí mạng xuống thuyền đói khát, may mắn thoát chết vô đến ở Vũng Tàu. Rồi cuối tháng 4, tiếp đến, lại thuê thuyền ra hạm đội Mỹ, sang Guam, rồi định cư tại Nam Cali này từ hồi 1975. Con cái dần lớn khôn, ăn học thành tài, có công ăn việc làm tốt và đều ra riêng. Vợ chồng bà đều có học thức nên hội nhập vào đời sống Mỹ dễ dàng. Cả hai đều làm cho hãng xưởng kỹ nghệ. Chẳng may bà bị tai nạn lao động thế nào đó và xem như tàn phế, bà được bồi thường số tiền gần vài trăm ngàn, bà đã chia cho bốn người con để chúng làm vốn, đặt trước mua nhà cửa ở vùng Nam Cali.

Sau đó, chồng bà phải theo công việc làm, dọn sang Texas, bà cũng theo sang đó định cư luôn. Lâu nhớ Cali bà cũng muốn quay sang chơi, thăm con cái và gặp lại người quen cũ, dạo nhìn lại những cảnh bờ biển mà bà ưa thích, để gợi lại những kỷ niệm yên bình đầu tiên, khi gia đình bà mới đặt chân trên quê hương thứ hai này. Cũng đã nhiều năm qua, nay nhân dịp lễ Tạ Ơn, ông nhà phải về thăm Việt Nam lo chuyện gia tiên mồ mả. Ở nhà một mình buồn, bà ra sân bay, đứng chầu chực, đáp được chuyến bay từ Texas về Cali chơi và ghé thăm mấy người con.

Đầu tiên bà đến nhà người con trai út. Cậu này chưa vợ. Nhà cậu thường có bạn gái đến chơi. Nay sợ có bà ở đó làm mất tự do, sợ bạn gái phiền, nên cậu ta không muốn tiếp bà. Cậu khéo léo khuyên bà đến ở với các anh chị sẽ thuận tiện hơn, thêm lý do cậu bận việc không tiếp và lo cho bà được.

Bà đến người con trai áp út, nhà ở trên đồi sang trọng, nhưng cách trở khu Little Saigon nơi bà muốn lui tới, thêm nữa bà không hiểu vợ chồng anh này nghĩ gì và làm gì, cứ lái xe đi cả ngày, về đến nhà thì ngủ, không nói gì đến bà, không màng lo chuyện cơm nước gì cả, cứ để mặc bà thui thủi một mình, không hề hỏi đến. Quán xá thì xa, không ai đưa đi, đường xe buýt bà chưa rõ. Bà thấy nhà sang trọng nên cũng ngán, cái gì bà cũng không dám sờ vào vì sợ hư hỏng hay nhớp nhúa, con dâu sẽ phiền. Nhà cửa trên đồi nhìn xuống thung lũng rất đẹp, cuối thu trời gió lạnh, nhưng không mở sưởi điện, sưởi gas nào hết. Bà hỏi thì được cho biết lò sưởi hư. Bà thấy cảnh này vừa lạnh trên thể xác, vừa lạnh trong tâm tư nhiều hơn, và nghĩ đi Lễ Tạ Ơn sum họp mà cảnh này quá buồn. Cảm thấy con và dâu không muốn tiếp mình, nhưng chẳng lẽ chờ chúng đuổi đi. Một mình ở nhà, bà gọi taxi đến nhà người con gái lấy chồng Mỹ.

Đến đây, người con rể Mỹ thấy bà mang bị đến, chỉ nhìn bà và “Hi” một tiếng, rồi tỉnh bơ coi như không có bà. Con gái bà biết ý chồng, không muốn khách khứa nhà quê quấy rầy. Nhà chỉ có ba phòng ngủ, cũng chỉ đủ cho vợ chồng cô ấy và hai con mỗi đứa một phòng. Để bà ở chung phòng với cháu, sợ bà già cả, sụt sùi lây bệnh nên cô tìm cách thoái thác, bảo bà rằng vợ chồng cô và hai đứa cháu sắp sửa đi nghỉ mát ở Big Bear trượt tuyết và khuyên bà nên tạm sang ở với người anh trưởng. Xong lấy xe chở bà thả trước sân căn nhà lầu của người con trưởng, lớn rộng cả gấp đôi căn nhà trung bình.

Lâu ngày gặp lại mẹ, thay vì vui  mừng, mời mọc chở bà đi chơi hay hàn huyên tâm sự, hỏi thăm chuyện người này người khác, hoặc sắp đặt chỗ ăn ở cho bà một cách thân tình, nhưng chỉ sau một tuần trà nước với vài chuyện qua loa, vợ chồng người con trai cả trách bà: “Mạ muốn sang chơi, sao không hẹn trước để chuẩn bị. Nhà còn một phòng trống nhưng cô em vợ đã gọi điện thoại đặt chỗ trước cả 2 tuần rồi, tối nay từ New York cô ấy bay sang. Vợ chồng con đã hứa dành sẵn cho cô ấy ở đây nghỉ trong dịp lễ Tạ Ơn này một tuần, vậy đâu còn phòng nào cho mạ ở. Vậy phiền mạ sang ở với mấy em con”.

Nghe thế, bà bối rối vài phút. Lấy lại bình tĩnh, bà nói không sao để má chơi đây một lát rồi má đi. Dạo thăm sơ, sau trước căn nhà, rồi bà nói đỡ gượng: “Ờ con gọi giùm cho mạ chiếc taxi mạ đi”. Thấy bốn người con đều không ai muốn tiếp đón mình, bà bảo taxi đưa đến một motel ở vùng Little Saigon và bà được nơi đây đón nhận nồng ấm. Rồi từ hôm đó, bà đi lông bông dạo chơi xem thiên hạ mua sắm, ngắm cảnh trí vùng Nam Cali, thăm vài bà bạn cũ rồi về motel nghỉ. Trưa nay đến quán này, bà gọi bồi bàn dọn cho bà một “Tiệc Tạ Ơn” giữa những quán khách xa lạ ồn ào. Rồi mai bà sẽ sayonara California, giữa trời cuối thu tê tái, cũng có thể là lần sau cùng.

Nghe bà vừa ăn vừa kể, với một giọng Huế nhẹ nhẹ buồn buồn, khiến Tân cũng buồn lây, nhớ đến câu thơ của người xưa: “Cùng một lứa bên trời lận đận. Gặp gỡ nhau lọ sẵn quen nhau” (Tỳ Bà Hành) nên tìm lời an ủi bà ta, bằng cách nói:

– Tỵ nạn sang ở xứ này, phần nhiều là vậy, hơi đâu mà bà buồn, cũng do mình một phần là không lấy hẹn trước mà thôi. Nhiều người còn gặp trường hợp trầm trọng hơn bà nữa, nhưng người ta không nói ra vì sợ xấu hổ mà thôi. Phần đông cũng có ít nhiều gặp hoàn cảnh như vậy, bà nên tỉnh bơ đi chỗ khác chơi cho vui rồi mai về.

Bà than: – “Ra đi là kể như chìm biển đông mà”.

Tân phụ hoạ: – Sau bao năm chiến tranh, bom đạn, chạy giặc qua biển cả hiểm nguy, bà còn sống sót đến bây giờ tại Mỹ là vui rồi. Hơi nào mà buồn. Miễn sao bà được mạnh giỏi và minh mẫn là tốt, còn mọi thứ khác, sao cũng được thôi.

Nghĩ bà cũng rành chuyện xưa, Tân nhắc lại vài chữ trong câu đối đáp của danh sĩ Ngô Thời Nhậm với Đặng Trần Thường:

– “…Thời thế thế, thế thời phải thế.”

Và tiếp: – Mỗi nơi đều có phong tục và văn hóa khác nhau, có khi hoàn toàn trái ngược là chuyện bình thường. “Thanks” mà bà đã “giving” rồi thì còn gì mà “thanks” nữa, nên là hết “thanks” rồi, đừng nghĩ đến nữa. Người da đỏ đã chào mừng và giúp người da trắng, người da trắng đã quay lại đàn áp người da đỏ. Bà cũng như người lái đò, đưa người qua sông rồi thôi, mấy người ngoảnh lại mà nhớ kẻ lái đò. Người đi nhờ thuyền chùa vượt sông biển, đến nơi không cảm ơn người chủ thuyền, còn lấy ơn làm thù, hăm dọa, chửi thề vung vãi để trả công cũng là chuyện đã có.

Nghe và nói đến đây, tô phở cũng đã ăn xong, Tân vội chào từ giã, lại quày trả tiền và bước ra khỏi quán, rộng chỗ cho những khách đang chờ. Trên đường lái xe đi, suy nghĩ về chuyện bà này, Tân nhớ đến chuyện mình lúc trước, bỏ quê, tay trắng đến Sàigòn mưu sinh, kiếm một chỗ cư trú thật rất khó khăn. Nhưng sau nhiều năm, Tân đã có một căn nhà, nhỏ hơn cái garage chứa 2 xe của mỗi nhà Mỹ ở vùng này. Nhưng bà con xa gần, quen biết ở quê, mỗi lần đến Sàigòn, vì bất cứ công việc gì, họ đều ghé trọ lại năm ba ngày. Có khi một lúc đến mười mấy người, mà vẫn có đủ chỗ ngủ nghê, cơm nước. Tân không lấy đó làm phiền mà còn lấy làm vui vì được dịp hân hạnh gặp lại thăm họ và giúp đỡ cho họ khỏi phải tốn kém và thường khi còn chở họ ra quán xá đãi đằng. Tân còn nhớ một người đồng hương, chồng làm thợ hồ, vợ gánh nước mướn ở Sàigòn lúc trước, nhà cửa bằng nửa cái garage nhà Mỹ, chật chội nhưng lúc nào khách từ quê đến cũng có thể tạm trú, cơm nước được mời mọc miễn phí. Còn ở California này, những căn nhà mới thường rộng hơn cái đình làng ở
quê ta, nhưng chỉ thêm một, hai người ở tạm vài hôm lại không được, đó cũng là
một nét tương phản, nhất là ở giới chuyên môn, khá giả. Khiến Tân bâng khuâng
suy nghĩ về hai thái cực: Một bên là chỗ nghèo chật, lại rộng lòng. Còn ở xứ này lại trái ngược: chỗ ở giàu rộng, nhưng hẹp lòng. Âu cũng là một khía cạnh khác về nước Mỹ. Lớp trẻ được cha mẹ sống chết khó khăn đưa sang Mỹ, chưa hề tiếp xúc với hoàn cảnh gian nan, đói khổ, chật vật ở Việt Nam nên không hiểu được tình tương trợ đùm bọc, rất khó tính và rất cá nhân vị kỷ.

Nhật Quang, 2005

Một niềm phó thác

Một niềm phó thác

WGPSG  — “Xưa kia, có một bà cụ hay ủ rũ khi nghĩ đến 2 người con ở xa : trời
mưa thì bà nghĩ đến người con bán dép rơm bị ế ẩm, vì không ai mua dép
rơm để đi mưa; trời nắng thì bà lại nghĩ tới người con bán dù, vì ai lại
mua dù mùa nắng.

Hàng  xóm thấy vậy xúm vào khuyên bà hãy nghĩ ngược lại: trời nắng thì nghĩ
tới người con bán dép rơm được đắt hàng, còn trời mưa thì nghĩ tới đứa
con làm dù không đủ bán.

Bà cụ nghe theo và từ đó sống thật vui vẻ.”

Câu  truyện như lời nhắc nhở chúng ta hãy sống phó thác mọi sự trong tay
Chúa. Muốn cho cuộc đời đầy hoan lạc thì phải để Chúa dẫn dắt theo ý
Ngài. Thánh Phêrô và các bạn ngư phủ đầy kinh nghiệm biết không thể bắt
được cá nếu thả lưới vào lúc Đức Giêsu bảo, nhưng vì vâng lời Người nên
các ông đã nghe theo. Các ông đã được hưởng niềm vui bất ngờ vì đã làm
theo thánh ý Chúa.

Lạy  Chúa Giêsu mến yêu, Chúa đã bảo chúng con đừng sợ nhưng chúng con cứ
mãi lo âu khi thấy biển đời đầy sóng gió. ‘Nắng mưa là chuyện của Trời’
mà chúng con muốn bắt phải theo ý mình. Chúng con xin mượn lời bài hát
“Phó thác” để dâng cuộc đời chúng con trong tay Chúa:

“Một niềm phó thác đời con trong tay Ngài. Đừng bỏ con mồ côi, gục ngã trong đêm dài…” Đừng sợ (Lc 5,10).

Maria Thanh Mai gởi

“Lấp đất, hố tôi, lấp với tay cô nàng,”

“Lấp đất, hố tôi, lấp với tay cô nàng,”

Thì hãy chôn, trái tim non buồn thương.”

(Paul Simon/Scarborough Fair- Giàn Tiên Lý Đã Xa)

(Lc 21: 25-26)

Lúc tan ánh mặt trời”, giờ đã đến! “Trái tim non buồn thương”, thì hãy chôn! Ôi thôi. Phải chăng đó là giờ phút anh “lấp đất”, “hố tôi”, “giàn thiên lý đã xa mãi người ơi”? Người xa mãi, cứ tít mù lời đồn đại, về thế tận? Phải chăng ý/lời bài hát trên là lời “tiên tri”, “hạ hồi sẽ rõ”? Rõ như ban ngày. Như, ngày thế tận có thông tin dồn cục ở trang mạng?

Trả lời câu hỏi này, cũng nên tóm tắt vài bản tin đọc được ở Úc rất như sau:

“Tại sao thế giới không tận tuyệt ngày hôm ấy?

Vâng. Đó, chỉ vì mấy ông bạn làm lịch người sắc tộc Maya đã tính sai những tháng ngày còn dài, có thế thôi. Nhưng, chuyện này vẫn không ngăn cản cơ quan NASA của Hoa Kỳ vừa cho ra đĩa hình đặc biệt cho thấy lời tiên tri trên lịch của dân Maya, nước Mexicô đã không thành hiện thực.

Làm sao hiện thực được, khi ở đầu đĩa đã thấy ghi lời phân trần, như sau: “Xem đĩa, bạn sẽ thấy rõ một điều là: ngày hôm qua, thế giới của ta chưa đi vào “ngõ cụt”, tựa hồ ngày tận thế đâu. Đĩa hình nói ở trên chỉ muốn chứng tỏ một điều là: hành tinh
Nibiru được biết dưới tên “Sumêrian” sẽ đụng vào trái đất, xoá sạch sự sống của
mọi sinh vật ở đây. Nhưng sự thực, làm gì có hành tinh nào giống như thế.”

Lại có lời đồn này khác, cứ đưa ra những lời đoán rất bậy bạ những bảo rằng: Mặt trời sẽ hủy hoại trái cầu của chúng ta, cũng chóng thôi. Nhưng, một lần nữa, may cho con người, là đã có cơ quan NASA cũng chứng minh rằng điều này vẫn sai tuốt luốt. Chuyên gia Lika Guhathakurta lại cứ đoán già đoán non rồi bảo:

Ngay lúc này, mặt trời đang đi vào giai đoạn chóp đỉnh của chu kỳ 11 năm vần vũ vẫn cứ quay, nhưng nay là giai đoạn chót có hiện tượng kỳ lạ nhất trong 50 năm qua.”

Nói thế, có nghĩa là: từ trường mặt đất, lúc này đây, sẽ đi ngược chiều khiến cấu tạo nhiều biến động về khí hậu cực kỳ khó chịu? Và, hành tinh ta đang sống có rơi vào hố sâu đen ngòm mà trước đây ta chưa từng thấy? Cơ quan NASA một lần nữa lại nói tiếng“Không”, rất chắc nịch. Ts John Carlson cắt nghĩa trong đĩa hình rằng: “Ý niệm về thời gian mà sắc dân Maya khi xưa sử dụng đã đụng phải ý niệm của các nhà khoa học ngày nay, kiểu thoái hoá. Theo hiểu biết của ngành khoa học hiện đại,
thì Vụ Nổ Big Bang đã xẩy ra cách nay những 13,7 tỷ năm trời, rồi còn gì. Thế
nhưng, tháng ngày được ghi trong đống tro tàn mảnh vụn của nền khoa-học dân-tộc
Maya lại thấy những tháng ngày ngược ngạo đến tỷ tỷ năm xưa hơn thế. Lịch của
sắc dân này bới những cân-đong-đo-đếm như thế chỉ để dõi theo khoảng cách sai
biệt quá xa vời đối với hệ thống viết nên lịch chưa từng triển khai khi nào.
Thành thử, như quý vị thấy đó, chẳng có cái-gọi-là tận thế hay tận mạng gì hết
cả. Đấy chỉ là ý niệm vẩn vơ tương đương với chuyện quên không lấy lại đồng hồ
báo thức, chỉ thế thôi.”
(x. au.news.yahoo.com/world/a/-/world/15636301/why-didnt-the-world-end-yesterday 14/12/2012)

Thật đúng như phim tập! Phim, là phim về sự sống trên hành tinh mang tên địa cầu,
cũng rất rầu. Thế nghĩa là một số bà con ta hết chuyện để bàn rồi, bèn chui vào
địa hạt khoa học không gian với khoa chiêm tinh/bói toán rồi đồn rồi đoán. Đoán
thật hay đoán giả thế nào không biết, nhưng cũng đã làm nhiều người bấn loạn
lên, hết tự tử, rồi lại bắn giết các trẻ bé ở trường Mẫu giáo nọ, đến nực cười.

Thế nhưng, chuyện đáng cười của người đời không chỉ là đoán già đoán non ngày
thế tận. Mà là, những ý tưởng vẩn vơ, chết chóc, tựa hồ lời thơ với ca nhạc như
nghệ sĩ nọ vẫn từng hát:

“Tội nghiệp thằng bé cứ nhớ thương mãi quê nhà.


Giàn thiên lý đã xa, đã rời xa.


Đứa bé lỡ yêu, đã lỡ yêu cô em rồi.


Tình đã quên mỗi sớm mai lặng trôi.”

(Paul Simon – bđd)

Quả là, mỗi sớm mai im lặng trôi, tình quên thật. Người cứ mải quên sót mọi thứ
tình, để rồi luận bàn mãi những điều ít thấy, ít xảy ra. Chẳng thế mà, đấng bậc
nọ đã phải lên tiếng cả trong nhà thờ, qua bài chia sẻ rất nổi cộm như sau:

“Cuối năm 1999, dân chúng khắp nơi chừng như vẫn hối hả, ưu tư khi thế giới đang từ từ bước dần vào những ngày đầu của thiên niên kỷ mới. Có người dựa vào Phúc âm, để quyết đoán rằng: ngày thế tận đã gần kề. Và, Đức Kitô nhất định sẽ quang lâm giáng thế một lần nữa, vào ngày sinh thứ 2000 của Ngài.

Những ai quả quyết chuyện này, xem ra đã liên tưởng đến câu ngạn ngữ mà các cụ ngày xưa vẫn dặn dò: hãy luôn đặt mình vào tình huống xấu nhất, để rồi từ đó mình mới tự tìm cách thoát ra, mà đi vào chốn lạc quan, đầy ân huệ. Thật ra, Đạo Chúa đã bước vào chốn lạc quan niên lịch từ thế kỷ thứ tư, sau công nguyên. Đúng hơn, đấy là năm 526 tại La Mã, tu sĩ uyên bác tên là Dionysius Exiguus đã dày công nghiên cứu các niên biểu ghi rõ ngày Đức Giêsu sinh ra, tử nạn và sống lại để biên
soạn làm niên lịch cho Hội thánh.

Nhiều năm sau, ông đã định ngày cho các nghi lễ phụng vụ để rồi đúc kết thành một bộ gọi là lịch Hội thánh. Với các dụng cụ sơ sài tự kiếm, một thày dòng chuyên tu như thày Dionysius làm được niên lịch Hội thánh như thế, cũng là chuyện phi thường, hiếm thấy. Tuy nhiên, nếu căn cứ vào các nguồn sử liệu bên ngoài và nhất là vào Tân Ước, khi kể về các vị cầm quyền Do Thái và La Mã ở Palestine, thì dứt khoát là lịch của Dionysius đã đi trễ, những 4 năm.

Đến năm 1582, Giáo hội biết rõ những sơ hở này, đã định sửa đổi. Tuy nhiên nếu sửa, thế giới sẽ phải bỏ phí đi, mất 4 năm. Chung cuộc, đã có quyết định là ta cứ để vậy. Như thế, tính đúng thực tại, phải thừa nhận rằng ngày Đức Giêsu quang lâm, lẽ đáng phải là năm 1996, chứ không phải 2000, như số dân con nhà Đạo từng khẳng định. Thêm một thực tế khác nữa, là: mỗi khi bắt đầu kỷ nguyên mới, tín hữu Đạo Chúa lại  được nghe kể về điềm thiêng dấu lạ trên mặt trời, mặt trăng cùng các ngôi sao, tinh tú. Rồi đến, thiên tai hạn hán mất mùa, động đất sóng thần, cứ liên tục
xảy đến. Và, người dân ngoan hiền ở quận huyện lại sẽ cho rằng: ngày Chúa tái
lâm đã gần kề. Tuy nhiên, rõ ràng là ta vẫn chờ. Và, vẫn cứ chờ.

Nếu ai muốn xác minh về điềm báo khốc liệt như thế, có lẽ nên nhớ lại lời dặn dò của Chúa hôm trước: “Các con chẳng thể biết được thời gian và nơi chốn khi Con Người đến trong vinh quang.” Chính vì lời dặn này, mà cộng đoàn thánh Luca nghĩ rằng Đức Kitô sẽ nhanh chóng quang lâm, trong tương lai gần. Ngài sẽ đến lại trong huy hoàng, lộng lẫy. Thời gian vẫn cứ trôi. Điềm báo, dấu hiệu vẫn cứ đến. Và, cộng đoàn tiên khởi lúc đó mới vỡ lẽ rằng: ngày Chúa quang lâm không mang mốc chặng thời gian và không gian gì rõ rệt hết.

Thực tế cho thấy: thời gian và không gian luôn thuộc về Ngài. Hy vọng đợi chờ từ nơi tín hữu thời ban sơ đã phản ảnh tình huống bách hại, những là khổ đau. Tín hữu Đạo Chúa nay đà hiểu rõ: chẳng thể tuyên xưng lòng tin vào Đức Kitô một khi hành vi, cuộc sống của mình không phản ảnh được sự sống ở Nước Trời, Ngài hằng nói đến. Đó là mấu chốt của niềm tin. Đó mới là mốc chặng của Tin Mừng mặc khải.

Nói rõ hơn, nếu tín hữu Đạo Chúa sống và thực hiện điều Đức Kitô truyền dạy nơi Tin Mừng, bằng và qua cuộc sống thường nhật, thì chắc chắn thế giới này cần phải đổi thay. Thế  giới này sẽ có thay đổi. Thay đổi rất nhiều. Thay đổi theo chiều hướng tốt đẹp. Và khi đó, Đức Kitô mới quang lâm trong huy hoàng lộng lẫy, như mọi người chờ mong.

Cho đến nay, chưa nắm rõ được ngày giờ thế giới nhân trần đã đi vào giai đoạn tận tuyệt chưa. Nhưng ở đây, vào những giây phút đầu của niên lịch Hội thánh, ta biết rõ được hai điều: Đức Chúa sẽ trở lại bất cứ lúc nào khi ta thực hiện được tình yêu thương – tha thứ. Khi ta biết san sẻ tài sản ta có. Và, biết xót xa, độ lượng. Biết hy sinh cho những người có nhu cầu hơn ta. Thứ đến, vào ngày quang lâm Ngài đến lại, có thể sẽ không có hiện tượng mặt trời mặt trăng quay cuồng, nhảy múa. Và có thể,
cũng chẳng thấy hiện tượng thủy triều dâng sóng ngút ngàn, đâu. Và cuộc đời ta
vẫn cứ phẳng lặng. Vẫn trĩu nặng tình thương yêu, như trước.

Thực tế Nước Trời quang lâm đang diễn tiến. Quang lâm chính là lúc tình yêu dũng cảm của bậc cha mẹ đối xử với con. Quang lâm, là lòng thương yêu triển nở của vợ hoặc chồng đang diễn tiến với người phối ngẫu yếu đau.

Quang lâm còn là, lòng cảm thương yêu giúp đỡ của thế giới đã phát triển đang đùm bọc các quốc gia nghèo, thuộc thế giới thứ ba. Đại để là, mỗi khi ta có được những tình thương cao cả như thế, thì Vương quốc Nước Trời đã nguy nga, tráng lệ đủ để chứng minh rằng những điều Đức Giêsu loan báo về việc Ngài quang lâm, vẫn đến với chúng ta mỗi ngày, mỗi giờ. Ở mọi nơi, vào mọi lúc.” (xem Lm Richard Leonard, Suy Niệm Lời Chúa Chúa Nhật Thứ Nhất Mùa Vọng Năm C 02/12/2012 Bản Tin Giáo xứ Fairfield, Úc)

Có thể là bà con ta cứ mải bàn luận những chuyện tréo cẳng ngỗng như thế là do
hiểu không hết ý nghĩa của lời thánh hiền khi xưa từng viết:

“Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao.

Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang

trước cảnh biển gào sóng thét.

Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc,

chờ những gì sắp giáng  xuống địa cầu,

vì các quyền lực trên  trời sẽ bị lay chuyển.”

(Lc 21: 25-26)

Hiểu sự đời như thế, có khác nào người nghệ sĩ lại cứ viết:

“Này! Nàng hỡi nhớ may áo cho người.


Giàn Thiên lý đã xa tít mù khơi.


Tấm áo cắt ngay, đã cắt trên khăn lụa là.


Là, chiếc chăn đắp chung những ngày qua.”

(Paul Simon – bđd)

Chăn đắp chung, những ngày qua”, có phải là những tư tưởng buồn sầu ảo
não, vì tin vào ngày chấm hết của thế giới? “Giàn thiên lý đã xa tít mù khơi”,
phải chăng là cõi đất trời nay, tít mù tắp?

Để giải đáp, lại xin nghe những lời của đấng bậc thượng thừa, rất như sau

“Anh chị em có bao giờ về thăm nông trại nào đó vào một mùa hè nóng bỏng không? Nếu có, chắc anh chị em cũng có kinh nghiệm không ít về chuyện khan hiếm nước, như thế nào. Bản thân tôi, có nhiều dịp từng về quê thăm nông trại của ông chú ruột. Lúc ấy, chúng tôi gồm chừng 6, 7 người anh em họ, phần đông sống ở thị thành, về đây lưu lại sống trọn kỳ nghỉ. Một lần về là một lần thấy vui. Duy có điều mà chúng tôi cứ nhắc nhau mãi: phải cẩn trọng, khi sử dụng nước! Dường như, chúng ta quen sử dụng lượng nước tắm gội bao giờ cũng gấp đôi dung lượng của người anh em sống ở vùng sâu vùng xa, nơi thôn xóm.

Tôi nhớ mùa hè năm ấy ở miệt dưới, bà con chúng ta đã phải trông chờ hầu như suốt chín tháng trời ròng rã vẫn không thấy một giọt rơi vãi những nước mưa. Mãi về sau, vào buổi bóng xế hôn hoàng hôm đó, chúng tôi mới thấy cảnh “thuở trời đất nổi cơn gió bụi”. Và, từng đám mây vần vũ từ đâu đến. Chốn thiên đàng như rộng mở. Và sau đó, từng khối và từng khối nước ào ào trút xuống đến độ chúng tôi không biết
lấy gì để hứng. Tựa như một hoạt cảnh, anh em chúng tôi vụt dậy chạy nhanh ra
đứng ngồi nơi lộ thiên, quyết vui hưởng ơn mưa móc tràn đầy những nước và nước.
Chẳng một ai muốn cất nên lời. Anh em chúng tôi, đứng đó tận hưởng những giọt
vắn giọt dài, đầy ân sủng. Mình mẩy chúng tôi ai nấy đều ướt sũng như chuột
trong hang ngập nước, nhưng vẫn cứ đứng mà đón nhận ơn mưa móc. Vạn vật, chừng như chỉ mong mỗi một điều là được triền miên tắm gội, toàn bằng nước .

Trong thư thánh Giacôbê tông đồ, hình ảnh mong chờ cơn nước lũ đổ xuống trên ta, được coi như ví dụ để hiểu rõ thế nào là sự chờ đợi ngày Đức Kitô đến lại. Đây, là hình ảnh sắc nét nhất, về Vọng chờ. Mỗi năm, vào mùa này, ta đều liên tưởng đến cảnh trí, qua đó nhân loại ao ước chờ mong dấu hiệu về cuộc sống mới, nơi Giêsu Đức Chúa.

Nhiều thế hệ cứ thế trôi qua, nhưng dân con nhà Đạo vẫn ngước mắt nhìn lên bầu trời rộng mở, ngong ngóng/kỳ vọng có được dấu hiệu nào đó cho thấy: hôm nay là ngày ơn cứu độ của Đức Chúa đổ tràn hồng ân, cho muôn dân. Thế rồi, vào buổi tối trời hôm ấy, theo cách thức không ai có thể mường tượng được; không kèn không trống, một Hài Nhi đã lao vụt về với thế giới gian trần, để lập nên triều đại cuối cùng, cho tình yêu của Đức Chúa.” (xem Lm Richard Leonard sj, Suy Niệm Lời Chúa , Chúa Nhật thứ 3 Mùa Vọng năm C, Bản Tin Giáo xứ Fairfield Úc 16/12/2012)

Nói gì thì nói, bàn gì thì bàn, hỡi bạn và hỡi tôi, ta cũng chỉ nên bàn bằng các câu truyện kể nhè nhẹ về tình yêu, hy vọng và niềm tin còn đứng vững như sau:

“Ngay từ khi lọt lòng mẹ, bác sĩ đã quả quyết rằng Kimberly Marshall không thể nào sống được. Bé bị chứng Cytic Fibrosis, một chứng bịnh bẩm sinh và di truyền mà người ta thường gọi tắt là CF. Trong sự tuyệt vọng để cứu sống con mình, mẹ của Kim đã mang bé về nhà, mỗi ngày ba bốn giờ, bà và bà ngoại của Kim đã thay phiên nhau vỗ nhẹ trên lưng và ngực của bé, với hy vọng mong manh là có thể làm tan đi những cục đờm đang đóng nghẹt trong phổi của bé. Một bác sĩ chuyên khoa về CF cho biết, diệt trừ những cục đờm bằng cách này, chẳng khác gì dùng chổi để quét mật ong trên sàn nhà.

Ngoài sự dự liệu của mọi người, bé Kimberly đã thoát được lưỡi hái của tử thần. Bé lớn lên và vào trường tiểu học.

Kim còn học vũ ballet và gia nhập đội soccer của trường. “Kìa nhìn xem công chúa của tôi” mẹ của Kim thường hãnh diện nói như vậy, mổi khi bà đứng bên lề sân cỏ để xem Kim đá bóng.

Bà vẫn mơ ước là Kim sẽ lớn lên bình thường nhưng những đứa trẻ bình thường khác. Bà mơ ước rằng Kim sẽ lên trung học, sẽ tham dự buổi khiêu vũ cuối năm lớp 12, và một buổi tối sẽ ngẩng mặt lên để đón nhận nụ hôn đầu của một chàng thanh niên đẹp trai.

Nhưng bác sĩ Robert Kramer, vị bác sĩ chuyên khoa về CF đầu tiên tại Dallas, đã nhiều lần khuyến cáo mẹ của Kim là cô bé chỉ tạm thời lướt thắng được cơn bịnh mà thôi. Giống như một tên sát nhân nguy hiểm, các bác sĩ chưa có phương cách để ngăn chận được CF. Mặc dù với nền y khoa hiện đại cùng thuốc men và máy móc tối tân, cũng chỉ giúp các bệnh nhân dễ chịu hơn, ít đau đớn hơn mà thôi. Tuổi thọ trung bình của các bệnh nhân CF chỉ ở vào khoảng 29.

Ðúng như lời của bác  sĩ Kramer, sức khoẻ của Kim tự dưng tuột dốc như một cái phao bị xì hơi. Mẹ của Kim, không còn cách nào hơn, bắt buộc phải mang Kim vào bệnh viện Presbyterian tại Dallas để chữa trị. Và cứ như vậy, Kim chỉ khoẻ được vài tháng, rồi lại phải vào bệnh viện…, lại khoẻ vài tháng rồi lại vào bệnh viện.

Trong những lần phải nằm bệnh viện, Kim luôn luôn mang theo những con thú nhồi bông, cái chăn màu  hồng mà cô bé thích nhất, cùng quyển nhật ký thân yêu. Mỗi khi chứng kiến một bạn cùng phòng bị CF cướp đi mạng sống, Kim lại viết vào nhật ký của mình, chẳng hạn như: “Wendy đã chết vào lúc 8 giờ sáng nay. Tội nghiệp nó quá. Nó đã đau đớn suốt đêm”. Mẹ của bé đã nghĩ thầm “Có lẽ đây là cách Kim
chuẩn bị cho những gì có thể xảy ra cho cô bé trong tương lai chăng?”.

Trong một thời gian, Kim đã cố gắng sống như một đứa trẻ “bình thường”. Cô thường hay gọi những đứa trẻ may mắn không bị chứng CF là “bình thường”. Trong những năm ở trung học, Kim đã cố gắng để lấy điểm A hay B. Cô mặc áo đầm dài để che giấu đôi chân gầy guộc, khẳng khiu của mình. Khi những bạn học hỏi về những cơn ho không dứt của cô, thì Kim trả lời rằng cô bị hen suyễn. Cô cũng chở những
bạn gái khác trên xe hơi của mình, cũng bấm còi inh ỏi, cũng vẫy tay chào và
cười duyên với bọn con trai cùng trường.

Nhưng Kim vẫn không thể lừa dối được thực tế. Bộ tiêu hoá của cô đặc nghẹt những đờm, khiến cô bị đau bụng và tiêu chảy. Thần kinh bị xáo trộn nên Kim đi đứng không vững. Ðôi khi Kim cũng bị hoa mắt.

Cuối cùng, cuối năm lớp 12, Kim phải rời trường để học tại gia vì sức khoẻ của cô quá yếu. Trong một phút nản lòng, Kim đã từ chối không muốn hình của mình được đăng trong kỷ yếu của trường, viện cớ là cô quá ốm yếu và xấu xí. Chán chường, Kim trở nên gắt gỏng với mọi người và hay cãi cọ hoặc xung đột với em gái của mình. Ðể giải sầu, Kim xem đi xem lại bộ phim “Blue Lagoon” không biết bao nhiêu
lần. Bộ phim nói về cuộc đời của hai đứa trẻ, một trai một gái, bị đắm tàu và
sống bơ vơ trên một hoang đảo. Cuối cùng, hai người đã yêu nhau tha thiết.

David Crenshaw, một bệnh nhân CF, đã để ý đến Kim khi hai người còn điều trị tại bệnh viện Presbyterian vào mùa xuân 1986. Kim, ở tuổi 16, ốm và xanh xao nhưng không thiếu nét dễ thương với mái tóc đỏ ngang lưng, buông xoã trên chiếc áo ngủ
hồng. David, lúc đó 18, mặc áo thun rộng thùng thình, quần pajama bạc màu, mang
cặp kiếng cận to tổ bố với hai gọng kính gãy được dán lại với nhau bằng miếng
băng keo.

“Ðừng hy vọng con bé để ý đến mày”, Doug Kellman, người y tá trong bệnh viện thường trêu David như vậy mỗi khi bắt gặp David đang mê mẩn nhìn trộm Kim. Thật tình mà nói, khó có thể tưởng tượng được David và Kim sẽ trở nên một cặp tình nhân. Kim thích quần áo đắt tiền, nước hoa và mỹ phẩm. Cô thích ngồi hằng giờ trên giường để đọc tiểu thuyết tình cảm. Trong khi đó, David nổi tiếng thích lấy le với
những cô gái bằng những mầu chuyện vui tục tằn.

Trông có vẻ yêu đời và khoẻ mạnh, David là một huyền thoại của khu CF. Không một bệnh nhân nào thuộc khu CF dám làm những việc David đã làm. Chẳng hạn như khi David không phải nằm bệnh viện, anh rất thích đua xe hơi mini tại sân đua gần nhà. “Mục đích của chúng tôi là giúp cho David sống như một đứa trẻ khỏe mạnh. May ra nhờ vậy, nó có thể lướt thắng được căn bịnh hiểm nghèo này”, ba của David đã nói như vậy.

Ðúng thế, David không  bao giờ biểu lộ cho người khác biết là mình bị bệnh. Anh đã tổ chức cuộc đua xe lăn và cuộc thi ném cà chua trên từng lầu 3 của bệnh viện. Có một đêm, David đã dẫn một số bệnh nhân CF đi đua xe mini, trong sự giá lạnh của mùa đông với nhiệt độ bên ngoài xuống gần 0 độ bách phân. “Có lẽ hắn nghĩ rằng hắn bất tử”, bác sĩ Kramer thường đùa như vậy.

Trong suốt hai năm  trời, David thường đi qua cửa phòng của Kim, lấy can đảm vào phòng, tán tỉnh. Nhưng Kim chỉ mỉm cười rồi lại cắm cúi đọc sách. Nhưng David chẳng nản lòng. “Khi David được ở nhà trong khi Kim phải ở lại bệnh viện, David thường hay gọi điện thoại cho tôi để hỏi han bệnh tình của Kim, mặc dầu Kim chẳng bao giờ để ý đến David. Ngay cả những khi David hỏi giờ, Kim cũng không thèm đáp lại”, người y tá cho biết như vậy.

Một điều ngạc nghiên, rất nhiều mối tình đã được kết hợp trong khu CF. “Ðừng nghĩ rằng chỉ vì họ bệnh hoạn mà họ không nghĩ đến tình yêu”, bác sĩ Kramer nói như vậy, “Có lẽ họ nghĩ đến tình yêu còn nhiều hơn những người khoẻ mạnh. Ðó là một
cách để họ biểu lộ sức sống và sự yêu đời của họ cho mọ người biết”.

Vào cuối năm 1988, Kim  chơi thân với một bệnh nhân cùng khu CF tên là Steven. “Tôi không nghĩ mối tình của họ sẽ bền vững. Họ sợ phải sống với nhau”, David khẳng định như vậy. Ðúng như lời David, cuộc tình của Kim và Steven chỉ một sớm một chiều đã tan vỡ.

Cuối mùa thu năm 1989, khi David và Kim, cả hai cùng được dưỡng bịnh tại tư gia, David đã gọi điện thoại mời Kim đi ăn tối. Mặc dù Kim đã quyết liệt từ chối, David vẫn lì lợm bảo Kim “Anh sẽ có mặt tại nhà em vào lúc 8 giờ tối, không nhưng không nhị gì hết cả”. Hoảng sợ, Kim rủ theo cô em gái, Pettri, để cô em ngồi ghế trước
với David còn nàng thì ngồi băng sau, nhất định không thèm nói chuyện với
David. Suốt bữa ăn, Kim hoàn toàn im lặng.

Nàng đã trợn mắt lên với David khi anh đề nghị cả ba cùng đi khiêu vũ. Khi David đưa Kim về đến nhà, nàng mở cửa xe và chạy một mách thẳng lên phòng, đóng kín cửa lại.

Dù vậy, David vẫn không bỏ cuộc, lì lợm, trường kỳ mặt dày đến nhà Kim. Thế rồi anh đã rủ được Kim đi chơi bowling. Sau đó, Daivid còn dẫn Kim đến sân đua để xem anh đua xe hơi mini.

Bất kể mọi chuyện, cuối cùng mối tình của David và Kimberly cũng đã nảy nở. Kim đã thật sự yêu David. Ngày 17 tháng 11 năm 89, Kim đã viết vào nhật ký của mình “Ðêm hôm nay, mình và David đã hôn nhau lần đầu. Lạy Chúa, xin chúc phúc cho mối tình của chúng con và xin cho chúng con yêu nhau mãi mãi”.

Sáu tháng sau, Kim và David tuyên bố làm lễ đính hôn. Tin được tung ra làm tất cả mọi người trong gia đình hai bên đều sửng sốt và bàng hoàng. “Tụi mày điên cả rồi, cả hai đứa bay đều bệnh hoạn”, ba của David đã lớn tiếng ngăn cản con. Riêng mẹ của Kim cũng khuyên ngăn con bằng một giọng đầy nước mắt “Con có biết rằng một
trong hai đứa sẽ chết trong vòng tay của đứa kia hay không?”.

Nhưng Kim và David vẫn quyết định lấy nhau. “Tôi nghĩ Kim biết rằng đây là cơ hội cuối cùng để nó được yêu”, mẹ của Kim cuối cùng đã nói như vậy và đã đồng ý tán thành cuộc hôn nhân.

Ngày 27 tháng 10 năm 1990, Kim trong chiếc áo cưới trắng tinh, sung sướng bước lên cung thánh, trước mặt Thiên Chúa nhận David làm chồng. Thánh lễ được cử hành trong những tiếng ho sặc sụa của các bệnh nhân khu CF. Tất cả được mời đến để tham dự, chứng kiến và chung vui ngày hôn lễ của Kim Marshall và David Crenshaw.

Họ chung sống với nhau bằng số tiền cấp dưỡng khiêm nhường trong một căn hộ nhỏ bé nhưng rất ấm cúng. Căn hộ được trang bị như một bệnh viện với những bình dưỡng khí, một tủ đầy thuốc và một tủ lạnh chứa đầy nước biển.

Việc dọn dẹp nhà cửa mới thật là khó khăn. Những khi phải dọn dẹp hoặc giặt giũ, họ phải mất cả ngày trời mới làm xong việc. Ðến tối, cả hai đều mệt lả. Dầu vậy, họ là cặp vợ chồng hạnh phúc nhất trên đời. David gọi Kim là “cọp con” vì nàng có mái
tóc hung đỏ.  Kim gọi Daivid là “gấu rừng” vì chàng phá như gấu. Chàng luôn luôn mua cho nàng những tấm thiệp ướt át nhất, càng ướt át bao nhiêu, càng tốt bấy nhiêu. Nàng luôn luôn viết cho chàng những bức thư tình thật dài, thật nồng nàn và tình tứ. “Chúng ta sẽ vượt qua mọi thử thách. Chúng ta sẽ thắng”, họ thường quả quyết với nhau như vậy.

Ðể kiếm thêm tiền tiêu vặt, David nhận thêm việc sửa xe hơi mini. Anh lại còn ghi tên học để lấy bằng Cử nhân về kế toán. Một người bạn thân ở khu CF khuyên David không nên phí sức. “Những việc tôi làm tất cả chỉ vì Kim. Ðời tôi bây giờ chỉ có Kim mà thôi”, David trả lời.

Vào năm 1992, những mạch máu trong người Kim bắt đầu tắt nghẽn. Vì cơ thể Kim không thể tiếp nhận những dinh dưỡng từ bộ tiêu hoá, Kim đã xuống cân một cách thảm hại. Thân thể nàng chỉ còn da bọc xương. Nàng rất xấu hổ khi tới những nơi công cộng. David đã viết cho Kim “Này cọp con, em là người đẹp nhất của đời anh. Anh yêu em bằng tất cả con tim, linh hồn và khối óc củ anh. Gấu rừng”.

Trong những lần Kim phải nằm bệnh viện, David không rời Kim nửa bước. Anh đã ngủ trên chiếc ghế bố kê trong phòng. Ðể giúp Kim khuây khoả, David đã đưa Kim đến khu sơ sanh, để Kim được ngắm những đứa trẻ mới chào đời. Và nếu nửa đêm Kim có đòi ăn kẹo, David chẳng ngần ngại, bất kể thời tiết, khoác áo đi mua ngay những viên kẹo mà Kim ưa thích. Lạ lùng thay, sức khoẻ của Kim càng ngày càng khá hơn. Cuối cùng, nàng đã được bác sĩ cho xuất viện.

Ðầu năm 1993, bệnh tình của David bỗng dưng trở nên trầm trọng. Những tiếng ho của anh lớn hơn. David ôm ngực ho từng cơn, ho sặc sụa. Những cơn ho như muốn phá vỡ tung lồng ngực của anh. Mặt David sưng lên như bị phù thủng. Dần dần, David đã phải thở bằng dưỡng khí. Nhưng David vẫn đoan chắc với Kim là chàng chẳng sao cả, chỉ cần tĩnh dưỡng ít lâu là sẽ khỏi. David đã giấu Kim những điều mà bác sĩ Kramer đã cho anh biết trong kỳ khám nghiệm mới đây: phổi của anh đã rách nát, thanh quản sắp nghẹt cứng. David đang chết lần, chết mòn vì thiếu dưỡng khí.

Chạy đua với thời gian, David không để lãng phí một giây phút nào. Tháng 7 năm 1993, để kỷ niệm sinh nhật thứ 26 của chàng và thứ 24 của nàng, David rủ Kim đi nghỉ hè ở bãi biển Florida. “Ðó là lần đầu tiên họ cảm thấy rất thoải mái khi ra khỏi
nhà để tới vùng biển. Cả hai đều mang theo bình dưỡng khí. Họ ngồi bên nhau,
nắm tay nhau trên bãi cát vàng”, Mandy, em gái Kim cho biết như vậy.

Ba tháng sau, David và Kim cùng đi khám bệnh. Trong khi Kim đợi ở phòng bên, bác sĩ Kramer, sau khi khám cho anh, đã nói với anh rằng “Anh phải nhập viện ngay tức khắc, lần này sẽ hơi lâu”. David trầm ngâm một hồi lâu, rồi nói “Xin bác sĩ tận tình chăm sóc cho Kim”.

Bác sĩ Kramer đến phòng Kim và cho nàng hay tin chẳng lành. Kim cúi đầu yên lặng, cố giấu hai hàng nước mắt “Xin bác sĩ tận tình giúp anh, đừng để anh phải đau
đớn”, nàng nức nở khẩn nài với bác sĩ Kramer.

Trong suốt ba mươi năm chuyên khoa về CF, bác sĩ Kramer đã từng chứng kiến hơn 400 bệnh nhân trẻ qua đời. Ðể khỏi bị ám ảnh, ông đã cố gắng không để tình cảm mình bị chi phối với những trường hợp như của David. Nhưng lần này, ông đã ôm Kim vào lòng và ông không sao cầm được nước mắt của mình.

David nhập viện ngày 21 tháng 10 năm 1993. Kim ngồi bên cạnh anh. Nàng đã cố gắng viết một bức thư cho Hội Ðồng Y Khoa của bệnh viện Presbyterian, khẩn nài xin họ thay phổi cho David. Nhưng Kim không bao giờ viếc xong lá thư.

Năm ngày sau, môi và móng tay của David trở nên bầm tím. Kim thổn thức bên anh “Anh ơi, đừng đi, đừng bỏ em”. David không nói nên lời, chỉ mấp máy đôi môi “Anh
yêu em”, rồi chàng gởi cho nàng một nụ hôn gió. Hai người cầm tay nhau
thật chặt, nhìn nhau một lần cuối thật lâu. David bóp mạnh tay Kim rồi nhắm mắt
yên giấc ngàn thu.

Sau ngày tang lễ của David, Kim trở nên điên loạn. Một tuần sau, mẹ nàng đưa nàng trở lại bệnh viện. Sau khi khám cho nàng, bác sĩ Kramer nói với mẹ nàng “Cơ thể của nàng đã kiệt lực. Kim đang chết mòn vì nhớ thương David”.

Rồi Kim rơi vào trạng thái nửa tỉnh, nửa mê trong hai ngày. Bỗng nhiên, vào sáng sớm ngày 11 tháng 11 năm 1993, Kim trở nên tỉnh táo lạ thường. Nàng mở mắt và nói bằng một giọng rất lạ, nhẹ nhàng như tiếng chim mà không ai hiểu nổi. Người nữ y tá chăm sóc nàng cho biết hình như Kim đang nói chuyện với David. Sau đó, Kim từ từ nhắm mắt, bình thản ra đi về bên kia thế giới.

Kim được liệm trong chiếc áo cưới trắng và được chôn bên cạnh David. Trên ngôi mộ đôi, dựng một tấm bia đá, với những hàng chữ được khắc sâu như sau “David S (Gấu rừng) Crenshaw và Kim (Cọp con) Crenshaw, bên nhau mãi mãi. Nghĩa phu thê trọn 3 năm”.

Gia đình và bạn bè đều đồng ý là chuyện tình của Kim và David không giống bất cứ một chuyện tình nào cả. Riêng bác sĩ Kramer đã tâm sự “Ðối với tôi, chuyện tình của họ như chuyện tình của Romeo và Julliette”.

Một tuần lễ sau, trong lúc mẹ của Kim thu dọn đồ đạc của hai con, bà đã tìm thấy một tấm thiệp mà David đã gởi cho Kim trước khi chàng rời bỏ thế gian. Tấm thiệp có những lời tình tự như sau “Em yêu, chúng ta gần nhau ngay cả khi chúng ta xa nhau. Hãy ngước mắt nhìn lên, chúng ta đang sống trong bầu trời đầy tinh
tú.”
(x. Trần Quốc Sỹ, theo “The Love Like No Other” Reader’s Digest, May 1995)

Truyện kể hôm nay, người kể không ghi thêm một lời bàn nào hết. Nhưng bàn thêm
mà làm gì. Bởi, cũng như câu chuyện về ngày sau hết của thế giới, cũng chẳng
cần bàn tán nhiều mà làm gì, chỉ cần cảm nghiệm là đủ. Cũng thế, truyện kể về
tình yêu thương, trước khi đi vào cõi hết, cũng đại để như truyện kể về ngày
thế tận.

Hôm nay đây, bàn về câu chuyện loanh quanh ngày thế tận, lại có người đến gần
bần đạo, đưa ra một câu hỏi nhỏ: “Nếu anh biết rằng ngày mai là ngày
thế tận, thì anh tính sao?”
Bần đạo nhớ mang máng câu trả lời/trả vốn
của mình chỉ thế này: “Khi ấy tôi cũng sẽ lấy giấy bút ra để viết đôi giòng
phiếm ngăn ngắn về những cảm nghiệm của mình trước khi không còn có khả năng để cầm bút mà viết nữa. Và chuyện phiếm tôi viết khi ấy, cũng chẳng có gì để ai
đọc, vì chẳng còn ai để đọc nữa, nhưng vẫn còn người để viết, ấy là tôi.”


Trần Ngọc Mười Hai


Và đôi giòng tưởng tượng về ngày tận cùng
của thế giới và cuộc đời.

Maria Thanh Mai gởi

Thánh Gioan Tông Ðồ

Thánh Gioan Tông Ðồ

27 Tháng Mười Hai

Chính Thiên Chúa là người mời gọi, và nhân loại đáp lời. Trong Phúc Âm, lời mời gọi
ông Gioan và ông Giacôbê (James), người anh của ông, được bắt đầu rất đơn giản,
cũng như lời mời gọi ông Phêrô và Anrê: Ðức Giêsu gọi họ; và họ theo Ngài. Sự
đáp ứng mau mắn được miêu tả rõ ràng. Các ông Giacôbê và Gioan “đang ở
trên thuyền, cùng với người cha là ông Zêbêđê vá lưới. Ðức Kitô gọi họ, và ngay
lập tức họ bỏ thuyền và từ giã người cha mà theo Ngài” (Mátthêu 4:21b-22).

Ðức tin của ba ngư dân — Phêrô, Giacôbê và Gioan — đã được phần thưởng, đó là được làm bạn với Ðức Giêsu. Chỉ ba vị này được đặc ân là chứng kiến sự Biến Hình, sự
sống lại của con gái ông Giairút, và sự thống khổ trong vườn Giệtsimani của Ðức
Giêsu. Nhưng tình bằng hữu của ông Gioan còn đặc biệt hơn nữa. Truyền thống coi
ngài là tác giả cuốn Phúc Âm Thứ Tư, dù rằng hầu hết các học giả Kinh Thánh
thời nay không cho rằng vị thánh sử và tông đồ này là một.

Phúc Âm Thánh Gioan đề cập đến ngài như “người môn đệ được Ðức Giêsu yêu quý”
(x. Gioan 13:23; 19:26; 20:2), là người được ngồi cạnh Ðức Giêsu trong bữa Tiệc
Ly, và là người được Ðức Giêsu ban cho một vinh dự độc đáo khi đứng dưới chân
thánh giá, là được chăm sóc mẹ của Ngài. “Thưa bà, đây là con bà… Ðây là
mẹ con” (Gioan 19:26b, 27b).

Vì ý tưởng thâm thuý trong Phúc Âm của ngài, Thánh Gioan thường được coi như con đại bàng thần học, cất cánh bay cao trong một vùng mà các thánh sử khác không đề cập đến. Nhưng các cuốn Phúc Âm thật bộc trực ấy cũng tiết lộ một vài nét rất nhân
bản. Ðức Giêsu đặt biệt hiệu cho ông Gioan và Giacôbê là “con của sấm sét.” Thật khó để hiểu được ý nghĩa chính xác của biệt hiệu này, nhưng chúng ta có thể tìm thấy chút manh mối trong hai biến cố sau.

Biến cố thứ nhất, như được Thánh Mátthêu kể lại, bà mẹ của hai ông Giacôbê và Gioan xin cho hai con của bà được ngồi chỗ danh dự trong vương quốc của Ðức Giêsu — một người bên trái, một người bên phải. Khi Ðức Giêsu hỏi họ có uống được chén mà Ngài sẽ uống và chịu thanh tẩy trong sự đau khổ mà Ngài sẽ phải chịu không, cả
hai ông đều vô tư trả lời, “Thưa có!” Ðức Giêsu nói quả thật họ sẽ được chia sẻ chén của Ngài, nhưng việc ngồi bên tả hay bên hữu thì Ngài không có quyền. Ðó là chỗ của những người đã được Chúa Cha dành cho. Các tông đồ khác đã phẫn nộ trước tham vọng sai lầm của người anh em, và trong một dịp khác Ðức Giêsu đã dạy họ về bản chất thực sự của thẩm quyền: “Ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em. Cũng như Con Người đến không để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá cứu chuộc muôn người” (Mt 20:27-28).

Một dịp khác, những “người con của sấm sét” hỏi Ðức Giêsu rằng họ có thể
khiến lửa từ trời xuống thiêu đốt những người Samaritan lạnh nhạt không, vì họ
không đón tiếp Ðức Giêsu đang trên đường đến Giêrusalem. Nhưng Ðức Giêsu đã
“quay lại và khiển trách họ” (x. Luca 9:51-55).

Vào ngày đầu tiên của biến cố Phục Sinh, bà Mađalêna “chạy đến ông Simon Phêrô và
người môn đệ mà Ðức Giêsu yêu dấu, và bà bảo họ, ‘Người ta đã đem Chúa ra khỏi
trong mộ; và chúng tôi không biết họ để Người ở đâu?” (Gioan 20:2). Gioan
nhớ rằng, chính ngài và Phêrô cùng đi cạnh nhau, nhưng “người môn đệ kia
chạy nhanh hơn ông Phêrô nên đến mộ trước nhất” (Gioan 20:4b). Ông không
bước vào mộ, nhưng đợi ông Phêrô và để ông này vào trước. “Sau đó người
môn đệ kia mới bước vào, và ông đã thấy và đã tin” (Gioan 20:8).

Sau biến cố Sống Lại, ông Gioan đang ở với ông Phêrô thì phép lạ đầu tiên xảy ra — chữa một người bị tật từ bẩm sinh — và việc đó đã khiến hai ông bị cầm tù. Cảm
nghiệm kỳ diệu của biến cố Sống Lại có lẽ được diễn tả hay nhất trong sách Công
Vụ Tông Ðồ: “Nhận thấy sự dũng cảm của ông Phê-rô và ông Gio-an và biết
rằng hai ông là những người bình dân, không có học thức, nên họ rất ngạc nhiên,
và họ nhận ra rằng hai ông là những người theo Ðức Giêsu” (CVTÐ 4:13).

Thánh Sử Gioan đã viết cuốn Phúc Âm vĩ đại, cũng như các lá thư và Sách Khải Huyền. Cuốn Phúc Âm của ngài là một công trình độc đáo. Ngài nhìn thấy sự vinh hiển và thần thánh của Ðức Giêsu ngay trong các biến cố ở trần gian. Trong bữa Tiệc Ly, ngài diễn tả Ðức Giêsu với những lời phát biểu như thể Ðức Giêsu đã ở thiên đàng. Ðó là cuốn Phúc Âm về sự vinh hiển của Ðức Giêsu.

Lời Bàn

Quả thật, đó là một hành trình thật dài để thay đổi từ một người khao khát muốn có uy quyền và muốn sai lửa từ trời xuống thiêu đốt, cho đến một người đã viết những
dòng chữ sau: “Phương cách để chúng ta biết được tình yêu là Ngài đã hy
sinh mạng sống vì chúng ta; do đó, chúng ta cũng phải hy sinh mạng sống mình vì
anh em
” (1 Gioan 3:16).

Lời Trích

Có câu chuyện người ta thường kể, là “các giáo dân” của Thánh Gioan quá chán
chường với bài giảng của ngài vì ngài luôn luôn nhấn mạnh rằng: “Hãy
yêu thương nhau.
” Dù câu chuyện này có thật hay không, đó là nền tảng
của văn bút Thánh Gioan. Những gì ngài viết có thể được coi là tóm lược của
Phúc Âm: “Chúng ta đã biết và đã tin vào tình yêu mà Thiên Chúa dành
cho chúng ta. Thiên Chúa là tình yêu, và ai ở trong tình yêu thì ở trong Thiên
Chúa, và Thiên Chúa ở trong họ
” (1 Gioan 4:16).

alt

Maria Thanh Mai gởi

NGÀY ÂÝ … BÂY GIỜ …

NGÀY ÂÝ … BÂY GIỜ …

Anmai, CSsR

Thời gian ơi xin dừng lại

Thời gian ơi xin dừng lại

Cho đôi tình nhân

Yêu trong muộn màng

Đừng khóc ly tan …

(Ai đưa em về –
Nguyễn Ánh 9)

Thời gian trôi qua thật mau để rồi người ta cứ muốn kéo thời gian lại nhưng ai
nào kéo thời gian được đâu ?

Chỉ cần một giây trôi qua thôi thì mọi sự đã có thể thay đổi chứ huống hồ chi
một phút, một giờ, một năm.

Dẫu biết thời gian là như thế, con người vẫn muốn thời gian dừng lại để thừa
hưởng, để giữ lại cái vinh quang của tuổi xuân, của thời son trẻ nhưng nào ai
có giữ được. Tất cả đều nằm ngoài bàn tay với.

Danh, phận, sắc, … và tiền bạc cũng thế, tất cả đều trôi theo thời gian. Tiền
và danh cũng như bạc có lúc lên rồi có lúc xuống nhưng cuối cùng cũng trắng
tay. Cách riêng là nhan sắc, dù có cố giữ đi chăng nữa cuối cùng cũng chẳng còn
chi khi bóng ngã chiều tà.

Mới đây, có người cất công đi tìm hiểu về cuộc đời của vai diễn Tam Nương trong
phim ‘Người đẹp Bình Dương’, nữ diễn viên này mang luôn biệt danh này nhờ sự ái
mộ của công chúng. Bà cũng được coi là biểu tượng nhan sắc phụ nữ một thời ở
Sài Gòn nói riêng và miền Nam nói chung.

Với nhan sắc mà người ta gọi là trời phú cho bà, bà được thừa hưởng quá nhiều
vinh quang của cuộc đời. Thế nhưng, tất cả những vinh quang đó lui lại ở quá
khứ. Tiền bạc, tài sản, danh vọng bà cũng có đó nhưng những ngày luống tuổi, bà
cùng chồng – là người cũng ở trên đỉnh của vinh quang – lại cùng nhau dắt díu
nhau trở về vùng ven của chốn đô thị để tìm lại những ngày còn lại trong cõi
lặng của đời người.

Sau khi trở thành ngôi sao tỏa sáng làng điện ảnh, bà được các hãng phim lúc bấy giờ mời vào vai chính liên tục. Bà đóng rất nhiều phim (khoảng 60 phim) và trở thành nữ minh tinh số 1 với tiền cát-xê 1 triệu đồng cho một vai diễn (tương đương 1 kg vàng 9999 thời bấy giờ).

Có thể nói giai đoạn rực rỡ nhất của bà là khoảng thời gian 1965 – 1972, phim nào có bà đóng cũng đạt doanh thu rất cao. Năm 1969, bà đứng ra thành lập hãng phim riêng mang chính tên của bà là hãng phim mang chính tên của bà.

Không chỉ hợp tác làm phim, đóng phim ở nước ngoài mà đi đâu, dự bất cứ cuộc liên hoan phim nào, bà cũng đều được trọng vọng, sánh ngang hàng với các diễn viên nổi tiếng nước ngoài. Bà là một trường hợp đặc biệt, hiếm có. Đặc biệt, những ân sủng này chính là nhờ sự nổi tiếng, nhan sắc và tài năng của bà. Đồng thời những năm đó, không chỉ tham gia đóng phim tình cảm tâm lý xã hội, bà cũng bước sang lĩnh vực phim hài và phim kinh dị như. Hầu như ở lĩnh vực nào, bà cũng thành công.

Không có gì tồn tại mãi trên cõi đời này, mà điều phù du nhất chính là nhan sắc. Nhưng ở đời không ai được hưởng trọn vẹn may mắn, hạnh phúc luôn tiềm ẩn sự rủi ro, thậm chí cả bi kịch. Những ai hiểu được điều này sẽ đồng cảm hơn với cuộc đời của người phụ nữ nổi tiếng này.

Sau những năm tháng của hào quang, những ngày này, bà tu tại gia, nghiên cứu
Thiền học, làm từ thiện, hầu như ít tiếp xúc bên ngoài. Cuộc đời của một “minh
tinh màn bạc”, một phụ nữ “sắc nước hương trời”, sự nghiệp nghệ thuật lẫy lừng
đã kết thúc với số phận nghiệt ngã. Có lẽ, bà sẽ sống yên ổn với huyền thoại và
hào quang cũ khi đi ra đường bao người ngưỡng mộ kéo nhau theo phía sau để nhìn
mặt và xin chữ ký.

Có lẽ, bà cũng chỉ là một trong nhiều người đã, đang, từng và sẽ nổi tiếng và
thành công bởi sắc đẹp, bởi tài năng, bởi khả năng của mình trong những ngày ấy
nhưng cuối cùng cũng phải đối diện với cái hiện tại, cái thời khắc bây giờ.

Thánh vịnh 90 gửi gấm tâm tình thật hay :

Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống,

ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan.

Không phải là bi quan, không phải là yếm thế, không phải là không còn lý tưởng để sống nhưng Thánh Vịnh nói “xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống” để chúng ta biết và nhắc nhớ với nhau rằng :

Ngài cuốn đi, chúng chỉ là giấc mộng,

như cỏ đồng trổi mọc ban mai,

nở hoa vươn mạnh sớm ngày,

chiều về ủ rũ tàn phai chẳng còn.

Nhắc với nhau như thế để chúng ta vẫn sống trong cuộc lữ hành trần thế, ai ai trong chúng ta cũng cần chút tiền chút bạc để trang trải cuộc sống; ai ai trong chúng ta cũng cần một chút danh để lại với đời; ai ai trong chúng ta cũng cần chút sắc đẹp để phô diễn cho trần gian … nhưng cùng đích, căn cốt của con người vẫn là ơn cứu độ.

Sống trên đời này, chuyện quan trọng không phải là giàu hay nghèo, sang hay hèn, đẹp hay xấu nhưng cuối cùng làm sao đạt được Ơn Cứu Độ mà con người ngày đêm vẫn ngóng trông. Thật luống công vô bổ khi ta quá đẹp, ta quá sang, ta quá giàu, ta quyền cao chức trọng nhưng “bây giờ”, giờ ta nhắm mắt xuôi tay ta chẳng được gì. Có chăng được bộ đồ còn lại mặc trong người khi khâm liệm, mà bi đát nhất là cả cái nút áo người ta cũng cắt lại không để mang đi.

Đừng mãi hoài niệm cái “ngày ấy” xa xưa mà quên đi cái thực tại không chừng quá bi đát của “bây giờ” khi không còn chức còn quyền và dung nhan tàn tạ.

Vẫn có quyền hoài niệm một chút về “ngày ấy” nhưng hãy sống sao chọ đẹp phút “bây giờ” và quan trọng nhất là ngay “bây giờ” ta có phải ra đi ta hoàn toàn bình an và thanh thản vì ta đã ôm trọn Ơn Cứu Độ trong tay và vui vẻ thốt lên như cụ già Simêon :

Muôn lạy Chúa, giờ đây

theo lời Ngài đã hứa,

xin để tôi tớ này được an bình ra đi.

Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ

Chúa đã dành sẵn cho muôn dân:

Ðó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại,

là vinh quang của Israel Dân Ngài. (Lc 2, 29-32)

Anmai, CSsR

Nguồn: Maria Thanh Mai gởi

Tình hình tại Syria hiện nay giống như cách đây hơn 4.000 năm

Tình hình tại Syria hiện nay giống như cách đây hơn 4.000 năm

Tình trạng Syria hiện nay giống tình trạng hơn bốn thiên niên kỉ trước.
26.12.2012
nguồn: VOA
Hạn hán, thành thị suy tàn, và chính phủ sụp đổ chấm dứt vai trò kinh tế trung tâm của Syria trong Vùng Trung Đông 4.200 năm trước.
Cuộc khảo cứu của trường đại học Sheffield ở Anh nêu lên những điểm tương đồng
quan trọng giữa một Syria bị chiến tranh tàn phá hiện nay với vụ đảo lộn thời
đế quốc Mesopotamia được biết tới với tên Akkadia vào thời kỳ đồ đồng.
Ellery Frahm, thuộc khoa khảo cổ của trường này tìm thấy những liên hệ bằng
cách nghiên cứu vấn đề thương mại tại Osidia trong trung tâm thương mại đô thị
của Urkesh, nơi bây giờ là miền đông bắc Syria.
Kính núi lửa được dùng để chế tạo dụng cụ sắc như dao cạo lấy từ sáu núi lửa
khác nhau trước khi xảy ra vụ sụp đổ của đế quốc Akkadia trải dài tới nước Iraq
hiện tại.
Khi tuyến đường thương mại và các chính phủ trong vùng sụp đổ trong thời kỳ mà
một số sử gia nói là giai đoạn gia tăng chế độ quân phiệt và bạo động, thành
phố này chỉ có thể mua osidian từ hai nguồn cung cấp kế cận, cho thấy ảnh hưởng
của cuộc khủng hoảng đối với sự lưu thông của người và hàng hóa.
Thêm nữa, ông Frahm nói canh nông vào thời đó cũng như bây giờ chủ yếu dựa vào
nước mưa thay vì thủy lợi,và các vụ mùa ở Akkadia không thể đáp ứng trước tình
trạng gia tăng dân số trong vùng.
Ông nói thêm với tình trạng biến đổi khí hậu hiện nay gây ra thêm nhiều khô
hạn, và với dân số đông hơn bao giờ hết, nông nghiệp hiện đại của Syria cũng không
thể bền vững được.
Ông Frahm khẳng định rằng công việc của ông không thể rọi ánh sáng vào tình
hình bạo động hiện nay ở Syria, thay vào đó nó đem lại một phương cách để hiểu
về những gì trước mắt, bằng cách tìm hiểu phương cách mà các bậc tiền bối phản
ứng trước các cuộc khủng hoảng của chính họ và của nước ngoài.

Nói cho con người: Lm. Chân Tín (25)

Nói cho con người: Lm. Chân Tín (25)

Đăng bởi lúc 1:55 Sáng 27/12/12
nguồn: Chuacuuthe.com

VRNs (27.12.2012) – Sàigòn –

Nhận định:

Bài nói của ông Đỗ Mười

tại Hội nghị Cán bộ, ngày 3/3/1994

Trong tình hình Mỹ bỏ cấm vận, mở cửa kinh tế theo thị trường tự do của các nước tư bản, với ‘diễn biến hòa bình’, trong và ngoài nước, ông Đỗ Mười kêu gọi đảng viên “trước hết phải đứng vững trên quan điểm giai cấp và đấu tranh giai cấp”.

Giai cấp nào đây? Đây là vấn đề then chốt: Giai cấp những người lao động nghèo đói bị bóc lột ngày hôm nay trên Đất nước này, hay ‘giai cấp công nhân’ không có gì là công nhân, nhưng là giai cấp của các ‘quan cách mạng’, ‘giai cấp mới’ bóc lột nhân dân lao động đến xương tủy. Đấu tranh giai cấp để giai cấp thống trị hiện nay mãi độc quyền, độc tôn, nắm toàn quyền kinh tế, chính trị, xã hội, giáo dục, y tế vv…

Để bảo đảm độc quyền của ‘giai cấp mới’ phải nô lệ hóa nhân dân, phải đạp lên con người, đạp lên trên những quyền căn bản nhất của con người. Con người có tự do, không ai có quyền tước đoạt tự do của con người, bằng cách lập luận “mỗi nước có đặc thù, có  truyền thống, có luật pháp của mình”. Truyền thống hay luật pháp bất công, đàn áp con người, thì truyền thống đó, luật pháp đó, phải bị hủy bỏ.

Nhân loại càng thông minh càng phải làm cách mạng hủy bỏ cái truyền thống, cái luật pháp bất công đó. Ông Đỗ Mười nêu lên truyền thống độc quyền, luật pháp vi hiến, chống lại bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền mà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam  đã đặt bút ký với các dân tộc văn minh.

Ông Đỗ Mười nói đến công lao của Đảng Cộng sản Việt Nam đã “giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động, xóa bỏ ách thống trị, bóc lột, áp bức bất công, mang tự do, hạnh phúc cho mọi người”. Có phải vậy không? Công nhân thứ thiệt vẫn nghèo đói, vẫn bị bóc lột, vẫn bị áp bức còn hơn thời thực dân. Chỉ có một nhóm người nhỏ tự cho mình là ‘giai cấp công nhân’ mới được giàu có, quyền chức, sống trên đầu trên cổ của người lao động nghèo, những công nhân sống với đồng lương chết đói. Họ xóa bỏ ách thống trị thực dân, để áp một ách thống trị nặng nề hơn, khắc nghiệt hơn.
Lịch sử 73 năm chế độ cộng sản ở Liên Xô và 45 năm ở Đông Âu, và nay ở Trung
Quốc, Bắc Triều Tiên, Cu Ba và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam cũng đủ để
chứng minh cái ách thống trị độc tôn, độc đảng, độc quyền đó. Ngày nay bóc lột,
áp bức, bất công càng lớn hơn tất cả các chế độ thực dân phong kiến xưa nay.
Thời phong kiến ngày xưa là phong kiến tự phát nơi này nơi khác không có tổ
chức, không để cho nô lệ thiếu đói, chết bệnh, không bắt nô lệ ca ngợi mình.
Ngày nay chế độ cộng sản là một tập đoàn phong kiến có tổ chức: mất hết tự do,
không có hạnh phúc mà người dân phải nói mình có hạnh phúc, mình tự do, mình
sống trong chế độ dân chủ hơn cả triệu lần dân chủ tư bản.

Về đấu tranh tư tưởng, tôi nghĩ những Hà Sĩ Phu, những Nguyễn Hộ, những Phan Đình Diệu, những Bùi  Tín, những Lữ Phương là những đảng viên có cỡ đã nói quá nhiều về sự lỗi thời, sự lạc hậu, sự tàn lụi của chủ nghĩa Mác-Lê.

Ông Đỗ Mười, để ca ngợi chủ nghĩa Mác-Lê, chỉ lặp lại bài học cũ kỹ: Mác Anghen, Lênin đã phân tích sâu sắc bản chất chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc, chỉ ra con đường đấu tranh để giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động, giải phóng dân tộc, xóa bỏ ách thống trị, bóc lột, áp bức, bất công, mang tự do hạnh phúc cho mọi người. Ông Đỗ Mười nói thuộc lòng bài học đã nhét vào đầu từ khi mới vào Đảng. Lý thuyết là thế, mà sự thực trái ngược, như mọi người dân hôm nay đều thấy, các
nhà trí thức, các nhà khoa học lên án nặng nề chủ nghĩa xã hội và chế độ xã hội
chủ nghĩa ở Liên Xô. Ở Việt Nam, ông Đỗ Mười nổi sùng đập bàn bảo “cán bộ trong
các viện nghiên cứu khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, các nhà chính trị,
các nhà văn hóa phải có thái độ, phải lên tiếng. Tại sao ta lại ngồi yên, ở thế
bị động suốt mấy năm nay. Sắp tới ta còn bị động nữa…” Ông Đỗ Mười kêu gào
“đừng để chúng vừa ăn cướp, giết người, vừa la làng”. Ai la làng đây? Tước hết
nhân quyền và dân quyền của người dân, rồi bảo chế độ ta dân chủ hơn cả triệu
lần. chỉ một điểm chính yếu đó cũng đủ biết ai la làng.

Ông Đỗ Mười bảo: “Một số  phần tử xấu nói thể kỷ XX là thế kỷ cộng sản giết người lớn nhất trong lịch sử, nên phải chôn vùi nó”. Chủ nghĩa cộng sản, chế độ cộng sản chỉ tồn tại hơn 70 năm trên đất nước Liên Xô, 45 năm trên Đông Âu, 40 năm ở Việt Nam, thế mà bao cuộc tàn sát của Stalin, thủ tiêu hàng triệu sinh mạng vì họ là những người vô
tội, bất đồng chứng kiến. Ngay ở Việt Nam bao nhiêu người chết vì bị đấu tố để
cướp đất đai của dân, những cuộc thanh trừng các nhà văn, nhà trí thức, cách riêng
thời ‘nhân văn giai phẩm’, bao nhiêu người bị tù đày, thanh toán vì nói ngược
Đảng. Ở Liên Xô từ ngày có phong trào dân chủ, người ta vạch trần thời ghê rợn
của chế độ cộng sản ở Liên Xô. Vụ hàng ngàn sĩ quan Ba Lan bị tàn sát tại
Katyn, trước kia Liên Xô đổ cho Đức quốc xã, nhưng nay được chứng minh là chính
Liên Xô đã tàn sát một năm trước khi Đức quốc xã đến.

Ông Đỗ Mười hỏi: “Ai gây ra chiến tranh thế giới lần thứ hai, làm thiệt mạng mấy chục triệu người?” Ông không nhớ rằng chiến tranh đó Đức quốc xã khởi sự chiến tranh với sự đồng lõa của Liên Xô vào những năm đầu của chiến tranh thế giới thứ hai. Những hàng triệu người chết vì bom đạn của chiến tranh, khác với việc cố tình tàn sát hàng
triệu người vô tội không cầm khí giới chỉ vì họ bất đồng chính kiến với Đảng
cộng sản.

Ông Đỗ Mười tố “các thế lực thù địch vu cáo Đảng ta độc tài, không có dân chủ”. Người ta nói vậy không đúng hay sao? Hay phải gọi độc tài là dân chủ, dân chủ là độc tài? Các chế độ khác có những hạn chế trong một vài lãnh vực, và dân chủ trong nhiều lãnh vực. Ở Việt Nam, độc tài trên mọi lãnh vực: không tự do tư tưởng, tự do báo chí, tự do phát biểu ý kiến, không có tự do tôn giáo cho các giáo hội tổ chức nội bộ,
đặt chức sắc, in ấn sách vở tôn giáo, không được tự do đi lại, cư trú, cái hộ
khẩu nhân dân gọi là ‘hậu khổ’ một tờ giấy cầm tù tại gia. Muốn ở chỗ khác phải
xin phép mà các cơ quan cách mạng tự do từ chối. Còn bầu cử tự do, phải có ứng
cử tự do. Tại Việt Nam chả có ứng cử tự do, hay có để người ứng cử tự do cho có
hình thức, họ cũng bị loại trước khi bầu cử, hoặc làm cò mồi để lót đường cho
các quan cách mạng được Đảng chọn qua cái gọi là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Sự
thật như thế mà gọi là dân chủ, là không độc tài? Là dân chủ hơn cả triệu lần?
Người ta ăn nói mà không ngượng miệng. Người ta coi nhân dân là đám con nít hay
là đám nô lệ cúi đầu chịu, khi Đảng bảo cái đen là trắng thì cố dạ dạ vâng vâng
bảo là trắng. Khổ và nhục cho dân Việt có bốn ngàn năm văn hiến.

Về nhân quyền, ông Đỗ  Mười bảo “Điều thứ nhất trong Công ước của Liên Hiệp Quốc là tôn trọng độc lập, chủ quyền và quyền tự quyết của các dân tộc”. Nhưng độc lập, chủ quyền, tự quyết để làm gì? Là để đem tự do, hạnh phúc cho người dân, nhưng nếu độc lập, để cô lập đất nước bằng một chế độ hà khắc, không muốn ai can thiệp để bảo vệ
con người, thì độc lập đó có lợi ích gì cho con người, cho người dân? Nếu tự
quyết do một đảng phái áp đặt một hệ thống cai trị ngược lại với các quyền căn
bản của con người, thì tự quyết đó không phải là của nhân dân. Đảng Cộng sản
Việt Nam luôn nói nhân dân chọn chủ nghĩa xã hội, nhân dân nào đây? Một nhóm
người rồi bảo nhân dân. Đảng cộng sản thử làm một cuộc trưng cầu ý dân tự do để
coi được mấy người ủng hộ chủ nghĩa xã hội và chế độ xã hội chủ nghĩa hôm nay
trên đất nước. Chắc chắn là ĐCS không dám rồi.

Về kinh tế, ông Đỗ Mười nói “ta đã đi vào thị trường”. Thị trường gì đây? Thị trường tự do với luật lệ hẳn hoi có kỷ cương luật hay là thị trường hỗn loạn, không có luật lệ rõ ràng, tình trạng buôn lậu (người người buôn lậu, nhà nhà buôn lậu, cơ quan nhà nước buôn lậu, kể cả Ủy ban Nhân dân và Đảng bộ như vụ Đỉnh Họt), tình trạng tham
nhũng lan tràn. Kinh tế còn có sự quản lý, can thiệp của Nhà nước, của Đảng như
ông Đỗ Mười nói, kinh tế ấy chỉ làm lợi cho những người có chức, có quyển, có ô
dù, một thứ Mafia được tổ chức khắp nước, khắp tỉnh thành, để làm lợi cho bản
thân họ và cho cả các nước ngoài, để có những hợp đồng sang nhượng đất đai, nhà
cửa, cơ sở với giá thấp. CHXHCN Việt Nam hôm nay, thấy làm ăn quốc doanh lỗ lã,
chạy theo thị trường cách hỗn loạn.

Ông Đỗ Mười nói đến bốn nguy cơ, trong đó có một nguy cơ khách quan và ba nguy cơ chủ quan, đang đe dọa chế độ cộng sản Việt Nam.

Nguy cơ khách quan là các thế lực thù địch muốn lật đổ chế độ: “Chúng đánh ta, ta đánh lại”. Đây chỉ là hoang tưởng. Thời nay là thời mà Đảng gọi là ‘diễn biến hòa bình’. Đảng Cộng sản hôm nay rất sợ diễn biến hòa bình. Vác súng đánh giặt, thì Đảng có nhiều kinh nghiệm. Coi như Cộng sản Việt Nam không ngán chiến tranh, nhưng lại ngán hòa bình. Diễn biến hòa bình, thì ai làm tốt, ai đem tự do, hạnh phúc cho dân
thì dân theo. Nếu ĐCS đem tự do, hạnh phúc no ấm hơn ai hết, thì có gì Đảng
phải sợ ‘diễn biến hòa bình’?

Còn ba nguy cơ chủ quan, ông Đỗ Mười đưa ra trước hết ‘nguy cơ chệch hướng’. Hướng nào đây? Hướng của dân hay của Đảng? Hướng của dân là tự do, là dân chủ, là tôn trọng nhân phẩm, nhân quyền, dân quyền. đúng là Đảng đi ‘lệch hướng’ của nhân dân và ông Đỗ Mười gọi cái hướng của nhân dân là cái hướng lệch, phải áp đặt thêm nữa hướng độc tài, độc tôn của Đảng. Chính đây là cái nguy cơ chệch hướng đã lâu rồi và Đảng chưa đổi hướng cho đúng hướng của dân.

Nguyễn Trãi nói: “Chở thuyển là dân mà lật thuyền cũng là dân”. Đừng sợ kẻ thù lật thuyền. Khuyên ông Đỗ Mười đổi hướng cho đúng hướng của người dân.

Về nguy cơ tham nhũng, ông Đỗ Mười tự an ủi là thời nào cũng có tham nhũng, nước nào cũng có tham  nhũng. Tham nhũng của các nước dân chủ có giới hạn và bị phanh phui và đưa ra tòa kể cả Tổng thống, Thủ tướng. Ở đất nước này, tham nhũng tràn lan khắp nơi, khắp mọi lãnh vực, mọi cấp bậc. Có bắt tham nhũng cũng ở cấp nào đó, còn mấy “quan cách mạng” cao cấp lắm ô dù cho tay chân tham nhũng, buôn lậu thì vẫn yên vị hay còn lên chức.

Còn nguy cơ ‘cơ sở yếu’, thiếu tính chiến đấu: Thượng bất chính, hạ tất loạn. Trên tác oai, tác quái. Cứ đi điều tra các xí nghiệp sẽ thấy, các đảng viên là những kẻ tác oai, tác quái, tổ chức tham nhũng! Như vậy, làm thế nào mà triệt được tham nhũng như ông Đỗ Mười hô hào rát cả cổ. Đảng chống tham nhũng, tham nhũng càng phát triển cách tinh vi hơn, như báo chí của Đảng mới đây có viết.

Nói tóm, bài nói của ông Đỗ Mười không có điểm nào được cả. muốn đổi mới mà cứ các giáo điều cũ. Không nhìn vào thực tế, cứ mãi chủ nghĩa Mác Lê như hồi trước. Các nước cộng sản sụp đổ mới mở mắt đảng viên, để đổi mới cho đúng với hướng nhân dân. Nếu nay mai, Đảng Cộng sản ở Nga và các nước Đông Âu có ảnh hưởng người dân là vì họ đã đổi mới, đã đòi dân chủ, đòi đa nguyên, đa đảng, đòi tự do, đòi nhân quyền cũng như các đảng khác.

 

Lm. Chân Tín


(Tin Nhà số 16, trang 12-13)