Phúc ấm con ban !!!

Phúc ấm con ban !!!

Đọc để cảm thông cho một bạn đồng ngũ sau những tháng năm ở tù cải tạo nay sang sống những ngày cuối đời ở Mỹ với muôn vàn bất hạnh, đớn đau..!

Tôi đến Mỹ rất trễ, đến từ một quốc gia thứ ba, nên ba mươi năm sau ngày mất nước tôi mới đặt chân lên xứ cờ hoa. Văn hóa và hệ thống xã hội nơi đây có những khác biệt so với nơi tôi đã sống, và điều dễ thấy nhất là nếp sống của xã hội Mỹ như vội vàng, cạnh tranh, và tấp nập hơn, so vơi nơi tôi đã sống, êm đềm và lặng lẽ.

Người Việt ở đó ít hơn, nếp sống và sinh hoạt của gia đình còn mang nhiều nét truyền thống của nơi chôn nhau cắt rún. Người ta rất thân tình và chân tình khi bắt gặp nhau nơi công cộng, giáo đường hay chùa chiền. Và nhất là những lúc được thông                                báo có người Việt từ nước khác tới định cư, là những người già, những người có phương tiện, tình nguyện đưa đón, hướng dẫn các thủ tục nhập cư, những giấy tờ cần thiết cho một đời sống mới.

Có lẽ đất Mỹ, nơi tôi đang sống, có cái khung cảnh                                xa lạ hơn, vì những núi đồi trùng trùng điệp điệp, đôi lúc cho tôi cái cám giác như đang đi trên đèo Ngoạn Mục, quảng đường từ Phan Rang lên Đà Lạt một thủa nào. Cảm giác êm ái đó làm tôi liên tưởng tới khu đồi mà dòng Donbosco tọa lạc, nơi có hoa Anh                                đào nở rộ mỗi bận Xuân về, màu hoa rực rỡ giữa núi đồi hùng vĩ đầy thơ mộng của cao nguyên.

Cũng đã mấy chục năm bỏ lại quê hương, bỏ cả những chiều lộng gió của núi rừng Đà Lạt và Di Linh, không hiểu những nơi chốn ấy bây giờ đã thay đổi ra sao, màu chè xanh của Bảo Lộc còn xanh như màu xanh ngày cũ, khu chợ Hoa Đà Lạt, hay bờ Hồ Xuân Huơng còn dương liễu rũ xuống ven bờ, mà những hồn thơ ngày đó đã ví von như mái tóc thề của mấy cô sơn nữ cao nguyên. Bao nhiêu đã mất, bao nhiêu còn giữ, bao nhiêu còn nhớ được trong tâm trí của trang lứa chúng tôi.

Cái mất mát hẳn nhiên đã làm chúng tôi đau đớn xót xa, nhưng chưa chắc đã bằng những chua chát, bẽ bàng, mà trang lứa chúng tôi phải gánh chịu trong cuộc sống tuổi già trên đất nước xứ người.

Tôi đến Mỹ như đã nói là rất muộn màng so với nhiều đồng đội, và những người bạn thân tình thủa nào cũng đã tản lạc mỗi đứa một nơi, và ở đây , trong vòng 50 dặm vuông hay vài trăm dặm dài, tôi cô đơn không bè bạn. Mỗi ngày, ngoài việc nhổ cỏ vườn sau, nhặt lá vườn trước, đưa đón bốn cô cháu đi học, tôi chỉ còn biết đi bộ, nhìn đồi núi nối tiếp nhau trên thành phố này để mơ mộng về núi rừng quê tôi, nơi mà hàng chục năm tôi và đồng đội chung sống, có khi gian nan, mà cũng có lúc thật thơ mộng. Và rồi trong một trường hợp ngẩu nhiên, tôi đã gặp được bác Thụy, một người Việt Nam cô độc, cũng lạc lỏng đến nơi này như tôi.

Cũng là một thói quen như nơi tôi đã từng sống, hễ gặp được người nào mà tôi đoán là dân nước tôi, thì tôi không ngại ngùng đến làm quen, và câu hỏi đầu tiên của tôi thường là ” Ông nói được tiếng Việt nam không? ” Nếu người đó trả lời họ là người Việt thì tôi nhất định rất vui mà hỏi chuyện. Tôi quen bác Thụy cũng trong trường hợp tương tự.

Từ lần gặp đó, tôi hay tìm tới bác vào mỗi cuối tuần hoặc là những khi bác gọi tôi đến , và lúc nào bác cũng mở đầu bằng câu ” chúng nó đi cả rồi “,ý của bác là các con đã đi làm hết . Tình thân của chúng tôi từ đó ngày càng thân thiết hơn, bác kể cho tôi 12 năm trong quân đội, phục vụ cho một đơn vị Quân báo, hoạt động trên lảnh thổ Quân Đoàn I, bị thương nhiều lần, nhưng lần nào cũng may mắn qua khỏi. Bác đến Mỹ không thuộc diện HO, vì thời gian bác được thả, Phòng công tác nước ngoài thuộc công an Thành phố Hồ Chí Minh ở 161 Nguyễn Du, Quận I, còn đóng cửa, nên bác vượt biên, bị bắt cho đến khi chương trình HO được thực hiện, bác vẫn còn ở trong tù, do vậy bác đến Mỹ theo chương trình Đoàn Tụ, con gái bảo lảnh hai vợ chồng nên không được hưởng một trợ cấp nào của Chính phủ Mỹ như diện HO, tất cả đều do thân nhân bao bọc.

Thời gian ở lại Việt Nam, bác đi dạy học, cũng như trước khi động viên bác là một Giáo sư dạy Vật Lý tên tuổi tại Sài Gòn, lương giáo viên tuy không khá, nhưng cũng đủ cho hai vợ chồng bác sống tạm qua ngày, nhất là bác được các trung tâm chuyên Lý mời cộng tác, nên dạy cả sáng, chiều và tối , Vã lại mỗi năm, các con bác gởi cho một vài trăm đô la vào dịp Tết, hai vợ chồng lại dành dụm mua một chỉ hay 5 phân vàng hầu dùng cho việc ma chay sau này, cho đến năm 2003, con gái bác viết thư báo tin cho biết là đã làm hồ sơ bảo lảnh cho ba má , bác cũng chẳng hy vọng gì, vì thời gian đợi chờ dường như đã quá mòn mỏi, vã chăng tuổi đã cao, đi đâu cũng chỉ kiếm hai bữa cơm mà thôi, nên gần như vợ chồng bác không nghĩ tới chuyện ra đi, cho đến năm 2006, bác được gọi bổ túc hồ sơ, rồi cuối năm đó, bác được phỏng vấn, theo bác kể thì có lẽ vì lợi tức của con gái bác cao, nên họ cho đi nhanh và rồi đầu tháng 4 năm 2007 bác được sang Mỹ theo diện đoàn tụ gia đình, nhưng tính cho đến nay, bác vẫn chưa hội đủ điều kiện thi nhập Quốc tịch Hoa Kỳ .

Thời gian đầu sống với con cái vui vẻ lắm, vì còn mới, tình cảm còn mới, mọi thứ còn mới và còn mới là còn vui vẻ, rồi từ từ bác được một người quen giới thiệu đi làm                                assembler cho một hảng điện tử, lương $10/ giờ, hai vợ chồng già thật là hạnh phúc, cứ cuối tuần là hai ông bà rủ nhau đi WaltMart hay Target mua áo quần và đồ chơi cho các cháu, nhưng rồi kinh tế ngày càng suy thoái, sau gần hai năm làm assembler, bác mất việc làm, không có cách nào xin được việc khác, vã chăng, những người trẻ còn chưa xin ra việc làm thì ông già 63 tuổi như bác dễ gì tìm được việc, nên bác đành xin tiền thất nghiệp, và được hưởng thất nghiệp hai năm, khoảng thời gian này bác cho biết rất là buồn, suốt ngày vợ chồngcứ mong cho hai đứa cháu đi học về để chơi với cháu cho đỡ buồn, rồi thì cứ vườn sau sân trước, vợ chồng thi nhau nhặt cỏ, tưới cây, hay lên đồi lượm những viên đá hình dáng đẹp đem về lót quanh mấy bụi hồng cho hết thời gian.

Bác cũng năng nổ đi tham gia sinh hoạt các hội đoàn, như hội người già, Hội SQ/TBTD, nhưng rồi tiền trợ cấp thất nghiệp hết, và khó khăn đến với bác bây giờ là tiền đổ xăng, bác không biết xin ai hai chục bạc để mua xăng, bác nói, một đôi khi bổng dưng nghe thèm một tô phở, nhưng cũng không cách nào có được, “Ông ạ, có đêm tôi không ngủ được chỉ vì nghĩ tới mùi ngò gai và rau quế bỏ vào tô phở mà chảy nước miếng hoài không ngủ nổi, thèm như là thèm được ăn đường lúc ở trong trại tù “.

Tình cảm con người hình như rất mỏng manh, không phải bền chắc, và rất dễ gãy đổ, từ tình vợ chồng, cha con hay anh em, và nghèo đói là mối đe dọa nghiêm trọng nhất đối với tình cảm. Cổ nhân cũng đã từng nói “phú quí sinh lễ nghĩa, bần cùng sinh đạo tặc”, cái gì người ta bảo “tiền tài như phấn thổ, nghĩa trọng như thiên kim” có chăng, chỉ là trong đạo đức kinh hay sách vở của Thánh hiền mà thôi. Không có tiền, nguyên lý nào cũng bị bỏ quên, đạo đức nào cũng dư thừa, và tình cảm nào cũng mai một. Đặc biệt là ở một xã hội mà mọi nền tảng đều lấy lợi nhuận làm chuẩn.

Con cái ở nhà cha mẹ thì hạnh phúc, cha mẹ ở nhà con cái thì nhẫn nhục và hy sinh. Con cái ở chung với cha mẹ là tự nhiên, nhưng cha mẹ ở chung với con cái lại ưu phiền, vì lúc nào cũng phải nhìn mặt mủi con cái, phải xem chừng nó vui buồn bất chợt ra sao. Muốn mở cái TV cũng phải lựa lúc nó vui vẻ, muốn mở cái CD nghe nhạc cũng tùy thời cơ nó buồn hay giận, lại còn phải coi sóc con cái cho chúng, nhỏ thì cho đi tiêu đi tiểu, rửa đít, cho ăn, tắm giặt. Lớn thì đưa đón tới trường, có khi còn bị chưởi mắng, đành chỉ biết cúi mặt dấu nước mắt đi. Họa hiếm lắm, chúng cho vài ba trăm bạc vào dịp lễ nào đó thì lại coi như phúc ấm chúng ban cho .

Con cái ở nhà cha mẹ thì hạnh phúc, cha mẹ ở nhà con cái thì nhẫn nhục, chính là chổ này.

Một buổi sáng bác gọi tôi tới nhà, chỉ cho tôi một tờ giấy con gái bác viết để lại trên bàn cho bác, tôi cầm lên đọc :

“Theo luật bên nầy, chủ nhà có quyền gọi cảnh sát đến bắt buộc người thuê phải ra đi, nếu người chủ đã thông báo cho người thuê hai lần bằng thư. Ba không trả tiền nhà, nhưng con cũng coi ba như người thuê nhà, đây là lần thứ hai con yêu cầu ba dọn ra, ba đừng ép con phải gọi cảnh sát”.

Tôi đọc đến đây, bổng nhiên nước mắt tôi trào ra, bác nhìn tôi và nấc lên thành tiếng, bác cũng bật khóc. Tôi ôm hai vai bác và nói “Hãy yên tâm, không có luật như vậy đâu, nếu cô ấy gọi cảnh sát, bác có thể nói cô ấy ngược đãi người già, con bác chỉ hù bác thôi”. Và rồi bác bắt đầu kể cho tôi nghe hết tự sự.

Thoạt đầu là gạo, chúng nó than phiền, “nhà người ta một năm chỉ tốn hai bao gạo thôi, sao nhà mình mỗi tháng một bao”, Tôi mở cassette ngồi ngoài garage nghe nhạc, ngoài garage thì nóng, tôi mở cửa bên hong ra cho bớt nóng, nó đóng lại, và bảo mở cửa chuột chạy vào nhà. Tôi hiểu ý là nó sợ tốn điện, tôi tắt cassette vào nhà.

Ông cũng biết, ở bên này, người già chỉ lấy cái TV làm bạn, nhưng nó mắng vào mặt tôi và bảo không biết xài thì đừng xài, TV cứ mở hoài chịu sao nổi, thế nào cũng có ngày TV bị cháy.

Mỗi ngày, chúng nó đi làm về trễ, có khi 7:30 hay 8:00 tối mới về đến nhà , và tôi đều cố gắng ăn trước để không chạm mặt chúng nó trong bữa ăn, ăn trước thì thú thật chỉ ăn sơ sài cho no bụng thôi, thức ăn của chúng tôi không dám đụng vào, vợ tôi thì chờ cho chúng ăn hết đã, cái gì còn lại bà ấy mới ăn, chúng tôi chỉ dám ăn những thức ăn thừa thải mà thôi. Công việc lặt vặt trong nhà như lau dọn, rửa chén bát, đưa đón các cháu, chúng tôi đều làm hết, nhưng nó bảo với tôi là tội nghiệp thằng chồng nó phải còng lưng gánh hai ông bà già. Những ngày nghỉ, hay cuối tuần, vợ chồng con cái chúng đi ăn tiệm, những năm đầu khi cháu út chưa thể gởi đến trường, thì chúng còn gọi vợ tôi đi ăn với chúng, những ngày lễ Tết cũng tặng quà cho vợ tôi, nhưng từ khi cháu út lớn rồi, chúng cũng lơ là với vợ tôi luôn, cho đến sau này, chúng lạnh lùng đến như bỏ mặc, vợ tôi buồn quá đành đi tìm chổ giữ trẻ ở một tiểu bang khác, nên ông tới nhà không thấy vợ tôi là vậy.

Bác lấy dưới gối ra một lá thư khác đưa cho tôi, bác bảo lá thư không có một chút tình người, thú thật tôi không dám đọc hết, nhưng trong trí tôi như vẫn in sâu những dòng này “ba người ta chết thì con cái khóc lóc tiếc thương, nhưng nếu ba chết con sẽ thở ra một cách nhẹ nhỏm. Con thật không muốn bảo lảnh ba sang Mỹ đâu, chỉ vì bắt buộc mà thôi, Ba hãy dọn ra đi để còn một chút gì gọi là tự trọng”.

Tôi cũng tự hỏi mình, bác đi đâu bây giờ? Một đồng bạc cũng không có, bà con, bạn bè cũng không luôn, bác dọn đi đâu? trong khi bác lại chưa phải là công dân Hoa Kỳ, làm cách nào để có thể xin trợ cấp, tôi đành an ủi bác, thôi bác cứ yên tâm, điều quan trọng bây giờ là hãy nhịn, nhẫn nhục đó mà, cứ coi như ngày nào bác bị bắt tại mặt trận, Việt cộng hành hạ bác kiểu gì, nhục mạ bác ra sao, bác cũng ngậm bồ hòn, thì nay, với con gái, bác ngậm lại bồ hòn một lần nữa đi rồi từ từ hãy tính.

Một ông già tóc đã bạc hết rồi, nước da đã ngã màu đồi mồi, tay chân đã lọng cọng, dễ gì xin được một việc làm trên một đất nước đầy dẫy nhân lực và cạnh tranh.

Tôi biết có rất nhiều cơ quan, tổ chức thiện nguyện, sẵn lòng tiếp những người khó khăn, nhưng với hoàn cảnh của bác, thật không có tổ chức nào có thể giúp đỡ, vì có tổ chức nào có nhà cửa, cơm áo, để cung cấp cho bác trong lúc này, nhất là trong thời kỳ kinh tế suy thoái, ngân sách các cơ quan, giáo dục, y tế hay xã hội … đều bị cắt giảm. Và tôi chỉ còn một con đường để đi, đó là dẫn bác tới Sở Xã hội, để xin cấp thẻ EBT ( Electronic Benifits Transfer), tức là mỗi tháng, Sở Xã Hội bỏ vào trong thẻ EBT $200 USD cho bác mua thực phẩm, gạo rau cá thịt, nước uống, trái cây…

Nhận được thẻ EBT bác liền hỏi nhân viên Xã Hội là có thể mua ngay thức ăn được không? và thực phẩm là những thứ gì? Người người Cán Sự Xã Hội nhìn tôi, tôi dịch lại lời bác và nói thêm rằng, bác không có gì ăn từ hôm qua cho đến nay. Người Broker xin phép đi ra một lúc, rồi quay trở lại đem theo phần ăn trưa của cô để tặng bác. Quả thật tôi cũng xúc động rơm rớm nước mắt khi nói câu đó với người broker. Đúng là một miếng khi đói, bằng một gói khi no, bác cúi đầu cám ơn người Cán Sự Xã Hôi mà như muốn khóc.

Tôi đem bác đi mua thực phẩm để hướng dẫn bác cách dùng thẻ EBT. Lần mua thử nghiệm đầu tiên của bác là 2 ổ bánh mì và 2 hộp cá Sardines rồi bác và tôi ra Parking chui vào xe ngồi ăn bánh mì cá hộp.

Tôi thật không hiểu rõ những tư tưởng nào đã đến với bác, nhưng mà nỗi xúc động của bác thì tôi biết là rất mãnh liệt, vì nước mắt bác đã chảy đến nỗi dùng hết một hộp khăn giấy của tôi để trong xe, tôi ngồi yên để bác khóc và suy nghĩ về mình, không hiểu có một lúc nào đó tôi lại như bác hôm nay. Trên đất nước tạm dung này, những người già đã trở thành gánh nặng cho con cái, những người già đã bị lãng quên hay bị xua đuổi của gia đình, mà xã hội dù có nhân đạo tới đâu cũng khó kham nỗi với số người cao niên ngày càng nhiều.

Một lần tôi đưa bác đi tái khám bệnh phổi, tôi ngồi chờ bác ở phòng đợi thật lâu, và khi bác trở ra cùng với một vị bác sĩ người Việt còn trẻ, vị bác sĩ này lấy ví ra 3 tờ bạc 20 đồng và nói “cháu chỉ còn bao nhiêu tiền mặt, nhưng cháu có một căn phòng trống trong Building này, có Microwave, khi nào bác cần thì gọi cho cháu, bác hãy nhớ là bác còn chúng cháu ở đây. Ông quay sang nhìn tôi và dặn chú làm ơn để ý tới bác này với, người già nào cũng có một nỗi khổ khi sang đây.”

Suốt quãng đường về tôi cứ mãi suy nghĩ về người bác sĩ đầy lòng nhân ái ấy. Y thuật và y đạo, điều nào được người ta coi trọng hơn trên đất nước này. Tôi hỏi bác Thụy về vị bác sĩ ấy, được biết ông ta tên là DR. Albert H. Lee, chuyên khoa về phổi, là bác sĩ đang làm việc tại hai bệnh viện lớn ở thành  phố này, và rất được bệnh nhân quý trọng cả về chuyên môn lẫn đạo đức.

Bác Thụy cho biết, thường ngày bác dậy rất sớm vì không ngủ được, có đêm bác chỉ ngủ 3 tiếng đồng hồ, rồi cứ suy nghĩ lung tung về chuyện đời, chuyện gia đình, về thời gian đi tù cải tạo, thời gian đi dạy dưới chế độ cộng sản.

Bác kể sau khi được thả ra tù, vì tốt nghiệp đại học trước 1975, nên bác không bị đuổi đi Kinh Tế Mới, mà được kêu đi dạy. Là một giáo sư dạy Lý Hóa nhiều năm, kinh nghiệm đặc biệt về phương pháp dạy Luyện thi, nên các Trung Tâm Luyện thi dạy ngoài giờ đều mời bác cộng tác, bác dạy cả sáng, chiều và tối, nhờ đó mà gia đình bác có được cuộc sống tương đối so với những anh em khác đi học tập về, và các con bác cũng từ đó mà học đến nơi đến chốn trước khi ra nước ngoài.

Trước ngày sang Mỹ, bác bán đi căn nhà, thu gom tài sản lại, cũng đựoc vài ba chục ngàn đô la, đều đem cho con hết, bây giờ nếu quay về, không còn nhà để ở, và biết lấy gì làm kế sinh nhai, vì tuổi đã cao rồi, làm sao xin được việc làm, đó là chưa nói tới những phiền toái khác từ xã hội, thật là tiến thoái lưỡng nan, bác tâm sự.

Có một buổi trưa tôi tìm tới bác, chứng kiến bữa cơm trưa gọn gàng của bác mà mủi lòng, một tách uống cà phê đong đầy Oat Meal, đổ vào một tô lớn, rót nước nóng từ bình thủy ra, khuấy đều chừng 2 phút, chờ nguội và ăn, không cần nước mắm hay xì dầu, hoặc một loại gia vị nào khác. Bác bảo từ khi có thẻ EBT, tôi không còn lo thiếu xì dầu nữa, nhưng nhịn được cái gì hay cái đó, với lại bác sĩ bảo ăn mặn cũng không tốt .

– Bác ăn như thế này mỗi ngày sao ?

– Vâng, chỉ vậy thôi, tôi đâu có cần gì thêm, chỉ cần một căn phòng nhỏ, đủ đặt một cái giường là được rồi, thế nhưng đời tôi quả là cùng khổ, mà thực ra tôi đâu có cầu sống lâu, sống thọ, sống không có gì vui, thì chết đâu có gì buồn, sỡ dĩ tôi vẫn đi bác sĩ là vì tôi sợ đau đớn, cũng như tôi không đủ can đảm để tự tử, còn chết ư, tôi nghĩ tới rất thanh thản, trên đời tôi không còn gì mê luyến thì chết đi tôi đâu có gì tiếc nuối, chỉ cầu sao cho được chết thật nhanh, không đau đớn, đó là nguyện vọng duy nhất còn lại của tôi.

Thường thường bác hay kể cho tôi về những bữa cơm dã chiến của bác, như bữa ăn của những người lính ngoài mặt trận. Bác mua một cái bếp gas nhỏ bỏ trong túi vải mang theo bên mình mỗi khi đi bộ, một bình thủy nước sôi, một tách cà phê Oat meal, một cái tô và muổng. Buổi trưa ngồi vào một góc nào đó trong Park, nơi người ta cho phép nướng BBQ, bác mở hộp cá ra, hâm nóng bằng bếp gas chừng 2 phút, rồi đổ nước sôi trong bình thủy vào tô và khuấy Oak meal lên ăn, bác chỉ về nhà vào xế chiều, làm thức ăn tối và nấu nước sôi đổ vào bình thủy, chuẩn bị thức ăn cho ngày hôm sau, và những việc này luôn luôn làm xong trước khi con gái bác  về nhà, ăn chiều xong, bác lại chui vào căn phòng nhỏ dấu mình trong đó, để không phải gặp mặt con gái nghe nó nói nặng nói nhẹ và đuổi nhà.

Bác tâm sự rằng, đôi lúc muốn ôm mấy đứa cháu một chút, nhưng thật rất khó, vì chúng nó sợ má la, lâu lâu con cháu lớn lén vào phòng ông, đưa ngón tay lên môi làm dấu với ý bảo ông im lặng, ngồi chơi với ông một lúc rồi chạy ra. Có những khi chúng nó vào phòng ông, má nó biết được là la mắng chúng liền. Ông cháu gặp nhau như đi thăm tù cải tao, thật là một hoàn cảnh đặc biệt hiếm hoi.

Nghe bác kể lại, tôi đành tìm cách an ủi bác, kể cho bác nghe về những đứa cháu phá phách của tôi, mọi thứ trong phòng tôi mỗi ngày được xếp theo một kiểu, computer của tôi được load đầy các games “comp của ông ngoại dễ xài hơn, con thích games trong comp của ông ngoại hơn” thế là cái computer của tôi bận dài dài, chỉ trừ khi chúng đi học. Cho nên chơi với cháu chưa hẳn là hạnh phúc đâu bác ạ .

Bác kể cho tôi những bữa cơm chấm xì dầu thật cảm động. Mới đầu bác hỏi tôi :” Ông có bao giờ mút xì dầu chưa “? Tôi trả lời là tôi không hiểu ý bác.

Bác kể lại vào những tháng bác chưa có thẻ EBT, bác ăn cơm với xì dầu hiệu đậu nành, nhưng không dám chan vào chén cơm, chỉ hai miếng cơm mới nhúng đầu đủa vào chén xì dầu một lần và mút lấy đầu đũa, vì nếu chan vào chén cơm hay mút nhiều lần thì sẽ hết mất, không có tiền mua nữa. Những ngày tháng ấy, anh Hồng, ngày xưa ở Biệt Động Quân, và một thời làm Chỉ Huy Trưởng Căn Cứ Rừng Lá, trước ngày mất nước anh về Phủ Thủ Tướng, mỗi lần ghé thăm, anh thường mua xì dầu, rau muống, Broccoli cho tôi, tôi còn nhớ mãi, bây giờ anh move đi xa rồi, cách đây cũng vài ba tiếng lái xe nên anh không thường tới nữa, mà cũng tội nghiệp, anh ấy cũng chỉ sống với mấy trăm đồng tiền già mà thôi, nhưng khi nào tới cũng đưa tôi đi ăn phở, hay có khi anh mua sẵn 2 tô phở mang đến đây hai anh em cùng ăn. Nghĩ lại, chỉ có những người lính mới thương nhau và đùm bọc nhau trên đất nước tạm dung này.

Ông biết không, vào những ngày tháng đó, có khi tôi rất thèm bánh tráng có vừng đen, hay cơm trắng và xì dầu, mà phải là xì dầu đậu nành, đủ cho tôi ăn không sợ hết. Những đêm nằm không ngủ được, tôi lại ao ước có được một ổ bánh mì của chợ Vons để ăn, tôi thèm mùi thơm của bánh mì chưa kịp nguội, hoặc giã đã nguội đi, tôi lại thèm vị ngọt của bánh khi nhai còn thấm trên đầu lưỡi của mình, thèm đến chảy nước miếng.

Nghe bác kể, tôi thực sự không cầm được lòng mình, lại nghĩ tới thời gian đi tù cải tạo, tôi cũng đã từng thèm được ăn một bữa khoai mì cho thật no, và chỉ mơ ước ngày được thả về, tôi sẽ bảo vợ mua khoai mì cho tôi ăn một bữa cho đã thèm.

Khi thiếu thốn, con người sẽ thèm đủ thứ, cho nên nghe bác kể, tôi thực sự hiểu được cảnh ngộ ấy, và hiểu được sâu xa nỗi lòng của bác, chỉ có một điều mà không ai ngờ được, đó là sống trong một siêu cường bậc nhất, mà người dân chỉ thèm một ổ bánh mì không cũng không có để ăn, cái ước mơ nhỏ nhoi ấy đã ở dưới mức tầm thường rồi, vì kể cả những người vô gia cư trên     thành phố này, cũng không ai có một ước mơ như bác Thụy. Có ai quanh đây đang lâm vào tình cảnh của bác hay không tôi không rõ, cũng có thể có người bị gia đình hắt hủi, con cái bỏ rơi và xua đuổi, nhưng đến một đồng xu dính túi cũng không có thì tôi không tin.

Rồi một ngày bác nhờ tôi chở đi xin việc, bác đọc được một mẫu rao vặt đăng tin cần một người đứng tuổi, có sức khỏe, để săn sóc một ông già 83 tuổi, bị bệnh mất trí, bao ăn ở, tiền lương sẽ thương lượng.

Tôi chở bác tới địa chỉ tìm gặp chủ nhà, cô chủ nhà tiếp chúng tôi và hỏi :

– Chú xin hay chú này xin?

– Tôi, bác nhanh nhẩu trả lời.

Chủ nhà dẫn chúng tôi đến phòng ông cụ, cô cho biết ông cụ đã quên hết mọi thứ, cần giúp ông cụ ăn uống, đi tiêu, đi tiểu, thay quần áo, và tắm cho ông cụ. Mọi sinh hoạt của ông cụ đều cần được giúp đỡ, nhất là về đêm, ông cụ hay thức dậy đi quanh quẩn trong nhà một mình, những lúc như thế cần có người bên cạnh, đề phòng khi ông cụ bị té. Nhiều khi ông cụ đi tiêu, đi tiểu trong quần mà không biết. Và cô hỏi:

– Chú có thể giúp ba tôi được không ? Hay chú làm thử vài ngay , vì có người nhận làm nhưng một hay hai ngày sau lại bỏ vì không chịu được tính tình của ông cụ.

– Không đâu, tôi làm được, tôi rất thích người già và trẻ con, cô cứ để tôi làm.

– Vâng, vậy chú có bằng lái xe không cho cháu xem thử?

Bác lấy bằng lái xe đưa cho cô chủ, cô ta xem xong rồi trả lại bác, cô nói, ba cháu nặng 65 ký Không hiểu chú có thể đỡ nổi không, chú làm thử một vài ngày đi, nếu không được, cháu vẫn tính lương cho chú.

Lương tháng là $800, bao ăn ở, mỗi tuần nghỉ một ngày, tốt nhất là thứ 7, cái giường phía trong là của ba cháu, chú nằm giường ngoài. Thức ăn hàng ngày cháu nấu sẵn để trong tủ lạnh hay trên bếp, chú muốn ăn thứ gì cứ ăn tự nhiên.

Mỗi ngày ba cháu uống 12 loại thuốc, ăn cơm trưa, chiều, sáng. Ba cháu uống cà phê, khi chú pha cà phê, nên để nguội rồi mới đưa cho ba cháu, vì ba cháu thích khuấy cà phê bằng ngón tay rồi mút. Thuốc thì cháu sẽ viết tên, liều lượng, giờ uống để trên bàn, chú cho ba cháu uống đúng giờ là được rồi.

Sau khi chủ nhà và bác bàn bạc công việc xong, tôi chở bác ra về, hẹn thứ 2 tuần tới là bắt đầu đi làm. Thoạt đầu bác có vẻ rất vui vì tìm được công việc, nhưng một lúc sau, tôi thấy bác khóc, bác như bị hụt hơi cứ nấc lên từng tiếng, tôi lo sợ nên tìm cách đưa bác vào một shop bên đường, đậu xe lại và hỏi bác :

– Sao bác lại buồn?

– Con người ta thì thuê người săn sóc cho cha, còn tôi thì bị đuổi ra khỏi nhà đi chùi đít cho thiên hạ, ông nghĩ xem có tủi không?

Nói xong câu này bác lại khóc lên thành tiếng. Tôi ngồi im để bác khóc cho hết cơn xúc đông rồi mới bảo bác, mỗi người có một số phận, một đoạn trường, và một nỗi niềm phải gánh, không ai có thể có hạnh phúc hoàn toàn, chỉ có ông cụ 83 tuổi ấy mới thực sự hạnh phúc, vì ông đã quên hết mọi sự, đã không còn biết mọi sự.

Làm cha mẹ, được con cái yêu thương, gia đình hòa thuận dĩ nhiền là điều tốt, . Nỗi đau khổ bị con cái bỏ rơi hay xua đuổi chưa hẳn đã lớn hơn nỗi đau đớn khi phải nhìn thấy con mình dửng dưng với cha mẹ , Không hiểu bác có nghĩ như tôi không?

Bây giờ ở là mùa Hè, rải rác đó đây, trên những đồi hoang quanh nhà tôi đã trổ lên vài chùm hoa dại, màu vàng như hoa Cúc, càng làm tôi nhớ đến quê hương mình, như ngày Thu trên rừng núi cao nguyên, những khóm Quỳ hoang cũng nở vàng như vậy trên những triền đồi, và càng nhớ đến người sĩ quan thám báo bây giờ không phải đang nhật tu trận liệt, hay chăm sóc một đồng đội kém may mắn, mà là đang chăm sóc một cụ già mất trí…

Du Tử Nguyễn Định

Anh Nguyễn V Thập gởi

CẦU NGUYỆN LÀ THIÊNG LIÊNG VÀ CÂN ĐỐI

CẦU NGUYỆN LÀ THIÊNG LIÊNG VÀ CÂN ĐỐI

Những năm làm việc sinh ích của chúng ta là một cuộc đua đường dài chứ không phải cuộc đua nước rút, do đó sẽ khó giữ vững tính mềm mại, lòng quảng đại và kiên nhẫn khi phải đi qua những lúc mệt mỏi, thử thách, cám dỗ vây quanh chúng ta trong suốt đời sống người lớn.  Khi phải dựa hoàn toàn vào chính mình, chỉ tin vào sức mạnh của ý chí, chúng ta thường bị mệt nhọc, sức chịu đựng đi xuống, làm việc nửa vời, cả trong sự chín chắn và kỷ luật của mình.  Chúng ta cần một hổ trợ từ bên ngoài, từ một nơi nào đó nằm ngoài hổ trợ của con người, và sự hổ trợ đó sẽ nâng đỡ chúng ta.  Chúng ta cần sự giúp đỡ của Thiên Chúa, một sức mạnh khởi xuất từ một điều gì đó cao hơn sức mạnh của con người.  Chúng ta cần cầu nguyện.

Nhưng thường thường chúng ta nghĩ về cầu nguyện là lòng mộ đạo hơn là một cái gì thực tế.  Hiếm khi chúng ta hiểu cho thấu cầu nguyện thật ra là một vấn đề sống chết đối với chúng ta.  Chúng ta cần cầu nguyện không phải vì Chúa cần lời cầu nguyện, nhưng nếu không cầu nguyện, chúng ta sẽ không bao giờ tìm thấy một cái gì kiên định trong đời sống của mình.  Đơn giản, nếu không  cầu nguyện, chúng ta sẽ luôn luôn hoặc sống quá nhiều về bản thân, hoặc quá thiếu sinh lực, nói cách khác, hoặc tự mãn hoặc chán nản.  Tại sao vậy?  Mổ xẻ vấn đề này, chúng ta sẽ thấy gì?

Dù hiểu theo tất cả những gì tốt đẹp nhất trong truyền thống Kitô giáo hay không, cầu nguyện mang đến cho chúng ta hai điều cùng một lúc: Nối kết chúng ta với sinh lực thiêng liêng và cho chúng ta nhận thức.  Năng lực này không phải của chúng ta, nó đến từ một nơi khác, và có lẽ chúng ta chẳng bao giờ xác định được.  Với tác động của nó, cầu nguyện sẽ đổ đầy sinh lực thiêng liêng cho chúng ta, cùng lúc nó cho chúng ta biết sinh lực này không phải của chúng ta, sinh lực này hoạt động trong chúng ta, nhưng không phải do chính chúng ta.  Để lành mạnh, chúng ta cần cả hai: Nếu mất nối kết với sinh lực thiêng liêng, chúng ta sẽ cạn kiệt sinh lực, nản lòng và thấy trống rỗng.  Ngược lại, nếu để sinh lực thiêng liêng tuôn chảy mà không cần xác định chính xác nó là gì, cứ nghĩ nó là của mình, thì từ đó chúng ta thành người tự đại, tự mãn, tự cho mình là quan trọng và kiêu ngạo, rồi từ đó sẽ ích kỷ và hư mất.

Để làm sáng tỏ điều này, Robert Moore đã minh họa một hình ảnh rất hữu ích, một chiến đấu cơ nhỏ cần được tiếp năng lượng trong lúc bay.  Chúng ta từng xem các đoạn phim ngắn, chiếu cảnh một chiến cơ được tiếp nhiên liệu trong khi bay.  Tàu mẹ với dự trữ nhiên liệu khổng lồ, bay trên tàu con. Tàu con phải bay đủ gần tàu mẹ, để vòi xăng từ tàu mẹ nối được với tàu con, và đổ đầy nhiên liệu cho nó.  Nếu không làm được cách nối này, tàu con sẽ cạn nhiên liệu và sẽ rớt.  Ngược lại, nếu nó bay thẳng vào và nhập một với tàu mẹ, thì nó sẽ cháy.

Một vài hình ảnh trên nói lên được tầm quan trọng của cầu nguyện trong đời sống chúng ta.  Không có cầu nguyện, mãi mãi chúng ta sẽ chỉ thấy mình giao động chập chờn giữa cạn kiệt sinh lực và quá nhiều cái tôi.  Nếu không nối kết với sinh lực thiêng liêng, chúng ta sẽ như phi cơ cạn xăng.  Nếu nối kết với sinh lực thiêng liêng theo kiểu đồng nhất vào đó, chúng ta sẽ hủy hoại chính mình.

Cầu nguyện sâu đậm vừa thêm sinh lực, vừa làm trụ nâng đỡ chúng ta.  Chúng ta có thể thấy điều này nơi mẹ Têrêxa, người thiết tha với sinh lực sáng tạo nhưng luôn luôn xác định rõ ràng, sinh lực này không xuất phát từ mình, mà chính từ Thiên Chúa, mẹ chỉ là tạo vật khiêm hèn mà thôi.  Thiếu cầu nguyện sẽ tạo ra hai dạng tương phản với mẹ Têrêxa.  Một mặt, nó làm cho những người đầy sinh lực sáng tạo trở nên cực kỳ tài năng và hăng hái, nhưng đồng thời cũng đầy cái tôi và tự đại; hay ngược lại, nó làm cho người ta cảm thấy trống rỗng và tẻ nhạt, không phát ra được sinh lực tích cực nào.  Không có cầu nguyện, chúng ta sẽ luôn luôn chao qua chao về giữa hai trạng thái tự đại và nản lòng.

Vì thế, là người nhạy cảm, nếu trong đời sống, tôi không cầu nguyện một cách trung thực, tôi sẽ sống trong khủng hoảng thường xuyên, ngại rằng nếu tôi bám lấy và hành động trên sinh lực của mình sẽ làm cho người khác nghĩ rằng tôi chỉ biết nghĩ đến cái tôi của mình.  Vì là người nhạy cảm, tôi không chấp nhận như thế, nên tôi chôn vùi các sinh lực tốt nhất của mình với lối suy nghĩ vô thức rằng nản lòng thì tốt hơn là bị cho là ích kỷ.  Nhưng Chúa Giêsu, trong dụ ngôn kể về các tài năng, đã cảnh báo mạnh mẽ về cái giá phải trả khi chôn vùi tài năng của mình, cụ thể là, những gì chúng ta phải trả là sự trống rỗng, giận dữ, và thiếu vui tươi trong cuộc sống.  Thường thường, khi chúng ta dò sâu xuống bên dưới các giận dữ, ghen tương, chúng ta sẽ thấy nơi đó có một tài năng bị chôn vùi đang cay đắng vì  bị đè nén.  Đức hạnh có được nhờ đè nén sinh lực sẽ dẫn đến nỗi chua cay mà thôi.

Ngược lại, nếu tôi không quan tâm đến việc người khác nghĩ tôi là người ích kỷ, cuộc sống tôi cũng chẳng biết cầu nguyện thực sự là gì, thì tôi sẽ để những dòng sinh lực thiêng liêng chảy tự do trong tôi, và tôi sẽ đồng nhất mình với chúng như thể chúng là của tôi, là tài năng của tôi và tặng vật của riêng tôi, kết cục tâm hồn tôi sẽ đầy cái tôi và tự đại, và rồi những người xung quanh sẽ mong tôi sớm gặp khủng hoảng!

Không có cầu nguyện, mãi mãi chúng ta sẽ hoặc cạn kiệt sinh lực hoặc mang trong mình quá nhiều cái tôi, chỉ vậy mà thôi.

Fr. Ron Rolheiser, OMI

From: ngocnga_12  &

Anh chị Thụ Mai gởi

Những người “ăn xin” cao cả

Một cô bé bán khoai, một chị bán cơm hộp, cùng cậu học trò thường ngày “buôn thúng bán bưng” ở bệnh viện đã không vô cảm khi thấy một sản phụ gần như bị bỏ rơi, nằm mê man bất tỉnh với vết thương sâu vào tận xương, dòi bọ lúc nhúc.

Thế rồi, một ngày nọ Hải Phòng nóng như đổ lửa, họ tạm gác công việc hằng ngày để “đi xin”, chỉ trong vài tiếng, họ đã xin được hơn 10 triệu đồng giúp sản phụ.
Con số tiếp tục lên tới hàng chục lần khi cảnh đời bất hạnh của người sản phụ ấy được đưa lên diễn đàn mạng, để rồi viết nên câu chuyện cổ tích giữa đời thường.
Vác rổ xin tiền cứu người
Ngày 9.6, trên facebook cá nhân của tôi hiện “lời hiệu triệu” của một người bạn: “Hãy cứu giúp chị Hà Thị Ngân bị bệnh viêm não trong khi đang mang thai 8 tháng”. Lời lẽ thống thiết miêu tả chị này đang nằm ở Bệnh viện Hữu nghị Việt-Tiệp (Hải Phòng) thiếu sự chăm sóc của gia đình, bị bỏ bê dẫn tới những vết thương hoại tử. Trong khi người nhà dường như coi sản phụ như đã chết, thì có những người không hề quen biết dang tay giúp đỡ. Nhìn bức ảnh chụp 5 người tay giơ cao tấm biển, mang theo chiếc rổ, khóc nức nở mong mọi người thể hiện lòng từ tâm, tôi tự nhủ: Mình phải gặp những người này.
Người nằm trên giường bệnh là Hà Thị Ngân- sinh năm 1986, ở phố Thiên Lôi, quận Lê Chân (Hải Phòng). Chuyện đời của cô là chuỗi dài bất hạnh. Ngân người dân tộc Tày, ở vùng núi tỉnh Tuyên Quang. Mồ côi cả cha lẫn mẹ từ nhỏ, 13 tuổi Ngân xuống Hà Nội, rồi Hải Phòng rửa bát thuê cho các hàng ăn kiếm sống. Ở thành phố cảng, số phận run rủi cô yêu rồi về sống như vợ chồng với một thanh niên có tên Khoa ở phường Trại Chuối, quận Hồng Bàng. Không một lần được mặc áo cô dâu, may mắn lắm cách nay 3 tháng cô được đăng ký kết hôn với người đàn ông này khi cái thai trong bụng đã được 5 tháng. Nhưng rồi tai họa ập xuống, bỗng dưng cô bị co giật liên hồi, các bác sĩ chẩn đoán cô bị viêm não. Sau vài lần đưa cô đi điều trị tại bệnh viện, chồng và gia đình dường như… quên luôn.
Nửa tháng trước, khi Ngân được đưa đi điều trị tại Bệnh viện Sản Trung ương thì sức khỏe của cô cùng đứa con trong bụng đã yếu lắm rồi. Vì quá mệt mỏi hay thiếu tình yêu thương vợ con, chồng lên chăm vợ dường như chăm cho có vì. Bằng chứng là sau 15 ngày nằm viện, Ngân chẳng được vệ sinh sau mỗi lần tiểu tiện, đại tiện, sản phụ đã bị viêm nhiễm vùng hông. Vết thương ngày một lan rộng và tới ngày 7.6, khi các bác sĩ tiến hành tiểu phẫu, vệ sinh thì vết thương đã lan rộng to như cái bát, hoại tử sâu, nhìn thấy cả xương cùng xương cụt, dòi bọ lúc nhúc xung quanh vết thương.
Có lẽ sản phụ Hà Thị Ngân cùng đứa con trong bụng sẽ vẫn nằm đó, chết dần chết mòn với vết thương lở loét, ăn dần vào da thịt nếu không có một phép màu. Phép màu đó không đến từ cô tiên, ông bụt, mà đến từ một chị bán cơm hộp, cô gái bán khoai ở Bệnh viện Việt-Tiệp (Hải Phòng), một bác bệnh nhân nằm điều trị cùng khoa và một em học sinh lớp 10.
Trong những ngày xách cơm hộp, mang khoai lang, bánh mì đi bán dạo ở Bệnh viện Việt-Tiệp, chị Nguyễn Thị Hương cùng em trai là Nguyễn Quang Hào (học sinh lớp 10C6 Trường THPT Đồng Hòa) và chị Vũ Thị Hường- đều ở khu đường tàu quận Lê Chân- thấy cảnh tượng thương tâm: Sản phụ Hà Thị Ngân nằm bất động trên giường bệnh với vết thương lở loét mà thỉnh thoảng mới thấy người nhà đến chăm sóc. Trong một lần hiếm hoi, chị Hương gặp bà mẹ chồng sản phụ, hỏi sao lại để con dâu nằm đáng thương như vậy, bà mẹ chồng lạnh lùng: “Nhà nghèo, hết tiền”.
Như một định mệnh, ngày 6.6 chị Hương, chị Hường và em Hào cùng gặp một bệnh nhân chuẩn bị xuất viện là bác Xuân ở phòng 304 khoa Thần kinh, Bệnh viện Việt-Tiệp, chuyện của 4 người xoay quanh hoàn cảnh thương tâm của Hà Thị Ngân. Chị Hương kể: “Một quyết định “đi xin” được cả 4 người chúng tôi đưa ra một cách chóng vánh. Thằng Hào chạy về lấy tấm bìa cáctông viết dòng chữ: “Làm ơn!!! Mọi người hãy giúp một cô gái ở phòng 308 khu C, Bệnh viện Việt-Tiệp. Cô gái ấy đã bị bại não nhưng trong bụng là đứa bé 8 tháng tuổi. Không có tiền để phẫu thuật cứu đứa bé. Nếu không phẫu thuật nhanh thì cả hai người sẽ chết”. Hương lấy cái rổ thường ngày bán khoai làm rổ đựng tiền, và chúng tôi đi xin”.
Nhiều người đến thăm, giúp đỡ sản phụ Ngân sau hiệu ứng của mạng Internet.
Nhiều người đến thăm, giúp đỡ sản phụ Ngân sau hiệu ứng của mạng Internet.
Một bức ảnh người dân chụp được rồi đưa lên Facebook, trong ảnh có cô gái xinh xắn, nước mắt thấm ướt cả ngực áo – cô gái ấy tên Hường – người ta thường gọi là Hường khoai vì cô ấy bán khoai. “Chắc em mất nhiều nước mắt lắm nhỉ?” – tôi hỏi. “Em cũng chẳng biết vì sao mà lúc đó em lại khóc… như trẻ bị đòn đến thế. Khóc nức nở, khóc đến mức 2 ngày sau mắt vẫn còn sưng vù anh ạ. Em cũng chẳng biết người ta chụp ảnh mình rồi đưa lên mạng lúc nào nữa. Thật buồn cười nhưng vui lắm, vui nhất là khi đọc những dòng trên Facebook: “Cảm ơn em, vậy là chị Ngân được cứu rồi”.
Chỉ trong khoảng thời gian ngắn từ 2h chiều đến 11h ngày 6.6, họ đã xin được 10,5 triệu đồng giúp sản phụ Hà Thị Ngân. Không chỉ có vậy, một bức ảnh đắt giá đã được một người dân vô danh nào đó chụp rồi đưa lên mạng Internet, để rồi hàng trăm người xúc động kéo đến giúp sản phụ này, viết nên một câu chuyện cổ tích giữa đời thường. Khi bạn đọc bài này, các chị Hường, Hương đã quay lại công việc thường ngày: Bán cơm, bán khoai ở cổng Bệnh viện Việt-Tiệp, em Hào cắp sách đến trường, còn bác Xuân nằm nhà dưỡng bệnh. Tuy vậy, trong mắt nhiều người, họ đã là những ông bụt, cô tiên giữa đời thường.
“Cơn sốt nhân đạo” tái hiện ở đất cảng
Hai bạn tôi- một gã đeo quân hàm đại úy, công tác tại một tờ báo trong ngành công an Hải Phòng, gã kia là bác sĩ chuyên khoa Mắt của Trường Đại học Y Hải Phòng. Cả hai đều có một “sở thích” là, hễ rảnh rỗi là đi làm từ thiện, nên cùng một số người lập một nhóm từ thiện tự phát mang cái tên lạ hoắc: “Mặc ấm Hải Phòng”. Tấm ảnh chụp nhóm người mang rổ xin tiền để giúp sản phụ Ngân, một ngày sau đã đến với gã bác sĩ. Một cú điện thoại và 2 gã lập tức lên đường tới khoa Thần kinh, Bệnh viện Hữu nghị Việt-Tiệp.
Với những gì tận mắt chứng kiến, lời “hiệu triệu” với những lời lẽ thống thiết được 2 gã tung lên mạng Internet. Lập tức, thông tin lan truyền chóng mặt trên mạng xã hội. Hàng ngàn bình luận đẫm nước mắt cùng những câu khẳng định sẽ đồng hành, giúp đỡ sản phụ Ngân được đưa ra. Và họ đã làm như đã hứa.
Chỉ trong vòng 3 ngày – từ 7 đến 10.6 – hàng trăm người nườm nượp đổ về khoa Thần kinh, Bệnh viện Việt-Tiệp thăm Ngân. Những đồng tiền 100, 200, 500 nghìn; có đồng tiền đặt trang trọng trong phong bì, có đồng tiền nhàu nhĩ được rút ra từ túi bà bán thịt, em sinh viên, anh công nhân… gom góp giúp Ngân. Số người đến quá đông khiến Bệnh viện Việt-Tiệp phải cử ra một ban để tiếp nhận ủng hộ, tiếp nhận số tiền này để điều trị cho Ngân và đứa con trong bụng cô.
Đến nay đã có gần 120 triệu đồng được gửi đến sản phụ Ngân. Nằm bất động trên giường bệnh, Hà Thị Ngân không biết tới vết thương ăn sâu vào tận xương tủy, cũng không biết tới những tấm lòng nhân ái đang cố giúp cô duy trì sự sống. Cô cũng không biết tới những chuyện buồn về gia đình, về những việc mà họ đã đối xử với mình, với những người hảo tâm đã giúp mình. Có lẽ sau khi tỉnh dậy, cô nên quên hết những bạc bẽo, thờ ơ, mà chỉ nên để đọng lại hơi ấm của “tình người dưng”…
Cháu bé sinh ra trong hạnh phúc vô bờ

Ngày 10.6, gia đình sản phụ Hà Thị Ngân đã quyết định xin chuyển viện cho bệnh nhân từ Bệnh viện Việt-Tiệp (Hải Phòng) lên Bệnh viện Bạch Mai (Hà Nội). Có 5 người thay mặt các nhóm tình nguyện theo xe từ Hải Phòng lên Hà Nội để chăm sóc cho Ngân. 20h ngày 11.6, Ngân được đưa lên bàn mổ lấy thai nhi.
Trao đổi với chúng tôi trước khi tiến hành ca mổ, bác sĩ khoa Cấp cứu, Bệnh viện Bạch Mai cho biết: Tình trạng của mẹ con sản phụ tiên lượng rất xấu, bệnh viện chỉ hy vọng khả năng sống sót của cháu bé là 50%, còn Ngân thì không hy vọng gì. Tuy vậy, sau gần 1 giờ, con của Ngân đã chào đời, nặng 2kg, được chuyển sang nuôi trong lồng kính. Riêng Ngân thì đang hôn mê, nhưng vẫn còn nhiều hy vọng sống.
Theo Việt Hoà
Lao Động

Những Độc Chiêu Của Đệ Tử Cái Bang Ở Việt Nam

Những Độc Chiêu Của Đệ Tử Cái Bang Ở Việt Nam

(06/07/2013)

Tác giả : Trúc Giang MN

Trúc Giang MN

nguồn:vietbao.com
1* Mở bài

Giữa trời nắng gắt hay đêm khuya mưa lạnh, nhiều người già yếu, tàn tật phải dãi dầu trên đường phố để xin cho đủ số tiền quy định đem về nộp cho những kẻ chăn dắt.

Ăn mày tượng trưng cho sự nghèo đói. Những mánh khoé gian manh, xảo trá, tàn bạo, độc ác phía sau hiện tượng ăn mày ở Việt Nam ngày nay cho thấy cái truyền thống đạo đức tốt đẹp ngàn năm của dân tộc đã xuống cấp và suy đồi trầm trọng.

Đạo quân cái bang đã làm hoen ố bộ mặt của chế động Cộng Sản ngày nay ở Việt Nam.

Ăn mày là ai? Ăn mày là ta, đói cơm rách áo mới ra ăn mày.

2* Giải mã “kỹ nghệ” độc nhất vô nhị của ăn mày Việt Nam

Nhiều ngón nghề của đệ tử cái bang làm cho người ta phải giật mình.

Phóng viên Giáo dục Việt Nam thuật lại: “Trong số những người ăn mày ngồi vật vạ ven đường, nổi bật một phụ nữ “cụt chân” nằm lê lết, kêu khóc thảm thiết, khiến ai cũng động lòng thương cảm, nhưng mấy ai biết được rằng đàng sau cảnh thương tâm đó là một phụ nữ hoàn toàn khoẻ mạnh. Người phụ nữ vốn “cụt chân” đó, nhìn trước ngó sau rồi chạy rất nhanh để cất cái xô đầy tiền.

Bị bắt quả tang, chị ta không ngần ngại thú nhận: “Muốn họ cho tiền thì phải biết cách làm cho mình càng thảm thương càng tốt. Người ta nhìn vào phải cảm động thì mới xin được tiền của họ”.

Ở một góc phố khác, người cha khuyết tật, trong bộ quần áo tả tơi, ôm đứa con chưa hết mùi sữa mẹ. Tiếng khóc trẻ thơ với vẻ mặt đau thương của người đàn ông khiến cho người chung quanh không khỏi mủi lòng, người cho vài ngàn, chỉ trong chốc lát, tiền giấy đầy xô.

Đệ tử cái bang nầy kể lại. Việc đánh động lòng trắc ẩn hữu hiệu nhất là dùng trẻ thơ, nhưng việc nầy không đơn giản, phải chịu khó thuyết phục, mượn con cháu của người trong họ hàng, hoặc phải chia tiền cho những cha mẹ nghèo khổ. Thường thì phải ngắt nhéo cho trẻ khóc thét lên để gây chú ý thiên hạ.

3* Câu chuyện độc đáo về kỹ năng Marketing của đệ tử Cái Bang

Một người khách thuật lại câu chuyện độc đáo về kỹ năng Marketing (Tiếp thị trong kinh doanh) của một gã ăn mày.

“Tôi xách túi đồ nhãn hiệu Gucci ra khỏi Tràng Tiền Plaza rồi đứng lại ở cửa chờ bạn. Một tay ăn mày sấn đến trước mặt, “Xin anh cho ít tiền”. Tôi cho hắn tiền rồi gạ chuyện, thế nhưng tên ăn mày nầy đã cho tôi một bài học kinh tế còn sâu sắc hơn chương trình MBA (Master of Business Administration degree -Thạc sĩ Quản Trị Kinh Doanh) mà tôi đã học ở trường.

Tôi nhìn ông ta. Đầu tóc rối bù, áo quần rách nát, tay chân xương xẩu nhưng sạch sẽ”.

Qua phần đối thoại giữa người bố thí và kẻ ăn mày, có thể tóm tắt câu chuyện độc đáo như sau.

3.1. Phân tích mục tiêu

“Tôi chỉ ăn mày ở khu vực mua sắm sang trọng nầy thôi. Chỉ cần liếc qua một phát là thấy anh ngay: đi mua Gucci ở Plaza nầy chắc chắn là có nhiều tiền.”

Ông ta mở máy. “Làm ăn mày cũng phải ăn mày có khoa học”.

– Ở nam thanh niên. Ăn mặc sang trọng, mua sắm ở khu vực sang trọng, có thu nhập cao nên tiêu tiền không lưỡng lự.

– Ở những đôi nhân tình. Không thể để mất mặt với bạn gái vì thế nên phải tỏ ra hào phóng.

– Ở các cô gái trẻ đi một mình. Đối tượng chính là ở tuổi từ 20 đến 30. Nếu còn nhỏ quá thì chưa làm ra tiền. Nếu lớn quá thì có thể có gia đình, chồng con nên chi tiêu có giới hạn, tiết kiệm, hạn chế.

3.2. Thu nhập trung bình mỗi ngày

“Từ thứ hai đến thứ sáu, trung bình được khoảng 200 ngàn đồng mỗi ngày. Cuối tuần thì có thể từ 400 đến 500 ngàn.

Tôi cũng làm việc 8 giờ vàng ngọc mỗi ngày, từ 11 giờ đến 19 giờ, cuối tuần đi làm như thường. Mỗi lần xin tiền một người khoảng 5 giây, trừ thời gian đi lại để tiếp cận các mục tiêu, là cứ một phút, tôi nhận được một tờ 1000 đồng. Mỗi ngày 8 giờ nhận được khoảng 480 tờ 1,000$, tính ra tỷ lệ thành công 60% thì thu được khoảng 300 ngàn mỗi ngày.

Chiến lược của tôi, dứt khoát là không bám đuôi khách hàng, vì nếu họ muốn cho thì đã cho ngay từ đầu rồi. Như vậy bám đuôi là lãng phí thời gian có giới hạn.

Có người cho rằng, ăn mày có số hên xui, tôi không nghĩ thế.

Ví dụ. Nếu có một cặp gồm thanh niên đẹp trai và một thiếu nữ xinh đẹp đứng trước shop bán đồ lót và mỹ phẩm, thì tôi đến xin tiền người thanh niên kia, vì trước người đẹp anh ta phải tỏ ra hào phóng, vì keo kiệt là điều mà phụ nữ không thích.

Một ví dụ khác. Hôm nọ, trước siêu thị hạng sang Big C, có một thiếu nữ tay xách gói đồ vừa mới mua ở siêu thị ra, đồng thời, có một cặp nam nữ có vẻ yêu nhau, đang đứng ăn kem. Qua phân tích chớp nhoáng trong óc, tôi đến xin tiền cô gái đứng một mình, cô liền cho tôi 2 tờ 1,000$, vì cô có tiền thừa, tiền lẻ do siêu thị thối lại.

Trái lại, cặp tình nhân đang đứng ăn kem, tay cầm kem nên không tiện mở bóp, lục ví, cho nên họ sẽ trả lời không có tiền lẻ. Thật ra, những người giàu thường xài tiền lớn hoặc thẻ tín dụng.

Làm ăn mày cũng phải động não, nếu cứ nằm ệch ra ở xó chợ, ở cửa chợ, ở cầu thang lên đường vượt giao lộ, bởi vì ở cổng chợ thì khách vội vàng, mang xách cồng kềnh, có ai thuận tiện cho tiền ăn mày bao giờ đâu?”

Anh ăn mày thuật lại một câu chuyện độc đáo. “Có lần, một người nhờ tôi đứng dưới cửa sổ gào lên lầu 100 lần “Hồng ơi! Anh yêu em”, với giá 50 ngàn đồng. Tôi tính ra, cứ mỗi tiếng gọi thì mất 5 giây, so vụ nầy với việc ăn mày thì tôi được 500 đồng, lớn hơn gấp 10 lần gọi 100 tiếng, nên tôi từ chối, vì vừa ít tiền, vừa khan cổ, mất sức lao động.

Ở đây, một tên ăn mày có thể được cho tiền từ 800 lần đến 1,000 lần mỗi tháng, mà tính ra ở thành phố 3 triệu dân nầy, thì trung bình có khoảng 10,000 người bố thí cho một ăn mày, như vậy, tính ra thu nhập được ổn định, cho dù kinh tế thế giới có lên xuống đi nữa, thì tình hình ăn xin ở đây vẫn ổn định.

Tôi thường nói, tôi là người ăn mày vui vẻ, bởi vì ăn mày là nghề nghiệp của tôi, tôi phải hiểu niềm vui do nghề nghiệp mang đến. Nhiều người ăn xin chỉ vui khi nhận được nhiều tiền, tôi bảo chúng rằng, vì vui vẻ nên mới nhận được nhiều tiền.

Lúc trời mưa gió, ít người ra phố, những thằng ăn mày khác đều ủ rũ, oán trách hoặc lăn ra ngủ, tôi bảo chúng đừng nên làm thế, mà hãy tranh thủ cảm nhận vẻ đẹp của thành phố.

Tối về, tôi dắt vợ con đi chơi. Ngắm trời đêm. Nhà ba người nói cười vui vẻ. Có lúc gặp đồng nghiệp ăn mày tôi cũng vất cho họ một vài ngàn đồng để thấy họ được vui. Nhìn họ vui, cũng như nhìn chính bản thân mình vậy”. Một triết lý ăn mày đáng lưu ý.

– Ông cũng có vợ con sao? người khách hỏi.

– Vợ tôi ở nhà làm bà nội trợ. Con tôi đi học. Tôi vay nợ ngân hàng Vietinbank mua một căn nhà nhỏ ở ngoại thành, trả nợ trong 10 năm, vẫn còn 6 năm nữa mới trả hết. Tôi phải nổ lực kiếm tiền. Con tôi phải lên đại học, tôi sẽ cho nó học ngành quản trị kinh doanh để con tôi trở thành người ăn mày xuất sắc hơn bố nó.

3.3. Kỹ thuật Marketing của ăn mày

Gã ăn mày kết luận. “Ăn mày cũng phải cạnh tranh với nhau. Tôi vượt trội hơn bọn đối thủ ăn mày khác là do tôi biết áp dụng bảng phân tích SWOT trong Marketing”.

*(SWOT Analysis gồm có: S=Strengths: ưu thế. W=Weaknesses: điểm yếu, bất lợi. O=Opportunities: thời cơ. T=Threats: nguy cơ)

Ưu điểm S của tôi là tôi không làm cho người ta phản cảm, lánh sợ, là 2 yếu tố tránh được bất lợi (W). Cơ hội (O) thì chỉ là yếu tố bên ngoài thuộc về hoàn cảnh, cụ thể như thành phố nầy đông 3 triệu người nên có nhiều cơ hội xin được tiền hơn thành phố thưa dân và nghèo. Nguy cơ (T) là thành phố có quyết định tích cực tiêu diệt nạn ăn xin hay không, thành phố nầy không có nguy cơ đó, nên tôi còn đi ăn mày như hôm nay”.

Bảng phân tích tương tự như nguyên tắc: thiên thời, địa lợi, nhân hoà, trong chiến thuật, chiến lược dụng binh của người xưa.

Gã ăn mày nầy có đầu óc của một trí thức, thật là hiếm có.

4* Ăn mày chê tiền

Có câu “Ăn mày mà đòi xôi gấc”. Mới nghe tưởng như việc lạ đời nhưng thật ra nó đã xảy ra ở nhiều nơi trong xã hội Việt Nam ngày nay, làm cho người bố thí phiền hà không ít.

“Cho hai nghìn không đủ mua mớ rau”

Một bà ăn mày nói với cô sinh viên: “Cô tính thế nào chứ hai nghìn bây giờ không đủ mua mớ rau, lần sau mất công cho thì cho tử tế nhé”. Câu nói của bà lão ăn xin làm cho nhiều người phải sốc. Cô sinh viên giải thích: “Bà thông cảm cho, cháu chỉ còn mấy đồng để đi xe bus, nếu có hơn, cháu đã cho bà rồi”. Chứng kiến cảnh trên, một người nói “Ăn mày mà còn đòi xôi gấc”.

Anh Hoàng Anh Tuấn (Cổ Nhuế, Từ Liêm) chia sẻ: “Lần trước đi chùa. Có người xin tiền. Tôi mở ví ra nhưng không ngờ không còn tiền lẻ, tôi đành cáo lỗi, thì anh ta bảo: “Không sao, anh đưa tiền chẵn đi, tôi sẽ thối tiền lại cho”.

Chị Hương (Cầu Giấy, Hà Nội) góp ý: “Nói thật, có lần tôi gặp chị em nhà nầy đi ăn xin. Thương tâm quá, tôi rút ví cho ba nghìn lẻ. Ngay lập tức, nó gọi tôi lại, giơ tờ 5 ngàn của nó lên bảo “Cho thêm hai nghìn mới đủ mua mớ rau nhé”.

Xã hội bây giờ thay đổi nhiều quá, ăn mày cũng thay đổi thái độ, nhiều khách cho ít tiền bị ăn mày tỏ thái độ khinh rẻ, chửi mắng.

Tại bến xe Mỹ Đình. Khách đang chờ xe. Bố con ăn mày đến. Người cho chục nghìn, người năm ba nghìn, một người cho hai nghìn thì người ăn mày bèn tỏ thái độ. Hắn đưa cái nón đựng tiền ra nói “Không thấy người ta cho bao nhiêu đây sao mà vứt hai nghìn vào đây?”. Nói xong, anh ta nhặt tờ giấy bạc trả lại người cho.

Bà hàng nước bên cạnh ra vẻ bí mật, nói: “Nói nhỏ với mấy chú nhé, lần sau gặp bọn nầy thì nên tránh xa. Toàn là bọn lừa đảo thôi, ngày nào chúng cũng lượn qua lượn lại, thấy khách là nhào đến xin tiền”.

5* Ăn mày thời hê lô, thanh kiu

Việt Nam mở cửa hội nhập thế giới, ăn mày cũng “ăn theo”, ăn mày quốc tế. Ăn mày thời hê lô, thanh kiu.

Ở Hà Nội, một cặp du khách người Tây vừa bước xuống taxi thì một bà ăn mày sà đến, bập bẹ vài tiếng Tây ba rọi. Bà lão rách rưới, dơ bẩn bám miết cặp vợ chồng Tây.

Tờ một đô la được nhận từ cái lắc đầu kèm theo thái độ và ánh mắt khó chịu của du khách, nhưng bà lão ăn mày Việt Nam thì rất vui mừng, vì một khách Tây bằng mười khách Việt. Một đô la ăn 16,000 đồng VN.

Ăn mày thời hê lô, thanh kiu được huấn luyện chuyên nghiệp hơn. Cả một đội quân cái bang, cụt chân, cụt tay, bó bột, quần áo dơ bẩn tả tơi bu vào chèo kéo, bám chân du khách, có người còn xổ một tràng tiếng Tây: “Hello sir, madam, please give me some of ur money pocket” có thể hiểu theo ý như sau, “ông bà Tây ơi, cho tôi vài đồng lẻ đi”.

Huế hết thời mộng mơ rồi

Một người dân Huế thấy cái kịch bản ăn mày Hà Nội diễn ra ở đất Thần Kinh (do câu chuyện Thần bí của Kinh Đô thời Trịnh Nguyễn phân tranh) đã than thở “Huế hết cái thời mộng mơ rồi!”

6* Câu chuyện về Làng ăn mày
6.1. Làng Ăn Mày Quảng Thái

Hồi tháng 6 năm 2012, bí thư đảng ủy xã Quảng Thái, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa cho biết: “Năm 1993, xã Quảng Thái nổi tiếng vì thành tích có đông người ăn mày nhất nước. Chỉ có 9,000 dân mà đã có 700 trẻ em nghỉ học ra thành phố lang thang đi ăn xin. Trường Phổ thông Cơ sở xã Quảng Thái lúc đó buồn thiu, chỉ còn có hai lớp với vài chục học sinh”.

Nhắc lại việc cả làng đi ăn mày, ông Cao Tiến Việt, Bí thư xã cho biết, đó là thành hoàng (Thành hoàng là Thần được dân làng thờ ở đình làng) của làng Quảng Thái là một ông tổ nghề ăn mày, nên được dân địa phương coi nghề ăn mày là cha truyền con nối. Thật sự là từ nhiều đời, đình làng nầy thờ thành hoàng là ông tổ nghề ăn mày.

Nhưng thực tế không phải vậy. Người dân đi ăn mày là do hậu quả của nghèo đói. Xã không có đất canh tác, địa phương phải hứng nhiều trận bão, cộng thêm thời kinh tế bao cấp của Chủ Nghĩa Xã Hội, dân đói, nên đi xin ăn.

Chính quyền xã không có biện pháp cứu trợ hoặc giúp đở vật chất, mà chỉ phát động tuyên truyền, đến từng nhà động viên cha mẹ, nhờ họ kêu gọi con em trở về tiếp tục đi học. Chị Nguyễn Thị Dục, Chủ tịch Phụ Nữ xã cho biết, đi đến đâu cũng được trả lời như nhau “Con tôi sinh ra, cho nó đi đâu, làm gì là quyền của tôi. Không ai giúp đở chúng tôi thì xin đừng xía miệng vào. Kêu nó về thì lấy gì mà ăn, tiền đâu mà đi học? Làng xã cho có chúng tôi đồng nào không?. Bộ chúng tôi muốn cho con đi ăn mày lắm hay sao?”

Trước tình trạng đó, cơ quan văn hoá thông tin xã đi giải thích về việc cha mẹ phải bảo vệ quyền trẻ em mà Liên Hiên Hiệp Quốc quy định, đó là: trẻ em có quyền được sống với gia đình, quyền được chăm sóc sức khoẻ, quyền được đi học…, mà quốc tế công nhận. Việc kêu gọi như thế là vô ích trước tình trạng của Làng Ăn Mày Quảng Thái nầy.

Trong 400 hộ ở Quảng Thái có 249 hộ có người đi ăn xin chuyên nghiệp. Các nhà nghiên cứu cho biết: năm 1995 có 571 lượt người đi xin ăn, năm 1998 có 167 lượt.

Quảng Thái trở thành một “thương hiệu” của ăn mày. Bí thư Cao Tiến Việt cho biết, “Cái khổ nhất là nhiều người ở tỉnh khác, đi xin ăn đều bảo là người của Quảng Thái, có nghĩa là ăn mày rặt nòi, chính hiệu, họ lấy cái danh mà thiên hạ đặt cho Làng Ăn Mày để làm kế sinh nhai.

Cái khổ do người ăn mày tạo ra chưa dứt, thì đến cái khổ của những tờ báo ngồi ở Hà Nội, Sài Gòn viết về Quảng Thái, đó là tờ báo “T” ở Sài Gòn, báo “G” của một cơ quan dân số, đã viết những bài hoàn toàn sai sự thật về Quảng Thái. Họ thêm mắm dậm muối, nào là có “lớp dạy trẻ em ăn mày”, “trẻ em bỏ học để đi ăn mày”, “ăn mày xây nhà 3 tầng”.

Năm 2004, nước Hoà Lan đến giúp dân làng trong đề án C.A.M (Chống Ăn Mày). Đến năm 2012, tỷ lệ nghèo đói vẫn còn cao là 26.3%.

6.2. Huyền thoại về ngôi mộ ông tổ Cái Bang Làng Quảng Thái
Trong dân gian có lan truyền về câu chuyện bốc mộ thành hoàng.

Thành hoàng là ông thần được thờ trong Đình làng, được tôn trọng, xem như thần hộ mạng, bảo vệ đời sống sung túc và an cư lạc nghiệp của dân làng. Mỗi năm có tổ chức lễ Kỳ Yên, tức là lễ cầu an, cúng bái, bày những trò vui chơi như hát chèo, hát bội, chọi gà, chọi trâu, đánh cờ…

Câu chuyện về thần ăn mày Quảng Thái. “Đó là một ngày rất xa xưa, khi người dân bốc mộ thành hoàng, thì bốc nhằm mộ của một người ăn mày có tiếng tăm trong làng. Cả làng chưa biết làm sao thì các phụ lão bảo phải mời thầy pháp, thầy phù thủy trong vùng đến xem xét lại long mạch và chỉ lối cho dân làng phải làm gì.

Đứng trước ngôi mộ mới đào lên, thầy phù thủy phán rằng: “Để cho linh hồn của người ăn mày được bình yên, hài long, và có đủ quyền uy bảo hộ bá tánh, thì từ nay trở đi, hàng năm, cứ sáng mồng một Tết nguyên đán, thì từ lý hào, điền chủ đến dân đen, phải đóng cửa, đi ăn mày ở xứ người.” Huyền thoại cả làng đi ăn mày vào ngày Tết bắt đầu từ đó, được truyền tụng trong dân gian”.

Và hiện tượng cả làng đi ăn mày vào ngày mồng một Tết là có thật trong quá khứ. Trước kia, thời nhà Lê, vua Lê Thánh Tông cho thi hành chính sách “ngự binh ư nông” trên mảnh đất vùng biển nầy, tức là cho quan quân triều đình đến trấn giữ bờ biển và tự túc lương thực bằng làm nghề nông.

Một lần khi Tết Nguyên đán gần kề, chánh sứ Tô Chính Đạo dẫn quân đi đánh Chiêm Thành, khi chiến thắng trở về, tổ chức khao quân và ăn Tết vào tháng hai âm lịch. Tục ăn Tết trễ được giữ những năm sau đó, có lẻ để nhớ ơn những người lập ấp và giữ nước.

Lịch sử ghi như thế, nhưng dân gian những thế hệ sau truyền miệng là dân làng bỏ Tết đi ăn mày. Thật ra cũng không có gì lạ cả, do mê tín mà có nhiều làng sùng bái như thờ cúng những người chết vào giờ trùng như “Thần chết nghẹn”, họ  thờ “Thần Tà  Dâm”, Thần rắn“. Ở xã Lộng Khê, huyện Phủ Dực, tỉnh Thái Bình dân làng thờ “Thần Ăn Trộm”, làng Đông Thôn, huyện Hoàng Long, tỉnh Hà Đông dân làng thờ “Thần trẻ con”…

7* Luật tàn nhẫn ở lò đào tạo ăn xin

Ngày 10-6-2012, nhóm phóng viên điều tra đưa lên bài viết tựa đề “Luật tàn nhẫn ở lò đào tạo trẻ ăn xin”

Nhiều trùm chăn dắt đánh đập trẻ em đến tàn tật để người khác rủ lòng thương mà cho tiền.

Các thành phố lớn như thành phố Hồ Chí Minh là nơi tập trung đông đảo nhất trẻ ăn xin từ 4 tuổi đến 12 tuổi. Nhiều người thường có chung một ý nghĩ, đó là những trẻ mồ côi không nơi nương tựa, nhưng thật ra có rất nhiều trẻ em là nạn nhân của những tên trùm chăn dắt ăn xin.

7.1. Huấn luyện trẻ ăn mày bằng roi da

Hồi tháng 5 năm 2012, Sài Gòn bị nhấn chìm trong biển nước mênh mông sau những cơn mưa tầm tã. Trong dòng xe hì hụt nhích từng bước trên biển nước, Nguyễn Văn Tí, 12 tuổi quê An Giang, khập khiễng bì bõm lết đi xin tiền hết người nầy đến người khác. Vẻ mặt sợ hãi đến tội nghiệp của em bé khiến ai cũng thương cảm.

Tí cho nhóm phóng viên biết, năm 6 tuổi em bị cha mẹ bán cho một người tên Tuấn ở Sài Gòn.

Vừa bước chân vào nhà ông ấy thì bị một trận đánh phủ đầu dằn mặt. Đám đệ tử của ông ấy huấn luyện suốt hai tháng để trở thành một ăn mày chuyên nghiệp. Ông ấy dùng roi mây, roi da đánh vào chân cho đến khi chân không còn cảm giác, phải đi khập khiễng mới thôi.

Được Tí giúp đở, nhóm phóng viên đến tìm hiểu tại một lò đào tạo trẻ ăn mày ở quận 7 do người chăn dắt là ông Bính, 56 tuổi.

Đường dây nầy có 15 trẻ em, trong đó có Tí được coi là “mỏ vàng số 1”. Vào lúc 14 giờ, ông Bính lăm lăm cái roi da trên tay, miệng luôn hò hét đám đàn em huấn luyện 4 em “lính mới” từ 10 đến 12 tuổi. Ông Bính liên tục quất roi da vào chân cẳng những đứa bé cho đến khi có tiếng thét thất thanh “Chú đừng đánh cháu nữa. Cháu đã gãy chân rồi!”.

Cạo đầu, đánh vào bộ phận sinh dục, bẻ gãy chân hoặc gãy tay, bỏ đói, cho ăn muối trộn ớt để hành hạ và khống chế trẻ ăn xin.

7.2. Phát biểu của Hội Bảo Vệ Trẻ Em Sài Gòn

Ông Huỳnh Văn Bình, Hội Bảo Vệ Trẻ Em Sài Gòn cho biết, việc làm của những tên trùm chăn dắt nầy quá tàn nhẫn và độc ác. Họ bóc lột thậm tệ những đứa trẻ còn quá nhỏ, chính quyền chưa chấm dứt được địa ngục trần gian của đám trẻ đáng thương nầy.

Những đường dây chăn dắt thường thay đổi chỗ ở luôn nên công an khó khám phá. Thật ra, việc triệt hạ các đường dây chăn dắt cũng dễ thôi. Việc đơn giản nhất là theo dõi đám trẻ ăn mày về tận ổ cũng không khó khăn gì.

8* Ăn mày ở Trung Cộng

8.1. Trung Cộng gom ăn mày vào cũi sắt

Để tránh nạn ăn mày quấy rầy và lừa gạt du khách, nhiều địa phương ở Trung Cộng đã gom họ vào trong cũi sắt.

Ngày 15-9-2012, nhân ngày lễ hội ở thành phố Nam Xương, tỉnh Giang Tây, nhà nước đã dựng một cái lồng sắt dài 50 mét phía trước cổng miếu, nhốt tất cả ăn mày vào trong đó. Trẻ nhỏ, con cái ăn mày cũng bị nhốt luôn.

Biện pháp nhất thời nầy chỉ ngăn chặn trong ngày lễ nhưng không phải là giải pháp chấm dứt được nạn ăn mày.

8.2. Những hiện tượng ăn mày gây xôn xao ở Trung Cộng

Cộng đồng cư dân mạng Trung Cộng, nhất là tuổi trẻ, bị cấm và hạn chế nhắc đến những cụm từ như “Thiên An Môn”, nhân quyền, tự do, dân chủ…nhưng được tự do nói về những đề tài hot boy, hot girl và tài tử điện ảnh…

8.2.1.”Lãng tử nhặt rác” làm chao đảo cư dân mạng

Đầu năm 2012, tại một khu phố ở Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên, thường xuất hiện một chàng ăn mày bảnh trai, phong cách sành điệu giống như diễn viên nổi tiếng Tạ Đình Phong. “Lãng tử nhặt rác” là cái tên mà dân cư trên mạng đặt cho anh ta.

Qua những bức ảnh được tung lên mạng, nhiều người mô tả “hot boy ăn xin” nầy thích mặc áo vest, đeo kính râm, đội nón bạc, luôn luôn có điếu thuốc trên môi, đầy phong cách một lãng tử. Thế là nhiều cô gái đua nhau bàn tán về lãng tử nhặt rác nầy như là một thần tượng của họ.

8.2.2. Hot boy xuyên lục địa

Một chàng trai khác tên là Cheng Guoreng, nổi bật đầy chất phong trần, bụi bặm, được các cô đặt cho cái biệt danh là “Chàng ăn mày phong lưu đệ nhất”. Tin tức trên mạng khiến cho báo chí dưới đất liên tục săn đón như đối với một siêu sao điện ảnh vậy.

Cheng Guoreng sống tha phương cầu thực ở Ninh Ba, Chiết Giang. Hình ảnh bề ngoài bảnh trai, bụi đời, sương gió, đã thu hút sự hâm mộ, không những chỉ ở Trung Cộng mà thậm chí còn lan sang Nhật Bản và Nam Hàn nữa. Đúng là gã ăn mày xuyên lục địa đã làm cho dân mạng xôn xao một thời.

8.2.3. Hot boy ăn mày sành điệu nhất

Giữa năm 2012, một chàng ăn mày có phong cách phong lưu, lịch lãm tên là Zhou Fei trở nên nổi tiếng với danh hiệu “Gã ăn mày sành điệu nhất Trung Quốc”. Lang thang từ năm 14 tuổi với quyết tâm trở thành ăn mày chuyên nghiệp vào năm 2011. Khi ăn xin, mặc bộ đồ vest giá 600 USD, xức dầu thơm đắt tiền và tạo kiểu tóc.

“Doanh thu” của Zhou Fei lệ thuộc vào thời tiết, có ngày được 1,500 USD nhưng cũng có hôm không được đồng xu ten nào cả.

8.2.4. Lãng tử nhặt rác đốn tim fan nữ

Giữa tháng 3 năm 2013, một hiện tượng “hot boy ăn mày” khác xuất hiện ở phố Liễu Cảng tỉnh Sơn Tây. Chàng “hoàng tử nhặt rác” nầy thu hút khách đi đường bởi chiều cao độ 1m80, gương mặt tự tin, mái tóc lãng tử cùng cặp kiếng râm sành điệu, xử dụng xe đạp làm phương tiện hành nghề. Khoát lên chiếc áo vest, vác trên vai một bao rác, điếu thuốc luôn ngậm trên môi.

Khi có người hoặc ống kính hướng đến, thì chàng trai vẫn tỏ thái độ thản nhiên, đồng thời, cử chỉ điệu bộ giống như một diễn viên đang tạo dáng chụp hình.

Một trang mạng của nhóm teen girl liên tục cập nhật hình ảnh và thông tin của “hoàng tử ăn mày” lạ lùng nầy. Hình ảnh của chàng trai bụi khiến cho một cô gái muốn phát điên lên thú nhận như bị tiếng sét ái tình. Thật là không sao hiểu nổi bọn con gái tàu khựa trong thời buổi nầy được.

9*. Lịch sử Cái Bang trong tiểu thuyết Kim Dung

Ảnh hưởng của tiểu thuyết Kim Dung đã ăn sâu vào xã hội Việt Nam, hai chữ “Cái Bang” thường được báo chí xử dụng để chỉ người ăn mày, ăn xin, hành khất, trên đường phố.

Trong tiểu thuyết, Cái Bang là một bang hội gồm những người không thích làm việc, mà chỉ muốn xin thức ăn thừa của thiên hạ. Kim Dung mô tả Cái Bang là Đệ nhất bang, gồm trên 60 vạn ăn mày, Đông Tây Nam Bắc, nơi nào có ăn mày là có Cái Bang, chủ trương làm việc nghĩa.

9.1. Lịch sử Cái Bang

Theo lời kể của Hồng Thất Công, Bang chủ đời thứ 18, thì Cái Bang có một lịch sử lâu đời, khoảng từ thời nhà Đường của Lý Thế Dân và thời Thiếu Lâm bắt đầu khai môn lập phái.

Bang Chủ đầu tiên là Hồng Tứ Hải sáng tạo ra 18 chiêu Hàng Long chưởng, tức là 18 chưởng chí cương buộc rồng phải đầu hàng, còn Đả Cẩu Bổng pháp thì chưa hoàn thiện.

Đến đời thứ ba thì Bang chủ bổ sung thành 36 chiêu hoàn chỉnh.

Thời cực thịnh của Cái Bang là lúc Kiều Phong làm Bang Chủ đời thứ 8, đã lập được nhiều chiến công cho võ lâm Trung Nguyên và nước Đại Tống. Nhưng Kiều Phong mất sớm, Cái Bang như rắn không đầu nên uy danh không còn lừng lẫy nữa. Đến đời Bang Chủ thứ 18 là Hồng Thất Công, thì Cái Bang khôi phục lại một phần nào.

Bang chủ thứ 19 là Hoàng Dung, nữ Bang chủ đầu tiên và sau đó chỉ có một nữ Bang chủ là Sử Hồng Thạch, con gái của Bang chủ Sử Hỏa Long.

9.2. Hệ thống tổ chức

Hệ thống tổ chức của Cái Bang cũng đã có những thay đổi. Thời Bắc Tống, ngoài Bang chủ ra, có Tứ Đại Trưởng Lão và hai trưởng lão Chấp pháp và Truyền Công.

Thời Nam Tống, Cái Bang chia làm hai phái, phái áo dơ là Ô Y, và phái Áo Sạch là Tịnh Y.

Đến thời nhà Minh thì chỉ có hai lãnh đạo cao nhất là Trưởng Bát Long Đầu và Trưởng Bảng Long Đầu.

Đệ tử Cái Bang cũng được chia theo đẳng cấp: mới gia nhập thì thuộc cấp một (1 túi), rồi từ từ, theo công lao và thành tích mà thăng lên cấp hai (2 túi), cấp ba (3 túi)… cao nhất là các trưởng lão cấp tám (8 túi), cấp chín (9 túi). Trên hết là Bang Chủ, Bang Phó và 4 Đại Trưởng Lão.

Cái Bang được coi là tai mắt của thiên hạ. Khắp 4 phương: Đông Tây Nam Bắc, chỗ nào có ăn mày là có Cái Bang. Hệ thống tìm kiếm, thu thập tin tức và thông tin liên lạc là sở trường của tổ chức ăn mày nầy.

Đệ tử Cái Bang được phép học võ của bất cứ môn phái nào khác, nhưng tuyệt kỹ của hai môn võ trấn bang là Hàng Long Thập Bát Chưởng và Đả Cẩu Bổng Pháp (Gậy đánh chó) chỉ truyền cho bang chủ đời kế tiếp mà thôi. Trong nghi thức nhậm chức Bang chủ thì mọi người lần lượt đến phun nước miếng (nước bọt) vào đầu Bang chủ mới.

9.3. Những Bang chủ có tiếng tăm

Những Bang Chủ được biết đến nhiều nhất là: Kiều Phong (đời thứ 8), Du Thản Chi (thứ 9), Hồng Thất Công (thứ 18), Hoàng Dung (thứ 19), Lỗ Hữu Cước (thứ 20), Gia Luật Tề (21), Sử Hoả Long (25), Sử Hồng Thạch (26), và Bang chủ sau cùng, đời thứ 45 là Trạng Nguyên Tô Khất Nhi (Tô Sáng) ở tỉnh Quảng Đông.

Cái Bang của Kim Dung là những người hành hiệp trượng nghĩa, có thời kỳ tham gia việc bảo vệ đất nước cho nên bị kẻ thù cài người vào nằm vùng đánh phá, gây chia rẻ để làm suy yếu bang hội nầy. Cụ thể là hoàng tử Hoắc Đô của Mông Cổ ngụy trang làm ăn mày nằm vùng, ra tranh chức Bang chủ với Gia Luật Tề, con rể của Quách Tĩnh – Hoàng Dung,  với mục đích là chiếm giữ chức “Chủ tịch cộng đồng” Cái Bang để đánh phá và gây chia rẻ đoàn thể, nhưng đã bị vạch mặt, bị chửi tơi bời, nhục nhã và thất bại thê thảm.

10* Kết

Những tiêu cực của ăn mày Việt Nam chỉ là một khía cạnh của muôn ngàn tiêu cực của xã hội Việt Nam ngày nay. Xã hội thay đổi, ăn mày cũng thay đổi, ngày càng xấu xa hơn.

Tình trạng bắt trẻ em đi ăn xin ngày càng phổ biến và tràn lan trên các thành phố lớn, nhất là thành phố mang tên bác, thành phố Hồ Chí Minh.

Những kẻ tán tận lương tâm, độc ác đã lạm dụng các em nhỏ không đủ sức kháng cự để tự vệ. Họ hành hạ mục đích để các em trở thành tàn tật, như lấy dao lam rạch miệng, rạch mặt, đánh cho gãy chân hoặc gãy tay, dùng cây chọc thủng lổ tai cho thành điếc, rồi đưa các em bé thân tàn ma dại, tật nguyền, tàn phế lê lết, lang thang trên các nẻo đường, xin tiền mang về nạp cho những kẻ chăn dắt độc ác.

Tệ hơn nữa, các em còn là nạn nhân của người ruột thịt như cô chú, bác ruột, thậm chí chính cha mẹ của các em nữa. Đúng là xã hội Việt Nam đang ở “thời kỳ đồ đểu”.

Trúc Giang
Minnesota ngày 6-6-2013

Việt Nam vẫn ở Bậc 2 về tình trạng buôn người

Việt Nam vẫn ở Bậc 2 về tình trạng buôn người

Nạn nhân của nạn buôn người Trần Mai Hoa, 17 tuổi, nói chuyện trong một cuộc phỏng vấn với hãng tin AFP tại Việt Nam. (Ảnh tư liệu). Báo cáo cho thấy phụ nữ và trẻ em Việt Nam thường bị bán vào các đường dây mãi dâm xuyên Châu Á.

Nạn nhân của nạn buôn người Trần Mai Hoa, 17 tuổi, nói chuyện trong một cuộc phỏng vấn với hãng tin AFP tại Việt Nam. (Ảnh tư liệu). Báo cáo cho thấy phụ nữ và trẻ em Việt Nam thường bị bán vào các đường dây mãi dâm xuyên Châu Á.

nguồn:VOA

20.06.2013

Chính phủ Việt Nam chưa tuân thủ hoàn toàn các chuẩn mực tối thiểu về bài trừ nạn buôn người dù có nỗ lực đáng kể, theo đánh giá của phúc trình thường niên về tình trạng buôn người trên thế giới 2013 do Bộ Ngoại Giao Mỹ công bố ngày 19/6.

Việt Nam năm nay vẫn tiếp tục bị xếp vào Bậc 2, tức các nước có vấn đề, chưa đạt tiêu chuẩn tối thiểu, nhưng có nỗ lực phòng chống buôn người.

Phúc trình nói Việt Nam là xuất phát điểm và cũng là đích đến của tệ nạn buôn người vào hoạt động mãi dâm và cưỡng bức lao động.

Báo cáo cho thấy phụ nữ và trẻ em Việt Nam thường bị bán vào các đường dây mãi dâm xuyên suốt Châu Á, bị lừa gạt với các hứa hẹn về công ăn việc làm tốt, nhưng rốt cuộc bị bán vào các ổ mãi dâm ở các nước láng giềng.

Vẫn theo phúc trình, các công ty xuất khẩu lao động của Việt Nam mà đa phần có liên hệ với các cơ sở nhà nước và các trung gian môi giới thường buộc những người muốn đi lao động nước ngoài phải trả các chi phí quá mức, khiến lao động Việt khi ra nước ngoài thường bị lâm vào cảnh nợ nần và dễ trở thành nạn nhân của nạn cưỡng bức lao động.

Khảo sát do UNICEF tài trợ năm 2012 cho thấy Việt Nam cũng là điểm đến của kỹ nghệ du lịch tình dục trẻ em với các khách hàng chủ yếu từ Nhật, Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan, hay Châu Âu, Mỹ, Anh quốc, Australia.

Trong số các khuyến nghị Bộ Ngoại Giao Mỹ đưa ra đối với Việt Nam có đề nghị ban hành các nghị định hay hướng dẫn cần thiết để thực thi đầy đủ luật mới năm 2011 về phòng chống buôn người, truy tố hình sự và trừng phạt mạnh tay những ai dính líu đến tệ buôn người trong lĩnh vực mãi dâm và cưỡng bức lao động, cũng như ngưng ngay việc cưỡng bức công dân vào các trung tâm cai nghiện của nhà nước.

Tại buổi điều trần hôm 18/4 ở Hạ viện Hoa Kỳ về tình trạng buôn người do dân biểu Christopher Smith triệu tập, dân biểu Smith cho rằng Bộ Ngoại Giao Mỹ đã vội vã khi rút tên Việt Nam ra khỏi danh sách Bậc 2 Cần theo dõi và đưa lên Bậc 2 vào năm ngoái. Ông nói đáng ra Việt Nam nên bị đẩy xuống vị trí Bậc 3.

Các nước trong danh Sách Bậc 2 Cần theo dõi quá 2 năm sẽ tự động rớt xuống Bậc 3 trừ khi được Tổng thống Hoa Kỳ đặc miễn.

Những nước bị xếp vào Bậc 3 trong phúc trình hằng năm của Bộ Ngoại giao Mỹ là các nước không đạt các tiêu chuẩn tối thiểu mà cũng không có nỗ lực đáng kể trong lĩnh vực phòng chống buôn người.

Những vĩ nhân bị vợ ‘đày ải’

Những vĩ nhân bị vợ ‘đày ải’

Tổng  Thống Lincoln  vĩ đại nhất nước Mỹ ,  về đời tư, lại rất khổ sở : Ông bị vợ hành hạ suốt cả cuộc đời.

Abraham Lincoln, vị tổng thống thứ 16 của nước Mỹ.

1 – Abraham Lincoln

Bà Mary, nỗi kinh sợ của tổng thống Lincoln.

Người vợ ‘kinh dị’ của tổng thống Mỹ Lincoln

Được xem là một trong những tổng thống vĩ đại nhất nước Mỹ nhưng về đời tư, Linlcon lại rất khổ sở: ông bị vợ hành hạ suốt cả cuộc đời.

Khi nhớ đến những danh nhân có sự nghiệp vĩ đại nhưng lại khổ sở trong cuộc sống gia đình do bị vợ “hành”, người ta nghĩ ngay đến Abraham Lincoln, vị tổng thống thứ 16 của nước Mỹ.

Bị vợ lăng nhục trước cả đám đông: Lincoln cưới Mary Told năm 1842 khi ông 33 tuổi còn Mary mới 23. Cô dâu không chỉ xinh đẹp, trẻ trung hơn ông mà còn có xuất thân danh giá hơn ông. Nếu như Lincol là con trai của một gia đình nghèo khó mà cả bố mẹ đều là những nông dân mù chữ thì Mary Told là con gái của thống đốc ngân hàng, học hành trong những trường cao cấp, thông minh, hiểu biết, ăn mặc thời trang… Mặc dù vậy, Lincoln đã phải đắn đo mất ba năm mới quyết định cưới, một quyết định đẩy ông vào cuộc sống hôn nhân bất hạnh cho đến lúc bị ám sát. Mary Told phải điều trị tâm thần về cuối đời nên người ta cho rằng cách cư xử kinh khủng của bà với chồng, ngay cả khi ông đã là tổng thống, một phần cũng do căn bệnh đó. Sau thời gian trăng mật, cô gái duyên dáng và quý phái này dần dần hiện nguyên hình là một người đàn bà bẳngắt, hay gây sự và rất dễ nổi cơn tam bành lục tặc. Bà thường xuyên ghen tuông với tất cả mọi người xung quanh chồng, mắng nhiếc ông thậm tệ.

Mary có một sở thích kỳ quái là nhục mạ chồng trước mặt đám đông. Dường như bà tìm được khoái cảm trong việc thường xuyên lôi ngoại hình khắc khổ của ông chồng ra để xài xể, châm biếm, nào là “ốm đói, lưng gù, đi đứng cứng quèo như que củi, gai cả mắt”, nào “tai gì cứ vểnh như tai voi, mũi thì lệch, môi thì trề”. Bà bắt chước dáng đi của ông rồi đay nghiến rằng sao ông không cố mà học dáng đi thanh lịch tao nhã của bà, mà cứ “kéo lê chân thằng mọi”. Một cựu chủ trọ của vợ chồng Lincoln kể lại, có lần vị tổng thống tương lai lỡ lời nói một câu trái tai vợ trong bữa ăn sáng. Thế là bà vợ “lên cơn điên” cầm tách cà phê nóng ném ngay vào mặt chồng trước mặt nhiều khách trọ khác. Abraham ngồi chết sững, không nói nổi lời nào trong khi bà chủ trọ lấy khăn ướt gột quần áo cho ông.

Dù sống ở đâu thì những người hàng xóm của họ cũng luôn phải điếc tai vì giọng la hét the thé, bù lu bù loa của Mary những khi chửi chồng. Và trước những câu lăng nhục đó, Lincoln chỉ im lặng bỏ đi. Và vì quá sợ “tổ ấm” của mình nên trong thời gian hành nghề luật sư, ông thường kiếm cớ “đi công tác” để khỏi về nhà. Ngay cả khi đã là một chính khách rồi tổng thống, Lincoln vẫn không thoát cảnh nhục vì vợ. Bà vẫn ăn nói và cư xử thô bạo với ông bất chấp lễ tiết. Bà còn gây rắc rối cho chồng bằng cách nhận của đút, và công khai giễu cợt sự vụng về, quê mùa của chồng ngay cả trong các buổi tiếp tân trọng thể.

Lincoln và nghi án đồng tính luyến ái

Đau đầu vì chuyện chính trị, khi về nhà, Abraham Lincoln lại gặp phải một “hậu phương” thậm chí còn nhiều tiếng súng hơn. Ấy vậy mà vị tổng thống vẫn nhẫn nhục vác cây

thánh giá hôn nhân này suốt đời mà không hề có ý định ly dị. Một số học giả cho rằng, cách hành xử điên loạn của bà Mary và sự nhẫn nhịn của Abraham có thể có nguyên nhân từ việc ông là người đồng tính. Trong cuốn sách mới “Thế giới thầm kín của Abraham Lincoln”, nhà tâm lý, tình dục học C. A. Trip chứng minh giả thuyết của ông rằng vị tổng thống thứ 16 của nước Mỹ là người đồng tính. Abrahma dậy thì sớm từ khi 9 tuổi nhưng lại có rất ít quan hệ với phái nữ. Mẹ kế của ông, người rất hiểu Abraham, từng nói: “Theo tôi biết, nó không mê con gái lắm! “. Học giả Trip cũng khẳng định Lincoln có quan hệ tình cảm với đội trưởng đội cận vệ của ông là David V. Derickson, người thường xuyên ngủ chung giường với tổng thống mỗi khi bà Mary đi vắng. Điều này rất nhiều người biết và đã ghi vào nhật ký hoặc kể lại. Ngoài ra, từ thuở mới lớn,

Abraham cũng có quan hệ đặc biệt với anh bạn thân Joshua Speed. Một bức thư Lincoln gửi bạn có dòng kết âu yếm “mãi của anh” được coi là bằng chứng cho thấy giữa hai người không chỉ có tình bạn. Trip cũng nêu một số người đàn ông khác từng chung giường với Lincoln. Nhưng dù sao, đó cũng chỉ là giả thuyết, vì người ta cũng biết rằng trước khi lấy bà Mary Todd, Abraham Lincol từng có vài mối tình với phụ nữ. Cô gái đầu tiên mà ông đem lòng yêu sâu nặng không may lại hồng nhan bạc mệnh. Cái chết vì bệnh thương hàn của cô làm chàng thanh niên

Abraham đau khổ và tuyệt vọng đến nỗi muốn chết theo. Một thời gian sau đó, ông phải lòng một cô gái khác nhưng bị cô này chê là quê mùa và cự tuyệt. Dù có đồng tính hay không, có một sự thật là Abraham là một trong những ông chồng bất hạnh nhất thế giới.

2 – Lev Tolstoi

Đại văn hào Nga Lev Tolstoi

Lev Tolstoi và vợ, ảnh chụp ba năm trước khi ông mất

Đại văn hào Nga Lev Tolstoi bỏ nhà đi giữa trời tuyết giá, rồi chết ở một nhà ga. Nguyện vọng cuối cùng của ông là không phải thấy mặt vợ.

Không ít người là vĩ nhân được cả thế giới xưng tụng, hoặc nắm trong tay quyền lực vô đối, nhưng lại sống khổ sống sở dưới sự đay nghiến của vợ mình.

Yêu nhau vẫn hành nhau

Cuộc hôn nhân của nhà văn, bá tước Tolstoi với bà vợ Sofya bắt nguồn từ một tình yêu tuyệt đẹp. Họ sống bên nhau 48 năm trời và sinh hạ nhiều con. Sofya không chỉ là vợ mà còn là người trợ lý, thư ký cho chồng, tận tụy hỗ trợ ông trong công việc. Ấy thế mà về sau, bà lại thành một tội nợ của ông, góp phần làm ông thấy cuộc sống thêm bế tắc. Thực ra, lỗi không hoàn toàn toàn thuộc về bà Tolstoi, có chăng là họ đã trao nhau trái tim nhưng rốt cục lại không đồng hành về tư tưởng. Tolstoi ngày càng đau đớn về những bất công trong xã hội và sự bất lực của mình trong việc cải tạo nó. Cảm thấy sự giàu có của mình là tội lỗi, ông chỉ muốn từ chối của cải, các tác phẩm của mình được in ra ông từ chối tiền tác quyền. Nhưng bà lại muốn thu vén tài sản để đảm bảo cho gia đình con cái, muốn có danh vọng, tiếng tăm… Sự “trái tính trái nết” của chồng làm Sofya giận dữ và không chịu nổi.

Trong nhiều năm, Sofya hết cằn nhằn, trách móc lại đay nghiến chồng với những lời bẳn gắt, mạt sát độc địa, chua cay. Những cuộc xung khắc dường như bất tận, chất thêm gánh nặng vào tâm hồn vốn đã nặng trĩu nỗi đau đời của đại văn hào. Có những lúc bá tước phu nhân như phát điên, nằm lăn ra đất lăn lộn, vật vã. Nhiều lần bà dọa tự tử, dọa đâm đầu xuống giếng… Thế là mối tình đẹp như mơ của họ dần biến thành địa ngục. Và một ngày đông trời đầy tuyết, đại văn hào bỏ nhà đi rồi 11 ngày sau trút hơi tàn ở một nhà ga, ước nguyện cuối cùng là không nhìn thấy vợ nữa.

Sau cái chết đó, nhiều người hâm mộ Tolstoi coi Sofya như một tội đồ. Thế nhưng những người công bằng hơn thì hiểu rằng, Sofya rất có công trong cuộc đời sáng tác của Tolstoi và đã phải khổ vì chồng không kém. Bà đã suốt đời tận tụy với ông, một mình lo thu vén gia đình, và hy sinh cả văn tài của mình để chăm sóc cho người chồng đầy nỗi đau tư tưởng và chỉ lo “chuyện thiên hạ”.

3 – Nhà triết học Socrate!

Triết gia Hy Lạp cổ đại Socrate

Nhà triết học và “sư tử Hà Đông”

Triết gia Hy Lạp cổ đại Socrate được bao nhiêu người quỳ gối ngưỡng vọng, nhưng với bà vợ Xanthippe thì ông chỉ là “con tép”. Socrate lấy vợ khi đã 50 tuổi, bà trẻ hơn ông rất nhiều, nhưng mức độ ghê gớm của người vợ này thì vang lừng cả thành Athen. Ai cũng biết nhà triết học nổi tiếng suốt ngày bị vợ chửi bới, hành hung. Đến nỗi sau mấy nghìn năm, tên bà đã trở thành danh từ chung để chỉ những ác phụ, những người đàn bà đanh đá, lăng loàn. Được cái với vợ thì Socrate là ông chồng “ngoan”, chẳng bao giờ cải nửa lời.

Chuyện kể rằng có lần, bậc thầy triết học đang đàm đạo với các môn sinh thì bà Xanthippe lại mắng nhiếc, rủa sả om sòm đến nỗi tất cả mọi người đều tối tăm mặt mũi, trừ ông chồng vẫn điềm nhiên. Cơn tam bành lên đến đỉnh điểm, bà bưng cả vò nước rót lên đầu chồng, ông vẫn im lặng chịu trận, lại còn đùa với các học trò: “Sau cơn sấm sét bao giờ cũng phải có mưa giông”. Lần khác, Socrate đang ăn cơm với bạn thì bà vợ trời đánh lên cơn điên giận, chẳng kể gì khách khứa, ném cả mâm cơm ra sân. Trong khi ai nấy tức nổ đom đóm thì Socrate vẫn nói chữa: “Chắc bà ấy muốn chúng ta ra sân ăn cho mát”. Đáp lại ông chồng AQ, bà Xanthippe lấy chổi quét hết thức ăn để chồng hết đường nhặt lại.

Đến nước này thì các ông khách đều muốn giúp khổ chủ cho bà vợ lăng loàn một bài học, nhưng ông ngăn lại: “Giả sử như các anh đang ăn mà có con gà nhảy vào làm đổ hết mâm bát, các anh có đi đuổi nó để trừng phạt không? ”.

Bị vợ hành như vậy nhưng hễ có ai dèm pha bà, ông lại bảo: “Chính nhờ bà ấy mà tôi trở thành triết gia”. Người ta cho rằng Socrate nhẫn nhục, “biết điều” với vợ một phần vì nhà hiền triết biết rằng với gia đình, ông là một ông chồng vô tích sự, là gánh nặng cho vợ con.

4 – Napoleon III

Napoleon III cạnh hoàng hậu xinh đẹp của mình

Napoleon III cạnh hoàng hậu xinh đẹp của mình

Vua cũng không yên thân với vợ

Napoleon III (cháu gọi Napoleon đệ nhất bằng bác ruột) không được coi là một vĩ nhân nhưng đã ghi dấu ấn trong lịch sử nước Pháp như một hoàng đế cuối cùng và tổng thống đầu tiên. Ông cưới nữ bá tước Mari Eugénie Ignace Augustine de Montiji, người đàn bà đẹp nhất châu Âu thời đó, làm vợ và yêu nàng mê mệt. Có thể nói nhà vua phủ lên bà hoàng hậu mỹ miều của mình toàn bộ tình yêu và mọi xa hoa. Nhưng như thế vẫn chưa đủ để hoàng hậu Eugenie đặt niềm tin vào chồng. Bà điên cuồng vì nghi ngờ, ghen tuông và chính điều đó làm ông chồng hoàng đế nghẹt thở, làm vua mà chẳng còn chút tự do nào. Sợ chồng có nhân tình, hoàng hậu không ngừng canh giữ chồng, tra xét, lùng sục mọi ngóc ngách trong cung điện, bất chấp vương lệnh, nghi thức và sĩ diện. Napoleon III đang làm việc trong văn phòng, hoàng hậu thường đột ngột xộc vào với hy vọng “bắt quả tang”. Thậm chí cả khi nhà vua có cuộc họp bí mật để bàn đại sự, bà cũng nằng nặc đòi có mặt để đảm bảo không có chuyện tình ái lăng nhăng nào.

Chưa hết, mỹ hậu của Napoleon III còn thường xuyên nói xấu chồng với họ hàng, mắng chửi chồng khi lên cơn ghen bóng gió, khóc lóc ầm ĩ. Nhà vua chỉ muốn được yên thân một mình cũng không xong, vì bà hoàng hậu thấy cái sự một mình đó ẩn chứa quá nhiều nguy hiểm.

Kết cục là Napoleon III phải lén ra ngoài cung điện một chút cho nó dễ thở và dẫn đến ngoại tình thật.

Miên Du Ðàlạt

Những mẩu chuyện rất ngắn, rất hay

Những mẩu chuyện rất ngắn, rất hay

http://

Quà sinh nhật


Trong năm đứa con của má, chị nghèo nhất. Chồng mất sớm, con đang tuổi ăn học. Gần tới lễ mừng thọ 70 tuổi của má, cả nhà họp bàn xem nên chọn nhà hàng nào, bao nhiêu bàn, mời bao nhiêu người. Chị lặng lẽ đến bên má: “Má ơi, má thèm gì, để con nấu má ăn?” Chưa tan tiệc, Má xin phép về sớm vì mệt. Ai cũng chặc lưỡi: “Sao má chẳng ăn gì?” Về nhà, mọi người tìm má. Dưới bếp, má đang ăn cơm với tô canh chua lá me và dĩa cá bống kho tiêu chị mang đến… (ST)

Sầu Riêng

http://

– Mẹ, sầu riêng rộ. Mẹ mua cho Nội một trái đi Mẹ. Nội nói cả chục năm rồi Nội chưa ăn múi nào hết. – Bên đây sầu riêng mắc như vàng, của đâu mà cho Nội mày ăn cho đủ. Tao hầu Ba mày mệt rồi, thêm Nội mày nữa có nước đem chôn tao sớm. Thằng Tí như bị hụt hẫng trước câu trả lời của Mẹ nó. … Mùa sầu riêng năm sau, Nội nó mất. hôm giỗ đầu, Mẹ nó mua một trái sầu riêng thật to để trên bàn thờ. Mẹ nó nói với mọi người: – Má chồng tôi hảo sầu riêng lắm. Mắc cách mấy tôi cũng ráng mua để cúng Má tôi. Mọi người khen Mẹ nó là dâu thảo. Chỉ có thằng Tí biết. Nó lặng lẽ đến cạnh bàn thờ thì thầm: – Xin Nội tha lỗi cho Mẹ con


BÔNG ĐIÊN ĐIỂN

Xưa, em sống ở quê. Mùa lũ, em ngâm mình mò củ ấu, hái bông điên điển . Tuổi mười lăm ngai ngái mùi bùn.
Em tìm về thành phố. Học đi, học nhảy, học liếc mắt cười tình. Tuổi thiếu nữ đôi mươi vành vạnh, thơm phức và kiêu hãnh.
Một bữa, em chạy ra từ trong khách sạn. Chiếc giày cao gót lật quai lăn tõm xuống cống đen ngòm để lộ đôi chân phèn tứa máu. Em khóc tức tưởi. Nước mắt ân hận làm trôi những thứ bôi trét giả tạo. Khuôn mặt lộ dần những nét quê xưa.
Em chợt nhớ những cánh hoa điên điển sắp tàn còn kịp ửng vàng trước lúc hoàng hôn.
Nguyễn San


EM TÔI


Bám đất Sài Gòn sau 3 năm ra trường, tôi vẫn không xin được việc. Đôi cua dạy kèm, khi chẳng đủ trang trãi lại phải nhờ nguồn “trợ cấp”ở quê. Vừa rồi, đau ruột thừa, nằm viện. Mẹ vượt ngàn cây số vào thăm. Ngày về, dúi vào tay tôi chỉ vàng, bảo: “Của cái Lan, nó dặn con dùng để hồi sức, viện phí và tiền gởi vào cho con trước đây cũng một tay nó cả. Tội nghiệp! Dạy thêm tít mù, còn nuôi thêm cả lợn”.
…Nhớ ngày Lan trượt đại học, thư về tôi mắng chẳng tiếc lời…
Cầm món quà của em, tôi chỉ còn biết nuốt nước mắt vào trong.

Ngày xưa – Huỳnh Văn Dân –


Thuở nhỏ, nhà tôi nghèo lắm. Mỗi chiều, anh em tôi thường tụ lại bên nồi cơm độn khoai sắn, ríu rít như đàn chim về tổ. Thiếu thốn nhưng chúng tôi nhường nhau phần thức ăn ngon nhất, mẹ tôi rất vui lòng.
Khi chúng tôi khôn lớn, có gia đình riêng, ai cũng khá giả. Hôm giỗ ba, có mặt đông đủ, anh Hai tôi phàn nàn với mẹ cây xoài của anh Ba mọc chồm qua sân nhà anh. Chị Ba trách anh Tư đào ao lấn qua phần đất của chị hai tấc. Mẹ tôi trầm ngâm: “Mẹ ước gì được trở lại thời nghèo khó ngày xưa.”

Ca dao thương mẹ – Trung Dung –

Ba bị tai nạn mất khi mẹ chưa bước vào tuổi bốn mươi. Mẹ ở vậy nuôi con.
Con lêu lổng chơi bời, mẹ khóc.
Con ngoan, học giỏi… Mẹ cũng khóc khi đốt nhang cho ba.
Hồi đó, con đâu hiểu sao ít thấy mẹ cười.
Lớn lên, nghe câu hát “… Mẹ đi lấy chồng con ở với ai…” Con lại khóc vì thương mẹ.

Tính Cách

Mẹ tôi buôn bán, chai lỳ trước cái cân cơm áo nhưng mẫn cảm trong nghệ thuật. Những nước mắt tình buồn phim ảnh, những sụt sùi số phận cải lương, bà đều hồn nhiên “ăn theo” một cách ngon lành. Có lần, cha tôi giỡn:
– Coi chừng trôi ti vi….
– Còn sách ông chưa viết ra đã hóa đá – Mẹ tôi trả miếng – Thế cũng mang danh nhà này, nhà nọ.
Một hôm, đang bữa ăn, bỗng nhiên mẹ tôi chạy vụt ra đường chận đường con bé bán trứng vịt lộn.
– Mày biến đâu tài thế. Hì! có chui xuống đất rồi cũng gặp tao – Bà vừa nói vừa giằng mủng trứng, đếm lấy trừ nợ.
– Dì ơi, cho con khất, mẹ con còn ốm!
– Nhà này cũng đang ốm đây – Mẹ tôi cười bù – Khỏi bẻm mép.
Con bé chưng hửng, lã chã nước mắt nhìn cải mủng không, rồi bưng lên, xiêu vẹo bước đi….
Cha tôi cám cảnh, quay mặt, rút mùi soa chấm mắt.
Lâu sau, ti vi phát vở kịch “Cô bé nghèo bán trứng bị xiết nợ”. Lúc ấy, mẹ tôi lại khóc, còn cha tôi thì cười.

(tác giả Nguyễn Thị Hoài Thanh)

Chú bé Lula

Chú bé Lula

Chú bé Lula ,sinh ra vào tháng 10 năm 1945, tại 1 gia đình nông dân ở Ba-Tây ( Brazil- Vì nhà nghèo ,nên từ lúc mới 4 tuổi ,thằng nhỏ đã phải đi bán đâu-phụng ngoài đường ,nhưng vẫn quần áo tả tơi ,và thiếu ăn .

Sau khi được lên tiểu học ,lúc đó đã dọn lên thủ đô Rio de Janeiro,sau buổi họcchú bé thường hay cùng với 2 người bạn cùng lứa đi đánh giầy ở đâu đường ,hôm nào không có khách ,thì coi như là nhịn đói.

Năm 12 tuổi ,vào 1 buổi xế chiều ,có 1 người khách ,là chủ 1 tiệm giặt ủi và nhuộm áo quần đến chiếu cố,3 đứa trẻ chạy lại chào hàng. Ông chủ tiệm nhin vào 3 cặp mắt van xin khẩn khoản đó ,không biết quyết định chọn đứa nào.Cuối cùng ông ta nói : Đứa nào cần tiền nhất ,thì tôi cho nó đánh giầy ,và sẽ trả công 2 đồng „

Công đánh 1 đôi giầy chỉ có 20 xu ,2 đồng đúng là 1 món tiền rất lớn .3 cặp mắt đều sáng lên.


Một đứa nhỏ nói : từ sáng đến giờ cháu chưa được ăn gì cả ,nếu không kiếm được tiền hôm nay ,cháu sẽ chết đói !“

Đứa khác nói: „ Nhà cháu đã hết thức ăn từ 3 ngày nay ,mẹ cháu lại đang bệnh,cháu phải mua thức ăn cho cả nhà tối nay ,nếu không thì lại bị ăn đòn…“ .

Cậu Lula nhìn vào 2 đồng bạc trong tay ông chủ-tiệm ,nghĩ ngợi 1 lúc ,rồi nói : “Nếu cháu được ông cho kiếm 2 đồng này ,thì cháu sẽ chia cho 2 đưá đó mỗi đứa 1 đồng !!”

Câu nói của Lula làm Ông chủ Tiệm và 2 đứa nhỏ kia rất là ngạc nhiên.

Cậu giải thích thêm: “Tụi nó là bạn thân nhất của cháu, đã nhịn đói hết 1 ngày rồi ,còn cháu thì hồi trưa còn ăn được ít đậu phụng,nên có sức đánh giầy hơn chúng nó, Ông cứ để cháu đánh đi ,chắc chắn Ông sẽ hài lòng”

Cảm động trước câu nói của thằng nhỏ,Ông chủ tiệm đã trả cho hắn 2 đồng bạc ,sau khi được hắn đánh óng đôi giầy.Và thằng nhỏ Lula giữ đúng lời , đã đưa ngay cho 2 đứa bạn mỗi đứa 1 đồng.


Vài ngày sau, Ông chủ Tiệm đã tìm đến thằng nhỏ Lula, nhận chú bé cứ sau buổi tan học là đến học nghề ở tiệm giặt nhuộm của ông ta ,và bao cả bữa cơm tối .

Tiền lương lúc học nghề tuy là rất thấp ,nhưng so với đánh giầy thì khá hơn rất nhiều.

Thằng bé hiểu rằng :Chính vì mình đã đưa tay giúp đỡ những người khốn đốn ,nên mới đem đến cho mình cơ hội làm thay đổi cuộc đời.

Từ đó ,miễn là có khả năng,chú bé Lula không ngần ngại giúp đỡ những người sống khốn khổ hơn mình.

Sau ,Lula nghỉ học đi làm thợ trong 1 nhà máy, để bênh vực cho quyền lợi của những người thợ ,cậu ta tham gia vào công-đoàn ,năm 45 tuổi ,Lula lập ra đảng Lao-Công.

Năm 2002 ,trong cuộc ứngcử tổng-thống ,khẩu hiệu của Lula là : Ba bữa cơm no cho tất cả những người trong quốc gia này .Và đắc cử làm Tổng Thống xứ Brazil.Năm 2006 đắc cử nhiệm kỳ 2 ,cho 4 năm tới.

Trong 8 năm tại chức, Ông ta đã thực hiện đúng lời mình đã hứa :

-93% trẻ em và 83% người lớn ở nước này được no ấm.Thực hành đúng tâm niệm : giúp đời !!

Và nước Ba-tây dưới sự lãnh đạo của Ông đã không còn là “con khủng long nhai cỏ” mà đã trở nên “Con mãnh sư Mỹ Châu”. Và xây nên nền kinh tế đứng thứ 10 trên thế giới.

Luiz Inácio Lula da Silva : đó là tên của vị tổng thống đã giải nhiệm vào 31.12.2010

Tình Thắm Duyên Quê -Trúc Phương & Ở Hai Đầu Nỗi Nhớ -Phan Huỳnh Điểu & Còn Thương Rau Đắng Mọc Sau Hè -Bắc Sơn

Tình Thắm Duyên Quê -Trúc Phương -Như Quỳnh & Mạnh Đình

httpv://www.youtube.com/watch?v=Gq6MklFyZRE&list=PLuUrrk8zYVhMUMjFzWZO5PnEC8YY48HcS&index=1

Ở Hai Đầu Nỗi Nhớ -Phan Huỳnh Điểu -Tân Nhàn

httpv://www.youtube.com/watch?v=_L_1-f1MJF4&list=PLuUrrk8zYVhMUMjFzWZO5PnEC8YY48HcS

Còn Thương Rau Đắng Mọc Sau Hè -Bắc Sơn -Như Quỳnh

httpv://www.youtube.com/watch?v=7JG6wYwmClI&list=PLuUrrk8zYVhMUMjFzWZO5PnEC8YY48HcS&index=5

TÌM Ý CHÚA

TÌM Ý CHÚA

Tĩnh tâm là những ngày nhìn lại linh hồn mình, xét xem tôi đang đi về đâu, ý nghĩa cuộc đời, để rồi chìm sâu hơn nữa trong đời sống tìm kiếm ơn thánh.  Trong những ngày này, người tĩnh tâm thường đặt câu hỏi làm sao tôi có thể nghe tiếng Chúa nói.

Trong cuộc sống, người ta rất thường phân vân, đâu là tiếng Chúa, đâu là tiếng của chính mình.  Khi phải quyết định một vấn đề gì đó hệ trọng, họ tới nhà cầu nguyện, mong nghe được tiếng Chúa dạy.  Họ cầu nguyện nhưng phân vân, rồi vẫn không biết làm sao quyết định.

Nghe là một nghệ thuật không dễ.  Học một ngôn ngữ bao giờ cũng cần có thời gian.  Phải nghe nhiều lần mới quen.  Nghe trong định nghĩa bình thường là âm thanh vật lý vang lên, rồi truyền qua những làn sóng mà đến các thần kinh của tai.  Thần kinh ghi những ký hiệu này, cất trong ngăn kéo của máy tính não bộ.  Khi gặp lại âm thanh ấy thì não bộ cho nó một nhận định và một giá trị.  Việc nhận định càng dễ nếu bão bộ càng quen âm thanh này.  Nghĩa là âm thanh ấy được lập đi lập lại nhiều lần.

Tập nghe để phân biệt âm thanh này với âm thanh khác cũng đã khó.  Nhưng nghe âm thanh là tiếng nói của lòng thì bước sang một chiều sâu hơn nữa rồi.  Vì tiếng nói của lòng không là âm thanh vật lý, nó thiêng liêng, vô hình.  Cũng tiếng cười, nhưng ý của nó có thể không làm vui, mà là mỉa mai, riễu cợt.  Hiểu tâm hồn nhau là một tiếng nghe đòi nghệ thuật trong đó có yêu, có hy sinh, có tế nhị, có mình muốn thuộc về người đó.  Vì thế mà có khi sống bên nhau chẳng hiểu ngôn ngữ của nhau.

Mẩu đối thoại giữa ba người, Đức Kitô, ông Tôma và Philipphê cho thấy sự lúng túng về loại ngôn ngữ này.  Chúa nói: “Thầy đi đâu thì anh em biết đường rồi”  Ông Tôma thưa: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu làm sao chúng con biết được đường?”  Đức Kitô đáp: “Thầy là đường, là sự thật, là sự sống.  Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.”  Ông Philipphê đáp: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chũng con mãn nguyện.”  Đức Kitô đáp: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Philipphê, anh chưa biết Thầy ư?” (Yn 14:1-9).

Chúa nói là Chúa đi đâu thì các ông ấy biết đường rồi.  Nhưng tôma lại thưa các ông ấy không biết Chúa đi đâu.  Các ông muốn biết Chúa Cha, Chúa Yêsu lại bảo ở với nhau lâu vậy rồi mà chưa biết được ư.  Cuộc đối thoại cứ như mỗi người nói một nẻo.  Đọc lại mẩu chuyện đối thoại ấy để thấy nghe là một công trình phải luyện tập, phải có thời gian, phải quen nhau nhiều.  Nghe người nói với người đã không dễ, bây giờ nghe Chúa nói là tiếng nói vô âm thanh thì làm sao nghe.

Khó, nhưng không có nghĩa là không nghe được.  Tiếng nói tình yêu thường là tiếng nói bằng con tim hơn bằng ngôn ngữ.  Khi hai người thương nhau, họ nói một thứ ngôn ngữ riêng, không theo định nghĩa của tự điển nữa.  Họ nói bằng ánh mắt.  Họ hiểu bằng tâm tư.  Họ ngỏ ý bằng một chút hờn.  Họ muốn người khác bắt ý bằng một chút giận.  Đó cũng là một thứ ngôn ngữ không có âm thanh.  Như vậy, ngôn ngữ của Chua cũng có thể nghe, cũng có thể hiểu.  Một biến cố đau khổ xẩy đến có thể như cái trách của Chúa gởi cho ta một nhắc nhở.  Một chút cắn rứt lương tâm có thể so sánh như một  sự dỗi hờn của hai người đang thương nhau.

Trở lại vấn đề nghe là một nghệ thuật phải luyện tập, ta thấy yếu tố quan trọng nhất là phải quen với ngôn ngữ ấy.  Vì thế, cứ đợi khi có một vấn đề gì đó rồi mới hỏi Chúa thì e rằng khó hiểu được ngôn ngữ của Ngài.  Dụ ngôn người chăn chiên và đàn chiên cho ta hình ảnh khá rõ về nghệ thuật nghe này. Ta có thể chia đàn chiên làm ba loại: Một loại không quen ngôn ngữ của chủ, một loại chỉ nghi ngờ tiếng nói của chủ, một loại nhận ra tiếng chủ ngay.

Không Quen Ngôn Ngữ

Tiếng gọi trong đêm là tiếng gọi gian nan.  Không biết ai gọi.  Không biết từ đâu đến.  Một lúc nào đó bất ngờ có tiếng gọi tên mình.  Trong đêm tối, con chiên này bừng dậy.  Kẻ cắp giấu mặt cho khỏi bị nhìn.  Tên trộm nào cũng ưa bóng tối.  Bầy chiên đang ngủ ngon, bỗng có tiếng gọi.  Hạng chiên không quen ngôn ngữ của người chăn là loại không khi nào gần chủ, không nói chuyện với chủ.  Trong đàn chiên, chúng là những con chạy ở cuối đàn.  Đúng ra, nó không phải là những con chiên theo chủ mà là chỉ dựa vào đàn chiên để sống nhờ.  Bởi đó, trong đêm, khi kẻ trộm giả vờ tiếng người chăn mà gọi thì chúng không thể phân biệt được.

Một người không có đời sống cầu nguyện nhiều cũng giống như vậy.  Trong đêm tối của xã hội, họ không phân biệt được đâu là tiếng nói của sự thật, đâu là ngôn ngữ nguỵ biện đánh lừa lương tâm.  Hạng chiên không bao giờ gần chủ thì khi gặp thử thách trong tiếng gọi giữa đêm khuya chúng sẽ bị kẻ cắp đánh lừa.  Một linh hồn thiếu đời sống nội tâm kết hiệp qua cầu nguyện, họ cũng dễ bị lừa như thế trong những phán quyết của tiếng nói lương tâm.  Loại lương tâm này khi thấy một lời mời quyến rũ, say mê là hành động ngay, không phân biệt được phải trái.

Nghi Ngờ Tiếng Người Chăn

Loại thứ hai này khá hơn.  Những con chiên này phân vân nhiều khi nghe tiếng gọi.  Chúng sẽ suy nghĩ chứ không vội chạy theo, nhưng rất khó mà quyết định.  Loại chiên này đôi khi gần chủ nên cũng nghe tiếng chủ, nhưng vì không gần chủ nhiều, nên lúc nghe, lúc không.  Có nói chuyện với chủ, nhưng ít thôi.  Không quen tiếng chủ lắm nên trong đêm khuya chúng phân vân, lưỡng lự, khó phân biệt nổi. Giống người mới bắt đầu học một ngôn ngữ, hiểu lầm, hiểu không hết ý của người nói là chuyện thường.  Nếu con chiên này nghe tiếng gọi trong đêm mà vẫn ở lại trong đàn cũng là cầu may, chứ không có một thái độ tri thức dứt khoát.

Người lâu lâu mới cầu nguyện, có việc mới chạy tới Chúa cũng giống như vậy.  Có nghe tiếng Chúa mà không rõ lắm.  Họ phân vân không biết có phải tiếng Chúa hay là mình nói mà thôi.  Vì thế, những quyết định của họ rất nửa chừng.  Tâm hồn họ không hẳn là muốn ở lại trong tội, nhưng cũng chẳng hân hoan lên đường.  Một khi không dứt khoát thì không đủ năng lực hành động, nên đời sống thiêng liêng mệt mỏi.

Nhận Ra Tiếng Chủ

Không tên trộm nào lừa được loại chiên sau cùng này.  Tiếng gọi bất chợt vang lên trong đêm.  Nó giật mình dậy, nghe xong, nó nhận định rồi tiếp tục giấc ngủ bình an.  Nó biết ngay tiếng giả đó là của bóng tối.  Loại chiên này ngày nào cũng nói chuyện với chủ, ngày nào cũng nghe âm thanh người dẫn mình đi, nên chúng quá quen rồi.  Không tiếng nói nào bắt chước tiếng chủ được.  Một tiếng gọi vang lên, nó phân biệt ngay đấy là tiếng chủ hay tiếng người lạ.

Ma quỷ cũng như những tên trộm chiên, chúng đợi đêm tối là lúc lương tâm phải lựa chọn những hướng đi mà đến xúi giục ta.  Bóng tối có những luận cứ tinh vi, những lý do xem ra rất chính đáng. Người có đời sống kết hiệp với Chúa thì nhận ra ngay đâu là con đường phải đi. Họ có những quyết định chính xác, đúng.  Bóng tối khó mà lừa được những tâm hồn này.

Để nghe tiếng Chúa, yếu tố đầu tiên phải lưu tâm là một trái tim sạch tội.  Điều này ta cảm nghiệm rõ là sau mỗi lần nhận bí tích hoà giải, ta thấy tâm hồn thanh thản, vui tươi.  Vì thế, nếu một tâm hồn muốn hỏi Chúa, muốn nghe tiếng Ngài, linh hồn đó cần phải thanh tẩy linh hồn, đến gặp gỡ Chúa trong bí tích hoà giải trước đã. Giữ một trái tim sạch tội, rồi sau đó mới hy vọng dễ nhận định tiếng Chúa nói qua lương tâm.

Trước một quyết định quan trong trong đời sống, như ngày truyền chức, ngày nhận một sứ vụ quan trọng, Giáo Hội khuyên những người này phải tĩnh tâm.  Các tu sĩ theo luật, hàng năm phải tĩnh tâm.  Tĩnh tâm là những ngày cầu nguyện đặc biệt hơn, nhiều hơn.  Cứ hàng tháng, hàng năm lập đi lập lại nhiều lần tĩnh tâm như thế để tâm hồn ấy quen cách nói chuyện.  Khi quen rồi, lúc phải quyết định một điều gì trong đời sống, tâm hồn này dễ vững tâm, bình an.  Khi cuộc sống đi sai đường sẽ dễ nhận ra.

Tĩnh tâm là phương pháp sư phạm học nghe ngôn ngữ thiêng liêng, vì thế ai cũng cần.  Nhiều người không nhận định rõ nên đếm xem mình đã tĩnh tâm bao nhiêu lần để so sánh với người khác, và tự cho mình một thứ “tốt nghiệp” qua những lần tĩnh tâm ấy.

Có người đi tĩnh tâm để cho biết là gì rồi sau đó thôi không tĩnh tâm nữa.

Tĩnh tâm không phải chỉ để giải quyết một vấn đề mà là hành trình tập nghe.  Tiếng Chúa có sức mạnh. Chẳng ai nghe đủ và nghe hết, bởi đó, không thể có vấn đề tĩnh tâm như một thứ “tốt nghiệp”, một thứ chứng chỉ là tôi đã đi tĩnh tâm rồi, tôi biết rồi, tôi không cần đi nữa.

Chúa dành một thời gian rất dài, 40 ngày trong sa mạc để cầu nguyện.  Trong đời sống hoạt động, Chúa tiếp tục tìm nơi thinh lặng để cẩu nguyện. “Sau khi giải tán đám đông, Người đi riêng lên núi mà cầu nguyện” (Mt 14:23).  “Trong những ngày ấy, Đức Yêsu đi ra núi cầu nguyện, Người đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa” (Lc 6:12).  Chúa cũng bảo các tông đồ phải cầu nguyện. “Anh em phải tỉnh thức và cầu nguyện, hầu đủ sức thoát khỏi điều sắp xẩy đến và đứng vững trước mặt Con Người” (Lc 21:36)

Nghe là một nghệ thuật không thể qua một buổi sớm, đến một buổi chiều mà quen.  Vấn nạn con không cầu nguyện, chỉ khi cần đến Chúa, con mới đên hỏi Chúa đôi câu.  Không quen ngôn ngữ của Chúa nên con cho rằng Chúa không nói.

Lạy Chúa, vấn đề là con phải học nghe, chứ không phải là Chúa có nói hay không?

LM Nguyễn Tầm Thường

From: langthangchieutim &

Anh chị Thụ & Mai gởi

Ngày hiền phụ: BA MƯƠI LĂM NĂM ÂN TÌNH

Ngày hin ph: BA MƯƠI LĂM NĂM ÂN TÌNH

Nguyễn Kim Ngân

6/17/2013

Viết riêng tặng anh chị T. & T.
Cùng mến tặng quý thân hữu nào đã có trên ba mươi năm thành hôn

Anh Chị T & T. thân mến:

Nhận được thiệp hồng kỷ niệm 35 năm ngày thành hôn của anh chị, tôi không thể dấu được nụ cười vui và cái lắc đầu ưng ý, bởi vì tôi vừa đọc xong câu chuyện giả tưởng mà một người bạn gửi đến cho tôi. Đại khái thế này:

“Những ai đã sống hơn 30 năm với một vợ thì nên đọc.
Nếu ai chưa đủ thâm niên thì nên cố gắng “Yêu người mà sống” cho đủ nhé.!!!
Bài hát đám ma mà hoá ra vui: “Khi Chúa thương gọi (vơ/chồng) con về,
lòng con hân hoan như trong một giấc mơ.”
Được Chúa gọi về, thì đó là tin vui chứ, sao lại là tin buồn?

Nằm trong quan tài, tôi suy nghĩ về ý nghĩa của kiếp nhân sinh.
Ban đêm trong nhà quàn đóng cửa, buồn heo hút, tôi đâm ra sợ. Sợ ma.!!!
Sau khi đi thăm một vài nơi ở thế giới của Dante, tôi được đưa ra trước tòa phán xét của Thượng Đế, để trả lời về tất cả những hành vi và ý nghĩ của tôi lúc còn sống.
Ôi “ngày thịnh nộ, ngày khủng khiếp” (Dies irae, dies illa).
Nếu linh hồn tôi có tội trọng, tôi sẽ phải xuống hỏa ngục, chịu lửa thiêu đốt đời đời.
Nếu linh hồn tôi sạch tội trọng và trong trắng như gương, tôi sẽ được lên Thiên Đàng.
Còn nếu linh hồn tôi, tuy không có tội trọng, nhưng không trong sáng như gương,
nghĩa là còn lợn cợn bụi trần, thì tôi sẽ đi đâu?
Tôi sẽ phải xuống luyện ngục một thời gian để lửa đốt con người tôi cho sạch hết những lợn cợn, rồi sau đó tôi mới được lên Thiên Đàng.
Thời gian ở luyện tội, có thể là 10 năm, 20 năm, 50 năm, hay hơn nữa, tùy trường hợp nặng nhẹ.
Mà tôi thì như các cụ đã biết, nhiều lợn cợn lắm, thể xác cũng như tâm hồn.
Có lẽ phải ở luyện ngục cả mấy trăm năm.

Tôi được đưa đến tòa phán xét. Chưa đầy năm phút, đã nghe có tiếng loa sang sảng:
“Ai có vợ, và đã sống với vợ từ 30 năm trở lên, hãy đứng sang bên phải.”
Tôi lễ mễ chạy theo tiếng loa, đứng sang bên phải. Đông lắm!
Người nào người nấy trông cũng thiểu não quá sức lẽ mình.
Chừng hai phút sau, bỗng nghe có tiếng vọng từ trời cao, thánh thót:
“Các con yêu mến, lúc còn sống, các con có vợ và đã ở với vợ được trên 30 năm,
như thế các con được coi như đã ở luyện ngục cả mấy trăm năm rồi,
các con đã được sạch mọi tội lỗi và đáng được lên Thiên Đàng ngay lập tức
để hưởng Thiên Nhan Chúa”.
Mọi người đều hoan hô vang trời: AMEN, ALLELUIA!” (hết chuyện)


Anh T. ơi!

Theo tiêu chuẩn 30 năm lấy vợ mà tác giả câu chuyện vừa sáng chế, thì nếu anh được Chúa gọi về ngay lúc này, anh sẽ chắc mẩm là được lên thiên đàng thẳng rẵng, bởi vì anh dư tới năm năm cơ mà! Chúc mừng anh có một hậu vận hết sức huy hoàng. (Viết tới đây thì tôi được tin ông Tổng Thống Putin của nước Nga cũng vừa ly dị vợ sau đúng…ba mươi năm thành hôn. Tôi tự hỏi không biết có phải ông ta có nhận và đọc được cùng email như của tôi trước khi đi đến quyết định “sáng suốt” này chăng? Hay đây chỉ là một trùng hợp ngẫu nhiên?)

Tác giả câu chuyện cho biết là những ông chồng đứng phía bên phải rất đông. Điều đó có thể đúng cho thế hệ cha ông mình, chứ trong thế hệ chúng mình hôm nay, và nhất là đến thời con cháu sau này, chắc không còn đúng nữa. Lý do là người ta đang có xu hướng coi thường lòng chung thủy của vợ chồng và ngạo mạn sự trung thành của đôi lứa; việc sống với nhau đến thuở răng long đầu bạc ngày càng trở nên qúy hiếm. Trái lại, hơi một tí là người ta kiếm chuyện ly dị, người rẫy vợ, kẻ bỏ chồng. Chưa có con cái gì thì chia tay đã đành, thế nhưng, dù đã có với nhau vài ba mặt con rồi (đứa nào đứa ấy giống bố như đúc, không cần làm DNA gì sốt) mà cũng bỏ tuốt luốt, như chẳng có gì để tiếc, chẳng có gì để nhớ, để thương. Theo thống kê đã có từ cả chục năm nay, thì cứ hai cặp cưới nhau thì một cặp rã đám! Cứ đà này, số người đi vào luyện ngục càng ngày càng đông, còn đám người đứng bên phải ngày càng ít đi! Và phải chăng vì hôn nhân (truyền thống) cứ rã đám hoài hoài nên cái gọi là “hôn nhân đồng tính” càng ngày càng lấn sân, càng chơi ‘trên chân’ hơn?

Chưa bao giờ như hôm nay, hôn nhân và gia đình đang bị công phá tứ bề bởi một lực lượng ý hệ hùng hậu, có tổ chức lớp lang và hệ thống đàng hoàng.

Có nhiều bản văn nhạo báng đời sống hôn nhân đã đi vào lịch sử, tỉ như câu sau đây (không thấy ghi tên tác giả): “Hôn nhân chính là một cuộc chiến tranh duy nhất trong đó bạn phải ngủ với quân thù.” “Nhà tôi nghèo lại đông anh em, thành ra mãi tới khi lấy vợ, thì tôi mới có dịp ngủ…một mình.” Đó là kinh nghiệm “sinh tử” được nhà văn Mỹ Lewis Grizzard tiết lộ về cuộc hôn nhân của mình. Triết gia Herbert Spencer lại chơi chữ thế này: “Hôn nhân—marriage–lẽ ra phải đọc là ảo ảnh—mirage–mới chính xác.” Diễn viên hài lừng danh, Bill Cosby, diễu cợt: “Vatican đúng là đã quên không thừa nhận một phép lạ: đó là việc hai người kết hôn sống đời ở kiếp với nhau.”

Hôn nhân và tình yêu thường đi sánh đôi, thế mà hai thứ đó đã trở thành đối nghịch trong tư tưởng của nhiều người. Chẳng hạn như Oscar Wilde, văn thi sĩ lừng danh của xứ Ái Nhĩ Lan, đã thẳng thừng: “Bạn phải luôn luôn sống trong tình yêu. Đó chính là lý do bạn chớ bao giờ nên kết hôn cả.” Còn đại văn hào George Bernard Shaw lại huỵch toẹt rằng: “ Nếu hai kẻ đang yêu nhau mà lại nghĩ đến chuyện kết hôn thì không còn gì thiếu khôn ngoan hơn.” Dường như các bậc vĩ nhân này đều giống nhau ở một điểm: thất bại nặng trong cuộc sống hôn nhân. Nếu không thì tại sao lại có những câu xanh rờn như thế? Zsa Zsa Gabor, nữ tài tử thượng thặng Mỹ, gốc Hungari, nổi danh vì có tới 9 đời chồng (qua mặt cả nữ tài tử lừng danh Liz Taylor), đã lên tiếng thế này về giới mày râu: “Một người đàn ông đang yêu sẽ vẫn còn là chưa hoàn hảo mãi cho tới khi đi lập gia đình. Nhưng ngay sau đó thì đời chàng coi như đi đứt luôn.” Văn hào Mỹ, Mark Twain, đã cảnh giác thế này: “Quý vị tưởng tình yêu lớn lên nhanh vào bậc nhất ư? Không phải đâu, tình yêu lớn lên chậm rì như rùa bò. Chẳng ai, dù nam hay nữ, thực sự hiểu được tình yêu hoàn hảo là thế nào, mãi cho tới khi đã ở trong đời sống hôn nhân cả một phần tư thế kỷ.” (Không biết trải qua ba mươi lăm năm chung sống, anh chị T & T đã hiểu rõ thế nào là tình yêu chưa?) Thế nhưng, một câu nói của khoa học gia người Đức, Georg Lichtenberg, xem ra khá lạc lõng, thế mà lại như ẩn chứa một ý nghĩa sâu xa có thể chỉ thời gian mới giúp giải nghiệm hết được: “Tình yêu thường hay mù lòa, chính hôn nhân mới đem lại cho nó thị lực cần thiết.” Câu này nghe hao hao như lời răn đe của các bậc làm cha làm mẹ: “Cứ chờ xem, mày mà lấy nó thì sẽ sáng mắt ra cho mà coi!”

Nữ tiểu thuyết gia Anh Quốc Marie Corelli không chấp nhận hôn nhân, bởi vì theo bà, nhân vật gọi là “ông chồng” chẳng được cái tích sự gì: “Tôi sẽ chẳng bao giờ lấy chồng bởi vì thấy không cần thiết tí nào cả. Này nhé: tôi có nuôi ba con vật cưng ở trong nhà, chúng làm đúng việc của một ông chồng. Con chó thì sáng nào cũng gầm gừ; con vẹt thì chửi thề suốt buổi chiều; còn con mèo thì đêm nào cũng về trễ.” Đó có thể là một trong các lý do đưa đến hôn nhân đổ vỡ và khai mở những cuộc ly dị, khiến cho giới trẻ hôm nay đâm ra sợ kết hôn, chỉ muốn sống chung, sống thử, không cưới hỏi gì cả, thích thì ráp vô, buồn thì chia tay, nhất là không cần phải ly dị làm chi cho tốn kém! Luận điệu này nghe rất quen tai, y hệt như câu ca dao thời đại: “muốn không thi rớt thì đừng đi thi.” Một số người khác, sau khi trải qua một cuộc hôn nhâu đầy ác mộng, lại bắt đầu thêu dệt ra một cõi miền lý tưởng, trong đó hai kẻ yêu nhau thề nguyền sống “hãy cứ là tình nhân” mãi mãi, chớ có bao giờ làm vợ, làm chồng. Cõi thiên đường hạnh phúc của tình nhân được khai sinh như thê, đẹp như một đóa dạ quỳnh. Tuyệt vời, nhưng không biết có phải là ảo mộng chăng?

Nhưng thôi, tạm gác qua những mỉa mai dành cho hôn nhân để chuyển sang thực tế cuộc đời xem sao. Dẫu gì thì anh em mình cũng đã làm và sống đúng theo lời Thánh Kinh. Trong sáu ngày liên tiếp, Thiên Chúa đã tạo dựng mọi loài: ngày và đêm, trời đất và biển cả, mặt trời mặt trăng và các tinh tú, chim trời và cá biển cùng muông thú đồng hoang. Sau mỗi cuộc tạo dựng, nhìn vào các tạo vật vừa được tác thành, “Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp.” Rồi khi đã tạo dựng con người để cho làm bá chủ muôn loài, “Thiên Chúa mới thấy mọi sự Ngài đã làm ra quả là rầt tốt đẹp” (STK 1:31). Nhưng nếu đọc chương kế tiếp ta sẽ thấy lần đầu tiên Thánh Kinh nói đến một điều “không tốt,” đó là “Con người/đàn ông ở một mình thì không tốt. Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó” (2:18)… Và “Thiên Chúa lấy cái xương sườn đã rút từ con người ra, làm thành một người đàn bà và dẫn đến với con người” (2:22). “Bởi thế, người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt” (2:24). Xem ra cái bản năng “đòi vợ” của đàn ông mạnh lắm, đến độ nhà văn Mark Twain đã phải thốt lên rằng: “Thế là sau biết bao nhiêu năm trời tôi mới nhận ra mình đã hiểu lầm bà Evà ngay từ thuở ban đầu; thà sống ở ngoài địa đàng mà có nàng thì vẫn còn hơn là sống trong địa đàng mà thiếu vắng nàng.” Quả vậy, hạnh phúc lứa đôi là điều ai ai cũng hằng mơ ước và tìm kiếm, thế nhưng đâu là bí quyết, đó mới là vấn đề.

“Điều quan trọng khiến hôn nhân hạnh phúc không phải là cách thức mình sống hòa hợp với người phối ngẫu, mà là phong cách mình ứng xử thế nào khi đối diện với những điều bất tương hợp giữa hai người.” Câu nói chí lý này của đại văn hào Nga, Leo Tolstoy, khiến tôi kết luận rằng hạnh phúc hôn nhân hệ ở việc chấp nhận người phối ngẫu như chính họ, với cá tính riêng, sở thích riêng, quan niệm riêng, khác biệt và có khi trái ngược với chính mình, nhưng bí quyết hạnh phúc nằm ở chỗ làm sao đó để hai người phối ngẫu khác biệt kia biết cách bước đi hòa điệu du dương với nhau như thể đang dìu nhau đi trong một nhịp khiêu vũ tuyệt vời. Sẽ có những va chạm, dẵm chân, tréo cẳng, có khi còn té ngã đến sõng soài, ê chề và thê thảm. Đây là giờ khắc của chán chường, thoái lui và tuyệt vọng dẫn đến đầu hàng và bỏ cuộc. Nhưng ai có ngờ đâu, hạnh phúc chỉ đến đàng sau những sai nhịp, lỡ bước như thế, bởi vì qua những lần lỗi nhịp, sai bước, phải vất vả tập đi tập lại, mới dần dà nhận ra yếu điểm của nhau, hai vũ công mới đạt được mục tiêu: nhịp nhàng trong một điệu luân vũ. Về điểm này, người đẹp Angelina Jolie đã thốt lên một câu nói thật là dễ thương: “Đôi khi tôi nghĩ chồng tôi quá sức tuyệt vời đến độ tôi không thể hiểu tại sao chàng lại lấy tôi. Tôi không biết mình có đủ các đức tính hoàn hảo chăng. Thế nhưng, nếu tôi làm cho chàng hạnh phúc được, thì đó là tất cả những gì tôi hằng mơ ước.” Có một cái gì đó rất rõ ràng xuất hiện ở nơi đây: mỗi người, theo cách thế riêng mình, lúc nào cũng sẵn sàng quên mình để nghĩ tới người kia, hiến thân hy sinh vì hạnh phúc của người kia. Groucho Marx, nhà hài hước Mỹ, thì khuyên các ông chồng nếu muốn giữ hạnh phúc hôn nhân thì nên khóa kín cái lỗ miệng lại, nhưng phải mở toang sổ trương mục (checkbook) ra.” Đại văn hào Pháp Michel de Mongtaigne cũng nói một câu tương tự, nhưng có vẻ tượng hình hơn: “Hôn nhân tốt chỉ có được khi người vợ bị mù lòa còn người chồng thì câm điếc.” Rút cuộc, hạnh phúc hôn nhân không phải là chuyện “bất chiến tự nhiên thành,” mà là nỗ lực của cả hai vợ chồng, tự hiến cho nhau, chứ không bao giờ người này khoán trắng mọi việc cho người kia. Có đi có lại mới toại lòng nhau chứ!

Anh T.:

Nhân kỷ niệm ngày thành hôn của anh, tôi xin gửi đến anh mấy câu nói của một vài nhân vật thời danh may ra có thể làm anh suy nghĩ và cười mỉm.

Liệu anh có thể quả quyết thế này như Winston Churchchill không: “Công trình lớn nhất của đời tôi chính là việc thuyết phục được nhà tôi lấy tôi.”

Tôi cũng nghĩ rằng, đến giờ này cuộc sống đã đủ lầm than để ban tặng cho anh những nỗi đau “cần thiết” cũng như dậy cho anh biết cách “chiều vợ,” không nhất thiết phải như mẫu đàn ông mà văn sĩ kiêm tài tử Mỹ Rita Rudner đã vẽ ra: “Theo thiển ý, quý vị đàn ông nào biết xỏ lỗ tai để đeo bông thì có nhiều triển vọng lấy vợ hơn so với các vị khác, bởi vì họ đã có kinh nghiệm về cái đau khi xỏ lỗ tai, và đồng thời cũng biết cách mua sắm nữ trang cho…vợ.”

Riêng tôi, tôi lại thích cái hóm hỉnh của nữ tài tử Mỹ Lana Turner khi ghi nhận kiểu mẫu những cặp vợ chồng được goị là “thành công,” thoang thoáng phảng phất hình ảnh của anh và chị: “Người đàn ông thành công là người kiếm được nhiều tiền cho vợ tiêu xài thỏa sức cũng không hết. Còn người phụ nữ thành công là người kiếm ra được chính người đàn ông đó.”

Tự thâm tâm, chắc anh cũng như tôi, chúng mình đều mong ước được nghe từ miệng bà xã những lời tương tự mà bà Elsa Einstein đã nói về chồng mình, nhà bác học Albert Einstein, cha đẻ của thuyết tương đối: “Tôi chẳng hiểu ất giáp gì về thuyết tương đối của chồng tôi cả, nhưng có một điều tôi biết rất rõ: ông ta là một người rất đáng tin cậy.”
Phần chị T., tôi xin gửi chị những lời nghe ra thì có vẻ hơi châm chọc của một vài “đức ông chồng” đã âu yếm ban tặng cho quý bà, nhưng chắc chắn các đương sự đã ngấm ngầm tâm đắc và chân nhận trước khi thốt ra ngoài cửa miệng:

“Một trong những chân lý căn bản của hôn nhân ta phải xác tín: bà vợ phải nắm quyền!” Bill Cosby đã quả quyết như thế! Còn đạo diễn Woody Allen lại tiết lộ: “Ở nhà, tôi là ông chủ, nhưng mọi quyết định đều phát xuất từ bà chủ.” Nhà văn Honore de Balzac của Pháp khẳng định là: “Nơi một người chồng chỉ thấy có một gã đàn ông; nhưng nơi một người vợ, thấy có cả một người đàn ông, một người cha, một người mẹ và một người phụ nữ.” Thế mới biết tại sao Việt Nam ta thường hay gọi các bà là nội tướng!

Nhìn hình ảnh anh chị sánh đôi bước lên cung thánh trong ngày đám cưới cách đây ba mươi lăm năm, tôi nghĩ đến câu nói của Thomas Mullen, một văn sĩ Mỹ: “Hôn nhân hạnh phúc khởi sự khi ta cưới được người ta yêu, và hạnh phúc hôn nhân nở hoa khi ta cứ mãi thương yêu người ta đã cưới.”

Nhưng điều đáng nói ở đây, đó là khi cùng nhau bước vào giáo đường, anh chị đã hiến thánh tình yêu của mình trong giao ước hôn phối mà Thiên Chúa đã nâng lên hàng bí tích, một thực tại tuôn tràn ân sủng và thánh hóa đời sống lứa đôi. Lời giảng của linh mục nọ trong một lễ cưới tôi cho là xác đáng: “Tình yêu đã đưa các con đến để cử hành hôn lễ hôm nay, nhưng chính bí tích hôn phối mới thực sự giúp các con duy trì và phát triển tình yêu ấy.”

Nhìn hình ảnh gia đình anh chị và các cháu hạnh phúc, tôi nhớ đến câu nói của Giovanni Florio, nhà ngôn ngữ học Ý: “Chồng tốt sẽ tạo ra vợ hiền.” Trong khi đó, họa sĩ kiêm điêu khắc gia thời danh Michelangelo đã nói về gia đình ông như sau: “Tôi đã có một người vợ, với tôi, thế là đã quá đủ; nàng chính là nghệ thuật của tôi, còn nghệ phẩm chính là các con tôi đây.”

Dù khá nhiều câu danh ngôn đã được trưng dẫn, nhưng thật là thiếu sót nếu tôi kết thúc bài này mà không viện dẫn hai câu nói của Mẹ Têrêsa, mà chỉ đọc lên thôi, ta cũng có thể cảm nhận được tấm lòng từ ái bao dung của Mẹ. Câu thứ nhất: “Hãy mỉm cười với nhau, cười với vợ, cười với chồng, cười với con cái, cười với nhau–bất kỳ là ai—chính nhờ thế các con mới giúp nhau lớn lên trong tình yêu thương mỗi ngày một nồng nàn hơn.” Câu thứ hai: “Hãy gieo mầm yêu thương ở mọi nơi con sẽ đi qua: trước hết, trong mái gia đình. Hãy yêu thương con cái, yêu vợ, yêu chồng; hãy trao tặng tình yêu cho người hàng xóm. Đừng để ai đến với con mà khi ra về lại không cảm thấy tươi vui hơn, tốt lành hơn. Hãy trở nên chứng tá sống của lòng Chúa xót thương, tỏa sáng trên gương mặt, rạng rỡ trong khóe mắt, hiền hòa trong nụ cười, và ân cần trong cử chỉ chào đón thân thương.”

Nói đi nói lại rốt cuộc cũng vẫn vòng về hai chữ “tình yêu” mà Thánh Phaolô gọi là đức mến và đã không tiếc lời ngợị ca: “Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả (1 Cor. 13:4-7). Cầu mong đức mến này tiếp tục luân lưu dồi dào trong đời sống anh chị để làm dịp cho hạnh phúc tưng bừng nở hoa.

Xin chúc mừng anh chị và gia quyến trong một ngày vui rất đáng ghi nhớ!

06/16/13
Ngày Hiền Phụ

Nguyễn Kim Ngân

Hãy yêu thương kẻ thù

Hãy yêu thương kẻ thù


Đặng Tự Do

6/18/2013

Trong thánh lễ sáng thứ Ba 18 tháng Sáu, Đức Thánh Cha Phanxicô giải thích rằng các Kitô hữu phải học cách yêu thương kẻ thù của họ. Đức Giáo Hoàng nói rằng mặc dù rất khó để tha thứ cho người làm hại chúng ta, trả thù không bao giờ là giải pháp.

Đức Thánh Cha nói:

“Với sự tha thứ, với tình yêu dành cho kẻ thù của chúng ta, chúng ta trở nên nghèo hơn. Tình yêu làm nghèo chúng ta đi, nhưng cái nghèo ấy là hạt giống sinh hoa kết quả và đem lại tình yêu tha nhân. Sự nghèo khó của Chúa Giêsu đã trở nên ơn cứu độ cho tất cả chúng ta, và như thế là sự giàu có lớn lao nhất … Trong thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy nghĩ đến những kẻ thù của chúng ta, đến những người không muốn chúng ta nên tốt. Thật tốt đẹp nếu chúng ta dâng thánh lễ này cho họ, dâng hy tế của Chúa Giêsu cho họ, cho những người không yêu thương chúng ta. Và cho cả chúng ta, ngõ hầu Chúa có thể dạy chúng ta ơn khôn ngoan này, tuy khó khăn, nhưng rất đẹp, bởi vì nó làm cho chúng ta nên giống như Cha chúng ta trên trời. Nó sẽ mang ánh nắng mặt trời đến cho tất cả mọi người, cả người tốt lẫn kẻ xấu. Nó làm cho chúng ta nên giống như Chúa Giêsu, Đấng trong sự sỉ nhục của mình trở nên nghèo để làm giàu cho chúng ta, bằng cái nghèo của Ngài. “