BÀI HỌC CHIA SẺ

BÀI HỌC CHIA SẺ

Tác giả: Lm. Anmai, C.Ss.R.

Am 6, 1a.4-7; 1Tm 6, 11-16; Lc 16, 19-31

Bài học người quản lý bị cho nghỉ việc, Chúa Giêsu nói nhè nhẹ về cuộc đời của người quản lý. Chúa Giêsu dùng hình ảnh này như là khởi đầu cho nhiều bài học nói về đời sau cõi tạm này, cái chết sau cuộc sống này.

Ở đời, người ta vẫn thường nói : “cái gì nó cũng có cái giá của nó”. Quả không sai, nó như quy luật nhân quả của cuộc đời. Nếu như trong đời sống, mình gieo điều tốt thì ắt hẳn mình sẽ nhận được điều tốt và ngược lại.

Chúa Giêsu ví dụ hết sức cụ thế chứ không có nói bóng nói gió hay dùng dụ ngôn nữa. Đi vào thẳng vấn đề của cuộc sống luôn đó là câu chuyện về hai con người :một là giàu, ngược lại bên kia là nghèo.

Người giàu này được một cái là ngày ngày yến tiệc linh đình. Chuyện hết sức bình thường như những câu chuyện bình thường mà người ta vẫn thường nói : “chuyện thường ngày ở huyện”. Nhưng, trong cái bình thường này có cái không bình thường đó là có anh ăn xin ngồi ngay trước cổng nhà ông ta. Người ăn xin ghẻ chốc đầy và rồi them được ăn những miếng dư thừa từ nhà của ông nhà giàu nhưng không được ăn.

Chuyện gì đến nó phải đến. Ngày qua ngày, tháng qua tháng, năm qua năm, ông nhà giàu kia cũng chết và người ăn xin cũng chết. Có điều là không biết ai chết trước hay chết sau nhưng bảo đảm là phải chết vì dù giàu dù nghèo thì cũng không thoát được cái chết.

Nhưng, đàng sau cái chết, màn hình được mở ra. Dưới âm phủ, người chủ lại van xin với Ápraham : “Lạy tổ phụ Ápraham, xin thương xót con, và sai anh La-da-rô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát; vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm!” Nghe sao mà thương dễ sợ.

Chúng ta nghe ông Ápraham đáp: “Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi; còn Ladarô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, Ladarô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ. Hơn nữa, giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được.

Khi nghe tổ phụ nói như thế, nhớ lại những người thân và đặc biệt là anh em mình còn sống ở dương gian nên bèn thưa : “Lạy tổ phụ, vậy thì con xin tổ phụ sai anh Ladarô đến nhà cha con, vì con hiện còn năm người anh em nữa. Xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình này!

Nghe thế, ông Ápraham đáp: “Chúng đã có Môsê và các Ngôn Sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó.

Nài nỉ thêm : “Thưa tổ phụ Ápraham, họ không chịu nghe đâu, nhưng nếu có người từ cõi chết đến với họ, thì họ sẽ ăn năn sám hối.Ông Ápraham đáp: “Môsê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin.”

Chuẩn hơn chỉnh luôn ! Không chỉ Môsê, các ngôn sứ mà nhiều và quá nhiều những chứng nhân cho những thực tại của đời này và gia tài vĩnh cửu ở đời sau rồi nhưng mấy ai chịu nghe. Hay, có chăng thì nghe đó nhưng thực hành được bao nhiêu với lời mà các vị tiền nhân đã nói, đã để lại.

Và, cũng chẳng cần phải nghe ai nói nữa, chỉ cần nhìn vào thực tại và thực tế cuộc sống thì thấy ngay vấn đề : Con người, ai cũng phải chết. Và, sau khi chết, có mang theo được cái gì đi theo mộ phần, mang theo bên kia thế giới hay không để rồi cứ phải ky cóp. cứ phải tham lam, cứ phải ích kỷ. Tham lam, ích kỷ để làm gì để rồi sau cái chết phải hưởng, phải đón nhận tất cả những gì mà mình đã hành xử khi còn sống.

Sống trên đời, chẳng ai mong mình nghèo và cũng chẳng ai có thể nghi rằng mình giàu cả. Giàu hay nghèo đến từ nhiều lý do. Có thể khách quan, có thể chủ quan, có thể có sự may mắn như người ta nói là thiên thời – địa lợi – nhân hòa nữa. Nếu như ai nào đó có tài nhưng rồi thời cơ không đến hay sự may mắn không đến thì cuộc sống của họ mãi mãi trong lam lũ nghèo khó. Có những người có tí tài năng cộng thêm với sự may mắn, sự thuận tiện để rồi sống trong cuộc sống dư giả giàu có.

Và, hết sức bình thường trong mọi thời, mọi nơi, mọi xã hội ta đều thấy những người giàu và người nghèo. Giàu không phải là cái tội và nghèo cũng chẳng phải là cái tội. Tội hay chăng đó là ta giàu mà ta không biết cách sống như thế nào cho đúng với lương tâm, đúng với luân thường đạo lý.

Chuyện quan trọng, chuyện căn cốt là ta sống như thế nào khi ta giàu có, ta có nhiều của cải vật chất. Không phải những người giàu là xấu. Có những người giàu nhưng họ khôn ngoan sống theo cái nhìn, theo lối sống của con cái Thiên Chúa chú không theo lối sống của thế gian.

Sống khôn ngoan theo lối sống của Thiên Chúa thì giàu hay nghèo cũng chẳng là cái gì cả. Cách riêng với những người giàu thì phải biết dùng những của cải vật chất mà Chúa ban cho như thế nào có ý nghĩa và đặc biệt có hậu về sau sau khi đã chết.

Những bằng chứng hết sức sống động trong cuộc sống của ta. Có những người ta thấy họ hết sức quảng đại, không phân biệt tôn giáo.

Khi nghe trang Tin Mừng hôm nay, có thể ta bảo rằng ông chủ này thật quá quắt, ngay cái người đầy tớ ở trước của nhà mà ông không đoái hoài đến nhưng hình phạt cho ông như vậy cũng là đúng ! Nếu ta nghĩ như thế, ta xét đoán như thế, ta kết án như thế không chừng ta lại kết án chính bản thân ta.

Có khi nào đó, ngay trong gia đình của ta, người nghèo không ngồi ở ngoài cổng hay ngồi ở vệ đường như ta tưởng nhưng người nghèo đó lại ngồi ngay bên cạnh của ta. Họ thèm ta cho họ một chút gì đó, có khi không chỉ phải là cơm bánh, vật chất nhưng điều họ cần đó chính là tình cảm. Có thể những cái mà ta cho những người xung quanh ta đó chính lại là cái thừa thãi của ta nhưng ta lại nghĩ đó là ân phúc mà ta trao ban. Ta quên đi điều căn cốt là những cái mà ta có, nhất là cái thân xác, cái hơi thở, cái sự sống mà ta đang có chính là quà tặng mà Thiên Chúa trao ban.

Nếu như Chúa lấy hơi thở, lấy sự sống của ta đi thì còn gì là giàu với nghèo, còn gì là sang với hèn. Chẳng còn là gì cả như người giàu có và kẻ ăn xin cùng chết. Chuyện quan trọng là sau cái chết đó, ta sẽ có gì trong tay. Ta sẽ được ơn cứu độ hay đánh mất ơn cứu độ mà cả đời ta ky cóp.

Sống sao đừng để một ngày kia khi sau cõi tạm này thì trên Thiên Đàng toàn là những người nghèo, những người trộm cắp, những người đĩ điếm, những người tội lỗi như Chúa Giêsu vẫn thường nhắc ta.

Luôn luôn ghi khắc trong tâm trí ta rằng cuộc đời ta có ngần có hạn và tất cả những gì ta có như là quà tặng từ nơi Thiên Chúa để ta biết san sẻ cho anh chị em đồng loại. Chúng ta, có kẻ giàu người hèn, kẻ sang người hèn nhưng ai ai cũng có tấm lòng, có trái tim. Tấm lòng và trái tim đó sẽ quý biết mấy khi nó san sẽ tình thương cảm, lòng mến cho những người đang sống ngay bên cạnh ta, trong mái ấm của ta, trong gia đình của ta.

Tác giả: Lm. Anmai, C.Ss.R.

Blogger Điếu Cày được giải thưởng Tự do Báo chí Quốc tế 2013 của CPJ

Blogger Điếu Cày được giải thưởng Tự do Báo chí Quốc tế 2013 của CPJ

Blogger Điếu cày (G) biểu tình tại Thành phố Hồ Chí Minh năm 2007, phản đối Trung Quốc đòi hỏi chủ quyền trên Trường Sa và Hoàng Sa. Ảnh tư liệu (Nguồn rsf.org)

Blogger Điếu cày (G) biểu tình tại Thành phố Hồ Chí Minh năm 2007, phản đối Trung Quốc đòi hỏi chủ quyền trên Trường Sa và Hoàng Sa. Ảnh tư liệu (Nguồn rsf.org)

Thụy My

RFI

Ông Nguyễn Văn Hải tức blogger Điếu Cày đã được Ủy ban Bảo vệ Nhà báo (CPJ) quyết định trao tặng giải thưởng Tự do Báo chí Quốc tế năm 2013, cùng với ba nhà báo của Ecuador, Ai Cập và Thổ Nhĩ Kỳ. Tin này được loan trên trang web của tổ chức CPJ có trụ sở tại New York vào hôm qua 26/09/2013.

Ông Joel Simon, giám đốc điều hành của Ủy ban Bảo vệ Nhà báo tuyên bố : « Vào thời điểm mà thông tin đã trở thành tài nguyên toàn cầu, bốn nhà báo trên đây đã bất chấp nạn kiểm duyệt và trấn áp để mang lại thông tin cho chúng ta. Chúng tôi nhìn nhận lòng can đảm, sự dấn thân và sự chối từ im lặng của họ ».

Thông cáo của CPJ cho biết, bốn nhà báo được giải – Janet Hinostroza ( đài Teleamazonas, Ecuador), Bassem Youssef (đài Capital Broadcast Center, Ai Cập), Nedim Sener (báo Posta, Thổ Nhĩ Kỳ) và Nguyễn Văn Hải (tức blogger Điếu Cày, Việt Nam) – đang phải đối mặt với những sự trả thù do công việc của họ, kể cả quấy rối về luật pháp, đe dọa về thân thể và bắt giam.

Cũng theo thông cáo trên, bà Janet Hinostroza đã buộc phải tạm ngưng một chương trình truyền hình sau khi bị đe dọa, ông Youssef bị điều tra về các bản tin châm biếm, ông Sener bị quy tội hoạt động khủng bố vì các bài điều tra mang tính chỉ trích và có thể bị lãnh án 15 năm tù.

Ông Nguyễn Văn Hải, một trong các blogger nổi tiếng nhất Việt Nam, đã thành lập Câu lạc bộ Nhà báo Tự do trong một đất nước mà báo chí đều do Nhà nước kiểm soát, và đã bị 12 năm tù kèm theo 5 năm quản chế theo một điều luật mơ hồ về « tuyên truyền chống Nhà nước ».

Các bài viết trên blog của ông dưới bút danh Điếu Cày đề cập đến những vấn đề nhạy cảm về chính trị, trong đó có những bài phản đối Trung Quốc xâm lấn Hoàng Sa và Trường Sa, và chống giới chức tham nhũng. Ông Nguyễn Văn Hải cũng kêu gọi xuống đường phản đối rước đuốc Olympic Bắc Kinh đến Thành phố Hồ Chí Minh tháng 12/2007.

CPJ nhắc lại, ông Nguyễn Văn Hải bị giam giữ 5 tháng vào năm 2008 trong khi không bị cáo buộc tội danh nào, đến tháng 9/2008 bị kết án hai năm rưỡi tù giam vì tội « trốn thuế ». Sau khi mãn án, ông vẫn phải tiếp tục ở tù vì lại bị lãnh thêm một bản án mới, và tháng 7/2013 blogger này đã tuyệt thực hơn một tháng để phản đối các điều kiện giam giữ. Theo một nghiên cứu của CPJ, đến cuối năm 2012 tại Việt Nam có ít nhất 14 nhà báo bị giam cầm, đứng thứ nhì trên thế giới chỉ sau Trung Quốc.

Ủy ban Bảo vệ Nhà báo là tổ chức phi lợi nhuận hoạt động độc lập với mục tiêu bảo vệ tự do báo chí trên toàn thế giới. Giải thưởng Tự do Báo chí Quốc tế được thành lập từ năm 1991, mỗi năm trao giải cho bốn nhà báo đã tỏ ra dũng cảm trước mọi đe dọa.

Bốn nhà báo đoạt giải năm nay sẽ được vinh danh tại lễ trao giải thưởng niên của CPJ và được mời dự ăn tối tại New York ngày 26/11/2013. Trong quá khứ, có những nhà báo bị cầm tù nhiều năm sau đó khi được trả tự do đã đến dự lễ, và có ba phóng viên được truy tặng giải.

Lãnh đạo đối lập Miến Điện thúc giục sửa đổi Hiến pháp

Lãnh đạo đối lập Miến Điện thúc giục sửa đổi Hiến pháp

Lãnh tụ đối lập Miến Aung San Suu Kyi trong cuộc họp báo tại lễ kỷ niệm 25 năm ngày thành lập Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ. Ảnh chụp tại Rangoon ngày 27/09/2013.

Lãnh tụ đối lập Miến Aung San Suu Kyi trong cuộc họp báo tại lễ kỷ niệm 25 năm ngày thành lập Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ. Ảnh chụp tại Rangoon ngày 27/09/2013.

REUTERS/Soe Than Win/Pool

Tú Anh

RFI

Hôm nay 27/09 tại Rangoon, Liên đoàn Quốc gia Vì Dân chủ tổ chức lễ kỷ niệm 25 năm thành lập. Trước 3.000 người tham dự, lãnh đạo Aung San Suu Kyi đã yêu cầu sửa đổi bản Hiến pháp 2008, trao cho quân đội nhiều quyền hạn quan trọng.

Tu chính hiến pháp về điều khoản bầu cử ứng cử là một trong những yêu sách cốt lõi mà bà Aung San Suu Kyi nhấn mạnh trong bài diễn văn kỷ niệm 25 năm thành lập Liên đoàn Quốc dia Vì Dân chủ : « Nếu Hiến pháp không được tu sửa thì chúng ta không thể nói đất nước này đang theo con đường dân chủ. Bầu cử quốc hội năm 2015 sẽ không công bình ».

Hiến pháp 2008 vừa bảo vệ đặc quyền của quân đội, vừa ngăn chận bà Aung San Suu Ky – sau 15 năm bị tù giam và quản chế – lên lãnh đạo quốc gia. Bản hiến pháp gây tranh cãi này dành riêng cho quân đội 25% ghế dân biểu trong quốc hội và cấm không cho công dân Miến Điện tranh cử tổng thống nếu có người phối ngẫu (vợ hay chồng) là người ngoại quốc hoặc có con mang quốc tịch nước ngoài. Đây là trường hợp của bà Aung San Suu Kyi : tuy chồng là người Anh đã qua đời nhưng có hai con mang quốc tịch Anh.

Theo AFP, cũng trong bài diễn văn kỷ niệm 25 năm thành lập phong trào đối lập, đọc trước 3000 đoàn viên và dân chúng tụ tập trước trụ sở đảng ở Rangoon, khôi nguyên Nobel Hòa bình 1991 cám ơn những người cùng chia sẻ giá trị tự do dân chủ, và những sự hỗ trợ bên trong và trên khắp thế giới, giúp cho đối lập Miến Điện tồn tại suốt 25 năm qua.

Liên Đoàn Quốc Gia Vì Dân Chủ được thành lập vào năm 1988 sau một cuộc nổi dậy của dân chúng bị đàn áp làm 3000 người thiệt mạng. Một năm sau, trong cuộc bầu cử tự do đầu tiên vào năm 1989, sau ba thập niên độc tài quân phiệt, đối lập chiến thắng lớn với 80% ghế dân biểu.

Từ chối trao trả quyền lực cho dân sự, giới tướng lãnh ra lệnh đàn áp. Bà Aung San Suu Kyi bị giam cầm và quản chế tổng cộng 15 năm cho đến khi tướng Thein Sein lên làm Tổng thống năm 2011.

Hãy Sống Đẹp Với Nhau – tại đây, lúc này.

Hãy  Sống  Đẹp  Với  Nhau – tại  đây,  lúc  này.

Ghi nhận của Đoàn Thanh Liêm

Vào giữa thập niên 1950, lúc còn theo học tại Trường Luật Saigon, thì tôi được nhận vào lưu trú tại một cư xá dành cho sinh viên có tên là Câu lạc bộ Phục Hưng. Cư xá này nằm trên đường Nguyễn Thông gần với Bệnh viện Saint Paul thuộc Quận 3 Saigon. Hồi đó, chừng 60 anh em chúng tôi sống quây quần bên nhau – tất cả đều còn ở vào cái tuổi đôi mươi, hãy còn hồn nhiên, lạc quan yêu đời, chỉ biết say mê chuyên cần với chuyện học tập nơi các phân khoa đại học.

Lớp sau này vào các năm 1960 – 1970, thì số lưu trú sinh tại cơ sở này lại còn đông hơn, trẻ tuổi hơn nữa. Tổng số các bạn đã từng sinh sống tại Câu lạc bộ Phục Hưng này – từ năm 1955 lúc mới thành lập cho đến năm 1975 lúc đóng cửa – thì có thể lên đến con số 4 – 500 người. Ngày nay, anh em Phục Hưng chúng tôi, thì người trẻ tuổi nhất cũng đã ngòai 60 – còn phần đông cũng đã ở vào cái tuổi “thất thập cổ lai hy” họăc còn cao hơn nữa. Mà trong đó cũng nhiều bạn đã ra đi, từ giã gia đình, bỏ lại anh em. Số còn lại, thì phân tán khắp bốn phương trời – ở lại quê hương cũng có, mà lưu lạc qua các xứ Âu Mỹ cũng có nữa. Anh em không thành lập Hội Ái Hữu để quy tụ lại với nhau, như các tổ chức khác. Tuy vậy, lâu lâu chúng tôi cũng gặp gỡ nhau qua dịp này dịp nọ – để hàn huyện tâm sự, ôn lại cái kỷ niệm vui buồn với nhau trong thời gian chung sống dưới mái nhà Phục Hưng thân thương ấy.

Riêng bản thân mình, thì mấy năm trước đây tôi đã viết một bài nhan đề là “Những ngày xưa thân ái ấy” – để ghi lại cái kỷ niệm thân thiết với các bạn cùng sát cánh với nhau tại cư xá Phục Hưng này trong thời gian giữa những năm 1950 thanh bình êm ả tuyệt vời đó.

Nhưng đúng theo với nhan đề ở trên, thì bài này không nhằm viết về chuyện riêng tư của anh em trong Đại Gia đình Phục Hưng chúng tôi – mà chủ yếu là để bàn về chuyện đa số chúng ta phải làm sao mà “Sống Cho Đẹp Với Nhau” – giữa cuộc đời tại thế nơi quê hương đất nước, vào ngay giờ phút hiện tại lúc này đây (như người Âu Mỹ thường dùng từ ngữ trong tiếng La tinh : “hic et nunc” – mà trong tiếng Anh, thì là : “here and now”). Tôi xin lần lượt khai triển chủ đề qua mấy mục sau đây.

1 – “Nếu muốn cúng cho tôi , thì hãy cúng ngay bây giờ – lúc tôi hãy còn sống sờ sờ ra đây này.”

Cách nay không lâu, một số anh em Phục Hưng chúng tôi ở Nam California được một anh bạn mời đến nhà anh chị tại thành phố Westminster để uống cà phê, ăn sáng. Gia chủ đó chính là anh chị Bùi Hòang Ân & Mỵ Nương đã cho chúng tôi thưởng thức món bánh và cà phê rất đặc sắc do chính anh chị đích thân chế biến. Câu chuyện râm ran thật vui vẻ, hồn nhiên sinh động giữa anh chị em chúng tôi – tiếp nối với cuộc Hội ngộ của đông đảo bạn hữu xảy ra vài ba tuần trước đó.

Chúng tôi ngạc nhiên về số thiết bị đồ sộ trong căn bếp và tò mò hỏi gia chủ, thì được anh chị kể lại nguyên do câu chuyện thật là ngộ nghĩnh như thế này. Mấy năm trước anh Ân có triệu chứng bị bệnh ung thư, nên phải nghỉ làm việc để điều trị. Trong thời gian nghỉ ngơi để chữa bệnh, anh Ân mới nói với chị Mỵ Nương đại khái như thế này ; “ Bệnh tình của tôi không biết sống chết như thế nào. Nhưng mà, nếu bà có thương tôi, thì đừng có đợi đến khi tôi lìa đời, rồi mới đem cúng giỗ của ngon vật lạ cho tôi nha. Mà trái lại, bà cứ cúng cho tôi ngay lúc này, khi tôi còn sống sờ sờ ra đây, tôi còn thưởng thức được những thứ ngon ngọt quý báu đó… Có như vậy, thì mới rõ là thật lòng với nhau đấy!”

Chị Mỵ Nương tiếp lời, nói với bọn tôi : “Các anh chị thấy đấy, anh Ân đã nói như vậy, thì tôi làm sao mà còn dám chối từ điều gì với anh ấy nữa. Và tôi đã hết sức chiều theo các ước muốn của anh – đó là lý do tại sao chúng tôi sắm sửa các vật dụng để chế biến cà phê và làm bánh như các bạn thấy bữa nay. May mà rút cục anh Ân đã tai qua nạn khỏi, căn bệnh ban đầu tưởng là hiểm nghèo, thì nay đã tan biến đi rồi để anh có thể đi làm trở lại như trước kia. Vợ chồng chúng tôi thật mừng rỡ và riêng tôi mỗi khi nhớ đến cái câu nói “ Xin cúng tôi ngay lúc này…” của anh Ân, thì tôi không khỏi cười thầm – và quả thật chúng tôi thật tâm đắc với nhau lắm lắm vậy đó…”

Bọn khách mời chúng tôi buổi sáng hôm đó – tất cả đều là các cựu lưu trú sinh ở câu lạc bộ Phục Hưng thời kỳ trước năm 1975 – thì không những được thưởng thức một bữa ăn sáng ngon miệng, mà đặc biệt lại được biết đến một câu chuyện vui vẻ, ngộ nghĩnh lý thú trong gia đình của anh chị bạn Hòang Ân & Mỵ Nương này.

2 – “ Nếu có yêu tôi, thì hãy yêu tôi bây giờ…”

Câu chuyện của anh chị Hòang Ân & Mỵ Nương nói trên làm cho tôi nhớ đến bài hát được nhiều người ưa thích, đó là bài có tựa đề “Nếu có yêu tôi” của nhạc sĩ Duy Đức phổ nhạc từ bài thơ của nữ thi sĩ Ngô Tịnh Yên. Xin ghi lại một vài đọan trong bài nhạc như sau :

“ Nếu có yêu tôi, thì hãy yêu tôi bây giờ

Đừng để ngày mai, đến lúc tôi qua đời

Đừng để ngày mai, có khi tôi thành mây khói

Cát bụi – làm sao mà biết mỉm cười.

Nếu có bao dung, thì hãy bao dung bây giờ

Đừng để ngày mai, đến lúc tôi xa đời.

……”

Rõ ràng bài ca này chứa đựng một nội dung triết lý rất là thực dụng, lạc quan, cụ thể – không hề chấp nhận một sự mơ hồ viển vông nào trong mối quan hệ giữa những con người hiện đang sát cánh với nhau mà sinh sống trên cuộc đất này. Đây cũng là một lời mời gọi để mỗi người nên quan tâm đến những nhu cầu thiết thực của nhau – hầu có những hành động thích đáng nhằm đem lại sự an vui thỏai mái cho người thân thiết gần gũi xung quanh mình.

Trên phạm vi rộng lớn hơn, thì bài thi ca này cũng làm cho ta nhớ lại câu văn bất hủ của văn hào người Nga Boris Pasternak – ông là tác giả cuốn truyện đặc sắc Doctor Zhivago, mà cũng là một nhà văn được cấp phát Giải thưởng Nobel về Văn chương năm 1958. Câu văn đó như sau : “Con người sinh ra để sống, chứ không phải để chuẩn bị sống” (Bản dịch Anh ngữ : “Man is born to live, and not to prepare to live”.

Nếu ta chú ý đến bối cảnh kinh hòang ở Liên Xô dưới chế độ tàn bạo của Stalin thời các năm 1930 – 40, thì lời phát biểu của Pasternak ghi trên thật là sáng suốt và can đảm. Đó cũng là một lời phủ định dứt khóat đối với sự hứa hẹn về cái “thiên đường cộng sản” – mà người theo chủ nghĩa marxist-leninist vẫn rêu rao khắp nơi từ thập niên 1930 (được gọi là thập niên đỏ = décade rouge) rằng sẽ có những “Ngày Mai Ca Hát” (des lendemains qui chantent như người cộng sản ở Pháp thường nói).

Ngày nay ở vào thế kỷ XXI, sau khi chế độ cộng sản hòan tòan bị sụp đổ ở Liên Xô và ở Đông Âu, thì tòan thể nhân lọai chúng ta càng nhận thức được rõ ràng hơn về cái thủ đọan mê hoặc, dối trá và cực kỳ tàn bạo của phe cộng sản – đến độ gây ra biết bao nhiêu thảm họa cho hàng mấy trăm triệu con người trong thế kỷ XX vừa qua.

3 – “Yêu thương nhau, đó là cùng với nhau nhìn chung về một hướng”.

Thế hệ sinh viên chúng tôi ở miền Nam Việt nam vào hồi thập niên 1950, thì hầu hết đều đọc thông thạo được sách báo tiếng Pháp. Ở độ tuổi đôi mươi, chúng tôi say mê đọc những cuốn sách của Raymond Aron, Jean-Paul Sartre, Albert Camus, Antoine de Saint-Exupéry v.v…Chúng tôi thật tâm đắc với cái định nghĩa về Tình Yêu của nhà văn – phi công Saint-Exupéry qua câu văn thật ngắn gọn như sau : “Yêu thương nhau, không phải là hai người nhìn ngắm nhau. Mà là cùng với nhau nhìn chung về một hướng”. (Nguyên văn tiếng Pháp là : “Aimer, ce n’est pas regarder l’un l’autre. Mais c’est regarder ensemble dans une même direction”)

Trong nội bộ của một gia đình, thì tình yêu giữa hai vợ chồng mỗi ngày càng được củng cố bền chặt hơn – chủ yếu bởi cái sự cố gắng bền bỉ mà cả hai người đều chung nhau lo lắng chăm sóc cho đứa con – vốn là kết quả phát sinh từ tình yêu chân thật của đôi lứa.

Còn trong phạm vi rộng lớn như sinh họat cộng đồng của cả một dân tộc, thì tình yêu thương đích thực giữa các thành viên cấu tạo thành cộng đồng này chính là cái ý chí chung, cái khát vọng và sự cam kết của cả tập thể dân tộc đó nhằm xây dựng một xã hội an vui, thịnh vượng và nhân ái – trong đó phẩm giá của mỗi người đều được tôn trọng và quyền con người đều được bảo đảm.

Chuyện cụ thể thiết thực và phấn khởi nhất của sự biểu lộ ý chí và cam kết này, đó là sự đồng lọat của nhiều người – thuộc đủ mọi giới ở trong cũng như ở ngòai nước – cùng bày tỏ gia nhập vào Diễn Đàn Xã Hội Dân Sự – mà vừa được phát động vào ngày 23 tháng 9 năm 2013 – đúng vào lúc tôi bắt đầu bài viết này.

Bản thân tôi cũng đã vừa ký tên gia nhập Diễn Đàn XHDS này, và trong danh sách những người đã ký tên gia nhập Diễn Đàn tôi nhận ra nhiều người đã từng là bạn hữu thân thiết lâu nay của tôi. Cái hành động “Dấn thân tập thể” đó chính là sự biểu lộ tình Liên đới mỗi ngày thêm mạnh mẽ hơn mãi – và cũng là sự khởi đầu của một Tập hợp Quần chúng nhằm đòi lại cái Quyền Chủ Động và Tự Quyết của Tòan thể Dân tộc – trong công cuộc giải thóat Đất nước khỏi cái vòng nô lệ cay nghiệt của cả hai thứ giặc nội xâm cũng như ngọai xâm hiện đang tung hòanh dày xéo trên giang sơn gấm vóc – mà cha ông chúng ta đã đổ ra biết bao xương máu để xây dựng và bảo vệ từ mấy ngàn năm nay.

Quả thật, chúng tôi yêu thương nhau vì cùng chung sát cánh với nhau trong công việc góp phần kiến tạo một xã hội tiến bộ, thịnh vượng và nhân ái cho thật xứng đáng với phẩm giá cao quý của mỗi thành viên trong cộng đồng dân tộc Việt nam thân yêu này vậy./

Costa Mesa California, ngày 25 tháng Chín 2013

Đoàn Thanh Liêm

CHUYỆN MỘT BÀI CA DAO CỔ – PHANVANCHO

CHUYỆN MỘT BÀI CA DAO CỔ – PHANVANCHO

alt

 

” Đi chợ tính tiền “là một bài ca dao lục bát.Bài đã được in làm bài Học thuộc lòng cho học sinh lớp ” sơ đẳng ” trong sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư ,năm 1948.Bài thơ kể chuyện một người phụ nữ đi chợ về,phải trình bày minh bạch ,rõ ràng việc chi tiêu với chồng.
Ngày xưa khi học bài này thầy giáo chỉ nêu đại ý như rứa,đồng thời nêu bật tính đảm đang,khéo vén của người phụ nữ xưa….sau đó yêu cầu học sinh học thuộc.Thầy không giảng về bài toán ẩn trong bài thơ,có lẽ vì thời thế đã khác (Khoảng năm 1958,chưa được vào trường công lập,người viết học với Ông giáo…  ở khoảng giữa cầu An Cựu và lăng Vạn Vạn,không biết có phải là thân sinh của nhà văn Hải Triều không?)đồng tiền cũng đã đổi thay,hoặc giải bài toán chắc chi những học trò nhỏ hiểu được.
Đã hơn năm mươi năm,bây giờ người học trò xưa đang ngồi ôm tóc trắng…một ngày mưa ngồi buồn chợt nhớ thầy đồ nơi xóm cũ ngày xưa chừ không còn,nhưng bài thơ vẫn còn đọng mãi trong đầu của bài Học thuộc lòng thửa ấy.Bèn tìm giấy giải thử.
Ngay câu thơ đầu tiên đã gặp ngay vấn nạn.”Một quan tiền tốt mang đi”.Một quan là bao nhiêu ?Quan là đồng tiền cổ,những người muôn năm cũ  giờ không còn,biết hỏi ai đây?Chợt nghe vang vang trong đầu một bài nhạc của nhạc sĩ Văn Phụng:

Một quan là sáu trăm đồng.

Chắt chiu tháng tháng cho chồng đi thi.(Thơ của Nguyễn Bính).

Vận dụng cả 4 phép tính cộng trừ nhân chia,đảo xuôi ngược,lên xuống…mãi vẫn không đủ 600 đồng cho một quan tiền!
Lại phải đi tìm  trong lịch sử.Trong một ngàn năm Bắc thuộc,dân Việt không có đồng tiền riêng . Mãi đến sau khi Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán ,dân Việt vẫn còn dùng đến đồng tiền của phương Bắc. Đến năm 968,Đinh Bộ Lĩnh sau khi dẹp loạn 12 sứ quân ,lên ngôi hoàng đế với đế hiệu Đinh Tiên Hoàng,niên hiệu Thái Bình. Năm 970 nhà vua đã cho đúc những đồng tiền Thái Bình Hưng Bảo.Đây chính là những đồng tiền đầu tiên của người Việt.Từ đó tiếp đến những triều đại sau đều theo .
Đơn vị để tính tiền xưa gồm có :quan,tiền ,đồng.Mỗi quan có giá trị là 10 tiền,mỗi tiền bằng bao nhiêu đồng tùy theo quy định của mỗi thời đại.Theo sử sách giá trị đồng tiền các thời đại như sau:
1/ Năm 1225,vua Trần Thái Tông định phép dùng tiền.1 quan bằng 10 tiền.1 tiền bằng 70 đồng.
2/ Năm 1428 vua Lê Thái Tổ cho đúc tiền Thuận Thiên.1 quan bằng 10 tiền.1 tiền bằng 50 đồng.
3/ Năm 1439,vua Lê Thái Tông quy định 1 quan bằng 10 tiền ,1 tiền bằng 60 đồng.
Như vậy 1 quan=10 tiền=600 đồng.
Từ đó các triều đại về sau,mỗi khi đúc một loại tiền mới đều theo tỷ lệ này,cho đến cuối triều Nguyễn năm 1945.Chỉ có tên đồng tiền là thay đổi theo tên hiệu.
Năm 1905 ,chính quyền bảo hộ Bắc kỳ  cho phát hành loại tiền đúc bằng hợp kim kẽm.Loại tiền này mặt trước in chữ Pháp,mặt sau ghi chữ Hán,có giá trị tương đương các loại tiền đồng như Gia Long Thông Bảo,Minh Mệnh Thông Bảo,Thiệu Trị Thông Bảo và Tự Đức Thông Bảo.

Trong những đời vua sau của nhà Nguyễn còn có thêm hai đồng tiền khác là Khải Định Thông Bảo và Bảo Đại Thông Bảo,hai loại tiền này không đúc như những đồng tiền xưa mà được dập bằng máy dập nhập từ nước Pháp.
Đến đây chắc chắn là bài toán ẩn bên trong bài ca dao đã giải được.Ghi lại như sau,bên phải là các phép tính đã giải.


ĐI CHỢ TÍNH TIỀN

Một quan tiền tốt mang đi,                                                     600
Nàng mua những gì mà tính chẳng ra.
Thoạt tiên mua ba tiền gà,                                   3×60       = 180
Tiền rưỡi gạo nếp với ba đồng trầu.                   60+30+3=   93

Trở lại mua sáu đồng cau,                                                    =     6

Tiền rưỡi miếng thịt,giá rau mười đồng.     (1,5×60)+10 = 100
Có gì mà tính chẳng thông?
Tiền rưỡi gạo tẻ,sáu đồng chè tươi.              60+30+6      =   96
Ba mươi, đồng rượu chàng ơi,                                              =   30
Ba mươi đồng mật,hai mươi đồng vàng.        30+20        =   50
Hai chén nước mắm rõ ràng,
Hai bảy mười bốn,kẻo chàng hồ nghi.            2×7             =   14
Hai mươi mốt đồng bột nấu chè,                                        =    21
Mười đồng nải chuối,chẵn thì một quan.                          =    10

CỘNG                                                                                      = 600

Ảnh PVC từ tủ sách GĐ

Trong sách QVGKT bên dưới bài học thuộc lòng này có 3 từ giải nghĩa,ghi nguyên văn như sau :”GIẢI NGHĨA.Tiền tốt=tiền tiêu được.Vàng=đồ làm bằng giấy cúng rồi đốt đi.Hồ nghi=ngờ vực,không biết rõ”.
Những giải nghĩa này chỉ để giải thích cho lớp học trò tóc còn để chỏm,dễ hiểu,dễ nhớ.Đi chợ tất phải đem theo tiền,tiền phải có giá trị trong mua bán… là chuyện đương nhiên. Nhưng sao gọi là tiền tốt?Một bài cao dao được lưu truyền,được in trong sách giáo khoa từ lúc ra đời (Bản in đầu tiên năm 1927) đến lúc cải tiến thay đổi,không lẽ vì bí vần mà viết vụng thế sao! Thế là người viết phải đi tìm tiếp.
Có một giai thoại trong văn học về Bà Chúa thơ Nôm.Chuyện kể rằng Hồ Xuân Hương thiếu tiền bèn hỏi mượn của Chiêu Hổ 5 quan để tiêu tạm. Chiêu Hổ gởi tiền đến,đếm hoài vẫn chỉ thấy có  3 quan.Nữ sĩ bèn làm bài thơ trách người cho mượn tiền:
Sao nói rằng năm chỉ có ba.
Trách người quân tử hẹn sai ra.
Bao giờ thong thả lên chơi nguyệt.
Nhớ hái cho xin nắm lá đa.


Chiêu Hổ họa lại:
Rằng gián thì năm,quý có ba.
Bởi người thục nữ tính không ra.
Ừ rồi thong thả lên chơi nguyệt.
Cho cả cành đa lẫn củ đa.
Trong bài họa của Chiêu Hổ có chữ gián và quý.Đây là cơ sở dẫn người viết đi tìm tiếp. Đã có công tất …chồng không phụ,kết quả đã tìm được:
Khoảng thế kỷ 18,dưới triều vua Minh Mạng có hai loại tiền lưu hành.Đó là tiền quý và tiền gián,tỷ lệ như sau: 1quan quý = 600đồng.         1 quan gián chỉ bằng 360 đồng.
Khi hỏi mượn tiền ,Hồ Xuân Hương chỉ nói mượn 5 quan,không nói là quan gì.Gặp lúc Chiêu Hổ chắc cũng đang thiếu nên chỉ cho mượn số tiền thấp xuống,nhưng vẫn đủ 5 quan:
Quan quý :   3×600      =1800 đồng
1800:360 =   5 quan gián

Giá trị của các loại tiền xưa như thế nào?Đây là những số liệu về lương tiền dưới triều vua Minh Mạng.
-Quan Nhất Phẩm lãnh mỗi năm 400 quan,300 phương gạo,70 quan tiền Xuân Phục,tức tiền áo quần.
-Quan Chánh ngũ phẩm,hàng tri phủ mỗi năm lương 40 quan,43 phương gạo,9 quan tiền Xuân Phục.
-Lính,thơ lại,phục dịch  …lương mỗi tháng 1quan,tiền,1 phương gạo.
Đồng quan ngày xưa nó to thế.Chẳng trách người ta bỏ …quan ra để mua phẩm hàm ,chức tước…để được làm quan!Chẳng trách người phụ nữ ” thời xưa”(tên khác của bài thơ Trăng sáng vườn chè) quên cả thanh xuân,gác tạm những ẩn ức ,dồn nén để một ngày chồng vinh qui về làng…cùng nhau trãi trọn trong một đêm trăng!
Qua những số liệu vừa tìm được,ta có thể thấy rõ bài ca dao “Đi chợ tính tiền” xuất hiện sớm nhất phải từ thời Minh Mạng.Bởi từ lúc này mới có “Một quan tiền  TỐT”mang đi.Tiền tốt chính là tiền quý,phân biệt với tiền gián có giá trị thấp hơn. Cũng thấy được,người phụ nữ trong một buổi chợ quê đã tiêu số tiền bằng lương tháng một người lính.Nhà nàng chắc phải có chuyện quan hôn,kỵ giỗ chi đây!

Thật thú vị,để giải bài toán ẩn bên trong bài ca dao,đã phải đi loanh quanh,lòng vòng.Gặp những bài thơ hay,giai thoại đẹp,biết thêm vài điều về lịch sử…Nếu không có Internet chắc gì người viết đã giải được bài toán ẩn bên trong bài ca dao cổ?Chỉ nghĩ đến kho sách phải lục tìm,những thư viện phải đi đến …đã thấy chồn chân chẳng muốn leo !


PVC (Pleiku 22-8-2011)

BANDITO

BANDITO

Ngày xửa ngày xưa, có 1 họa sĩ trẻ, không có tiếng tăm, sống trong 1 căn phòng chật hẹp, cũ kỷ, chuyên đi vẽ chân dung cho người khác kiếm sống qua ngày.

Một ngày nọ, có 1 nhà phú hộ, thấy những bức tranh của chàng họa sĩ trẻ rất sống động, nên đến nhờ chàng vẽ cho 1 bức chân dung. Đôi bên đồng ý với giá là 10000 đồng.

Sau 1 tuần lễ, bức tranh đã hoàn thành, nhà phú hộ đến đúng hẹn để lấy tranh. Đến lúc đó, ông nhà giầu đó sanh lòng phản phúc, vì thấy chàng họa sĩ vừa trẻ, vừa nghèo vừa chả tiếng tăm gì, nên đã không chịu trả đúng số tiền đã thỏa thuận từ trước. Vì Ông ta nghĩ bụng rằng: Bức tranh là chân dung của mình, nếu ta không mua, thì chả có ai bỏ tiền ra mua cả! Thế thì tại sao ta lại phải trả đến giá cao như thế cho bức tranh này? Nghĩ thế ông ta bèn trở mặt, không chịu trả đúng 10000 như đã giao hẹn nữa, mà chỉ chịu trả 3000 đồng thôi.

Chàng hoạ sĩ trẻ choáng váng, vì chưa gặp chuyện như thế bao giờ, nên đã kiên nhẫn, cố gắng giải bầy cặn kẽ cho ông khách đó rằng, đây là đã giao hẹn rồi, xin ông hảy nên làm người giữ chữ Tín. Ông khách thấy thế, biết là mình đã chiếm thượng phong, bèn dứt khoát: Thôi anh đừng dài dòng lôi thôi, tôi hỏi anh, 3000 có chịu hay không??

Chàng hoạ sĩ nghe thế, biết là cha này chơi xỏ lá, tay trên, bèn cố nén cơn giận, trả lời người khách với 1 giọng kiên quyết: Không bán! Tôi thà thí công vẽ, chứ nhất định không chịu để ông làm nhục tôi như thế! Hôm nay ông nuốt lời, bất tín với tôi, thì tương lai chắc chắn ông phải trả giá gấp 20 lần!!

-Cái gì? Anh nói giỡn chơi! 20 lần là 200000, tôi đâu có ngu mà trả đến 200000 để mua bức tranh này!!

– Rồi ông sẽ biết!  –Chàng họa sĩ nói theo khi người khách bỏ đi!

Trải qua câu chuyện đau lòng như thế, chàng họa sĩ đã dọn đi, đến 1 nơi khác, tầm sư học nghề, khổ công luyện tập.

Trời không phụ lòng người, mười mấy năm sau, chàng đã dành được 1 chỗ đứng khá quan trọng trong giới hội họa, trở nên 1 họa sỉ khá nổi tiếng. Còn nhà phú hộ? Ngay ngày hôm sau thì ông ta đã quên mất câu chuyện chơi xỏ thằng họa sĩ trẻ đáng thương đó rồi.

……………………………………..

Cho đến 1 ngày, có mấy người bạn thân đã đến kễ cho ông ta nghe cùng 1 câu chuyện lạ:

-Này ông! có 1 câu chuyện lạ ghê! mấy ngày nay, chúng tôi có đi xem 1 buổi triển lãm tranh của 1 ông họa sĩ nổi tiếng, ở đó có treo 1 bức tranh đề giá chắc nịch, mà trong tranh là 1 nhân vật trông y hệt như Ông, giá đề: không thương lượng: 200.000 đồng! Mà cái buồn cười là, tiêu đề của bức tranh là: BANDITO!! ( Đạo tặc!! ).

BANDITO

Như bị trời giáng, ông nhà giầu nhớ ngay đến câu chuyện năm xưa!

Lúc đấy, ông mới biết là việc mình làm ngày trước đã tổn thương người họa sĩ trẻ đến mức nào. Ngay tối hôm đó, ông ta đã tìm ngay đến chàng họa sĩ, thành thật xin lỗi, và ngỏ lời xin mua lại bức tranh đó với giá 200000 đồng .

Chàng họa sĩ trẻ đó tên là: Pablo Ruiz Picasso.(1881—1973)

Không ai có thể đánh bại và làm nhục ta ngoại trừ chính ta. . … Đó là tâm niệm của Ổng !!

Để giết một người Mỹ!

Để giết một người Mỹ!

Bạn có thể bỏ qua mẩu tin này trong hàng đống tin tức hàng ngày, nhưng hiện nay có báo cáo cho biết một người nào đó ở Pakistan đã đăng quảng cáo trên báo chí là sẽ trao một giải thưởng cho bất cứ người nào giết được một người Mỹ, bất kỳ người Mỹ nào cũng được.

Vì thế nha sĩ người Úc này ngay ngày hôm sau đã viết một bản thông báo cho mọi người hiểu tường tận người Mỹ là ai, người Mỹ là thế nào, để mọi người có thể nhận diện khi gặp một người Mỹ!

Một người Mỹ có thể là một người Anh, hoặc người Pháp, người Ý, người Ái Nhĩ Lan, người Đức, người Tây Ban Nha, người Ba Lan, người Nga hoặc người Hy Lạp.

Một người Mỹ cũng có thể là một người Canada, người Mễ Tây Cơ, người từ Châu Phi, người Ấn Độ, người Trung Quốc, người Nhật, người Việt Nam, người Hàn Quốc, người H’ Mông, người Khmer, người Thái Lan, người Úc, người Mã Lai, người Iran, người Trung Đông, người Ả Rập, người Pakistan hoặc người Afghanistan.

Một người Mỹ còn có thể là người Comanche, người Cherokee, người Osage, người Blackfoot, người Navaho, người Apache, người Seminole hoặc là con dân của một trong những bộ tộc thổ dân da đỏ bản địa Mỹ trước kia.

Người Mỹ có thể theo đạo Thiên Chúa giáo, đạo Tin Lành, Do Thái giáo, đạo Phật, đạo Hồi.

Sự thật là số người theo đạo Hồi ở Mỹ đông hơn là ở  Afghanistan .

Sự khác biệt duy nhất là ở Mỹ, người ta có thể tự do sùng bái một tín ngưỡng nào đó mà họ đã lựa chọn.

Người Mỹ cũng có thể là một người được quyền tự do không tin vào bất kỳ tín ngưỡng nào.

Chính vì thế mà họ sẽ chỉ phải trả lời trước Thượng Đế, chứ không phải là trước nhà cầm quyền hoặc trước một nhóm vũ trang nào đó tự phong cho mình cái quyền phát ngôn thay cho nhà cầm quyền hay Thượng Đế.

Người Mỹ sống trong một đất nước trù phú nhất thế giới.

Cội nguồn của sự trù phú này là ở Tuyên ngôn Độc Lập của họ, thừa nhận rằng Thượng Đế đã ban cho mỗi người cái quyền được tự do mưu cầu hạnh phúc.

Người Mỹ rất độ lượng.

image

Người Mỹ đã chìa tay ra để giúp đỡ tất cả những dân tộc nào cần đến mình trên thế giới, mà chưa bao giờ đòi hỏi được trả ơn.

Khi đất nước Afghanistan bị xâm chiếm bởi quân đội Soviet  20  năm trước đây, người Mỹ đã đến cùng với vũ khí và tiếp liệu giúp cho người dân xứ này đứng lên giành lại đất nước!

Trước ngày 11 tháng 9 định mệnh ấy, Người Mỹ đã viện trợ cho dân nghèo  Afghanistan với số lượng nhiều hơn bất cứ quốc gia nào khác trên thế giới.

Biểu tượng quốc gia của Mỹ.

image

Tượng Nữ Thần Tự Do chào mừng những người đói nghèo và kiệt sức, những người đã bị chính quê hương mình từ chối, những kẻ vô gia cư, những người bị dập vùi sau cơn bão tố!

Thế rồi, sau đó chính họ là những người đã xây dựng nên nước Mỹ của ngày hôm nay!

Một số người trong số họ đang làm việc tại Tòa Tháp đôi vào buổi sáng 11  tháng 9 năm 2001, phấn đấu làm sao có được một mức sống tốt hơn cho gia đình của mình!

Thống kê cho thấy các nạn nhân ở tòa Tháp Đôi hôm ấy đã đến từ ít nhất 30 quốc gia, nền văn hóa, và ngôn ngữ ban đầu khác nhau, kể cả những kẻ trước kia đã từng giúp đỡ và ủng hộ các tên khủng bố. 

Vậy bạn hãy cố gắng giết một người Mỹ nếu bạn thực sự phải làm như thế!

Hitler đã giết!

Tướng Tojo của phát xít Nhật cũng đã giết!

Stalin, Mao Tse-Tung, cùng các tên bạo chúa khát máu khác trên thế giới cũng đã giết !…

Nhưng khi giết hại người Mỹ như vậy tức là bạn đã tự giết hại chính mình!

Vì người Mỹ không phải là một người đặc biệt ở một nơi đặc biệt nào đó trên trái đất này.

Họ là hiện thân cho tinh thần tự do của loài người!

Tất cả những người cùng đề cao tinh thần tự do ấy, cho dù họ ở bất cứ nơi đâu trên thế giới này thì cũng được xem như là một người Mỹ!

Hãy để thông điệp này bay đi!

Xin hãy để nó bay đi khắp thế giới!

Hãy giúp nó luân chuyển giữa tất cả các bạn bè của chúng ta.

Nó sẽ nói lên tất cả, nói tiếng nói tự do chung cho tất cả chúng ta!

Xin đừng xóa mà hãy gửi nó đi!

Xin cảm ơn tất cả các bạn!

(Lá thư này được viết bởi một nha sĩ người Úc. Biên dịch theo bản gốc tiếng Anh)

Bỏ Qua Oán Hận

Bỏ Qua Oán Hận

http://3.bp.blogspot.com/-b5SI3Pe-_Uk/UgUwrEQ6TqI/AAAAAAAABIc/qOatw3k7AGU/s1600/images+(6).jpg

Một thương gia trong một thị trấn nhỏ nọ, có hai người con trai sinh đôi. Hai chàng trai cùng làm việc tại cửa hàng của cha mình. Khi ông qua đời, họ thay ông trông coi cửa hàng đó. Mọi việc đều êm đẹp cho đến một ngày kia, khi một tờ giấy bạc biến mất.

Người em đã để tờ giấy bạc đó trên máy đếm tiền rồi đi ra ngoài với khách hàng. Khi anh quay lại, tờ giấy bạc đã biến mất.

Người em hỏi người anh: – Anh có thấy tờ giấy bạc đâu không ?

Người anh đáp: – Không. Tuy thế người em vẫn không ngưng tìm kiếm và gạn hỏi: – Anh không thể không đụng đến nó. Tờ giấy bạc không thể tự đứng dậy và chạy đi được! Chắc chắn anh phải thấy nó !

Sự buộc tội phảng phất trong giọng nói của người em. Căng thẳng bắt đầu tăng lên giữa hai anh em họ. Sự oán giận cũng theo đấy mà len vào. Không lâu sau một hố ngăn cách gay gắt và sâu thẳm đã chia cách hai chàng trai trẻ. Họ không thèm nói với nhau một lời nào. Cuối cùng họ quyết định không làm chung với nhau và một bức tường ngăn cách đã được xây ngay giữa cửa hàng. Sự thù địch và oán giận cũng lớn lên tiếp theo 20 năm sau đó, lan đến cả gia đình của họ.

Một ngày nọ, một người đàn ông đỗ xe ngay trước cửa hàng. Ông ta bước vào và hỏi người bán hàng: – Anh đã ở đây bao lâu rồi . Người bán hàng đáp rằng anh đã ở đây cả cuộc đời. Vị khách nói tiếp: – Tôi phải nói với anh điều này. 20 năm trước tôi đã đi xe lửa và tạt vào thị trấn này. Lúc đó tôi đã không ăn gì suốt ba ngày. Khi tôi đến đây bằng cửa sau và thấy tờ giấy bạc trên máy tính tiền, tôi đã bỏ vào túi mình rồi ra ngoài. Những năm qua tôi không thể quên điều đó. Tôi biết nó không phải là món tiền lớn nhưng tôi phải quay lại đây và xin anh thứ lỗi .

Người đàn ông lạ mặt ngạc nhiên khi thấy những giọt nước mắt lăn trên má của người bán hàng trạc tuổi trung niên này.

Anh ta đề nghị: – Ông có vui lòng sang cửa bên và kể lại chuyện này cho người đàn ông trong cửa hàng đó được không ? Rồi người đàn ông lạ càng ngạc nhiên hơn khi thấy hai người đàn ông trung niên, trông giống nhau, ôm nhau khóc ngay trước cửa hàng. Sau 20 năm, rạn nứt giữa họ đã được hàn gắn. Bức tường thù hận chia cắt hai anh em họ đã được đập bỏ.

http://1.bp.blogspot.com/-CkNMPGZMiNg/UgUw7oT01eI/AAAAAAAABIk/MHQ4LTOlMBI/s1600/download+(2).jpg

Trong cuộc sống có những điều nhỏ nhặt vẫn thường xảy ra và vô tình chia cắt con người với nhau, những lời nói vội vàng không suy nghĩ, những lời chỉ trích, buộc tội hay những lời trách cứ oán hờn. Và khi đã bị chia cắt, họ có thể không bao giờ quay lại với nhau được nữa. phương cách tốt nhất để tránh những tình huống gây tổn thương này là bỏ qua những lỗi lầm nhỏ của nhau. Điều này không dễ dàng nhưng cũng chẳng phải là quá khó khăn. Bỏ đi những bực dọc rồi bạn có thể sẽ ngạc nhiên khi thấy mình chẳng mất bao nhiêu năng lượng để xây dựng sự gắn bó với những người bạn yêu mến

From: ngocnga_12

Anh chị Thụ – Mai gởi

Thật kỳ lạ

Thật kỳ lạ


Sưu Tầm

9/24/2013

Thật kỳ lạ khi thấy một tờ giấy bạc có giá trị quá lớn khi bỏ vào giỏ nhà thờ, nhưng lại quá nhỏ khi đi chợ mua sắm!

Thật kỳ lạ khi thấy một tiếng đồng hồ ở trong Nhà Chúa sao mà lâu thế,
nhưng nếu mà đi xem xi-nê thì lại quá lẹ !

Thật kỳ lạ khi cầu nguyện thì chẳng biết nói gì,
nhưng khi nói chuyện với bạn bè thì lại chẳng hết chuyện cà kê dê ngỗng để nói!

Thật kỳ lạ vì chúng ta thấy rất hồi hộp khi trận đá bóng phải kéo dài thêm mấy phút phụ trội,
nhưng lại cầm ràm khi một bài giảng Thánh Lễ có vẻ dài hơn mọi khi!

Thật kỳ lạ vì chúng ta thấy khó khăn khi phải đọc một đoạn Kinh Thánh,
nhưng lại rất dễ dàng đọc hàng trăm trang tiểu thuyết liên tu bất tận !

Thật kỳ lạ khi thấy nhiều người thích ngồi những hàng ghế đầu khi đi dự những buổi đại nhạc hội hay các trận đấu bóng,
nhưng lại cứ tìm chỗ ngồi ở những hàng ghế cuối trong thánh đường!

Thật kỳ lạ khi chúng ta cần phải mất đến hai,ba tuần lễ trước để sắp xếp thời giờ cho những công việc của Nhà Chúa,
nhưng lại dễ dàng thích ứng thời giờ cho những chương trình khác trong chớp nhoáng vào phút chót!

Thật kỳ lạ sao thấy quá khó khăn để nhớ một đoạn Kinh Thánh hầu có thể thuật lại cho người khác,
nhưng lại rất dễ dàng để hiểu và nhớ những lời đàm tiếu gièm pha để kể cho người khác nghe!

Thật kỳ lạ sao chúng ta rất dễ tin những gì báo chí đăng tải,
nhưng lại tỏ ra nghi ngờ, đặt vấn đề này kia về vấn đề Kinh Thánh dậy!

Thật kỳ lạ sao ai cũng muốn được lên Thiên Đàng
mà lại không phải tin, không phải suy nghĩ, không phải nói hay làm gì cho đàng hoàng cả!

Thật kỳ lạ khi có thể gởi các câu chuyện bù khú tiếu lâm qua e-mail và nó sẽ được chuyển đi thật nhanh,
nhưng khi gởi những gì liên quan đến Thiên Chúa thì người ta lại suy nghĩ cẩn thận xem có nên gởi đi chia sẻ với người khác hay không?

Đức Biển Đức 16 trả lời một nhà toán học vô thần

Đức Biển Đức 16 trả lời một nhà toán học vô thần


Lm. Trần Đức Anh OP

9/24/2013

VATICAN. Đức nguyên Giáo Hoàng Biển Đức 16 đã trả lời cho những tấn công của một nhà toán học vô thần người Italia, ông Piergiorgio Odifreddi.

Ông thường xuất hiện trên truyền hình ở Italia và mạnh mẽ phê bình tôn giáo, đặc biệt là Công Giáo. Ông đã viết cuốn ”Giáo Hoàng thân mến, tôi viết cho ngài” (Caro Papa ti scrivo), để trả lời cho cuốn ”Dẫn vào Kitô giáo” (Introduzione al Cristianesimo) của ĐGH Ratzinger.

Lá thư dài 11 trang được Đức nguyên Giáo Hoàng viết trong tháng 8 gửi đến ông Odifreddi hồi đầu tháng 9-2013. Ông đã cho báo phe tả ”Repubblica” (Cộng Hòa), đăng tải trong số ra ngày 24-9-2013.

Trong thư ĐGH Biển Đức cho biết đã đọc sách của ông Odifreddi và ngạc nhiên vì giọng văn gây hấn và sự nhẹ dạ của tác giả trong các biện luận. Ngài bác bỏ lập luận cho rằng thần học là một khoa học giả tưởng, đồng thời xác quyết ngài không bao giờ tìm cách che đậy những điều xấu trong Giáo Hội, những vụ giáo sĩ lạm dụng tính dục. Thư của Đức Biển Đức 16 có đoạn viết: ”Tôi không bao giờ tìm cách che đậy những điều ấy. Sự kiện quyền lực sự ác thấu nhập đến mức độ đó vào trong lòng thế giới đức tin, đối với chúng tôi, đó thực là một điều đau khổ mà một đàng chúng tôi phải chấp nhận, và đàng khác chúng tôi phải làm tất cả những gì có thể để những vụ như thế không tái diễn. Cũng không phải là một điều an ủi khi biết rằng theo nghiên cứu của các nhà xã hội học, tỷ lệ các linh mục phạm những tội ác lạm dụng như thế không cao hơn tỷ lệ trong các giới chuyên nghiệp tương tự. Dầu sao đi nữa, không được ngoan cố trình bày sự lệch lạc ấy như thế đó là một sự nhơ bẩn riêng của Công Giáo mà thôi. Và cũng không được im lặng trước vết tích lớn lao về thiện hảo sáng ngời và tinh tuyền mà đức tin Kitô đã vạch ra qua dòng lịch sử. Và một điều thực sự là ngày nay đức tin đang thúc đẩy nhiều người yêu thương vô vị lợi, phục vụ tha nhân, sống chân thành và công chính”.

Sự trách cứ nghiêm khắc nhất Đức nguyên Giáo Hoàng dành cho ông Odifreddi là về đề tài lịch sử. Ngài viết: ”Điều mà ông nói về Đức Giêsu không đáng với trình độ khoa học của ông. Nếu Ông đặt vấn đề như thế, xét cho cùng, người ta không biết gì về Đức Giêsu, và không gì có thể chấp nhận được chứng tỏ Ngài là một nhân vật lịch sử, như thế thì tôi chỉ có thể quyết liệt mời gọi ông hãy tỏ ra có thẩm quyền hơn một chút về phương diện sử học. Về vấn đề này, tôi đặc biệt khuyên ông đọc 4 cuốn mà Martin Hengel, một nhà chú giải Kinh Thánh thuộc phân khoa thần học tin lành ở Tuebingen, đã xuất bản cùng với Maria Schwmer: đây là một thí dụ tuyệt hảo về sự chính xác lịch sử và cung cấp rất nhiều thông tin lịch s. Đứng trước sự kiện ấy, điều mà ông nói về Đức Giêsu thực là một kiểu nói nhẹ dạ không nên lập lại”.

ĐGH Biển Đức 16 cũng đặt câu hỏi với ông Odifreddi: ”Nếu ông muốn thay thế Thiên Chúa bằng ”Thiên Nhiên”, thì vẫn còn có câu hỏi: thiên nhiên này là ai hoặc là gì. Không có chỗ nào trong sách ông định nghĩa thiên nhiên và vì thế nó thiên nhiên xuất hiện như thần minh vô lý, chẳng giải thích gì cả.. Nhưng nhất là tôi muốn nhận xét rằng trong Tôn giáo của ông về toán học, có 3 đề tài cơ bản của cuọc sống con người không được xét tới: tự do, tình yêu và sự ác. Tôi ngạc nhiên vì ông chỉ nhắc lướt qua tới tự do, mặc dù đây đã và đang còn là giá trị chủ yếu của thời đại ngày nay”. Tình yêu cũng không được nói đến trong sách của Odifreddi và cả sự ác cũng chẳng được đề cập đến.. Tôn giáo toán học của ông không biết thông tin nào về sự ác. Một tôn giáo bỏ qua những câu hỏi cơ bản như thế thì là một tôn giáo trống rỗng”

Từ khi từ nhiệm và sống ẩn dật tại Vatican, đây là lần thứ hai ĐGH Biển Đức 16 ”xuất hiện” công khai, nhưng ngài vẫn giữ nguyên lời hứa ẩn mình đối với thế giới (Vat. Ins. 24-9-2013)

Việt Nam ngày càng tụt hậu so với các nước trong khu vực?

Việt Nam ngày càng tụt hậu so với các nước trong khu vực?
24.09.2013
Hiện trạng kinh tế Việt Nam đã được đưa ra mổ xẻ tại một cuộc hội thảo có tên gọi “Nhìn lại nửa chặng đường phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2011 – 2015 và những điều chỉnh chiến lược” hôm 23/9.

Nhiều học giả, kinh tế gia và giới chức Việt Nam đã phát biểu tại hội thảo này, trong đó có Phó Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc.

Ông Phúc được báo chí trong nước trích lời nói rằng Việt Nam có khả năng không đạt được nhiều mục tiêu của kế hoạch 5 năm.
So với một số nước đi trước thì Việt Nam trên một số lĩnh vực đang ngày càng tụt hậu ngày càng xa hơn, chứ không phải chỉ là tụt hậu. Cái người ta muốn nhấn mạnh là ở chỗ ấy. Ví dụ như tụt hậu xa hơn khoảng cách về thu nhập GDP trên đầu người chẳng hạn…
Tiến sỹ Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam.
Còn theo Trưởng Ban kinh tế trung ương Vương Đình Huệ, việc nhiều chỉ tiêu không đạt kế hoạch ‘dẫn đến nguy cơ Việt Nam ngày càng tụt hậu so với các nước trong khu vực’.

Tiến sỹ Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, cho VOA Việt Ngữ biết rằng giới chuyên gia kinh tế đề cập tới việc Việt Nam tụt hậu ngày càng xa.

“So với một số nước đi trước thì Việt Nam trên một số lĩnh vực đang ngày càng tụt hậu ngày càng xa hơn, chứ không phải chỉ là tụt hậu. Cái người ta muốn nhấn mạnh là ở chỗ ấy. Ví dụ như tụt hậu xa hơn khoảng cách về thu nhập GDP trên đầu người chẳng hạn hoặc là chỉ số về năng lực cạnh tranh thì Việt Nam bị tụt hạng. Cái này là một thực tế mà Việt Nam hiện nay đang phải nhìn nhận rất nghiêm túc để có những giải pháp khắc phục. Không nhìn thấy sự thực ấy thì sẽ không có chính sách tốt để vượt qua nó”.

Trong số các ý kiến nêu lên tại hội thảo, phát biểu của cựu Phó thủ tướng Vũ Khoan đã thu hút nhiều chú ý.

Trong khi các chuyên gia cho rằng kinh tế Việt Nam bị ảnh hưởng chính từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, thì ông Khoan lại không đồng tình với ý kiến đó.
Bên ngoài nó chỉ tác động thôi, còn chủ yếu những gì Việt Nam đang gặp vấn đề là do chính Việt Nam nguyên nhân chủ quan là chính. Cần phải nhận thức như thế thì sửa nó mới dễ được…Việt Nam tụt xuống mà lại bảo là do bên ngoài cả thì nó rất là buồn cười…
Tiến sỹ Trần Đình Thiên.
Cựu Phó thủ tướng được trích lời nói rằng ông không tin khủng hoảng kinh tế là nguyên nhân chủ yếu vì ‘nhiều quốc gia cũng bị ảnh hưởng nhưng đâu đến nỗi như Việt Nam’.

Ông Khoan cho rằng ‘sai lầm chủ quan dẫn tới bất ổn vĩ mô mới là nguyên nhân chính’.

Tiến sỹ Trần Đình Thiên tán đồng quan điểm này.

“Bên ngoài nó chỉ tác động thôi, còn chủ yếu những gì Việt Nam đang gặp vấn đề là do chính Việt Nam nguyên nhân chủ quan là chính. Cần phải nhận thức như thế thì sửa nó mới dễ được. Ví dụ như là những việc chuẩn bị cho những điều kiện, có một chiến lược công nghiệp phù hợp, cơ sở hạ tầng tốt để mà hội nhập. Đó là do mình cả. Không thể nói rằng cả một thế giới người ta phát triển hơn, Việt Nam tụt xuống mà lại bảo là do bên ngoài cả thì nó rất là buồn cười”.

Trước ý kiến đề nghị như giảm mục tiêu tăng trưởng GDP từ 6,5% tới 7% xuống 5,4% hay mục tiêu lạm phát năm 2015 từ 5-7% lên 7%, cựu Phó thủ tướng Vũ Khoan cho rằng ‘điều chỉnh thì dễ nhưng chẳng để làm gì khi các yếu kém vẫn chưa được giải quyết’.

Tiến sỹ Nguyễn Đình Thiên thì cho rằng ‘nên đặt vấn đề tích cực theo kiểu khác’.

“Tức là đây là cơ hội để cải cách thể chế, chuẩn bị cho các bước sau nó mạnh lên, chứ không phải bây giờ cứ chăm lo vào mấy cái chỉ tiêu tăng trưởng. Quan trọng hơn là cải thiện chất lượng, đổi mới, lo tái cơ cấu để chuẩn bị nền tảng cho các bước tăng trưởng tốt hơn”.

Bản tin trên báo điện tử của chính phủ Việt Nam về cuộc hội thảo kinh tế viết rằng ‘chính phủ và các cấp, các ngành đã thực hiện nhiều biện pháp, cả cấp bách tình thế, cả dài hạn, để ổn định tình hình kinh tế – xã hội’.
Tuy nhiên, bản tin này không trích dẫn các ý kiến phản biện của cựu Phó Thủ tướng Vũ Khoan.

Nguồn: VnExpress, chinhphu.vn, VOA’s interview

Việt Nam: Cái chết biết trước của tự do thông tin

Việt Nam: Cái chết biết trước của tự do thông tin

23.09.2013

Một hôm trước ngày Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng thăm Pháp, Tổ chức Phóng viên Không Biên giới RSF có trụ sở ở Pháp đã công bố phúc trình “Cái chết biết trước của tự do thông tin” tại Việt Nam.

Phúc trình xét đến những phương pháp mà chính phủ của ông Dũng đã sử dụng để kiểm duyệt truyền thông, gây rối các blogger và các người bất đồng chính kiến trên mạng.

RSF đã trình bày những kết luận của mình trong buổi họp báo hôm thứ Hai tại trụ sở của hội của Paris.

Thay vì đưa ra chi tiết nhiều vụ truy bức các blogger, phúc trình xét đến cơ chế đàn áp một cách tổng thể, ảnh hưởng đến tất cả người dân Việt Nam, không riêng gì con số độ 40 blogger.

RSF nói họ định lợi dụng chuyến đi Pháp của Thủ tướng Dũng để nói lên tình trang kinh khiếp về tự do thông tin tại Việt Nam, và để ông lưu ý về tình trạng của 35 blogger còn đang bị tù.

RSF cũng định trao cho Thủ tướng Dũng kiến nghị có 25.000 chữ ký kêu gọi trả tự do cho các blogger này, nhưng đáng tiếc sau nhiều lần tiếp xúc vẫn chưa có câu trả lời.

RSF kêu gọi chính phủ Pháp đừng làm ngơ về quyền tự do báo chí và thông tin tại Việt Nam, đừng quên những vụ hành hung nhà báo và blogger vào lúc Pháp và Việt Nam đang củng cố quan hệ.

Nguồn: Reporters Without Borders