Mai tôi đi

Mai tôi đi

Mai tôi đi…chẳng có gì quan trọng,

Lẽ thường tình, như lá rụng công viên,

Như hoa rơi trước gió ở bên thềm,

Chuyện bé nhỏ giữa giòng đời động loạn…



Trên giường bệnh, Tử Thần về thấp thoáng,

Xin miễn bàn, thăm hỏi hoặc cầu an,

Khi xác thân thoi thóp trút hơi tàn,

Nằm hấp hối đợi chờ giờ vĩnh biệt.



Khoảnh khắc cuối.. Đâu còn gì tha thiết..

Những tháng ngày hàn nhiệt ở trần gian.

Dù giàu sang hay danh vọng đầy tràn,

Cũng buông bỏ trở về cùng cát bụi…



Sẽ dứt điểm đời phù du ngắn ngủi,

Để đi vào ranh giới của âm dương,

Không bàng hoàng trước ngưỡng cửa biên cương,

Bên trần tục, bên vô hình cõi lạ…



Ch ỉ ước nguyện tâm hồn luôn thư thả,

Với hành trang thanh nhẹ bước qua nhanh,

Quên đàng sau những níu kéo giựt dành,

Kết thúc cuộc lữ hành trên dương thế…



Mắt nhắm rồi… Xin đừng thương rơi lệ,

Đừng vòng hoa, phúng điếu hoặc phân ưu,

Đừng quay phim, chụp ảnh để dành lưu.

Gây phiền toái, nợ thêm người còn sống…



Ngoảnh nhìn lại, đời người như giấc mộng,

Đến trần truồng và đi vẫn tay không.

Bao trầm thăng, vui khổ đã chất chồng,

Nay rũ sạch…lên bờ, thuyền đến bến…



Nếu tưởng nhớ..Xin âm thầm cầu nguyện,

Nên xem như giải thoát một kiếp người,

Cứ bình tâm, thoải mái với vui tươi,

Kẻ đi trước, người sau rồi sẽ gặp…



Cầu Ơn Trên, xác hồn xin phó mặc,

Sống hiện tình, những giây phút binh yên,

Ngày qua ngày, kết lại chuổi an bình

Là nguyện vọng thời gian còn tại thế..

NQH 07/31/2013.


Giới chức Việt Nam bị cáo buộc dính líu tới buôn bán phụ nữ, trẻ em

Giới chức Việt Nam bị cáo buộc dính líu tới buôn bán phụ nữ, trẻ em

Các cô gái mại dâm người dân tộc thiểu số từ Việt Nam ngồi chờ khách trong khu 'đèn đỏ' nổi tiếng ở Phnom Penh.

Các cô gái mại dâm người dân tộc thiểu số từ Việt Nam ngồi chờ khách trong khu ‘đèn đỏ’ nổi tiếng ở Phnom Penh.

04.11.2013

Tỷ lệ thiếu nữ và trẻ em dân tộc thiểu số Hmong, Lào, và người Thượng Tây Nguyên bị các quan chức chính quyền và giới chức quân sự tham nhũng tại Việt Nam và Lào bắt cóc, cưỡng ép hôn nhân, và buộc hành nghề mãi dâm lên tới mức báo động, theo báo cáo của các tổ chức phi chính phủ vừa công bố.

Hội đồng Nhân quyền Lào LHRC và Trung Tâm Phân tích Chính sách Công CPPA ngày 2/11 phổ biến thông cáo bày tỏ quan ngại về vai trò gia tăng của giới chức chính phủ và quân đội dính líu tới tình trạng bắt cóc và sử dụng bạo lực buôn bán phụ nữ, trẻ em ở Việt Nam, Lào, và Đông Nam Á.

Chủ tịch Hội đồng LHRC Vaughn Vang kêu gọi mở cuộc điều tra ngay lập tức với sự can thiệp của quốc tế nhằm giúp đỡ các nạn nhân sắc tộc vừa kể ở Lào và Việt Nam.

Ông Philip Smith thuộc trung tâm CPPA nói nạn buôn người nhắm trực tiếp vào trẻ em, phụ nữ sắc tộc đặc biệt nghiêm trọng tại các khu vực biên giới của Lào và Việt Nam, bao gồm tỉnh Nghệ An giáp ranh với tỉnh Xiang Khouang của Lào.

Vẫn theo lời ông Smith, nhiều nạn nhân phải chịu đựng cảnh hành hạ tàn nhẫn không thể tả bằng lời, bị cưỡng bức, bị bạo hành hoặc bị buôn bán ra quốc tế.

CPPA có trụ sở tại thủ đô Hoa Kỳ là một tổ chức phi lợi nhuận chuyên cung cấp các cuộc nghiên cứu tập trung về chính sách đối ngoại, nhân quyền cùng các vấn đề an ninh quốc gia cho giới hoạch định chính sách quốc gia, quốc tế, và công chúng.

Tòa đại sứ Việt Nam không hồi đáp thư của đài VOA yêu cầu bình luận về báo cáo của hai tổ chức phi chính phủ này.

Dù Việt Nam đã ban hành luật phòng chống buôn người, nhưng việc thực thi còn gây nhiều ngờ vực và tranh cãi.

Đây không phải là lần đầu tiên giới hoạt động nhân quyền quốc tế lên tiếng về tình trạng buôn người có sự tiếp tay của giới hữu trách Việt Nam.

Liên minh Bài trừ Nô lệ mới ở Châu Á CAMSA thời gian gần đây can thiệp cho nhiều vụ buôn người từ Việt Nam sang Nga.

Tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng, đồng sáng lập viên của CAMSA, cho VOA Việt ngữ biết trong rất nhiều nạn nhân bị rơi vào các xưởng bóc lột lao động hoặc các ổ mãi dâm ở Nga, chưa người nào nhận được sự bảo vệ từ chính phủ Việt Nam, mà ngược lại, còn có dấu hiệu cho thấy trong một số trường hợp có sự đồng lõa của các giới chức Việt Nam.

Nguồn: Business Wire, Centerforpublicpolicyanalysis.org, VOA’s Interview

NÀY LÀ DÒNG DÕI NHỮNG NGƯỜI TÌM CHÚA

NÀY LÀ DÒNG DÕI NHỮNG NGƯỜI TÌM CHÚA

Anmai, CSsR

Thánh vịnh 24 được chọn làm Thánh Vịnh đáp ca trong Thánh Lễ các Thánh Nam Nữ. Linh mục nhạc sĩ Phêrô Thành Tâm DCCT viết nhạc và lời của Thánh Vịnh này dựa trên ý của Thánh Vịnh thật hay :

Này là dòng dõi những người tìm Chúa,

đây là những người mong bệ kiến Ngài,

một đời lòng ngay không hề gian dối,

giữa bao hận thù luôn sống mến yêu

Chúa làm chủ trái đất cùng muôn vật muôn loài

làm chủ địa cầu cùng toàn thể dân cư

còn nền trái trất Ngài dựng trên biển cả

và đặt vững vàng trên mặt nước bao la …

Dòng dõi những người tìm Chúa mà Thánh Vịnh mô tả sao mà hay quá ! Họ là những người cả cuộc đời đi tìm một mình Thiên Chúa là Chúa, là Cha, là Chủ cuộc đời của họ. Cha, Chúa, Chủ cuộc đời của họ là Tình Yêu và là Chân Lý. Nét đặc trưng hay nói đúng hơn là căn cốt của đời những người này là “một đời lòng ngay không hề gian dối, giữa bao hận thù luôn sống mến yêu”.

Người ta vẫn thường ví von thế gian là cái thế giới mà đầy sự gian dối. Nói như thế cũng có cái lý của họ bởi lẽ giữa cái thế gian này, hình như nhìn đâu đâu cũng thấy sự gian dối, sự gian tà. Gian dối, gian tà đó xuất phát tự ma quỷ.

Thuở ban đầu, lòng con người đẹp tinh tuyền tựa đóa hoa tươi thắm mà Thiên Chúa dệt nên nhưng rồi theo thời gian và với thời gian lòng con người thay đổi bởi ma quỷ và đã chống lại Thiên Chúa. Chính sự gian tà đã làm thay đổi lòng người. Và, từ ngày đó, từ ngày mà Ađam – Eva phạm tội thì tội lỗi đã đi vào trong thế gian, sự gian dối đã đi vào trong cõi đất này. Cũng từ ngày đó, bóng tối tìm cách che lấp ánh sáng và sự hận thù muốn tiêu diệt tình yêu.

Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một của mình cho thế gian như thánh Tông Đồ Gioan cảm nghiệm. Tình Yêu Thiên Chúa đã đến thế gian, Thần Chân Lý của Thiên Chúa cũng đã đến trong thế gian để gửi vào thế gian luồng gió mới của tình yêu, của sự thật.

Những người mà cả đời canh cánh đi tìm Thiên Chúa không đi con đường nào khác của con đường chân lý và con đường tình yêu. Những người đó như những người lội ngược dòng của thế giới, của xã hội, của con người trống vắng tình yêu Thiên Chúa và Chân Lý.

Tưởng chừng bóng tối, sự gian ác đè bẹp được ánh sáng và chân lý nhưng vẫn còn đó những con người, những tấm lòng can đảm và kiên trung để sống giữa thế gian này. Số người này không chỉ dừng lại ở một người, một nhóm người như các môn đệ tiên khởi hay của một dân tộc nào đó mà lan rộng khắp toàn cõi đất này. Sách Khải Huyền đã mô tả đoàn người đông đảo đó ở chương 7, câu 9 : “Sau đó, tôi thấy: kìa một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và trước Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế”

Đoàn người đông vô kể mà sách Khải Huyền nói đó chính là những người đi tìm Con Chiên, đã theo Con Chiên, đã giặt áo mình trong máu của Con Chiên. Đoàn người đông đảo không tài nào đếm nổi đó là các thánh nam nữ của Thiên Chúa. Trong đoàn người đó có thể có ông bà cha mẹ thân bằng quyến thuộc của chúng ta. Những người đó là những người hết sức bình thường nhưng đã sống cái bình thường đó gói gọn trong chân lý và tình yêu.

Nhìn lại một chút của cuộc đời các thánh, chúng ta thấy đậm nét của đoàn người đi tìm Chúa.

Một Stêphanô bị người ta ném đá nhưng đã ngước cao lên Trời và xin Chúa tha cho những người giết hại mình.

Một Maximilianô Kônbê đã can đảm chết thay cho người bạn tù của mình.

Một Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã yêu thương đến cùng trong hoàn cảnh cay nghiệt của người đời cách riêng qua những người sống chung với chị Thánh.

Một Têrêsa Calcutta đã bồng ẵm trên tay những con người nghèo, những con người bị đẩy ra ngoài lề của xã hội để chỉ mong cho họ chết với tư cách là người hơn mà thôi.

Và, một dòng dõi người đông đảo tử đạo trên mảnh đất hình chữ S thân thương này vẫn còn in dấu trong tâm thức của người dân Việt. Dòng người đông đảo này đã “hân hoan khi lao tù, mừng rỡ lúc gươm vung dù thịt tan xương nát” để minh chứng lòng tin và tình yêu của mình vào Thiên Chúa. Triều Thiên Vinh Hiển được gắn trên đầu những con người đã mến yêu trước đau khổ tột cùng của đòn roi, của gươm giáo, của máy chém, của thú dữ. Nếu như họ căm thù, họ oán hận chắc chắn họ sẽ không được triều thiên Tử Đạo mà Thiên Chúa ban cho họ.

Trong dòng người tử đạo đó, họ có khi là quan chức, có khi là thương gia nhưng cũng có khi họ là những người nông dân chân lấm tay bùn hay là những bà mẹ mỏng dòn và non yếu. Họ sống hết sức thường trong cuộc đời nhưng họ đã minh chứng sự thật, minh chứng tình yêu với Đấng mà họ tin theo. Họ là những người cũng mang trong mình cái phận người yếu đuối của mình nhưng khi minh chứng họ đã minh chứng bằng cả cuộc đời của họ, bằng chính thân xác của họ.

Cuộc đời vẫn là một cuộc giằng co giữa thiện và ác, dữ và lành, yêu và hận thù. Khi còn sống, còn thở ta luôn phải đấu tranh mãnh liệt giữa hai ranh giới đó. Không giản đơn để sống sự thật trước mặt nhan nhản những điều gian dối và cũng không đơn giản để sống yêu thương giữa một thế giới còn quá nhiều hận thù bất công.

Khi và chỉ khi sống chân thật và yêu thương như Thầy Chí Thánh thì mới được thừa hưởng gia nghiệp mà Thiên Chúa đã hứa ban. Thật khó để sống bởi lẽ khoảng cách giữa miệng đến tay tuy gần nhưng thật xa. Thật khó sống bởi lẽ khoảng cách giữa nói và làm là một khoảng cách coi chừng trở nên bất tận.

Chợt nhớ đến tâm tình của nhạc sĩ nào đó gởi đến trong tâm tình bài hát : Tình thương nhiệm mầu :

Xin cho con lòng mến thương để dù đời đắng cay trăm chiều,

cho con yêu một Chúa thôi, để đời sẽ hết nỗi đìu hiu.

Cho con mê say tình Ngài, để tình đời chẳng còn vương vấn.

Dâng mạng sống con cho Ngài, luôn sẵn sàng minh chứng cho tình yêu.

Yêu thương là thế đấy, tình yêu ôi đắm đuối nhiệm mầu.

Yêu con, chính vì yêu con, Chúa đã chết trên đồi vắng.

Con xin hy sinh cuộc tình nguyện theo tiếng Chúa mời gọi.

Dầu có lúc sầu héo hon, xin trung kiên theo Chúa suốt cuộc đời.

Vâng ! Tình yêu thật nhiệm mầu ! Nhiệm mầu hơn nữa đó là chính Tình Yêu chết cho người mình yêu mà người mình yêu là người tội lỗi.

Chỉ khi nào ta chận chân ra rằng ta tội lỗi mà ta được tha thứ, ta được yêu thương thì ta mới có thể tha thứ và yêu thương anh chị em thật lòng ta được.

Giữa những nổi trôi của cuộc đời, giữa một xã hội đầy gian ác và hận thù, chỉ xin Chúa nung nấu tình yêu thương và lòng mến trong lòng ta để ta luôn sống : “một đời lòng ngay không hề gian dối, giữa bao hận thù luôn sống mến yêu”. Có như thế thì sau cõi đời này ta cũng có một chỗ trong hàng ngũ của dòng dõi những người tìm Chúa được.

Anmai, CSsR

Khổ nỗi danh xưng

Khổ nỗi danh xưng

Tạp Ghi

huyp021113


Huy Phương

Khoảng năm 1985, khi nhà văn Đỗ Tấn bị bạo bệnh qua đời tại Saigon, tôi là người có nhiệm vụ đi đăng cáo phó cho anh. Lúc bấy giờ trong thành phố đã đổi tên chỉ có một tờ nhật báo của chế độ mới, đó là tờ “Sài Gòn Giải Phóng”. Sau khi xem qua bản cáo phó viết tay của tôi mang đến, chắc là thấy cái tên người chết có vẻ lạ, nhân viên tòa báo trả lại tờ giấy cho tôi và nói:
– “Ông này có ở trong Hội Nhà Văn không và nếu có, cho tôi xem giấy chứng nhận, tôi mới đăng được!”
Tôi đành mang tờ cáo phó ra về. Trong chế độ này tất cả những thứ như Nghệ sĩ Ưu Tú, Nghệ Sĩ Nhân Dân, Nhà Giáo Nhân dân, thậm chí là Anh Hùng cũng phải được “Nhà Nước” phong tặng, có văn bản đàng hoàng, nói chung là Đảng và Nhà nước giành quyền ấn định danh xưng cho nhân dân.
Trong chế độ này, muốn trở thành nhà văn, nhà thơ, nghệ sĩ phải mang giấy chứng nhận có con dấu của đảng, duy chỉ có một cái giấy chứng nhận cần thiết không nghe ai nói đến là giấy chứng nhận làm người.

Chẳng bù với đời sống ở hải ngoại này, ai muốn có danh xưng nào tùy thích chọn lựa, không hề bị ai hạch hỏi. Một người không biết nói, biết hát, biết đàn, biết vẽ, biết làm thơ viết văn… có thể tự nhận mình là… nghệ sĩ.
Một lần, tôi được giới thiệu với một vị cao niên tình cờ gặp trong quán cà phê, vị này nhoài mình về phía tôi và đưa tay bắt, tự giới thiệu:
– “Tôi là nhà thơ XYZ.”
Ở trong cái thành phố nhỏ “đi dăm phút đã về chốn cũ”, bằng cái lỗ mũi này cái tên nhà thơ này thật tình tôi chưa hề nghe. Nghe nói năm ngoái ông có in một tập thơ, tôi nghĩ như vậy tác phẩm, ở hải ngoại này có thể thay giấy chứng nhận của đảng. Ông cũng có tên trong tác phẩm thi ca “1,000 thi sĩ ở Hoa Kỳ” mà mỗi thi sĩ tự đóng tiền, góp ấn phí, để đem về 50 tập thơ bằng tiếng Anh tặng cho bạn bè.

Trong các loại danh xưng, Bác Sĩ được xếp loại cao nhất.
Danh xưng Bác Sĩ phải ghi trước tên là Dr. và sau là MD như “Dr. Trần Văn A, MD.”
cũng như trong trường hợp “Bác Sĩ Nguyễn Văn B, MD.”
Nhiều vị Bác Sĩ dùng tước vị như là một danh xưng ở ngôi thứ nhất. Trong nhiều chương trình quảng cáo cho các phòng mạch y khoa hay sản phụ khoa, chúng ta thường nghe nhiều vị bác sĩ thường dùng tiếng “Bác Sĩ” thay cho tiếng “Tôi” ở ngôi thứ nhất số ít như “Bác sĩ nói cho em nghe… Bác sĩ khuyên bà nên dùng…” Gọi bệnh nhân gọi vào chương trình hội thoại bằng “em” đã khó nghe, dùng danh xưng bác sĩ thay cho “tôi” hay “chúng tôi” là điều chỉ thấy trong cộng đồng Việt Nam ở hải ngoại.
Trong các tiệm ăn ở gần các bệnh viện, thỉnh thoảng chúng ta thấy nhiều vị bác sĩ, y tá, hoặc nhân viên y tế, mặc đồng phục của bệnh viện ra ăn trưa, nhiều vị bác sĩ còn mang cả ống nghe trên cổ, nghề y quả bận rộn, vất vả!

Danh xưng Giáo Sư nhiều người cho rằng chỉ dùng cho Giáo Sư Đại Học, nhưng thời VNCH, dạy Trung Học đã được gọi là Giáo Sư, vì có ngạch trật là Giáo Sư Trung Học. Hiện nay, người ta dùng danh xưng Giáo Sư quá nhiều, nên rất khó phân biệt là Giáo Sư Trung Học (có bằng Tú Tài II, tốt nghiệp Cao Đẳng Sư Phạm Hà Nội, Đại Học Sư Phạm 3 năm, hay ĐHSP Cấp Tốc 1 năm hay GS Đại Học có bằng Thạc Sĩ, Tiến Sĩ trở lên, có vài ngành chỉ cần có Cử Nhân.
Trong ngôn ngữ Việt Nam, có nhiều nghề được quý trọng và nhân gian thường gọi bằng Thầy như Thầy Địa, Thầy Bói, Thầy Tử Vi, Thầy Bói Dịch, Thầy Tu, Thầy Tụng, Thầy Cúng, Thầy Chùa, Thầy Dùi, Thầy Dạy Nhảy… nhưng nếu diễn nghĩa chữ “Thầy” ra “Giáo Sư” như một vài trường hợp chúng ta thường gặp trên báo chí như Giáo Sư Khiêu Vũ, Giáo Sư Phong Thủy, Giáo Sư Cố Vấn, Giáo Sư Bói Toán nghe khá chướng tai.

Trong các chương trình talk show trên TV, chúng ta thường thấy các danh xưng có vẻ kiêm nhiệm: “Giáo Sư-Nhà Văn”. Hai danh xưng này cái gì quý hay lớn hơn cái kia. Nếu chỉ là một chương trình hội thoại về văn chương, thì nghề giáo sư dạy toán ở trung học không cần thiết phải đưa lên màn ảnh TV hay nhờ xướng ngôn viên giới thiệu về mình. Một bài biên khảo về y học được ký dưới tên một bác sĩ là đúng, nhưng một bài thơ hay một truyện ngắn, mà tác giả cố đem vào trước tên mình cái danh xưng Giáo Sư hay Bác Sĩ là không cần thiết.

Danh từ Viện trong tiếng Hán Viện dùng để chỉ một nơi có tường thành bao bọc như Tu Viện, Viện Hán Học, Kỹ Viện, nhưng ngày nay người ta lạm dụng tiếng Viện dành cho một tiệm uốn tóc chỉ có vài ba người thợ, gọi là Thẩm Mỹ Viện hay Viện Uốn Tóc thật không ổn. Mong rằng rồi đây sẽ không bao giờ có những Viện Sửa Xe Hơi, Viện Dry Clean, Viện Food To Go… ra đời.

Về các cấp bậc trong quân đội trước năm 1975 ở miền Nam, nhiều câu nói khôi hài cho rằng, chúng ta tan hàng nhưng phòng thăng thưởng nhân viên là vẫn còn tồn tại. Bằng chứng là nhiều vị vào lúc tan hàng chỉ mang cấp bậc Đại Úy, nay ra hải ngoại không còn ở quân đội đã 38 năm mà nay vẫn được gọi là Thiếu Tá. Nhiều người chỉ có cấp bậc Trung Tá ngày trước, được thuộc cấp hay bạn bè nịnh hót gọi Đại Tá, lâu ngày nghe quen tai, thay vì một lời cải chính, thì lại “im lặng là nhận lời,” đôi khi tưởng mình là Đại Tá thật.
Nhiều vị lại quá “khiêm nhường” chỉ mới Đại Úy nhưng cho mình xứng đáng mang cấp bậc Thiếu Tá trong các buỗi lễ lược hay tự xưng, với lý do cùng giống nhau là đã có giấy tờ (ai chứng minh) vào những ngày cuối tháng 4-1975 nhưng “chưa kịp gắn lon”, cho nên bây giờ tôi “khiêm tốn” tự gắn cấp bậc mới cho mình.
Đó là chưa nói đến chuyện nhiều vị vẫn thích mặc đồng phục, mang cấp bậc Thiếu Tướng, Đại Tá của một đơn vị không có trong tổ chức của Quân Đội Mỹ cũng như Quân Đội VNCH, kể cả gắn sao lên xe hơi của mình. Đây thật sự là xứ tự do!

Dù là một Phật Tử, thú nhận tôi cũng chưa rành về các danh xưng của Quý Thầy, nên hồi ở TTHL Quang Trung, tôi bị ông Thượng Tọa Trưởng Phòng Tuyên Úy Phật Giáo “cự” vì nhân viên biên tập đã ghi nhầm danh vị của ông là Đại Đức thay vì đúng là Thượng Tọa. Cách đây gần 10 năm, khi viết loạt bài “Chân Dung Một H.O.” cũng vì tưởng lầm Thượng Tọa là danh vị cao nhất (ngồi trên) tôi đã bị Hòa Thượng Hạnh Đạo “mắng yêu”: “Ông Huy Phương, ông hạ chức của Thầy rồi!”

Chúng ta vẫn thường đọc, và nghe trên/trong, những quảng cáo nhiều danh xưng quá nổ và thiếu đức khiêm cung như “Đệ Nhất MC” hay “Lương Y Nguyễn Văn X., chuyên chẩn bệnh, bốc thuốc”… Người đi hát có thể gọi là ca sĩ, nhưng không thể tùy tiện nhận mình là danh ca.

Ở tiệm bán đồ lưu niệm và khắc chữ “Things Remembered” công khắc phải đếm, tính từng chữ một.
Ở bia mộ khi chúng ta qua đời, cũng vậy!

Huy Phương

Hai nhà báo Pháp bị bắt cóc và giết chết tại Mali

Hai nhà báo Pháp bị bắt cóc và giết chết tại Mali

02.11.2013

Bộ Ngoại giao Pháp xác nhận hai nhà báo Pháp bị bắt cóc đã bị giết hôm thứ Bảy tại miền bắc Mali.

Vụ này xảy ra tại thành phố Kidal.

Những tay súng không rõ tung tích đã bắt cóc hai nhà báo, một nam và một nữ một ít lâu sau khi họ kết thúc cuộc phỏng vấn một viên chức thuộc tổ chức ly khai có tên là Phong trào Quốc gia Giải phóng Azawad MNLA.

Một phát ngôn viên của MNLA nói với Đài VOA là ông biết hai nhà báo bị những người bắt cóc giết cách thành phố một khoảng ngắn. Chủ tịch Hội đồng Cách mạng MNLA Attayoub Ag Dataye cho biết các binh sĩ Pháp tại Mali tìm thấy xác 2 nhà báo này.

Một phóng viên của Đài VOA tại Kidal nói là lực lượng Pháp dùng máy bay trực thăng để truy lùng những kẻ bắt cóc.

Hai nhà báo bị giết làm việc cho Đài phát thanh Quốc tế Pháp RFI.

Bốn người đàn ông Pháp được trả tự do vài ngày trước đó sau khi bị bắt làm con tin hơn 3 năm bởi các phần tử chủ chiến có liên hệ đến al-Qaida tại nước láng giềng Niger.

Người người Pháp này bị nhóm al-Qaida tại vùng Hồi Giáo Maghreb bắt vào tháng 9 năm 2010 khi đang làm việc cho công ty hạt nhân Areva của Pháp.

Kidal là cứ địa của MNLA, tổ chức chiến đấu cho một quốc gia Tuareg độc lập tại miền bắc Mali.

Tổ chức này kiểm soát Kidal sau khi lực lượng Pháp và châu Phi đẩy những phần tử chủ chiến Hồi Giáo ra khỏi vùng này trước đây trong năm.

LÒNG CHÚA TÍN TRUNG LÀ KHIÊN CHE THUẪN ĐỠ

LÒNG CHÚA TÍN TRUNG LÀ KHIÊN CHE THUẪN ĐỠ


… Ông bà Laurent và Christel Landete là Cha Mẹ của 6 người con trong đó 2 đứa con đầu mắc một chứng bệnh di-truyền côi-cút không chữa trị được. Cả hai ông bà là y tá chuyên nghiệp. Ông Laurent còn điều hành Cộng Đoàn Emmanuel từ bốn năm qua. Bà Christel ở nhà lo việc nội trợ chăm sóc chồng con. Xin nhường lời cho Ông Bà trình bày Lời Chúa đã hướng dẫn như thế nào giữa cơn thử thách.

Lúc đang đợi đứa con thứ ba thì chúng tôi khám phá ra hai đứa con đầu – 15 tháng và 4 tháng tuổi – bị mắc một chứng bệnh di-truyền côi-cút không chữa trị được. Chứng bệnh này thường biểu lộ bằng những cơn rối loạn thần kinh, giao động trí thông minh và khủng hoảng tâm lý. Hai đứa con chúng tôi phải nằm nhà thương hàng mấy tuần lễ. Quả là cú sét giáng xuống đôi vợ chồng trẻ! Chúng tôi hoàn toàn không chờ không đợi một cú sét kinh hoàng như thế, cho dầu trước đó THIÊN CHÚA đã bí nhiệm chuẩn bị. Bởi vì, trong nhiều năm trời với tư cách y tá phục vụ nơi trung tâm thánh mẫu Lộ-Đức, tôi từng có cơ hội tháp tùng một người tàn tật. Trong khi Christel – hiền thê tôi – có một em gái khuyết tật.

Trong nỗi khổ tâm lại chồng chất thêm những vấn nạn đến từ người thân trong gia đình và bạn bè chung quanh: “Tại sao lại là chúng tôi? Chúng tôi đã phạm lỗi lầm nào khiến bị trừng phạt như thế?”. Thế là chúng tôi tìm nương ẩn trong cầu nguyện và Lời Chúa, đặc biệt trong Thánh Vịnh: ”Không nên nói: tại sao thế! Mọi sự đều được học hỏi đúng thời đúng lúc”. Nói cách khác, không nên đặt câu hỏi ”Tại Sao” nhưng nên hỏi ”Vì cái gì?”. Tư tưởng khôn ngoan này giúp chúng tôi khiêm tốn tìm hiểu – từng bước một – ý nghĩa của mỗi thử thách, dù xuất hiện dưới bất cứ hình thức nào.

Ông Laurent. Tôi còn nhớ một hôm bà hàng xóm hỏi: ”Lỗi tại ai? Tại anh hay tại vợ anh?”. Có lẽ bà vụng về muốn hỏi: ”Ai truyền bệnh cho con cái?”. Ngày hôm sau, trong cầu nguyện, trình thuật Phúc Âm về người mù từ thưở mới sinh quả đã đến với chúng tôi trong cơn sầu khổ: ”Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?”. Đức Chúa GIÊSU trả lời: ”Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của THIÊN CHÚA được tỏ hiện nơi anh” (Gioan 9,2-3).

Câu Chúa trả lời đặt chúng tôi trong một viễn tượng mới, y như thể làm đảo ngược hai thái cực. Chúng tôi có thể tìm thấy – từng bước một – giữa cơn gian nan thử thách của chúng tôi la-bàn hướng dẫn đời sống chúng tôi. Sau kinh nghiệm đau thương ấy, chúng tôi nhận được niềm an bình đích thật, như một chiều kích mới, để đương đầu, để tiếp nhận và để đưa cái thực tế cay đắng mới mẻ này vào cuộc sống thường nhật.

Ngoài ra, điều góp phần tạo thêm niềm an bình đích thật này, đó là chúng tôi không bao giờ bị bỏ rơi đơn độc. Chúng tôi vẫn còn cảm động khi nghĩ đến tất cả những ai đã tạo thành một mạng lưới bác ái vây bọc bao quanh chúng tôi, từ Cộng Đoàn Emmanuel cho đến người thân trong gia đình và nơi cộng đoàn xứ đạo. Ai ai cũng sẵn sàng góp một tay thay thế để chúng tôi có giờ đi tham dự Thánh Lễ hoặc nghỉ ngơi lấy sức.

Bà Christel. Một ngày, người ta không đánh được thuốc mê cho bé Marie để làm một khám nghiệm nên bác sĩ phải cột chặt bé bằng tấm chăn và đặt bé nằm trên bàn. Người ta chỉ trông thấy nhúc nhích cái nắm vú bé ngậm nơi miệng! Thật quá đau lòng. Chồng tôi và bác sĩ xin tôi lui ra khỏi phòng. Thay vì lang thang trên các hành lang bệnh viện tôi bèn vào nhà nguyện để cầu nguyện. Nơi cuối nhà nguyện, tôi trông thấy một cặp vợ chồng thuộc Cộng Đoàn Emmanuel mà tôi mới quen. Tôi đến gần chào và hỏi thăm họ viếng thăm ai nơi nhà thương hoặc có ai trong gia đình bị bệnh không. Họ trả lời: ”Chúng tôi có mặt tại đây là vì chị đấy!”. Câu nói như một vệt dầu thơm tuyệt vời thoa dịu nỗi đau đớn của chúng tôi.

Vào một kỳ tĩnh tâm, ông Jean Vanier nói chúng tôi: Anh Chị có biết câu nói đầu tiên của Đức Chúa GIÊSU KITÔ khi Người sống lại không? Đó là câu: ”Tại sao khóc?”. Đây không phải là câu trách móc nhưng là câu thương cảm. Cũng hơi hơi giống như: ”Chúng tôi có mặt tại đây là vì chị đấy!”.

Ông bà Laurent và Christel Landete. Dĩ nhiên sau đó đặt vấn đề tiếp nhận sự sống. Trong cầu nguyện chúng tôi nhận ra là chúng tôi đã hãm lại – trong con tim cũng như trong lý trí – việc tiếp nhận một đứa con khác. Thời gian này đúng là một ngã tư quan trọng trong liên hệ phu thê của chúng tôi. Chúng tôi đã có hai đứa con bị tàn tật do di truyền. Giờ đây chúng tôi bị đặt trước một chọn lựa, một hành vi đức tin. Giới y khoa khuyên chúng tôi chọn giải pháp ngừa thai hay theo phương thức mà Giáo Hội Công Giáo đề nghị để chúng tôi có thể tiến bước mà không khóa chặt cánh cửa tự do để tiếp nhận hồng ân sự sống. Chúng tôi khám phá ra rằng ngừa thai không xóa bỏ định luật tự nhiên. Nhờ ơn Chúa, mấy đứa con khác của chúng tôi chào đời không vướng phải chứng tàn tật di truyền. Nhưng trước mỗi lần như thế, chúng tôi vẫn hồi hộp chuẩn bị đón nhận một đứa con tàn tật. Đúng là một tiếng gọi đặc biệt. Có lẽ mọi người không nhận được tiếng gọi như thế.

Chúng tôi tin rằng chính giữa lòng cơn gian nan khốn khó và từ nơi nấm mồ mà nẩy sinh sự sống. Chiến thắng sự sống không nằm trong chiến thắng các sức lực nhân trần của chúng tôi mà là trong chiến thắng của Tình Yêu THIÊN CHÚA. Tình Yêu THIÊN CHÚA dành cho kẻ tìm kiếm câu trả lời bằng niềm tin yếu kém của chúng tôi. Sức mạnh của Phục Sinh chỉ chiến thắng trong việc chấp nhận những yếu ớt mỏng giòn, những vết thương và sự dễ bị tổn thương của chúng tôi.

… ”Hỡi ai nương tựa Đấng Tối Cao và núp bóng Đấng quyền năng tuyệt đối, hãy thưa với Chúa rằng: ”Lạy THIÊN CHÚA, Ngài là nơi con nấu ẩn, là đồn lũy che chở, con tin tưởng vào Ngài”. Chính Chúa gìn giữ bạn khỏi lưới kẻ thù giăng, khỏi tai ương tàn khốc. Chúa phù trì che chở, dưới cánh Người, bạn có chỗ ẩn thân: lòng Chúa tín trung là khiên che thuẫn đỡ. Bạn không sợ cảnh hãi hùng đêm vắng hay mũi tên bay giữa ban ngày, cả dịch khí hoành hành trong đêm tối, cả ôn thần sát hại lúc ban trưa. Dù tả hữu có ngàn người quỵ ngã, dù hai bên có chết cả vạn người, riêng phần bạn, tuyệt nhiên không hề hấn .. Bạn sẽ không gặp điều ác hại, và tai ương không bén mảng tới nhà, bởi chưng Người truyền cho thiên sứ giữ gìn bạn trên khắp nẻo đường, và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng cho bạn khỏi vấp chân vào đá. Bạn có thể giẫm lên hùm thiêng rắn độc, đạp nát đầu sư tử khủng long. Chúa phán: ”Kẻ gắn bó cùng Ta sẽ được ơn giải thoát, người nhận biết danh Ta sẽ được sức phù trì. Khi kêu đến Ta, Ta liền đáp lại, lúc ngặt nghèo có Ta ở kề bên. Ta giải cứu và ban nhiều vinh dự, cho sống lâu, tuổi thọ dư đầy và hưởng ơn cứu độ Ta ban” (Thánh Vịnh 91(90)).

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Hàng ngàn thanh niên Hà nội xô đẩy giành ăn sushi miễn phí gây sốc cộng đồng mạng!

Hàng ngàn thanh niên Hà nội xô đẩy giành ăn sushi miễn phí gây sốc cộng đồng mạng!


Đỗ văn Hiền

10/28/2013

Tương lai đất nước và dân tộc Việt Nam rồi sẽ đi về đâu?
Xem hình và vài bài viết này mà thấy nhục nhã do dân mình… Thanh niên sinh viên dưới chế độ Cộng Sản Việt Nam, đi biểu tình chống TC thì không dám đi, nhưng đi giành ăn miễn phí thì hăng say như thế này, hỏi rằng tương lai Việt Nam sẽ đi về đâu???. Phải chăng đây là kết quả của 38 năm dước nền giáo dục Cộng Sản Việt Nam? Xem giới trẻ bây giờ như thế này có nhục không!!!


Hàng ngàn thanh niên Hà nội xô đẩy giành ăn sushi miễn phí gây sốc cộng đồng mạng!

Cảnh tượng các bạn chen lấn xô đẩy nhau quả thật hãi hùng. Có nhất thiết vì miếng ăn mà các bạn phải chen lấn xô đẩy, thậm chí chửi bới dọa nạt nhau thế này không?

HÀ NỘI – Ngày 24/10/2013, hàng nghìn người chen lấn xô đẩy nhau để được thưởng thức sushi miễn phí tại một cửa hàng mới mở tại Hà Nội khiến dân mạng bức xúc. Cảnh tượng chen lấn, xô đẩy lẫn nhau để giành phần ăn diễn ra hàng giờ liền trên con phố Đoàn Trần Nghiệp khiến cho giao thông tắc nghẽn. Nhiều người đi qua nhìn thấy cảnh tượng trên đã lắc đầu ngán ngẩm trước sự “hy sinh vì miếng ăn” của các bạn trẻ.

Bức ảnh chụp lại vụ việc này do một bạn trẻ có nick Jenny tung lên, khiến nhiều dân mạng lên tiếng bức xúc.

Hàng nghìn người chen lấn, xô đẩy để giành ăn sushi miễn phí tại Hà Nội. Ảnh:Jenny

Bạn đọc Minh Thành, sinh viên Học viện Ngân hàng, người tự nhận có mặt tại buổi phát sushi miễn phí nói: “Mình tò mò nên đến để xem nhưng nhìn cảnh các bạn chen lấn xô đẩy nhau quả thật hãi hùng, không dám vào nữa. Có nhất thiết vì miếng ăn mà các bạn phải chen lấn xô đẩy, thậm chí chửi bới dọa nạt nhau thế này không?”.

Bác Vũ Tiến Đông, sống ở khu phố gần đó hài hước: “Bác không được sống ở thời có nạn đói năm 1945 nhưng hôm nay đã được các bạn trẻ tái hiện lại một cách chân thực, sinh động”.

Nickname Nhocty phát biểu: “Ông bà mình nói ko có sai bao giờ cả “Miếng ăn là miếng tồi tàn, mất ăn một miếng lộn gan lên đầu. Nhưng theo mình, bây giờ nên sửa lại là “Miếng ăn là miếng nhục” thì đúng hơn. Toàn là người trẻ tuổi, chắc đều có thể làm ra tiền. Thử hỏi bạn, 1 bữa bạn ăn hết 180 nghìn, vậy bạn chỉ việc bỏ ra 2 ngày đi phát tờ rơi là đi ăn được rồi. Thế mà có cả nghìn người, một con số không tưởng, tụ tập chen chúc chỉ vì miếng ăn, cứ như là sắp chết đói, thật không thể tưởng tượng được”.

Một hướng dẫn viên du lịch tại Hà Nội bày tỏ: “Đang dẫn khách Tây đi thăm thú phố phường thì gặp đúng cảnh tượng này, họ hỏi mà mình không biết phải trả lời thế nào. Người Việt mình đừng tự làm xấu hình ảnh đất nước trong mắt quốc tế.”.

Người Việt bị cấm vào cửa hàng Kaufland ở Praha!

Hôm nay 23-10-2009 đi qua bến đợi xe buýt thấy cửa hàng thực phẩm mới mở. Tò mò, tôi vào xem và tiện mua luôn đồ ăn cho gia đình. Đó là cửa hàng của hãng Kaufland từ Đức đang chiếm lĩnh thị trường Séc bằng những chiêu bài riêng của mình. Việc nhân viên và lãnh đạo loại cửa hàng này kỳ thị người Việt tôi nghe đến nhiều, nhưng hôm nay mới được trực tiếp chứng kiến và vấp phải.

Vị trí khá đẹp nằm ngã tư phố Spojovací, Praha 3 – Žižkov, cửa hàng này khai trương ngày 22/10/2009. Tôi kiếm xe đẩy vào để mua hàng. Vừa bước vào cửa, một tay bảo vệ to lớn như bị thịt, mặt hầm hầm chắn ngay xe của tôi lại và lên giọng “anh chị” không cần ngữ pháp:

– VIETNAMCI ZAKÁZAT!

Với bộ mặt đó thì chỉ có thể hiểu là “Cấm bọn Việt Nam vào”

Lặng người một lát, tôi hỏi lại lý do tại sao. Hắn chẳng cần giải thích dài dòng mà chỉ dằn giọng “mày không được vào”!

Thật là choáng và đắng cay làm sao. Cay đắng, bực, tức, nước mắt tôi tưởng chừng trào ra không kìm nổi. Nhưng không hiểu sao tôi lại có đủ can đảm mà hét vào mặt hắn: “tại sao tôi không được vào?”.

Hắn lại quát to hơn:

– Mày có im đi không? Nếu không tao sẽ gọi cảnh sát đến bây giờ!

Có lẽ ban lãnh đạo cửa hàng Kaufland thuê thằng hộ pháp vô học này chủ yếu để doạ những người Việt nam cần cù nhỏ bé, hiểu ít luật và không thích va chạm. Hắn nghĩ rằng người Việt nào cũng sợ cảnh sát cả! Tôi thách thức:

– Mày cứ gọi ngay cảnh sát đến đi và nhớ gọi luôn cả vedoucí (người phụ trách cửa hàng) nữa.

Mấy “khọm Tây” đi qua lại thêm lời “bài thị” người Việt làm không khí thêm căng thẳng. Trong khi đó tay bảo vệ thứ hai thì khẳng định:

– Bọn Việt Nam không được vào…

Chờ một lúc thì người phụ trách cũng đến. Ông ta hỏi tại sao chúng tôi lại cãi nhau. Tôi liền nói:

– Nếu các ông không muốn người Việt mua hàng tại cửa hàng của các ông thì hãy viết bảng to mà treo lên – CẤM NGƯỜI VIỆT VÀO MUA HÀNG.

Bằng một giọng “xoa dịu” sau những cú “đấm” của tay bảo vệ vô học ông ta phân bua như đã tính toán trước tình huống:

– Nhưng người Việt vào mua hàng nhiều lần quá!

Tôi cự lại:

– Ông cần làm theo luật. Tôi đến đây lần đầu và cần phải mua đồ ăn cho gia đình. Nếu ông không cho tôi vào thì sẽ không xong đâu.

Tay phụ trách xuống nước và đồng ý cho tôi vào, nhưng lúc đó tôi lại không còn tâm trạng nào mà vào cái cửa hàng đó nữa nên bèn quay ra. Bênh cạnh lại diễn ra cảnh tượng tương tự của ngã bảo vệ với một vài người Việt Nam khác: Chặn lại và đuổi ra ngoài.

Ôi! Nhớ lại câu của ai đó viết: Dấn thân làm kiếm con người.. . Làm người Việt Nam càng cay đắng làm sao nhất là nơi đất khách quê người. Kiện ư? Nhờ các cơ quan can thiệp ư?

Nếu các bạn bị tên bảo vệ vô học kia hách dịch, quay đầu xe không cho vào chỉ vì bạn là người Việt Nam, thì bạn sẽ biết cảm giác “dâng trào” đến tận cổ như thế nào…

Praha, ngày 23/10/2009

Ngọc Anh

Video Đức Thánh Cha và chú bé con đang phá kỷ lục trên mạng



Những video quay lại cảnh Đức Thánh Cha Phanxicô xoa đầu một chú bé con trong lúc Ngài ban lời giảng cho các cặp hôn nhân vào đêm thứ Bảy vừa qua đã phá kỷ lục truy cập trên toàn thế giới và nhận được hàng trăm ngàn lời bình luận khen ngợi.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã ban lời giảng về việc giữ gìn hạnh phúc trong cuộc sống gia đình, Ngài khuyên mọi người cần phải biết nói lên 3 lời này là “xin lỗi (Excuse me), cảm ơn (Thank you) và tôi lấy làm tiếc (I am sorry).”

Vào lúc đó thì một chú bé (giấu tên), là con nuôi cuả một cặp ở nước Columbia và là một trong số những đưá trẻ được chọn ngồi gần sân khấu, đã la cà đi lên bục giảng, tới gần Đức Giáo Hoàng và diễu hành xung quanh một cách “rất ư là tự nhiên”.

Có lúc đứa bé leo lên Ngai cuả Đức Giáo Hoàng, lúc khác nó ôm lấy chân Ngài như ôm lấy chân cuả một người cha, và thậm chí nó còn kéo theo một đưá bé gái lớn tới gần bên Đức Giáo Hoàng.

Nhân viên trật tự đã tìm cách lấy kẹo dụ chú bé đi chơi nơi khác, nhưng nó không tha thiết ngoài việc quanh quẩn ở cạnh bên Đức Thánh Cha.

Như một người ông nuông chiều con cháu, Đức Thánh Cha mỉm cười xoa đầu nó và có lúc dạy nó hôn lên cây Thánh Giá của mình.

Những hình ảnh tươi mát như vậy đã được cộng đồng Mạng truyền bá cho nhau lan ra khắp thế giới, cộng thêm những lời khen ngợi quí mến.

50 năm sau cái chết của Tổng thống Ngô Đình Diệm

50 năm sau cái chết của Tổng thống Ngô Đình Diệm

Kính Hòa, phóng viên RFA
2013-10-31

Ngo_Dinh_Diem_-_Thumbnail_-_ARC_542189-305.jpg

TT Ngô Đình Diệm tại Washington DC tháng 8 năm 1957.

Courtesy U.S. Air Force

Ngày 1 tháng 11 năm 1963, một nhóm tướng lãnh quân đội Việt Nam Cộng Hòa ở miền Nam Việt Nam thực hiện cuộc đảo chánh làm sụp đổ chế độ của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Kính Hòa hỏi chuyện một số nhân chứng của thời điểm ấy 50 năm sau.

Người lập ra nền đệ nhất cộng hòa

Nửa thế kỷ đã trôi qua từ ngày bùng nổ cuộc đảo chánh của quân đội Việt Nam Cộng Hòa lật đổ vị Tổng thống của nền đệ nhất cộng hòa tại miền nam Việt Nam. Cuộc đảo chánh kết thúc đẫm máu với cái chết của ba anh em gia đình Tổng thống.

Hồi tưởng lại thời điểm 50 năm trước, nhà báo Trần Phong Vũ, vào thời điểm tháng 11 năm 1963 đang dạy học và làm việc tại đài phát thanh Sài Gòn, hiện đã về hưu và sống ở miền Nam California:

“Thế hệ chúng tôi là những người di cư từ miền Bắc vào miền nam vào lúc đã trưởng thành lúc đất nước bị chia đôi, nếu anh theo dõi các cao trào của đám sinh viên di cư từ miền bắc vào rồi được giúp đỡ rất là nhiều để học hành trở lại, rồi về phía quần chúng đượcc ổn định trong một đời sống rất khó khăn khi bỏ hết tài sản ở miền Bắc, với con số cả triệu người. Tôi nghĩ là trong tâm thức của họ là những ý nghĩ rất tốt đối với vị Tổng thống đã lập ra nền đệ nhất cộng hòa ở miền Nam.”

Tổng thống Ngô Đình Diệm gắn bó rất nhiều với cộng đồng Công giáo di cư từ miền Bắc. Một người Công giáo khác là Linh mục Phạm Trung Thành, Giám tỉnh Dòng Chúa cứu thế TP HCM, vào thời điểm của cuộc đảo chánh hãy còn là một thiếu niên hồi tưởng về sự kiện ngày 1tháng 11 năm 1963,

Ngo_Dinh_Diem_at_Washington_-_ARC_542189-250.jpg

TT Ngô Đình Diệm bắt tay với Tổng thống Mỹ Dwight D. Eisenhower, tại sân bay Dulles, Washington DC năm 1957. Courtesy U.S. Air Force.

“Đó là ấn tượng tuổi thơ của tôi, lúc ấy tôi còn nhỏ mới học hết tiểu học. Gia đình rất là kính trọng và quý mến cố Tổng thống Ngô Đình Diệm. Cha tôi là một công chức nhỏ trong chánh quyền. Các ấn tượng của tôi là suốt một thời gia dài chúng tôi rất hòa bình, sung túc và hạnh phúc. Khi nghe tin chế độ đệ nhất Cộng hòa bị sụp đổ, và Tổng thống Ngô Đình Diệm bị giết chết, gia đình chúng tôi rất là đau lòng. Tôi còn nhớ là mẹ tôi cùng với vài chị em quen biết ngồi đọc kinh cho Tổng thống và khóc rất là nhiều. Lúc đó chúng tôi còn thơ trẻ nhưng có một ấn tượng là có một cái gì đó mất mát rất là lớn. Lúc lớn lên tôi cũng cảm nhận được sự mất mát đó. Tôi vẫn nhớ lại thủa sống bình an yên lành, những gì mà cố Tổng thống Ngô Đình Diệm và những cộng sự xây dựng cho miền nam này.”

Sự tiếc thương đó của những người công giáo kéo dài cho đến 50 năm sau. Những buổi lễ tưởng niệm ngày mất của cố Tổng thống được các cộng đồng công giáo hải ngoại tổ chức hàng năm.

Phải tha thứ, phải cảm thông

Song cũng có những tiếng nói khác. Một viên chức cao cấp của chế độ Việt Nam Cộng Hòa, hiện sống ở Hoa Kỳ, không muốn nêu tên, thì lại nói rằng dù cái gì diễn ra đi nữa thì việc sử dụng Dụ số mười đối với cộng đồng Phật giáo như một sự kỳ thị vào nửa đầu năm 1963 là không thể chấp nhận, trong một quốc gia mà cộng đồng Phật giáo là đa số.

Ai làm gì thì thú thật tôi có đọc, có xem, có nghiên cứu nhưng tâm hồn của tôi thì tôi muốn nói rằng tôi phải tha thứ, phải cảm thông.
-LM Phạm Trung Thành

Ông nói tiếp rằng những tranh cãi nhau về sự kiện này giữa những người Việt không cộng sản với nhau vẫn còn. Nhà báo Trần Phong Vũ nói về việc tranh cãi này:

“Chuyện tranh cãi ấy là có thật. Cái phản ứng đó cũng dễ hiểu thôi. Những người Việt Nam chúng ta không có dữ kiện trong tay một cách đầy đủ, rồi có thiên kiến, rồi cũng có khi do những quan điểm đấu tranh khác nhau mà dẫn tới việc tranh giành mọi thứ về phía mình rồi dẫn tới chuyện tranh cãi.”

Trong khi đó Linh Mục Phạm Trung Thành từ TP HCM nêu ý kiến của ông rằng nên tha thứ:

“Tôi không muốn quan tâm đến ai, hay những nguyên nhân nào đã làm hại Tổng thống. Dưới cái nhìn của một tu sĩ thì tôi cho rằng Tổng thống đã qua một con đường khổ giá cho sự yêu mến giáo hội, đất nước, dân tộc. Còn ai làm gì thì thú thật tôi có đọc, có xem, có nghiên cứu nhưng tâm hồn của tôi thì tôi muốn nói rằng tôi phải tha thứ, phải cảm thông. Tôi không thể có một nhận định nào nặng nề, tiêu cực về phía đó.”

Liệu lớp bụi thời gian 50 năm có làm tan đi được tranh cãi, khoảng cách nửa thế kỷ có làm cho sự cảm thông của Linh Mục Phạm Trung Thành lan tỏa!

Khiêm nhu

Khiêm nhu


Lm Vũđình Tường

10/23/2013

Hai tuần trước Kinh Thánh dẫn dắt con người cầu nguyện bằng tâm tình tạ ơn. Chúng ta luôn phải tạ ơn Thiên Chúa vì những ơn nhận được. Tuần qua Kinh Thánh lại nhắc đến một yếu tố quan trọng trong cầu nguyện nữa đó là kiên tâm bền chí trong cầu nguyện ngay cả khi chúng ta cảm thấy chán nản, mệt mỏi mong chờ nhưng đừng nản chí, cần nhẫn nại, kiên tâm. Hôm nay Kinh Thánh đưa ra một điều cần nữa cho cầu nguyện đó là tâm tình khiêm nhu. Tấm lòng khiêm nhu dẫn chúng ta đến gần Chúa. Lối suy nghĩ hoặc tư tưởng của ta dẫn ta đến gần Chúa hơn hay là dẫn chúng ta xa lìa Thiên Chúa. Ba yếu tố cần có khi cầu nguyện là: tâm tình tạ ơn, kiên tâm trong cầu nguyện và tấm lòng khiêm nhường.

Dụ ngôn người Biệt Phái và người thu thuế cho thấy không phải những lời chúng ta nói nơi cửa miệng mà chính là điều không nói, tâm tư thầm kín, sâu thẳm trong tâm hồn con người mới là điều quan trọng. Đức Kitô xác nhận cảm xúc trong tâm hồn, trong tim ta là điều Ngài quan tâm hơn cả. Thiên Chúa đến ngự trong tấm lòng khiêm nhu, biến tấm lòng đó ra thanh khiết và trở thành đền thờ Thánh Thần Chúa. Điều này chính Đức Trinh Nữ Maria dậy chúng ta khi Mẹ dâng lời tạ ơn trong kinh Magnificat.

Linh hồn tôi ngợi khen Chúa và thần trí tôi vui mừng trong Thiên Chúa Đấng cứu chuộc tôi bởi Người đã nhìn đến tôi tớ hèn mọn.
Người hạ khỏi ngai vàng kẻ tự cao, tự đại và nâng người hèn mọn lên Lc 1,46tt


Khiêm nhu trong tấm lòng là điều Thiên Chúa mon muốn. Dụ ngôn hôm nay chính là nói về cầu nguyện chân thành phải xuất phát tự tâm. Kẻ tự cao, tự đại làm phật lòng Thiên Chúa và làm phiền lòng người khác và đó là điều sai trái, cần tránh. Kiêu căng thường tự đánh giá mình hơn người, tự cho mình hơn người và dẫn đến chối bỏ ơn Chúa trong tâm hồn. Chối bỏ ơn Chúa sẽ sống ngoài tình Chúa yêu thương. Họ không nhận biết khuôn mặt Đức Kitô trong những người anh em khác và họ cũng không chấp nhận giáo huấn căn bản Chúa dậy là mọi người bình đẳng trước mặt Thiên Chúa vì tất cả đều là tạo vật do Chúa tạo thành.

Dụ ngôn cho thấy kẻ kiêu căng không cần Thiên Chúa. Người đó đến trước Thiên Chúa với cái tôi của mình. Nhận ơn Ngài ban nhưng không biết sống tâm tình tạ ơn. Trái lại anh ta cho đó là do tài năng riêng của anh có được. Anh tự kiêu đứng trước thánh điện, nơi trang nghiêm trong đền thờ, đứng thẳng kể ra công lao, thành tích của mình. Đức Kitô cho biết tư tưởng kiêu ngạo, tự cao, tự đại không thể đến gần Thiên Chúa. Trái lại tấm lòng khiêm cung, lời nói chân thành đến tự tâm lọt vào trái tim tràn đầy yêu thương của Thiên Chúa. Trái lại người thu thuế tự nhận mình có tội, sai trái không dám ngẩng mặt lên Thiên Chúa nhưng cúi sâu xuống thống hối, ăn năn. Chính tâm tình này mà Đức Kitô xác nhận lời cầu của anh được Thiên Chúa đón nhận. Anh biết mọi sự anh có đều là ơn Chúa ban và sống tâm tình tạ ơn.

Đức Kitô cảnh cáo chúng ta về kiêu ngạo. Kẻ kiêu ngạo bị hình ảnh kiêu căng làm mờ tầm nhìn và nhận biết sai lầm về tình yêu Chúa cũng như tài năng chính mình. Khiêm nhường là cách sống đẹp lòng Chúa và chính khiêm nhường là cửa ngõ đón Chúa vào trong tâm hồn mình. Người khiêm nhường nhận biết con người bất toàn và xin ơn thứ tha.

Lm Vũđình Tường
TiengChuong.org

VỀ SỰ TIỀN ĐỊNH CỦA Thiên Chúa VÀ VỀ TỘI LỖI CỦA CON NGƯỜI

VỀ SỰ TIỀN ĐỊNH CỦA Thiên Chúa VÀ VỀ TỘI LỖI CỦA CON NGƯỜI

(ĐỐI THOẠI NĂM ĐỨC TIN)

Lm. Đan Vinh

10/30/2013

VẤN ĐÊ 20 A:

Tin có Thiên Chúa sẽ làm cho con người trở nên ỷ nại, chấp nhận hoàn cảnh hiện tại vì tin mọi sự xảy ra đều do Chúa định, mà không cố gắng vượt qua số phận để đạt tới một cuộc sống ấm no hạnh phúc hơn.

GIẢI ĐÁP :

1.Ý nghĩa của hai chữ “Chúa định” là gi ? :

Người Công Giáo thường nói: “Mọi sự đều do Chúa định”. Vậy phải chăng con người không có tự do quyết định vận mệnh của mình ? Phải chăng con người sẽ trở thành nô lệ cho một vị Thiên Chúa độc đoán, và họ chỉ còn biết ỷ nại vào sự định đoạt của Thiên Chúa, mà không có thể vượt qua số phận bất hạnh gặp phải, hầu đạt tới một cuộc sống ấm no hạnh phúc hơn ?

1) Thế nào là “Chúa định”: Chúa định hhông đồng nghĩa với tất định như có người lầm tưởng, mà chỉ có nghĩa là biết trước, thấy trước những gì xảy ra.

Nếu thực sự Thiên Chúa định đoạt tất cả mọi việc lớn nhỏ trong vũ trụ thiên nhiên, định đoạt só phận của nhân loại và cá nhân mỗi người… mà dù muốn dù không chúng ta buộc phải chấp nhận, thì khi ấy con người không khác chi một cái máy vô hồn, hoặc như thú vật hoạt động hoàn tòan theo bản năng hay như một trẻ thơ ấu trĩ chỉ biết hoàn toàn cậy nhờ vào sự bao bọc của cha mẹ… đúng như có người đã chỉ trích nói trên.

Nhưng trong thực tế, ai trong chúng ta cũng đều ý thức về sự tự do của mình: tự do làm hay không làm một việc nào đó, tự do quyết định làm một việc tốt hay làm điều xấu. Ai cũng cảm thấy mình có khả năng làm chủ vận mệnh cuộc đời của mình chứ không phó mặc hoàn toàn cho số phận may rủi. Vậy hai chữ “Chúa định” chỉ có nghĩa là sự quan phòng của Thiên Chúa. Ngài tạo dựng nên muôn loài muôn vật và hằng quan tâm săn sóc để chúng tồn tại và tiến hóa theo các định luật thiên nhiên như Ngài đã an bài. Thiên Chúa là Đấng sáng tạo ra không gian và thời gian trong vũ trụ, nên Ngài không ở trong không gian và thời gian, cũng không bị lệ thuộc vào không gian thời gian ấy. Nơi Thiên Chúa không có quá khứ hay tương lai, nhưng luôn là hiện tại. Thiên Chúa nhìn thấu suốt mọi sự đã xảy ra trong quá khứ, đang xảy ra trong hiện tại và sắp xảy ra trong tương lai trong một cái nhìn “hic et nunc” (ở đây và bây giờ). Ngài nhìn thấu suốt vận mệnh của nhân loại nói chung và cá nhân mỗi người chúng ta trong một cái nhin. Ngài hằng quan tâm săn sóc, ban ơn giúp đỡ như một người cha yêu thương con cái để ban ơn cứu độ cho họ như thánh Phao-lô đã viết trong thư Ti-mô-thê: Trước hết tôi khuyên ai nấy dâng lời cầu xin khấn nguyện nài van, tạ ơn cho tất cả mọi người, cho vua chúa và tất cả những người cầm quyền, để chúng ta được an cư lạc nghiệp, mà sống thật đạo đức và nghiêm chỉnh. Đó là điều tốt và đẹp lòng Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, Đấng muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý” (1 Tm 2,4). Tuy nhiên, dù muốn cứu độ hết mọi người nhưng Thiên Chúa cũng tôn trọng tự do quyết định làm hay không làm, làm điều tốt hay điều xấu, nên họ phải chịu trách nhiệm về việc làm của họ. Cho nên thánh Au-gút-ti-nô đã nói: “Thiên Chúa đã dựng nên chúng ta mà không cần sự cộng tác của chúng ta; nhưng Ngài không thể cứu chuộc chúng ta, nếu chúng ta không cộng tác với Ngài”.

2)Thiên Chúa quan phòng tiền định theo sách Tin mừng:

Trong Tin mừng, Đức Giê-su nhiều lần nhắc đi nhắc lại việc Chúa Cha hằng quan tâm săn sóc tất cả mọi tạo vật nhất là loài người là dưỡng tử của Ngài:

a)Thiên Chúa yêu thương săn sóc mọi loài:

-“Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho. Thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao ? Hỏi có ai trong anh em có thể nhờ lo lắng mà kéo dài đời mình thêm được, dù chỉ một gang không ? Còn về áo mặc cũng thế, lo lắng làm gì ? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà rút ra bài học: Chúng không làm lụng, không kéo sợi. Thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: Ngay cả vua Sa-lô-môn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy. Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em. Ôi những kẻ kém tin !” (Mt 6, 26 – 30).

-“Hai con chim sẻ chỉ bán được một xu phải không ? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em” (Mt 10,29).

-Đức Giê-su đáp: “Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc” (Ga 5,17).

b)Thiên Chúa đặc biệt săn sóc loài người:

-“Thì đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi. Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ” (Mt 10,30-31).

-“Như vậy anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt 5,45).

Như vậy, người tín hữu tin “Chúa định” cũng là tin “Chúa biết trước”: Ngài hằng săn sóc mọi loài mọi vật do ngài đã dựng nên, đặc biệt là loài người chúng ta. Một khi tin chắc vào sự quan phòng của Thiên Chúa, người tín hữu sẽ thêm lòng tin cậy mến, thể hiện qua thái độ năng tạ ơn Chúa và cầu xin Ngài ban ơn để được cứu độ.

Tuy nhiên, có người lại đặt vấn đề: Phải chăng tin có Thiên Chúa tiền định, quan phòng biết trước như thế sẽ làm cho con người trở thành ỷ nại, không muốn làm việc để làm chủ thiên nhiên, vượt qua vận mệnh của mình để đạt tới một đời sống ấm no hạnh phúc hơn ?

2.Đức tin không tiêu diệt sự làm việc và ý chí tự do của con người:

Tin vào sự quan phòng, biết trước của Thiên Chúa không những không làm cho con người ỷ nại vào sự sắp xếp của Thiên Chúa, nhưng trái lại, còn thúc đẩy con người cố gắng làm việc nhiều hơn để làm chủ thiên nhiên và làm chủ vận mệnh của mình như sau:

a)Dựa vào Lời Chúa trong Thánh Kinh:

-Con người được tạo dựng khác hẳn mọi loài khác: Mở sách Sáng thế, ta đọc thấy: Thiên Chúa đã ưu đãi con người, chỉ tạo nên con người sau khi đã chuẩn bị sẵn sàng mọi sự: Dựng nên vũ trụ để làm chỗ cho con người trú ẩn; Dựng nên các sinh vật như thảo mộc hoa màu để làm thức ăn nuôi sống và dựng nên muôn thú vật để làm bạn với con người; Vũ trụ và muôn vật phải tuân theo định luật hay bản năng thiên nhiên (Stk chương 1 và 2), đang khi con người được phú cho linh hồn thiêng liêng với hai tài năng là trí khôn suy nghĩ và ý chí tự do vượt trổi mọi loài vật khác: “Chúa phán: Ngươi được ăn mọi thứ cây trong vườn, nhưng cây biết lành biết dữ thì đừng ăn, vì ngày nào ngươi ăn vào thì ngươi sẽ phải chết” (Stk 2,7; 2,16). Con người có trí khôn hiểu biết sự lành sự dữ, đồng thời còn có ý chí tự do quyết định: làm hay không làm, chọn làm lành để được phúc và chọn làm ác sẽ phải chết.

-Các khả năng khác: Ngoài trí khôn và ý muốn nói trên, con người còn được Thiên Chúa ban cho có tay chân với khả năng làm việc hữu hiệu dưới sự điều động của trí khôn hơn mọi loài. Ngài cũng trao cho con người quyền làm bá chủ vũ trụ vạn vật như sách Sáng Thế ghi lại: “Thiên Chúa ban phúc lành cho họ, và Thiên Chúa phán với họ: ‘Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời, và mọi giống vật bò trên mặt đất’. Thiên Chúa phán: “Đây Ta ban cho các ngươi mọi thứ cỏ mang hạt giống trên khắp mặt đất, và mọi thứ cây có trái mang hạt giống, để làm lương thực cho các ngươi. Còn đối với mọi dã thú, chim trời và mọi vật bò dưới đất mà có sinh khí, thì Ta ban cho chúng mọi thứ cỏ xanh tươi để làm lương thực. Liền có như vậy” (St 1,28-30).

Qua đó, Thiên Chúa đã sáng tạo vũ trụ vạn vật và đặc biệt ưu đãi đối với con người. Ngài ban cho họ có tay chân và hai tài năng siêu việt là lý trí suy luận và ý chí tự do là nhằm khuyến khích họ hãy làm việc, chứ không khoanh tay ngồi chờ, ỷ nại vào Thiên Chúa, giống như loài thú vật hoạt động theo bản năng, hoặc như vũ trụ vô tri vô giác, hoàn toàn tuân theo các định luật thiên nhiên cách máy móc.

b)Dựa vào sự hợp lý:

Một tín hữu tin có Thiên Chúa, tin rằng sau cuộc sống trần gian hôm nay vẫn còn một cuộc sống khác tồn tại vĩnh hằng… thì chắc chắn ngay từ cuộc sống hiện tại đã phải cố gắng làm việc, phải ăn ở lương thiện hơn những người bất tín, không chấp nhận có Đấng Tạo Hóa sẽ phán xét công minh, cũng không tin có sự thưởng phạt thiên đàng hỏa ngục đời sau… Vì người tin vào sự hiện hữu của Thiên Chúa sẽ có động lực thúc đẩy hăng hái làm việc, có lòng mến yêu và sự ao ước được về với Thiên Chúa sau khi chết, đang khi người vô tín sống không có lý tưởng, hoặc nếu có thì chỉ nhắm những mục đích mang tính vụ lợi ích kỷ… họ chỉ biết làm ra nhiều tiền, rồi lại dùng tiền ấy để thỏa mãn những đam mê lạc thú tầm thường mà thôi.

TÓM LẠI: Tin có Thiên Chúa không những không làm cho con người lười biếng, ỷ nại vào một quyền lực siêu phàm bên ngoài, mà trái lại, chính niềm tin ấy lại là động lực thúc đẩy người tín hữu làm việc nhiều hơn để làm chủ thiên nhiên, và cố gắng sống lương thiện ăn ngay ở lành để hy vọng sẽ được hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa trên thiên đàng đời sau. Trái lại, những người không tin có Thiên Chúa sẽ chỉ biết hưởng thụ, chỉ đi tìm lợi lộc vật chất cho mình dù phải sử dụng phiương thế bất nhân thất đức. Họ sẽ trở thành những kẻ nguy hiểm cho xã hội, vì không tin có sự thưởng phạt đời sau. Na-pô-lê-ông Đại Đế cũng nói tương tự: “Một dân tộc không có niềm tin tôn giáo sẽ phải được cai trị bằng sung đạn, nhà tù và bạo lực !”

PHÚT HỒI TÂM:

-LỜI CHÚA:

Đức Giê-su nói: “Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho. Thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao ? Hỏi có ai trong anh em có thể nhờ lo lắng mà kéo dài đời mình thêm được, dù chỉ một gang không ? Còn về áo mặc cũng thế, lo lắng làm gì ? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà rút ra bài học: Chúng không làm lụng, không kéo sợi. Thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: Ngay cả vua Sa-lô-môn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy. Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em. Ôi những kẻ kém tin !” (Mt 6,26-30).

-LỜI CẦU:

Lạy Thiên Chúa Cha giàu lòng từ bi thương xót. Cha đã dựng nên muôn vật muôn loài để chuẩn bị trước khi dựng nên loài người chúng con. Cha lại còn an bài để mọi tạo vật có thể tồn tại trong trật tự và ngày một tiến hóa theo thánh ý Cha. Đặc biệt Cha đã thương yêu săn sóc loài người là dưỡng tử của Cha và trao quyền làm chủ mọi loài. Rồi khi nguyên tổ phạm tội phải chịu án chết, Cha lại hứa ban Đấng Cứu Thế là Giê-su Ki-tô. Xin giúp chúng con tin vào Con Cha là Đức Giê-su và noi gương Người sống tình con thảo với Cha và tình huynh đệ với nhau, đồng thời quyết tâm theo con đường “Qua đau khổ vào trong vinh quang” của Người, hầu sau này được về thiên đàng hưởng hạnh phúc đời đời với Người. A-MEN.

LM ĐAN VINH – HHTM

VẤN ĐỀ 20 B:

Không có tội lỗi theo nghĩa tôn giáo. Chỉ có những lỗi lầm đối với xã hội như lười biếng, hèn nhát, ích kỷ… mà thôi.

GIẢI ĐÁP :

1.Thế nào là tội lỗi theo nghĩa tôn giáo ?

Giáo lý Công Giáo dạy rằng: Tội là khi cố tình lỗi giới răn của Thiên Chúa, hay lỗi các điều răn Hội Thánh dạy biểu lộ thánh ý của Thiên Chúa.

Lỗi giới răn Thiên Chúa là tội thực sự vì:

-Là một hành động phản nghịch: một người cố ý không tuân giữ luật lệ của quốc gia có tội với quốc gia thế nào, thì một người cố tình lỗi giới răn Thiên Chúa cũng có tội với Ngài như vậy, vì chống lại thánh ý của Ngài.

-Là một hành vi bất hiếu: cũng như con cái không vâng lời cha mẹ dạy dỗ… là một đứa con bất hiếu thế nào, thì một người cố tình không tuân giữ các giới răn của Thiên Chúa cũng là đứa con bất hiếu với Ngài như vậy.

2.Những hành vi nào là có tội?

Đức Giê-su đã thâu tóm tất cả mọi giới răn của Thiên Chúa trong hai điều này: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn lớn nhất và điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai cũng giống điều răn ấy, là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điểu răn ấy” (Mt 22,37-40).

Do đó, tất cả những hành vi nào cố tình lỗi hai giới răn mến Chúa yêu người nói trên đều có tội: Những lỗi lầm đối với xã hội như: lười biếng, hèn nhát, ích kỷ, gian dối bất công… là những tội lỗi giới răn “yêu người thân cận như chính mình”, nên đều có tội và đáng bị trừng phạt. Tuy nhiên, cả những tội bất hiếu với Thiên Chúa, cố tình nhắm mắt bịt tai để khỏi nhận biết những kỳ công của Ngài mà tin thờ Ngài cũng là tội bất hiếu nặng nề nữa. Đến ngày tận thế, khi mọi người được sống lại và chịu phán xét chung, những người cố tình không tin sẽ không tránh khỏi hình phạt cân xứng với tội cứng lòng của họ như lời Đức Giê-su nói với các người Pha-ri-sêu trong Đền thờ rằng: “Các ông chớ ngạc nhiên về điều này vì “Giờ” đã đến. “Giờ” mọi kẻ ở trong mồ sẽ nghe tiếng người Con và sẽ ra khỏi đó. Ai đã làm điều lành thì sẽ sống lại để được sống. Ai đã làm điều dữ, thì sẽ sống lại để bị kết án” (Ga 5,28–29).

Đức Giê-su cũng cảnh báo về các hình phạt những kẻ cứng lòng tin sẽ phải chịu như sau: “Tôi đã nói với các ông là: các ông sẽ mang tội lỗi mình mà chết. Thật vậy, nếu các ông không tin là Tôi Hằng Hữu, các ông sẽ mang tội lỗi mình mà chết” (Ga 8,24). Chết ở đây là cái chết do bị mất ơn cứu độ và phải chịu hình phạt đời đời trong hỏa ngục, chung số phận với ma quỷ như Đức Giê-su sẽ phán với những kẻ ở bên trái rằng: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta, mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó” (Mt 25,41).

PHÚT HỒI TÂM:

LỜI CHÚA:

Chúa Giê-su nói: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái. Vì không có Thầy anh em chẳng làm gì được. Ai không ở lại trong Thầy, thì bị quăng ra ngoài như cành nho, và sẽ khô héo. Người ta nhặt lấy, quăng vào lửa cho nó cháy đi” (Ga 15,5-6).

LỜI CẦU:

Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã nói rằng: “Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy, để niềm vui của Thầy ở trong anh em, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn”. Xin mở lượng hải hà xoá bỏ các tội của con. Xin tạo cho con quả tim trong sạch và gìn giữ con đừng cố tình phạm tội, để tâm hồn con luôn thanh sạch, hầu xứng đáng là đền thờ của Thiên Chúa và luôn được ở trong tình thương của Ngài. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời. A-MEN.

LM ĐAN VINH – HHTM