Toàn Văn Sứ Điệp Mùa Chay Năm 2013

Toàn Văn Sứ Điệp Mùa Chay Năm 2013

nguồn:Thanhlinh.net

Tin trong Đức Mến khơi dậy lòng Bác ái

“Chúng ta đã biết và đã tin vào tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta.” (1
Ga 4, 16)

Anh chị em thân mến,

Cử hành Mùa Chay trong bối cảnh Năm Đức Tin cho chúng ta cơ hội quý giá để suy
niệm về mối tương quan giữa đức tin và đức ái: giữa tin vào Thiên Chúa – Thiên
Chúa của Đức Giêsu Kitô – và tình yêu, là hoa trái của Chúa Thánh Thần vốn
hướng dẫn chúng ta trên con đường dâng hiến cho Thiên Chúa và tha nhân.

1. Đức tin như một lời đáp lời tình yêu Thiên Chúa

Trong Thông điệp đầu tiên của mình, tôi đã đưa ra một vài suy tư về mối tương
quan gần gũi giữa hai nhân đức đối thần: đức tin và đức ái. Khởi đi từ một
khẳng định nền tảng của Thánh Gioan: “Còn chúng ta, chúng ta đã biết tình yêu
của Thiên Chúa nơi chúng ta, và đã tin vào tình yêu đó” (1 Ga 4,16). Tôi nhận
xét rằng: “Khởi đầu cho cuộc sống Kitô hữu không phải là một quyết định đạo đức
hay một tư tưởng vĩ đại, nhưng là sự gặp gỡ với một biến cố với một Con Người,
Đấng đem lại cho đời sống chúng ta một chân trời mới và một định hướng dứt
khoát.…Vì Thiên Chúa đã yêu chúng ta trước (x. Ga 4,l0), nên tình yêu không còn
là một “giới luật”, nhưng là lời đáp trả cho hồng ân “tình
yêu” qua đó Thiên Chúa đến gặp gỡ chúng ta. (Thiên Chúa là Tình Yêu, số
1). Đức tin là một sự gắn kết cá nhân, bao gồm toàn thể khả năng của chúng ta,
với mạc khải tình yêu vô điều kiện và thương xót của Thiên Chúa, được mạc khải
trọn vẹn nơi Đức Kitô. Cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa là Tình yêu không chỉ hệ tại
ở con tim nhưng bao gồm cả lý trí: “Việc nhận biết Thiên Chúa hằng sống là con
đường đi đến tình yêu và tiếng thưa vâng của ý chí chúng ta đối với ý muốn của
Người kết hợp sự hiểu biết, ý chí và cảm xúc trở thành một hành động trọn vẹn
của tình yêu. Đây rõ ràng là một tiến tình vẫn luôn chuyển động: tình yêu không
bao giờ “kết thúc” và trọn vẹn được” (ibid., số 17). Vì thế, mọi Kitô
hữu, đặc biệt là những ai “lao tác cho đức ái”, cần đức tin vì “họ cần được
hướng dẫn đến gặp gỡ Thiên Chúa trong Đức Kitô, cuộc gặp gỡ này sẽ đánh thức
tình yêu trong họ và mở rộng con tim của họ cho tha nhân, đến độ tình yêu tha
nhân đối với họ không còn là một giới răn được thiết đặt tự bên ngoài, nhưng đó
là bước tiếp nối của đức tin, chính đức tin đó: hoạt động trong tình yêu
(ibid., 31a). Kitô hữu là những người được tình yêu Thiên Chúa khuất phục và do
đó, dưới tác động của tình yêu – “Tình yêu Đức Kitô thúc bách tôi” (Caritas
Christi urget nos)
(2 Cr 5,14) – họ mở ra để yêu mến tha nhận một cách
trọn vẹn trong những việc làm cụ thể (Ibid, 33). Thái độ này chính yếu nảy sinh
từ việc ý thức mình được yêu, được tha thứ và thậm chí là được phục vụ bởi
Thiên Chúa, Đấng đã cúi mình để rửa chân cho các Tông đồ và đã trao hiến chính
mình trên Thập giá để đưa dẫn con người về với tình yêu Thiên Chúa.

“Đức tin chỉ cho chúng ta Thiên Chúa, Đấng đã ban Con của Người cho chúng ta và
ban cho chúng ta niềm xác tín bất khuất: Thiên Chúa là tình yêu! … Niềm tin, ý
thức tình yêu của Thiên Chúa tự tỏ lộ nơi trái tim bị đâm thâu của Đức Giêsu
trên thập giá, niềm tin đến phiên mình sẽ làm nảy sinh tình yêu. Tình yêu là
ánh sáng – cuối cùng là ánh sáng duy nhất – sẽ làm cho một thế giới đen tối
được sáng trở lại và ban cho chúng ta sự can đảm để sống và để hành động”
(Ibid., 39). Tất cả điều này giúp chúng ta hiểu rằng điều làm cho đời sống của
người Kitô hữu trở nên trổi vượt chính là vì “tình yêu được đặt nền tảng trên
đức tin và được nhào nặn bởi đức tin” (ibid., số 7).

2. Đức mến như một cuộc sống trong đức tin

Toàn thể đời sống Kitô hữu là một lời đáp lại tình yêu của Thiên Chúa. Lời đáp
đầu tiên là việc đón nhận đức tin, đầy ngỡ ngàng và biết ơn, đối với một sáng
kiến chưa từng có của Thiên Chúa, đi trước và gọi hỏi chúng ta. Và tiếng xin
vâng của đức tin đánh dấu một sự khởi đầu cho một lịch sử chói sáng về tình bạn
với Thiên Chúa vốn đổ đầy và trao ban một ý nghĩa trọn vẹn cho toàn bộ đời sống
con người. Nhưng đối với Thiên Chúa, nếu chúng ta chỉ đơn thuần đón nhận tình
yêu nhưng không của Ngài thì không đủ. Ngài không chỉ yêu thương chúng ta, Ngài
còn muốn lôi kéo chúng ta đến với Ngài, để biến đổi chúng ta một cách sâu xa
đến nỗi như thánh Phaolô, chúng ta có thể thốt lên rằng: “Tôi sống, nhưng không
còn là tôi, mà là Ðức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20).

Khi chúng ta dọn chỗ cho tình yêu Thiên Chúa, thì chúng ta trở nên giống Ngài
và chia sẻ chính đức ái của Ngài. Nếu chúng ta mở lòng mình ra cho tình yêu ấy,
chúng ta cho phép Ngài sống trong chúng ta và làm cho chúng ta yêu mến Ngài,
trong Ngài và trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài. Chỉ khi đức tin của chúng
ta “hành động nhờ đức ái” (Gl 5,6), thì Thiên Chúa mới thực sự ở trong chúng ta
(xem 1 Ga 4,12).

Đức tin nhận biết chân lý và gắn chặt với chân lý (x. 1 Tm 2,4); đức ái là bước
đi trong chân lý (x. Ep 4,15). Nhờ đức tin, chúng ta đi vào mối tương quan tình
bạn với Thiên Chúa, qua đức ái, mối tình này được sống động và được dưỡng nuôi
(x. Ga 15,14). Đức tin làm cho chúng ta ôm ấp lệnh truyền của Thiên Chúa và của
Thầy; đức ái trao ban cho chúng ta niềm vui khi chúng ta thực hành lệnh truyền
ấy (x. Ga 13,13-17). Trong đức tin, chúng ta được sinh ra với tư cách là con
Thiên Chúa; với đức ái, chúng ta gìn giữ mối tình con thảo của chúng ta với
Ngài và trổ sinh hoa trái của Chúa Thánh Thần (x. Gl 5,22). Đức tin giúp chúng
ta nhận ra những quà tặng mà Thiên Chúa tốt lành và quảng đại tặng ban cho ta;
đức ái làm cho những món quà ấy trổ sinh hoa trái (x. Mt 15,14-30).

3. Mối liên kết bất khả phân ly giữa đức tin và đức ái

Trong ánh sáng này, rõ ràng chúng ta không thể tách rời hoặc đối nghịch giữa
đức tin và đức ái. Hai nhân đức đối thần này liên kết mật thiết với nhau, và
thật sai lầm khi đặt chúng trong một tương quan đối nghịch hay “biện chứng”.
Trái lại, chúng ta cũng cần tránh việc quá nhấn mạnh đến sự ưu tiên và tầm quan
trọng quyết định của đức tin đến độ coi nhẹ và hầu như coi thường những công
việc bác ái cụ thể, coi chúng chỉ là những hành vi nhân đạo tổng quát mà thôi.
Trái lại, chúng ta cũng không nên quá phóng đại vị trí ưu việt của đức ái và
những hoạt động của đức ái, như thể là việc làm có thể thay thế đức tin. Một
đời sống thiêng liêng trưởng thành cần tránh hai thái cực trên, cần phải xa
tránh thuyết duy tín (fidéisme) cũng như thái độ duy hoạt động về luân lý
(moral activism).

Đời sống Kitô hữu hệ tại ở việc liên lỉ lên núi để gặp Chúa, để rồi “hạ sơn”,
tựa nương vào tình yêu và sức mạnh đã kín múc nơi Ngài, phục vụ anh chị em với
tình yêu của chính Thiên Chúa. Trong Kinh Thánh, chúng ta thấy lòng hăng say
rao giảng Tin Mừng và khơi dậy đức tin nơi người khác của các tông đồ liên kết
chặt chẽ với mối quan tâm đức ái trong việc phục vụ người nghèo (x. Cv 6,1-4).
Trong Giáo hội, chiêm niệm và hoạt động, trong một cách thức nào đó, được tượng
trưng bằng hình ảnh của Maria và Martha trong Tin Mừng, phải đồng tồn tại và bổ
túc cho nhau (x. Lc 10,38-42). Mối tương quan với Thiên Chúa phải là ưu tiên
hàng đầu, và sự chia sẻ của cải đích thực, theo tinh thần của Tin Mừng cần cắm
rễ sâu trong đức tin (Tiếp Kiến Chung, 25-04-2012). Thực tế, đôi lúc chúng ta
có xu hướng giản lược thuật ngữ “đức ái” xuống thành tình liên đới hay chỉ là
hoạt động trợ giúp nhân đạo đơn thuần. Tuy nhiên, điều quan trọng cần nhớ là
công việc bác ái lớn nhất chính là việc truyền giảng Tin Mừng, nghĩa là “sứ vụ
của Lời”. Không có hành động nào có tính bác ái hơn là hành động nuôi dưỡng tha
nhân bằng lời Chúa và sẻ chia với họ những Tin Vui của Phúc Âm, giới thiệu cho
họ đi vào mối tương quan với Thiên Chúa: rao giảng Tin Mừng chính là sự thăng
tiến nhân bản cao cả nhất và đầy đủ nhất. Trong Thông điệp Phát Triển Các Dân
Tộc (Populorum Progressio), tôi Tớ Chúa, Đức Phao-lô VI viết rằng
việc công bố về Đức Giêsu Kitô là sự đóng góp đầu tiên và quan trọng nhất cho
sự phát triển. Chân lý căn bản về Tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta
chính là việc sống và công bố tình yêu ấy, vì điều này sẽ giúp đời sống chúng
ta đón nhận tình yêu này và làm cho sự phát triển hội nhất của nhân loại và của
mỗi người trở nên khả thi (x. Tình Yêu Thiên Chúa, số 8).

Một cách thiết yếu, mọi thứ đến từ tình yêu và hướng về Tình yêu. Tình yêu
nhưng không của Thiên Chúa được tỏ cho chúng ta qua việc rao giảng Tin Mừng.
Nếu chúng ta vui vẻ đón nhận Tin Mừng với đức tin, chúng ta đang lãnh nhận để
đi với một tương tác trước hết và không thể tách rời với Thiên Chúa. Mối tương
quan này làm cho chúng ta “phải lòng với Tình Yêu”, và rồi, chúng ta sẽ ở lại
trong Tình Yêu, lớn lên và hân hoan loan báo về Tình yêu ấy cho người khác.

Liên quan đến mối tương quan giữa đức tin và việc làm của đức ái, một đoạn
trong thư gửi Tín hữu Ê-phê-sô cung cấp cho chúng ta một tường thuật tốt nhất
về mối liên kết giữa hai nhân đức này: “Quả vậy, chính do ân sủng và nhờ lòng
tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của
Thiên Chúa; cũng không phải bởi việc anh em làm, để không ai có thể hãnh diện.
Thật thế, chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa, chúng ta được dựng nên trong Ðức
Kitô Giêsu, để sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho
chúng ta” (2,8-10). Ở đây, chúng ta có thể thấy toàn bộ kế hoạch cứu độ khởi đi
từ Thiên Chúa, từ ân sủng của Ngài và từ sự tha thứ của Ngài được lãnh nhận nhờ
đức tin. Thế nhưng, sáng kiến của Thiên Chúa không hạn chế tự do và trách nhiệm
của chúng ta, trái lại, sáng kiến này làm cho chúng trở nên chân thực và hướng
chúng đến công việc của đức ái. Đây không phải là kết quả của những nỗ lực của
chúng ta, để rồi chúng ta phải hãnh diện, nhưng chúng sinh ra từ đức tin và
tuôn trào từ ân sủng mà Thiên Chúa đã trao ban một cách rất phong phú. Đức tin
không có việc làm tựa như cây không trổ sinh hoa trái: hai nhân đức này bao hàm
trong nhau. Qua những thực hành truyền thống của đời sống Kitô hữu, Mùa Chay
mời gọi chúng ta biết dưỡng nuôi đức tin của mình bằng cách chú tâm, siêng năng
lắng nghe Lời Chúa và lãnh nhận các bí tích, và đồng thời lớn lên trong đức ái
và tình yêu dành cho Thiên Chúa và tha nhân qua những việc làm cụ thể như ăn
chay, đền tội và làm việc bố thí.

4. Vị thế ưu tiên của đức tin, chỗ đứng thứ nhất của đức mến

Như mọi quà tặng của Thiên Chúa, đức tin và đức ái có nguồn gốc nơi hoạt động
của cùng một Chúa Thánh Thần ( x. 1Cr 13); Thần Khí ngự trong chúng ta và giúp
chúng ta thưa lên rằng “Abba, Cha ơi” (Gl 4,6) và chính Ngài cũng làm chúng ta
tuyên xưng: “Đức Giêsu là Chúa!” (1 Cr 12,3) và “Maranatha” (1 Cr 16,12; Kh
22,20).

Đức tin, như một quà tặng và một lời đáp trả, giúp chúng ta nhận biết chân lý
của Đức Giêsu Kitô như là Thiên Chúa nhập thể và chịu đóng đinh khi hoàn toàn
vâng phục Thánh ý Cha và lòng thương xót vô biên dành cho con người; đức tin
ghi khắc vào con tim và tâm trí chúng ta một niềm xác tín vững chắc rằng chỉ có
Tình Yêu đó mới có thể chiến thắng sự dữ và cái chết. Đức tin cũng mời gọi
chúng ta hướng về tương lai với nhân đức hy vọng, trong sự mong chờ đầy tin
tưởng vào cuộc vinh thắng của Đức Kitô sẽ được viên mãn. Về phần mình, đức ái
thúc giục chúng ta đi vào tình yêu của Thiên Chúa được mạc khải nơi Đức Giêsu
Kitô và làm cho chúng ta đi vào tình yêu tự hiến và hoàn hảo của Đức Giêsu dành
cho Chúa Cha và cho anh chị em mình một cách cá vị và sống động. Bằng cách đổ
đầy tình yêu này, Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta trở nên những kẻ chung phần
trong tình yêu con thảo của Đức Giêsu dành cho Thiên Chúa và tình yêu huynh đệ
đối với tha nhân (Rm 5,5).

Mối tương quan giữa hai nhân đức này tựa như mối tương quan giữa hai bí tích
nền tảng của Giáo hội: Bí tích Rửa tội và Bí tích Thánh Thể. Bí tích Rửa tội
(bí tích đức tin – sacramentum fidei) đến trước bí tích Thánh Thể
(bí tích đức ái – sacramentum caritatis). Nhưng bí tích Rửa tội là
sự chuẩn bị của bí tích Thánh Thể, và bí tích Thánh Thể giúp người Kitô hữu đi
trọn hành trình của mình. Cũng vậy, đức tin đến trước đức ái nhưng đức tin chỉ
trở nên chân thực nếu đạt đến cực điểm nhờ đức ái. Mọi sự khởi đi từ việc đón
nhận đầy khiêm hạ của đức tin (biết rằng tôi được Thiên Chúa yêu), nhưng đức
tin phải đạt đến chân lý là đức ái (biết yêu Thiên Chúa và tha nhân), vốn tồn
tại mãi mãi và là sự viên mãn của tất cả các nhân đức (1 Cr 13,13).

Anh chị em thân mến, trong Mùa Chay này, như là dịp chúng ta chuẩn bị kỷ niệm
biến cố Tử Nạn và Phục sinh – một biến cố mà tình yêu Thiên Chúa đã cứu độ thế
giới và chiếu tỏa ánh sáng vào lịch sử – tôi ước mong rằng tất cả anh chị em có
thể dùng thời gian này để thắp lại ngọn lửa đức tin vào Đức Giêsu. Nhờ đó chúng
ta có thể cùng với Ngài đi vào tình yêu đầy năng động dành cho Cha, cho anh chị
em mình, những người mà chúng ta gặp gỡ trong đời sống của chúng ta. Vì lý do
này, tôi dâng lời nguyện này lên Chúa, và nguyện xin Thiên Chúa chúc lành cho
mỗi người và cho mỗi cộng đoàn!

Từ Vatican, 15 tháng 10 năm 2012

Nguyễn Minh Triệu sj

Người lớn ơi, xin một lần lắng nghe trẻ em nói…

Người lớn ơi, xin một lần lắng nghe trẻ em nói…

Tác giả: KHƯƠNG DUY
nguồn: tuanvietnam.net

Người lớn luôn muốn trẻ em có tâm hồn rộng mở, luôn muốn ngắm nhìn nét hồn nhiên trên gương mặt ngây thơ. Nhưng người lớn đang đánh cắp tuổi thơ của trẻ em theo cách chúng ta tưởng rằng tốt đẹp.

Suốt bao nhiêu năm nay, việc chăm lo cho trẻ em luôn được coi là ưu tiên hàng đầu bởi ai cũng thuộc lòng khẩu hiệu “Trẻ em là tương lai của đất nước”. Ở bất cứ nơi đâu chúng ta đều nghe thấy lời khẳng định: xã hội phải dành những gì tốt nhất cho trẻ em. Nhưng thực sự, sau những ngôn từ hoa mĩ ấy, chúng ta đã dành cho trẻ em những gì?

Nhân ngày Quốc tế thiếu nhi năm nay, cùng những bài diễn văn ca ngợi thành tích chăm sóc, bảo vệ trẻ em đang vang khắp các hội trường, xin được góp vài lời để phần nào giải đáp câu hỏi này.

Đầu tiên, xin thưa rằng người lớn chúng ta ảo tưởng nhiều lắm về sự sung sướng của
trẻ em. Khi những đứa trẻ đòi hỏi điều này hay điều kia, người lớn chúng ta thường mắng chúng vòi vĩnh và đem sự nghèo khổ của ông bà, bố mẹ xưa kia ra so sánh. Xét về nhiều mặt, trẻ em hôm nay sung sướng hơn thế hệ đi trước rất nhiều với hàng trăm hàng ngàn loại trò chơi, đồ ăn thức uống mà chúng ta ngày trước có mơ cũng không bao giờ dám nghĩ tới.

Nhưng trẻ em có sung sướng không khi bị đe dọa từng miếng ăn, giấc ngủ vì từ rau, đậu, thịt, cá đến món đồ chơi ưa thích, thứ gì cũng có nguy cơ nhiễm độc? Trẻ em hạnh phúc không khi ra đường, muốn bỏ khẩu trang ra để thở cũng không được vì khói bụi, muốn tung tăng bay nhảy trên phố cũng phải lấm lét canh chừng những “anh hùng xa lộ” sẵn sàng cán người rồi bỏ chạy?

Khi còn nhỏ, ai trong số những người lớn chúng ta phải sống trong những nỗi sợ hãi giống như trẻ em hôm nay?

Người lớn luôn tự khen mình đã dành tất cả những gì tốt nhất cho trẻ em. Nhưng có một thứ trẻ em còn rất thiếu: người lớn không cho các em quyền được tin.
Chúng ta muốn trẻ em tin những điều tốt đẹp, nhưng chúng ta chỉ cho chúng thấy những điều nham nhở, xấu xí.


Trẻ em Hà Giang, Ảnh: Đoàn Bảo Châu

Làm sao trẻ em có thể tin rằng xã hội đang chung tay bảo vệ môi trường khi có những quan chức vào tù vì rút tiền ngân sách dành cho môi trường để tư lợi?
Làm sao trẻ em có thể tin vào lời khuyên “cây ngay không sợ chết đứng” khi những người dám nói thẳng, nói thật như thầy Đỗ Việt Khoa trở thành “cây ngay” cô độc giữa rừng cây xiêu vẹo, cực chẳng đã đành phải bỏ nghề?

Làm sao trẻ em có có thể tin mình được xã hội nâng niu khi chứng kiến những đứa trẻ cùng trang lứa như bé Hào Anh bị người lớn đánh đập dã man trước sự thờ
ơ của chính quyền sở tại? Những đứa trẻ lớn lên thiếu hành trang niềm tin vào cuộc sống, vào lẽ phải hoàn toàn do lỗi của người lớn chúng ta.

Người lớn luôn muốn trẻ em có tâm hồn rộng mở, luôn muốn ngắm nhìn nét hồn nhiên trên gương mặt ngây thơ. Nhưng người lớn đang đánh cắp tuổi thơ của trẻ em
theo cách chúng ta tưởng rằng tốt đẹp. Trẻ em còn lúc nào để bay bổng và ước mơ khi lịch học chính, học phụ dày đặc đã chiếm hết thời gian từ lúc các em bước vào lớp một?

Trẻ em sao có thể mở rộng tâm hồn với thế giới bên ngoài khi bị người lớn khóa kín trong những căn nhà kín cổng cao tường hoặc phải sống chen chúc trong những
ngõ sâu chật hẹp, “chỉ chính ngọ mới thấy mặt trời”.

Vài chục năm nữa, liệu trẻ em có còn được chiêm ngưỡng cảnh làng quê yên bình với cánh đồng xanh mướt, đàn cò bay thẳng cánh, đàn trâu nhẩn nha gặm cỏ – những cảnh trí đã dung dưỡng tâm hồn bao thế hệ người Việt Nam – khi  những dự án sân golf, biệt thự, bãi đào vàng đang được người lớn bật đèn xanh không ngơi tay?

Người lớn chẳng những không cho trẻ em cuộc sống an toàn, không cho chúng niềm tin, không cho trẻ em một tuổi thơ theo đúng nghĩa mà còn “ăn vèn” cả vào tương lai của trẻ em. Khi những đứa trẻ lớn lên, chúng ta sẽ trả lời các em ra sao về hàng triệu, hàng tỷ tấn khoáng sản đã bị thế hệ trước khai thác, sử dụng hoang phí và bán với giá rẻ mạt cho nước ngoài để thỏa mãn những nhu cầu không đáy?

Cuốn sách địa lý của thế hệ tương lai sẽ viết về nguồn tài nguyên của đất nước ra sao
khi những mỏ vàng, bạc, dầu thô, than đá chẳng còn gì ngoài những hố sâu thăm thẳm và môi trường sinh thái bị tàn phá nặng nề?

Hãy tự hỏi chúng ta chia cho trẻ thơ được bao nhiêu từ món tiền thu được từ việc bán tống bán tháo tài nguyên, khoáng sản hôm nay. Phần chúng ta dành cho các em
có phải là những ngôi trường dột nát ở vùng cao? Hay đó là những sợi cáp mắc qua sông như ở Đắk Nông để các em trượt từ bờ bên này qua bờ bên kia tới trường ngay trên đầu sóng dữ?

Chúng ta kỳ vọng trẻ em sẽ biến đất nước thành rồng, thành hổ nhưng đã vô tình đeo đá vào đôi cánh mỏng manh của các em… Ảnh Đoàn Bảo Châu

Và chao ôi, những gì chúng ta dành cho chúng liệu có xứng đáng với những món nợ hàng trăm tỷ đô-la chúng ta đang vay nợ nước ngoài để đầu tư cho những dự
án trên trời dưới biển. Chúng ta hỉ hả khi năm sau vay được nhiều hơn  năm trước, chúng ta giận lẫy vài hôm khi có vị quan chức nọ xà xẻo vốn ODA nhưng rồi cũng tặc lưỡi bỏ qua. Chúng ta an ủi nhau rằng trẻ em ngày sau sẽ tài giỏi hơn thế hệ hôm nay và sẽ trả hết những gì chúng ta đang vay mượn để vung tay quá trán và thả sức cho rơi rớt dọc đường.

Vâng, tôi tin lắm vào tài năng, trí tuệ của trẻ em Việt Nam. Chúng ta có những thần đồng toán học, âm nhạc, thể thao ngang tầm quốc tế; chúng ta có những đôi
bàn tay tài hoa ngay ở tuổi thiếu thời. Nhưng có tủi cho trẻ em không khi cha ông chúng trông vào những bàn tay khối óc ấy để trả những món nợ xuyên thế kỷ?

Chúng ta kỳ vọng trẻ em sẽ biến đất nước thành rồng, thành hổ nhưng đã vô tình đeo đá vào đôi cánh mỏng manh của các em bằng một thứ tội tổ tông truyền.

Vậy đấy, hành trang cho trẻ em vào tương lai tưởng như rất đầy mà thực ra lại rất vơi.
Chúng ta chẳng cho trẻ em được bao nhiêu so với những gì chúng ta lấy đi của trẻ em. Những người lớn ích kỷ chỉ biết nhắm mắt và tưởng tượng ra những điều vĩ đại đã làm cho con trẻ, nhưng nếu mở mắt ra chúng ta sẽ bàng hoàng khi trẻ em đang trở thành nạn nhân của thói tham lam, mù quáng và ích kỷ của chúng ta.

Xin được mượn câu hát của Trịnh Công Sơn để gọi tên nỗi niềm tôi dành cho những đứa trẻ trong ngày trọng đại này:

Trẻ thơ ơi, trẻ thơ ơi

Tin buồn từ ngày mẹ
cho mang nặng kiếp người.

Anh chị Thụ & Mai gởi

 

THÔNG ĐIỆP CỦA NGÀY LỄ TRO

THÔNG ĐIỆP CỦA NGÀY LỄ TRO

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

Đừng chỉ chăm sóc thân xác mà lãng quên linh hồn.

Nhà kia có hai đứa con. Một đứa thì được cha mẹ chăm só…c tối đa: cho ăn cho mặc, cho tiêu xài, cung cấp cho đủ thứ, không từ chối nó bất cứ điều gì nó muốn, thậm chí nó đòi hỏi những điều trái luân thường đạo lý thì cũng cho luôn.

Còn đứa con thứ hai thì không được cha mẹ đoái hoài: không cho ăn, không cho mặc, không cho thuốc men, không cho bất cứ gì nó cần.

Làm cha mẹ như thế có công bằng không? Có xứng đáng làm cha mẹ nữa không? Làm cha mẹ như thế có đáng bị lên án không?

Hai đứa con nói trên tượng trưng cho hai thành phần của tôi : linh hồn và thân xác. Con người tôi có xác nhưng cũng có linh hồn. Vậy mà tôi chỉ biết chăm lo cho thân xác mà quên mất linh hồn. Châm ngôn sống của tôi là: Tất cả cho thân xác, tất cả cho cuộc sống đời nầy.

24 giờ của một ngày, tôi đều dành trọn cho thân xác.

168 giờ của một tuần, tôi cũng đều dành trọn cho thân xác.

720 giờ của một tháng cũng đều dành trọn cho thân xác.

Và cứ thế, từ ngày nầy trải qua ngày khác, hết tháng nầy đến tháng kia, tôi chỉ biết chăm lo cho thân xác mà thôi.

Còn linh hồn thì bị bỏ rơi, không được đoái hoài. Suốt 24 giờ của mỗi ngày, 168 giờ của mỗi tuần, 720 giờ của một tháng… tôi chẳng dành cho linh hồn một phút nào.

Thế rồi mai đây thân xác tôi sẽ ra sao ?

Lời Chúa vang lên trong nghi thức xức tro nhắc nhở tôi nhớ đến số phận mình:

“Hỡi người, hãy nhớ mình là bụi tro, mai sau người sẽ trở về với bụi tro.

Những hạt bụi tro li ti rắc trên đầu trong ngày lễ tro hôm nay nhắc nhở chúng ta nhớ rằng mai đây, sớm muộn gì thân xác ta cũng sẽ hóa thành bụi tro như thế. Bụi tro là chung cuộc của thân xác con người. Sống thêm một năm là nhích lại gần nấm mồ hơn một chút. Tăng thêm một tuổi là rút ngắn thêm một chặng nữa tiến trình hóa thành tro bụi của thân xác mình.

Thế là cuối cùng, thân xác tôi chỉ còn là một nắm tro bụi li ti.

Không lẽ hôm nay tôi đầu tư hết tất cả thời gian, công sức, trí tuệ, tài năng, nghị lực, tiền bạc của mình cho thân xác nầy để rồi cuối cùng chỉ thu hoạch được một nắm tro!

Như thế có khác chi những con dã tràng cố công xây những lâu đài trên cát để rồi chốc lát sau sóng biển ập đến và xóa sạch không để lại vết tích gì.

Nói như thế không phải để bi quan chán sống, nhưng để tìm cách sống sao cho kiếp người có một kết cục tươi sáng vẻ vang hơn.

Biết như thế để từ nay, ta không mê muội đầu tư tất cả cho thân xác, không để cho những đam mê xác thịt nhận chìm hồn thiêng của ta trong địa ngục muôn đời, nhưng biết chăm lo xây dựng đời sống thiêng liêng, quyết tâm vun đắp đời sống tâm linh để cho hồn thiêng của mình mãi mãi trường tồn trong vinh quang thiên quốc.

Biết thế thì ta phải công bằng với linh hồn ta. Thân xác nầy nay còn mai mất thì ta chăm sóc vừa đủ, còn linh hồn ta sống mãi muôn đời thì phải được chăm lo chu đáo hơn.

 

 

SỐNG ẨN KÍN THEO GƯƠNG CHÚA GIÊSU VÀ MẸ MARIA

SỐNG ẨN KÍN THEO GƯƠNG CHÚA GIÊSU VÀ MẸ MARIA

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Thánh nữ Bernadette Soubirous (1844-1879) được diễm phúc trông thấy Đức Mẹ MARIA hiện ra 18 lần trong vòng 5 tháng tại Lộ Đức, từ
ngày 11 tháng 2 đến ngày 16 tháng 7 năm 1858.

9 năm sau những ngày hồng phúc ấy, Chị Bernadette tuyên khấn lần đầu trong dòng
các Nữ Tu Bác Ái thành Nevers (Trung Pháp). Hôm đó là ngày 30-10-1867. Chị
Bernadette – tên dòng là Marie Bernarde – tròn 23 tuổi.

Theo tục lệ trong dòng, vào buổi chiều ngày tuyên khấn, các nữ tu khấn tạm tập
họp lại để nhận bài-sai từ Mẹ Bề Trên và Đức Giám Mục bản quyền. Chiều hôm ấy,
Chị Bernadette cũng có mặt cùng với 44 khấn sinh khác. Đến lượt mình, Chị đến
quỳ trước mặt Đức Cha Laurence Fourcade và đợi bài-sai.

Đức Giám Mục quay sang hỏi Mẹ Bề Trên:

– Bà chỉ định cho Chị này làm công việc gì?

Thoáng điểm nụ cười trên môi Mẹ Bề Trên Joséphine Imbert trả lời:

– Thưa Đức Cha, con trẻ này không biết làm một cái gì hết! Chị đi đến đâu sẽ
trở thành gánh nặng cho nơi đó!

Mọi người im lặng như tờ. Đức Cha chăm chú nhìn Chị nữ tu trẻ tuổi, đang khiêm
tốn quỳ dưới chân ngài. Rồi như được ơn trên soi sáng, Đức Giám Mục ứng khẩu
ban bài-sai:

– Cha chỉ định cho con nhiệm vụ cầu nguyện!

Cùng lúc đó, Đức Cha sực nhớ Chị Bernadette đang ở trong Dòng hoạt động chứ
không phải Dòng chiêm niệm. Vì thế Đức Giám Mục hỏi lại:

– Con quả thật không biết làm một cái gì hết sao?

Chị Bernadette khiêm tốn đáp:

– Thưa Đức Cha, Mẹ Bề Trên thật không sai lầm! Quả đúng như vậy!

Đức Giám Mục tiếp lời:

– Vậy thì, thật tội nghiệp cho con! Phải làm gì với con bây giờ? Mà tại sao con
lại vào Dòng?

Chị Bernadette đơn sơ thưa:

– Hồi còn ở Lộ Đức, con đã trình bày điều đó với Đức Cha và Đức Cha bảo không
sao hết!

Vị Giám Mục hơi lúng túng, không biết giải quyết ra sao. Sau cùng, Đức Cha hỏi:

– Nhưng ít ra là con cũng biết mang thức ăn, lặt rau chứ?

Chị Bernadette đáp:

– Con sẽ cố gắng!

Quay sang Mẹ Bề Trên, Đức Cha nói:

– Chúng ta sẽ giữ Chị này ở lại đây ít lâu. Sau đó, nếu thấy là Chị hữu dụng
trong một số công việc nhỏ nhặt nào đó, thì sẽ gửi Chị đi giúp xứ!

Hẳn Chị Bernadette phải thật khiêm tốn để chấp nhận lời nhận xét của Mẹ Bề Trên
và của Đức Giám Mục! Nhưng đó là chuyện không thành vấn đề đối với Chị! Người
ta đọc trong sổ tay tĩnh tâm của Chị hàng chữ:

– Ơn chính phải xin: sống thật ẩn kín theo gương Đức Chúa GIÊSU KITÔ và Đức Mẹ
MARIA.

Chị Bernadette đã xin và đã sống ơn ẩn kín này. Trong Thánh Lễ an táng Chị,
trước linh cữu Chị, Đức Cha Lelong lớn tiếng tung hô nhân đức khiêm nhường của
Chị Bernadette:

– Hỡi các nữ tu, các Chị là những người biết rõ rằng không phải người ta tìm
cách dấu kín Chị, nhưng chính Chị tự ẩn mình đi, và Chị càng ẩn mình bao nhiêu
thì càng tốt bấy nhiêu.. Chị không thích gợi lại quá khứ, nhưng tìm cách quên
đi, hay ít là, làm cho người khác quên đi!

Một nữ tu cùng dòng, 40 năm sau, đã nói về nhân đức khiêm nhường của Chị
Bernadette:

– Người ta dạy con khiêm nhường là quên mình đi. Vậy thì nơi Chị, khiêm nhường
quả là như thế đó. Chị không bao giờ nói về mình, lo lắng chăm sóc cho mình.
Khiêm nhường là nhân đức thật cao cả nơi Chị. Con nghĩ, chính Đức Mẹ MARIA đã
thông truyền nhân đức này cho Chị khi Đức Mẹ hiện ra với Chị.

Một ngày, một nữ tu hỏi Chị Bernadette xem Chị có cảm thấy bị hạ thấp trong
cuộc sống ẩn kín nơi tu viện, sau khi được mọi người biết đến vì những cuộc
hiện ra của Đức Mẹ MARIA tại Lộ Đức không, Chị trả lời:

– Sao Chị hỏi thế, Chị nghĩ gì về em? Chị không biết là em hiểu rõ rằng nếu Đức
Mẹ chọn em, chính vì em là người dốt nát nhất. Nếu Đức Mẹ tìm được người nào
khác dốt nát hơn, hẳn là Đức Mẹ sẽ chọn người ấy!

Một ngày, hai thanh nữ từ Lộ Đức đến nhập dòng. Hai cô đưa cho Chị Bernadette
xem tấm hình chụp hang đá Lộ Đức, với ước mơ thầm kín sẽ nghe Chị nói về các
cuộc hiện ra. Chăm chú nhìn tấm hình chụp hang đá Lộ Đức thân yêu, Chị buông
câu nói bâng quơ:

– Chà, mấy cây bạch-dương bữa nay cao ghê!

Một lần khác, một nữ tu cũng đưa cho Chị xem tấm hình chụp hang đá Lộ Đức với
dụng ý dò xem phản ứng của Chị. Đang chăm chú nhìn tấm hình, Chị Bernadette
bỗng ngước mắt hỏi Chị kia:

– Chổi dùng để làm gì?

– Để quét dọn!

– Rồi sau đó?

– Sau đó thì người ta dựng nó vào xó cửa!

Chị Bernadette điềm nhiên nói:

– Đó cũng là câu chuyện cuộc đời em. Đức Mẹ MARIA đã dùng em. Giờ đây xong công
việc, người ta đặt em lại chỗ cũ của em. Em thật sung sướng và cứ ở nguyên
trong tình trạng ẩn kín này!

… Ngay giờ ấy, được Thánh Thần tác động, Đức Chúa GIÊSU hớn hở vui mừng và nói: “Lạy CHA là Chúa Tể trời đất, Con ngợi khen CHA, vì CHA đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Nhưng lạy CHA, vì đó là điều đẹp ý CHA .. CHA Thầy đã giao phó mọi sự cho Thầy. Và không ai biết Người Con là Ai, trừ CHÚA CHA, cũng như không ai biết CHÚA CHA là Ai, trừ Người Con, và kẻ mà Người Con muốn mặc khải cho” (Luca 10,21-22).

(Mgr.Francis Trochu, ”SAINTE BERNADETTE, LA VOYANTE DE LOURDES”, Emmanuel Vitte, 1954, trang 420 + 471-477)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Vatican sáng lòa tia chớp

Vatican sáng lòa tia chớp

Chỉ vài giờ sau khi Đức Giáo hoàng Benedict bất ngờ tuyên bố sẽ từ chức, một tia chớp đã lóe lên trên đỉnh mái vòm thánh đường St Peter.

Tia chớp lóe lên vào lúc trước 6 giờ chiều, giờ địa phương. St Peter, nằm trong Vatican City, được xem là một trong những địa điểm Thiên chúa giáo thiêng liêng nhất.

httpv://www.bbc.co.uk/vietnamese/multimedia/2013/02/130212_pope_lightening.shtml

Starbucks khai trương cửa hàng đầu tiên tại Việt Nam

Starbucks khai trương cửa hàng đầu tiên tại Việt Nam

Cửa hàng Starbucks đầu tiên ở Việt Nam (Ảnh: Lan Vy)
06.02.2013
Công ty cà phê Starbucks nổi tiếng của Mỹ đã mở một cửa hàng đầu tiên ở Việt Nam, một thách thức đối với công ty tại quốc gia xuất khẩu cà phê hàng đầu trên thế giới trong năm 2012, một đất nước đã có nhiều thương hiệu cà phê, nhưng cũng có nhiều khách tiêu thụ thức loại nước uống này.
Hàng trăm người hôm 1/2 đã xếp hàng trước cửa hàng Starbucks đầu tiên ở thành
phố HCM để chờ đến lượt thưởng thức thương hiệu cà phê nổi tiếng của Mỹ.
Một khách hàng trẻ của Starbucks tại Sài Gòn, chị Lan Vy, cho biết:
“Rất là đông vì ai cũng háo hức được vô uống. Phải xếp hàng từ ngoài vào
trong để được tới cầm cái ly Starbucks. Rất là hay khi được uống Starbucks tại
Việt Nam.”
Chị Vy nói dù phải xếp hàng rất lâu để mua được một ly cà phê Starbucks nhưng
cũng đáng công vì hương vị thơm ngon của sản phẩm, cung cách phục vụ ân cần và
tác phong kinh doanh chuyên nghiệp của nhãn hiệu này:
“Có người bảo không biết có đáng đến nỗi trưa nắng mà phải xếp hàng để uống
cà phê Starbucks hay không. Nhưng mình thấy OK vì được uống món mình thích mà
phải xếp hàng thì cũng OK thôi, đâu có gì. Người Việt Nam hầu như uống cà phê
dạng phin đậm đặc. Cho nên, những người không hợp với cà phê đậm đặc như Vy sẽ
thích uống loại pha chế như của Starbucks. Ở Việt Nam, những quán cà phê sân
vườn một ly cà phê đã hơn 2 đô la rồi. Một ly Starbucks hiện giờ có giá từ
75.000 đến 100.000, tức từ 3,5 đến 5 đôla. Nhiều người nói rằng không phù hợp
với túi tiền của người dân Việt Nam. Nhưng mà đâu phải ngày nào mình cũng uống
cà phê 2, 3 lần. Mình sẽ giới thiệu với bạn bè mình thứ nhất về cung cách phục
vụ, thứ hai về nước uống của Starbucks. Những cái gì mới và ngon thì ai cũng
muốn thử cả.”
Starbucks cho biết công ty sẽ “duy trì truyền thống đặc biệt và khẩu vị uống cà
phê của người Việt Nam.”
Trong vòng mấy năm qua, Starbucks cố gắng mở rộng thị trường ở Trung Quốc và
các nước châu Á Thái Bình Dương.
Công ty có kế hoạch mở gần 4.000 cửa hàng cà phê trước cuối năm  2013.

DÒNG SÔNG XƯA,

DÒNG SÔNG XƯA,

Dòng sông nước chảy quên về,

Lối xưa còn đó trăng thề nơi đâu,

Vội vàng chi kẻ qua cầu,

Cho người ở lại ôm sầu đắng cay,

Chiều rơi giọt nhớ đong đầy,

Hoa quên khoe sắc bướm hoài lối xưa,

Con thuyền lạc mái chèo đưa,
Chòng chành viễn xứ còn thừa giấc mơ,

Người đi trong buổi gió mưa,

Cho người ở lại tiễn đưa chuốc sầu…

Lệ rơi ngập bến giang đầu,

Trong lòng vạn mối chìm sâu nỗi buồn…

Liverpool.  11/2/2013.

Song Như.

Kính gởi Quý Thầy Cô và các bạn LVC.

Kim Trọng.

CÁT BỤI

CÁT BỤI
Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi

Để một mai vươn hình hài lớn dậy
Ôi cát bụi tuyệt vời
Mặt trời soi một kiếp rong chơi.
Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi
Để một mai tôi về làm cát bụi
Ôi cát bụi mệt nhoài
Tiếng động nào gõ nhịp không nguôi.
Bao nhiêu năm làm kiếp con người
Chợt một chiều tóc trắng như vôi
Lá úa trên cao rụng đầy
Cho trăm năm vào chết một ngày.
Mặt trời nào soi sáng tim tôi
Để tình yêu xay mòn thành đá cuội
Xin úp mặt bùi ngùi
Từng ngày qua mỏi ngóng tin vui.
Cụm rừng nào lá xác xơ cây
Từ vực sâu nghe lời mời đã dậy
Ôi cát bụi phận này
Vết mực nào xóa bỏ không hay…

Trịnh Công Sơn
*********************************
Hàng năm Giáo Hội dành ra ngày thứ tư Lễ Tro để nhắc nhở con cái về thân phận con người.  Một ít tro được rắc lên đầu bôi lên trán, hai ngày giữ chay, bốn mươi ngày sống tinh thần Mùa Chay.  Lời mời gọi xám hối hãy xé lòng, đừng xé áo.  Lời nhắc nhở bố thí, cầu nguyện, cảnh giác những cơn cám dỗ trong cuộc sống….. một vài điều gọi là nhắc nhở phận người chóng nhớ mau quên.  Có là ai, có là gì… cũng phải tuân theo định luật tự nhiên!  Có bao nhiêu, có thế nào… rồi cũng xuôi tay chẳng mang được chi!
Cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã từng ưu tư khắc khoải về thân phận con người:  Là ai? Từ đâu đến?  Đi về đâu?  “Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi?” ông nhận ra phận người đến từ bụi đất, mang kiếp sống mong manh vắn vỏi.  Hạt bụi nhỏ bé trong vũ trụ bao la, bất lực trước định luật tự nhiên của tạo hoá, bị lôi cuốn theo con tạo xoay vần cuộc sống.  Sau“một mai vươn hình hài lớn dậy” để sống kiếp cát bụi phù du tạm bợ, dù muốn hay không, chấp nhận hay chống đối, hạt bụi lại rũ áo ra đi về với thân phận bụi đất của mình.  “Để một mai tôi về làm cát bụi”, thế là hết, là xong một kiếp người.
Vẫn biết bụi đất một mai sẽ trở về với cát bụi.  Vẫn biết nơi đến, chốn về như nhau: tất cả chỉ là phù du, vô nghĩa.  Nhưng trong lòng ông, “từ vực sâu nghe lời mời đã dậy” đang mong chờ một điều gì đó thâm sâu hơn, cao qúy hơn những gì tầm thường, đang cuốn hút hạt bụi xoay vòng trong cơn lốc đảo điên.  Hình như đôi tai tâm hồn ông đã nghe được lời mời gọi thiêng liêng nào đó.  À, thì ra cát bụi mệt nhoài sau những chuỗi ngày “mặt trời soi một kiếp rong chơi”, sau những tháng năm hòa mình vào những “tiếng động gõ nhịp không nguôi” của cuộc đời, sau “bao nhiêu năm làm kiếp con người”, bỗng chợt nhận ra thiếu vắng một cái gì đó trong cuộc sống.  Hạt bụi nhỏ bé như pha lê được mặt trời soi sáng để rồi trái tim khát khao tin yêu thổn thức “xin úp mặt bùi ngùi, từng ngày qua mỏi ngóng tin vui.”
Là tin vui gì?  Ai có thể mang cho đến cho đất trời tin vui bất diệt?  Mỗi hạt bụi trong vũ trụ bao la đang chờ đợi một tin vui khác nhau.
Có hạt mong được chiếu sáng lấp lánh dù là hư ảo chớp nhoáng.  Hạt mong được tích lũy thêm những lớp đất cát phù du, dù bụi sẽ chẳng mang được chi khi “một mai về làm cát bụi”.  Hạt khác thích cả đời rong chơi dưới ánh mặt trời.  Hạt lại thích hưởng thụ cho bõ kiếp phù sinh vắn vỏi.  Có hạt mong được nâng đỡ những hạt bụi khác mảnh mai yếu kém hơn.  Hạt lại mong cho đi chính mình để làm mem, làm muối ướp mặn cho đời.  Tin vui mà nhạc sĩ họ Trịnh, bạn và tôi đang mong chờ là tin vui gì?
Con Một Thiên Chúa đã từ bỏ vương quyền trên chốn trời cao, nhập thể làm người chỉ với một khát vọng duy nhất, là mang Tin Vui đến cho con người, cho những hạt bụi bé nhỏ dấu yêu.  Trong Ngài, bụi đất trở thành vô giá.  Với Ngài, đất bụi trở thành bất tử.  Nhờ Ngài, bụi đất nếm mùi thiên thu vĩnh cửu.  Nhưng, phũ phàng thay không phải tất cả hạt bụi đều chấp nhận Ngài!
Tin Vui dù muộn nhưng không bao giờ trễ.  Chẳng phải ai cũng được phúc đón
nhận Tin Vui từ thưở bình minh.  Dòng đời ngược xuôi tuy vất vả nhưng hào nhoáng, tuy tạm bợ nhưng đầy hấp dẫn, tuy nhiều đau khổ nhưng không thiếu niềm vui giả tạo.  Không dễ gì mà cát bụi chấp nhận phận mình từ thưở mới “vươn hình hài lớn
dậy”
.  Nhạc sĩ tài ba họ Trịnh đã đi sâu vào cuộc sống, khi ông kinh nghiệm bản thân từ từ đi qua ba giai đoạn của đời người:   Với thời trai trẻ hăng say yêu đời, dù biết phận mình là cát bụi, nhưng đó là tiếng hò reo mừng vui: “Ôi cát bụi tuyệt vời!”. Cuộc sống dần trôi, với bao đắng cay chất đầy lên đôi vai gầy, mà ý nghĩa cuộc đời vẫn biệt tăm, ông buông một tiếng thở dài chán chường “Ôi cát bụi mệt nhoài!”. Tiếp tục cuộc hành trình vô định của con người, sắp đến đích mà không biết nơi đến là đâu, kết thúc bài nhạc là một lời chua chát xuôi tay tuyệt vọng: “Ôi cát bụi phận này!”

Con người, chỉ khi “chợt một chiều tóc trắng như vôi” mới giật mình nhìn lại mình, vội vàng đi tìm ý nghĩa cuộc sống.  Khi nhìn “lá úa trên cao rụng đầy” với “cụm rừng nào lá xác xơ cây” lòng người mới chùng xuống, băn khoăn lòng hỏi lòng, chiếc lá vàng kia đi về đâu?  Phận người có gì hơn một chiếc lá vàng, một hạt bụi không?  “Trăm năm vào chết một ngày”, đời người ky cóp, một ngày xuôi tay!
Mùa Chay gợi lại hình ảnh người Cha nhân lành trong ngụ ngôn đứa con hoang đàng, lúc nào cũng thấp thỏm trước ngõ, chờ mong đứa con đi xa trở về!  Muộn nhưng không bao giờ trễ!  Đừng để đến khi “vết mực nào xóa bỏ không hay…..” thì  buồn thay cho một kiếp người!  Sống vô duyên, chết phận bạc!
Lạy Chúa, trong Mùa Chay thánh này xin cho con cất bước trở về với Chúa khi còn có thời gian chuẩn bị.  Bốn mươi ngày Mùa Chay nhắc con nhớ đến những từ ngữ xa lạ:  ăn chay, bố thí, cầu nguyện.  Xin cho con biết cho đi một phần những gì con đang có, để giúp những hạt bụi khác cảm nếm hương vị tình yêu trong cuộc sống.  Xin giúp con một lần ăn chay với cả tâm hồn yêu thương, để nhìn ra được tình yêu của Thiên Chúa với thân phận bụi đất nghèo hèn.  Xin cho con biết tỉnh thức cầu nguyện để đừng bám vào những hạt bụi bọt bèo khác  mà chỉ bám vào Đấng đã tạo thành con người từ cát bụi, Đấng đã truyền hơi thở mình vào bụi đất vô tri, để trở thành con người mang hình ảnh Ngài.  Hạt bụi bám vào Ngài chắc chắn sẽ không bị “vết mực nào xóa bỏ không hay…..” vào chốn hư không đời đời.
Lạy Đấng Vĩnh Cửu, cuộc sống lúc bấy giờ sẽ không còn là phù du vô nghĩa, không còn là những tiếng kêu tuyệt vọng từ đáy vực sâu, mà là những tiếng kêu ngạc nhiên hoan lạc, những bản tình ca bất tận ca ngợi tình yêu Thiên Chúa bao la.  Ôi cát bụi tuyệt vời!  Ôi con người tuyệt vời!
Con người là chi mà Chúa cần nhớ đến,

phàm nhân là gì, mà Chúa phải bận tâm? (Tv 8:5)

Lang Thang Chiều Tím  &
Anh chị Thụ & Mai gởi

Lm. Chân Tín: Luồng gió mới – Chân dung Đức Mẹ (37)

Lm. Chân Tín: Luồng gió mới – Chân dung Đức Mẹ (37)

Đăng bởi lúc 2:05 Sáng 12/02/13

nguồn:chuacuuthe.com

VRNs (12.02.2013) – Sàigòn

Chân dung Đức Mẹ

Cách đây mấy tháng, một anh bạn tinh nghịch hỏi tôi: “Có phải Cha thích ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp phải không?”. Tôi vui vẻ đáp: “Lẽ dĩ nhiên rồi”.  Và đón được ý nghĩ của ông bạn, tôi nói tiếp: “Nhưng xin ông bạn chớ nên cho rằng tôi thích ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp hơn cả chỉ vì tôi là tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế và là chủ nhiệm một tờ nguyệt san mang tên Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp đâu nhé”.

Trên phương diện lịch sử và mỹ thuật, thì ảnh Đức Mẹ hằng Cứu Giúp
đứng vào bậc nhất, vì ảnh ấy họa lại bức ảnh Đức Mẹ chỉ đường (Hodegetria), tức
là ảnh cổ kính nhất trong Giáo hội đã được tôn kính ở Constantinople, như bạn
Thanh Dũng sẽ nói trong số báo này. Mặc dầu chúng ta không biết được khuôn mặt
Đức Mẹ ra sao, như lời thánh Augustin đã nói về thế kỷ thứ tư: “Chúng tôi không
được biết gì về khuôn mặt của Nữ Trinh Maria” (De Trin. VIII,5,7), nhưng khuôn
mặt hình trái xoan của Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp có những nét rất Á Đông và tuyệt
đẹp, khiến nhiều nhà nghệ sĩ lừng danh đã không hết lời ca ngợi.

Nhưng trên phương diện đức tin và thần học, bức ảnh ấy là một tuyệt tác diễn tả chân dung tinh thần của maria cách trung thành hơn hết. Mỗi nét đều nói lên sứ mạng cao cả của Maria.

Trước tiên bức ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp nêu cao chức làm Mẹ Thiên
Chúa. Trên nền vàng tượng trưng vinh quang thiên đàng, nổi lên hình bán thân
của Đức Mẹ. Nhưng Mẹ Maria không đứng một mình. Với Mẹ có cả Chúa Giêsu. Ở phía trên có mấy chữ Hy Lạp: “Mẹ Thiên Chúa”. Mẹ là Mẹ Thiên Chúa và tất cả vinh
quang, tất cả những đặc ân khác của Mẹ đều bắt nguồn từ Chúa Kitô. Nơi Mẹ, tất
cả đều hướng về Chúa Kitô. Chúa Kitô là trung tâm của Mẹ. Vì thế lòng sùng kính
của ta đối với Mẹ Maria cũng nhằm một mục đích: Đức Kitô, Vị Cứu tinh và Trung
gian độc nhất giữa Thiên Chúa và loài người.

Là Mẹ Thiên Chúa, Đức Maria còn là Mẹ của chúng ta, Mẹ của đoàn người được  cứu rỗi, Mẹ của Giáo hội, đúng với tước hiệu mà Đức Phaolô VI đã tuyên bố trong Công đồng Vatican II: Trước hình cụ tử nạn do hai thiên thần dâng lên, Chúa Giêsu run sợ, như ngài sẽ run sợ một ngày kia trong vườn cây dầu. Phần Đức Mẹ, tâm hồn Mẹ tràn ngập đau thương đến trào ra nơi đôi khóe mắt đầy u buồn. Nhưng Mẹ không có một cử động nào để ngăn cản cuộc tử nạn của Con. Mẹ chấp nhận mọi khổ đau, Mẹ cùng chịu tử nạn trong tâm hồn với Chúa Giêsu để chúng ta được cứu rỗi.

Là Mẹ giáo hội, Mẹ Maria luôn chăm nom đến Giáo hội, chăm nom đến
mỗi con người, để đưa tất cả về với Chúa Kitô. Vì thế Mẹ xứng đáng mang tước
hiệu Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp: Đôi mắt dịu hiền của Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp không nhìn về Chúa Giêsu, nhưng nhìn về chúng ta, an ủi, nâng đỡ ta. Cái nhìn âu yếm và
đau buồn của Mẹ đã sưởi ấm bao tâm hồn, đã lay tỉnh bao đứa con hoang đàng. Mắt
Mẹ hướng về chúng ta, nhưng tay Mẹ nắm chặt lấy hai tay của Chúa Kitô. Nắm
chặt, không phải để cản ngăn Chúa trừng phạt loài người, nhưng là để đón nhận
tất cả ân huệ của Chúa Cứu Thế. Đón nhận cho Mẹ một cách dồi dào và đón nhận
cho con cái của Mẹ.

Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Giáo hội, Mẹ Hằng Cứu Giúp, đó là ba điểm son của bức chân dung mà Thiên Chúa đã dùng để đưa mọi người về với Đức Maria và sau cùng, về với Chúa Kitô, Đấng Cứu Chuộc của Đức Mẹ và của chúng ta.

 

Nguyệt san Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp


Số 203-4/1966

Phản ứng của thế giới tôn giáo và chính trị về sự kiện ĐGH Bênêđictô XVI từ chức

Phản ứng của thế giới tôn giáo và chính trị về sự kiện ĐGH Bênêđictô XVI từ chức

Đăng bởi lúc 7:37 Sáng 12/02/13

nguồn: chuacuuthe.com

VRNs (12.02.2013) – Roma, Italia – Ngay sau khi Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đích thân loan báo ngài sẽ từ chức, thì các cơ quan truyền thông nhanh chóng đăng tải sự kiện này. Riêng truyền hình quốc gia Trung Quốc CCTV không đưa tin. Dưới đây là một vài lời phát biểu của các quan chức tôn giáo và chính trị Tây phương.

Cha Federico Lombardi, phát ngôn viên của Tòa Thánh nói, “ĐTC làm tất cả chúng ta ngạc nhiên”.

Đức Hồng y Angelo Sondano, Niên trưởng Hồng y Đoàn nói: “Đây thực sự là một tiếng sét giữa bầu trời thanh quang”.

Đức cha Wojciech Polakl, Thư ký HĐGM Ba Lan: “Sự từ chức của ĐTC làm tất cả chúng ta hết sức ngạc nhiên. Nhưng ĐGH đã suy nghĩ kỹ xem ngài có còn đủ sức khỏe để chu toàn sứ vụ của  người kế vị thánh Phê rô khi tuổi đã cao”.

Rabbi Yona Metzger, Giáo trưởng Do Thái giáo, phát biểu: “Dưới triều đại của ngài (ĐGH Bênêđictô XVI), quan hệ giữa Giáo hội và giáo trưởng Do Thái đã cải thiện rất nhiều. Tôi hy vọng xu hướng này sẽ được tiếp tục”.

Đức Tổng Giám Mục Léonard, HĐGM Bỉ: “Trước hết tôi muốn diễn tả lòng biết ơn đối với một trong những vị giáo hoàng sáng chói nhất trên phương diện tri thức và thần học trong 150 năm vừa qua. Đó là một trí tuệ mẫn tiệp, một tấm lòng khiêm
nhường, đặc biệt là khả năng hiểu biết, tinh thần tổng hợp nhưng cũng hài hước.
Bênêđictô XVI là mẫu người khác hẳn vị tiền nhiệm Gioan Phaolo II, chắc chắn
ngài không cảm thấy thoải mái trong đám đông, nhưng với ngài chúng ta có thể có
những cuộc trò chuyện riêng tư rất thú vị. Ngài là bạn tôi hồi xa xưa nhưng
chúng tôi rất hiểu nhau và tôi rất ngạc nhiên và vui mừng khi ngài được bầu làm
giáo hoàng năm 2005, mặc dù trước đó có những lời đồn đại bất công của một vài
người đối với ngài”.

Đức Tổng Giám mục Justin Welby, Giáo chủ Anh giáo, phát biểu: “Với tấm lòng trĩu nặng và với sự thông cảm hoàn toàn, chúng tôi hiểu quyết định từ chức giám mục Roma sáng nay của ĐGH Bênêđictô XVI, chức vụ mà ngài đã chu toàn bằng phẩm giá, bằng sự hiểu biết và bằng lòng can đảm lớn lao. Trong chuyến viếc thăm vương quốc Anh, ĐGH đã cho mọi người thấy một phần trong ơn gọi của sứ vụ giám mục Roma trên phương diện thực tiễn là làm chứng cho tầm ảnh hưởng hoàn vũ của Tin mừng và trở thành sứ giả mang niềm hy vọng trong lúc niềm tin Kitô giáo đang bị đặt vấn đề. Chúng tôi cầu xin Thiên Chúa chúc lành cho ĐGH trong khi về hưu, để ngài lòng trí ngài được bình an và chúng tôi phó thác cho Chúa Thánh thánh những ai có trách nhiệm bầu chọn người kế vị ngài”.

Ông Romana Prodi, cựu Thủ tướng Ý và cũng là cựu Chủ tịch Ủy Ban châu Âu nói: “Tôi cảm thấy vô cùng gần gũi với Đức Thánh Cha trong quyết định nghiêm trọng và khó khăn này. Trong lúc này tôi thấy cần thiết phải có bổn phận diễn tả lòng biết ơn của chúng ta, vì sự quyết định mới mẻ và bất ngờ của Đức Thánh Cha, góp phần mang lại một sự đổi thay sâu xa trong Giáo Hội”.

Mario Monti, đương kim Thủ tướng Ý nói: “Tôi hết sức bàng hoàng vì tin này. Tôi mới biết cách đây vài phút. Đấy là một tin “tuyệt đối”. Trả lời câu hỏi của các nhà báo về mối quan hệ của nước Ý với Vaticano, ông thủ tướng nói: “Tôi thực sự không muốn bình luận về một đề tài quan trọng và sâu sắc thế này trước khi hiểu biết các sự kiện”.

Giorgio Napolitano, Tổng thống Cộng hòa Ý: “Như thực tế chứng tỏ và như chúng
ta đã nhận biết là ĐTC đã rất mệt mỏi và khó có thể đảm đương chức vụ. Tôi tin
quyết định của ngài là một hành động cực kỳ can đảm và được thực hiện trong
tinh thần trách nhiệm. Gánh vác trên vai một nhiệm vụ đòi phải dân thân một
cách phi thường như chức vụ giáo hoàng cần phải cân nhắc, trường thọ nhưng
nhưng không phải luôn luôn trong điều kiện tương ứng với việc chu toàn được
nhiệm vụ”. ĐGH Bênêđictô đã có một hành động can đảm lớn lao và một sự quảng
đại lớn lao. Bản thân tôi hết sức kính trọng ngài”.

Pier Luigi Bersani, Tổng Thư ký của Đảng Dân chủ Ý phát biểu trên Radio
Montecarlo: “Đấy là một quyết định có tầm mức lịch sử. ĐGH Bênêđictô là một nhà
thần học lớn, đã dùng thần học để phục vụ Giáo hội. Quyết định từ chức của ngài
là một hành động độc đáo, đặt cơ sở cho tương lai”.

Ông Angelino Alfano, Thư ký Đảng Nhân dân vì Tự do Ý, phát biểu: “Tôi diễn tả lòng biết ơn sâu xa đối với những gì ĐGH đã thực hiện với quyền giáo huấn của ngài và đối với những gì ngài sẽ tiếp tục thực hiện trong tương lai”.

Bà Merkel, Thủ tướng Đức bày tỏ: “Lòng kính trọng sâu nhất đối với quyết định từ nhiệm của ĐGH vì lý do tuổi cao”. Bà cũng nói rằng “ĐGH là một trong những nhà tư tưởng tôn giáo quan trọng nhất của thời đại chúng ta. Ngài đã đưa ra quyết định từ chức là vì lợi ích của Giáo Hội và của các tín hữu trong Giáo Hội”.

Ông Francois Hollande, Tổng thống Pháp: “Đấy là một quyết định
đáng được kính trọng cách tuyệt đối. Tổng thống Cộng hòa Pháp đón chào quyết
định này của Đức Thánh Cha nhưng không có bình luận nào thêm về sự kiện trước
nhất thuộc về Giáo Hội. Đó là một quyết định nhân bản và là một quyết định gắn
kết với một ý chí cần phải được tôn trọng”.

Ông Barack Obama, Tổng thống Hoa Kỳ: “Nhân danh nhân dân Hoa Kỳ trên thế giới, Michelle và bản thân tôi muốn diễn tả lòng biết ơn và lời cầu nguyện của chúng ta dành cho Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI. Tôi đánh giá cao công việc mà chúng ta đã cùng nhau thực hiện 4 năm vừa qua, mà trong đó có một số chính sách, nhất là trong lãnh vực ngừa thai, đã tạo nên những va chạm với các tổ chức công giáo Hoa Kỳ. Giáo hội Công giáo đóng một vai trò chủ chốt tại Hoa Kỳ và trên thế giới và tôi muốn gửi những lời cầu chúc của tôi đối với những ai sắp tham dự bầu chọn người kế vị
ĐGH”

Ông Cameron, Thủ tướng Anh: “Tôi xin gửi lời chúc mừng đến ĐGH Bênêđictô XVI. Ngài đã làm việc không ngừng để củng cố mối quan hệ giữa Vatican với Vương quốc Anh. Chuyến viếng thăm Vương quốc Anh của ngài năm 2010 được ghi nhớ với lòng kính trọng và yêu mến”.

Ông Kris Peeters, Thủ tướng kiêm Tổng thống Bỉ diễn tả lòng “kính trọng
đối với quyết định của ĐGH Bênêđictô XVI”, muốn chuyển giao chức vụ cho người
kế vị “ngược với truyền thống”. Thời đại chuyển biến nhanh chóng này đòi hỏi
rất nhiều trên bình diện kinh tế, xã hội và “điều này cũng có giá trị đối với
những nhà lãnh đạo tinh thần”. Kris nhấn mạnh rằng “họ phải tìm được sự quân
bình chính đáng giữa đòi buộc chính thức và sự thích nghi, giữa truyền thống
của quá khứ và những thách thức của thời đại và những con người ấy phải có khả
năng hành động với niềm tin lớn lao, dựa trên một sức khỏe khả quan”.

Thăng Long, VRNs

Tổng hợp từ báo chí Tây phương

 

Video: Đức Thánh Cha Bênêđíctô thứ 16 tuyên bố thoái vị sáng Thứ Hai 11/2/2013

Video: Đức Thánh Cha Bênêđíctô thứ 16 tuyên bố thoái vị sáng Thứ Hai 11/2/2013

2/11/2013

Sáng nay thứ Hai 11/2/2013, Đức Thánh Cha Bênêđíctô thứ 16 đã tuyên bố thoái vị vì lý do sức khoẻ.

Dưới đây là lời tuyên bố của Đức Thánh Cha trong công nghị Hồng Y đặc biệt
diễn ra sáng thứ Hai 11/2/2013. Ngài nói bằng tiếng La Tinh
Các Hiền Huynh thân mến,
Tôi đã triệu tập các Hiền Huynh đến Công Nghị này, không chỉ để bàn về ba án phong Thánh nhưng còn là để trao đổi với các Hiền Huynh một quyết định rất quan trọng đối với đời sống của Giáo Hội. Sau nhiều lần tự vấn lương tâm trước mặt Chúa, tôi đã đi đến sự xác tín rằng năng lực của tôi, do tuổi cao, không còn phù hợp để cáng đáng đầy đủ sứ vụ Giáo Hoàng. Tôi biết rằng sứ vụ này, do bản tính siêu nhiên của nó, phải được thực hiện không chỉ bằng lời nói và việc làm, nhưng phải đi kèm với không ít những lời cầu nguyện và đau khổ. Tuy nhiên, trước một thế giới với quá nhiều những thay đổi nhanh chóng và đang rúng động bởi những vấn nạn liên quan sâu sắc đến đời sống đức tin; để có thể lèo lái con thuyền của Thánh Phêrô và rao giảng Tin Mừng, cả năng lực của trí óc lẫn thể xác đều là cần thiết. Năng lực của tôi trong vài tháng qua, đã xấu đi đến mức mà tôi phải thừa nhận sự bất lực của tôi không thể đáp ứng đầy đủ sứ vụ được giao phó cho mình. Vì lý do này, và cũng nhận thức được mức độ
nghiêm trọng của hành động này, với hoàn toàn tự do, tôi tuyên bố thoái vị
khỏi sứ vụ của Giám Mục Roma, Người kế vị Thánh Phêrô, đã được giao phó cho tôi bởi các Hồng Y ngày 19 Tháng Tư năm 2005. Như thế, kể từ 20 giờ ngày 28 Tháng Hai năm 2013, Ngai Tòa Thánh Phêrô, sẽ được bỏ trống và một Mật Nghị Hồng Y s được triệu tập để bầu vị Giáo Hoàng bởi những vị có thẩm quyền.
Các Hiền Huynh thân mến,
Tôi chân thành cảm ơn tất cả anh em vì tình yêu và những công việc mà anh em đã ủng hộ tôi trong sứ vụ của mình và xin tha thứ cho tất cả các khiếm khuyết của tôi. Và bây giờ, chúng ta hãy ủy thác Giáo Hội cho sự chăm sóc của vị Mục Tử tối cao của chúng ta, là Chúa Giêsu Kitô, và khẩn cầu Mẹ Maria chí thánh của Ngài trợ giúp các Hồng Y Giáo Phụ với lòng ưu ái từ mẫu của Mẹ trong việc bầu Đức Tân Giáo Hoàng. Liên quan đến bản thân mình, tôi cũng muốn tận tụy phục vụ Giáo Hội Thánh của Thiên Chúa trong tương lai thông qua một cuộc sống tận hiến cho việc chuyên tâm cầu nguyện.
Từ Vatican, ngày 10 tháng 2 năm 2013
+ BENEDICTUS PP XVI
Bản Anh Ngữ từ Phòng Báo Chí Tòa Thánh
Dear Brothers,
I have convoked you to this Consistory, not only for the three canonizations,
but also to communicate to you a decision of great importance for the life of
the Church. After having repeatedly examined my conscience before God, I have come to the certainty that my strengths, due to an advanced age, are no
longer suited to an adequate exercise of the Petrine ministry. I am well
aware that this ministry, due to its essential spiritual nature, must be
carried out not only with words and deeds, but no less with prayer and
suffering. However, in today’s world, subject to so many rapid changes and
shaken by questions of deep relevance for the life of faith, in order to
govern the bark of Saint Peter and proclaim the Gospel, both strength of mind
and body are necessary, strength which in the last few months, has
deteriorated in me to the extent that I have had to recognize my incapacity
to adequately fulfill the ministry entrusted to me. For this reason, and well
aware of the seriousness of this act, with full freedom I declare that I
renounce the ministry of Bishop of Rome, Successor of Saint Peter, entrusted
to me by the Cardinals on 19 April 2005, in such a way, that as from 28
February 2013, at 20:00 hours, the See of Rome, the See of Saint Peter, will
be vacant and a Conclave to elect the new Supreme Pontiff will have to be
convoked by those whose competence it is.
Dear Brothers,
I thank you most sincerely for all the love and work with which you have
supported me in my ministry and I ask pardon for all my defects. And now, let us entrust the Holy Church to the care of Our Supreme Pastor, Our Lord Jesus Christ, and implore his holy Mother Mary, so that she may assist the Cardinal Fathers with her maternal solicitude, in electing a new Supreme Pontiff. With regard to myself, I wish to also devotedly serve the Holy Church of God in the future through a life dedicated to prayer.
From the Vatican, 10 February 2013
BENEDICTUS PP XVI