Từ nghiện ngập trở thành linh mục giúp người nghiện ma túy

Từ nghiện ngập trở thành linh mục giúp người nghiện ma túy

Peter Thái Hùng

1/10/2014

Món quà từ sự trở về của linh mục Phanxico xavie Trần An!

Cảm nhận từ cuộc gặp gỡ với “người cha” của Trung Tâm Hướng Thiện – La Vang

Trong một con người ta sẽ luôn tìm thấy món quà vô giá mà Thiên Chúa ban tặng, đó chính là sự sống. Sự sống vẫn luôn triển nở cho dù con người có nhận ra và trân trọng điều đó hay không. Có những người tự vùi dập món quà mà Chúa ban tặng. Để rồi, họ sống mà như đã chết. Tồn tại mà như ở trong cõi hư vô. Tuy nhiên, Thiên Chúa là Đấng hết mực yêu thương vẫn luôn quan phòng gìn giữ sự sống mà Ngài đã thông ban. Bởi thế, Ngài vẫn dùng tình yêu của mình để cảm hóa những cuộc đời còn đang chìm lạc trong bóng tối của u mê khờ dại vì buông mình theo thế gian. Ngài dẫn đưa họ về với ánh sáng của Chân Lý, dẫn đưa họ về với tình yêu và để cho họ cũng trở thành những chứng tá cho tình yêu.

Xem Hình

Trong đời sinh viên của mình, tôi cũng từng suy nghĩ rất hạn hẹp. Cuộc sống vẫn cứ trôi trong cái dòng chảy không biết điểm dừng chân, không biết đích đến. Nhưng rồi, một cuộc gặp gỡ đã khiến tôi hồi tâm và dừng lại trong chính bản thân để suy gẫm về món quà của Thiên Chúa ban tặng. Suy gẫm về cuộc đời và về sự sống. Đó là cuộc gặp gỡ khiến tôi thay đổi về cả cách sống cũng như cách nhìn về một con người.

Theo cách thông thường, chúng ta thường đánh giá người khác qua lăng kính chung: Địa vị, danh vọng, tiền bạc,… hoặc tốt hơn một chút ta đánh giá cái đạo đức, cái tính tình, cái thể hiện ra bên ngoài. Qua lăng kính đó đôi lúc khiến ta quên mất cái chính yếu nhất trong một con người: nhân vị! Qua cái lăng kính đó ta quên rằng: con người mà ta đang nhìn đến đang mang trong mình hình ảnh và tình yêu mà Thiên Chúa đặt để. Chính việc nhìn vào sự thay đổi của một con người bằng xương bằng thịt mà tôi có cách nhìn nhận trọn vẹn và sâu sắc hơn. Chính sự thay đổi của một con người từ trong vũng bùn của tội lỗi, của sự tha hóa biến chất trở thành một vị Linh mục, thành một mẫu gương cho người khác mà tôi mới biết tình yêu Thiên Chúa dành cho con người thật vô tận và chương trình của Ngài thật không thể nào suy thấu. Câu Kinh Thánh: “Như trời cao hơn đất bao nhiêu thì tư tưởng của Ta vượt trên tư tưởng của các người bấy nhiêu” (Isaia 55:8-10) thật ứng với tôi lúc này.

Cha An cầu nguyện với những người đang cai nghiện

Có một con người đã thay đổi như thế. Một chàng thanh niên từ cảnh giàu sang đến sự thấp hèn vì lối sống buông thả. Từ cảnh được mọi người ngưỡng mộ đến lúc phải trốn chạy sự dèm pha của người đời. Bởi chìm trong lạc thú, bởi sa đọa trong những thói hư tật xấu, bởi tự vùi dập mình trong tệ nạn chích hút hoang đàng. Tuy nhiên, Thiên Chúa đã đánh thức lương tri nơi con người ấy. Ngài đã giúp cho khao khát sống, khao khát tự do trong tình yêu nơi con tim chàng trở nên mãnh liệt. Để rồi, chàng trai đã trở về sống đời công chính. Chàng trai ấy đã trở thành một vị linh mục của tình yêu. Hơn nữa, từ sự tha hóa đến lúc trở về của chàng thanh niên ấy Thiên Chúa đã hoạch định một chương trình cho biết bao con người khác. Qua cuộc đời của chàng thanh niên rất nhiều cuộc đời đã đổi thay, rất nhiều con người đã tìm lại sự sống thật. Chính chàng trai, chính cuộc đời của vị linh mục đó cũng đã đánh thức con tim và cho tôi một cách nhìn mới về tha nhân. Vị linh mục mà tôi muốn nhắc đến ở đây là cha Phanxicô Xaviê Trần An, linh mục Đan viện Thiên An – Huế.

Sinh ra trong một gia đình thuộc loại khá giả thời bấy giờ ở giáo xứ Cầu Rầm, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Cha Phanxicô Trần An được sống trong cảnh bao bọc yêu thương của những người cha, người mẹ đạo hạnh. Lớn lên, giỏi dang trong học tập và được sự yêu mến của mọi người chung quanh. Nhưng rồi cậu thanh niên Trần An đã thay đổi từ một quyết định của tuổi trẻ, của sự tự do và trong sự tin tưởng của cha mẹ. Một khoản vốn đã được cha mẹ chấp thuận khi cậu muốn tách riêng để làm ăn kinh doanh: làm nghề vàng và buôn bán vàng bạc. Bằng tài năng của mình, chàng trai đã rất thành công và gây dựng được danh tiếng mà không phải ai ở độ tuổi của cậu cũng có được. Rất nhiều người ngưỡng mộ, rất nhiều người yêu mến bởi vì dù thành công An vẫn luôn tỏ ra là một con người lịch sự, lễ phép và sống chân thành với người khác.

Thế nhưng, chuyện gì đến cũng sẽ đến. Sống trong một xã hội của một thành phố Vinh nổi tiếng chất chứa nhiều cạm bẫy, nhiều sự lôi kéo vào con đường ăn chơi, hưởng thụ. Cũng yếu đuối, cũng nông nổi, cũng ham muốn như bao người trẻ khác, hơn nữa, trong cảnh đầy đủ và thành công ban đầu dễ khiến Trần An bị cuốn vào vòng xoáy của lớp thanh niên đương thời. Ăn chơi, tiêu phá hết tất cả những gì đã gầy dựng. Sa vào bất mãn và mong muốn gỡ lại những gì nhận từ phụ mẫu. Trần An đã sai lại càng thêm sai. Chán nản, buồn bã Trần An lại càng lâm vào vui chơi hoang đàng, sa đọa trong men đắng tình trường, trong nghiện ngập chích hút. Cuộc đời và những người bạn xấu đã đẩy Trần An đến việc lỗi phạm đức công bằng, đưa Trần An đến chỗ thân tàn ma dại và ra vào vòng lao lý.

“Giữa cuộc đời tha hương lữ thứ

Tôi đi tìm lạc thú niềm say

Khi cuộc tình khi chén rượu cay

Khi quân bài hay khi khói thuốc…

Bỗng đâu chiếc còng người cảnh sát

Dẫn tôi đi vào chốn quạnh hiu

.. ….” (Trần An, 10.1995)

Thế nhưng, tình yêu của người mẹ, lời cầu nguyện và nước mắt của bà, cũng như chương trình của Chúa dành cho cậu thật quá ư vĩ đại. Được thức tỉnh và muốn làm vui lòng cha mẹ, Trần An đã được gửi đến Đan viện Thiên An để tĩnh tâm, để cai nghiện. Trải qua bao thăng trầm của một cuộc sống thật quá ư xa lạ, Trần An đã thành công và còn dâng hiến đời mình cho Chúa. Chàng muốn dâng cả thân xác và linh hồn mình để một đời thân mật với Chúa, đáp lại ân huệ yêu thương mà Chúa đã dành. Để rồi, bây giờ không ai không biết đến một vị linh mục mang cái tên rất đỗi thân thương và chứa đựng nhiều ý nghĩa: Phanxicô Trần An hay thường gọi là “Tràn Ân”.

“……….

Con xin cảm tạ Chúa nguồn yêu

Đã thương ban tặng biết bao điều

Từ vũng bùn nhơ Ngài thánh hiến

Đưa về chung sống bến “Trời yêu”

.. ….” (Trần An, 28.5.1995)

Không dừng ở đó, cha Trần An còn đã và đang thực hiện một công việc mà đối với cuộc đời từng trải như cha thật không mấy người có thể thay thế. Cha đã xin phép và được bề trên chấp thuận để lập một trung tâm giúp đỡ cho những thanh niên từng lâm vào cảnh nghiện ngập trở về. “Trung tâm Hướng Thiện” do cha An sáng lập và điều hành đã được xây dựng ngay phía sau linh địa Đức Mẹ La Vang (Quảng Trị), nơi mà Đức Mẹ không ngừng kêu gọi ăn năn hoán cải. Đến nay, dù thời gian chưa đầy hai năm, nhưng đã có hàng trăm con người sa ngã đã đến và được cha Trần An hướng dẫn tĩnh tâm. Trong số đó, đã rất nhiều người trở về lại với gia đình, thành công trong công việc kinh doanh. Hơn nữa, có 6 người tại Trung Tâm Hướng Thiện đã bước theo con đường của cha An để dâng mình cho Chúa trong các tu viện và đan viện, 6 người anh chị em từ trung tâm đã được hồng phúc lãnh nhận phép rửa để trở thành con cái của Thiên Chúa. Tôi cũng từng có may mắn được viếng thăm và sinh hoạt cùng những con người nơi Trung tâm Hướng Thiện mà cha An đã gầy dựng nên. Những con người mà có lẽ khi nghe nói về họ, về quá khứ nghiện ngập, trường trại và lối sống buông thả mà họ đã từng chúng ta sẽ có một cảm giác sợ hãi hay khinh thường… Thế nhưng, nơi Trung tâm Hướng Thiện những con người ấy lại trở nên thu hút một cách lạ kỳ. Nơi ấy đầy ắp tiếng cười và như một cộng đoàn dòng tu thực thụ với lối sống kỷ luật, tự giác. Họ đã không còn bị tiền bạc chi phối khi chấp nhận sống mà không giữ tiền riêng. Họ đã trở nên những con người có nề nếp khi chấp nhận một lối sống mới đúng giờ giấc, đúng lịch trình sinh hoạt hằng ngày. Họ đã trở về với Chúa và đến với Ngài mỗi ngày trong các giờ kinh phụng vụ, các thánh lễ bên người cha yêu quý của họ. Những con người đã quen với lối sống giành giật, trộm cắp, phung phí, chích hút…nay lại đổ mồ hôi hằng ngày để lao động, để làm việc. Họ đã bị đánh động bởi một cuộc đời đổi thay để rồi cũng thay đổi chính mình. Họ đã bị tiếng đàn, tiếng hát, hay những lời thơ chứa đựng bao niềm cảm xúc, chứa đựng bao tâm tư và cũng là nhật ký của một con người mang tên Trần An đánh động. Từ những người xa lạ với Thiên Chúa, xa lạ với đời sống Đức Tin thế mà giờ đây họ đang nếm hưởng những mật ngọt của tình Chúa. Họ đã và đang dần nhận ra Chúa nơi chính bản thân và nơi người khác để rồi biết tôn trọng món quà quý giá mà họ được lãnh nhận nơi Ngài.

Thật là một câu chuyện cảm động về kế hoạch yêu thương mà Thiên Chúa đã hoạch định. Dù Trung Tâm Hướng Thiện của vị linh mục “Tràn Ân” còn gặp nhiều khó khăn và thách đố, nhưng tin tưởng rằng: Chúa đang cùng cha An đồng hành để đưa tin vui đến cho nhiều gia đình, đưa niềm hy vọng đến cho nhiều phận người sa ngã, khổ đau.

Peter Thái Hùng

Bốn Mươi Năm, Một Dòng Lệ

Bốn Mươi Năm, Một Dòng Lệ

Lê Tín Hương

LTS: Bà Lê Tín Hương hiện ở California, là một nhạc sĩ, cũng là một nhà văn, qua cha cố Trọng đang nghỉ hưu tại Orange County, California, gởi cho chúng tôi câu chuyện về Ơn Lạ của Mẹ Lavang ban cho gia đình bà cách đây 40 năm. Xin mời bạn đọc theo dõi. “Về bên Mẹ Lavang” chân thành cám ơn tác giả.

Tôi rời nhà lúc sáu giờ sáng Chủ Nhật. Lái xe trong cơn mưa tầm tã, trên con đường dài vẫn còn mù mờ tối của một buổi sáng mùa đông lạnh, đối với tôi là một việc làm gần như rất hiếm hoi. Ngày cuối tuần, nhất là những sáng trời mưa, tôi vẫn có cái thú rúc trong chăn và nằm nướng. Cây đàn Tây Ban Cầm được gác sẵn bên góc đường để tôi có thể với tay kéo lên bất cứ lúc nào, và ngồi dậy tựa lưng vào thành giường nhã hứng… Những dòng nhạc về mưa, về thân phận lúc đó lại có cơ hội tiếng thăng tiếng trầm đến với cuộc đời…

Riêng sáng hôm nay, lòng tôi nao nao mong đợi. Tôi thức dậy sớm. Sau một chút trang điểm nhẹ nhàng, tôi chọn cho tôi chiếc áo màu trắng, khoác ngoài chiếc áo ấm màu đen và sẵn sàng chờ giờ ra xe. Trời chưa thấy sáng và giờ đi hãy còn sớm. Tôi bâng khuâng ngồi nhìn ra khung cửa, mưa vẫn còn nặng hạt, dấu chỉ báo hiệu cho một cơn mưa có thể kéo dài đến chiều…

Liên tưởng đến buổi Thánh Lễ Ðại Trào mà tôi sẽ tham dự sáng nay, khai mạc năm Toàn Xá 200 năm Ðức Mẹ Lavang và kỷ niệm 10 năm phong thánh, 117 vị anh hùng Tử Ðạo Việt Nam. Tôi bỗng thấy lòng lâng lâng xúc động. Ngoài sự cảm phục về tấm gương sáng ngời tình yêu và tuyên xưng đức tin của các Thánh Tử Ðạo, thì mỗi khi nhắc đến Mẹ Lavang, là gợi lại trong tôi hồi tưởng về một khung trời thơ ấu xa xưa với biến cố trọng đại đã đến với gia đình tôi cách đây 40 năm về trước, vào một ngày mưa gió như hôm nay…

Năm 1958, ba tôi làm việc tại bệnh viện Trung Ương thánh phố Huế. Mỗi tháng ông vẫn cùng các bác sĩ đi thanh tra các bệnh viện nhỏ ở các vùng lân cận. Hôm ấy, ông sửa soạn đi thăm bệnh viện Quảng Trị, cách thành phố Huế khoảng 65 cây số về phía Tây Bắc.

Tôi còn nhớ rõ sáng hôm ấy trời mưa lạnh. Những cơn mưa mà những ai đã từng ở Huế chắc chắn không thể nào quên được. Mưa tầm tã, rả rích kéo dài từ ngày này sang ngày khác tưởng chừng như vô tận. Ba tôi chuẩn bị lên đường. Chiếc xe chở ông cùng ba vị bác sĩ và một nhân viên bệnh viện đã đón ông ở ngoài cổng. Ba tôi mặc vào người chiếc áo jacket bằng da và dặn dò mẹ tôi một vài điều gì đó rồi vội vàng ra xe.

Bước xuống mấy bậc thềm ông gặp ngay cha Luận đang bước vào. Cha Cao Văn Luận cùng quê quán với cha tôi, Ngài rất gần gũi và thương yêu gia đình tôi. Một trong những mong mỏi của Ngài là được thấy gia đình tôi theo Ðạo.

Tuy rất kính và quý mến cha nhưng điều đó với ba mẹ tôi là một trở ngại lớn, không thể nào thực hiện được. Cả hai bên nội ngoại tôi không ai có Ðạo. Mẹ tôi đồng thời lại là một Phật Tử. Bà đã quy y, pháp danh Nguyên Khai. Bà cũng đã từng xây chùa cho làng ngoại tôi tại Huế. Mẹ tôi là một người đàn bà có học. Như đa số những bà mẹ Việt Nam khác rất hiền lành và nhẫn nhục. Cả cuộc đời hy sinh cho hạnh phúc của chồng con, nhưng trong vấn đề tín ngưỡng thì lại rất cương quyết, chẳng thể nào lay chuyển được. Ba tôi biết thế nên ông rất tôn trọng mẹ tôi mặc dầu ông rất kính mến cha Luận.

Cha Luận gặp ba tôi, Ngài bắt tay rất vui vẻ, Ngài đưa cho ba tôi một tấm ảnh và bảo: “Tôi mới đi kiệu ngoài Lavang về. Tôi kính cho ông một tượng ảnh của Mẹ Lavang. Ðức Mẹ đã làm nhiều phép lạ và rất linh thiêng. Ông hãy giữ lấy mà cầu nguyện.”

Ba tôi cười cười, nói cám ơn cha, rồi thuận tay ông nhét tấm ảnh vào túi trong của chiếc áo da.

“Con phải đi ngay cha à, mọi người đang đợi con ở ngoài kia.” Vừa nói ba tôi vừa chào từ giã cha rồi ra xe.

Tôi nhìn theo chiếc xe chở ba tôi khuất dần, khuất dần sau màn mưa dày đặc…

Buổi chiều trong khi người nhà chuẩn bị bữa cơm, chúng tôi ngồi nghe mẹ kể chuyện. Mẹ đang kể một đoạn trong câu chuyện “những kẻ khốn cùng” (les misérables) của văn hào Victor Hugo thì chúng tôi nhận được hung tin. Chiếc xe chở ba tôi và bốn người nữa đã bị lật tại cầu Giồng Quảng Trị và chìm xuống sông. Tất cả đều tử nạn. Bệnh viện báo tin và yêu cầu gia đình ra ngay hiện trường để nhận xác đồng thời để tẩm liệm tại chỗ cho thân nhân…

trước biến cố bất ngờ đó, mẹ tôi như người bị sét đánh. Bà run rẩy rững sờ ôm lấy tôi. Làm sao tôi có thể diễn tả hết nỗi đau đớn trong lòng mẹ lúc ấy… (giờ đây sau biết bao lần chứng kiến những chia ly, tử biệt, tôi mới ngậm ngùi thấm thía được niềm đau đớn của những nỗi đợi chờ tuyệt vọng), chỉ biết là đã nhìn thấy mẹ đầm đìa nước mắt và cả chúng tôi nữa…

Ngoài kia dòng lệ của đất trời vẫn hững hờ rơi…

Mẹ tôi và chị em tôi theo chiếc xe của bệnh viện ra Quảng Trị nhận xác cha. Ðến nơi, tại một trạm gác nhỏ nằm cuối chân cầu, xác của ba vị bác sĩ và nhân viên bệnh viện đã được vớt lên. Còn thi hài của ba tôi thì chưa tìm thấy. Người ta chưa vớt được ba tôi nhưng mọi người xác định là ông cũng cùng một số phận với những người đã tử nạn; nhất là ông đã chìm sâu dưới lòng nước quá lâu. Mẹ tôi mặt mày bạc nhược tái xanh, mắt đỏ hoe vì khóc, đứng ở một góc phòng chờ đợi…

Thân nhân của các nạn nhân đều đã tới, tiếng kêu gào khóc kể nghe rất não lòng. Tôi vừa buồn vừa sợ, mơ hồ cảm thấy một khúc quành nào đó thật ngặt nghèo đang chờ đợi gia đình tôi.

Em tôi vì còn nhỏ, có lẽ chưa hiểu lắm, nép trong lòng mẹ ngơ ngác nhìn quanh: “Ba đâu, ba đâu mẹ!” Mẹ tôi chưa kịp dỗ dành em thì bỗng có tiếng người la lớn:

“Ðây rồi, vớt được xác sau cùng rồi!”

Là ba đó, mẹ tôi chạy nhào tới.

Phải rồi, người ta đang khiêng ba tôi vào, đặt ba tôi nằm trên chiếc băng ca.

Lại có tiếng người la lên: “Trời ơi! Ông ta hình như chưa chết. Còn thở. Hơi thở yếu lắm. Làm hô hấp nhân tạo ngay đi!”

Và ba tôi quả còn sống thật! Mẹ tôi quỳ xuống lạy trời lạy đất. Cám ơn Trời Phật đã cứu sống ba tôi. Nước mắt một lần nữa tuôn dầm dề trên má mẹ, nhưng lần này là những giòng nước mắt hạnh phúc không ngờ…

Chúng tôi quỳ chung quanh chiếc băng ca nơi ba tôi đang nằm.

Ba tôi tỉnh lại hẳn. Ông nói bằng một giọng nói thật yếu ớt, câu nói đầu tiên mà tôi không bao giờ quên được: “Hãy xin cha rửa tội, rửa tội cho cả nhà, Ðức Mẹ Lavang đã cứu ba.”

Nói xong ông đưa tay vào trong túi áo da lục lọi kiếm tìm, và sau đó ông rút ra tấm ảnh Ðức Mẹ Lavang. Tấm tượng ảnh mà cha Luận đã cho ông trước chuyến đi định mệnh. Tấm ảnh đã ướt sũng và đậm màu vì thấm nước, nhưng hình Ðức Mẹ với chiếc áo choàng xanh vẫn còn in rõ nét.

Ba tôi nói tiếp: “Ðây chính Bà này đã cứu ba, Bà đã lôi ba, lúc ấy đang mắc kẹt trong xe, ra khỏi cửa xe. Bà đẩy ba nổi lên mặt nước và nói Ta là Ðức Mẹ Lavang, Ta đến cứu con.”

Tôi chợt nghĩ lại, nếu ngày hôm đó ba tôi không vội vàng ra đi, và có thời giờ để tiếp chuyện với cha Luận. Có lẽ bức tượng ảnh Ðức Mẹ Lavang đã bị quên trong một ngăn kéo nào đó cùng với sự hững hờ của ba mẹ tôi.

Sau biến cố đó, gia đình tôi gồm ba mẹ và 7 anh chị em đã rửa tội trong sự tự nguyện rất hoan hỷ của mẹ tôi. Ba vị linh mục thân thiết của gia đình tôi, cha Cao Văn Luận, cha Ngô Văn Trọng lúc bấy giờ là cha Chánh Xứ họ đạo Phanxicô, hay còn gọi là Nhà Thờ nhà nước, nơi mà gia đình tôi cư ngụ, và cha Vũ Minh Nghiễm, Dòng Chúa Cứu Thế, người đã dày công dạy giáo lý cho chúng tôi. Cả ba vị linh mục này đã dâng thánh lễ và ban phép rửa tội cho chúng tôi.

Theo lời xin của ba tôi, để cảm tạ ơn thánh của Ðức Mẹ, lễ rửa tội được tổ chức tại Thánh Ðường Ðức Mẹ Lavang Quảng Trị. Mẹ tôi vô cùng vui mừng hân hoan, và tin tưởng lần chuỗi mân côi cảm tạ ơn Ðức Mẹ mỗi ngày. Cho đến ngày nhắm mắt bà là một tín đồ sốt sắng, sùng kính Ðức Mẹ tuyệt đối. Ðây là những hình ảnh cuối đời của mẹ tôi.

Tôi còn nhớ rõ sau thời gian gia đình chịu phép rửa tội. Mẹ tôi đã chịu đựng nhiều lời ra tiếng vào của họ hàng và những người quen biết. Họ cho rằng gia đình tôi theo đạo là để mưu cầu cho một quyền lợi nào đó. Về phần chúng tôi khi đến trường cũng nghe những lời đàm tiếu của bạn bè. Mỗi lần than vãn với mẹ thì mẹ lại khuyên răn chúng tôi: “Ba là cột trụ và là nguồn sống của gia đình chúng ta. Vì thế dầu có chịu bao nhiêu thử thách, khó khăn cũng phải chấp nhận để cảm tạ ân sủng đó. Tình yêu luôn luôn có cái giá phải trả, và cái giá đó có nghĩa gì đâu với ân huệ mà Ðức Mẹ đã ban cho gia đình chúng ta.”

Mẹ tôi nói đúng, ơn lạ mà Mẹ Lavang đã ban là một biến cố lớn trong đời sống tâm linh của gia đình, cũng là một biến cố trong lịch sử gia tộc. Ba tôi năm nay đã gần 90. Ông vẫn còn kính tấm tượng ảnh năm xưa đã cứu ông trên bàn thờ. Tấm ảnh Ðức Mẹ ngày nay đã mờ nhạt theo thời gian, nhưng mỗi ngày ông đều đọc kinh lần hạt cảm tạ Ðức Mẹ.

Câu chuyện mầu nhiệm này đã được chúng tôi thường xuyên kể lại cho con cháu nghe, như là một câu chuyện thần thoại nhưng có thật. Xẩy đến từ một trong những phép lạ của Ðức Mẹ Lavang đối với gia đình tôi nói riêng và nhiều gia đình khác nói chung.

Ngày đại lễ hôm nay trời cũng mưa. Tôi lái xe trong cơn mưa như trút nước, Lòng hạnh phúc vô cùng vì tôi được có Chúa. Có ánh sáng niềm Tin của Ngài chiếu rọi tâm hồn tôi. Có Tình Yêu bao la rộng mở của Ðức Mẹ đã đến với gia đình tôi từ thuở tôi mới lên mười…

Tôi lắng nghe những lời huấn từ của Ðức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận. Bằng giọng nói rõ ràng trầm ấm, Ngài nhắc lại lịch sử Giáo Hội Công Giáo Việt Nam từ những ngày đầu tiên. Qua biết bao nhiêu thăng trầm gian khổ có máu, có nước mắt và ngày nay đã được thăng hoa với 117 Vị Thánh Tử Ðạo. Gia đình ngài cũng đã theo Chúa cách đây 300 năm, với những thử thách cùng với nhiều ân sủng của Chúa, của Ðức Mẹ, đặc biệt là Mẹ Lavang. Ngài cũng kể lại những phép lạ mà Ðức Mẹ đã ban, trong đó có phép lạ chữa lành bệnh cho cha cố trọng, cha Linh Hướng của gia đình tôi.

Tôi tự cảm thấy gia đình mình may mắn, đã được hưởng một ân sủng quá đặc biệt đến từ Tình Yêu bao la không bờ bến của Ðức Mẹ.

Trong cái lạnh của mùa Ðông, lòng tôi bỗng nhiên ấm cúng. Tôi thấy tâm hồn như nở hoa. Ðóa hoa Yêu Thương trong vườn hoa rực rỡ của niềm Tin. Tôi hy vọng sẽ mãi mãi là đóa hoa đầy hương sắc, không bao giờ héo rũ úa tàn. Tôi thầm cám ơn Chúa, cám ơn Mẹ, cúi đầu để che dấu dòng lệ cảm xúc đang âm thầm rơi. Dòng lệ của hơn bốn mươi năm trước kể từ khi gia đình tôi được ơn lạ của Ðức Mẹ Lavang, trải qua biết bao sóng gió bể dâu… Có lúc đã ngưng đọng, có lúc tưởng chừng bị lãng quên, hôm nay lại từng giọt chảy dài… Những giọt lệ vui mừng. Những giọt lệ bồi hồi nhắc nhở tôi niềm hạnh phúc được nương náu trong Tình Yêu và Ân Sủng của Chúa, của Mẹ Maria.

California, Chúa Nhật ngày 22 tháng 2 năm 1998
Lê Tín Hương

Việt Nam đứng hàng thứ năm thế giới về giam giữ phóng viên

Việt Nam đứng hàng thứ năm thế giới về giam giữ phóng viên

Ông Joel Simon, giám đốc điều hành Ủy ban Bảo vệ Nhà báo (CPJ /Jeremy Bigwood)

Ông Joel Simon, giám đốc điều hành Ủy ban Bảo vệ Nhà báo (CPJ /Jeremy Bigwood)

Thanh Phương

RFI

Vào lúc tình hình nhân quyền Việt Nam sắp được đưa ra xem xét tại Liên hiệp quốc theo cơ chế Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát ( UPR ) ngày 05/02 tới, Ủy ban Bảo vệ Nhà báo ( CPJ ) vừa công bố một báo cáo, theo đó, Việt Nam đứng hàng thứ năm thế giới về giam giữ phóng viên.

Theo báo cáo 2013 của Ủy ban Bảo vệ Nhà báo( CPJ ), Việt Nam nằm trong số 10 nước đứng đầu danh sách các quốc gia giam giữ các phóng viên chỉ vì họ làm công việc nhà báo. Cụ thể, với 18 phóng viên đang ngồi tù, Việt Nam đứng hàng thứ 5 thế giới và chỉ là một trong hai quốc gia Đông Nam Á được nêu tên trong danh sách của năm 2013, cùng với Thái Lan ( 1 nhà báo bị giam ).

Chiếm hạng nhất trong danh sách năm 2013 là Thổ Nhĩ Kỳ ( 40 phóng viên bị giam ), tiếp đến là Iran ( 35 ), Trung Quốc ( 32 ) và Eritrea ( 22 ). Đứng hạng thứ năm, như vậy là « thành tích » của Việt Nam còn cao hơn cả Syria, vì quốc gia đang bị nội chiến ác liệt này chỉ đứng hàng thứ sáu, với 12 phóng viên đang ở sau chấn song sắt.

Trong số 18 nhà báo đang bị giam ở Việt Nam, CPJ đề cập trước hết trường hợp của blogger Điếu Cày/Nguyễn Văn Hải. Vào tháng 10 năm 2008, Điếu Cày đã bị tuyên án tù 2 năm rưỡi với tội danh trốn thuế, một tội danh mà theo các tổ chức nhân quyền chỉ là một cái cớ để bịt miệng một blogger vẫn chỉ trích mạnh mẽ chính quyền Hà Nội. Sau khi mãn hạn tù, blogger Điếu Cày lại tiếp tục bị tuyên án 12 năm tù giam và 5 năm quản chế với tội danh « tuyên truyền chống Nhà nước » trong phiên xử vào tháng 9 năm 2012.

Trong báo cáo, CPJ nhắc lại là vào năm ngoái, blogger Điếu Cày đã tuyệt thực từ ngày 23/06 để phản đối việc quản lý trại giam buộc ông phải nhận tội. Ông chỉ ngưng tuyệt thực ngày 27/07 sau khi Viện kiểm sát hứa điều tra về đơn khiếu nại của ông tố cáo về tình trạng ngược đãi trong nhà tù.

Ngoài blogger Điếu Cày, trong danh sách các phóng viên đang bị giam ở Việt Nam còn có Nguyễn Xuân Nghĩa, Trần Huỳnh Duy Thức ( Trần Đông Chấn ), Lư Văn Bảy ( Trần Bảo Việt ), Đặng Xuân Diệu, Hồ Đức Hòa, Paulus Lê Sơn, Nông Hùng Anh, Nguyễn Văn Duyệt, Tạ Phong Tần, Đinh Đăng Định, Lê Thanh Tùng, Nguyễn Văn Khương ( Hoàng Khương, báo Tuổi Trẻ ), Phạm Nguyễn Thanh Bình, Lê Quốc Quân, Trương Duy Nhất, Phạm Viết Đào, Võ Thanh Tùng ( Duy Đông, báo Pháp Luật TP Hồ Chí Minh).

Như ta thấy, trong danh sách 18 người nói trên, đa số là những blogger hay Facebooker, nhưng đối với CPJ, những người này làm công việc của nhà báo vì họ sử dụng Internet để chuyển tải thông tin hoặc bình luận về tình hình đất nước, trong bối cảnh mà Việt Nam chưa có báo chí tư nhân, mọi cơ quan báo chí đều do Nhà nước kiểm soát.

Ủy ban Bảo vệ Nhà báo ( CPJ ) ghi nhận con số 18 phóng viên bị giam ở Việt Nam năm 2013 là cao hơn so với năm 2012 ( 14 nhà báo ngồi tù ), vào lúc mà chính quyền Hà Nội gia tăng trấn áp giới blogger độc lập.

Khi loan tin về báo cáo của CPJ, trang mạng The Diplomat lưu ý rằng một số nước Đông Nam Á như Thái Lan, Cam Bốt hay Malaysia cũng đang đối phó với những lực lượng đối lập ngày càng mạnh, nhưng việc trấn áp báo chí ở những nước này chẳng có nghĩa lý gì so với ở Việt Nam.

 

Cầu nguyện:

Cầu nguyện:

Lạy Cha,
thế giới hôm nay cũng như hôm qua
vẫn có những người bơ vơ lạc hướng
vì không tìm được một người để tin;
vẫn có những người đã chết từ lâu
mà vẫn tưởng mình đang sống;
vẫn có những người bị ám ảnh bởi thần ô uế,
ô uế của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm;
vẫn có những người mang đủ thứ bệnh hoạn,
bệnh hoạn trong lối nhìn, lối nghĩ, lối sống;
vẫn có những người bị sống bên lề xã hội,
dù không phải là người phong…
Xin Cha cho chúng con nhìn thấy họ
và biết chạnh lòng thương như Con Cha.
***Nhưng trước hết, xin cho chúng con nhìn thy chính bn thân chúng con.  Amen!

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

From: ThiênKim

NGƯỜI CHẾT KHÔNG… ĂN

NGƯỜI CHẾT KHÔNG… ĂN

Truyện ngắn của Hồ Thuỷ

Vừa mới sáng sớm, bên nhà người láng giềng đã nhộn nhịp chuẩn bị làm đám giỗ chung cho cả ông bố và bà mẹ; nghe nói chết cũng đã chục năm nay, và năm nào cũng làm đám giỗ thật lớn, mời xóm giềng, bạn bè, người thân rồi còn anh em bà con…đông lắm, đâu chừng mười bàn lận đó.
Gia đình tôi dọn về đây chưa tới một năm, nhà tôi sát ngay bên phải nhà “cố cựu” mà hôm nay có đám giỗ; ông bà chủ nhà tên là Hướng, mẹ tôi thường nói :
– Bà con xa không bằng láng giềng gần.
Rồi mẹ còn dạy thêm một câu:
– Bán anh em xa mua láng giếng gần.
Vì vậy khi vừa mới dọn về mẹ đã qua làm quen, chào hỏi và dần dần thân thiện với nhà bên ấy.
Hôm qua bà Hướng mời cha mẹ và luôn cả mấy chị em tôi trưa nay qua nhà bà “ăn đám giỗ”, sáng nay mẹ đi chợ mua một giỏ trái cây loại ngon nhất và sai tôi đem qua trước để cúng, mẹ dặn dò tôi:
– Con phải thắp nhang vái lạy cung kính trước bàn thờ Ông Bà, rồi về nhà phụ với mẹ nấu cơm cho các em, biết rằng người ta mời cả nhà mình nhưng mình cũng phải giữ ý giữ tứ, mẹ qua bên ấy phụ với bác gái, chừng cha đi làm về thì qua sau, cón các con thì ăn cơm ở nhà.
Nhà bác ấy khá rộng, có hai tầng lầu, đám giỗ đãi mười bàn, phía trong phòng khách kê được sáu bàn, còn bốn bàn thì kê nhờ trước hiên nhà của hai bên hàng xóm. Thời đại mới này; hơn nữa lại ở Sài Gòn thì cái chuyện người nhà phải lo nấu nướng mỗi khi có đám tiệc là coi như:-“xưa rồi Diễm”, chỉ cần Alô cho dịch vụ nhóm nấu ăn là được đáp ứng ngay, món gì cũng có, tùy theo túi tiền của gia chủ mà ngon nhiều hay ngon ít.

Tôi không còn nhỏ, cũng chưa hẵn là lớn, nhưng trí óc thì cũng đã biết nhận định được nhiều điều phải và không phải. Mang trái cây sang nhà bác và đặt trước bàn thờ ông bà cụ, tôi thắp ba cây nhang rồi cung kính vái lạy ba cái như lời mẹ dạy, khói nhang nghi ngút làm cay sè chảy nước mắt, nhưng tôi cũng ráng cố gắng nhìn lên mặt hai cụ, bởi vì tôi có tánh xấu ưa tò mò quan sát nọ kia, mặc dù tôi là con gái, hình hai ông bà cụ được lộng chung vào một cái khung viền vàng lộng lẫy, trong hình không ai cười mà nét mặt lại rất nghiêm nghị, ánh mắt có vẻ buồn. Trước bàn thờ của ông bà cụ đã bày sẵn một cái bàn; trên bàn bày biện rất nhiều thức ăn ngon, lạ, nhìn thôi cũng đủ thèm, thật là hấp dẫn, lại có thêm một bình trà, rượu và ly tách chén bát bông hoa, trái cây…không thiếu thứ gì.
Hình như hai cụ…khóc thì phải?… hình như tôi thấy trong bốn khóe mắt của hai cụ long lanh bốn giọt nước?…và hình như nó sắp sửa…rơi ra?… Tự nhiên tôi nổi da gà, lạy hai cụ thêm một lạy và chạy nhanh ra khỏi phòng thờ. Có mấy người đang đi vào thắp nhang xá xá mấy cái. Không biết có ai thấy điều tôi vừa thấy? Hay tại tôi tưởng tượng mà ra?

Người đến “ăn” đám giỗ của hai cụ đông quá trời, đàn ông đàn bà ai nấy cũng quần là áo lượt, cũng son phấn chưng diện ngất trời, xịt nước hoa thơm phưng phức…đến ăn giỗ của người chết mà như đi ăn đám cưới của người sống vậy đó, mọi người nói cười rôm rã, họ đang cố nhớ ra một kỷ niệm nào đó đã có với người chết; vui hay buồn gì cũng được, miễn là có để kể cho nhau nghe, nhưng mà ông bà cụ già lắm rồi – ngoài bà con, con cháu và một số rất ít người hàng xóm biết về hai cụ – còn những người khác khi được mời đến ăn giỗ thì phần đông họ còn trẻ,hoặc mới dọn đến như gia đình tôi, câu đầu tiên khi nhắc hoặc kể về hai cụ hầu như đều bắt đầu bằng ba chữ: “ – Tui nghe nói…”.
Đám giỗ vui thật, rất ồn ào náo nhiệt, tôi nghĩ thầm trong đầu: mổi năm nên làm một lần để nhớ đến người đã khuất bóng, nhưng mà…
Mẹ tôi qua nhà bác, thật giản dị trong cái áo bà ba và quần xoa đen, mẹ đẩy tôi về nhà, mắng nhỏ vào tai tôi:
– Về nhà mà ăn cơm với các em, đứng chi ở đây đặng mà nhiều chuyện. Để mẹ vào phụ với bác gái.
Thật tình thì mẹ cũng biết rỏ là tôi ham đông vui. Nhưng sao hai giọt nước trong hai khóe mắt của các cụ cứ ám ảnh tôi mãi.

Tôi và hai đứa em lóng ngóng nhìn qua nhà bác Hướng, phê bình khách này khách nọ đẹp xấu…lung tung, có một bà sồn sồn trắng trẻo sang trọng, hình như là Việt kiều thì phải, bà ta ngồi gần mẹ tôi, nói cười thật rôm rã và hào hứng, tôi nghe câu được câu mất nhưng nếu gom góp lại thì cũng biết chút chút…
Những người đàn ông cùng nhau nâng ly lên, “hồ hỡi phấn khởi” mà hét to:
-…Dô…”chăm” phần “chăm”…dô…uống hết à nghen, không hết là bị phạt à nghen…dô…
Mặt người nào người nấy trông đỏ như gấc. Bia rượu khui ra không tiếc tay, thức ăn ê hề phủ phê. Một sự thừa mứa không nên có.
Em gái kế tôi nói :
– Chị Hai nè, nhà bác ấy làm đám giỗ lớn quá ha, em thấy nhà mình cha mẹ có bao giờ làm đám giỗ cho ông bà nội ngoại lớn như vậy đâu, năm nào cũng chỉ đãi chừng hai hoặc ba bàn thôi hà, mà chỉ toàn là bà con…
Em trai út ngây thơ trả lời thay tôi:
– Tại cha mẹ đâu có nhiều tiền như nhà bác ấy…chị Hai nhỉ. Mà sao làm đám giỗ hai người cùng một ngày?
Tôi không trả lời, tôi nghĩ không phải tại cha mẹ tôi không có nhiều tiền để làm đám giỗ to, cũng như tôi không biết tại sao hai cụ cùng được giỗ chung một ngày.
Tàn đám giỗ mẹ tôi lại phụ bác gái dọn dẹp nhà cửa. Nhờ được mời “ăn giỗ” hôm nay nên mẹ tôi biết được rất nhiều chuyện bên nhà bác Hướng; vì đây là lần đầu tiên mẹ tôi được bác mời qua nhà (ăn đám giỗ).

Bốn giọt nước trong bốn khóe mắt của hai ông bà cụ rơi xuống, lọt ra ngoài khung hình rồi nhập lại thành một giọt nước to đùng, giọt nước ấy lăn tròn… lăn tròn… nhảy nhót lưng tưng như trái pingpong dội trên nền xi măng, lúc đầu nó tròn vo sau đó thì méo mó biến dạng, nó bám theo chân bàn rồi trườn lên những dĩa thức ăn đặt trước bàn thờ, nó luồn lách, lùng sục, ngọ ngoạy và ngoáy sâu vào kẻ hở của tất cả những món ăn, hết đĩa này nó lại bò qua đĩa khác; không bỏ sót một dĩa nào, rồi từ dưới lòng những dĩa thức ăn đó nó laị rướn mình chui ra để leo lên ly rượu, và như một cái lưởi dài nó liếm quanh miệng ly; quậy sâu xuống đáy ly, sau đó thì nó bò qua dĩa trái cây, biến dạng thành hình lưỡi dao nhọn để chui vô trong ruột của từng trái, cuối cùng thì nó lảo đảo ngả nghiêng té nhào vào tách nước trà…Giọt nước mắt rong chơi trên mâm cơm cúng chừng như cũng đã thỏa thuê, nó quay lại bò lên bàn thờ, tách ra làm bốn giọt nước nhỏ như trước rồi trườn lên khung hình để trở về vị trí cũ, nơi nó đã thoát ra: đó là bốn khóe mắt của hai ông bà cụ…

Tôi giật mình tỉnh dậy, trán đẩm mồ hôi, thì ra đây chỉ là giấc mơ, một giấc mơ kỳ quặc hết sức nhưng cũng làm tôi sợ điếng người. Các em tôi đã ngủ say, tôi lần mò trong bóng tối để xuống bếp kiếm nước uống…
Có tiếng nói chuyện của cha mẹ tôi, dù rất nhỏ nhưng trong đêm khuya thanh vắng tôi nghe thật là rõ…

– Mình à, ông bà cụ nhà bác Hướng tội nghiệp ghê vậy đó. Em nghe kể mà thương.
– Úi chà, em lúc nào mà chẳng thương vay khóc mướn.
– Anh kỳ quá đi…em nghe kể chuyện về ông bà cụ ấy mà xót xa, anh để yên nghe em kể lại…
…Cụ có ba người con, hai gái một trai, hai người con gái ở nước ngoài, thay nhau mỗi người về một lần vào dịp đám giỗ, mà lạ lắm anh, cụ bà mất trước cụ ông một năm nhưng ngày mất thì xê xích nhau chút đỉnh nên chi gộp chung lại làm đám giỗ hai ông bà một ngày cho tiện.
Cha tôi cười:
– Hì hì…em đúng là bà tám…
– Đã nói im nghe người ta kể…
– Kể ngắn gọn thôi, anh buồn ngủ lắm rồi đó nghen…
– Ừ, thì nghe tiếp đây, lúc còn trẻ hai cụ nghèo khổ lắm. Ông đạp xích lô còn bà bán ve chai, nhờ chịu khó với lại cần kiệm nên từ từ tích cóp được ít tiền mua một cái nhà rách trong hẻm, rồi lại chịu thương chịu khó cần kiệm để dành tiền phá cái nhà rách xây được ngôi nhà nhỏ…nói chung hai ông bà giỏi tiết kiệm, dè xẻn từng đồng, lại chịu khó lo làm lụng vất vã nuôi con ăn học, từ từ bán nhà trong hẻm, mua nhà mặt tiền đường rồi mở cửa hàng buôn bán, ngày càng giàu. Bác Hướng là con trai lớn có cấp bằng cử nhân lận đó anh, bác vừa ra trường là có việc làm và ngay lập tức bác cưới vợ, ông bà cụ cho ra riêng nhưng vợ bác ấy làm ăn thất bại, họ bán nhà quay về xin ở chung với hai cụ để gọi là “phụng dưỡng cha mẹ già”…
– Chuyện bình thường thôi, có gì đâu mà tội nghiệp ông bà cụ?
Mẹ tôi gắt:
– Anh này, yên nghe em kể tiếp…còn hai cô con gái lấy chồng rồi theo chồng ra nước ngoài; người thì vượt biên, người thì đi theo diện đoàn tụ, hai bà này cũng thương bố mẹ, bảo lãnh cho hai cụ qua định cư ở Mỷ, vì vậy hai cụ giao hết nhà cửa cho anh trai lớn. Nhưng qua Mỹ buồn quá chịu không nổi vì suốt ngày phải ở trong nhà, cứ luân phiên tháng này thì ở nhà đứa này, tháng sau qua nhà đứa khác…như con thoi, mà qua nhà người nào đi nữa thì cũng chỉ ở trong nhà, đâu dám ra đi ra đường, một tiếng Mỹ cắn đôi cũng không biết, gặp thằng Mỹ nào hỏi gì thì chỉ gật gật lắc lắc: – ô kê… ô kê… dét… dét…nô…nô…
…Cuối cùng hai ông bà về lại VN, ở lại trong chính căn nhà của mình nhưng nay là nhà của con trai và con dâu. Anh à, em đâu ngờ chị Hướng mà ghê gớm đến như vậy, còn anh Hướng thì quá nhu nhược và sợ vợ. Hai ông bà cụ ở chung mà ăn riêng đó nghen, cái phòng của hai cụ bị dời lên trên lầu, ông bà cụ nhờ khéo chắt chiu dánh dụm, cất dấu nên có được một ít tiền rồi đem gởi tiết kiệm, lấy lời hàng tháng để tiêu xài, không ngữa tay xin xỏ con cái. Thời gian đầu họ cũng có chăm lo cho ông bà cụ, nhưng từ từ những bữa cơm trở nên trễ nải, lắm khi hai cụ phải chờ đợi,chầu chực…còn về phần thức ăn thì…nghe nói tội lắm anh, con dâu nấu gì ăn đó, đôi khi vợ chồng con cái bác ấy ăn đâu ngoài đường toàn là thứ ngon, nhưng về nhà chỉ luộc cho ông bà cụ cái hột vịt dằm với nước mắm…Thời gian sau cô con dâu lấy cớ bận rộn nên không nấu nướng cơm nước hầu hạ bố mẹ chồng được, thôi thì ai ăn người đó nấu cho tiện, vậy nên chi trên lầu, ngoài phòng hai cụ có thêm cái bếp…từ đó hai ông bà già lụm cụm lủi thủi lo cho nhau…
Bây giờ thì có tiếng thở dài của cha tôi, mẹ tôi kể tiếp:
– Bà cụ bịnh rồi mất, nghe đâu lúc mất cũng bảy sáu tuổi, một năm sau thì ông đi theo bà…Em nghe nói đám ma của cụ ông lớn lắm anh à, tốn hết mấy cây vàng lận đó.
Cha tôi thở hắt ra thật mạnh nên tôi nghe thật rõ:
– Sống không cho ăn uống đàng hoàng đầy đủ, chết rồi thì làm đám ma cho lớn, đám giỗ linh đình mà chi, người đã chết rồi nào có ăn được gì đâu, trước tiên là để cho ruồi bu kiến đậu, sau đó tới phiên mình ăn… Người già khi còn sống cũng chẳng ăn được nhiều, chừng hai lưng chén cơm là cùng, khi chết rồi…khỏi ăn được luôn.
Mẹ tôi nói một cách mĩa mai:
– Có lẻ bác ấy nghĩ rằng phải lo hầu hạ…một năm đến ba trăm sáu mươi lăm ngày thì…mệt, thôi thì dồn lại để dành đến lúc chết, mổi năm chỉ lo một ngày Giỗ thôi, vậy nên phải làm cho linh đình để mọi người biết mình có hiếu với cha mẹ.
Cha tôi tiếp lời:
– Em…cũng “bà tám” thật đó, nhưng thôi, anh khuyên em không nên qua lại nhiều với nhà bác ấy, cũng như không nên “tám” chuyện với hàng xóm láng giềng, dễ sinh mích lòng, mình chỉ nên sơ giao thôi em à. Chuyện thị phi nói mấy cũng không vừa bụng thiên hạ, ai thì cũng ưa bới móc cái xấu của nhau ra để hạ bệ nhau…”Đèn nhà ai nấy sáng”, biết đâu họ cũng xấm xì bươi móc chuyện nhà mình?…anh sợ nhất những bà ưa ngồi lê đôi mách…đốt nhà người ta cháy như chơi…
– Em biết rồi…anh nè, cũng may lúc Tứ Thân Phụ Mẫu của tụi mình còn sống, anh thì lo cho cha mẹ em đầy đủ nên được tiếng là “Rễ thảo”, còn em thì lo cho cha má anh chu đáo nên được khen là “Dâu hiền”, tụi mình đều không để cho cha mẹ hai bên phải thiếu thốn thèm thuồng…
Mẹ hỏi cha một câu làm cho tôi phát ớn sau gáy:
– Anh có để ý hình của cha mẹ hai đứa mình không? Đôi con mắt của các cụ lúc nào cũng vui, mỗi lần nhìn vào là em thấy như các cụ đang cười. Còn đôi mắt của hai ông bà cụ bên ấy…lúc lên thắp nhang…em thấy mắt các cụ ướt như là muốn khóc, nó buồn rười rượi ghê vậy đó; anh à.
Cha tôi trở mình trên giường và trả lời mẹ:
– Người già rất nhạy cảm và thường dễ tủi thân, mà ai thì cũng phải già…mà thôi…ngủ đi em, khuya lắm rồi.
Mẹ tôi cố nói thêm một câu cuối cùng nhưng rất quan trọng:
– Làm con phải để chử Hiếu lên hàng đầu, trả Hiếu cho cha mẹ thì phải trả lúc cha mẹ còn sống, không chỉ là “cơm bưng nước rót” mà còn là cách đối xử có đạo nghĩa hay không? Có làm vừa lòng đẹp ý cha mẹ hay không?. Đạo Chúa hay Đạo Phật cũng dạy con người ta phải “ làm tròn chừ Hiếu mới là Đạo con”, đừng nên lấy sự bận rộn ra mà làm cái cớ để trốn tránh bổn phận làm con…thôi, em ngủ đây.

Tôi thức một đêm để suy nghĩ, câu chuyện cha mẹ nói trong đêm khuya mà tôi tình cờ nghe lóm được, nó như một thông điệp gởi đến cho tôi, rồi từ nơi tôi nó sẽ đến với các em của tôi. Tôi thật sự rất xúc động và vui mừng. Sẽ không muộn màng khi tôi biết được điều mình CẦN, NÊN và PHẢI làm đối với cha mẹ lúc NGƯỜI còn sống.
Gần sáng tôi mới viết xong một lá thư gởi cho cha mẹ đọc, lá thư tôi đẩy vào khe cửa phòng ngủ của cha mẹ, thế nào cha mẹ tôi cũng đọc nó trước khi ra khỏi phòng. Thư rằng:

“Cha mẹ kính yêu, con biết con phải làm gì để báo hiếu cho cha mẹ rồi, con sẽ làm cho cha mẹ vui lòng đẹp ý. Cầu xin Chúa Mẹ ban cho cha mẹ có được nhiều sức khỏe để sống lâu với tụi con, con cũng sẽ dạy hai em con biết giữ tròn chử HIẾU ngay lúc cha mẹ còn sống. Mai sau khi cha mẹ qua đời, đến ngày giỗ của cha mẹ chúng con sẽ không làm cho lớn đâu, vì khi đó cha mẹ chết rồi, đâu có ăn được. Bây giờ chúng con sẽ cố gắng học thật giỏi, giúp đỡ cha mẹ công việc nhà…Mai này khi học xong đi làm có tiền con sẽ không để cha mẹ phải thiếu và thèm cái gì hết.
Con thương cha mẹ vô cùng.”

Không cần viết tên tôi vào đó, vì cha mẹ tôi đâu còn lạ gì nét chữ của tôi, chữ tôi viết không đẹp cho lắm nhưng rất rõ ràng, dễ đọc.

HỒ THỦY (SAIGON)

Những điều học được từ cuộc sống

Nhng điu hc được t cuc sng

Tôi đã từng biết rằng, quan tâm đến người khác là điều tưởng chừng như dễ nhưng lại khó thể hiện nhất.

Tôi đã từng học rằng, mỗi lần được chia sẻ nỗi đau của người đang trong cơn tuyệt vọng, cũng là lúc tôi cảm nhận được mình là người có ý nghĩa trong cuộc sống này.Tôi đã từng hiểu rằng, khi biết yêu thương và gieo hy vọng cho người khác, bản thân tôi cũng sẽ cảm thấy yêu cuộc sống này hơn.

Tôi đã từng nhận ra rằng, chữa lành những nỗi đau về tâm hồn cũng quan trọng chẳng kém gì chữa trị bệnh tật của cơ thể.

Tôi đã từng nghiệm ra rằng, nếu không biết cách quan tâm đến bản thân mình, tôi cũng sẽ không biết cách quan tâm đến người khác.

Tôi đã từng nhận ra rằng, những khi phải nằm một mình trong bệnh viện yên tĩnh, chúng ta mới có cơ hội suy ngẫm và nhìn nhận lại về những điều đã qua để sống tốt hơn cho ngày mai.

Tôi đã từng học được rằng, ngay cả cơ thể cũng biết lắng nghe những gì bạn nói. Nếu bạn luôn suy nghĩ đúng đắn, có thái độ lạc quan trước mọi hoàn cảnh, thì cơ thể bạn cũng sẽ luôn được khoẻ mạnh.

Tôi đã từng hiểu rằng, khi thật lòng yêu thương một ai đó, chúng ta sẽ tận tuỵ chăm lo cho người đó mà chẳng bao giờ tính toán so đo.

Tôi đã từng thấy rằng, thời gian vẫn cứ lặng lẽ trôi qua dù cho tôi sống vui vẻ lạc quan hay chìm đắm trong thất vọng bi quan.

Tôi đã từng học được rằng, có thể chúng ta không thay đổi được thực tế trong cuộc sống nhưng điều quan trọng là chúng ra phải biết xác định và tìm hướng đi của mình chứ không cam chịu chờ đợi thụ động trong sự bất mãn, chán chường.

Tôi đã từng học được rằng, thành công lớn nhất của con người là giúp những người xung quanh khám phá tiềm năng của họ.

Tôi đã từng nhận ra rằng, điều quan trọng nhất không phải là luôn để tâm đến những phức tạp của cuộc sống, mà hãy xác định cụ thể từng bước những việc mình phải làm.

Tôi đã từng hiểu đươc rằng, sự tha thứ không bao giờ là đủ, nhưng sự chỉ trách thù hằn, vạch lá tìm sâu, dù chỉ một chút , cũng đã quá thừa.


Tôi đã từng hiểu được rằng, sự thật lòng của người nói, quan trọng hơn lời nói.

Tôi đã từng hiểu được rằng mỗi ngày trôi qua, chúng ta vừa phải đương đầu với những thử thách, nhưng cũng đừng để vuột mất những điều tốt đẹp có thể sẽ không bao giờ trở lại.

Tôi đã từng thấm thía rằng, mỗi người đều có khả năng chuyển đổi những đau khổ và ưu phiền trong cuộc sống của mình thành niềm vui và hạnh phúc thực sự.

S.T.

CHÚA CỦA TÔI, CHÚA CỦA ANH.

CHÚA CỦA TÔI, CHÚA CỦA ANH.

Maria Thúy Vũ.

Tôi đã có những ngày tháng rất xa cách Chúa trong hơn 30 năm, tôi lấy một người Chồng ngoại Đạo, anh là một Phật Tử tin vào Đức Phật, còn tôi là một con chiên khô khan nguội lạnh, tôi lo bươn chải làm ăn, vui chơi và chả có thì giờ để nhớ đến Chúa, năm thì mười họa tôi đi lễ cho có, trong thánh lễ tâm trí tôi còn để ở các công việc toan tính khác. Các con tôi lớn lên, chúng thờ ơ với Đạo và đi theo băng đảng quậy phá, bắn nhau, đâm chém nhau. Thật là một mối rối Đạo, rối Đời to đùng, không biết làm sao mà gỡ rối cho được, cãi vã, loạn đả , đau khổ chồng chất trong mấy chục năm trời cho đến một ngày, tôi đi tĩnh tâm Thánh Linh tại nhà thờ St Christopher, Houston. Tôi dâng hết đau khổ lên cho Chúa, nhất là xin lỗi Chúa vì các tội lỗi có tính ngỗ nghịch của tôi và gia đình tôi.  Tôi đã không dám tin vào sự tha thứ của Chúa vì tội của tôi gây ra, trực tiếp qua hành vi lấy chồng không cùng niềm tin, không kính sợ Chúa, rồi tội cãi vã, tranh chấp, rồi tội vui chơi quá đà,  … gián tiếp qua đàn con ngỗ nghịch, làm ngược lại Lời Chúa và gây bao đau khổ từ băng Đảng mà người con cả của tôi cầm đầu…

Nhưng Chúa thì lại có cách đối xử không như tôi nghĩ, Chúa chỉ cần sự ăn năn và chạy đến xin chữa lành là đủ. Phần còn lại Chúa giải quyết cho tôi, cho dù đó là bất cứ nan đề nào Chúa cũng có cách lo và lo cho bằng hết.

Chúa chỉ đòi một hy sinh nhỏ của tôi thôi, đó là tôi phải đóng của tiệm nail vào ngày Chúa Nhật để đi Nhóm Thánh Linh tại  Giáo Xứ NL trong ngày nghỉ của Chúa, điều này quả là một hy sinh lớn vì tiệm của tôi mới mở, còn rất ít khách, nhưng mà tôi phó thác cho Chúa và làm theo ý Ngài.  Tôi đi Nhóm rất siêng năng, ở đó  tôi mở hết volume, giọng ca  vụng về  của tôi để ca ngợi Chúa, rồi lắng nghe sự chia sẻ Lời Chúa của mọi người, qua một năm thì Chúa cho tôi ơn yêu mến Ngài, tôi có thể  nói chuyện với Chúa, đọc kinh Lòng Thương Xót của Chúa Giê Su đã truyền cho Chị thánh nữ tu,  Faustina, lần hạt kính Mẹ  trong vài giờ mà không biết mệt dù đó là vào ban đêm hay ban ngày.

Ca ngợi Chúa trong vòng khoảng một năm, thì Chúa ban thêm ơn mới cho tôi, đó là mỗi khi rước Chúa vào lòng thì tôi không cầm được nước mắt vì vui mừng và nhất là cảm kích sự hy sinh và tha thứ lớn lao, vĩ đại  đến lạ kỳ của Chúa. Nhiều khi, trong nhà Thờ, giữa mọi người đang tham dự phàn hiệp lễ, nước mắt tôi chan hòa, khuôn mặt nhòe nhoẹt, tôi ngượng, xấu hổ và phải xin Chúa cho tôi bớt chảy nước mắt làm chia trí người khác. Tôi say sưa ca ngợi Chúa Thánh Thể, cầu nguyện, thưa chuyện với Ngài đến quên cả thời giờ. Có khi tôi ở với Chúa Thánh Thể cả đêm, trong các dịp tĩnh tâm Thánh Thể tại các nhà Dòng, thật là một kinh nghiệm tuyệt vời khi được Ca Ngợi Chúa cực thánh !

Ơn Chúa cứ tăng tiến mãi, mặc dù vậy, tôi vẫn có mặc cảm “mình tội lỗi quá không biết Chúa có nghe mình cầu nguyện không? “. Chúa có cách để trả lời cho thắc mắc này, đó là vào ngày hội mừng lễ Thánh Thể Chúa năm 2012,  tại Đan Viện Thiên Tâm Biển Đức gần Dallas , Texas.  Lúc 12 giờ 15 đêm, tôi đang ở trước mình Thánh Chúa trong lều Thánh Thể thì một chị nọ đến xin cầu nguyện, Chị rất thất vọng vì đã lái xe dăm tiếng đồng hồ để đến đây với hy vọng được Cha Nguyến Thiện Lãm và các Anh Chị trong Nhóm cầu nguyện cho mình được ơn Chúa chữa lành, vì Chị bị đau lưng rất nặng, di chuyển khó khăn và khó cúi xuống làm cho bị đau đớn và rất trở ngại cho kế sinh nhai. Tôi an ủi Chị rằng Chúa đã biết lòng Chị và dâng Chị lên cho Chúa. Sau một lúc, thì chị khẩn khoản xin mọi người có mặt ở đó cầu nguyện cho. Mọi người quây chung quanh Chị , tôi bị họ thúc dục hãy nắm tay chị và cầu nguyện, họ nói mãi, thức mãi  làm cho tôi đánh liều “ vừa cầu nguyện vừa run”,  dù tôi biết và cũng có chút kinh nghiệm về vị Chúa nhân từ, rất giàu lòng quảng đại của mình, tôi thưa với Chúa:

–          Con ca ngợi tình yêu sâu thẳm của Chúa Thánh Thể. Con cầu nguyện nhân danh tên cực Thánh của Chúa Giê Su và dâng Chị cùng với căn bệnh đau lưng và mọi sự hoạn nạn của Chị lên cho Chúa. Con xin Chúa an ủi và nâng đỡ chi. Nếu đẹp ý Chúa và có lợi cho Chị thì xin Chúa chữa lành cho Chị. Con ngợi ca và tôn vinh Chúa chiên nhân lành muôn đời Amen.

Đang khi tôi đặt tay cầu nguyện, thì có một sức nóng từ tay tôi lan sang lưng của Chị, về sau Chị cho biết là có luồng hơi nóng rực chạy dọc theo sống lưng.

Khi tôi cầu nguyện xong thì Chị thấy hết đau và có thể cúi gập mình được, chị thử xoay người bốn phía và cảm thấy hoàn toàn bình phục, không còn đau đớn làm cho thốn và sợ phải cử động chạm đến cơ lưng, xương lưng.

Qua sự kiện chữa lành ngay lập tức của Chúa, thì tôi biết là Ngài luôn sẵn lòng nhận lời của một người con tội lỗi từng rối rắm như tôi, khi mình biết lỗi và quay về, Chúa chỉ có một sự duy nhất dành cho con chiên lạc đường đó là lòng yêu thương và ưu ái vô cùng của người Cha Trời . Chính Chúa Giê Su của tôi đã từng nói là cả Thiên Đàng vui mừng vì một con Chiên trở lại mà.

Trước đó , Chúa ban cho tôi một ơn rất trọng đại và tuyệt vời , đó là làm cho người con Cả 26 tuổi , trùm một  băng đảng khu vực, theo ngày tháng thì Cháu có sự thay đổi, cuối cùng muốn vui lòng tôi vì tôi đã năn nỉ Cháu ngày đêm, nó đã chịu tham dự Tĩnh tâm Thánh Linh tại Dickinson, Texas, Cháu được Chúa đánh động trong ngày thứ hai của buổi tĩnh tâm,  bằng cách chiếu lại trong tâm trí các đau khổ của các nạn nhân mà nó làm hại. Cháu ăn năn, khóc và hồi tâm theo Chúa. Nay Cháu trở thành một Con Chúa gương mẫu, ngày đêm học hỏi Lời Chúa, đọc Kinh Thánh cách say mê. Sự gương mẫu của cháu lớn là đầu tầu kéo theo hầu như cả băng nhóm của nó trở lại với Chúa, Các Em trong nhà cũng đều được ơn Chúa một phần cũng nhờ vào cái đầu tầu này, Cám ơn Chúa vô cùng. Lòng yêu mến Chúa trong gia đình được Chúa làm cho lan ra tới hàng xóm, tới họ hàng. Họ cũng cảm kích và sốt sắng quay về với Chúa là Cha Nhân Từ và hào phóng.

Chúa giầu có, Ngài ban cho nhiều đến mức tôi cảm động quá có khi phải thốt lên những lời vô nghĩa, có lẽ làm cho Chúa phì cười, tôi nói: Chúa ơi, sao Chúa cho con nhiều quá, không thể tưởng tượng ra nổi, con nào xứng đáng gì, con tội lội quá sức, chả lẽ con xin Chúa lấy bớt lại vì con không đáng để được như vậy. Con biết ơn Chúa lắm.

Chúa thay cho tôi một trái tim mới, ân cần với mọi người và luôn vui mừng trong Chúa. Tôi tìm cách phục vụ Anh Em mình, tôi dậy sớm mỗi Chúa Nhật, lo nấu nướng phần điểm tâm cho cả Nhóm cầu nguyện và Lớp tìm hiểu về Chúa của các Anh Chị Em Tân Tòng. Lòng luôn có niềm vui phấn khởi vì được làm một cái gì dù rất nhỏ bé dâng cho Chúa, càng cố gắng tôi càng vượt qua mệt nhọc và sự lưởi biếng của mình.

Trong gia đình tôi , nay còn lại một thử thách cuối cùng, đó là Chồng tôi, Anh không cùng một niềm tin và một lý tưởng với cả nhà, Anh về Việt Nam mấy chuyến nói là đi làm ăn. Tôi thì miễn cưỡng chấp nhận cho Anh đi tuy biết rằng đó không phải là những chuyến đi đơn thuần chỉ có làm ăn. Một ngày nọ, khi Anh còn đang ở Việt Nam, anh bị té từ lầu thượng xuống đất, anh được mang vào trung tâm chấn thương chỉnh hình, thương tích trầm trọng khắp người không thể cử động được lưng và đầu. Tôi lo lắng lắm, nhưng tôi  xin Chúa cứu chữa cho Anh vì linh hồn Anh vốn chưa thuộc về Chúa , tôi xin Chúa cho Anh còn có cơ hội làm con Chúa. Chúa đã ra tay và bác sĩ ngỡ ngàng , vì Anh té rất nặng nhưng không bị gãy cổ, gãy  xương sống, không bị chấn thương hộp sọ, không bị các vết thương trí mạng. Sau vài tuần chữa trị thì từ chỗ hoàn toàn tê liệt, anh có thể hồi phục và quay về Mỹ. Biến cố đó có thể làm cho anh bừng tỉnh về cái đúng, cái sai. Tuy rằng Anh cho là được Trời Phật độ trì cho tai qua nạn khỏi.

Chúa sẽ đi tiếp bước thứ hai như thế nào đây?

Cách đây hai tuần Chúa lại ra tay một lần nữa, số là từ bốn, năm  tuần qua Anh loay hoay mà không sửa được hệ thống điện trong cái xe hơi của mình mặc dù là một người rành rẽ về máy móc, đã phải hơn một lần tháo nguyên cả dashboard ra để kiểm. Xe không đề máy được nữa. Quá thất vọng Anh tính tới chuyện đổi xe khác nhưng ai, sẽ có dealer nào  chịu đổi chiếc xe mất điện như thế này ? Thấy Anh quá vất vả, hì hục, tội nghiệp tôi khuyên Anh cầu nguyện với Chúa, nhưng mà Anh không tin nơi phép lạ Chúa làm. Tôi tìm cách đặt tay và cầu nguyện, nhân danh tên cực Thánh của Chúa Giê Su, tôi ra lệnh cho máy phải nổ, mọi cơ phận phải trở lại bình thường làm ích cho con cái Đức Chúa Trời.  Nhưng mà! … máy vẫn không thể nổ, tôi muốn tìm cho ra nguyên nhân, tôi mở các hộc trong xe thì thấy có 2 tượng Đức Phật nhỏ. Tôi liền lấy và cất tượng riêng ra một chỗ bên ngoài và vào nhà kiếm Anh tôi nói:

–          Em biết Anh chưa tin quyền năng và lòng thương xót của Chúa nhờ lời cầu nguyện. Anh chưa tin Chúa có thể giúp mình sau khi ta đã tận dụng sức của mình và cố gắng hết mức có thể, sau khi đã vận dụng hết trí khôn thì Chúa sẽ giúp khi ta cầu nguyện?  Đây là dịp cho anh thấy Chúa của em như thế nào?

Trong lòng đầy sự an ủi và tin tưởng mạnh mẽ vào quyền năng của Chúa đang hiện diện, nói rồi, tôi đi ra đặt tay lên bình ác qui, tôi cầu nguyện theo cách đã được Cha Đinh Thanh Sơn dậy dỗ :

–          Con ca ngợi tình yêu và quyền phép của Chúa Giê Su. Nhân danh tên cực thánh của Chúa, ta ra lệnh cho hệ thống điện này phải chậy lại bình thường làm sáng danh Chúa và đem lại lợi ích cho con cái Chúa. Đang khi tôi cầu nguyện thì có luồng nóng từ bàn tay tôi truyền vào bình điện, tôi biết là Chúa lại tỏ vinh quang và quyền năng của Ngài một lần nữa rồi, khi Ngài sửa chiếc xe cho chồng tôi. Tôi chạy lại tay lái, xoay chìa khóa đề một phát là máy nổ ngay lập tức…

Chứng kiến cảnh đó, Anh xanh lè mặt, sợ hãi khi nhận ra quyền phép Chúa.

Tôi mang trả hai tượng Đức Phật lại cho Anh để tùy Anh suy luận và quyết định ai sẽ là Đấng Bảo vệ cho Anh trên đường trường sau tay lái, hay trong lúc nguy khốn. Là vợ, tôi  tôn trọng chọn lựa của chồng , là một Ki tô hữu tôi muốn anh Tin Đức Chúa Trời bằng sự nhận biết từ lý trí và con tim mà không có sự áp đặt. Kết quả là từ ngày đó, tôi không thấy Anh để tượng Đức Phật trong xe nữa.

Tôi cám ơn Thiên Chúa và thưa với Ngài:

–          Chúa có hứa rằng: “ Ai xin thì sẽ được” con xin và con hết lòng cảm tạ, ngợi khen Ngài.

–          Con không còn bi quan nữa, Chúa cực thánh ơi, con biết rằng một ngày nào đó Chúa sẽ cứu linh hồn Chồng con, vì Chúa còn một con Chiên lạc nữa trong gia đình con. Lòng con vô cùng biết ơn Chúa quyền năng, uy quyền và đầy lòng xót thương của con.

–          Xin mẹ Maria, Mẹ Hằng Cứu Giúp tiếp tục chuyển cầu cho con cái Mẹ Amen.

Tôi cũng còn một ước nguyện cuối cùng , đó là Chúa sẽ dùng cả gia đình tôi để làm một thí dụ , minh chứng cho Tình Thương tuyệt vời của Thiên Chúa dành cho mọi người cho dù họ có bị rối nùi và bết bát đến đâu đi nữa.

Chúa sẽ còn làm sáng danh Chúa thêm nữa. Con ngợi khen Chúa.

Maria Thúy Vũ.

Phương Cách Xóa Nghèo

Phương Cách Xóa Nghèo

Một người nghèo hỏi Đức Phật:


– Tại sao con nghèo như thế? Phật nói:

– Vì con chưa học được cách bố thí cho người khác. Người ấy hỏi:

– Con không có thứ gì cả, thì lấy gì con bố thí.” Đức Phật dạy:

– Cho dù con hoàn toàn không có cái gì, con vẫn có thể thực hiện bố thí 7 thứ


1. Nhan thí – Bố thí nụ cười,

2. Ngôn thí – Bố thí ái ngữ, nói lời hay.


3. Tâm thí – Bố thí tâm hòa ái, lòng biết ơn.


4. Nhãn thí – Bố thí ánh mắt nhìn thẳng hiền từ.

5. Thân thí – Bố thí hành động nhân ái.


6. Tọa thí – Bố thí nhường chỗ cho người cần.


7. Phòng thí – Bố thí lòng bao dung

S.T.

Hoa Trắng -Thơ Thánh Gioan-Phaolô II, Lê Đình Thông dịch -Phạm Đức Huyến-Cẩm Tú-DuyHân & Đổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười-thơ Trần Trung Đạo-Võ Tá Hân-

Hoa Trắng -Thơ Thánh Gioan-Phaolô II, Lê Đình Thông dịch -Phạm Đức Huyến-Cẩm Tú-DuyHân.

httpv://www.youtube.com/watch?v=2abpHeX_6WA

Đổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười -thơ Trần Trung Đạo – Võ Tá Hân-

httpv://www.youtube.com/watch?v=QTKNqHRbSqc&list=PLC88148E8B9056B56&index=1

MÔI-SÊ THỤ GIÁO

MÔI-SÊ THỤ GIÁO

Có người đã kể về Môi-sê như sau:

Trước khi được sai đi lãnh đạo cuộc giải phóng dân Do thái khỏi ách nô lệ bên Ai cập, Môi-sê đã đến thụ giáo với một vị thầy nổi tiếng tại vùng núi Ma-đi-an.

Qui luật tối thượng mà vị này buộc Môi-sê phải giữ trong suốt thời gian thụ huấn là tuyệt đối giữ thinh lặng.

Ngày ngày thầy trò cùng ngao du sơn thủy.  Ðứng trước núi non hùng vĩ và bao vẻ đẹp của thiên nhiên, Môi-sê cảm thấy không gì dễ và thích thú cho bằng được ở thinh lặng.

Thế nhưng, một hôm, khi hai thầy trò đang đi dọc theo bờ biển, Môi-sê bỗng thấy một bé trai đang chới với trong nước, và người mẹ kêu la cầu cứu inh ỏi.  Môi-sê không thể giữ im lặng được trước một cảnh tượng như thế.  Ông cất tiếng hỏi thầy:

– Thưa thầy, thầy không làm gì để cứu đứa bé sao?

Nhưng vị thầy làm dấu bảo thinh lặng rồi tiếp tục đi.

Môi-sê bước theo thầy mà lòng không yên chút nào.  Ông cứ suy nghĩ tại sao thầy mình lại nhẫn tâm như thế?  Ði được một đoạn Môi-sê bỗng dừng lại giơ tay chỉ ra biển và nói với thầy:

– Thầy nhìn kìa, cả một chiếc thuyền chở đầy người đang đắm kìa!

Lại một lần nữa Môi-sê được thầy ra lệnh giữ thinh lặng và tiếp tục đi, như thế họ không cần phải quan tâm đến những gì đang xảy ra trước mắt.

Tâm hồn nhạy cảm của Môi-sê càng bối rối thêm nữa.  Ông đưa chuyện ấy thưa với Chúa và muốn biết tại sao thầy mình đã cư xử như vậy.  Chúa đã biện minh cho cử chỉ của thầy như sau:

– Thầy của con hoàn toàn có lý.  Ðứa bé chới với bên bờ biển chỉ là một dàn cảnh để khai mào một cuộc chiến tranh khốc liệt giữa hai dân tộc.  Còn chiếc thuyền đang đắm ngoài khơi là thuyền của một bọn cướp đang chuẩn bị tấn công một ngôi làng ven biển.

Thầy của con đã có lý, để giữ con đứng bên ngoài những hành động tội ác ấy.

******************************************

Tư tưởng và hành động của Thiên Chúa thường không giống với tư tưởng và hành động của con người.

Thánh Kinh kể lại rằng Môi-sê đã được nuôi dưỡng trong triều đình Ai cập, nhưng ông vẫn luôn ý thức được nguồn gốc Do thái của mình.

Một hôm chứng kiến cảnh một người Ai cập hành hạ một người Do thái.  Nhìn chung quanh không thấy có ai, Môi-sê đã ra tay giết chết người Ai cập rồi vùi xác người đó dưới cát.  Ngày hôm sau thấy hai người Do thái đang xâu xé nhau, Môi-sê đến can thiệp.  Nhưng một trong hai người đã đe dọa tố cáo ông về tội giết người Ai cập hôm trước.  Bị bại lộ, Môi-sê đành rời bỏ cung điện và trốn lên núi.

Môi-sê đã tưởng mình hành động đúng.  Ông không biết rằng Chúa đang có một chương trình, một kế hoạch đòi hỏi ông phải suy nghĩ, chờ đợi và kiên nhẫn hơn.

Sống đức tin là một hành trình đi vào kế hoạch của Thiên Chúa.  Qui luật tối thượng của cuộc hành trình ấy chính là thinh lặng.

Thinh lặng trước những ồn ào, dành dật của cuộc sống.  Thinh lặng trước những đam mê sôi sục và những tính toán đê hèn.

Thinh lặng để không ngừng lắng nghe tiếng Chúa trong từng giây phút, từng biến cố của cuộc sống.

R. Veritas

******************************************

Lạy Thiên Chúa, Đấng ưa thích sự thinh lặng, xin dạy chúng con thinh lặng để ở một mình với Ngài, trò chuyện, lắng nghe và thấm nhuần Lời Hằng Sống.

Xin dạy chúng con thinh lặng nơi con mắt, biết nhắm lại trước những vấp váp của tha nhân, biết quay đi trước những dịp tội gây xao xuyến.

Xin dạy chúng con thinh lặng nơi đôi tai,để nghe được tiếng kêu của người nghèo đói, để khép lại trước những mời mọc của ma quỷ.

Xin dạy chúng con thinh lặng nơi miệng lưỡi, để biết ca tụng Chúa và đem lại an vui cho muôn người, tránh cho mọi lời nói gây đau đớn đổ vỡ.

Xin dạy chúng con thinh lặng nơi trí khôn,để mở ra trước sự thật và khép lại trước dối trá.

Cuối cùng xin dạy chúng con thinh lặng nơi quả tim,để tránh xa mọi ích kỷ,thù hằn,ghen ghét,để yêu mến và ước ao Thiên Chúa trên hết mọi sự. Amen!

From: ngocnga_12

 

ĐÂY CHIÊN THIÊN CHÚA

ĐÂY CHIÊN THIÊN CHÚA

TGM Ngô Quang Kiệt

Trong Thánh Lễ, ta đọc Chiên Thiên Chúa nhiều lần.  Có lẽ ít người hiểu được ý nghĩa của cụm từ “Chiên Thiên Chúa”.  Nhưng khi Gioan Baotixita giới thiệu Chúa Giêsu cho dân Do Thái: “Đây là Chiên Thiên Chúa” thì người Do Thái hiểu rõ ý nghĩa của từ ngữ.

Trong Kinh Thánh, chiên được dùng làm biểu tượng cho những người hiền lành, đạo đức.  Trong dụ ngôn về ngày phán xét, Chúa đã tách chiên ra khỏi dê.  Chiên ở bên phải, dê ở bên trái.

Thế nhưng chiên còn có một ý nghĩa sâu xa hơn.  Hằng năm, vào Lễ Vượt Qua của người Do Thái, mỗi gia đình có tục lệ ăn thịt một con chiên.  Phải lựa con chiên non dưới một năm tuổi, tốt đẹp, không tì vết.  Người Do Thái ăn thịt Chiên Vượt Qua, không phải để mừng mùa đông đã qua và mùa xuân vừa mới khởi đầu.  Nhưng là để kỷ niệm ngày Chúa giải phóng họ khỏi ách nô lệ Ai Cập.

Lễ Vượt Qua được cử hành vào đầu mùa xuân.  Người Do Thái nhớ đến con chiên.  Con chiên đã chết cho họ được sống.  Máu chiên đã đưa họ ra khỏi mùa đông tăm tối, tiến vào mùa xuân tươi sáng.  Máu chiên đã giúp giải thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập, đưa họ về miền Đất Hứa, sống trong tự do.

Chúa Giêsu đã chịu tử hình vào dịp Lễ Vượt Qua của người Do Thái.  Bữa tiệc ly chính là tiệc Lễ Vượt Qua mà Chúa Giêsu ăn với các môn đệ.  Chịu chết vào dịp Lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu chính là con chiên của Thiên Chúa bị sát tế để cứu nhân loại.

Chúa Giêsu là con chiên hiền lành, không hé môi khi bị đem đi xén lông.  Người khiêm nhường gánh lấy tội lỗi nhân loại.

Bản tiếng Việt dịch là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian.  Từ ngữ “xóa” là một cách nói văn hoa nhẹ nhàng, nhưng không lột hết ý nghĩa của nguyên ngữ.  Tiếng Hy Lạp dùng từ ‘airein’, tiếng La tinh dùng từ ‘tollit’ có nghĩa là nhận lấy vào mình, gánh lấy, vác lấy.  Có lẽ nên dịch là Chiên Thiên Chúa, Đấng ‘gánh’ lấy tội nhân loại thì đúng hơn.  Xóa là đứng ngoài cuộc.  Đức Giêsu không đứng ngoài cuộc.  Người đã nhập cuộc, gánh lấy thân phận con người, và nhất là gánh lấy tội lỗi của con người.  Chính vì gánh lấy tội lỗi mà Người, Đấng hoàn toàn trong sạch, vô tội đã chịu hạ mình xếp hàng giữa những người tội lỗi xin Gioan rửa tội.  Chính vì gánh lấy tội lỗi nhân loại mà Người lui tới với những người tội lỗi, chuyện trò với họ, ăn uống đồng bàn với họ.  Nhưng nhất là chính vì gánh lấy tội nhân loại mà Người phải chịu chết giữa hai tội phạm, đồng số phận với họ, đồng bản án với họ, như những người trộm cướp.

Người gánh lấy tội của ta để ta được tha thứ.  Người hạ mình xuống để ta được nâng lên.  Người trở nên nghèo hèn để ta được giàu có.  Người làm con loài người để ta được làm con Thiên Chúa.  Người trở nên yếu hèn để ta được nên mạnh mẽ.  Người chịu nhục nhã để ta được vinh quang.  Người nhận lấy thân phận nô lệ để ta được tự do.  Người cam lòng chịu chết để trả lại cho ta sự sống.

Người tín hữu thường được gọi là “Con chiên của Chúa”.  Danh hiệu đó ngầm chứa một lời cầu chúc: Mong cho người tín hữu được xếp vào loại ‘chiên’ trong ngày phán xét.  Được đứng bên hữu Vua Thẩm Phán.  Được vào hưởng vinh quang trong nước Chúa.

Nhưng danh hiệu đó phải chăng cũng gợi lên một ước mong.  Ước mong người tín hữu sống theo gương của Chiên Thiên Chúa.  Ước mong những con chiên con nối gót theo chiên mẹ đầu đàn đi vào con đường hiền lành khiêm nhường.  Ước mong đoàn chiên tự hiến đời mình như một của lễ dâng lên Thiên Chúa.  Và ước mong đoàn chiên gánh lấy số phận của người khác, để yêu thương, đoàn kết, liên đới, chia sẻ với anh em tất cả mọi niềm vui nỗi buồn của họ.

Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội con, xin thương xót con.

TGM Ngô Quang Kiệt

From: langthangchieutim