THƯ HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM GỬI ĐỨC THÁNH CHA BÊNÊĐICTÔ XVI VÀ CỘNG ĐỒNG DÂN CHÚA VỀ QUYẾT ĐỊNH TỪ NHIỆM CỦA ĐỨC THÁNH CHA BÊNÊĐICTÔ XVI

THƯ HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM GỬI ĐỨC THÁNH CHA BÊNÊĐICTÔ XVI VÀ CỘNG ĐỒNG DÂN CHÚA VỀ QUYẾT ĐỊNH TỪ NHIỆM CỦA ĐỨC THÁNH CHA BÊNÊĐICTÔ XVI

Thư của Đức Tổng giám mục Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam kính
gửi Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI

Hà Nội, ngày 13 tháng 2 năm 2013

nguồn:conggiaovietnam.net

Kính trìnhĐức Thánh Cha Bênêđictô XVI

Thành Vatican

Trọng kínhĐức Thánh Cha,

Nhân danh các anh em trong hàng giám mục Việt Nam và nhân danh Dân Chúa trong xứ truyền giáo này, với sự xúc động và trong tâm tình hiếu kính, con xin kính gửi đến Đức Thánh Cha thư này, sau khi nghe tin Đức Thánh Cha từ nhiệm sứvụ Giám mục Rôma, Đấng kế vị thánh Phêrô, mà Đức Thánh Cha đã loan báo vào ngày 11 tháng 2 vừa qua tại Vatican.

Hội Thánh Chúa Kitô tại Việt Nam luôn luôn yêu mến Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI. Hội Thánh Chúa Kitô tại Việt Nam hằng ấp ủ trong tâm hồn và kýức lòng biết ơn sâu xa đối với Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI. Hội Thánh Chúa Kitô tại Việt Nam trân trọng tình yêu thương và sự chăm sóc của Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI, Đấng kế vị thánh Phêrô, qua những sứ điệp đầy tình phụ tử, phát xuất từ đức tin trung kiên của ngài vào Chúa Giêsu Kitô, đặc biệt là qua việc ngài vui lòng bổ nhiệm Đức Tổng giám mục Leopoldo Girelli làm đại diện của ngài tại Việt Nam, như dấu chỉ cụ thể cho sự
hiện diện, tình yêu thương và sự hiệp thông của Đức Thánh Cha giữa lòng Hội
Thánh Việt Nam và Dân tộc Việt Nam.

Tất cả anh em chúng con trong hàng giám mục Việt Nam không bao giờ quên buổi triều yết Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI vào ngày 27 tháng 6 năm 2009, khi chúng con đi “ad limina”, cũng như sứ điệp quý giá của Đức Thánh Cha trong dịp này.

Nhân danh tất cả anh em trong hàng giám mục và nhân danh Dân Chúa tại Việt Nam, xứ truyền giáo này, con xin kính gửi đến Đức Thánh Cha những lời chào quý mến, lời cảm ơn chân thành, lòng hiếu kính và sự trung thành của con đối với Đức Thánh Cha và với Tòa Thánh.

Nguyện xin Chúa tuôn đổ tràn đầy ân sủng và phúc lành của Chúa trên Đức Thánh Cha.

(ấn ký)

+ Phêrô Nguyễn Văn Nhơn

Tổng giám mục Hà Nội

Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam

Thư Hội đồng Giám mục Việt  Nam gửi Cộng đồng Dân Chúa về quyết định từ nhiệm của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI

Tiền Bạc và Quyền Lực

Tiền Bạc và Quyền Lực

Nguyễn Trung Tây, SVD

2/15/2013

nguồn: Vietcatholic.net

Tôi gặp em ở Cali.

Em con gái, lớn lên bên Mỹ, học sinh năm cuối trường đại học lừng danh Berkeley của Mỹ. Em mắt nhìn thẳng về phía trước, tự tin, nói tiếng Anh ròn tan giọng y hệt người bản xứ. Gặp tôi, em cười vui tươi, nói tiếng Việt liến thoắng. Người anh ruột cũng là bạn tôi đang lái xe, vui miệng tố khổ cô em,

— Ông biết chi không, hắn con gái mà liều lắm. Tháng tới, ra trường, hắn tham gia Peace Corps “bỏ” đi tuốt luốt sang Phi Châu làm việc ở Chad tới hai năm lận…

Nghe lọt lỗ tai về tương lai em đang hành trang chuẩn bị lên đường, tôi vớ vẩn mở lời “dụ” em…đi tu. Em không nói chi, nhưng lắc lắc đầu, môi hồng ngậm chặc, mái tóc đen lay láy bay bay trong gió. Tôi nói lơ lửng, điều tra kiểu gậy mọt,

— Vậy chắc sẽ lấy chồng…

Thật bất ngờ, nghe tôi ăn nói lơ lửng, em thôi ngậm đôi môi hồng đào, mở miệng cự nự tôi ngay tại chỗ,

— Tại sao phải lấy chồng… Bộ cứ con gái thì phải lấy chồng hay sao?

Tôi o tròn miệng…!!! Không biết nói chi. Thi cũng đúng, bộ cứ con gái thì phải lấy chồng hay sao?

Gặp em tự tin và thông minh quá, tôi tự nhiên khớp. Thấy tôi yên lặng, em đổi đề tài mời tôi giúp cấm phòng cuối tuần cho tuổi trẻ. Tới phiên tôi ăn miếng trả miếng, làm bộ le lưỡi, lắc đầu (mà chắc cũng là sự thật một nửa),

— Thôi đi! Tuổi trẻ tụi mi ngày hôm nay nhiều điều khó hiểu thấy mồ. Ai mà biết tụi mi thích cái chi để mà nói!

Em nhìn tôi, nói ngay trong tiếng Anh, rõ từng âm,

— Dễ òm, quyền lực (power) và tiền bạc (money). Có thế thôi mà cha cũng không biết…

Tôi trợn mắt! Giời ạ! Tưởng cái gì, quyền lực và tiền bạc ai mà chẳng thích, chứ cứ gì phải là tuổi trẻ…

Thì đấy, người Việt Nam ai chẳng biết câu vè không biết xuất hiện khi nào:

Tiền là tiên là Phật,

Là sức bật của tuổi trẻ,

Là sức khoẻ của tuổi già.

Câu truyện Phúc Âm (9:30-37) viết bởi thánh Mark của Chúa Nhật 25 B cũng đã từng khẳng định về sức mạnh của quyền lực đấy thôi.

Lần đó trên con đường xa xôi từ núi Tabor biến hình về lại Galilee, một lần nữa Đức Giêsu lại tiên đoán về tương lai, “Con Người sẽ phải chết, sau ba ngày mới sống lại…” (Mk 9:31). Thầy “lạc đề” như vậy, hỏi sao mà các tông đồ không lạc đường mùa chay dài dài… Đời đang tươi vui như những chú sư tử no mồi trong sa mạc Trung Đông kia mà, bởi đi theo Thầy, cuộc đời hứa hẹn lầu son gác tiá. Nếu Thầy có khả năng hóa bánh ra nhiều, chữa lành người bị quỷ ám, hồi sinh người đã chết, tại sao lại không đi theo. Đấng Thiên Sai mang tầm vóc vĩ đại tương tự hoàng đế David được tiên báo từ lâu, người có khả năng khôi phục lại đất nước Do Thái ra khỏi ách đô hộ của đế quốc La Mã giờ đây còn ai khác, ngoài Thầy… Làm chi khi sở hữu vương quyền, uy lực trong tay, Thầy lại không phân chia đồng đều cho các môn đệ, những người đã từng bỏ hết mọi sự mà đi theo Thầy. Khi quyền lực nắm được trong tay, thì làm gì mà không có tiền bạc, mà không chỉ là tiền xu hay là vớ vẩn hai đồng tiền kẽm của bà góa nghèo đâu nhé, mà tiền trăm tiền bọc, toàn là tiền vàng, những đồng tiền sáng lấp lánh như truyện cổ tích ngàn lẻ một đêm.

Nhưng khổ! Không phải chỉ một lần, mà tới ba lần lận, ba lần là đúng cả ba, Thầy cứ mở miệng tiên đoán “vớ vẩn”: Con Người sẽ bị các thầy thượng tế giết đi… Giời ạ! Không, đó không phải là câu chuyện mà các môn đệ muốn nghe muốn bàn. Bởi thế, lời Thầy lọt vô tai này, lại chạy qua lỗ tai kia, rồi đi thông thốc thẳng luôn ra ngoài, bởi Thầy ơi, chúng con đang bàn chuyện riêng tư. Mà tưởng là chuyện gì đại sự! Hóa ra, theo như thánh sử Mark, đề tài mấy người môn đệ hăng say thảo luận cũng vẫn chỉ liên quan đến hai chữ quyền lực (Mk 9:33-34).

Chưa đủ, ngay vừa sau khi Thầy tiên đoán lần thứ ba về cuộc thương khó, hai anh em James và John vẫn cứ tiếp tục lạc đường, lần này họ nhanh chân chạy đến tỉ tê với Đức Giêsu,

— Mai này khi Thầy vinh quang, xin cho anh em chúng con người bên tay trái người bên tay hữu nhé (Mark 10:37).

Vậy là ăn chắc. Đức Giêsu mà gật đầu thì thật đúng là đời nở ngàn vạn viên đá lót đường toàn bằng vàng ròng.

Mà thiết nghĩ hai ngàn năm trước và hai ngàn năm sau, cuộc đời nhân thế có lẽ cũng vẫn chưa có gì khác, cũng vẫn chỉ xoay quanh đề tài, quyền lực và tiền bạc.

Quyền Lực

Chẳng lạ chi, trong sa mạc Satan đã từng đem Đức Giêsu lên ngọn núi cao, chỉ cho Người thấy tất cả các thế gian, vinh hoa lợi lộc của trần gian, rồi nói: “Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi” (Matt 4:8-9).

Khéo quá! Thật đúng là Satan.

Có một số người vẫn cứ hỏi tại sao tôi đi tu. Một câu hỏi thật thà, mà nếu trả lời thành thực tôi lại hóa ra mắc kẹt. Nói dối thì không dám, nói thật thì ngượng đến chín người. Chẳng lẽ bây giờ lại kể rằng, cái hồi mới lớn, mười ba mười bốn, tôi thấy cha xứ của tôi quyền uy quá. Ngài cao lớn uy nghi, bởi ngài là chánh xứ và còn là hạt trưởng của hạt Chí Hòa rộng lớn mênh mông. Chiều chiều ngài mặc áo chùng đen, chắp tay sau lưng đi trên đường thăm hỏi dân tình. Giáo dân thấy ngài đều lễ phép một niềm. Mấy ông thanh niên bướng bỉnh, trộm xoài bẻ chuối, phá phách nhất nhì trong xứ thấy bóng ngài cũng im re. Hỏi sao thằng bé đang lớn không mê áo chùng đen. Cho nên tôi tuổi mười bẩy mới năn nỉ nhờ Sơ Mến Thánh Giá mang lên gặp Cha Giám Đốc Tiểu Chủng Viện Sài Gòn.

Mà cuộc đời ai chẳng ham quyền lực, bởi thiên hạ, ai chẳng phù thịnh, có ai lại phù suy. Người có danh có phận trong thiên hạ, đi cửa nào mà lại không lọt. Còn là khố rách cùng đinh, cầm mõ đi rao thì cầm chắc là hỏng. Ai mà trọng vọng? Ai mà nể vì? Có miếng xôi nguội ở dưới góc bếp đình làng người ta cũng chẳng buồn cho. Học trò ê a ba chữ nhất tự vi sư, ai liếc nhìn. Con gái trong làng bĩu môi chê, “Dài lưng tốn vải, ăn no lại nằm”. Nhưng cứ thử đậu Quan Trạng mà coi, thôn làng mấy tổng chẳng vác võng ra đón tận từ đầu đường. Lúc đó khối cô con gái thắt đáy lưng ong tóc quấn đuôi gà thập thò trước cửa. Trong hãng điện tử vùng thung lũng, chỉ là Assembler hàn chì tháo ráp vớ vẩn mấy cái board điện tử, ai thèm nhớ tên. Nhưng cứ thử lên làm cai làm xếp dưới tay mười mấy người thợ mà coi, thiên hạ nhìn mình khác liền. Làm gì mà không một điều “Yes, sir”, hai điều cũng “Yes, sir”. Mà nếu Bụt thương tình cho nhảy lên làm Kỹ Sư thắt càvạt, ngồi một mình một cái văn phòng cubicle thì lại càng oai ra phết. Đời tự nhiên hóa ra mùa xuân rực rỡ sắc mầu.

Ca sĩ Michael Jackson, vua nhạc Pop, nổi tiếng với điệu nhảy Moonwalk lừng danh. Vừa nằm xuống là thiên hạ xôn xao. Báo điện tử cũng như báo giấy, tin tức truyền hình cũng như radio loan tin hằng phút hằng giờ những bản tin nóng bỏng về cuộc đời và thân thế người ca sĩ tài hoa thiên niên kỷ thứ ba. Được như thế cũng chỉ vì Michael Jackson là hoàng đế, mà lại là vị hoàng đế của một đế quốc nhạc Pop không biên giới trên dưới sáu tỷ người. Vua không ngai như thế làm gì mà Michael Jackson không dư thừa trong tay bao nhiêu quyền lực.

Tiền Bạc

Còn tiền bạc, thì thôi, khỏi nói. Tiền mà, ai lại chẳng thích, chắc chỉ trừ người mắc bệnh tâm thần. Phố tôi thuả xưa, có người thanh niên tâm thần, đã từng đứng ngay ngã ba lấy tiền bố mẹ phát tặng không cho thiên hạ. Tôi, con nít, nhanh tay vớ được tờ năm đồng màu xanh con chim phượng hoàng. Tôi cất tờ giấy năm đồng dưới gối, sáng hôm sau mua được gói xôi đậu phộng, có rắc mè. Tiền còn dư, tôi mua truyện tranh Xì Trum, Lữ Hân Phi Lục! Đời tự nhiên rộn ràng bởi tờ giấy năm đồng thuả đó.

Bạn tôi, Kỹ sư điện, hồi xưa bị hãng Intel sa thải, nằm ế dài trong nhà không có đồng xu. Bây giờ Trời thương, mở tiệm móng tay, làm ăn phát đạt, khách khứa tấp nập ở cửa tiệm, chỗ này manicure, chỗ kia pedicure, bàn bên này cô thợ đang làm full set cho một bà, bàn bên kia anh thợ đang thay móng cho một cô… Tiền đếm mỏi cả tay… Tự nhiên thiên hạ nhìn anh với ánh mắt khác liền. Thì cũng chỉ vì anh có tiền.

Mà lạ lắm, những người lớn tuổi, dù có là mắt kém, thông manh lông quặm, tai điếc đặc ra, nhưng tiền vẫn không đếm lộn. Ai mượn bao nhiêu, thiếu nợ ngày nào, các cụ vẫn nhớ rõ ràng và nhớ chính xác. Chẳng trách chi, người ta cứ nói, “Đồng tiền nó liền khúc ruột”. Đụng tới khúc ruột, ai mà chẳng đau chẳng xót.

Cho nên khi người thanh niên đến gặp Đức Giêsu xin Ngài chỉ dẫn phương cách để được sống đời đời. Đức Giêsu nhắc nhở người thanh niên bộ luật Mười Điều Răn. Người thanh niên xác định với Đức Giêsu tất cả những điều đó, thưa Thầy con đã tuân giữ từ thuả nhỏ. Nghe nói thế, Đức Giêsu yêu mến nhìn người thanh niên đề nghị anh về nhà bán hết gia sản, tặng cho người nghèo khó, rồi quay lại làm môn đệ Ngài. Nghe tới đây, người thanh niên sa sầm nét mặt. Lời đề nghị của Đức Giêsu đã trở nên muối mặn xót xa khúc ruột người đối diện. Cho nên anh ta bỏ đi, bởi anh chính là người giàu có (Mark 10:17-22).

Ơi tiền!

Tình Yêu Độ Lượng

Ông bà mình dạy,

Miệng kẻ sang có gang có thép.

Hóa ra đồng tiền là thước đo quyền lực của một người.

Có thời đàn ông Đài Loan không có khả năng lập gia đình với người bản xứ, mang tiền đô la sang bên Việt Nam chọn những cô gái đẹp nhất trong mấy làng mang về nhà làm vợ. Mấy ngàn tờ giấy đô la xanh tự nhiên hóa ra gang ra thép. Miệng kẻ có đô có quyền có vợ.

Nhưng có quyền lực, có tiền bạc, có vợ đẹp, như vậy đã đủ để có hạnh phúc hay chưa?

Người thanh niên trong câu truyện Tin Mừng chẳng phải có tiền, nhiều tiền là khác, nhưng anh vẫn phải lên đường tìm kiếm chân lý sống đời đời. Nói một cách khác, anh chàng vẫn còn cảm thấy chưa đủ, vẫn trống vắng với hạnh phúc. Lắng nghe lời yêu cầu, Đức Giêsu chỉ anh ta một chén thuốc đắng, uống ba lần: lần thứ nhất, sống từ bỏ, lần thứ hai, sống bác ái, và lần thứ ba, sống dấn thân.

Chuyện người thanh niên giầu có khẳng định một điều nếu không song hành đi đôi với tình yêu, cả hai, quyền lực và tiền bạc sẽ như kiềng hai chân rất là chênh vênh, do đó vẫn không trọn vẹn để có thể mang lại hạnh phúc cho bất cứ người nào đang sở hữu nó.

Nếu nói như vậy, thì thôi, bây giờ tôi sẽ xin thôi quyền lực và tiền bạc để có hạnh phúc hay sao?

Cũng không phải là như vậy.

Quyền lực và tiền bạc như tia nắng mặt trời. Để tự nhiên một mình, không thấy chi ngoài ánh sáng. Nhưng chiếu qua lăng kiếng, tia nắng mặt trời không mầu hóa ra cầu vồng bẩy mầu đẹp rực rỡ xôn xao. Cũng thế, quyền lực và tiền bạc được sử dụng bởi tình yêu nhân loại, diễn tả qua tấm lòng bác ái, hành xử qua tinh thần phục vụ, thực thi với đời sống dấn thân, quyền lực và tình yêu đó vươn mình trở nên hoàn hảo; khi đó quyền lực và tiền bạc trở nên cầu vồng bẩy mầu mang lại hạnh phúc cho người sở hữu và ngay cả những người anh chị em sống chung quanh.

Chẳng lạ chi trong thư thứ nhất gửi tới công đồng Corinth, thánh Phaolô đã từng nói những lời bất hủ về tình yêu tha nhân,

Nếu như tôi có nói được các thứ tiếng

của loài người và của các thiên thần đi nữa,

mà không có đức mến,

thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng,

chũm chọe xoang xoảng.

Nếu như tôi được ơn nói tiên tri,

và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu,

hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non,

mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì.

Nếu như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí,

hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt,

mà không có đức mến,

thì cũng chẳng ích gì cho tôi (1 Cor 13:2—3).

Cô thiếu nữ Việt Nam của đại học Berkeley tôi gặp, cũng bình thường như bao nhiêu người khác, cũng thích quyền lực và tiền bạc. Nhưng cô lại khác nhiều người lắm. Mà cái nét đặc biệt khiến cô khác người chính bởi cô sở hữu được tình yêu độ lượng. Chẳng lạ chi, cô đã dám từ bỏ tất cả, gia đình thân yêu, đời sống sung túc lên đường sang tận Phi Châu sống đời phục vụ. Những mẫu gương Kitô hữu như thế, mỗi lần nghĩ tới em, cô gái Việt Nam của đại học Berkeley, tôi vẫn nghiêng mình kính phục.

□ Nguyễn Trung Tây
www.nguyentrungtay.com

Bài học về sự thành công và hạnh phúc

Bài học về sự thành công và hạnh phúc

Quỳnh  Chi, phóng viên RFA

2013-02-15

Đối với nhiều người, câu chuyện của một bác sĩ trẻ người Singapore – Richard Teo Keng Siang không chỉ là một câu chuyện đầy cảm động và ý nghĩa mà nó ở một khía cạnh nào đó có thể làm thay đổi cuộc sống của họ.

Tải xuống – download

Bác sĩ Richard Teo (1972-2012)

Bác sĩ Richard Teo (1972-2012)

Danh vọng, tiền bạc không là tất cả

Nếu gõ từ Dr. Richard Teo trên công cụ tìm kiếm Google, sẽ thấy hơn 7 triệu kết quả trong vòng 0,28 giây. Trước khi mất vào tháng 10 năm ngoái, mặc dù là một bác sĩ có tiếng tại Singapore, ông Richard cũng không được nhiều người biết đến như vậy.

Những người biết đến ông đặc biệt là giới sinh viên Y khoa Singapore và những người có đức tin khi ông chia sẻ cuộc hành trình của chính cuộc đời mình trong những ngày tháng cuối đời chống chọi với căn bệnh ung thư phổi hiểm nghèo. Người ta biết đến ông, nhớ về ông không phải vì ông đã thành công trong việc tạo ra một câu chuyện cảm động từ chính cuộc đời mình mà là bài học ông rút ra từ bi kịch mà ông trải qua.

Nói chuyện tại một buổi lễ ở một nhà thờ Tin lành vào cuối tháng 11 năm 2011, giọng ông Richard đã bắt đầu trầm thấp và khàn đục. Nhưng chỉ hai tháng sau đó, nói chuyện tại một lớp nha khoa ở Singapore, giọng nói ông lại càng khó nghe ông như một mớ âm thanh ồn ào, sột soạt bởi lúc đó ông đang vật vã với đợt hóa trị lần 5.

Người đàn ông ốm yếu, không còn sinh khí, ăn mặc đơn giản nhưng lại cầm micro phone bày tỏ một cách tự tin trước bao  sinh viên nha khoa khiến nhiều người phải tò mò đặt câu hỏi “Bác sĩ Richard TeoKeng Sieng là ai?

“Tôi là một sản phẩm đặc trưng của xã hội. Tôi là sản phẩm đặc trưng mà giới truyền thông vẽ ra. Từ lúc còn trẻ, tôi bị ảnh hưởng và có ấn tượng rằng thành công là hạnh phúc. Và để thành công thì tôi phải giàu có”.

Tất cả đều diễn ra rất tốt đẹp. Thời vinh quang của tôi đã đến. Tôi ở tột đỉnh của sự nghiệp. Tôi có mọi thứ trong cuộc sống…Thế nhưng tôi đã lầm. Tôi không thể chế ngự mọi chuyện

Dr.Richard Teo

Thời còn ngồi ở giảng đường đại học, ông Richard là một trong những học sinh giỏi của trường đại học quốc gia  Singapore (NUS). Cũng như những thanh niên đầy hoài bão và tự hào về chính bản thân mình, ông Richard là mẫu người luôn ganh đua để đạt được những gì mình muốn: bạn gái, thể thao, học hành… Richard trở thành sinh viên trường y của
khoa giải phẩu mắt – một trong những chuyên khoa khó nhất – với học bổng nghiên
cứu của NUS.

Trong thời gian nghiên cứu, ông đạt được hai bằng phát minh về dụng cụ y khoa và tia lasers. Tuy nhiên, đây không   phải là những gì Richard hướng tới vì nó không mang đến cho ông sự giàu có.

“Sự thật thì những người có thu nhập trung bình không được gọi là anh hùng. Người ta tạo ra anh hùng từ những người nổi tiếng giàu có, từ những chính trị gia, từ người giàu có và nổi tiếng. Và tôi muốn trở thành một trong số họ”.

Chiếc Ferrari f70 Enzo 2012 (ảnh minh hoạ) The Motor Report

Chiếc Ferrari f70 Enzo 2012 (ảnh minh hoạ) The Motor Report

Richard dừng công việc của một bác sĩ chữa bệnh và trở thành một bậc thầy về sắc đẹp. Theo ông, đây chính là ngành hái ra tiền nhiều và nhanh. Một người có thể bỏ ra 30 đô la cho một lần đi bác sĩ nhưng vẫn than phiền. Tuy nhiên, họ lại sẵn sàng bỏ ra cả 10 ngàn đô là để hút mỡ mà lại vui vẻ.

Với khả năng thiên phú của mình, Richard đã chuyển sang ngành phẫu thuật thẩm mỹ không quá khó khăn cũng như không quá khó khăn để ông mở một phòng mạch cho công việc này. Rồi chẳng mấy chốc Richarad trở thành triệu phú khi phòng mạch có thêm 1, 2, 3 rồi 4 bác sĩ. Lịch chờ đợi để được phẫu thuật từ 1 tuần kéo dài đến 3 tháng và Richard có
thêm cơ hội thu hút nhiều khách ở nước láng giềng Indonesia.

“Tất cả đều diễn ra rất tốt đẹp. Thời vinh quang của tôi đã đến. Tôi ở tột đỉnh của sự nghiệp. Tôi có mọi thứ trong cuộc sống”

Richard chia sẻ một cách thật thà, hơi phóng khoáng cộng một chút chua chát tại các buổi nói chuyện với các sinh viên, các anh chị em trong Chúa những lúc cuối đời. Chỉ trước đó vài tháng, ông  chưa nghi ngờ về thời mà ông gọi là vinh quang đó.

Tiền bạc dư dả, Richard đã sắm chiếc xe đắt giá Ferrari. Cuối tuần ông tiêu khiển tại các câu lạc bộ đua xe hơi. Richard xây dựng nhà cửa, có khu nghỉ mát và hòa nhập với những người giàu có và nổi tiếng. Ông từng giao du với những người thành công nhất trên thế giới,
những hoa hậu được nhiều người biết đến và thưởng thức những món ăn của các đầu
bếp nổi tiếng tầm thế giới.

Richard chia sẻ ông đã từng nghĩ mình chế ngự được mọi việc và có thể tạo nên mọi thứ với đôi tay của

Bác sĩ Richard Teo năm 40 tuổi (năm ông mất)

Bác sĩ Richard Teo năm 40 tuổi (nămông mất) Source Facebook

mình. Chính vì thế, trước khi mắc bệnh, ông chưa từng nghĩ mình cần bất cứ ai, kể cả Chúa.

“Thế nhưng tôi đã lầm. Tôi không thểchế ngự mọi chuyện.”

Tháng 3 năm 2011, Richard bắt đầu bị  đau lưng và kết quả xét nghiệm cho thấy ông bị ung thư phổi giai đoạn 4b – giai đoạn cuối. Ung thư đã lan tới não, cột sống và nội tuyến. Theo chuẩn đoán, ông  chỉ còn sống được 3-4 tháng. Dĩ nhiên với sự tự tin pha lẫn chút ngoan cố và hiếu thắng, Richard không tin những gì diễn ra trước mắt mình là thật. Ông chưa
qua tuổi 40, không uống rượu, chỉ hút thuốc khi xã giao, và ông tập thể dục 6
ngày một tuần. Và điều quan trọng hơn hết là ông giàu có. Ông từng nghĩ rằng
chỉ có người nghèo mới chịu khổ ải.

“Các em có biết, có lúc tôi hoàn toàn nghĩ mình đã chế ngự được cuộc sống, đã đạt đến tột đỉnh cuộc sống nhưng tiếp đó tôi mất tất cả”.

Richard rơi vào trạng thái chán nản  và tuyệt vọng. Ông luôn đặt câu hỏi “Vì sao phải là tôi?” Khi mắc bệnh, ông bất ngờ nhận ra rằng những thứ ông cất công theo đuổi như xe hơi đắt tiền, nhà lầu,  khu nghỉ mát lại không mang đến niềm vui cho ông khi ông xuống tinh thần. Nói
với sinh viên nha khoa vào tháng 1 năm 2012, ông chia sẻ:

“Vậy mà tôi đã tưởng những thứ này
là hạnh phúc. Không phải vậy. Tôi khoe khoang để lấp đầy sự kiêu hãnh và cái
tôi của mình. Chúng cũng chẳng mang lại niềm vui cho bạn bè, người thân như tôi
tưởng. Điều thật sự mang lại niềm vui trong 10 tháng cuối cùng là tiếp xúc với
người thân, bạn bè, những người cười và khóc cùng tôi”.

Sắp chết mới biết nên sống như thế nào

Lúc chia sẻ những lời cuối cùng này vào tháng 1 năm ngoái, Richard đã trải qua lần hóa trị thứ 5 – đau đớn và dằn vặt. Một trong những sự dằn vặt lớn nhất của bệnh ung thư là sự dằn vặt về tinh thần bởi họ sống mất hết hy vọng vì biết rằng chỉ một thời gian ngắn nữa họ sẽ
vĩnh viễn nằm yên dưới lòng đất. Là một bác sĩ, hơn ai hết Richard biết điều đó
và tuyệt vọng. Đến lúc này trở thành một bệnh nhân, ông mới thấu được nỗi đau
của các bệnh nhân ông từng tiếp xúc với sự vô cảm trước đó. Richard từng sống
và cho rằng chữa bệnh chỉ là một công việc và không cho bệnh nhân chút thông
cảm nào.

“Đừng nghĩ rằng người nghèo mới phải khổ. Điều này không đúng. Những người nghèo khó vốn không có gì. Họ dễ dàng chấp nhận. Do đó, họ hạnh phúc hơn các em và tôi.”

Richard nhận ra rằng càng tích tụ,
ông càng trở nên ham muốn và càng có động lực để đạt được. Thành công, giàu có
không có gì sai trái nhưng sự lệ thuộc và không thể kìm hãm lòng ham muốn mới
chính là vấn đề. Richard chia sẻ điều này sau nhiều năm ông miệt mài kiếm tiền
và hả hê với những món của cải mình đạt được.

“Mọi người đều biết rằng một ngày
nào đó mình sẽ chết, ai cũng biết thế. Nhưng sự thật không ai tin. Thật trái
ngược rằng, chỉ khi sắp chết thì mình mới biết nên sống như thế nào. Tôi biết
điều này khi bệnh hoạn nhưng đó là sự thật và tôi đang trải qua”.

Đoạn video clip ghi lại buổi nói
chuyện của Richard trước các sinh viên mặc dù không thật rõ nét nhưng cũng đủ
để người ta thấy được sự xúc động nơi người bác sĩ trẻ. Ông Richard nói rằng
ông đã trả một giá đắt cho bài học phải sống thế nào.

Thật trái ngược rằng, chỉ khi sắp
chết thì mình mới biết nên sống như thế nào. Tôi biết điều này khi bệnh hoạn
nhưng đó là sự thật và tôi đang trải qua.

Bác
sĩ Richard Teo Keng Sieng

“Đừng quên khi thành danh, các em
đưa tay đến những người cần giúp đỡ. Bất cứ việc gì các em làm đều có thể mang
đến sự khác biệt cho họ. Bây giờ ở vị trí người tiếp nhận, tôi hiểu rõ. Đừng để
xã hội bảo ban các em cách sống. Điều này đã xảy ra với tôi. Tôi ngỡ như vậy là
hạnh phúc. Hạnh phúc thật sự không có được khi chỉ sống cho mình”.

Thời sinh viên, Richard được rửa tội
theo đạo Tin lành nhưng ông không đến nhà thờ và cho rằng tiền bạc sẽ mang lại
hạnh phúc. Ông từng sống và nghĩ rằng mình không cần Chúa vì bản thân ông có
thể tự tạo ra được những gì mình muốn. Sự ngoan cố và cao ngạo đã khiến ông
nghĩ rằng những điều kì diệu xảy ra đối với ông là do trùng hợp. Sự sống của
ông kéo dài nhiều tháng trước khi mất trước sự ngạc nhiên của nhiều bác sĩ được
ông giải thích là do trùng hợp. Tuy nhiên, đã có quá nhiều sự trùng hợp xảy ra
trong những tháng cuối đời khiến ông bị thuyết phục. Ông chưa bao giờ đọc Kinh
thánh nhưng trong một giấc mơ chập choạng lại thấy dòng chữ Hebrews 12: 7-8.
Tỉnh dậy, ông tìm trong Tân ước và thấy lời Chúa nói rằng:

“Ví bằng anh em chịu sửa phạt ấy là
Đức Chúa Trời đãi anh em như con, vì có người nào làm con mà cha không xử
phạt?Tôi nghĩ niềm vui sướng thật sự là khi biết Thượng Đế. Đây là điều quan
trọng nhất mà tôi học hỏi được”,
Richard
chia sẻ.

Câu chuyện của ông Richard không chỉ
gây xúc động trong những người tin Chúa:

“Mình tên Hải Đường. Cách đây 2
tháng mình có đọc câu chuyện này. Mình nghĩ nó mang ý nghĩa thực hơn là cảm
động. Nó phản ánh chân thực giáo lý Vô thường & Nhân quả trong nhà
Phật,  nhắc nhở con người sống trọn vẹn với cái tâm trong sạch và lành
thiện trong từng khoảnh khắc để tạo an lạc cho mọi người và cho chính mình”,
một bạn theo đạo Phật tên Hải Đường cho biết.

Còn bạn Ngọc Nguyên (Tp.HCM) chia
sẻ: “Mình tên Ngọc Nguyên, mình đọc được câu chuyện này vào đầu năm. Mình rất
xúc động. Mình nghĩ trong cuộc sống chúng ta nên quý trọng những gì mình có.
Quan trọng hơn hết là phải kính trọng đấng Thiêng liêng bởi dù có giỏi đến đâu
thì mình cũng chỉ là một nhân tố rất nhỏ trong vũ trụ mà thôi”.

Bác sĩ Richard Teo Keng Sieng mất
vào ngày 18 tháng 10 năm ngoái, hưởng thọ 40 tuổi. Câu chuyện của ông được lan
truyền trên mạng như một điển hình cho sự thành công và hạnh phúc. Đó cũng là
một câu chuyện điển hình của sự phụ thuộc vào vật chất, chuyện của những bác sĩ
đặt y đức sau đồng tiền và là một câu chuyện cảm động về lòng kính phục, khiêm
nhường trước đấng siêu nhiên.

Có lẽ không quá thiếu lý khi cho
rằng người ta thường biết cái giá của mọi thứ nhưng lại hiếm khi biết được giá
trị của nó. Steve Jobs – người sáng lập thương hiệu máy tính Apple từng viết
rằng “Tôi và khi 23 tuổi, tôi đáng giá 1 triệu đô la. Khi 24 tuổi tôi đáng giá
10 triệu đô la. Khi tôi 25, tôi đáng giá 100 triệu đô la. Nhưng điều đó không
quan trọng lắm vì tôi không làm vì tiền”. Có lẽ không phải ai cũng nghĩ như
Steve Jobs. Và chắc chắn rằng không phải ai cũng tin rằng mình sẽ ra đi mãi mãi
một ngày nào đó để sống xứng đáng cho cuộc đời.

Liên lạc với tác giả tại: Quynhchi@rfa.org.

 

Việc ĐGH Bênêđictô XVI từ nhiệm là một sứ điệp của Năm Đức Tin

Vic ĐGH Bênêđictô XVI t nhim là mt s đip ca Năm Đc Tin

+GM. Bùi Tuần

 

2/13/2013

 

nguồn: Vietcatholic.net

 

1. Tin Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI từ nhiệm đã và đang gây xôn xao trong mọi tầng lớp xã hội và Giáo Hội.

Đức Giáo Hoàng từ nhiệm, đó là biến cố rất bất ngờ. Bất ngờ đó gây ra trong tôi
một nỗi bàng hoàng choáng váng.

Lấy lại sự bừng tỉnh nhờ cầu nguyện, tôi cúi đầu lắng nghe Chúa dạy bảo. Chợt
tôi nhớ lại một chi tiết nhỏ riêng tư, lần tôi được gặp Đức Giáo Hoàng lúc Ngài
còn là Hồng Y Bộ trưởng Bộ Đức Tin. Trong trao đổi, tôi thấy Ngài chú ý đặc
biệt đến sự gặp gỡ Đức Kitô. Như thế căn cốt của đức tin là gặp gỡ riêng tư và
thân mật với Đức Kitô, để bước theo Đức Kitô. Nên trong thinh lặng nội tâm lúc
này, Chúa dạy tôi hãy dùng chi tiết đó như một ánh sáng để hiểu sự từ nhiệm của
Đức Giáo Hoàng.

Nhờ ơn Chúa giúp, tôi dần dần nhận ra rằng: Sự từ nhiệm của Đức Giáo Hoàng
Bênêđictô chứng tỏ Ngài đã và đang gặp gỡ Đức Kitô và bước theo Đức Kitô. Nhờ
đó Ngài nhấn mạnh đến mấy điểm rất cần sau đây cho Năm Đức Tin:

2. Trước hết, theo Ngài, tin là gặp gỡ Đức Kitô và bước theo Đức Kitô trong sự
từ bỏ quyền lợi riêng, và bước xuống thân phận con người hèn yếu, vì yêu thương
con người và để cứu chuộc loài người.

Tôi nhớ lại ở đây lời thánh Phaolô nói về nét đẹp đó của Đức Kitô:

“Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không phải nhất quyết duy trì địa vị
ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân
phận nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Pl 2,6-7).

Đức Kitô đã bước xuống, để hoà mình, để chia sẻ, để gần gũi, để cứu chuộc loài
người bằng yêu thương hoà trộn với hy sinh quên mình.

Đức Kitô đã nêu gương sáng đó cho các môn đệ Chúa. Các môn đệ Chúa hiểu sự
khiêm nhường bước xuống như thế là một đặc điểm của người môn đệ Chúa.

Thánh Phêrô càng hiểu điều đó. Nên, khi được Chúa Giêsu trao trách nhiệm chăn
dắt đoàn chiên của Chúa, thánh Phêrô đã thề hứa với Chúa là hết lòng mến yêu
Chúa. Trong lòng yêu mến đó có sự cam kết sống khiêm nhường bước xuống theo
gương Chúa.

Các đấng kế vị thánh Phêrô vẫn giữ tinh thần bước xuống theo gương Đức Kitô,
theo những cách khác nhau.

3. Tuy nhiên, với những biến chuyển của lịch sử, Hội Thánh dần dần trở thành
một tổ chức. Tổ chức này vừa có yếu tố siêu nhiên, vừa có yếu tố nhân loại. Một
lúc nào đó, tổ chức trở thành cơ chế phức tạp, như một guồng máy nặng nề. Trong
hoàn cảnh đó, vị đứng đầu Hội Thánh, dù muốn dù không, cũng phải bước lên chỗ
gọi là Ngai, là Toà.

Chức cao, quyền cả đó là một vinh dự rất lớn, nhưng cũng là một trách nhiệm rất
nặng nề. Nhất là khi yếu tố nhân loại chẳng may trở nên mạnh trong cơ chế phức
tạp. Trong tình hình như thế, cho dù người đứng đầu Hội Thánh, kế vị thánh
Phêrô, có muốn đổi mới Hội Thánh, bằng việc kêu gọi mọi người hãy tập trung vào
Đức Kitô, và giới răn yêu thương của Người, thì công việc đổi mới ấy không dễ
gì thực hiện được. Cản trở do những yếu tố ngoài Hội Thánh vẫn mạnh. Cản trở do
những yếu tố nhân loại trong cơ chế nội bộ Hội Thánh cũng mạnh không kém.

Trước một thực tế quá nhiều thách đố như vậy, vị lãnh đạo Hội Thánh sẽ phải suy
nghĩ rất nhiều. Suy nghĩ đi tới những chọn lựa. Khi chọn lựa của Ngài là sự từ
nhiệm, thì chọn lựa đó phải được coi là khiêm nhường và can đảm. Từ nhiệm là
bước xuống. Bước xuống để lui vào đời sống cầu nguyện, cũng vẫn là một cách đại
diện cho Chúa Kitô, lo cho đoàn chiên của Chúa.

Ngài bước xuống như vậy, là nhờ đức tin. Tin nơi Ngài là gặp gỡ Đức Kitô và
bước theo Đức Kitô.

4. Hơn nữa, khi đức tin của Ngài là gặp gỡ Đức Kitô và bước theo Đức Kitô, thì
Đức Giáo Hoàng bước thêm một bước nữa, đó là chịu đóng đinh mình một cách nào
đó vào thánh giá.

Ở đây, tôi nhớ lại lời thánh Phaolô nói về Đức Kitô:

“Ngài lại hạ mình xuống, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên
cây thánh giá” (Pl 2,8).

Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI cũng đã vâng lời đức tin cho đến cùng. Với sự từ
nhiệm của Ngài, Ngài nói sơ qua về tình hình sức khoẻ của Ngài đang suy giảm.
Chừng ấy thiết tưởng đã đủ, để chúng ta hiểu sự đau đớn Ngài phải chịu. Đau đớn
phần xác, đau đớn phần hồn. Đau đớn do ngoại cảnh, đau đớn do nội bộ. Chính sự
từ nhiệm cũng được coi là một quyết định đau đớn.

Những đau đớn ấy chính là một thứ thánh giá Ngài đang vác trên vai, và cũng là
thánh giá mà Ngài như bị đóng đinh vào, để dâng mình làm của lễ, kết hợp với
của lễ xưa của Chúa Giêsu trên thánh giá.

Tôi có cảm tưởng là một cách nào đó, Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI muốn nhắc lại
cho đoàn chiên của Ngài lời thánh Phaolô xưa: “Được thông phần những đau khổ
của Đức Kitô, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Ngài trong cái chết của Người”
(Pl 3,10), đó chính là hướng đi của đời Ngài.

5. Với những cảm nghĩ trên đây, tôi coi sự từ nhiệm của Đức Thánh Cha Bênêđictô
XVI là một sứ điệp quý giá của Năm Đức Tin.

Đọc sứ điệp này tôi thấy mình cần phải học nhiều điều.

Thứ nhất, tin là gặp gỡ Đức Kitô và bắt chước Đức Kitô.

Thứ hai, nếu tin là bắt chước Đức Kitô, thì tôi phải khiêm nhường bước xuống,
để chia sẻ, hoà mình, gần gũi, và để giải cứu con người bằng tình thương hy
sinh quên mình.

Thứ ba, nếu tin là bước theo Đức Kitô, thì tôi luôn phải sẵn sàng từ bỏ những
gì không thích hợp với sự phát triển của Nước Thiên Chúa, để dấn thân vào những
gì thích hợp hơn, theo thánh ý Chúa. Những gì không thích hợp như các công
trình phô trương tốn phí. Những gì thích hợp hơn như đời sống nội tâm.

Thứ tư, nếu tin là gặp gỡ Đức Kitô và bước theo Đức Kitô, thì mọi chọn lựa của
tôi luôn phải khiêm tốn và yêu thương.

Bốn điều trên đây sẽ không dễ thực hiện được, nếu không có ơn Chúa. Nên tôi
phải tăng cường việc cầu nguyện và làm những việc hy sinh nho nhỏ trong đời
sống thường ngày.

6. Khi sự từ nhiệm của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI được coi là một sứ điệp của
Năm Đức Tin, thì sứ điệp này không chỉ là một bài học, mà còn là một cảnh báo.
Cảnh báo về một tương lai sẽ có những bất ngờ gây bàng hoàng sửng sốt. Có thể
sẽ xảy ra những biến cố về sự bước xuống đau đớn và cảnh chịu đóng đinh vào
thánh giá. Nơi ít nơi nhiều, những bất ngờ đau đớn đó sẽ xảy ra.

Với những bài học và những cảnh báo, sứ điệp Năm Đức Tin tiềm ẩn trong sự từ
chức của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI rất đáng được chúng ta suy nghĩ trong
thinh lặng nội tâm, dưới ánh sáng của Chúa Thánh Thần.

Cần suy nghĩ nghiêm túc, để điều chỉnh lại đời sống một cách mau lẹ. Kẻo, khi
những bất ngờ đau đớn xảy tới mới tìm hướng đi, thì sẽ quá muộn.

Cần thức tỉnh mau lẹ. Đừng trì trệ, dửng dưng, khô cứng. Kẻo giờ Chúa đến bất
ngờ, mà chưa chuẩn bị, thì sẽ không kịp theo Chúa đi vào Nước Trời.

Bất ngờ tiếp nối bất ngờ. Sứ điệp trong sự từ nhiệm của Đức Thánh Cha Bênêđictô
XVI mới chỉ là khởi đầu. Ở đây, tôi nhớ tới những khủng khiếp, mà Đức Mẹ đã
tiên báo ở Fatima.

Long Xuyên, ngày 13 tháng 02 năm 2013

 

Do Trần Tân goi

Cám dỗ

Cám dỗ

TRẦM THIÊN THU

Đăng bởi lúc 3:02 Sáng 14/02/13

nguồn: chuacuuthe.com

VRNs (14.02.2013) – Sài Gòn – Cám dỗ là gì? Từ điển Wikitionary định nghĩa: “Cám
dỗ là khơi dậy lòng ham muốn đến mức làm cho sa ngã”
. Từ điển Từ và Ngữ
Việt Nam (Nguyễn Lân, NXB TPHCM, 1998) định nghĩa: “Cám dỗ là tìm mọi cách
quyến rũ làm việc gì không hay”
.

Dù định nghĩa thế nào thì vẫn cho thấy sự cám dỗ có động lực xấu xa, trái với luân thường đạo lý, mang tính liên đới là gây hậu quả xấu cho chính mình và người xung quanh. Cám dỗ chẳng trừ ai – nam, phụ, lão ấu, dân thường hay người có chức tước. Cám dỗ cũng đa dạng và có nhiều mức độ. Khi suy nghĩ về những cơn cám dỗ của cuộc đời, cụ Tú Xương đã phải “gãi đầu” mà thốt lên:

Một trà, một rượu, một đàn bà

Ba cái lăng nhăng nó quấy ta

Chừa được thứ nào hay thứ ấy

Có chăng chừa rượu với chừa trà

Can đảm chống lại cơn cám dỗ là điều khó thực hiện, và chừa được tật xấu nào đó cũng thật là nhiêu  khê. Chẳng ai nói mạnh được. Chỉ trong tích tắc cũng đủ người ta phải ân hận cả đời. Và cũng vì thế mà chúng ta cần cảm thông, yêu thương và tha thứ cho nhau.

Về sản phẩm đầu mùa, sách Đệ Nhị Luật cho biết: “Tư tế sẽ nhận lấy giỏ từ tay anh em và đem đặt trước bàn thờ Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em. Bấy giờ, anh em sẽ lên tiếng thưa trước tôn nhan Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em rằng: Người Ai-cập đã ngược đãi, hành hạ chúng tôi và đặt ách nô lệ trên vai chúng tôi” (Ðnl 26:4-6).
Lúc đó, họ đã kêu lên cùng Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông họ; và Ngài đã nghe
tiếng kêu xin của họ, đã thấy cảnh khổ cực, lầm than, áp bức mà họ phải chịu.
Vì thế, chính Đức Chúa đã đích thân dang cánh tay mạnh mẽ uy quyền, đã gây kinh
hồn táng đởm và thực hiện những dấu lạ điềm thiêng để đưa họ ra khỏi Ai-cập
(Ðnl 26:7-8).

Không chỉ được Thiên Chúa cứu thoát, họ còn được Thiên Chúa ban cho những thứ ngoài sức tưởng tượng: “Ngài đã đưa chúng tôi vào đây, ban cho chúng tôi đất này, đất tràn trề sữa và mật. Và bây giờ, lạy Đức Chúa, này con xin dâng sản phẩm đầu mùa của đất đai mà Ngài đã ban cho con” (Ðnl 26:9-10). Đó là động thái của lòng biết ơn, một động thái rất cần thiết trong cuộc sống thường nhật, với cả Thiên Chúa và
với tha nhân.

Tác giả Thánh vịnh mời gọi: “Hỡi ai nương tựa Đấng Tối Cao và núp bóng Đấng quyền năng tuyệt đối, hãy thưa với Chúa rằng: “Lạy Thiên Chúa, Ngài là nơi con náu ẩn, là đồn luỹ chở che, con tin tưởng vào Ngài” (Tv 91:1-2). Thiên Chúa biết rõ mọi sự, ngay từ trong suy nghĩ, nhưng bổn phận chúng ta vẫn phải chân thành cầu nguyện. Nếu biết tín thác vào Ngài, chúng ta sẽ có lợi nhiều: “Bạn sẽ không gặp điều ác hại, và tai ương không bén mảng tới nhà, bởi chưng Người truyền cho thiên sứ
giữ gìn bạn trên khắp nẻo đường, và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng cho bạn khỏi
vấp chân vào đá” (Tv 91:10-12)
.

Không chỉ lợi ích về tinh thần mà còn lợi ích cả về thể lý: “Bạn có thể giẫm lên hùm thiêng rắn độc, đạp nát đầu sư tử khủng long” (Tv 91:13). Đó là điều chắc chắn, vì
chính Đức Chúa đã phán hứa: “Kẻ gắn bó cùng Ta sẽ được ơn giải thoát, người
nhận biết danh Ta sẽ được sức phù trì. Khi kêu đến Ta, Ta liền đáp lại lúc ngặt
nghèo có Ta ở kề bên” (Tv 91:14-15)
. Thật là trên cả tuyệt vời!

Thánh Phaolô đặt vấn đề: “Kinh Thánh nói gì? Thưa: Lời Thiên Chúa ở gần bạn, ngay trên miệng, ngay trong lòng. Lời đó chính là lời chúng tôi rao giảng để khơi dậy đức tin” (Rm 10:8). Lời Chúa được Giáo hội coi trọng như Thánh Thể, và cả hai đều đòi hỏi đức tin minh bạch và mạnh mẽ. Thánh nhân giải thích: “Nếu miệng bạn
tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người
sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ. Quả thế, có tin thật trong lòng,
mới được nên công chính; có xưng ra ngoài miệng, mới được ơn cứu độ” (Rm
10:9-10)
. Như người Việt chúng ta cũng nói: “Có đầy mới tràn”, lòng
có thế nào thì mới nói ra.

Kinh Thánh xác định: “Mọi kẻ tin vào Ngài sẽ không phải thất vọng” (Rm 10:11). Vì thế, không có sự khác biệt giữa người này với người kia, dân tộc này hay dân tộc nọ, người lượm ve chai hay ông giám đốc, giáo sĩ hay giáo dân,… vì tất cả đều có cùng một
Chúa, là Đấng quảng đại đối với tất cả những ai kêu cầu Ngài. Tắt một lời: “Tất
cả những ai kêu cầu danh Đức Chúa sẽ được cứu thoát” (Rm 10:13)
. Đó là lời
hứa tuyệt đối!

Thánh sử Luca kể: Đức Giêsu được đầy Thánh Thần, từ sông Giođan trở về. Suốt bốn mươi ngày, Ngài được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa và chịu quỷ cám dỗ. Trong những ngày ấy, Ngài không ăn gì cả, và khi hết thời gian đó, theo nhân tính, Ngài cũng cảm thấy đói.

Vật chất là một trong những thứ cám dỗ mạnh nhất, đặc biệt là thực phẩm khi người ta đói ngấu. Chẳng vậy mà người ta có thể liều mạng mà cướp giật thực phẩm của người khác và ăn ngấu nghiến, danh dự lúc này cũng chỉ là “chuyện nhỏ”. Điều đó cũng cho thấy bản năng sinh tồn của con người rất mạnh.

Bấy giờ, quỷ nói với Chúa Giêsu: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì truyền cho hòn đá này hoá bánh đi!” (Lc 4:3). Nhưng Đức Giêsu “phang” ngay: “Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh” (Lc 4:4).

Thua keo này, nó bày keo khác. Nó đem Đức Giêsu lên cao, và trong giây lát, chỉ cho Ngài thấy tất cả các nước thiên hạ. Rồi nó “dụ” Ngài: “Tôi sẽ cho ông toàn quyền cai trị cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này, vì quyền hành ấy đã được trao cho tôi, và tôi muốn cho ai tuỳ ý. Vậy nếu ông bái lạy tôi, thì tất cả sẽ thuộc về ông” (Lc
4:6-7)
. Nhưng Đức Giêsu nói thẳng: “Đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái
lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Ngài mà thôi”
(Lc 4:8)
.

Trong cuộc sống đời  thường chúng ta cũng thường gặp những “bả” vinh hoa và lợi lộc, thế nên kẻ nào “yếu bóng vía” là dính líu vào vụ tham nhũng này, hối lộ kia, hoặc làm giấy tờ khống để lừa bịp và ăn chặn của người khác. Trong các đoàn thể cũng không phải không có “bả” này, vì thế mà người ta hay “lên mặt” vì có chức danh nào đó, vì
thế mà người ta muốn “ra lệnh” hoặc muốn chứng tỏ mình là người “hét ra lửa”.
Ngay trong các giáo phận, giáo xứ, chủng viện và tu viện cũng không loại trừ!
Nói chung, ai cũng muốn mình phải là “số dzách” (số một, number one).

Chưa hết, sau 2 lần thua cuộc, quỷ lại đem Đức Giêsu đến Giêrusalem và đặt Ngài trên nóc Đền Thờ, rồi “khoe mẽ” và “nổ tung” tới chín tầng mây: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì đứng đây mà gieo mình xuống đi! Vì đã có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ gìn giữ bạn. Lại còn chép rằng: Thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá” (Lc 4:9-11). To gan thật! Nhãi ranh mà dám thách thức Thiên Chúa.

Và rồi Đức Giêsu nghiêm nghị đáp lại: “Đã có lời rằng: Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi” (Lc 4:12). Thế là quỷ cũng đành “bó tay”, hết cách xoay xở hòng cám dỗ Ngài. Nó lủi thủi bỏ đi, nhưng “cay cú” lắm, nên nó vẫn rắp tâm mưu mô ranh mãnh là “chờ đợi thời cơ” (Lc 4:13).

Thế gian, xác thịt, và ma quỷ. Đó là ba kẻ đại thù. Không lúc nào hết những cơn cám dỗ trên đường lữ hành trần gian này. Cám dỗ như những con sóng ngoài biển khơi, không sóng lớn thì sóng nhỏ, không sóng cồn thì sóng ngầm, chứ biển chẳng bao giờ hết sóng, ngay cả những lúc chúng ta thấy biển có vẻ êm ả nhất. Vì thế mà luôn cần phải tỉnh thức và cầu nguyện: “Hãy canh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ. Vì
tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu đuối” (Mc 14:38)
.

Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin giúp chúng con luôn can đảm chống trả mọi chước cám dỗ bất kỳ lúc nào. Xin giúp chúng con luôn tỉnh thức và theo hướng dẫn của Chúa Thánh Thần . Lạy Sư Phụ Giêsu, Ngài đã chiến thắng tất cả để làm gương cho chúng con, xin giúp chúng con hiên ngang và vững bước theo Ngài mọi nơi và mọi lúc. Xin cậy nhờ công nghiệp của Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa Cứu Độ của chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

Lộ trình sám hối

TRẦM THIÊN THU

Đăng bởi lúc 1:47 Sáng 15/02/13

nguồn: chuacuuthe.com

 

VRNs (15.02.2013) – Sài Gòn – Đây là lời khuyên tâm linh của một vị thánh Tiến sĩ Giáo hội: Thánh Gioan Chrysostom. Đó là 5 lộ trình sám hối. Súc tích và dễ áp dụng. Xin mời bạn dành vài phút để đọc những gì thánh Gioan Chrysostom nói về lộ trình đó.

Có cần liệt kê các lộ trình sám hối? Chắc chắn có nhiều cách, và các lộ trình đó
đều dẫn tới Thiên quốc.

Lộ trình thứ nhấtkết án tội lỗi. Như tiên tri Isaia nói: “Hãy kể tội mình ra, và bạn sẽ được tha”. Và tác giả Thánh vịnh nói thêm: “Tôi đã nói: ‘Tôi sẽ làm chứng chống lại tôi trước mặt Thiên Chúa’, và Ngài đã tha tội cho tôi”. Như vậy bạn cũng phải kết án tội lỗi mà bạn đã phạm. Hãy kết án tội lỗi, và việc đó sẽ biện hộ cho bạn trước mặt Thiên Chúa, vì bất cứ ai kết án tội lỗi mình trót phạm thì lần sau sẽ chậm vi
phạm. Hãy đánh thức lương tâm trở thành người kết án – để khi bạn đến trước Tòa
Công Thẳng của Thiên Chúa thì sẽ không ai đứng lên kết án bạn.

Đó là lộ trình thứ nhất của việc sám hối, nhưng lộ trình thứ nhì cũng không
kém tuyệt vời. Đó là quên sự tổn hại mà kẻ thù đã gây ra cho chúng ta,
là kiềm chế cơn giận, là tha thứ tội lỗi của những người làm nô lệ cùng với
chúng ta. Chúng ta càng làm như vậy thì chúng ta càng được tha thứ tội lỗi: “Xin
tha nợ cho chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” (Kinh Lạy Cha)
.
Thế nên đây là lộ trình thứ nhì dẫn đến việc đền tội. Như Chúa đã nói: “Đúng,
nếu bạn tha thứ cho người khác, Cha trên trời cũng sẽ tha thứ tội lỗi cho bạn”
.

Có nên biết lộ trình thứ ba của việc sám hối? Đó là cầu nguyện: cầu nguyện tha thiết, thành tâm và tập trung, cầu nguyện từ đáy lòng.

Nếu bạn muốn biết lộ trình thứ tư, tôi sẽ nói ngay với bạn: Đó là thực thi bác ái. Đó là sức mạnh vĩ đại.

Cuối cùng, nếu bạn hành động bằng sự khiêm nhường, cách đó không kém hiệu quả như cách loại bỏ chính bản chất tội lỗi. Hãy nhìn vào người thu thuế, không có một
thiện cử nào, thế nhưng ông ấy lại khiêm nhường, do đó mà bao nhiêu tội lỗi của
ông ấy đều được tha bổng. Quá tuyệt vời!

Bây giờ tôi muốn cho bạn biết lộ trình thứ năm của việc sám hối: Sống khiêm nhường.

Đừng nhàn rỗi hoặc lười biếng, nhưng hàng ngày hãy “nâng cấp” các lộ trình này.
Không khó để bước đi trên các lộ trình đó. Nghèo không phải là cớ để không đi
du lịch. Nếu bạn thiếu thốn, bạn có thể làm những việc này: Để dành cơn giận
đữ, đặt sự khiêm nhường trước mặt, cầu nguyện liên lỉ, kết án tội lỗi của mình.
Nghèo không là rào cản – không phải lộ trình sám hối đòi hỏi tiền bạc: Đó là
làm việc bác ái. Hãy ghi nhớ câu chuyện về đồng xu của bà góa.

Bây giờ chúng ta đã biết con đường đúng để chữa lành mọi vết thương, chúng ta hãy
áp dụng các liệu pháp đó. Chúng ta hãy giành lại sức khỏe thật và tin tưởng để
lãnh nhận Thánh Thể. Như vậy chúng ta có thể đến, lòng tràn ngập vinh quang,
đến với vinh quang trong Vương quốc của Đức Kitô, hãy đón nhận niềm vui vĩnh
cửu qua ân sủng, lòng thương xót và lòng nhân hậu của Đức Giêsu Kitô.

Tóm lại, 5 lộ trình sám hối là:

1. Kết án tội lỗi.

2. Tha thứ cho tha nhân.

3. Cầu nguyện liên lỉ.

4. Thực hành bác ái.

5. Sống khiêm nhường.

Mùa Chay đã về. Mục đích của lộ trình sám hối là để chúng ta sẵn sàng lãnh nhận
hồng ân Thánh Thể.

Lạy Chúa, xin ban cho chúng con thêm đức Tin Cậy Mến, và xin thánh hóa chúng con!

Lạy thánh Gioan Chrysostom, xin nguyện giúp cầu thay!

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ Cantuar.blogspot.com)

 

Thiên thạch đâm xuống vùng núi Ural ở Nga

Thiên thạch đâm xuống vùng núi Ural ở Nga

Video ghi lại vật thể rơi bốc cháy phía trên một khu chung cư trong thành phố Chelyabinsk trong vùng núi Ural ở Nga, 152/13

Video ghi lại vật thể rơi bốc cháy phía trên một khu chung cư trong thành phố
Chelyabinsk trong vùng núi Ural ở Nga, 152/13

15.02.2013

nguồn: VOA

Giới chức Nga cho biết một thiên thạch đã bay vụt qua bầu trời vùng núi Ural của Nga vào sáng thứ Sáu, gây nên những vụ nổ và làm vỡ cửa sổ.

Giới chức nói hơn 400 người ở khu vực Chelyabinsk bị thương và nhiều người trong số họ bị thương do kính vỡ.

Chính quyền địa phương nói rằng một bức tường và mái của một nhà máy sản xuất
kẽm ở Chelyabinsk bị hư hại trong vụ nổ.

Nhà chức trách nói rằng sóng điện thoại di động chập chờn không ổn định.

Thiên thạch này đâm xuống Trái đất chỉ vài giờ trước khi một tiểu hành tinh với
tên gọi 2012 DA14 dự báo sẽ bay qua với khoảng cách gần với Trái đất.

Cơ quan không gian Hoa Kỳ NASA nói rằng các tiểu hành tinh rộng 45-mét có thể
đến gần tới 27.000 km phía trên Trái Đất. Tuy nhiên, NASA khẳng định tiểu hành
tinh này không có nguy cơ đâm xuống Trái đất.

Bên Thắng Cuộc: Một cuốn sách hay (2)

Bên Thắng Cuộc: Một cuốn sách hay (2) Ảnh: Danlambao
Ảnh: Danlambao
12.02.2013
Về thể loại của Bên Thắng Cuộc, có hai khía cạnh cần chú ý: phương pháp nghiên cứu và cách trình bày.
Về phương pháp, Huy Đức thu thập tài liệu chủ yếu qua các cuộc phỏng vấn, “hàng
ngàn cuộc phỏng vấn”, một phương pháp gắn liền với ngành khẩu sử (oral
history), một lối viết thịnh hành ở Tây phương từ khoảng cuối thập niên 1960,
và trở thành một ngành học ở các đại học Tây phương từ cuối thế kỷ 20. Khẩu sử
khác lịch sử. Khác, trước hết, ở nguồn tài liệu: với lịch sử, chủ yếu là các
văn bản viết; với khẩu sử, chủ yếu là các lời kể của những người trong cuộc
hoặc chứng nhân được thu thập qua các cuộc phỏng vấn. Khác nữa, ở đối tượng:
với lịch sử, đó là các tài liệu lịch sử, nói cách khác, lịch sử là lịch sử trên
lịch sử; với khẩu sử, đó là ký ức, hoặc ký ức cá nhân hoặc ký ức tập thể. Khác,
cuối cùng, còn ở tính chất, như là hệ quả của hai cái khác ở trên: trong khi
văn bản viết là những gì đã được công bố, nghĩa là, thứ nhất, thuộc về công
chúng; thứ hai, với những mức độ khác nhau, được xác minh, do đó, được xem là
ít nhiều đáng tin cậy; các lời kể trong các cuộc phỏng vấn, ngược lại, gắn liền
với từng cá nhân, xuất phát từ kinh nghiệm riêng, chúng có thể bị khúc xạ, bị
biến dạng, thậm chí, được “viết lại” theo những thay đổi trong tâm lý của người
kể. Nói cách khác, trong khi lịch sử là những gì đã được chọn lọc khá kỹ, khẩu
sử thường là những vật liệu thô; trong khi những người viết sử như những người
làm việc trong các tiệm kim hoàn, những người viết khẩu sử như những người làm
việc với vỉa quặng trong các hầm mỏ.
Tuy nhiên, về bản chất, lịch sử và khẩu sử giống nhau ở khá nhiều điểm. Thứ
nhất, chúng đều là những hình thức diễn ngôn về quá khứ (discourse about the
past) chứ không phải bản thân quá khứ. Quá khứ là những gì đã qua và đã biến
mất. Diễn ngôn về quá khứ là những tự sự được xây dựng để tái tạo lại quá khứ
ấy nhằm đáp ứng một nhu cầu trong hiện tại. Thứ hai, là diễn ngôn, cả lịch sử
lẫn khẩu sử đều có tính chất chủ quan, hoặc của một người hoặc của một nhóm
người. Thứ ba, do tính chất chủ quan ấy, cả lịch sử lẫn khẩu sử đều luôn luôn
được viết lại. Mỗi thời đại hoặc mỗi thế hệ đều cảm thấy có nhu cầu tái cấu
trúc ký ức và diễn dịch lại quá khứ, do đó, bao giờ cũng tìm cách viết lại
những gì các thế hệ đi trước đã viết.
Về cách trình bày, Bên Thắng Cuộc có tính chất báo chí hơn là lịch sử.
Có hai điểm khác nhau căn bản giữa báo chí và lịch sử: Thứ nhất, trong khi lịch
sử nặng về phân tích, báo chỉ nặng về miêu tả; thứ hai, trong việc sử dụng tài
liệu, kể cả tư liệu lấy được từ các cuộc phỏng vấn, yêu cầu cao nhất đối với
lịch sử là mức độ khả tín, nghĩa là cần được đối chiếu và xác minh cẩn thận;
với báo chí, là tính chất tươi ròng của tài liệu; và vì tính chất tươi ròng ấy,
nhiều lúc chưa chắc chúng đã chính xác, hoặc nếu chính xác, chưa chắc đã có ý
nghĩa tiêu biểu đủ để phản ánh thực chất của vấn đề.
Nhìn Bên Thắng Cuộc như một tác phẩm báo chí dựa trên phương pháp khẩu
sử, chúng ta dễ dàng chấp nhận một số khuyết điểm vốn rất dễ thấy trong cuốn
sách.
Thứ nhất, về phương diện cấu trúc, đặc biệt ở tập 2, “Quyền bính”; ở đó, thứ
nhất, quan hệ giữa các chương không theo một trật tự logic nào cả; thứ hai,
giữa các chương cũng không có sự cân đối cần thiết: có một số chương được viết
kỹ và nhiều chi tiết (ví dụ về Nguyễn Văn Linh và Võ Văn Kiệt) hơn hẳn các
chương khác (ví dụ về Lê Khả Phiêu và Nông Đức Mạnh). Lý do khá dễ hiểu: Huy
Đức không hoàn toàn làm chủ nguồn tư liệu của mình. Với những người anh tiếp
cận được dễ, anh viết sâu; với những người ở xa, anh viết cạn. Vậy thôi.
Thứ hai, về vấn đề tư liệu. Huy Đức phỏng vấn rất nhiều người, nhưng không phải
TẤT CẢ mọi người ở mọi phía; hơn nữa, anh chưa tiếp cận được những nguồn tài
liệu mật của Bộ Chính trị nên nhiều vấn đề vẫn khiến người đọc hoang mang.
Trong số đó, có hai vấn đề lớn nhất: Một, việc cuối năm 1967, Hồ Chí Minh
thường xuyên sang Trung Quốc dưỡng bệnh và Võ Nguyên Giáp thì được cử đi
Hungary. Nhiều người cho đó là một cách nghi binh nhằm che giấu ý đồ tổng tấn
công vào Tết Mậu Thân. Huy Đức, theo lời kể của một số người, cho hai người bị
đưa đi “an trí” để Lê Đức Thọ ra tay thâu tóm quyền lực. Cách giải thích như
vậy lại làm nảy sinh nhiều vấn đề khác: chẳng hạn, tại sao Lê Duẩn và Lê Đức
Thọ lại tung ra cuộc đấu đá nội bộ ở vào một thời điểm quan trọng, lúc họ cần
đoàn kết và tập trung nhất cho một trận chiến quyết liệt như vậy? Hai, Huy Đức
cho giới lãnh đạo Việt Nam, trong những năm 1976 và 1977, không đánh giá đúng
mức sự thù nghịch của Pol Pot đối với Việt Nam và từ đó, tầm vóc của cuộc chiến
tranh chống Việt Nam do Pol Pot phát động, và đầu năm 1979, hoàn toàn bất ngờ
trước cuộc tấn công của Trung Quốc vào biên giới phía Bắc Việt Nam (GP, tr.
76); tuy nhiên, trước đó, anh lại kể, từ cuối năm 1977, trong chuyến thăm Cần
Giờ, Lê Duẩn đã trả lời thắc mắc của một số đảng viên trong huyện ủy: “Các đồng
chí hỏi đúng vào một tình hình cả nước đang quan tâm. Chúng tôi đau đầu lắm,
ngủ không được. Không phải là vấn đề Khmer Đỏ mà là vấn đề ai ở đằng sau Khmer
Đỏ, đằng sau Pol Pot. Ta đã đưa đại quân đâu, bọn nó làm sao chống ta nổi,
nhưng ta đánh nó, Trung Quốc đánh ta thôi.” (GP, tr. 72-3) Biết thế mà vẫn “bất
ngờ” là sao?
Thứ ba, quan trọng nhất, nhiều chương chỉ có tính chất tự sự nhưng lại thiếu
hẳn tính chất phân tích, do đó, tuy hấp dẫn, chúng không giải thích được gì cả.
Ví dụ, trong tập “Giải phóng”, Huy Đức viết về Lê Duẩn khá dài, nhưng phần lớn
đều tập trung vào cuộc sống và tính cách của ông: Ông có hai vợ, một ở miền Bắc
và một ở miền Nam; lúc ở miền Nam, ông nổi tiếng về nhiệt tình và năng lực làm
việc không biết mệt mỏi, lúc ra miền Bắc, ông lại nổi tiếng là thích nói chuyện
lý thuyết, và khi nói chuyện, có thói quen hay ngắt lời người khác. Nhưng có
những điểm quan trọng nhất lại không được phân tích: Một, tại sao Hồ Chí Minh
lại tin cậy Lê Duẩn đến độ giao ngay cho ông chức Tổng Bí thư ngay sau khi ông
mới ra Hà Nội như vậy? Lúc ấy, chung quanh Hồ Chí Minh, ngoài Trường Chinh vốn
đã bị mang tiếng sau vụ cải cách ruộng đất, có rất nhiều tay chân thân thiết,
kể cả hai người được ông và nhiều người khác yêu mến: Võ Nguyên Giáp và Phạm
Văn Đồng? Hai, tại sao, từ miền Nam mới ra Bắc, hầu như hoàn toàn đơn độc, chỉ
trong vòng mấy năm, Lê Duẩn đã có thể thao túng toàn bộ guồng máy đảng Cộng
sản, lấn át quyền hành của tất cả mọi người, kể cả Hồ Chí Minh, như vậy? Ông sử
dụng các biện pháp gì để xây dựng vây cánh và quyền lực một cách nhanh chóng và
hiệu quả như vậy? Ba, tại sao một người nổi tiếng quyền biến và, đến lúc chết,
vẫn có uy tín rất lớn, không những ở miền Bắc mà còn trên cả thế giới, như Hồ
Chí Minh, lại đành nhẫn nhục chịu đựng cảnh bị Lê Duẩn tước đoạt quyền hành mà
không hề tìm cách kháng cự như vậy? Đó là những vấn đề giới nghiên cứu lịch sử
Việt Nam hiện đại không thể không đặt ra.
Những khuyết điểm trên có thể được chấp nhận hoặc bỏ qua nếu chúng ta đọc Bên
Thắng Cuộc
như một tác phẩm tường thuật về tình hình chính trị của một thời
đại. Mang tính báo chí, Bên Thắng Cuộc gần với khẩu sử hơn lịch sử. Tự
bản chất, khẩu sử là ký ức. Với ký ức, quan trọng nhất là câu chuyện chứ không
phải phân tích. Mà các câu chuyện trong Bên Thắng Cuộc thì không những
hấp dẫn mà còn đa dạng vô cùng. Tính chất đa dạng ấy làm cho bức tranh Huy Đức
mô tả trở thành đa diện. Nhìn từ góc độ ấy, chúng ta sẽ thấy có khi ngay cả
những chi tiết nhí nhắt nhất cũng có thể hữu ích. Ví dụ, lời tâm sự của bà
Nguyễn Thụy Nga (trong sách có lúc viết tên lót là Thụy, lúc lại viết là Thị),
người “vợ miền Nam” của Lê Duẩn, về chồng bà: “Trong tình yêu anh cũng như con
nít” (GP, tr. 117). Câu ấy, tự nó, không tiết lộ được điều gì cả. Thì có người
đàn ông nào, trong tình yêu, lại không giống con nít? Nhưng nó vẫn giúp người
đọc, khi nhìn lại Lê Duẩn, thấy ở ông, ngoài hình ảnh một nhà lãnh đạo cuồng
tín, thủ đoạn và độc đoán, còn có một khía cạnh khác: một con người. Những cách
nói năng kiểu “thằng này, thằng nọ” của Nguyễn Văn Linh, cũng vậy, đều tiết lộ
một cá tính. Đối với người bình thường, cá tính thường bị loại trừ từ góc độ
nghề nghiệp. Nhưng với các chính khách, đặc biệt khi chính khách ấy nắm giữ vai
trò lãnh đạo, cá tính lại được chú ý vì nó ảnh hưởng đến chính sách, từ đó, đến
đường lối chung, và cũng từ đó nữa, đến cả vận mệnh của đất nước.
Bên Thắng Cuộc hay, rất hay, nhưng cũng giống như mọi cuốn tường thuật
hay khẩu sử, nó là một cái gì dở dang. Nó là một khối quặng chưa được tinh chế.
Nó cung cấp cho người đọc cả hàng ngàn câu chuyện từ cả mấy trăm người kể khác
nhau để người đọc, hoặc các sử gia sau này, so sánh, diễn dịch, phân tích
và/hoặc tổng hợp lại để thành một bức tranh hoàn chỉnh hơn.
Ở trên (bài số 1), tôi có viết điều tôi thích nhất ở Bên Thắng Cuộc
tư liệu. Vậy điều kế tiếp? Đó là quan điểm. Một số người ở hải ngoại, chỉ nhìn
vào mấy dòng lý lịch trích ngang của Huy Đức, thấy anh đã từng là bộ đội, lại
là sĩ quan, đã lên tiếng phê phán và tố cáo anh, dù có khi chưa hề đọc trang
nào trong cuốn sách. Đó chỉ là một nhận định vội vã và đầy thành kiến. Trong
lời nói đầu tập “Giải phóng”, Huy Đức cho biết cuốn sách của anh là “công trình
của một nhà báo mong mỏi đi tìm sự thật”. Dĩ nhiên, chúng ta biết, “sự thật” là
một khái niệm rất mơ hồ. Và tương đối. Nhưng cách hiểu về cái gọi là “sự thật”
ấy của Huy Đức, theo tôi, rất đơn giản nhưng chính xác: Chúng là những gì khác
hẳn với “những thông tin được cung cấp bởi nhà trường và bộ máy tuyên truyền” ở
Việt Nam. Theo đuổi mục tiêu ấy, không thể nói lúc nào Huy Đức cũng thành công.
Đó là điều dễ hiểu. Ai cũng vậy thôi. Có điều tôi cho là đáng khen ngợi nhất ở
anh là anh có thiện chí và cố gắng.
Thiện chí và cố gắng ấy thể hiện ngay ở nhan đề cuốn sách: Bên Thắng Cuộc.
Tại sao không phải là “thắng trận” hay “chiến thắng” như hai cách nói khác
thông dụng hơn? Tôi nghĩ đó là một lựa chọn. “Thắng trận” chỉ thuần về quân sự.
Nhưng đề tài Huy Đức muốn trình bày không phải chỉ là quân sự. Còn “chiến
thắng”? Trong chữ “chiến thắng”, ngoài ý nghĩa “thắng”, còn có hai nét nghĩa
phụ khác, đi kèm, đến từ chữ “chiến”: chính nghĩa và vinh quang. Không ai dùng
chữ “chiến thắng” để nói về kẻ đi đánh lén người khác, chẳng hạn. Chữ “thắng
cuộc” hoàn toàn không có những hàm ý như thế. Đánh bài: thắng cuộc. Cá cược:
thắng cuộc. Dùng chữ “bên thắng cuộc”, Huy Đức, một mặt, tước bỏ các huyền
thoại chung quanh từ “chiến thắng” vốn thường được sử dụng, mặt khác, xem chiến
tranh, tự bản chất, như một ván bài về quyền lực. Vậy thôi. Trong ván bài, việc
thắng thua tuỳ thuộc may rủi chứ không dính dáng gì đến chuyện chính nghĩa hay
không chính nghĩa.
Trong tập “Quyền bính”, ở chương “XVII: Tam quyền không phân lập”, khi nói về
những sự thay đổi Hiến pháp ở Việt Nam, Huy Đức viết: “Hiến pháp 1992, vì thế,
đã không tiếp cận được những mô hình nhà nước tiến bộ để trở thành nền tảng cho
Việt Nam xây dựng nhà nước pháp quyền.” (QB. 90) Xin lưu ý: chữ “tiến bộ” đằng
sau chữ “nhà nước” và đằng trước cụm từ “nhà nước pháp quyền” ở câu trên hoàn
toàn trái ngược với cách hiểu về chữ “tiến bộ” mà giới truyền thông Việt Nam
thường sử dụng.
Trong giới lãnh đạo Việt Nam, rõ ràng Huy Đức tỏ ra ưu ái đặc biệt với hai
người: Võ Nguyên Giáp và Võ Văn Kiệt. Nhưng ngay cả như vậy, ở cả hai, Huy Đức
đều nhận thấy những khuyết điểm căn bản của họ: trung thành một cách dại dột.
Phê bình như thế, Huy Đức thấy được một vấn đề thuộc về bản chất của chế độ.
Bản chất được anh viết trong lời nói đầu tập “Quyền bính”: “Hệ thống chính trị,
trải qua nhiều thế hệ, càng về sau lại càng có ít khả năng khắc phục sai lầm.”
Nhưng nếu nó không có khả năng tự khắc phục sai lầm thì sao? Ai sẽ đảm nhận
trách nhiệm ấy? Câu trả lời nằm trong những điều Huy Đức chưa nói hết: Có thể
là bất cứ ai, nhưng chắc chắn là không phải từ “hệ thống”.
Đó chính là lý do chính khiến báo chí trong nước xúm vào đánh cuốn Bên Thắng
Cuộc
.
Dĩ nhiên, Bên Thắng Cuộc không tránh khỏi khuyết điểm. Chả có cuốn sách
nào không có khuyết điểm cả. Vấn đề chỉ là nhiều hay ít. Ở cuốn Bên Thắng
Cuộc
, theo tôi: Ít. Điều thú vị là, hầu hết các sai lầm của anh đều liên
quan đến văn học. Trong chương “XI: Campuchia” của tập “Giải phóng”, anh nhận
định: “Cảnh giác với người Trung Hoa là điều đã có từ trong máu người Việt Nam.
Nhưng, trong lịch sử nghìn năm kháng cự để tồn tại với ‘thiên triều’, chưa có
triều đại nào lại công khai xác định Trung Quốc là ‘kẻ thù truyền kiếp và lâu
dài’ trong các văn kiện chính thức như thời Tổng bí thư Lê Duẩn.” (GP, tr. 160).
Sai. Huy Đức quên trong Bình Ngô đại cáo (1428) của Nguyễn Trãi có câu
này: “Kẻ thế thù đâu thể đội trời chung”  (Niệm thế thù khởi khả cộng đái
/ 念 世讎 豈 可 共 戴).
Thế thù: Kẻ thù truyền kiếp. Trong “chương XII: Cởi trói” của cuốn “Quyền
bính”, nhân nhắc đến các dấu mốc lớn trong  lịch sử báo chí Việt Nam, anh
viết : “Thơ Mới, cuối thập niên 1930” (QB, tr. 11).  Sai. Thời điểm ra đời
của Thơ Mới là đầu chứ không phải cuối thập niên 1930. Trong vòng chưa tới 10
năm, Thơ Mới đã đi hết một chặng đường. Cũng trong chương ấy, anh trích bài
“Vòng trắng” của Phạm Tiến Duật như sau: “Khói bom lên trời thành những vòng
đen / Và dưới mặt đất sinh ra bao vòng trắng / Tôi với bạn đi trong im lặng /
Khăn tang trên đầu như một số không” (QB, tr. 18). Sai nhiều chỗ. Nguyên văn
bài thơ ấy là:
Khói bom lên trời thành một cái vòng đen

Trên mặt đất lại sinh bao vòng trắng
Tôi với bạn tôi đi trong im lặng
Cái im lặng bình thường đêm sau chiến tranh.
Có mất mát nào lớn bằng cái chết
Khăn tang vòng tròn như một số không
Nhưng bạn ơi, ở bên trong vòng trắng
Là cái đầu bốc lửa ở bên trong.

Ngay cả mấy câu thơ của Nguyễn Duy được trích làm đề từ cho cuốn sách cũng sai:
Suy cho cùng trong mỗi cuộc chiến tranh
Bên nào thắng thì nhân dân đều bại.
Nguyên văn của Nguyễn Duy như sau:
Ta mặc niệm trước Angkor đổ nát

đá cũng tàn hoang huống chi là kiếp người

Đá ơi

xin tạc lại đây lời cầu chúc hoà bình!

Nghĩ cho cùng

Mọi cuộc chiến tranh
Phe nào thắng thì nhân dân đều bại…

(In trong tập Quà tặng, nxb Văn Học, 1990, tr. 78)
“Nghĩ” khác với “suy”, “mọi” khác với “mỗi”, và “phe” khác với “bên”.
Cũng như “bên thắng cuộc” khác với “bên chiến thắng”.
Một điều cuối cùng: Không ít người cho chọn cách tiếp cận từ phía những người
thắng cuộc như Huy Đức là một chọn lựa đầy thiên vị, từ đó, bức tranh anh muốn
phác họa sẽ bị lệch lạc theo. Theo tôi, không đúng. Thứ nhất, trong mọi lịch
sử, những người “thắng cuộc” – xưa là vua chúa, sau này, giới cầm quyền – bao
giờ cũng nằm ở vị trí trung tâm, cần được nghiên cứu nhất, bởi chính họ, một
cách tích cực hay tiêu cực, quyết định diện mạo của một thời đại và số phận của
một dân tộc. Thứ hai, vấn đề không phải lệch lạc hay không. Vấn đề chỉ là ở mức
độ. Không có một cuốn sách nào, kể cả lịch sử, chính xác hoàn toàn. Thậm chí,
các nhà hậu hiện đại chủ nghĩa còn hoài nghi cái gọi là lịch sử nói chung: Họ
xem lịch sử như một biểu hiện của đại tự sự (grand narrative), một tham vọng
đạt đến cái nhìn bao quát toàn bộ sự thật và thực tại: Với họ, đó là điều bất
khả. Hơn nữa, họ xem lịch sử bao giờ cũng gắn liền với một quan điểm và một góc
nhìn nhất định: lịch sử (history) là chuyện của ông-ấy, của một gã nào đó
(his-story). Chứ không có một lịch sử chung nhất cho mọi người.
Bên Thắng Cuộc là một tác phẩm hay nhưng dĩ nhiên, như mọi cuốn sách khác,
không hoàn hảo. Cái không hoàn hảo ấy cần được hoàn thiện dần dần. Bằng những
tác phẩm khác. Điều đó không có gì đáng ngạc nhiên. Và càng không đáng phản
đối.
***
Kỳ tới: Chân dung “bên thắng cuộc”
Chú thích: Số trang trong phần chú thích ghi theo bản “Smashworlds Edition”
của  Bên Thắng Cuộc.

Bên Thắng Cuộc: Một cuốn sách hay (1)

Bên Thắng Cuộc: Một cuốn sách hay (1)

Nguyễn Hưng Quốc

11.02.2013

nguồn: VOA

Tôi có cuốn Bên Thắng Cuộc của Huy Đức đã khá lâu nhưng mấy ngày vừa rồi mới có thì giờ để đọc. Ấn tượng chung: Thích.

Thích nhất là về tư liệu. Đã có nhiều người, Việt Nam cũng như ngoại quốc, viết
về Việt Nam sau năm 1975 nhưng có lẽ chưa có cuốn sách nào bao quát nhiều khía
cạnh và dồi dào tư liệu đến như vậy. Các cuốn sách khác, cho đến nay, dưới hình
thức hồi ký hay biên khảo, thường chỉ tập trung vào một lãnh vực và từ một góc
độ cụ thể nào đó. Bên Thắng Cuộc, ngược lại, hầu như đề cập đến mọi góc
cạnh lớn, từ quân sự đến chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội, từ tổ chức
chính quyền tại Sài Gòn sau năm 1975 đến các chiến dịch đánh tư sản, các trại
cải tạo, phong trào vượt biên, các nỗ lực “xé rào” về kinh tế, chính sách đổi
mới, chiến tranh với Campuchia cũng như với Trung Quốc và các cuộc tranh giành
quyền lực trong nội bộ đảng Cộng sản. Ở từng vấn đề, Huy Đức đều nêu lên thật
nhiều chi tiết. Các chi tiết ấy thuộc hai loại chính: Một, lời kể của các chứng
nhân được thu lượm qua các cuộc phỏng vấn hoặc qua các hồi ký – đã hoặc chưa
xuất bản – của họ; và hai, các tài liệu đã được công bố đây đó, bằng tiếng Việt
cũng như bằng tiếng Anh. Nguồn tài liệu thứ nhất được Huy Đức thực hiện với tư
cách một nhà báo; nguồn thứ hai, với tư cách một nhà nghiên cứu. Tôi cho sự kết
hợp giữa hai tư cách này là mặt mạnh nhất của Huy Đức đồng thời cũng là ưu điểm
chính của cuốn Bên Thắng Cuộc: Thường, các nhà báo Việt Nam chỉ “tác
nghiệp” theo lối kinh nghiệm chủ nghĩa, dựa trên những gì mình nghe kể hoặc
quan sát được; còn các nhà nghiên cứu thì lại thiếu thực tế, do đó, hoặc chỉ
xào nấu từ các cuốn sách khác hoặc phải sa vào tư biện, tệ hại hơn nữa là tư
biện kiểu Việt Nam: cứ lải nhải những luận điệu rặt mùi tuyên truyền, tức những
luận điệu ai cũng biết, hơn nữa, biết là sai.

Trong Bên Thắng Cuộc, nguồn tài liệu từ sách vở chỉ có tính chất bổ
sung, chủ yếu để cung cấp số liệu và mở rộng kích thước lịch sử, từ đó, tăng
tính thuyết phục cho những vấn đề được đề cập. Ví dụ, nói về cuộc họp mặt với
khoảng 100 văn nghệ sĩ tại Hà Nội của Nguyễn Văn Linh vào ngày 6 và 7
tháng 10 năm 1987, Huy Đức quay trở lại với thời Nhân Văn Giai Phẩm, hoặc xa
hơn nữa, thời Trường Chinh viết “Đề cương văn hóa” năm 1943, thậm chí, một
chút, về lịch sử báo chí Việt Nam trước đó. Nói về kinh tế thị trường (lần đầu
tiên được đưa vào các văn kiện Đảng là năm 1991), anh quay trở lại vấn đề “lược
sử kinh tế tư nhân” ở Việt Nam từ cuối thế kỷ 19, đặc biệt, đầu thế kỷ 20, dưới
thời Pháp thuộc. Nói về các chính sách đối với người Hoa vào những năm 1978-79,
anh quay lại quan hệ giữa Việt Nam (chủ yếu là miền Bắc) với Trung Quốc trong
Hiệp định Geneve năm 1954 cũng như trong suốt cuộc chiến tranh Nam Bắc thời
1954-75, bao gồm cả chuyện Hoàng Sa năm 1974, v.v.. Những tài liệu này, thật
ra, không mới, nhưng chúng được trình bày một cách gọn ghẽ, sáng sủa và mạch
lạc, làm cho vấn đề có thêm bề dày của lịch sử.

Nhưng mặt mạnh nhất của Huy Đức là ở tư cách nhà báo. Không những chỉ là người
làm báo lâu năm, anh còn có ba đặc điểm mà không phải nhà báo kỳ cựu nào cũng
có: Một, quan hệ rộng; hai, có tầm nhìn dài; và, ba, có cách làm việc khoa học.

Tôi gặp Huy Đức một lần ở Hà Nội, hình như là vào cuối năm 2002 hay đầu năm
2005 gì đó. Buổi sáng, tôi đang ngồi uống cà phê với nhà thơ Phan Huyền Thư và
nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên thì anh và nhà phê bình Nguyễn Thanh Sơn đến nhập bọn. Phạm Xuân Nguyên giới thiệu Huy Đức với tôi: “nhà báo, đang làm ở tờ Thời báo Kinh tế Sài Gòn”. Lúc ấy, Huy Đức chưa có Osin blog, chưa có các bài bình
luận chính trị được phổ biến rộng rãi trên internet, cho nên, thú thật, tôi
không hề biết anh, kể cả cái tên. Mà Huy Đức cũng rất ít nói. Hôm ấy, anh chỉ
ngồi nghe bọn tôi nói hươu nói vượn về chuyện văn chương và cười. Đến lúc Phạm
Xuân Nguyên đọc một số bài ca dao mới chế giễu giới lãnh đạo Việt Nam, trong
đó, có cả Hồ Chí Minh, cả bọn cười ngất, riêng Huy Đức thì lôi trong túi ra một
cuốn sổ tay nhỏ và đề nghị Nguyên đọc lại, chầm chậm, cho anh chép. Sau đó,
trong suốt buổi nói chuyện, cứ hễ bắt gặp một câu gì hay hay, một chi tiết gì
thú vị, anh lại lôi sổ tay ra chép. Cung cách làm việc của anh khiến tôi để ý.
Và nhớ mãi.

Nhiều người trong giới nhà báo có ưu điểm là biết rộng nhưng phần lớn lại mắc
phải khuyết điểm là sa đà trong các sự kiện có tính chất giai thoại vụn vặt,
cuối cùng, chỉ viết được những bài báo ngăn ngắn, đầy tính thời sự, để được đọc
ngày hôm trước và bị quên lãng ngay vào ngày hôm sau. Huy Đức, khi theo dõi và
ghi chép các tin tức hằng ngày, đã có tham vọng sử dụng cho một bức tranh toàn
cảnh về sinh hoạt chính trị Việt Nam thời anh đang sống. Cuốn Bên Thắng Cuộc,
gồm hai tập, “Giải phóng” và “Quyền bính”, như anh tiết lộ trong lời nói đầu,
được hình thành trong 20 năm, chính là kết quả của tham vọng ấy.

Không phải nhà báo nào cũng có quen biết nhiều, đặc biệt trong giới lãnh đạo,
như Huy Đức. Ở Việt Nam, để có được những quan hệ rộng rãi như thế, không những
cần có tính cách thích hợp (quảng giao) mà còn có cả yếu tố “nhân thân” nữa:
Sinh trưởng ở miền Bắc, vốn là sĩ quan, từng làm việc ở Campuchia với tư cách
chuyên gia quân sự trong hơn ba năm trước khi về làm báo, anh có đủ điều kiện
để được tin cậy. Chính vì thế, anh được báo Tuổi Trẻ giao trách nhiệm tường
thuật các kỳ họp Quốc Hội, ở đó, anh có thể, ở “những thời điểm nóng bỏng
nhất”, “vào tận phòng làm việc hỏi chuyện Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Thủ tướng Phan
Văn Khải” hoặc “đến nhà riêng, văn phòng làm việc của Tổng bí thư Đỗ Mười, Tổng
bí thư Lê Khả Phiêu… phỏng vấn”.  Trong “Mấy lời của tác giả”, anh cho
biết anh đã tiến hành “hàng ngàn cuộc phỏng vấn”; và theo “Lời cám ơn”, chúng
ta được biết, trong số những người được anh phỏng vấn, ngoài các tên tuổi nêu
trên, còn có Chủ tịch Nước Lê Đức Anh, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An, Đại
tướng Võ Nguyên Giáp, Thượng tướng Trần Văn Trà, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh,
Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Quốc hội
Lê Quang Đạo, Chủ tịch Nước Nguyễn Minh Triết, Bộ trưởng Công an Lê Minh Hương, Phó Chủ tịch Nước Nguyễn Thị Bình, v.v.. Cả trăm người. Toàn những người lãnh đạo ở bậc cao nhất trong nước. Ngoài ra, anh còn phỏng vấn vợ họ, con họ và các
thư ký riêng của họ nữa.

Chắc chắn không có một nhà báo hay nhà biên khảo nào ở hải ngoại, kể cả người
ngoại quốc – vốn vừa ít bị nghi ngờ vừa được các trung tâm nghiên cứu lớn tài
trợ để có thể bỏ ra năm bảy năm thu thập tài liệu cho một cuốn sách – có thể
tiếp cận được đến chừng ấy người trong giới lãnh đạo Việt Nam. Ở trong nước,
làm được điều ấy, cũng không phải dễ. Nhìn từ góc độ xuất bản, có lẽ Huy Đức là
người đầu tiên. Điều này trở thành một thế mạnh đầu tiên của cuốn sách: Đó là
chuyện kể từ những người trong cuộc của “bên thắng cuộc”. Tính chất “trong
cuộc” ấy đã tạo nên những đặc trưng về thể loại và thẩm mỹ của cuốn sách.

Trong cái gọi là đặc trưng thẩm mỹ ấy, tôi chỉ xin tập trung vào một điểm: sự
hấp dẫn.

Phải nói ngay: hiếm có cuốn sách về chính trị nào hấp dẫn như cuốn Bên Thắng
Cuộc
. Điều đó có thể thấy qua những tiếng ồn nó gây ra trong mấy tháng vừa
qua. Lâu lắm rồi, giới cầm bút Việt Nam hầu như hoàn toàn bất lực trong việc
gây ồn. Hầu hết sách báo được xuất bản ở trong nước cũng như ở hải ngoại, đặc
biệt ở hải ngoại, đều rơi vào im lặng. Không phải chỉ là chuyện hay hay dở. Mà
chủ yếu ở tâm lý quần chúng: dửng dưng. Cuốn Bên Thắng Cuộc, ngược lại,
ngay từ lúc mới ra mắt ở hải ngoại, là đã gây ồn ào ngay. Kẻ bênh người chống,
bên nào cũng xôn xao và lên tiếng ỏm tỏi trên mọi diễn đàn, từ trên giấy đến
trên mạng. Những tiếng ồn ấy khiến cả những người chưa đọc cuốn sách, hoặc có
khi, không có ý định đọc cuốn sách, cũng quan tâm, thậm chí, như ở California,
xuống đường biểu tình đòi… đốt sách!

Bên Thắng Cuộc hấp dẫn thật. Đọc, chúng ta biết được rất nhiều
chuyện, từ những chuyện lớn liên quan đến chính sách đến những chuyện nhỏ, có
khi nhí nhách nữa, liên quan đến đời sống hàng ngày của một số người. Lớn, ví
dụ, những toan tính đằng sau các chính sách hay chiến dịch có ảnh hưởng đến
sinh mệnh cả hàng chục triệu người; những thay đổi trong tính cách của Lê Duẩn:
từ một cán bộ hay hy sinh cho người khác đến một lãnh tụ chuyên quyền và độc
đoán; trong thái độ của Trường Chinh: từ một người giáo điều và bảo thủ đến một
người đi đầu trong phong trào đổi mới; trong chủ trương của Nguyễn Văn Linh: từ
một người đổi mới đến một người phản-đối-mới. Cũng có thể xem là lớn mối quan
hệ giữa các lãnh tụ với nhau, như giữa Lê Duẩn với Hồ Chí Minh, Trường Chinh,
Võ Nguyên Giáp và Lê Đức Thọ; giữa Nguyễn Văn Linh với Võ Văn Kiệt, những chi
tiết liên quan đến cái chết của Đại tướng Lê Trọng Tấn vào tháng 12 năm 1986
vốn, theo lời Huy Đức, bị “lịch sử phi chính thống […] xếp vào hàng nghi án”
(“Giải phóng”- GP, tr. 151)… Còn nhỏ thì nhiều hơn, có khi lôi cuốn người đọc
hơn, chẳng hạn, chuyện vào ngày 30/4/1975, trong Dinh Độc Lập không hề có chiếc
máy ghi âm nào để thu lời tuyên bố đầu hàng của Dương Văn Minh (GP, tr. 23);
chuyện các sĩ quan Bắc Việt đầu tiên vào chiếm Dinh không dám bước vào thang
máy vì thấy nó giống cái… hòm và họ sợ bị nhốt luôn trong đó (GP, tr. 22);
chuyện khuya ngày 5/7/1967, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh bị mệt, được đưa vào

bệnh viện Quân y 108 để cấp cứu, nhưng vừa đến nơi thì ông “phát ra một tiếng
kêu ‘ặc’ rồi mặt và toàn thân tím ngắt”; mấy tiếng đồng hô sau, ông mất…
(“Quyền bính” – QB, tr. 64) Có một số chuyện không biết là lớn hay nhỏ, như
chuyện khi Hiệp định Geneva được ký kết, Thủ tướng Phạm Văn Đồng, trưởng đoàn
Bắc Việt, không hề biết sông Bến Hải nằm ở đâu (vì tất cả đều đã được Trung
Quốc quyết định giùm!) (GP, tr. 52); chuyện Tôn Đức Thắng, Chủ tịch nước, vốn
là thợ cơ khí, nhiều lúc rảnh và buồn quá, lật “chiếc xe đạp của ông ra sửa để
giết thời gian” (GP, tr. 120); chuyện Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Quốc phòng,
biết trước vụ tổng tấn công hồi Tết Mậu thân chỉ có một ngày (QB, tr. 67);
chuyện khi đón tiếp Tổng thổng Bill Clinton trong chuyến thăm Việt Nam năm
2000, “Bộ Chính trị đã thống nhất là không được cười” (QB, tr. 137), v.v..

Nhiều chuyện có thể đã được người này người nọ kể đâu đó rồi. Nhưng theo chỗ
tôi biết, chưa có nơi nào các chuyện thuộc loại ấy được tập trung với mật độ
dày đặc như trong cuốn Bên Thắng Cuộc. Trang nào cũng đầy ắp chi tiết.
Có những chi tiết không dễ gì tìm được ở những nơi khác, ví dụ: Ở Sài Gòn,
trước tháng 4/1975, có bao nhiêu đảng viên Cộng sản nằm vùng? – 735 người! (GP,
tr. 27) Cũng ở Sài Gòn, sau tháng 4/1975, có bao nhiêu người ra trình diện để
“được đi học tập cải tạo”? – Có 443.360 người, trong đó, có 28 tướng, 362 đại
tá, 1.806 trung tá, 3.978 thiếu tá, 39.304 sĩ quan cấp uý, 35.564 cảnh sát,
1.932 nhân viên tình báo các loại, 1.469 viên chức cao cấp trong chính quyền,
và 9.306 người trong các đảng phái bị xem là “phản động’ (GP, tr. 29),
v.v..(Còn tiếp)

***

Chú thích: Số trang trong phần chú thích ghi theo bản “Smashworlds Edition” của
Bên Thắng Cuộc.

 

Bộ quần áo cũ.

Sống trong gia đình nên săn sóc cho nhau và tìm hiểu cặn kẽ, đừng vội trách
móc, giận hờn. Thiếu hiểu biết săn sóc kịp thời, là vô tình mình đẩy người
mình thương vào cõi chết sớm hơn, do thiếu tìm hiểu, cảm thông và chăm sóc
muộn màng.

1* Bộ quần áo cũ.
Minh D Sống chung với một ông bố chồng già yếu, bướng bỉnh là
chuyện không dễ. Ông hay than phiền, hỏi những câu không đúng lúc và từ  chối các món ăn cần thiết. Ông hãnh diện về thời trai trẻ, cứ kể đi kể lại  các câu chuyện của thời vàng son. Hồi đó, là chỉ huy trong quân đội…ông  luôn đặt lý trí lên trên tình cảm. Tôi biết ông là người tốt, nhưng có cảm  giác ông sống vì khối óc chứ không vì con tim, thiếu sự thông cảm.

Hôm nay đưa ông đi lễ ở nhà thờ, một lần nữa ông lại mặc bộ đồ vest cũ sờn  rách mang từ Việt Nam sang. Tôi nhẹ nhàng:

-Bố nên thay bộ đồ con mua hôm trước, bộ quần áo này cũ quá.

-Nhưng bố thích mặc bộ này!

Tôi bắt đầu cau có:

-Nhưng mặc như vậy đi chỗ đông người rất kỳ, người ta sẽ nghĩ tụi con bỏ bê  không chăm sóc bố.

Ông già buồn rầu, lập lại:

-Bố thích bộ quần áo này lắm.

Tôi cũng cương quyết:

-Bố nên thay ngay kẻo trễ, con không thấy có lý do gì để bố thích nó.

Ông già trả lời rất gọn ghẽ, chân thành, lâu nay ít khi nào tôi thấy ông
minh mẫn như vậy:

-Chính mẹ đã tặng bố bộ quần áo này để mặc ngày kỷ niệm thành hôn. Khi  chồng con ra trường, bố cũng mặc bộ quần áo này. Ngày đưa mẹ con ra nghĩa  trang, bố cũng mặc bộ đồ này, bố thấy thật vui và xúc động khi mặc nó.

Nước mắt ông già hoen trên mi, rơi xuống gò má nhăn nheo. Tôi hụt hẫng và  hết sức bối rối. Bố chồng tôi sống tình cảm và có lý hơn tôi nghĩ.

Trước khi quyết đoán người nào đó khô khan không có trái tim, tôi nên xét  lại trái tim mình đã.
2* .Bệnh và Lười.

Cũng như các bà vợ khác ở hải ngoại, vợ tui kỳ này làm biếng quá. Đi làm về  là nằm trên giường xem phim bộ, chẳng chịu nấu ăn, dọn dẹp nhà cửa gì ráo.
Tôi có la, nó ấp úng trả lời:

-Em thấy mệt quá, chẳng làm gì được cả. Nằm nhưng không ngủ được nên mới  bật máy xem phim, chứ không cố ý xem phim.

Con vợ tui chơi chữ ghê, xem mà không xem, nó biện hộ kiểu này ai nghe cho  được.

Tui định bụng hôm nay về mà bếp núc lạnh tanh, sẽ đập tan cái TV ra cho  biết mặt. Về nhà, quả nhiên cơm canh không có, đứa con nhỏ hoảng hốt:

-Ba ơi, anh Hai đưa má vào bệnh viện rồi, má bị xỉu phải cấp cứu.

Tui vội vã vào nhà thương. Người ta đã chẩn bệnh xong. Vợ tui có lẽ bị ung  thư xương. Hèn chi mấy tuần nay nó đau nhức, than thở mà tui nghĩ nó giả bộ  nên không thèm nghe, cũng chẳng đưa đi bác sĩ.

Bệnh ung thư phát mạnh quá, sau vài tuần, bác sĩ cho biết nó không còn ở  với tui được bao lâu nữa. Ung thư ngực thì cắt vú, ung thư xương không biết  cắt ở đâu! Phổi vợ tui cũng có vấn đề, vì bao năm qua phải hửi mùi thuốc lá  tui hút. Tui không dám nói với nó tui đã nghĩ xấu và giận nó không chịu nấu  cơm, dọn dẹp. Cô vợ đầu ấp tay gối bao nhiều năm mà nó đau đớn, bịnh nặng  tui cũng không biết. Vậy mà nó vẫn cố gắng đi làm kiếm tiền, chỉ khi về mới  nằm liệt ra thôi. Tui hối hận quá chừng, trốn vào nhà vệ sinh của bệnh viện  khóc rấm rứt. Thằng Tây đen nhìn tui ái ngại, hỏi tui có OK không. Tui  không biết than thở cùng ai, nên dù tiếng Anh dở ẹt, cũng sổ một tràng. Nó  có vẻ thông cảm nhưng chỉ phán được một tiếng “sorry” rồi đi ra.

Tui trở vào phòng thăm vợ. Mới mấy tuần mà nó ốm nhom xanh lè, tay chân dây  rợ, kim chích chằng chịt. Nó thì thầm:

-Ở đây buồn và ồn quá, em muốn về nhà. Em sẽ nấu món giả cày mà anh thích  đó.

Tui vỗ về:

-Em ráng lo nghỉ ngơi, đừng bận tâm.

Tui ráng nấu mấy món ngon đem vào nhà thương, nhưng nó không ăn được nữa.  Tui lại khóc. Lạ ghê, trước giờ tui rất oai phong, la mắng vợ con mỗi ngày,  uy quyền lắm mà bây giờ mít ướt quá sức …

 

 

THÂN PHẬN BỤI TRO

THÂN PHẬN BỤI TRO

“Hãy ăn năn sám hối

và tin vào Tin Mừng.”

(Mác-cô 1:15)

Phàm hèn thân phận bụi tro

Nên con nào có thơm tho hương nồng

Tháng ngày tội lụy chất chồng

Bao lần say đắm bóng hồng thiết tha

Hôm nay thức tỉnh ngộ ra

Nghe lời Ngài gọi tránh xa lối mòn

Niềm hy vọng vẫn hãy còn

Trái tim rộn rã, cõi lòng hân hoan

Quyết tâm bỏ chốn phòng loan

Bắt đầu cuộc sống nhịp khoan vui mừng

Chúa ôi, nhảy múa tưng bừng

Nhiệm mầu hạnh phúc mỗi từng phút giây

Vô thường là chính nơi đây

Tiến về Vĩnh Cửu ngất ngây diệu vời !

* Nguyễn Sông Núi

(Tv Thánh Gioan Neumann,Dallas,TX,Jan.21,2013)

Anh Nguyễn v Thập gởi