Nạn cò vé và buôn lậu ở các ga tàu hỏa phía Bắc

Nạn cò vé và buôn lậu ở các ga tàu hỏa phía Bắc

Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam
2013-12-04

Ga Hà Nội về đêm

Ga Hà Nội về đêm

RFA

Nghe bài này

Vài năm trở lại đây, nạn cò vé, móc nối tuồn vé ra ngoài chợ đen và ém vé để đến giờ cao điểm lại bung ra thị trường, khiến cho thị trường vé tàu hỏa ở các ga phía Bắc, đặc biệt là ga Hà Nội và Lào Cai ngày càng trở nên lộn xộn, đắt đỏ. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến đời sống và sự di chuyển của những người lao động nghèo và lao động có mức thu nhập thấp, không những thế, nguồn thu của ngành đường sắt cũng thiệt hại đáng kể.

Phương tiện vận chuyển hàng cấm và ma túy tốt nhất

Một người yêu cầu giấu tên, là cựu nhân viên kiểm soát đường sắt Bắc Nam, còn gọi là kiểm sát viên, chia sẻ với chúng tôi rằng thời gian ông tại chức là một kinh nghiệm buồn, mọi hoạt động của ngành đường sắt đều cho thấy ba tính chất cơ bản. Đó là sự lỏng lẻo trong quản lý; Sự toa rập giữa nhân viên trong ngành với nhau và giữa nhân viên trong ngành với ma cô bên ngoài để buôn lậu; Mức độ tham nhũng trong ngành quá cao, vượt ngoài tầm kiểm soát.

Để dẫn chứng cho các luận điểm về tính tiêu cực của ngành đường sắt mà mình vừa nêu, cựu nhân viên này nói rằng vấn đề ém vé để tuồn ra chợ đen, mà chợ đen ở đây có thể là người thân trong gia đình của các nhân viên đường sắt hoặc những ma cô có máu mặt ở các ga tàu hỏa vẫn luôn là vấn nạn nhức nhối nhưng dường như ngành đường sắt vẫn chưa giải quyết được, và nếu có giải quyết cũng chỉ đóng vai trò lấy hình thức để đạt chỉ tiêu. Chính vì cách giải quyết không triệt để, rất hình thức này lâu ngày đã giúp cho thành phần cò vé và những nhân viên tay trong tay ngoài trở nên tinh ranh, khôn khéo.

“Đó là sự lỏng lẻo trong quản lý; Sự toa rập giữa nhân viên trong ngành với nhau và giữa nhân viên trong ngành với ma cô bên ngoài để buôn lậu; Mức độ tham nhũng trong ngành quá cao, vượt ngoài tầm kiểm soát”

Họ móc một đường dây khép kín mà ở đó mọi quyền lợi chằn chéo, liên đới với nhau, khó có thể theo dõi được chứ đừng nói gì đến kiểm soát. Và cũng theo ông này, vấn đề buôn lậu trong ngành đường sắt đã trở thành cơm bữa, không tài nào kiểm soát được nữa. Hầu như mọi nhân viên đường sắt, không ít thì nhiều, thấp nhất cũng có vài lần buôn lậu. Hàng hóa buôn lậu thì đa dạng, phức tạp. Vì lẽ, kiểm sát viên đường sắt có một đặc quyền, họ đóng vai trò vừa là nhân viên phục vụ hành khách lại vừa là người quản lý an ninh trên chuyến tàu.

Vé bán chợ đen

Vé bán chợ đen (Files photos)

Chính vì thế, họ được giữ một số bí mật trong hoạt động ngành và họ có đặc quyền trên chuyến tàu. Một khi tàu đã chuyển bánh, mọi sự kiểm soát từ bên ngoài xem như hoàn toàn không thể diễn ra được. Chính vì thế, hàng lậu luôn luôn có mặt trên các chuyến tàu Bắc – Nam, đặc biệt là ở các sân ga phía Bắc, hàng lậu được ngụy trang dưới nhiều hình thức và được chuyển lên tàu ở dạng xách tay, hành lý của nhân viên đường sắt.

Ông này nói thêm rằng không có con đường nào buôn hàng quốc cấm nào tốt hơn đường tàu hỏa và đường hàng không. Bởi không thể có bất kỳ một đội an ninh nào có thể chặn đứng máy bay đang bay hoặc chặn đứng đoàn tàu đang chạy để kiểm soát, cộng với tính đặc quyền về quản lý an ninh của hai ngành này, chỉ cần làm việc tốt ở hai đầu ga, hàng lọt được qua hai cửa này là xem như phi vụ thành công. Chính vì thế, những phi vụ buôn hàng quốc cấm, buôn ma túy lớn nhất thường chọn ngành hàng không và ngành đường sắt để di chuyển.

“Vấn đề buôn lậu trong ngành đường sắt đã trở thành cơm bữa, không tài nào kiểm soát được nữa. Hầu như mọi nhân viên đường sắt, không ít thì nhiều, thấp nhất cũng có vài lần buôn lậu”

Nếu như vấn nạn buôn lậu trong ngành đường sắt làm tổn hại đến an ninh, văn hóa và sức khỏe quốc gia thì việc ém vé, cò cuốc vé ở chợ đen lại làm ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của người lao động, khiến cho người có thu nhập thấp không có cơ hội để đi tàu hỏa và đồng thời nó tạo ra một nhóm ngành nghề sống dựa trên sự ma mãnh, bóc lột người nghèo,đó là các ma cô cò vé chợ đen.

Ga Lào Cai

Ga Lào Cai. RFA

Vé chợ đen lấn sân

Một hành khách tên Mai chia sẻ: “Người lao động thì đi vé ngồi cứng hoặc ngồi mềm, hoặc khoan 6, còn khoan 4 thì đắt, dành cho du lịch. Hoặc từ Hà Nội lên lúc 6h sáng là tàu chợ, vé rẻ hơn và ít người đi. Còn tàu nhanh thì thường khách du lịch đi du lịch nhiều, nói chung cơ hội của mình thì ít!”

Ông Mai nói thêm rằng để mua được vé từ Hà Nội đi Lào Cai, tuy vẫn có nạn cò cuốc nhưng không chộn rộn, hầm hố như cò vé ở ga Lào Cai. Mua một tấm vé đi từ Lào Cai về Hà Nội vào những ngày cuối tuần hoặc dịp lễ Tết là vô cùng khó khăn. Vì nếu không chọn tàu hỏa, những hành khách nhát gan, dễ bị say xe sẽ rất khó khăn trong việc chọn phương tiện xe khách đi từ Lào Cai về Hà Nội, con đường khúc khuỷu, hiểm trở và nhỏ, hẹp, kẹp bên sườn núi luôn là cơn ác mộng của rất nhiều hành khách. Nắm được tâm lý này, cò vé ở ga Lào Cai tha hồ hét giá.

Hơn nữa, phần đông hành khách đi lẻ vào dịp cuối tuần là những nhân viên, công nhân làm việc ở các công ty, họ chọn cuối tuần đi du lịch Sapa vào chiều thứ Sáu để xả stress, hoặc  về Sapa để thăm gia đình đến Chủ nhật thì quay về Hà Nội để tiếp tục làm việc. Bởi không đăng ký tour nên đi từ Sapa trở về Lào Cai nên phải đứng xếp hàng mua vé ở ga Lào Cai, lúc này phòng vé giở trò lỗi kết nối mạng, cả một đoàn rồng rắn đứng đợi vé, nhân viên bán vé thì ung dung ngồi nói chuyện, thi thoảng lại nói vọng ra là “rớt mạng, đợi chút nữa”. Đồng thời, lúc này những cò vé sẽ chen chúc vào đoàn người đang xếp hàng để gạ bán vé với giá gấp rưỡi hoặc gấp đôi. Mọi hoạt động gạ gẫm diễn ra công khai và ngang nhiên.

‘Hành động bán vé của người cò vé tại ga Lào Cai cho thấy có sự thông đồng rất ăn nhịp giữa nhân viên bán vé và cò vé. Nghĩa là nhân viên bán vé sẽ ém vé, không bán cho khách, để cò vé thả sức đi gạ bán, khi gạ được khách thì vào gặp nhân viên bán vé để xuất vé, bán cho khách với giá cắt cổ’

Một hành khách khác tên Thiện, nói rằng anh đang làm thuê ở Hà Nội, mỗi cuối tháng đối với anh là cả một sự khó khăn bởi việc mua vé làm anh vất vả rất nhiều, nếu không lo xếp hàng sớm, phải mua vé chợ đen với giá từ bảy trăm rưỡi ngàn đồng đến một triệu hai trăm ngàn đồng. Trong khi đó, nếu mua giá chính thức, chỗ ngồi tốt cũng chỉ tốn từ bốn trăm đến sáu trăm ngàn đồng. Trong trường hợp chọn giường nằm thì tốn chừng bảy trăm ngàn đồng là hết mức. Nhưng vì cò vé lộng hành quá. Mà họ là ai? Họ là những người tay ngoài của các nhân viên bán vé. Có lần anh đặt mua vé toa giường nằm, anh đăng ký hạng vé nhưng không được. Liền sau đó, có người vào khều tay gọi anh ra ngoài gạ bán với giá gấp rưỡi lần. Bí quá, anh phải mua, người đó lại dắt anh vào phòng vé và ngang nhiên lấy vé anh đăng ký bán lại ngay cho anh với giá chợ đen.

Anh Thiện nói thêm rằng hành động bán vé của người cò vé tại ga Lào Cai cho thấy có sự thông đồng rất ăn nhịp giữa nhân viên bán vé và cò vé. Nghĩa là nhân viên bán vé sẽ ém vé, không bán cho khách, để cò vé thả sức đi gạ bán, khi gạ được khách thì vào gặp nhân viên bán vé để xuất vé, bán cho khách với giá cắt cổ. Kiểu làm việc này năm ăn năm thua. Nếu bán được vé thì cả cò vé và nhân viên bán vé đều kiếm được tiền lãi, nếu bán không được vé thì những tấm vé bị ém lại sẽ được hủy, coi như vé ế. Thảo nào ngành đường sắt hằng năm luôn luôn báo cáo thua lỗ, lượng khách không đều, mặc dù vé tàu luôn khan hiếm với khách!

Vừa để nạn cò vé tung hoành, vừa để lớp nhân viên bên dưới tiếp tay với buôn lậu, vừa bùng phát nạn tham nhũng, cửa quyền… Tất cả những vấn nạn này đều mang đến hậu quả là người có thu nhập thấp phải khổ sở khi đi tàu hỏa và tàu hỏa giống một con vật luôn gầm ghè đe dọa đời sống bằng thứ nọc băng hoại mà nó mang chứa và dịch chuyển từ Bắc chí Nam.

Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.

ĐỨC MARIA SỐNG TÂM TÌNH MÙA VỌNG

ĐỨC MARIA SỐNG TÂM TÌNH MÙA VỌNG

Tác giả: Lm. Anmai, C.Ss.R.

Một ngày đẹp trời kia, ở cái vườn nọ có cái tên là Ê-đen có hai vợ chồng đang sống trong an bình hạnh phúc bỗng dưng hóa trần truồng …

Không gian, thời gian, con người và sự kiện đó nhiều người biết đến qua câu chuyện ghi lại trong sách Sáng Thế.

Thiên Chúa là vị Thiên Chúa tuyệt hảo. Thiên Chúa tạo dựng trời đất, muôn vật muôn loài và Ngài đã tạo dựng nên con người giống hình ảnh của Ngài. Hơn thế nữa, nét đẹp của tấm lòng Thiên Chúa đó là :

Chúa cho con người chẳng thua kém thần linh là mấy,

ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên,

cho làm chủ công trình tay Chúa sáng tạo,

đặt muôn loài muôn sự dưới chân:

Nào chiên bò đủ loại,

nào thú vật ngoài đồng,

nào chim trời cá biển,

mọi loài ngang dọc khắp trùng dương. (Tv 8, 6-9)

Nhưng, hỡi ôi, hai ông bà nguyên tổ đã không đủ tỉnh thức đủ để nhận ra tình thương bao la của Thiên Chúa. Hai ông bà đã khước từ, đã đánh đổ tình thương đó. Và, ngay lúc ông bà phạm tội, tình yêu Thiên Chúa vẫn dẫy tràn trên cuộc đời của hai ông bà. Ta bắt gặp tình thương đó ở sách Sáng Thế, chương 3, 14.15 : Đức Chúa là Thiên Chúa phán với con rắn: “Mi đã làm điều đó, nên mi đáng bị nguyền rủa nhất trong mọi loài súc vật và mọi loài dã thú. Mi phải bò bằng bụng, phải ăn bụi đất mọi ngày trong đời mi. Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó.”

Dòng giống được Thiên Chúa tuyển chọn, yêu thương đó sẽ là dân riêng của Ngài và sẽ chiến thắng con rắn dữ xưa, chiến thắng kẻ thù mưu ma chước quỷ xưa trong vườn Địa Đàng. Dòng giống Thiên Chúa tuyển chọn ấy có tên là Israel.

Qua dòng chảy lịch sử cứu độ, ta thấy Israel là một dân sống bằng hy vọng bởi vì họ đã ra đời, đã dựng nước, đã sống dựa trên một lời hứa của Thiên Chúa làm nền tảng. Lời hứa mà Thiên Chúa đã hứa với tổ phụ Abraham được nhiều lần lặp lại bằng cách này hay cách khác với các con cháu của ông : “Ta sẽ làm cho ngươi nên một dân tộc hùng mạnh, sẽ ban cho ngươi một miền đất phì nhiêu làm quê hương, Ta sẽ chúc phúc cho ngươi và con cháu ngươi, và qua ngươi, Ta chúc phúc cho các dân tộc khác. Ta sẽ là Chúa của các ngươi và các ngươi sẽ là dân riêng của Ta”.

Lời hứa mà Thiên Chúa hứa với Abraham đã được long trọng lặp lại nhiều thế kỷ sau với vua Đavít qua miệng Ngôn sứ Nathan. Ngôn sứ nói rằng Thiên Chúa sẽ cho xuất hiện từ dòng dõi nhà vua một người con; người con này sẽ là vị Cứu Tinh, Người sẽ tái lập vương quốc Đavít và sẽ trị vì mãi mãi.

Trải qua biết bao nhiêu thăng trầm của cuộc đời, lịch sử của dân tộc Israel cũng vậy. Ta thấy có những thời Israel cực thịnh nhưng cũng có những lúc cực suy và có những lúc rơi vào hoàn cảnh bi đát gần như tuyệt vọng. Trong nỗi thất vọng nhưng có một niềm hy vọng vẫn lóe lên trong cuộc đời của họ. Niềm hy vọng của Israel như là sợi chỉ đỏ chạy xuyên suốt qua dòng lịch sử. Họ luôn luôn quay về với Lời Hứa của Chúa để tìm lẽ sống cho mình, nhất là những khi cùng đường tuyệt vọng. Và Chúa luôn luôn tỏ ra rất trung thành với lời hứa, có điều là lắm khi đường lối của Người theo rất lạ lùng, khó hiểu.

Sống dưới ách nô lệ của Ai Cập, dân Do Thái vẫn ngóng trông, vẫn mong đợi ngày giải phóng suốt mấy trăm năm. Thế rồi Thiên Chúa đã sai Môsê đến làm vị cứu tinh của họ.

Vừa bước chân ra khỏi Ai Cập, dân Do Thái lại ngóng chờ được vào chỗ định cư, nơi có sữa và mật chảy thành suối như lời hứa.

Niềm hy vọng của dân Do Thái không dừng lại ở đất hứa. Khi vừa đặt chân đến đất hứa rồi, họ vẫn chưa hết chờ mong vì vẫn chưa được như lòng sở nguyện. Sau những thế kỷ lập quốc khá hùng mạnh, đến lúc họ lại bị nước mất nhà tan và bị bắt đi lưu đầy ở Babylon, năm 586 trước công nguyên. Nơi chốn lưu đày họ lại mong lại chờ, và Chúa  đã sai vua Kyrô nuớc Ba Tư đưa họ về quê cha đất tổ và tái thiết lại Đền Thờ. Đền thờ cuối cùng bị phá huỷ là vào năm 70 thời tướng Lamã Titus. Dân Israel lại rơi vào ách thống trị của đế quốc Rôma. Và họ lại chờ mong một vị cứu tinh mới.

Nhìn lại niềm hy vọng của Do Thái, ta thấy niềm hy vọng của họ chỉ gói ghém, chỉ hạn hẹp, chỉ được giới hạn ở cái nhìn của phàm tục, của vật chất, của hư danh dẫu rằng quá nhiều lần cũng như quá nhiều ngôn sứ nhiều lần dạy họ phải mở rộng cái nhìn vật chất hẹp hòi đó. Các ngôn sứ đã hướng họ nhìn và trông mong Đấng Cứu Độ trần gian chứ không phải đấng đến để làm cho họ được vinh quang với cái vẻ bên ngoài.

Thiên Chúa cũng đã thử thách dân Do Thái nhiều lần và nhiều cách. Có lúc niềm tin vào Đấng Cứu Độ trần gian bừng lên mạnh mẹ nhưng rồi cũng có những người chán nản thất tín bất trung. Nhiều đại họa đến với dân và làm cho dân nản chí nản lòng.

Trong số những người Do Thái chờ đợi trong niềm tin, hy vọng trong niềm cậy trông đó nổi lên khuôn mặt hết sức dễ thương đó chính là Đức Trinh Nữ Maria.

Maria (Miryam), một tên rất phổ biến, giống như tên Mai, Lan, Cúc, Trúc trong giới phụ nữ Việt Nam ta. Giả như Maria sinh ra ở Việt Nam, Maria sẽ mang một cái tên hết sức gần gụi Trần Thị …, Đặng Thị … Đơn giản là như thế. Về quê quán, Đức Maria là người làng Nazareth (Lc 1, 26), một làng rất tầm thường như về sau ông Nathanael một môn đệ Đức Giêsu đã nhận xét: “Từ Nazareth làm sao có cái gì hay được?” (Ga 1, 46).

Mẹ đã đến thế gian, Mẹ đã đi vào trần gian, Mẹ được sinh hạ bởi tình yêu, bởi huyết nhục của GioaKim và Anna.

Cũng như bao nhiêu người nữ khác nói riêng và như bao nhiêu người Do Thái, Mẹ Maria cũng trông chờ Đấng Cứu Độ trần gian đến. Giản đơn, qua lịch sử, ta thấy Đức Trinh Nữ Maria là ai: là một thiếu nữ Do thái, hết lòng mong đợi ơn cứu chuộc dân tộc của mình. Ngày ngày, Maria lên Đền Thờ cầu nguyện và nghe Lời Chúa. Maria đã sống niềm hy vọng vào Đấng Cứu Độ trần gian từ độ còn xuân. Maria luôn luôn nghiền ngẫm Thánh Kinh để rồi Maria nhớ lại lời Chúa đã dùng ngôn sứ Nathan mà thề hứa với vua Đavít xưa.

Và rồi, cũng bỗng đến ngày kia, giờ kia, không phải là cái giờ đại họa đến cho con người khi ông bà nguyên tổ phạm tội mà đến cái giờ con người được hưởng hồng phúc, được hưởng ơn cứu độ. Giờ ấy chính là giờ sứ thần truyền tin cho Maria.

Hoàn toàn bất ngờ, hoàn toàn không hiểu, hoàn toàn ngạc nhiên. Chẳng bao giờ Maria nghĩ đến lời ngôn sứ ngày xưa lại rơi vào cuộc đời của mình. Chuyện “không thể” được đầu tiên là làm sao mình có thể sinh con được vì đã quyết “không biết đến chuyện vợ chồng” để sống trọn vẹn cho một mình Thiên Chúa mà thôi?

Thế nhưng, bình tĩnh để nghe sứ thần giải thích rằng “đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”, Maria đã khiêm nhường thưa lại: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38).

Niềm hy vọng của Maria được nung nấu, được nuôi dưỡng trong tâm tình tỉnh thức, chờ đợi và đặc biệt nhất đó là hoàn toàn khiêm hạ để đón Ơn Cứu Độ trần gian đến trong đời của Mẹ. Nếu như Mẹ không tỉnh thức, không suy niệm lời Chúa, không hoàn toàn bỏ ngõ đời mình cho Thiên Chúa, cho Thánh Ý Thiên Chúa thì Đấng Cứu Độ trần gian sẽ không đến với Mẹ.

Với tâm tình đó, Ngôi Hai Thiên Chúa đã xuống thế làm người trong lòng Đức Trinh Nữ. Và thế là Đức Maria khiêm nhường đã trở thành thánh mẫu của Thiên Chúa.

Ta bắt gặp Đức Maria đã sống hết sức mạnh mẽ niềm hy vọng chờ mong ơn cứu độ của dân tộc mình. Hơn thế nữa, Mẹ đã trở thành dụng cụ đặc biệt Chúa dùng để thực hiện ý định cứu độ vì Mẹ là một tâm hồn nghèo khó, khiêm nhường, tuyệt đối tin tưởng và gắn bó trọn vẹn vào Thiên Chúa.

Sống Mùa Vọng, Giáo Hội đặt chúng ta lại trong thái độ khao khát chờ mong Chúa đến cứu độ chúng ta.

Ta chờ ai, mong ai, đón ai đến trong cuộc đời của ta ?

Bài học của dân Do Thái ngày xưa dẫu là xưa nhưng vẫn là bài học còn rất mới và rất tốt cho mỗi người chúng ta. Đôi khi, ta cũng lầm đường lạc lối là hy vọng, chờ mong, đạt được những cái gì hạn hẹp trong cái đợi, cái mong của vật chất, của hạ giới chứ không về thượng giới, về Ơn Cứu Độ.

Nếu chúng ta cứ lầm lũi chờ đợi vật chất, danh vọng, quyền lực, lợi lộc trần gian ta sẽ đánh mất cái cảm thức của chờ đợi Đấng Cứu Thế. Và với tâm tình đó, ta sẽ không khiêm hạ đủ như Mẹ Maria để đón Đấng Cứu Độ trần gian vào đời mình như bao nhiêu người đã đánh mất Ơn Cứu Độ.

Ta hãy thức tỉnh và đặc biệt hơn cả là hãy noi gương Đức Maria: ý thức mình là kẻ nghèo khó khiêm nhu, sống phó thác vào Chúa. Và cũng cần lắm là noi gương của Mẹ sẵn sàng để cho Chúa sử dụng vào công cuộc cứu độ của Người đang thực hiện cho bản thân chúng ta và cho toàn thế giới.

Anmai, CSsR

Một tòa án LHQ kêu gọi trả tự do cho LS Lê Quốc Quân

Một tòa án LHQ kêu gọi trả tự do cho LS Lê Quốc Quân

Luật sư Lê Quốc Quân tại Tòa án Hà Nội ngày 02/10/2013 ( Ảnh do VNTTX cung cấp).

Luật sư Lê Quốc Quân tại Tòa án Hà Nội ngày 02/10/2013 ( Ảnh do VNTTX cung cấp).

REUTERS/Doan Tan/VNA/Handout via Reuters

Thanh Phương

Một tòa án về nhân quyền của Liên Hiệp Quốc vừa lên án Việt Nam về việc giam giữ luật sư Lê Quốc Quân, một blogger và nhà hoạt động nhân quyền ở Việt Nam, xem đây là một sự vi phạm quyền tự do ngôn luận và quyền được xét xử công bằng của ông.

Nhóm Làm việc về Bắt giữ Tùy tiện của Liên Hiệp Quốc, một tòa án được thành lập trong khuôn khổ Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc, trong phiên họp lần thứ 67, từ ngày 26 đến 30/08/2013, đưa ra phán quyết rằng Lê Quốc Quân đã trở thành mục tiêu tấn công ( của chính quyền ) do những hoạt động đấu tranh cho nhân quyền và viết blog.

Phán quyết này được Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc công bố ngày 12/11/2013.

Nhóm Làm việc kêu gọi chính quyền Hà Nội trả tự do ngay lập tức cho luật sư Lê Quốc Quân hoặc để cho một tòa án độc lập xét lại bản án. Nhóm còn đề nghị Việt Nam phải bồi thường thiệt hại cho ông Lê Quốc Quân về thời gian mà ông bị giam giữ tùy tiện như vậy.

Phán quyết của toà án Liên Hiệp Quốc là nhằm trả lời kiến nghị hồi tháng Ba của tổ chức Media Legal Defence Initiative, phối hợp với nhiều tổ chức nhân quyền khác, như Phóng viên không biên giới, Luật sư không biên giới….

Trong thông cáo đề ngày 29/11/2013, tư vấn pháp lý cao cấp của tổ chức Media Legal Defence Initiative, Nani Jansen, cho rằng, do các tòa phúc thẩm của Việt Nam không được độc lập, cho nên, cách duy nhất để Việt Nam tuân thủ phán quyết của Nhóm Làm việc về Bắt giữ Tùy tiện của Liên Hiệp Quốc là trả tự do ngay lập tức cho ông Lê Quốc Quân.

Ngày 20/11, Liên hiệp các Luật sư đoàn của Pháp cũng đã ra thông cáo cho biết trong cuộc họp toàn thể vào ngày 15/11 đã nhất trí thông qua kiến nghị đòi trả tự do ngay lập tức cho luật sư Lê Quốc Quân.

Luật sư Lê Quốc Quân bị bắt vào ngày 27/12/2012 do bị cáo buộc tội trốn thuế. Trong phiên xử ngày 02/10/2013, ông Lê Quốc Quân đã bị kết án 30 tháng tù giam và bị phạt tiền 1,2 tỷ đồng. Ông Quân đã kháng án lên tòa phúc thẩm.

World Bank: Kinh tế Việt Nam vẫn tồn tại nhiều rủi ro

World Bank: Kinh tế Việt Nam vẫn tồn tại nhiều rủi ro

03.12.2013

Một báo cáo mới của Ngân Hàng Thế Giới (World Bank by Vid-Saver\\\0022 “”>) dự đoán GDP của Việt Nam sẽ tăng trưởng khiêm tốn ở mức 5,5% vào năm 2015 và ổn định kinh tế vĩ mô sẽ được hồi phục cơ bản.

Báo cáo Điểm lại tình hình kinh tế Việt Nam công bố hôm 2/12 cũng cho rằng triển vọng kinh tế vĩ mô trung hạn vẫn tiếp tục có những điều kiện thuận lợi trong cán cân thanh toán.

Tuy nhiên, báo cáo của World Bank by Vid-Saver\\\0022 “”>, đã điểm ra một số rủi ro chính bao gồm dự trữ ngoại tệ thấp; cầu của khu vực kinh tế tư nhân rất mong manh; nguy cơ không giữ vững được kỷ cương tài khóa và tiền tệ; tiến bộ trong các cải cách cơ cấu chậm chạp; và việc mất niềm tin vào ngành ngân hàng.

Ông Sandeep Mahajan, kinh tế gia trưởng của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam nhận định rằng với sự gia tăng áp lực lên nguồn ngân sách, chính phủ Việt Nam đang đứng trước một số lựa chọn chính sách quan trọng, trong khi cố gẵng cân bằng hai mục tiêu kép là tăng trưởng nhanh hơn và ổn định kinh tế vĩ mô.

Báo cáo cũng đề cập tới 3 chủ đề đặc biệt, đó là thuận lợi hóa thương mại, năng lực cạnh tranh và tăng trưởng tại Việt Nam; tham nhũng và tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam và nghèo đói và bất bình đẳng tại Việt Nam.

Báo cáo cho biết xuất khẩu vẫn duy trì mạnh trong những năm gần đây mặc dù môi trường bên ngoài không thuận lợi, tuy nhiên xuất khẩu vẫn chủ yếu là hàng giá trị thấp.

Phúc trình của World Bank by Vid-Saver\\\0022 “”> cũng nói rằng tham nhũng từ lâu đã được coi là vấn đề nghiêm trọng, làm suy yếu sức tăng trưởng dài hạn của Việt Nam.

Báo cáo cũng ghi nhận phúc lợi của hầu hết người Việt Nam đã tăng đáng kể trong giai đoạn 2010-2012, ngay cả khi tăng trưởng bị chậm hơn các năm trước.

Nguồn: World Bank, Thanh Nien, VNA

Cảnh sát Thái truy nã hai người Việt

Cảnh sát Thái truy nã hai người Việt

Thứ tư, 4 tháng 12, 2013

Máy rút tiền tự động (ảnh minh họa)

Nhà chức trách ở đảo Phuket của Thái Lan đã ra lệnh truy nã hai người Việt bị tình nghi ăn trộm 1,6 triệu baht (50.000 đôla Mỹ) từ máy rút tiền tự động.

Lệnh này đã được tòa án tỉnh Phuket chuẩn thuận, theo lời Đại tá cảnh sát Sermpan Sirikong nói với báo Bangkok Post hôm thứ Ba 3/12.

Hai người Việt có tên viết tiếng Anh không dấu là Nguyen Thanh Quang và Tran Dang Hoa, 27 tuổi. Họ bị buộc tội trộm cắp.

Cảnh sát cho hay hai người này bị phát hiện đạp xe đạp vòng quanh thành phố, mang theo máy hàn điện.

Được biết lần đầu tiên hai người Việt này bị nghi dùng máy hàn để cắt máy rút tiền tự động (ATM) của ngân hàng TMB là vào đầu tháng 11, tại khu vực Thalang ở Phuket, một nơi nghỉ mát nổi tiếng của Thái Lan.

Tuy nhiên lần đó họ đã không thành công.

Ngày 7/11, hai người này bị cho là đã “ra tay” lần nữa tại máy ATM của ngân hàng Siam Commercial Bank by Vid-Saver\\\0022 “”> tại bến tàu Boat Lagoon và lấy đi 1,6 triệu baht tiền mặt.

Tuy nhiên, cảnh sát Thái cho là hai người Việt này đã rời khỏi Thái Lan.

Từ khi công dân Việt Nam sang Thái Lan không cần visa, con số người Việt ở vương quốc này tăng mạnh, đa phần là đi du lịch.

Tuy nhiên, con số tội phạm người Việt, chủ yếu các tội ăn cắp, ở Thái Lan cũng tăng theo.

VỌNG MÙA HỒNG ÂN

VỌNG MÙA HỒNG ÂN

Lịch phụng vụ một lần nữa dẫn đưa chúng ta trở lại cuộc hành trình vào thuở ban đầu, khi mà mọi người đang mong chờ Vị Cứu Tinh.  Hành trình bắt đầu đồng nghĩa với hành trình nhìn lại chính mình. Lắm khi ta tự hỏi sao cứ phải bắt đầu khi mà ta đã đi quá xa so với điểm bắt đầu ấy?  Phải, vì ta đã đi quá xa nên bây giờ cần nhìn lại và trở về để tìm lại đường hướng thuở ban đầu và để biết ta đang đi đúng hay sai.  Thành thử ra, có thể nói rằng mùa vọng là mùa của hồng ân.

Bất cứ ai biết nhìn lại mình thì sẽ cảm được mùa hồng ân này.  Nhìn lại để thấy mình rõ hơn.  Nhìn lại để biết mình đang ở đâu trong cuộc đời này.  Nhìn lại để xem thử cuộc sống của mình có thật sự khao khát Chúa không?  Nhìn lại để thấy cuộc đời mình cần Vị Vua Cứu Thế đến cỡ nào.  Quả thật, cuộc đời ta tựa hồ như con thuyền trôi nổi trên đại dương trần thế.  Lắm khi nó đi ngang qua vùng trời bình yên của đại dương.  Nhưng cũng lắm khi con thuyền ấy bị bão táp, phong ba… Sau mỗi lần như thế, con thuyền hư hao, cần được sửa chữa để tiếp tục hành trình cuộc đời.  Vì thế, mùa vọng mời gọi con thuyền đời ta nên nghỉ ngơi và tự duyệt xét lại chính mình và thấy được những sai sót, những lỗ hổng của con thuyền nhằm có đủ sức bước đi trong một năm Phụng Vụ mới.

Mùa hồng ân càng có ý nghĩa khi ta không chỉ biết nhìn lại mà còn hành động.  Biết được những chỗ hư hao của con thuyền là một chuyện, nhưng ta có muốn sửa nó không lại là chuyện khác.  Thánh Gioan Tẩy Giả mời gọi chúng ta hãy sửa lối cho thẳng để Người đi (Mt 3,3).  “Sửa lối” là động từ diễn tả hành động, nghĩa là không phải chỉ ngồi đó tự đấm ngực, khóc lóc, kêu than, mà hãy tự đứng dậy, đảm đương những sai sót của mình và khắc phục nó.  Thuyền đời của mỗi người cần được sửa chữa cụ thể, rõ ràng thì mới có thể có đủ nghị lực, lòng can đảm và sẵn sàng đối mặt với bão táp ở tương lai.

Mùa hồng ân còn mời gọi mọi người hãy để Chúa làm trung tâm đời mình.  Tư thế của một người mong chờ Chúa đến là tư thế của hy vọng, của sự giải thoát.  Người sống trong niềm mong chờ luôn khắc khoải mau đến thời điểm mong chờ.  Lúc đó, mọi mong chờ sẽ vỡ òa trong cõi lòng sâu thẳm nơi lòng người hy vọng.  Thế nên, người chờ mong Chúa đến cũng luôn sống trong niềm hy vọng ấy và trong bất cứ mọi hành động của đời thường đều hướng về Chúa.

Xin hãy để Vị Cứu Tinh làm cầu nối giữa ta với Chúa Cha trong những giờ phút nhìn lại mình.  Xin hãy để Đấng Thiên Sai dẫn ta đến hành động đích thực trong việc sửa sai.  Xin hãy mang Chúa về lại trong đời sống của mỗi người chúng ta.

Quốc Đạt, S.J.

From: langthangchieutim & Anh chị Thụ Mai gởi

Somalia, Bắc Triều Tiên, Afghanistan đứng đầu các nước tham nhũng

Somalia, Bắc Triều Tiên, Afghanistan đứng đầu các nước tham nhũng

Henry Ridgwell

03.12.2013

LONDON —

Các nước tham nhũng nhất thế giới:

-Somalia
-Bắc Triều Tiên
-Afghanistan
-Sudan
-Nam Sudan
-Libya

Nguồn: Minh bạch Quốc tế

Somalia là nước tham nhũng nhất trên thế giới, theo chỉ số mới nhất được đưa ra bởi tổ chức theo dõi tham nhũng có trụ sở tại Berlin, tổ chức Minh Bạch Quốc Tế. Tổ chức này đã thực hiện thăm dò trên hàng ngàn người tại 177 quốc gia về nhận thức của họ về tham nhũng. Kết quả cho thấy có sự tiến triển mạnh mẽ ở vài quốc gia châu Phi, thế nhưng mức độ hối lộ rất cao và sự lạm dụng quyền lực lại đang diễn ra ở những nước đang có xung đột như Syria và Afghanistan. Thông tín viên Henry Ridgwell tường thuật cho VOA từ London.

Somalia, Afghanishtan và Bắc Triều Tiên, mỗi nước chỉ được 8/100 điểm trong bảng chỉ số nhận thức tham nhũng 2013 của tổ chức Minh bạch Quốc tế, trong đó 100 điểm là hoàn toàn không có tham nhũng.

Bản báo cáo được công bố hôm thứ Ba, chỉ một ngày sau khi các nhà lập pháp ở Mogadishu bỏ phiếu để lật đổ chính quyền Somalia, sau một cuộc đấu đá kịch liệt vì các cáo buộc về nạn bè phái và gia đình trị. Chính quyền Somalia hiện đang chiến đấu chống lại cuộc nổi dậy của những phiến quân Hồi giáo al-Shabab.

Những quốc gia biểu hiện tệ nhất thường là những nước đang xảy ra xung đột, ông Robert Barrington, giám đốc điều hành của tổ chức Minh bạch Quốc tế cho biết.

“Nếu bạn nhìn vào những chính phủ có chỉ số minh bạch thấp, đặc biệt, bạn sẽ thấy là họ hoàn toàn thiếu tinh thần trách nhiệm. Các cơ chế của đất nước đó đang tan rã. Và chính vì vậy mà công dân phải gánh chịu đau khổ.”

Syria, với một cuộc nội chiến kéo dài, đã trượt xuống rất nhiều trong bảng chỉ số tham nhũng và được xếp thứ 10 tính từ dưới lên. Iraq, cũng đang đối diện với bạo lực, cũng đứng trong số 10 nước tệ nhất. Tương tự như vậy là Afghanistan.

Ukraina xếp hạng 144 trong bảng chỉ số, tệ nhất trong khu vực bao gồm châu Âu, Nga và phần lớn các nước thuộc Xô Viết cũ. Trong những ngày gần đây, những người biểu tình chống chính phủ đã xuống đường để đòi tổ chức một cuộc bầu cử mới.

Ông Robert Barrington của tổ chức Minh Bạch Quốc Tế:

“Ở nhiều quốc gia, hầu hết các quốc gia, điều bạn hy vọng khi đến sở cảnh sát là họ sẽ là đồng minh của bạn để chống lại tội phạm. Thế nhưng ở nhiều nước, bạn thực sự cảm thấy họ là kẻ thù của bạn trong cuộc chiến chống tội phạm. Bản thân họ chính là tội phạm.”

Tuy nhiên, cũng có những câu chuyện tích cực. Ông Barrington cho biết.

“Rwanda là một trường hợp đặc biệt thú vị bởi vì trước đây nước này thể hiện rất kém trong nhiều năm liền, nhưng đã có sự nỗ lực của chính phủ chống lại tham nhũng, bây giờ là lúc gặt hái kết quả.”

Chỉ một thập niên trước, Liberia đã bị tàn phá bởi cuộc nội chiến. Hiện nay kinh tế nước này đang lên, với mức tăng trường GDP hơn 10% trong năm 2012. Liberia đứng thứ 83 trong số 177 nước trong bảng xếp hạng nhận thức tham nhũng của tổ chức Minh bạch Quốc tế. Điều đó rất tốt so với nhiều nước châu Phi, tuy nhiên nhiều nhà phân tích cho rằng tham nhũng vẫn còn níu chân quốc gia này.

Ðó là tiếng của bà Robtel Pailey khi bà đọc cuốn sách thiếu nhi mà bà viết về tham nhũng, có tiêu đề là “Gbagba”, hay là “Thủ đoạn gian trá”. Bà là một thủ thư quốc gia và là học giả của trường đại học London về chuyên ngành Ðông phương và châu Phi. Bà cho rằng thế hệ trẻ cần phải nhận thức được vấn đề.

Chân dung nhà truyền giáo Phanxicô Xavie

Chân dung nhà truyền giáo Phanxicô Xavie

Trầm Thiên Thu

12/3/2013

Thánh Lm Phanxicô Xavie (Francis Xavier), vị Đại Thánh bổn mạng các xứ truyền giáo, trong đó có Việt Nam, được Giáo Hội mừng kính ngày 3-12 hàng năm, và cũng là ngày giỗ của ngài, vì ngài mất ngày 3-12-1552.

Ngài sinh ngày 7-4-1506 tại Xavier, thuộc Vương quốc Navarre (nay là Tây Ban Nha). Tên khai sinh của ngài là Francisco de Jasso y Azpilicueta. Ngài là con út của ông Juan de Jaso, cố vấn riêng của Vua John III (Jean d’Albret, cai trị Navarre) và bà Doña Maria de Azpilcueta y Aznárez. Ngài có bà con với thần học gia và triết gia Martín de Azpilcueta danh tiếng.

Ngài là học trò của Thánh Inhaxiô Loyola (lập Dòng Tên, Society of Jesus -= SJ), đồng sáng lập viên của Dòng Tên, là nhà truyền giáo và là một trong bảy tu sĩ đầu tiên của Dòng Tên tại Montmartre năm 1534. Ngài làm trưởng nhóm truyền giáo tại Á châu. Ngài có công truyền bá và duy trì Công Giáo ở Ấn Độ, kể cả Nhật, Borneo, quần đảo Maluku, và những vùng chưa có dấu chân các nhà truyền giáo. Tại những vùng này, ngài tiên phong và cố gắng học tiếng bản xứ, ngài thành công nhất ở Ấn Độ. Thật lòng ngài muốn tới Việt Nam, nhưng Chúa có kế hoạch khác, nên Việt Nam không được đón tiếp ngài.

Năm 1525, ngài học ĐH Sainte-Barbe ở Paris (Pháp). Năm 1530, ngài nhận bằng thạc sĩ văn chương và dạy triết học Aristotes tại ĐH Beauvais, tương lai rộng mở, danh vọng hứa hẹn. Ngài gặp Inhaxiô Loyola và Pierre Favre tại ĐH Sainte-Barbe. Thánh Inhaxiô đặt vấn đề với ngài: “Nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?” (Mt 16:26). Thế là ngài bỏ tất cả để đi tu và làm linh mục, rồi tình nguyện đi truyền giáo.

Thánh Inhaxiô cùng với Thánh Phanxicô Xavie và năm anh em khác thành lập Dòng Tên ngày 15-8-1534 tại một nhà nguyện ở Montmartre, cùng nhau khấn đức nghèo khó, khiết tịnh và vâng lời, đồng thời khấn hoán cải người Hồi giáo ở Trung Đông. Dòng Tên đã được Đức Giáo Hoàng phê chuẩn, khi đó tu sĩ Phanxicô Xavie tới Venice (Ý) để thụ phong linh mục vào ngày 24-6-1537. Đến cuối tháng 10, bảy anh em tới Bologna và cùng làm việc trong một bệnh viện địa phương. Sau đó, Thánh Phanxicô Xavie phục vụ một thời gian ngắn tại Rôma với tư cách thư ký của Thánh Inhaxiô. Sau đó, Thánh Phanxicô Xavie dành phần nhiều cuộc đời để truyền giáo tại Á châu, chủ yếu qua lại bốn nơi là Malacca, Amboina, Ternate (Nhật) và Trung Hoa.

Ngài rời Lisbon ngày 7-4-1541 lúc ngài 35 tuổi, đi cùng hai tu sĩ Dòng Tên khác. Từ tháng 8-1541 tới tháng 3-1542, ngài tới Goa, lúc đó là thủ phủ của Ấn Độ (thuộc địa của Bồ Đào Nha), ngày 6-5-1542, 35 tháng sau khi rời Lisbon. Mùa Xuân năm 1545, Lm Phanxicô Xavie đi Malaca (cũng là thuộc địa của Bồ Đào Nha). Khoảng tháng 1-1546, ngài rời Malacca đi quần đảo Maluku, nơi ngài truyền giáo 1 năm rưỡi cho dân đảo Ambon. Ngay sau lễ Phục Sinh năm 1546, ngài trở lại Malacca.

Tháng 12-1547, tại Malaca, Lm Phanxicô Xavie gặp một người Nhật tên là Anjirō. Chính Anjirō cũng đã nghe nói về Lm Phanxicô Xavie từ năm 1545. Sau khi bị kết tội sát nhân, Anjirō trốn khỏi Nhật. Ông nói hết với Lm Phanxicô Xavie về quá khứ của mình, về văn hóa và văn chương Nhật. Anjiro làm thông dịch cho Lm Phanxicô Xavie để giao tiếp với người Nhật. Và rồi Anjirō trở thành Kitô hữu người Nhật đầu tiên và lấy tên là Paulo de Santa Fe.

Sau khi qua đời, thi hài Thánh Phanxicô Xavie được an táng trên đảo Shangchuan. Tháng 1-1553, người ta khai quật mộ Ngài và thấy thi hài Ngài còn nguyên vẹn. Rồi người ta đưa thi hài Ngài tới Nhà thờ Thánh Phaolô tại đảo Malaca vào ngày 22-3-1553. Ngày 11-12-1553, thi hài Ngài lại được chuyển tới Goa. Hòm thánh tích của Ngài được chuyển tới Nhà thờ Chúa Giêsu Giáng Sinh tại Goa từ ngày 2-12-1637.

Cánh tay phải, đã từng chúc lành và rửa tội cho nhiều người, được Tổng bề trên Claudio Acquaviva tách ra từ năm 1614 để trưng bày cho mọi người kính viếng tại Nhà thờ Il Gesù ở Rôma. Cánh tay trái của ngài được đưa về Macau. Cuối cùng được chuyển tới Nhà thờ Thánh Giuse năm 1978, rồi lại chuyển tới Nhà nguyện Thánh Phanxicô Xavie trên đảo Coloane. Mới đây, thánh tích của ngài được chuyển tới Chủng viện Thánh Giuse và Viện bảo tàng Nghệ thuật Thánh (Sacred Art Museum).

Lm Phanxicô Xavie được ĐGH Phaolô V tôn phong chân phước ngày 25-10-1619, và được ĐGH Grêgôriô XV tôn phong hiển thánh ngày 12-3-1622, cùng với Thánh Inhaxiô Loyola. Cuối cùng, ĐGH Piô XI tôn phong Thánh Phanxicô Xavie làm bổn mạng các xứ truyền giáo (Patron of Catholic Missions).

CÁI CHẾT CỦA CHÚNG TA

CÁI CHẾT CỦA CHÚNG TA

( BÀI GIÁO LÝ 23 VỀ KINH TIN KÍNH CỦA ĐTC PHANXICÔ)

Tác giả: GLV. Phạm Xuân Khôi (chuyển ngữ)

“Nếu chúng ta mở cửa đời sống và con tim của chúng ta cho anh chị em mình, thì ngay cả cái chết  của chúng ta cũng sẽ trở thành một cánh cửa giới thiệu chúng ta vào Thiên Đàng.”

Dưới đây là bản dịch bài Giáo Lý ĐTC Phanxicô ban hành ngày 27 tháng 11 năm 2013 trong buổi Triều Yết Chung được tổ chức tại Quảng Trường Thánh Phêrô.  Hôm nay ngài tiếp tục chu kỳ Giáo Lý về kinh Tin Kính nói về Cái Chết của Chúng Ta và chúng ta phải chuẩn bị thế nào.

* * *

Anh chị em thân mến,

Chào anh chị em và chúc mừng vì anh chị em vì can đảm ở quảng trường này trong sự lạnh lẽo.  Tôi khen ngợi anh chị em rất nhiều.

Tôi muốn kết thúc loạt bài giáo lý về “Kinh Tin Kính”, được ban hành trong Năm Đức Tin, bế mạc Chúa Nhật tuần trước.  Trong bài giáo lý này và những bài giáo lý tiếp theo tôi muốn nói về chủ đề sự sống lại của thân xác, theo hai khía cạnh như được trình bày trong Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, tức là sự chết và sống lại của chúng ta trong Đức Chúa Giêsu Kitô.  Hôm nay tôi sẽ suy niệm về khía cạnh thứ nhất, “sự chết trong Đức Kitô.”

1. Thường trong chúng ta, có một cách nhìn sai lầm về cái chết.  Tất cả chúng ta đều quan tâm đến cái chết, và nó chất vấn chúng ta một cách sâu xa, đặc biệt là khi nó chạm đến gần chúng ta, hoặc khi nó chạm đến những trẻ em, những người không thể tự vệ, một cách mà đối với chúng ta là “xấu xa”.  Tôi luôn luôn tự hỏi: tại sao trẻ em phải chịu đau khổ?  Tại sao trẻ em phải chết?  Nếu cái chết được hiểu là chấm dứt tất cả mọi sự, thì nó thật đáng sợ, khủng khiếp, và biến thành một đe mối dọa phá vỡ mọi mơ ước, mọi quan điểm, mọi liên hệ và làm gián đoạn mọi con đường.  Điều này xảy ra khi chúng ta coi cuộc sống của như như một khoảng thời gian bị giới hạn giữa hai thái cực: sinh và tử, khi chúng ta không tin vào một chân trời vượt trên cuộc sống hiện tại; và khi chúng ta sống như thể không có Thiên Chúa.  Quan niệm này về cái chết là điều điển hình của tư tưởng vô thần, là tư tưởng giải thích cuộc đời như việc chúng ta hiện diện trên thế gian là một sự tình cờ, và đang đi về phía hư vô.  Nhưng cũng có một chủ nghĩa vô thần thực tiễn, đó là một lối sống chỉ vì tư lợi và chỉ sống cho những điều trần tục.  Nếu chúng ta để cho cái nhìn sai lầm về cái chết này bắt giữ, chúng ta sẽ không có sự lựa chọn nào khác hơn là che giấu cái chết, chối từ nó, hoặc tầm thường hoá nó, ngõ hầu nó không làm cho chúng ta sợ hãi.

2. Tuy nhiên, trước giải pháp sai lầm này, “quả tim” con ngưởi – lòng ước ao sự vô tận của nó, mà mỗi ngưởi chúng ta đều có, lòng khao khát cõi vỉnh hằng của nó, cũng ở trong mỗi ngưởi chúng ta – nổi loạn.  Như thế, ý nghĩa Kitô giáo của cái chết là gì?  Nếu chúng ta nhìn vào những giây phút đau đớn nhất của cuộc đời mình, khi chúng ta bị mất một người thân yêu – cha mẹ, một người anh em, một người chị em, vợ, chồng, một đứa con, một người bạn – chúng ta nhận ra rằng, ngay cả trong thảm trạng của sự mất mát, ngay cả khi bị tan nát bởi việc bị chia cách, một xác tín nảy sinh trong trái tim rằng tất cả mọi sự không thể nào là hết, rằng những điều tốt đã được cho đi và nhận được không phải là vô ích. Có một trực giác mãnh liệt trong chúng ta bảo chúng ta rằng cuộc sống của chúng ta không kết thúc với cái chết.

Việc khao khát sự sống này đã tìm thấy câu trả lời thực tế và đáng tin cậy của nó trong sự Sống Lại của Chúa Giêsu Kitô.  Sự Sống Lại của Chúa Giêsu không những chỉ cung cấp cho chúng ta sự chắc chắn về đời sống sau khi chết, mà còn soi sáng những mầu nhiệm về cái chết của mỗi người chúng ta.  Nếu chúng ta sống kết hợp với Chúa Giêsu, trung thành với Người, chúng ta sẽ có thể đối diện với việc đi qua của cái chết với niềm hy vọng và sự thanh nhàn.  Thật vậy, Hội Thánh cầu nguyện: “Nếu sự chắc chắn rằng mình phải chết làm anh chị em buồn phiền, thì anh chị em được an ủi bởi lời hứa về trường sinh”.  Đây là một lời cầu nguyện rất đẹp của Hội Thánh!  Một người có khuynh hướng chết theo cách mà người ấy sống.  Nếu cuộc đời của tôi là một cuộc hành trình với Chúa, một con đường tín thác vào lòng thương xót vô hạn của Người, tôi sẽ được chuẩn bị để chấp nhận giây phút cuối cùng của cuộc đời dưới thế như sự phó thác dứt khoát và tin tưởng vào đôi bàn tay đón chào, trong khi chờ đợi để chiêm ngưỡng Thánh Nhan Người tận mặt.  Đây là điều đẹp nhất có thể xảy ra cho chúng ta: chiêm ngưỡng tận mặt Thánh Nhan xinh đẹp của Chúa, để nhìn thấy Người như Người là, xinh đẹp, đầy ánh sáng, tràn đầy tình yêu, đầy dịu dàng.  Chúng ta đi đến cùng đích này: nhìn thấy Chúa.

3. Trong bối cảnh này, chúng ta có thể hiểu được lời mời gọi của Chúa Giêsu là luôn luôn sẵn sàng, tỉnh thức, vì biết rằng cuộc đời dưới thế này được ban cho chúng ta để chuẩn bị cho đời sau, là đời sống với Cha trên trời.  Và vì thế, có một cách chắc chắn: chuẩn bị tốt cho cái chết, bằng cách gần gũi Chúa Giêsu.  Đó là sự an toàn:  Tôi chuẩn bị mình cho cái chết bằng cách ở gần Chúa Giêsu.  Anh chị em đang gần Chúa Giêsu như thế nào?  Bằng cầu nguyện, các Bí Tích và cũng qua việc thực thi bác ái.  Chúng ta hãy nhớ rằng Người hiện diện trong những người yếu đuối và thiếu thốn nhất.  Chính Người đã đồng hóa Mình với họ, trong dụ ngôn thời danh về Phán Xét Chung, khi Người nói: “Vì Ta đói, các con đã cho Ta ăn, Ta khát, các con đã cho Ta uống, là một người lạ, các con đã tiếp đón Ta, trần truồng, các con đã cho Ta mặc, đau ốm, và các con đến thăm Ta, ở tù, các con đã đến với Ta…. Tất cả những gì các con đã làm cho một trong những anh em này của Ta, là các con đã làm cho Ta” (Mt 25:35-36,40 ).  Vì vậy, một cách an toàn là để phục hồi ý nghĩa của việc bác ái Kitô giáo và chia sẻ huynh đệ là chăm sóc những vết thương về thể chất và tinh thần của những người lân cận của chúng ta.  Sự đoàn kết trong việc cảm thông đau khổ và truyền hy vọng là tiền đề và điều kiện để thừa kế Vương Quốc được chuẩn bị cho chúng ta.  Những người thực hành lòng thương xót không sợ chết. Hãy suy nghĩ về điều này: những người thực hành lòng thương xót không sợ chết!  Anh chị em có đồng ý không?  Chúng ta cùng nhau lập lại câu này để không quên nó được không?  Những người thực hành lòng thương xót không sợ chết. Và tại sao họ lại không sợ chết?  Tại vì họ nhìn vào nó trong những vết thương của anh chị em, và khắc phục nó với tình yêu của Đức Chúa Giêsu Kitô.

Nếu chúng ta mở cửa đời sống và con tim của chúng ta cho anh chị em mình, thì ngay cả cái chết  của chúng ta cũng sẽ trở thành một cánh cửa giới thiệu chúng ta vào Thiên Đàng, quê hương hồng phúc của chúng ta, nơi mà chúng ta đang hướng về, với lòng khao khát được sống muôn đời với Cha chúng ta, với Chúa Giêsu, Đức Mẹ Maria và các Thánh.

Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ

http://giaoly.org/vn

Hiến pháp của đảng hay của dân?

Hiến pháp của đảng hay của dân?

Thanh Quang, phóng viên RFA
2013-12-03

12032013-hienphap-tq.mp3

017_195431-305.jpg

Những người buôn bán hàng rong ngồi dưới một pano tuyên truyền của ĐCS hôm 30/11/2013.

AFP photo

Sau khi Quốc Hội VN thông qua bản Hiến pháp với tỷ lệ phiếu tán thành gần như tuyệt đối, thì công luận vốn đã hoài nghi từ lâu giờ lại mạnh mẽ đặt nghi vấn về vai trò của Quốc Hội VN. Thanh Quang tìm hiểu và trình bày về vấn đề này như sau:

Hiến pháp mới nhưng không mới

Tại một nước mà lãnh tụ đảng CS khẳng định Hiến pháp là văn bản quan trọng nhất sau Cương lĩnh đảng, thì hẳn người dân VN không ngạc nhiên khi Quốc Hội VN gồm đại đa số đảng viên thông qua một bản Hiến Pháp cũ sửa đổi để hình thành Hiếp Pháp mới 2013 với nội dung bị than phiền “chẳng những không có gì mới mà thậm chí còn thụt lùi”.

Nhưng có lẽ điều gây ngạc nhiên là, sau khi giới cầm quyền kêu gọi toàn dân góp ý sửa đổi Hiếp pháp mà “không có vùng cấm”, sau thời gian bàn cãi, đề nghị, góp ý sôi nổi, kể cả tại diễn đàn Quốc Hội…, thì cái tỷ lệ phiếu tán thành tới 97,59%  – tức 486/488 và không có phiếu chống – của các đại biểu khiến công luận không khỏi liên tưởng đến những “đại diện của dân”, thêm một lần nữa, trở thành “đại diện của đảng”.

Có lẽ đây là một lý do khiến nhà báo Hạ Đình Nguyên trong nước lưu ý rằng “Hiến pháp là của đảng, không phải là của dân, vì không do dân, nên cũng không vì dân”.

Câu hỏi mà đã từ lâu, và đặc biệt là bây giờ, được mạnh mẽ nêu lên là đại biểu Quốc Hội VN có thực sự do người dân bầu chọn và thật sự đại diện cho nguyện vọng và quyền lợi của dân hay không ? Hay họ dưới hình thức cơ quan lập pháp để làm công cụ và phục vụ cho đảng ?

“Vấn đề Quốc Hội đề ra việc sửa đổi Hiến pháp và lấy ý kiến toàn dân cũng chỉ là, một lần nữa, đảng CS tiếp tục dùng chiêu bài Hiến pháp để mị dân và lừa dối quốc tế.
– MS Nguyễn Trung Tôn”

Từ Đà Lạt, TS Hà Sĩ Phu chua chát rằng “Nếu phải ngụy tạo một ưu thế đẹp thì dù được 100% nghị gật bỏ phiếu cũng nên giảm đi còn 70-80% thôi mới đáng mặt những kẻ nói dối thức thời. Con số 97,59% dù thật hay giả cũng là một con số dại dột trong tuyên truyền, vì nó gây ấn tượng một con số chua chát đáng buồn… cười!”.

Lên tiếng với Đài ACTD, nhà hoạt động xã hội Nguyễn Lân Thắng từ Hà Nội cho biết:

Quốc hội hiện nay không đáp ứng được nguyện vọng của rất nhiều quần chúng. Rất nhiều người không tán thành việc Hiến pháp được thông qua… Họ là những người mà quần chúng mất hết sự tin tưởng.

Nhưng khi kịp nghĩ lại, có thể công luận cũng bớt ngạc nhiên về kết quả biểu quyết cao ngất ngưỡng tại Quốc Hội như vừa nói, vì, Dân Làm Báo nhắc lại, “ đối với một Quốc hội có đến 500 đại biểu đều là đảng viên CS thì ai cũng biết trước kết quả…”.

TS Hà Sĩ Phu cũng không quên lưu ý rằng “đa số trong Quốc hội với 95% đảng viên chính là một ‘nhóm lợi ích’ khổng lồ mà quyền và lợi gắn chặt với điều 4 và với ‘sở hữu toàn dân” thì đa số ấy chỉ là đa số của một phe nhóm”. TS Hà Sĩ Phu nhân tiện trích dẫn lời nhà khoa học Albert Einstein từng khẳng định “Chúng ta không thể thắng được lũ ngu bởi chúng quá đông.

Như vậy là bản Hiến Pháp 2013 của VN – một văn kiện “hạng hai sau cương lĩnh đảng” – tiếp tục dọn đường cho vai trò mà nhà báo Hạ Đình Nguyên gọi là “thế thiên hành đạo” của ĐCSVN quyết định số phận của người dân Việt “vô hạn định qua Điều 4”. Nó làm bình phong để thể chế hóa cương lĩnh của đảng; để, ngòai việc đảng lãnh đạo tuyệt đối, những vấn đề mà người dân muốn có đổi thay sẽ vẫn không có gì thay đổi, từ việc “kiên định” theo con đường CNXH dù “đến hết thế kỷ này không biết đã CNXH hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa”, cho đến chuyện công hữu đất đai, quân đội trung thành với đảng, công an chỉ biết “còn đảng còn mình”, quốc doanh chủ đạo kinh tế thị trường…

Nhà báo Hiệu Minh từ Hoa Kỳ báo động rằng “Hiến pháp được thông qua với điều 4 ‘Đảng lãnh đạo toàn diện’ được giữ nguyên tại kỳ họp Quốc hội này thì các vị (đại biểu) ‘Yes – Đồng ý’ sẽ giúp cho ‘quyền lực tuyệt đối’ được tiếp tục”.

Quốc hội hiện nay không đáp ứng được nguyện vọng của rất nhiều quần chúng. Rất nhiều người không tán thành việc Hiến pháp được thông qua… Họ là những người mà quần chúng mất hết sự tin tưởng.
– Anh Nguyễn Lân Thắng”

Nhà báo Hùynh Ngọc Chênh xem chừng như không “dằn được bực tức” mà phải thốt lên rằng “Đến cái cơ quan gọi là lập pháp cũng không được quyền công khai góp ý sửa đổi hiến pháp” và “người ta dựng ra cả một hệ thống cơ quan dân cử từ trung ương xuống tận xã, phường để ngồi họp bàn và thông qua những vấn đề mà người ta đã quyết định sẵn từ trước. Người ta có thể huy động toàn dân một cách tốn kém vào việc góp ý để thay đổi hiến pháp nhưng rồi hiến pháp vẫn cứ như xưa”.

Từ Thanh Hóa, MS Nguyễn Trung Tôn cảnh báo:

Vấn đề Quốc Hội đề ra việc sửa đổi Hiến pháp và lấy ý kiến toàn dân cũng chỉ là, một lần nữa, đảng CS tiếp tục dùng chiêu bài Hiến pháp để mị dân và lừa dối quốc tế. Nhưng thực ra chẳng có điều gì thay đổi cả.

Theo nhà báo Hạ Đình Nguyên thì việc 97,59% “những khuôn mặt trên các chiếc ghế trong Quốc Hội” thông qua bản Hiến Pháp 2013 vừa rồi chỉ có ý nghĩa là “một bài toán cộng” trong nội bộ giới cầm quyền, nhưng lại là “bài toán trừ” đối với cộng đồng rộng lớn vì “tâm thế dân tộc đã đổi khác”. Nhà báo Hạ Đình Nguyên khẳng định “Tư tưởng của một bộ phận (đảng) có thể suy thoái, nhưng tư tưởng của “toàn thể” (nhân dân) thì không thể suy thoái”, và ông bày tỏ tin tưởng rằng bản “Hiến pháp tân trang” hiện nay sẽ được thay bằng một Hiến pháp mới, bởi chính nhân dân Việt Nam, vào một lúc nào đó, “không phải hôm nay thì sáng mai vậy!”.

Sửa đổi Hiến Pháp Việt Nam : Human Rights Watch tiếc một “cơ hội bị bỏ lỡ”

Sửa đổi Hiến Pháp Việt Nam : Human Rights Watch tiếc một “cơ hội bị bỏ lỡ”

 

Trọng Nghĩa

RFI

Năm ngày sau khi bản Hiến pháp sửa đổi của Việt Nam được Quốc hội thông qua, vào hôm nay, 03/12/2013, tổ chức theo dõi nhân quyền quốc tế Human Rights Watch, trụ sở tại New York, đã cho rằng Việt Nam đã thất bại trong việc đáp ứng các nguyện vọng thay đổi và cải cách của người dân. Theo HRW, đây là một cơ hội bị bỏ lỡ về việc cải thiện nhân quyền, và Việt Nam, trong tư cách là một thành viên mới của Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc đã không tuân thủ cam kết của mình.

Trong một bản thông cáo báo chí, Human Rights Watch đã nhắc lại rằng khi quá trình sửa đổi bắt đầu được khởi động vào ngày 02/01/2013, chính phủ và Quốc hội Việt Nam đã kêu gọi quần chúng góp ý cho việc điều chỉnh Hiến pháp. Hàng trăm hàng ngàn người đã trả lời, thể hiện một sự tham gia chưa từng thấy của người dân vào một tiến trình cải cách pháp lý tại Việt Nam.

Theo HRW, nhiều ý kiến ​​đã phê phán Đảng Cộng sản đang cầm quyền tại Việt Nam, với một số lượng lớn lời kêu gọi chấm dứt chế độ độc đảng và tổ chức những cuộc bầu cử đích thực theo định kỳ. Vào ngày 22/11 vừa qua, Human Rights Watch đã gửi thư đến Quốc hội Việt Nam để hối thúc định chế này chấp nhận các đề nghị sửa đổi để phát huy và bảo vệ các quyền căn bản.

Tuy nhiên, theo nhận định của ông Brad Adams, giám đốc khu vực châu Á của Human Rights Watch : « Cho dù các đề nghị sửa đổi đã được tranh luận sôi nổi, phe cứng rắn đã thắng thế và Hiến pháp mới đã siết chặt quyền của đảng cầm quyền ». Ông Adams đã tỏ ý rất tiếc trước sự kiện : « Thay vì đáp ứng nguyện vọng của số đông và các cam kết quốc tế về nhân quyền, Việt Nam tiếp tục là một Nhà nước độc đảng với một Hiến pháp cho phép chính quyền hạn chế các quyền cơ bản dựa trên các căn cứ mơ hồ, mỗi khi mà điều đó phù hợp với họ ».

Trong thông cáo của mình, Human Rights Watch còn kêu gọi các nhà tài trợ và các đối tác phát triển của gia tăng nỗ lực để yêu cầu chính quyền Việt Nam cải cách hiến pháp và hệ thống pháp lý để bảo vệ các quyền cơ bản của người dân, chẳng hạn như quyền tự do ngôn luận và lập hội.

Tôi trung không thờ hai chủ.

Tôi trung không thờ hai chủ.

“Tôi trung không thờ hai chủ” lời cuối cùng phát ra từ miệng thánh Phanxicô Nguyễn Cần tóm tắt cuộc đời của thày, một người tôi trung, đã suốt đời trung thành với Chúa, phục vụ tha nhân, sống trung thực với suy nghĩ của mình, trung tín với giáo lý Tin Mừng và cuối cùng đã trung kiên vượt qua mọi thử thách, xứng đáng nhận lời chúc phúc “hãy vào hưởng niềm hoan lạc của Chúa trên trời”. (Mt. 25,21).

Phanxicô Nguyễn Cần còn có tên Nguyễn Tiên tức Tiên Truật, sinh năm 1803, tại làng Sơn Miệng, huyện Phú Xuyên, phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông, Hà Nội. Từ niên thiếu, cậu Cần đã ước ao dâng mình trong nhà Chúa, nhưng mẹ cậu vì thương nhớ, không muốn xa con nên từ chối. Cậu phải nói với mẹ: “Nếu mẹ không bằng lòng con ở với cha xứ nhà, con sẽ trốn đi, ở với cha xứ khác”. Thế là bà mẹ cũng phải chiều ý, cho cậu ở với cha Nghi, chánh xứ Sơn Miêng.

Nhờ đức hạnh tốt và siêng năng, cậu được vào chủng viện, trở thành thày giảng, được cử đi giúp Đức cha Havard Du, rồi cha Retord Liêu (năm 1838 lên chức Giám mục, gọi là Đức Thày Liêu). Cha Liêu đã nhận xét về thày Cần: “Thày giúp tôi học tiếng Việt, chia sẻ với tôi mọi khó khăn, hiểm nguy, thiếu thốn. Thày rất nhiệt tâm trong việc tông đồ”.

Ngày 19.4.1836, cha Liêu nhờ thày đi mời cha Tuấn về xứ Kẻ Chuông giảng, chuẩn bị lễ Phục Sinh. Nhưng khi thày đến xứ Kẻ Vạc, nơi cha Tuấn ở thì bị bắt. Quân lính dấu ảnh tượng vào túi xách của thày để có chứng cớ cụ thể. Thày bị giải về huyện Thanh Oai và bị tống giam vào ngục.

Trước công đường, quan nói thày đừng tin vào các đạo trưởng, và hãy đạp lên ảnh đạo, quan sẽ tha cho về nuôi mẹ già. Thày trả lời : “Thưa quan, tôi chưa thấy các đạo trưởng lừa dối ai bao giờ, còn mẹ già tôi không lo, tôi xa nhà đã lâu chẳng giúp gì cho bà”. Sau đó quan dùng nhiều lời khiếm nhã phê bình về đạo, thày bình tĩnh giải thích lại rồi trình bày về 10 điều răn Thiên Chúa và sáu điều răn Hội Thánh, thày kết thúc bằng một lời tự nguyện, tự phát rất cảm động. Mọi người ở đó đều cản phục. Quan tuyên bố kết thúc phiên tòa, đưa thày về trại giam. Nhưng quan nói nhỏ với những người đứng bên : “Anh này nói cũng có lý. Những giới răn và kinh nguyện của anh ta chứa đựng nhiều điều tốt lành, có lẽ còn dễ hiểu hơn bản “thập điều” của nhà vua nữa”.

Một dạ sắt son.

Phần cha Liêu ở nhà rất buồn, cha tìm mọi cách cứu mạng cho thày Cần. Cha cho người đem tiền theo thân mẫu thày lên huyện để chuộc. Mới đầu quan đòi 300 quan, sau tăng lên 500, rồi 600, vượt qua con số dự trù, có lẽ vị quan đó không dám cho chuộc thì đúng hơn. Thày Cần an ủi mẹ: “Xin mẹ đừng lo cho con, con đã ước ao tử đạo từ lâu, xin mẹ chỉ cầu nguyện cho con là đủ”.

Có nhiều người tỏ lòng thương hại thày Cần. Quan khuyên thày bước qua Thập Giá, thày cương quyết từ chối. lính khiêng thày đặt lên tượng ảnh Chúa, thày ôm chặt lấy chân và la lên: “Tôi không đạp lên ảnh Chúa đâu”. Một số giáo dân đã bỏ đạo nói: “Tội nào Chúa chẳng tha, Phêrô chối Chúa ba lần mà còn làm thủ lãnh Giáo Hội”. Người khác lừa dối: “Cha Liêu nhắn thày cứ bước qua Thánh Giá, rồi sẽ về liệu sau”. Họ còn đe dọa: “Nếu thày không nghe, quan sẽ làm khổ cả làng đó”. Nhưng tất cả không làm xoay chuyển ý chi sắt đá của vị chứng nhân đức Kitô.

Thày quả quyết : “Dù thiên thần xuống bảo tôi bỏ đạo, tôi cũng chẳng tin. Dù kính trọng cha Liêu, tôi không thể làm điều sai lạc đó được. Hơn nữa, tôi biết chắc ngài không ra lệnh tôi làm như vậy. Còn với dân chúng, tôi thương mến thật, nhưng cũng không vì họ mà tôi xúc phạm đến Chúa”.

Nhiều người ngoại giáo nói với nhau: “Giá như đạo mình bị cấm, chắc ta đã bước qua ảnh tượng trăm lần… Tượng đồng, ảnh giấy có chi mà sợ”. Thấy không thể lay chuyển được người tôi chung của Chúa Kitô, quan cho giải thày Cần lên Hà Nội. Tám tháng tù ở Thanh Oai, mười tháng từ ở Hà Nội, là cả chuỗi ngày cực hình đổ trên người thày : cổ mang gông, tay mang xiềng xích, chân bị cùm… nhà tù thì nồng nặc mùi hôi hám, vì tù nhân phóng uế tại chỗ, lính canh đánh đập thày mỗi ngày để tra khảo tiền bạc. Trong một lá thư gửi cha Liêu, thày viết : “Con bị tra tấn ba lần, hai lần đầu, mỗi lần 60 roi, lần sau 50 roi, nhà giam đã chật hẹp hôi hám, lại có hơn chục anh đầu trộm đuôi cướp, ăn nói lỗ mãng, ban ngày say sưa, ban đêm cờ bạc, lúc nào cũng ồn ào làm con khó cầu nguyện quá”.

Tông đồ trong trại giam

Thế nhưng, thày không chán nản, mà coi đó là môi trường Chúa gởi đến. Thày kiên nhẫn giúp được hai tù nhân hối cải, dạy giáo lý và rửa tội được vài người, chúng ta hãy đọc một đọan thư thày viết từ trạigiam ở Hà Nội :

“Con báo để cha an tâm. Ở đâu con cũng được mọi người thương mến, dù quan hay dân và các bạn tù đều kính trọng gọi con bằng thày, có người còn tặng con danh hiệu khác nữa. Hầu hết họ cảm thương con bị đau khổ, hoặc khen con vững chí. Con hay bàn luận với họ và biết nhiều điều mê tín của họ, nhưng chưa biết khuyyên bảo họ sao bây giờ. Có một ông Chánh tổng cũng bị giam ở đây, hứa với con khi ra tù sẽ theo đạo và sống theo những điều con giảng… Thưa cha, con thấy người đời sẵn sàng chịu nhiều khổ sở để được giầu sang hoặc danh vọng chóng qua, lẽ nào con không nhẫn nại, chịu những sự khó qua mau này, để được vinh quang đời đời”.

Viên cai ngục Hà Nội thấy tác phong của thày Cần, dự đoán : “Ông này chỉ bằng nắm tay mà nghị lực phi thường. Ông ta mà chết chắc sẽ trở lên Thành Hoàng của làng chứ chẳng chơi”. Cũng trong thời kỳ ở Hà Nội, có lần thày Cần bị bệnh nặng, một linh mục giả làm thày lang vào giải tội, cho thày được rước lễ và xức dầu. Nhưng sau đó thày được bình phục ngay.

Ngày 20.11.1837, bản án vua Minh Mạng châu phê ra tới Hà Nội. Quan Tổng trấn khuyên thày nhắm mắt bước qua Thập Giá. Thày nói: “Mắt thì nhắm được, chứ lòng trí khôn không thể nhắm được, nên tôi chẳng làm”. Quan lại cho xếp chéo hai khúc gỗ và nói: “Đây không phải ảnh Chúa, gỗ này cũng chưa được làm phép, cứ bước qua đi sẽ thoát chết”. Nhưng thày không làm vì biết đó là dấu hiệu chối đạo.

Và thiên thu vĩnh phúc.

Một tuần sau, thày Phanxicô Cần bị điệu ra pháp trường cửa ô Cầu Giấy. Năm viên quan cưỡi voi đi trước, 10 cai đội cưỡi ngựa theo sau, rồi đến 300 lính vũ lâm, mặc binh phục đỏ, tay cầm kiếm. Một người cầm tấm thẻ ghi bản án: “Can phạm theo đạo Gia Tô, không chịu bước qua Thập Giá, án xử giải”. Dân chúng hôm đó, đi xem rất đông.

Tại pháp trường, khoanh dây thừng đã quấn quanh cổ, thày Cần vẫn bình tĩnh cám ơn mọi người, nói với họ về cái hết theo đức tin Công Giáo, về hạnh phúc đời sau và hứa sẽ nhớ đến họ khi về bên Chúa. viên quan cố thuyết phục lần chót: “Anh có thể cứu mạng mình. Anh không trộm cướp, cũng không làm loạn, bản án của anh còn có thể rút lại được, chỉ cần anh bước một bước qua Thập Tự. Nhưng thày trả lời : “Tôi trung không thờ hai chủ, xin quan cứ an mà thi hành”. Quan ra lệnh, tức khắc quân lính kéo mạnh hai đầu dây, người môn đệ Chúa Kitô gục dầu tắt thở, lãnh cành vạn tuế tử đạo ngày 20.11.1837, khi mới 34 tuổi.

Thi hài vị tử đạo được an táng tại Chân Sơn, sau cải táng về nhà thờ xứ Sơn Miêng. Đức Lêo XIII suy tôn thày Nguyễn Cần lên bậc Chân Phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.

Lời tiên đoán vô tình của viên cai ngục đã trở thành hiện thực. Ngày nay, thánh Phanxicô Nguyễn Cần không những là “Thành Hoàng” của làng Sơn Miêng, mà hơn thế, là Thánh Tử Đạo của Giáo Hội Việt Nam và được cả Giáo Hội hoàn cầu ngưỡng mộ.