TRỞ VỀ

TRỞ VỀ
Nguoi cha nhan hau 2.jpg

Người cha không đi tìm đứa con út như tìm chiên lạc.

Nó đã dùng tự do để quyết định ra đi, và người cha tôn trọng quyết định đó.  Nhưng ông vẫn ngong ngóng chờ con.

Niềm hy vọng vẫn không ngừng nhen nhúm.

Người cha thấy con trước khi nó kịp thấy cha.  Con ốm yếu, hôi hám, bội bạc, chẳng làm cha xa tránh.

Tình thương trào dâng khiến bước chân cha vội vã.  Vòng tay cha lớn quá, nụ hôn cha nồng nàn.
Áo đẹp, dép mới, nhẫn đeo tay, ca nhạc, tiệc tùng, múa nhảy: tất cả chỉ để thông báo cho mọi người biết rằng đây là con tôi, vẫn là con vì chưa bao giờ không là con.

Nhưng người cha không chỉ thương con út.  Con cả mới là đích nhắm của câu chuyện này.

Anh quá hiếu thảo, quá vâng phục cha từng li từng tí.  Anh không đi hoang, không ăn chơi, chỉ chăm lo đồng áng.  Ai cũng thấy anh là người con mẫu mực.

Nhưng biến cố đứa em trở về đã làm lộ con người thật của anh.

Tuy luôn ở trong nhà cha, nhưng anh lại ở ngoài tim cha.  Anh không hiểu được tại sao cha lại nhu nhược đến thế, bao dung đến độ bất công với anh.  Đãi tiệc với thịt bê béo để mừng đứa con hoang đàng, còn anh, một con dê để lai rai với bạn bè cũng không có. Anh không thể vui với cha, càng không thể vui với em.  Anh tức giận vì thấy quyền lợi mình bị xâm phạm.  Rốt cuộc anh không chịu vào nhà!

Hoá ra cả hai người con vừa khác, lại vừa rất giống nhau.  Cả hai đều ở ngoài nhà cha, chấp nhận chịu đói.

Con út không thấy hạnh phúc bên cha nên ra đi.  Con cả không chia sẻ được hạnh phúc của cha nên không vào.

Sám hối là trở về với tình cha.  Cả hai người con đều cần trở về, trở vào.

Sám hối là trở lại với tình yêu, niềm vui, sự sống.

Nhưng trở về chẳng phải là chuyện dễ dàng.

Chẳng ai muốn nhận là mình đã đi lầm đường.  Người anh cả cần dẹp bỏ tự ái để vui vẻ vào nhà. Người em út cần khiêm tốn mới gặp cha và gia nhân trong tình trạng thân tàn ma dại.

Để trở về cần đứng lên hay bỏ chỗ mình đang đứng.

Từ bỏ thì đớn đau nhưng hạnh phúc thật tuyệt vời.

Hạnh phúc lớn nhất không phải là tài sản vật chất, mà là khám phá ra mình có chỗ trong trái tim cha. Cha yêu mình dù mình hư hỏng, bất trung.  Cha yêu mình không phải vì mình ngoan ngoãn, được việc. Cha yêu mình chỉ vì mình là con.  Cha không muốn mất một đứa con nào.

Trở về với Cha đòi ta giang tay đón lấy người em.  Đó không phải là “thằng con của cha”, nhưng là “em của con”.

Trở về với Cha, với tha nhân cũng là trở về với mình.  Tôi chợt nhận ra mình quá ư giàu có.

***************************************

Lạy Cha, người con thứ đã muốn tự định đoạt lấy đời mình.  Chúng con vẫn rơi vào tội của người con thứ, khi coi Cha như người cản trở hạnh phúc của chúng con.  Chúng con thèm được tự do bay nhảy ngoài vòng tay của Cha; nhưng tự do ấy lại biến chúng con thành nô lệ.  Hạnh phúc do thế gian ban tặng thì bọt bèo.  Như người con thứ, chúng con bỗng thấy mình tay trắng, rơi xuống chỗ cùng cực và bị cái chết đe doạ.

Lạy Cha đầy lòng bao dung, xin kéo chúng con trở về với Cha mỗi ngày, giúp chúng con điều chỉnh những đam mê lệch lạc.  Xin nâng chúng con đứng lên trong niềm vui vì tin rằng tình Cha lớn hơn tội chúng con vạn bội.  Ước gì những vấp ngã khiến chúng con lớn lên, thấy mình mong manh, thấy Cha rộng lượng.  Ước gì sau mỗi lần được Cha tha thứ, chúng con lại thấy mình hiền hoà hơn với tha nhân.

Trích trong ‘Manna’

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Đức tin trong giới trẻ ngày nay

Đức tin trong giới trẻ ngày nay

Tu sĩ Michael Paul Gallagher, SJ (Dòng Tên), giải thích rằng nền văn hóa mới mà chúng ta đang sống ngày nay không nhất thiết là chống lại niềm tin Kitô, nhưng nó kêu gọi giới trẻ ngày nay quyết định cuộc sống và tâm linh của mình.

Vài tháng trước tại Rôma, tôi có hẹn và đến sớm, tôi dùng thời gian ngắn ngủi đó để cầu nguyện. Bên trong nhà thờ đang có thánh lễ kỷ niệm ngày cưới. Đôi vợ chồng lớn tuổi ngồi ở ghế đặc biệt ngay trước bàn thờ và con cháu ngồi ở hàng ghế trước, ai cũng tươm tất và lộng lẫy.

Linh mục đang giảng, khoảng cầu nguyện riêng của tôi không đủ thinh lặng như tôi muốn. Tôi nghe lời giảng – nhưng với cảm giác buồn gia tăng. Linh mục khen đôi vợ chồng già đã sống chung thủy với nhau 50 năm qua, nhưng rồi tiếp tục chỉ trích “văn hóa hiện đại” thiếu nền tảng, xa rời các giá trị Kitô giáo, ích kỷ và vụn vỡ luân lý. Ngài có vẻ hơi khác với các thế hệ đang nghe ngài nói. Tôi an tâm vì phải rời nhà thờ để đi theo lịch hẹn.

Tại sao hồi tưởng giai đoạn này ở đây? Vì linh mục đó có phần đúng: văn hóa hiện đại có thể làm con người tản mác như đoàn chiên không người chăn mà Phúc âm nói tới. Tiếng nói của ngài có vẻ không đúng với tôi. Ngài không cố gắng bước vào thế giới của giới trẻ hoặc không nhận ra các nhu cầu khác của họ. Ngài có vẻ không thấy cái gì tốt trong cách sống mà họ phải sống.

Từ chủ đề xử lý đức tin theo dạng văn hóa này, hãy để tôi tưởng tượng ra một cách khác. Không chỉ trong một bài giảng. Có nhiều điều để suy nghĩ.

Khi còn sống, ĐGH Gioan-Phaolô II đã thành lập Hội đồng Giáo hoàng về Văn hóa (Pontifical Council for Culture) tạiVatican. Tôi làm việc ở đó 5 năm trong đầu thập niên 1990. Ý tưởng đầu tiên của ngài là vươn xa ra thế giới của văn hóa sáng tạo: các nhà tư tưởng, các nghệ sĩ, các văn sĩ, các nhà trí thức,… Đó là lĩnh vực mà ĐGH Gioan-Phaolô II đã quan tâm đặc biệt, tự hóa thân thành một triết gì, một thi sĩ và một kịch sĩ.

Tuy nhiên, trong những năm tiếp theo, ngài mở rộng phạm vi của Hội đồng bao gồm điều mà ngài gọi là “văn hóa sống” (living culture). Dần dần giáo hội nhận ra rằng văn hóa bình thường này là một cách thể hiện mạnh mẽ, định hình cách sống của mỗi người. Như không khí chúng ta hít thở, chúng ta đồng hóa cách nhìn của thế giới, một số giả định thường ẩn về quyền ưu tiên của cuộc sống. Loại văn hóa này là vấn đề của cách sống hơn là các tư tưởng minh nhiên. Nó giống như một tảng băng, lớn có thể nhìn thấy nhưng nhưng không ảnh hưởng gì. Nó như một ngôn ngữ mà chúng ta học và cứ cho là vậy. Nó cho chúng ta những gì chúng ta gọi là “ý nghĩa chung”.

Đại dương văn hóa bình thường này bao quanh chúng ta và đã thay đổi nhiều trong thế hệ vừa qua hoặc khoảng đó. Chúng ta có thể mô tả thế nào về các sự thay đổi này và tầm ảnh hưởng của chúng đối với đức tin? Trước hết, nó đơn giản và hợp nhất hơn trước. Ít nhất là tại Ai-len cho tới thập niên 1960. chúng ta sống trong một thế giới được che chở, theo nghĩa đen là văn hóa vùng đảo (island culture). Đức tin Kitô giáo là một phần di sản hầu như của mọi người. Đức tin đó được lưu truyền trong các gia đình, các giáo xứ và các trường học.

Nhưng ngày nay, tôi nghĩ đây là vấn đề lớin bị linh mục Rôma kia khinh suất, đức tin không thể là một di sản trơn tru như vậy. Nó phải là một quyết định và thường là quyết định lội ngược dòng. Thế nên vấn đề chính là: Giáo hội có thể làm gì để nuôi dưỡng quyết định đó? Có thể ngôn ngữ cũ hơn của đức tin, với sự nhấn mạnh về đức vâng lời và thực hành các bí tích, sẽ nuôi dưỡng người ta như trong quá khứ.

Đôi vợ chồng già kỷ niệm kim khánh hôn nhân kia đã trưởng thành trong thời kỳ đầu của sự chuyển giao đức tin. Có thể họ thấy ý nghĩa sâu xa về Thiên Chúa qua lòng chung thủy của họ đối với việc tham dự phụng vụ. Nhưng con cháu của họ có thể “bơi” trong vùng biển khác, lẫn lộn những dòng nước trái ngược, để nói như vậy. Con đường của họ đến với Chúa Kitô sẽ phải ít thụ động hơn, cá nhân hơn, tâm linh hơn, nhiều tận tụy minh nhiên hơn.

Điều này có phải “văn hóa hiện đại” là kẻ thù của đức tin? Không nhất thiếtnhưng nó phức tạp hơn và dễ lầm lẫn hơn. Trong thời đại mới và kỹ thuật mới, những cách diễn tã cũ về đức tin có thể không có vẻ không quá khả nghi và không thực tế như vậy. Cần có những lối vào mới, không quy trách cho văn hóa.

Vài tháng trước khi được bầu làm giáo hoàng, lúc đó Hồng y Ratzinger đã trả lời phỏng vấn của một tờ báo của Ý hơi chống giáo hội và trả lời câu hỏi về tình hình mới đối với đức tin bằng những từ thế này: “Cốt lõi của Kitô giáo là câu chuyện yêu thương giữa Thiên Chúa và loài người. Nếu chúng ta có thể hiểu điều này bằng ngôn ngữ cảu ngày nay, mọi sự khác sẽ theo sau… Cách sống ngày nay rất khác và do đó mà cách tiếp cận thông minh là chưa đủ. Chúng ta phải cho người ta những khoảng sống của cộng đồng và của sự phát triển dần dần chung với nhau”.

Nhận biết thử thách mới này là bước đầu tiến về cách nói mới. Đó sẽ là tiếng nói của sự mời gọi chứ không là mệnh lệnh. Đó sẽ là cố gắng đánh thức những ước muốn còn ngủ quên trong tâm hồn mọi người. Điều đó sẽ cho họ khí cụ để hỏi về các phương diện nông cạn của văn hóa đang bao quanh.

Theo một ý nghĩa nào đó, đức tin sẽ luôn ở trong độ căng với đức tin, nhưng như vậy không có nghĩa là chỉ nên than vãn về điều đó. Theo cách nói của thần học gia người Đức Dorothy Soelle: “Điều gây thất kinh trong văn hóa của chúng ta là đa số người ta không có ngôn ngữ để nói về chiều kích tâm linh”.

Lời nhận xét nổi tiếng của Karl Rahner cũng tương tự: “Các tín hữu ngày mai sẽ là những người thần bí hoặc không còn đức tin nữa”. Ông không có ý nói mọi người sẽ trầm mặc hoặc có cảm nghiệm khác thường về Thiên Chúa. Ông nói về sự thần bí hàng ngày, về khả năng nhận ra tiếng gọi và hoa trái Thánh Thần trong những cách chọn lựa và cảm nghiệm bình thường.

Những điều này có nghĩa là đức tin trong tương lai sẽ cần chín muồi hơn để “sống sót” trong một nền văn hóa nhiêu khê hơn, như cây cối chỉ có thể sống trong giông bão nếu rễ của nó đâm sâu và mạnh. Hãy lặp lại lời thơ của thi sĩHopkins:

Niềm hy vọng với lời cầu

Làm đâm bén rễ vào sâu đất màu

(Our hope and our prayer becomes: send our roots rain).

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ CatholicIreland.net)

Anh chị Thụ& Mai gởi

 

Giọt nước mắt

Giọt nước mắt

Ai sinh ra cũng khóc. Đứa bé khóc được là thân nhân vui mừng, đứa bé không khóc thì thân nhân… lo. Vậy khóc là “tín hiệu tốt” chứ không phải là cười.

Rồi khôn lớn dần, trong cuộc sống, ai cũng đã từng hơn một lần rưng rưng nước mắt hoặc đầm đìa nước mắt. Mà nói đến nước mắt là nói đến trạng thái khóc. Thường thì khóc là thể hiện tâm trạng buồn. Nhưng cũng có thể khóc vì vui, như thi hào Nguyễn Công Trứ mô tả: “Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười”. Buồn mà lại cười, đó là lúc người ta quá buồn, buồn muốn phát điên, buồn muốn khóc, và rồi khóc đến cạn nước mắt. Có thể đó là “cái bí ẩn” trong cách nói của người Việt Nam thường nói: “Buồn cười quá!”.

Cụ Nguyễn Công Trứ đã từng “khóc”, vì ông đã “ngồi buồn mà trách ông xanh” và mong ước:

Kiếp sau xin chớ làm người

Làm cây thông đứng giữa trời mà reo

Nhưng với chúng ta, những người có niềm tin vào Đức-Kitô-tử-nạn-và-phục-sinh, chúng ta có quyết tâm tích cực hoàn toàn khác:

Kiếp sau xin vẫn làm người

Và làm thánh giữa Nước Trời trường sinh

Chúng ta không chỉ “vẫn làm người”, vì thân xác chúng ta cũng được sống lại và lên trời, đặc biệt là còn làm “thánh nhân”. Nhưng trước khi “về Nhà Cha” hưởng phúc trường sinh vinh quang, chúng ta không thể không phải chịu đau khổ, nghĩa là có những lúc buồn nẫu ruột, buồn đến chết, buồn đến bật khóc,… đến nỗi những người kém lòng tin đã tự tử.

Khóc có nhiều kiểu. Khóc có nhiều nguyên nhân. Khóc có nhiều mức độ. Thế nên nước mắt cũng có nhiều loại, kể cả “nước mắt cá sấu”. Và tất nhiên, nước mắt không chỉ có vị mặn mà còn có những vị khác nữa!

Với nhạc sĩ Ngô Thụy Miên, ông có “giọt nước mắt ngà”: “Em đứng bên sông buồn, nhìn cuộc tình trôi qua và lòng người phôi pha. Trên hai đóa môi hồng, nụ cười đã đi xa. Ôi giọt nước mắt nào cho cuộc tình đầu… Thôi một giọt nước mắt này, cho cuộc tình đam mê, cho người tình trăm năm… Giọt lệ nào thương vay, tình đành tràn mi cay… Ôi giọt nước mắt ngà cho cuộc tình đầu tiên!”. Giọt-nước-mắt-ngà của NS họ Ngô là giọt-lệ-tình-sầu, một “kiểu” nước mắt của riêng ông.

Người đời có nhiều loại nước mắt, riêng người Công giáo có thêm loại nước-mắt-ăn-năn, nước-mắt-khóc-cho-tội-mình mang vị mặn chát, nhưng đó là loại nước-mắt-thánh-thiện rất cần thiết. Nước mắt làm cho sáng mắt, và nước mắt có thể làm “trôi đi” phần nào nỗi buồn.

Tác giả Thánh vịnh có kiểu khóc thế này: “Tôi lang thang như người khóc mẹ, tôi tủi buồn cúi mặt xuống mà đi” (Tv 35:14). Nước mắt chảy nhiều đến nỗi tác giả “xin lấy vò mà đựng nước mắt” (Tv 56:9), và thường đem “nước mắt hoà nước uống” (Tv 102:10). Có những giọt nước mắt bình thường hoặc tầm thường, nhưng có những giọt nước mắt quý giá – gọi là châu lệ.

Thánh Phaolô cũng đã từng phải khóc: “Tôi phải than khóc nhiều người trước đây đã phạm tội, mà nay chẳng chịu ăn năn hối cải về những việc ô uế, gian dâm và phóng đãng họ đã làm” (2 Cr 12:21).

Thánh sử Luca tường thuật: “Có một phụ nữ tội lỗi cúi sát chân Chúa Giêsu mà khóc. Chị lấy nước mắt mình mà tưới ướt chân Ngài, lấy tóc mình mà lau, rồi hôn chân Ngài và lấy dầu thơm mà đổ lên” (Lc 7:38). Những giọt nước mắt như vậy thực sự là châu lệ, vì đầy tâm tình sám hối và tin yêu. Do đó, Chúa Giêsu đề cao tấm gương của phụ-nữ-tội-lỗi này: “Yêu nhiều nên được tha nhiều” (Lc 7:47).

Thứ Sáu Tuần Thánh là ngày Đại Tang của Giáo hội, đúng ra là Thế Giới Tang. Nhiều người chú trọng nhiều đến “bề ngoài”, lo “bày tỏ” bằng những cách để đánh vào thị hiếu của giới bình dân. Nếu thực sự ngoại tại có thể giúp nội tại thì cũng tốt, nhưng đừng thái quá. Điều cần là “đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng” (Ge 2:13). Khóc cho tội và chết cho tội là thành tâm sám hối và quyết tâm chừa tội, đó mới là cách Chúa muốn. Cứ lo “diễn” bề ngoài mà không chú ý nội tâm thì chắc chắn Chúa không muốn.

Chính Đức Giêsu cũng đã khóc vì thương tiếc thành Giêrusalem (x. Lc 19:41), nhưng khi người ta than khóc Ngài vì thấy Ngài vác Thập giá, dù Ngài đang rất mệt mỏi và đau đớn mà vẫn ráng quay lại nói: “Hỡi chị em thành Giêrusalem, đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận mình và cho con cháu” (Lc 23:28).

Đó cũng chính là lời cảnh báo Ngài nói thẳng với chúng ta. Và rồi khi “Ngài ngự đến giữa đám mây”, nghĩa là lúc Ngài đến thế gian lần thứ hai, “ai nấy sẽ thấy Ngài, cả những kẻ đã đâm Ngài. Mọi dân trên mặt đất sẽ đấm ngực than khóc khi thấy Ngài” (Kh 1:7).

Cuộc đời là chuỗi-đau-khổ-đầy-nước-mắt, nhưng chính đau khổ lại là diễm phúc: “Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an” (Mt 5:5). Khóc không bị chê trách mà được chúc phúc. Giọt-nước-mắt đó đầy vị-mặn-yêu-thương. Chỉ có một loại nước mắt tệ hại nhất và vô phúc nhất là giọt-nước-mắt-trong-hỏa-ngục, vì phải đời đời “khóc lóc và nghiến răng” (Mt 8:12; Mt 13:42; Mt 13:50; Mt 22:13; Mt 24:51; Mt 25:30; Lc 13:28).

Chúa Giêsu đã dùng chính sự thất bại để chiến thắng, dùng chính đau khổ để đạt vinh quang, và dùng chính cái chết để đạt sự phục sinh. Đấng Cứu Thế đã vậy thì chúng ta không thể không như Ngài – nghĩa là cũng phải khóc lóc và rơi lệ hằng ngày. Tuy nhiên, Ngài đã chết để chúng ta được sống, và rồi “Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt chúng ta” (Kh 7:17; Kh 21:4).

Lạy Chúa Cha hằng hữu đầy lòng thương xót, vì tội lỗi khốn nạn của chúng con mà Ngài bắt Đức Kitô, Con Yêu Dấu của Cha, phải chết đau thương. Chúng con thành tâm xin lỗi Đức Giêsu Kitô, xin cho nước mắt của chúng con được hòa với Máu và Nước của Ngài để nài xin lòng thương xót cho chính chúng con và toàn thế giới. Chúng con khẩn thiết Chúa Cha thương xót và tha thứ cho chúng con, xin giúp chúng con trung tín với Ơn Chúa để đừng làm khổ Đức Giêsu chút nào nữa. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa của chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

Anh chị Thụ & Mai gởi

Đừng để đến mai.

Đừng để đến mai.

Margaret Mitchell, tác giả cuốn tiểu thuyết rất nổi tiếng “Gone with the Wind”, dịch ra nhiều thứ tiếng, tiếng Việt là “Cuốn theo chiều gió”.

Trong tiểu thuyết này, nhân vật chính là cô Scarlet, từ đầu tới cuối chuyện cô thường nói câu: “Để mai sẽ lo chuyện đó“. Tới trang cuối cùng khi đã mất người chồng thứ ba là Rhod Bluster, Scarlet còn nói: “Để mai tôi sẽ chiếm lại Rhed Bluster“.

Chính người thuật truyện nói rằng Margaret là một người Công Giáo xa Giáo Hội đã nhiều năm, cứ hoãn việc trở về với Giáo Hội.  Và có ai nhắc thì bà ta chuyên lặp lại câu:  “Để mai sẽ lo chuyện đó” .

Bà bị tai nạn xe hơi tại Atlanta, Georgia.

Một người bạn rất thân của bà ta kể lại rằng khi mê man bất tỉnh, bà ta cứ lặp đi lặp lại câu này:  “Để mai sẽ lo  chuyện đó”. Nhưng đã không có “mai” nữa!!!

Bà chết ngày 16 tháng 6 năm 1949.

Lời Chúa: (Luca 12,39-40):  Nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, hẳn ông ta đã không để nó khoét tường nhà mình. Anh em cũng vậy, hãy sẵn sàng, vì chính lúc anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến”.

Lm. Đoàn Quang

chị Nguyễn Kim Bằng gởi

 

Blogger Tạ Phong Tần được vinh danh là 1 trong 10 Phụ nữ Can Đảm của Thế Giới

Blogger Tạ Phong Tần được vinh danh là 1 trong 10 Phụ nữ Can Đảm của Thế Giới

nguồn: VOA

Blogger Tạ Phong Tần, cựu đảng viên đảng Cộng sản Việt Nam

Blogger Tạ Phong Tần, cựu đảng viên đảng Cộng sản Việt Nam

06.03.2013

​​Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ loan báo trong ngày Quốc Tế Phụ Nữ thứ Sáu sắp tới, Bộ Ngoại giao sẽ vinh danh 10 phụ nữ có những thành tích ngoại hạng xứng đáng được trao Giải Phụ Nữ Can Đảm của Thế Giới.

Một thông cáo của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, ghi ngày 4 tháng Ba, loan báo Ngoại trưởng Kerry và Đệ Nhất Phu Nhân Hoa Kỳ Michelle Obama sẽ chính thức trao giải cho 10 phụ nữ đặc biệt này, tại một buổi lễ được cử hành vào lúc 3 giờ chiều tại Hội trường Dean Acheson của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ ở thủ đô Washington.
​​
Trong danh sách những người được giải thưởng có Blogger Tạ Phong Tần, hiện đang thọ án tù 10 năm tại Việt Nam, nên sẽ đuợc trao giải khiếm diện.

Bà Tạ Phong Tần có trang blog mang tên “Công lý và Sự Thật”, với hàng trăm bài viết phản ánh những bất công xã hội, các vụ tịch thu đất đai, và tệ nạn tham nhũng trong các cơ quan chính quyền Việt Nam.

Giải Phụ Nữ Can Trường Thế giới của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ là một giải thường niên để vinh danh các phụ nữ trên khắp thế giới đã chứng tỏ lòng can đảm ngoại hạng cũng như khả năng lãnh đạo trong việc cổ vũ cho các quyền phụ nữ và trao quyền cho nữ giới, bất chấp những gian nguy cho cá nhân mình.

Từ khi giải này được thiết lập năm 2007, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã vinh danh tất cả 67 phụ nữ đến từ 45 quốc gia.

Nguồn: Office of the Spokesperson, State Dept.

THĂM CHỒNG

THĂM  CHỒNG
Thương tặng chồng và các con tôi,những người đã
chung góp đau khỗ với tôi trên quê hương..
BẠCH – TUYẾT

Chúng tôi yêu nhau khi còn ở Trung học,sáu năm sau mới cưới nhau Và khi đã có năm đứa con,chưa bao giờ xa nhau quá một tuần.Vậy mà khi đất nước được gọi là”giải phóng “năm 75,vợ chồng tôi phải chia tay…không biết bao giờ mới được gặp mặt…
Đứng trước cỗng trường Petrus Ký ,chi ngăn cách có cái cỗng rào ,nhưng tôi cảm thấy đã có cái ngăn cách thật sư rồi ,một sự ngăn cách vô cực!Tôi nhìn bóng dáng của chồng tôi xa dần…xa dần.
Bao nhiêu đau khỗ của người đàn bà bơ vơ với năm đứa con thơ dại -lớn nhứt 11 tuổi và nhỏ nhứt mới biết nói bập bẹ-ngày qua tháng lại sống trong đợi chờ thương nhớ và tuyệt vọng…tôi hận thù cộng sản bấy nhiêu.
Khi nhận được lá thơ đầu tiên của chồng tôi từ miền Bắc ,tôi quyết định phải đi thăm.
Không rành đường đi,không biết nơi đến,trong tay võn vẹn một bao thơ(viết bằng ám số )với chữ Vĩnh Quang(Vĩnh Phú )tôi cùng người dì chồng quãy gần 100 ký lô ra đi sáng mùng bốn Tết mùa Xuân năm 79.
Tôi không biết phải tả làm sao cho hết nỗi sơn trường của một người đàn bà mang trong tay 7 giỏ hành lý nặng, phương tiện chuyên chở không có,đến nỗi khi mệt mõi quá tôi và dì tôi phải mang mỗi lần 1 giỏ một và đi trỡ lại xách tiếp…thành quãng đường dài gấp ba lần.Vậy mà chúng tôi lại đi lạc đường,thay vì Vĩnh Phú Tam Đão gần hơn tôi lại đi Vĩnh Phú  Ấm Thượng.Chúng tôi phải lui trỡ lại 80 cây số…
Đến ngày thứ sáu tôi tới trại Vĩnh Quang A,sau khi trình giấy tờ,hồi họp chờ đợi…Hai người cán bộ cộng sãn đang kè hai bên một người trẻ tuổi ,gương mặt sáng láng…nhưng không đi dược vì thiếu dinh dưỡng.Tôi rụng rời…nhưng không phải chồng tôi ,đó là một sĩ quan trẻ Sài Gòn có thân nhân miền Bắc thăm nuôi. Còn tôi cán bộ cho biết là Vĩnh Quang A không có tên anh ấy ,phải đi bộ thêm 5 cây số nữa để tới trại B.Chúng tôi quãy gánh ,leo núi tới trại B là 3 giờ chiều. Nhưng lại thêm một thất vọng nữa người can bộ cầm phong thơ trã lại “rất tiếc là anh ấy khong có ở đây”.
Sáu ngày đêm chỉ uống nước và ăn vặt…ba lần đi lạc ,tôi chán nãn và muốn khóc thốt lên với dì tôi:”Nếu không tìm ra dược ảnh ,con quăng đồ đạc này xuống hố và nhảy theo…chứ không về nhà khi chưa gặp được mặt chồng” Người cán bộ thấy vậy động lòng?cầm bao thơ một lần nữa…vô trại tìm.
Dì cháu tôi đứng ngay ngoài cỗng chờ đợi.Ba mươi phút sau tôi nhìn thấy từ xa chồng tôi-bốn năm trời mới được thấy mặt-mặc bộ đồ bà ba đen tươi cười khi thấy tôi.Tôi la lên :”Dì ơi…anh Cẩn kìa…tìm được rồi dì ơi…”
Chúng tôi được ngồi nói chuyện ở “phòng tiếp tân”(?) ngăn cách bỡi cái bàn dài
người cán bộ cộng sãn ngồi ở giữa ,vợ chông tôi ngồi đối diện theo sự “hướng dẫn”của cán bộ chứ không được ngồi gần .
Câu đầu tiên anh nói với tôi :”Anh không ngờ được vì em là người đầu tiên từ
Sài Gòn ra thăm ở trại này!”Sau đó anh chỉ ngồi mĩm cười để nghe tôi nói.Còn tôi
thật bình tĩnh ,tôi rất ghét khóc trước mặt kẽ thù.Tôi mốn cho họ thấy rằng dù tôi bị
mất tất cả:mất chồng ,mất của cải ,mất niền tin ,mất tự do…tôi vẫn luôn tươi cười
trước họ. Tôi nói thao thao bất tuyệt chuyện nhà cữa ,chuyện con cái ngoan và học giỏi(thật sự con tôi cũng rất ngoan và học giỏi ,đó cũng là niềm tự hào để tôi sống ).Tôi muốn níu thời gian ngừng lại ,chồng tôi chắc cũng nghĩ như tôi.Anh không hề ăn uống gì cả mặc dù thức ăn đang bày ra cả bàn và tôi biết anh đã thiếu ăn từ năm này đến tháng kia…Anh chăm chú nghe và đắm đuối nhìn tôi như muốn nuốt trọn tôi vào tim óc của anh.
Nữa giờ sau người cán bộ chấm dứt câu chuyện của chúng tôi:”Thôi anh thu xếp đồ đạc để vô trại.”
Chồng tôi đứng dậy nắm lấy tay tôi ,hôn phớt nhẹ lên trán một cái.Tôi rụng rời không phải vì xúc động bỡi cái hôn mà vì thương chồng quá…lo sợ anh ấy phải bị nặng nhẹ kiễm điễm…Chồng tôi gánh quà vô trại ,tôi đau xót ngậm ngùi đứng nhìn bóng dáng anh từ từ khuất dần…
Bấy giờ tôi mới bật khóc,bao nhiêu nỗi uất hận chất chứa bấy lâu nay…tuôn tràn ra.Tôi khóc như chưa bao giờ được khóc.
Chiều Xuân ở Tam Đão thật ãm đạm ,mưa bay lất phất ,chung quanh tôi là đồi núi chập chờn ,cao ngất.
Dì cháu tôi ở lại trại một mình với cây đèn bão leo lét.Tôi khóc suốt đêm đó ,từ Nam ra Bắc ,6 ngày đi đường vất vã ,gần nhau trong gang tấc mà chỉ được nhìn nhau có nữa tiếng đồng hồ.Bây giờ người trong ngục tối ,kẽ ở ngoài trại…biết đến bao giờ mới đươc gặp nhau đây?
Tiếng kẽng đỗ rùng rợn buổi sáng ,chỉ có ở với cộng sãn mới thấm thía tiếng kẽng này ,nó báo hiệu cho một ngày nô dịch lê thê của dân Việt Nam.Chúng tôi từ giã núi đồi ,từ giã”trại tiếp tân”lạnh lẽo…từ giã người yêu quý nhứt đời…đau xót
,ngậm ngùi xách túi nhẹ ra về.
Mười lăm ngày sau tôi mới về tới nhà gặp lại các con.Tôi bị mất ngủ khi đi thăm chồng về >Nhắm mắt là chập chờn hình ảnh chồng tôi ,nhắm mắt là lờ mờ hình ảnh người sĩ quan trẻ không đi được vì thiếu ăn…chập chờn từng đoàn người tù binh đi làm khỗ dịch ngoài ruộng ,bên núi ,Họ lặng lẽ âm thầm…
Tôi thấy xót xa đau đớn và thương tất cả những sĩ quan cùng cảnh với chồng mình ,họ phải sống nhục nhằn ,đói khát ,đọa đày trong lao tù miền Bắc.Tôi buôn bán trỡ lại và sống thật tiện tặng để có tiền đi thăm nuôi .Ba tháng sau tôi lại tiếp tục đi thăm…cứ như vậy kéo dài hơn 7 năm…
Và “ngày trở về”của anh ấy cũng là một kỹ niệm đẹp khó quên trong đời tôi..
nhưng mà có nghĩa lý gì khi được “tự do”với cộng sãn? Chồng tôi tiếp tục ở vào ngục tù thư hai ,dù được gần vợ con ,anh bị”quản chế”tại nhà thêm 6 năm nữa.
Bây giờ cả gia đình tôi được định cư tại CT theo diện H.O Chúng tôi sống là để chờ cái ngàycon cái mình được sống được thở không khí tự do này!Nhưng chúng tôi rất ngỡ ngàng e ngại…Phải khó khăn lắm mới lèo lái con thuyền cho vững ,cái bến bờ tự do này quá nhiều cám dỗ cho những kẽ thơ ngây ,non dại như con chúng ta.
Các con tôi đã lớn ,đã biết là sau lưng nước Việt Nam thân yêu ,gia đình tôi đã bỏ lại tất cả trong đó có những tình cảm thiêng liêng chân thật của những người ở lại..Chúng phải hiểu rằng vì sao lại bỏ atts cả để ra đi…
…Cầu xin ơn trên gia hộ cho đám con chúng ta ,những người H.O.bạc phước này,phải sống cho thành người làm việc cho xứng đáng ,đừng để mang tai tiếng
tủi hỗ vong linh những người đã bỏ mình trên quê hương ,trong chốn lao tù cộng sãn…tũi hỗ cho những bậc cha mẹ trót mang cái nghiệp H.O.
Nguyễn Ngọc Bạch-Tuyết

Lời Tỏ Tình

Lời Tỏ Tình
Phạm Thành Châu
Tác giả sinh quán tại Hội An, Quảng Nam , tốt nghiệp Đốc Sự Học Viện Quốc Gia Hành Chánh Việt Nam Cộng Hoà, hiện là cư dân Virginia . Nhà văn Phạm Thành Châu đã cộng tác với các báo Van, Thế Kỷ 21 và có ba tập truyện ngắn đã xuất bản. Nhân vật trong truyện của anh thật tuyệt vời! Họ chung tình quá sức.

***
Sau khi chiếm được nam Việt Nam, năm 1975, Cộng Sản miền Bắc lùa số lớn công chức, quân nhân, đảng viên các đảng phái quốc gia, các nhà tu hành của các tôn giáo miền Nam, ra Bắc “khổ sai biệt xứ”. Liên Xô có Xi-bê-ri thì Việt Nam có vùng núi non Tây Bắc khắc nghiệt, tuy không lạnh bằng Xi-bê-ri nhưng cũng đủ cho tù chết dần.

Chết vì lạnh, vì đói, vì lao động kiệt sức và

vì bịnh mà không có thuốc chữa.
Thông thường, tù phải tự đốn cây, cắt tranh làm lán cho mình ở, phải phá rừng, làm rẫy trồng trọt khoai củ nuôi thân. Nhà nước Cộng Sản không phải tốn phí nuôi tù cải tạo. Ban ngày tù vào rừng lao động, chiều về, vào lán, cán bộ coi tù khóa cửa lại, sáng hôm sau, mở cửa cho tù đi lao động tiếp.
Mấy năm đầu, tù chết quá nhiều nên chính quyền Cộng Sản Việt Nam cho thân nhân tù được gửi thuốc, áo quần (giới hạn) bằng đường bưu điện, về sau được thăm nuôi, nghĩa là được gặp mặt tù và tiếp tế lương thực, mùng mền, thuốc men…giúp tù chịu đựng, tiếp tục khai phá núi rừng và chết chậm hơn.
Trong chuyện nầy, tôi không kể về những sinh hoạt trong nhà tù mà kể về một anh bạn tù nằm cạnh tôi.
Anh Hùng, (nằm cạnh tôi) là người ít nói nhưng thường quan tâm đến người khác. Buổi tối, vào lán, thấy ai có vẻ trầm tư, suy nghĩ, là anh sà đến, nói huyên thuyên những chuyện trên trời dưới đất, chuyện nào cũng khiến người nghe bật cười. Thế là người bạn đó bớt buồn. Khi quay về, anh bảo tôi
– Khá rồi! Lo buồn làm mình suy sụp nhanh nhất.

Nhanh hơn cả bịnh hoạn. Chỉ cần mất ngủ vài ba đêm là không đủ sức gượng dậy.
Ai cũng biết điều đó, nhưng rất khó vượt qua, nhất là những người không được thăm nuôi, thậm chí không nhận được thư của thân nhân gửi vào.

Họ được gọi là “con bà xơ” (nữ tu), ý nói là con hoang trong trại mồ côi do các bà xơ (soeurs) nuôi dưỡng.

Các tù nhân con bà xơ nầy, mỗi khi thấy người nào ra thăm thân nhân, đem đồ tiếp tế vào là họ tránh chỗ khác, tìm những người cùng hoàn cảnh (không có thăm nuôi) mà chuyện trò, ăn mấy củ khoai, củ sắn với nhau. Được tặng thức ăn (thăm nuôi) họ có thể nhận một lần, lần sau thì từ chối.
– Xin cám ơn anh, tôi nhận thì không có gì tặng lại. Anh thông cảm cho tôi. Xin giữ lấy.
Trong tù, chỉ nghĩ đến miếng thịt, cây kẹo cũng đủ chảy nước miếng, vì cơ thể quá cần, nhưng nhận chút thực phẩm của bạn cho, lấy gì trả lại?
Tôi với anh Hùng, may mắn, được vợ thăm nuôi, dù cả năm chỉ được một lần và chỉ được một xách nhỏ. Một gói đường tán đen, gói cá khô, ít đậu và gạo, ít thuốc men, chỉ vậy thôi, vì tiền xe cộ đi hàng nghìn cây số (từ miền Nam ra núi rừng tây bắc), ăn uống dọc đường…hết cả!

Chúng tôi nghèo quá, nhưng vợ chồng gặp mặt nhau là may rồi. Tôi mừng, nhưng anh Hùng lại mừng hơn. Lần thăm nuôi nào anh cũng bảo.
– Đây là lần chót!
Thế nên, mỗi khi được gọi tên ra gặp thân nhân thì anh ngạc nhiên.
– Ai thăm tôi? Bà cụ thì quá yếu, không đi nổi!
Tôi cười bảo.
– Không phải vợ thì ai vào đây?
Theo vợ tôi kể, trong một lá thư gửi cho tôi, chỉ một lần vợ tôi cùng đi thăm nuôi với vợ anh Hùng mà hai người thành bạn thân. Cả hai đều ở trong một con hẻm vùng Đa Kao lại có chồng là bạn nằm cạnh nhau trong tù, cùng hoàn cảnh nên hai người đàn bà thương nhau, thường giúp đỡ nhau trong việc buôn bán mưu sinh.
Vì thấy anh vui hơi quá đáng mỗi khi được thăm nuôi nên tôi tò mò, cố tìm hiểu vì sao? Đúng ra, trong tù không nên biết chuyện gia đình người khác, nếu người đó không tự ý kể ra. Tôi không nhớ mình đã gợi ý cách nào khiến cho anh Hùng kể chuyện vợ con của anh.
Sau đây là câu chuyện theo lời Anh kể.
. . .

– Tôi là con trai độc nhất của bà cụ tôi. Đúng hơn, tôi là độc đinh của cả giòng họ nhà tôi. Nếu mẹ tôi không sinh ra tôi thì coi như họ Hoàng Đắc của tôi tuyệt tự.

Mẹ tôi săn sóc, chăm lo cho tôi, vì tình thương mà cũng vì trách nhiệm bên nhà chồng giao phó, là phải có người thừa tự, lo nhang khói, cúng giỗ để vong linh ông bà, tổ tiên khỏi bơ vơ, thành ma đói, ma khát, vất vưỡng trong cõi u minh.

Thế nên, khi tôi vừa xong tú tài là mẹ tôi lo tìm vợ cho tôi, vì bà sợ tôi vào quân đội, không biết chết lúc nào, sẽ không kịp có con trai để nối dõi tông đường.

Tôi thì không để ý đến chuyện đó. Ngay trong thời đi học, bạn bè yêu cô nầy, cô kia, tôi chỉ biết bài vở và các môn thể thao như đá banh, học võ…
Đến khi thi xong tú tài một, tôi tình nguyện đi sĩ quan Thủ Đức. Mẹ tôi, thời trẻ là đảng viên một đảng phái Quốc Gia, thông hiểu tình hình đất nước, bà cụ bảo tôi “Khi tổ quốc lâm nguy, làm con dân phải có bổn phận cùng với mọi người bảo vệ đất nước, bảo vệ đồng bào.

Những tên trốn lính, sống chui, sống nhủi chỉ thêm nhục. Nhưng con phải lấy vợ, sinh con trai để sau nầy lo nhang khói cho ông bà, tổ tiên”.

Mẹ tôi hỏi tôi có để ý cô nào chưa? Tôi thưa rằng “Mẹ xem cô nào vừa ý mẹ thì cưới cho con chứ con không có người yêu”. Mẹ tôi đến nhà các bà bạn, ngắm nghía cô nầy, dọ hỏi cô kia, cuối cùng bà chọn được một cô.

Mẹ tôi nhờ người mai mối, gia đình cô ta đồng ý ngay. Để tôi được gặp cô gái, mẹ tôi mua một ít trái cây, sai tôi đem đến biếu gia đình cô ta.

Hình như cô gái không biết có sự xếp đặt giữa hai gia đình nên cô ta tiếp tôi rất hồn nhiên, vô tư như với bạn bè. Tôi thấy cô cũng xinh, hiền lành, vui vẻ nên về thưa với mẹ tôi rằng “Mẹ thấy vừa ý thì con xin vâng lời”.

Quả thật, cô gái hoàn toàn không biết gì về việc cô sẽ là vợ tôi. Trước ngày tôi vào quân trường, hai gia đình muốn tổ chức lễ hỏi, cưới luôn một lần. Lúc đó, cô gái mới được thông báo. Cô ta phản đối quyết liệt. Hóa ra cô đã có người yêu.
Sau nầy tôi mới biết, người cô yêu là một nhà thơ. Anh chàng có dị tật ở chân nên anh ta khỏi phải đi lính. Nhờ thế anh ta yên tâm vui chơi và ăn bám gia đình.

Hết làm thơ đăng báo tán tỉnh cô nầy, cô kia thì la cà các quán cà phê, quán nhậu. Con gái mới lớn, cô nào cũng mơ mộng. Anh chàng thi sĩ nầy làm thơ ca tụng, tỏ tình với cô vợ tương lai của tôi thì chẳng khác gì bỏ bùa cô ta.

Cô ta yêu mê mệt chàng thi sĩ, quyết cùng chàng “Một túp lều tranh hai quả tim vàng”. Bất ngờ cô bị ép phải lấy tôi làm chồng. Cô tuyên bố thẳng thừng với cha mẹ rằng cô ta sẽ trốn đi với chàng thi sĩ, nếu không trốn được mà bị ép duyên, cô ta sẽ uống thuốc rầy tự tử.

Gia đình cô ta hình như có xích mích gì đó với gia đình “nhà thơ” nên không muốn làm sui gia với họ. Thế nên bà mẹ mới bảo với con gái rằng

“Mầy muốn trốn theo trai thì cứ trốn đi, nhưng không được theo thằng chó chết của nhà đó. Nếu mầy theo nó, thì nhớ ba ngày sau quay về dự đám ma tao.

Còn mầy muốn tự tử thì tao mua cho mầy chai thuốc rầy, nhưng uống nửa chai thôi, để một nửa cho tao. Nuôi mầy khôn lớn để mầy làm nhục cha mẹ…”

Lời tuyên bố đó khiến cô gái không còn lựa chọn nào khác. Thế nên, trước ngày cưới, cô ta hẹn tôi ra một quán nước.
Sáng đó, chúng tôi gặp nhau. Tôi ngồi đối diện. Quán vắng người nên cô ta chẳng cần giữ lời, tấn công tôi ngay “Tôi và anh không hề quen biết nhau, không thù oán nhau, tại sao anh cố tình phá vỡ tình yêu của chúng tôi?

Anh có biết, vợ chồng không có tình yêu mà sống với nhau là sống trong địa ngục không?”
Tôi trả lời “Đây là chuyện hai gia đình với nhau. Cô không bằng lòng lấy tôi thì cứ nói thẳng với ba mẹ cô hoặc nói với mẹ tôi.

Tôi không có ý kiến. Tôi không cần vợ, nhưng mẹ tôi cần có cháu nội trai để nối dõi tông đường.

Tôi sẽ vào quân đội. Chiến tranh rất ác liệt. Đời lính chiến, hành quân liên miên, cưới cô về, được bao nhiêu lần chúng ta gặp nhau?

Để có con, còn khó hơn. Và có thể một ngày, một tuần, một tháng sau đó, tôi tử trận.

Cô sẽ thành quả phụ. Nhanh lắm. Tôi nói sự thật để cô đủ lý do từ chối việc cầu hôn của tôi”

Cô yên lặng lắng nghe. Tôi cũng suy nghĩ, lựa lời một lúc mới nói tiếp

“Nếu bị ép duyên, và nếu không còn con đường nào khác để làm vui lòng cha mẹ cô, cô nên lấy tôi.

Vì sau khi ra trường sĩ quan, tôi sẽ chọn binh chủng tác chiến, tôi sẽ leo lên bàn thờ nhanh lắm. Khi tôi chết rồi, gia đình cô không còn quyền cấm cô về sống với người cô yêu.

Mà dù tôi chưa tử trận, khó khăn của tôi vẫn là phải có con trai cho mẹ tôi an tâm. Tôi đề nghị thế nầy. Sau khi là vợ tôi, dĩ nhiên là tôi đi hành quân, đâu có về nhà thường xuyên được…

Cô cứ hẹn hò với người yêu, miễn sao đừng cho thiên hạ biết, khi nào có bầu, cô ra đơn vị tìm tôi rồi quay về nhà.

Mục đích để hợp thức hóa đứa bé trong bụng cô. Tôi sẽ không ghen tương gì mà mẹ tôi lại mừng vì đã làm tròn bổn phận đối với gia tộc tôi…”

Chưa nghe hết câu, cô chồm qua bàn, thẳng tay tát tôi một tát tai, nảy đom đóm mắt “Tôi cấm anh không được nhục mạ tôi theo lối nói vô học đó. Anh xem tôi là hạng người gì?..”

Rồi cô ôm mặt, gục xuống bàn khóc nức nở. Cô khóc to, như rống lên rồi lấy khăn bịt miệng mình lại để tự kềm chế.

Tôi kinh hoàng, vội qua ngồi cạnh cô, lắp bắp

“Tôi xin lỗi! Tôi xin lỗi! Cô tha thứ cho tôi” Tôi định choàng tay qua vai cô để vỗ về thì cô xô mạnh tôi ra, khiến tôi suýt ngã ngữa. Cô cứ cúi đầu thút thít mãi. Tôi chán nản, nghĩ rằng, tốt nhất về thưa với mẹ tôi rút lui vụ cưới hỏi nầy để khỏi rắc rối, có khi gây oán thù với cô ta và cả người tình của cô nữa.
Tôi đứng lên, đến quày trả tiền. Cô chủ quán hỏi tôi “Có chuyện gì vậy?” Tôi lắc đầu, quay lại bàn nước, ngồi cạnh cô để tránh tia mắt cô đang nhìn đăm đăm phía trước như người xuất hồn.

Tôi nói “Tôi đã hiểu cô, đã biết mối tình của cô. Xin cô yên tâm. Tôi sẽ báo cho mẹ tôi hủy bỏ vụ nầy. Cô được tự do”.

Tôi định đứng lên thì cô ra dấu tôi ngồi xuống. Cô nói mà không nhìn tôi “Anh chẳng có lỗi gì trong chuyện nầy. Gia đình tôi nhất quyết gả tôi cho người khác.

Ai cũng được, ngoại trừ người tôi yêu” Rồi cô quay nhìn tôi, mắt long lên, môi mím lại “Tôi đồng ý lấy anh. Nhưng tôi cho anh biết. Anh chiếm đoạt được trinh tiết của tôi, chiếm đoạt được thân xác tôi nhưng không thể chiếm đoạt được trái tim tôi. Đừng hi vọng tôi sẽ thương yêu anh. Tôi không thù anh, nhưng tôi không thể yêu thương ai ngoài người tôi yêu. Tôi cũng cho anh biết trước rằng, về làm vợ anh, dù đến mãn đời, tôi thề sẽ không bao giờ nói tiếng yêu thương với anh, không bao giờ hôn anh. Mong anh cũng làm như thế”

Tôi giận sôi gan, nhưng cố bình tĩnh “Tôi sẽ giữ lời. Tôi thề sẽ không nói thương yêu với cô, không hôn cô, vì tôi biết chúng ta chẳng hề yêu thương nhau.

Tôi cũng yêu cầu cô nhớ lời thề đó. Sau nầy, nếu tôi tử trận, xin cô đừng giả vờ khóc, vì tôi biết đó là ngày vui của cô, ngày cô được giải thoát để về với người cô yêu.

Không cưới cô thì mẹ tôi cũng tìm một cô khác cho tôi. Từ hôm nay cho đến tuần sau, cô có thể báo cho mẹ tôi biết quyết định của cô.

Mà dù đã là vợ tôi, cô vẫn tự do. Cô có thể gặp người yêu của cô bất cứ lúc nào, chỉ mong cô cố gắng cho mẹ tôi một đứa cháu trai. Xin cô giúp tôi”

Kể đến đấy anh Hùng hỏi tôi “Nếu vào trường hợp tôi, anh sẽ nghĩ sao?

Chúng tôi da~ có ba mặt con với nhau, nhưng không bao giờ tôi nghĩ rằng cô ta còn lưu lại trong gia đình tôi cho đến ngày tôi vô tù như hôm nay”

Anh quay ra sau, lục trong xách nhỏ, lấy ra mấy tấm hình, trao cho tôi “Anh nhìn xem, mấy đứa nhỏ nầy giống ai?” Tôi nhìn và nói ngay “Giống anh chứ giống ai? Con anh phải không? Hai thằng nhỏ nầy là anh em sinh đôi?”

Anh trầm tư “Để tôi dài dòng một chút. Trước khi vào quân trường, tôi cưới vợ. Khi còn đang thụ huấn trong Thủ Đức, được tin vợ sinh, tôi về phép, vào nhà bảo sanh.

Vợ tôi sinh con gái. Tôi ôm đứa bé vào lòng. Lúc đó, tôi không thắc mắc, ai là tác giả của sinh vật bé bỏng đó, nhưng không hiểu sao, tôi thương nó quá. Tôi ngắm nghía nó, hôn nó, thì thầm với nó mà quên cả chung quanh. Lúc đặt con xuống bên cạnh vợ, cô ta nắm lấy bàn tay tôi, nhìn tôi, nước mắt ứa ra.

Cô ta khóc. Tôi hiểu ý nên nói “Xin lỗi! Nhưng tôi thương nó. Lần sau, cố giúp tôi một thằng con trai…”
Tôi ngắt lời anh “Bộ hai người xưng tôi chứ không anh em gì cả sao?” “Cô thì xưng em với tôi, còn tôi, khi chán nản hoặc chỉ có hai người, tôi xưng “tôi” và nói trống không. Khi có người thứ ba thì tôi “anh, em” như vợ chồng bình thường… Sau đó, cô sinh đôi, hai thằng con trai. Khi tôi đi tù thì hai thằng con được gần hai tuổi.
– Hai anh chị thề thốt với nhau rằng sẽ không hôn, không nói tiếng yêu thương với nhau, rồi có giữ lời không?
– Tôi có vợ mà tâm lý không giống những ông khác. Tôi chỉ làm bổn phận. Tôi đâu cần tình yêu mới làm chuyện vợ chồng được. Khi cô ta vừa sinh hai thằng con trai, tôi dự định, hễ hai đứa nhỏ cứng cáp thì tôi sẽ nói với cô rằng muốn li dị thì tôi ký tên ngay để cô được tự do, nhưng tôi chưa kịp nói thì đi tù.

Thế nên, mỗi khi tôi được gọi ra thăm nuôi, anh thường nghe tôi tự hỏi “Ai thăm nuôi mình?” vì tôi cứ đinh ninh là cô ta đã bỏ tôi để về với người tình, để khỏi nuôi mấy đứa nhỏ, khỏi nuôi mẹ tôi, khỏi thăm nuôi tôi.
– Anh có thể nói thật tình cảm của anh đối với vợ anh cho tôi nghe được không? Anh có thương vợ không?
Anh trầm ngâm.
– Chỉ sau nầy, khi tôi vào tù, cô ta không bỏ chúng tôi, lại phải vất vả, bương chải để nuôi sống bao nhiêu người trong gia đình tôi, tôi mới nghĩ rằng cô là vợ tôi.

Nếu chúng tôi có yêu nhau trước đó thì sự hi sinh của cô ta còn có chút ý nghĩa. Đằng nầy…Không ai có thể bắt cô phải cưu mang chúng tôi.

Đó là sự bất công. Trước kia, tôi không màng đến ý nghĩ, tình cảm của vợ tôi. Chúng tôi ít nói chuyện với nhau. Đúng ra là không có dịp. Tôi hành quân liên miên, vài ba tháng về phép một lần.

Hai mươi bốn giờ phép mà gần tối mới về đến nhà, sáng sớm lại phải ra đơn vị. Vả lại, tôi thương các con tôi lắm.

Vừa bước vô nhà, chào mẹ tôi xong là tôi quấn quít với con, hôn hít đứa nầy, bồng ẵm đứa kia, đưa chúng ra đường mua quà, kẹo bánh.

Lần nào về phép tôi cũng ôm con mà cứ nghĩ rằng, đây là lần cuối mình được gần các con. Ra trận, đạn như vãi trấu, bạn bè, đồng đội tôi ngã xuống ngay bên cạnh. Trước sau gì cũng đến lượt mình. Còn vợ tôi, tôi cảm tưởng như giữa hai đứa có một bức tường vô hình ngăn cách, và cô ta, sinh con xong, bồng nó, đưa qua bức tường vô hình đó, trao cho tôi.

Chúng là con tôi. Vì ám ảnh đó mà mọi sự săn sóc, lo lắng của cô dành cho tôi, tôi tưởng như của một cô bạn gái cùng lớp giúp bạn trong một buổi đi chơi chung ngoài trời, vậy thôi.

Mỗi khi tôi về phép, thấy tôi bước vào nhà là cô vội lo nước nôi, khăn tắm, áo quần để sẵn đó rồi chạy ra chợ mua thức ăn, chạy về, chui vào bếp, nấu nướng, dọn lên.

Ăn xong, lại dọn rửa, rồi giặt giũ áo quần cho tôi, phơi phóng, sắp xếp, chuẩn bị mọi thứ trong xách để sáng sớm là tôi chỉ việc đeo lên vai, về đơn vị.

Cô xoay tròn như chong chóng. Tôi thì tắm con, đút cơm cho chúng, rồi chơi đùa, kể chuyện cho chúng nghe, ru chúng ngủ, không màng đến vợ, không nhìn đến mẹ.

Người ngoài nhìn vô, đó là một gia đình bình thường. Mẹ tôi thì vui lắm, cứ khen con dâu ngoan hiền. Bà cụ không biết dĩ vãng của cô, cũng không thấy những đợt sóng ngầm đang kiên trì, thì thầm gọi cô thoát ly.
<!–[if !supportLineBreakNewLine]–>
<!–[endif]–>

Bây giờ, ở tù kiểu nầy thì chỉ có chết hoặc mục xương trong tù vì chẳng ai biết ngày về. Cái chết đối với thằng lính chiến như tôi thì sá gì, nhưng tôi thương các con quá, chỉ mong được về để lo cho chúng và săn sóc vợ tôi để đền đáp bao khổ nhọc mà cô ta đã phải chịu đựng.
Từ khi nghe anh Hùng kể chuyện gia đình, tôi cũng đâm ra hồi hộp mỗi khi nghe tên anh ta được gọi ra thăm nuôi. Tôi tưởng tượng mẹ anh Hùng hoặc bà cụ nhờ một người nào đó gặp anh và báo tin rằng vợ anh đã bỏ đi lấy chồng rồi.

Nhưng lần nào cũng là chị ta. Lần đầu được giới thiệu là vợ anh Hùng, tôi thấy chị ta, tuy đen và ốm, xác xơ vì sinh kế nhưng còn phảng phất những nét thanh tú và quí phái. Chị ta, thời trẻ, ắt đã làm bao trái tim bọn con trai xao xuyến.
Mỗi lần ra thăm nuôi, anh Hùng, tôi và vài người tù ngồi một bên chiếc bàn dài, đối diện (bên kia bàn) là thân nhân của tù. Đầu bàn có một công an ngồi theo dõi, lắng nghe tù và thân nhân chuyện trò.

Tù chỉ có 15 phút gặp người thân nên ai cũng cố nói thật nhiều, hỏi thật nhiều những điều cần thiết.

Tôi cũng gấp rút chuyện trò với vợ nhưng cũng để ý xem vợ chồng anh Hùng có gì khác thường không? Hình như anh Hùng không nhìn vợ mà hơi cúi xuống vẻ đắn đo, suy nghĩ.

Trái lại chị vợ ngồi nhìn chồng đăm đăm như thôi miên anh ta.
Thông thường, trong lúc gặp gỡ, người vợ để bàn tay bên cạnh cai giỏ quà thăm nuôi, phía khuất tia nhìn của công an, người chồng biết ý sẽ để bàn tay mình lên bàn tay vợ, bóp nhẹ.

Bao nhiêu năm xa cách, chỉ cần chạm nhẹ hai bàn tay với nhau cũng đủ cho vợ chồng ngây ngất, rung động cả thể xác và tâm hồn.

Giây phút đó quí giá hơn bao nhiêu lần ôm ấp nhau mà vợ chồng đã trải qua. Vợ anh Hùng cũng để tay bên giỏ thăm nuôi. Anh Hùng chỉ đụng rất nhẹ vào tay vợ, như vô tình rồi rút tay về. Chị ta vẫn để yên bàn tay và chờ đợi. Anh Hùng lại đụng nhẹ tay vợ lần nữa, rồi lại rút về. Cả hai yên lặng. Rồi hình như anh nói nho nhỏ gì đó với vợ.
Thời gian thăm gặp qua rất nhanh. Lúc chia tay, anh Hùng xách gói quà thăm nuôi đi thẳng mà không ngoái nhìn người thân như các tù nhân khác.
Chúng tôi ở tù trên 10 năm nhưng chỉ ở chung lán trại hơn 3 năm, sau đó bị phân tán đi các trại tù khác. Dù vậy, tình bạn giữa chúng tôi đã như ruột thịt.

Bảy năm sau, chúng tôi mới gặp lại nhau ở trại tù Z 30, Xuân Lộc. Sau đó, chúng tôi cùng ra tù một lần, vào năm 1986.
Chúng tôi, hai thằng tù trung niên mà trông đã hom hem. Tóc đã có sợi bạc, chân tay như những khúc xương khô. Vợ tôi và vợ anh Hùng, sau mười năm vất vả, cũng đã là hai chị nạ dòng đen thui, đầu tóc, áo quần tả tơi vì suốt ngày lê lết đầu đường xó chợ. Hai người mua đi bán lại từng đôi giày cũ, áo quần cũ, răng vàng bạc vụn, đồng hồ hư, radio hư…Nghĩa là ai bán gì cũng mua, ai mua gì cũng có.
Thời bấy giờ, tù về xã hội chỉ làm được các nghề chân tay như đạp xích lô, bán vé số, vá xe đạp…Tôi và anh Hùng, mỗi người một chiếc bàn con, mỗi cạnh hai gang tay, đặt bên lề đường, ngồi bán vé số, kiếm tiền phụ với vợ mua gạo. Lúc đó vợ tôi và vợ anh Hùng mới lấy lại chút bình tĩnh, không còn lo thất sắc mỗi ngày vì lũ con đói.
Đầu thập niên 1990, có chương trình tù cải tạo được đi Mỹ. Gia đình tôi và gia đình anh Hùng đến cùng tiểu bang Virginia nhưng khác thành phố, cách nhau hơn hai giờ lái xe.

Bước chân đến xứ người với hai bàn tay trắng, chúng tôi phải làm gấp đôi người khác, vì lao động chân tay, lương hướng chẳng bao nhiêu. Sáng sớm đã ra khỏi nhà, khuya mới về. Chúng tôi chỉ gọi điện thoại trò chuyện, hỏi han nhau mà thôi.

Tôi không còn để ý đến chuyện xưa của vợ chồng anh Hùng, cũng không bao giờ kể cho vợ tôi nghe. Đàn bà bép xép, một chuyện kỳ lạ như thế thì không bà nào để yên trong bụng được.
Hơn bảy năm ở xứ Mỹ, vài đứa con của gia đình tôi và gia đình anh Hùng đã tốt nghiệp đại học, có việc làm, phụ với cha mẹ lo cho các em nên chúng tôi đã bớt giờ làm việc, có dịp thăm viếng nhau.

Bao nhiêu năm mới gặp lại, thấy anh Hùng khỏe mạnh, hồng hào hơn trước, chị vợ cũng mập tròn, mặt mũi tươi rói, gặp lại vợ tôi như gặp cố nhân, hai người tíu tít hỏi han, chuyện trò vui vẻ. Nơi xứ người bơ vơ nên chúng tôi coi nhau như anh em một nhà.
Đột nhiên, một buổi tối, khoảng mười giờ, điện thoại reo, vợ tôi bắt máy rồi la lên.
– Sao? Chị nói sao? Anh Hùng bị gì mà đưa vô bịnh viện cấp cứu? Chị nói chuyện với ông xã em. Em run quá!
Vợ tôi đưa điện thoại cho tôi.
– A lô! Anh Hùng bị gì vậy chị?
Bên kia đầu giây, giọng vợ anh Hùng hốt hoảng.
– Không hiểu sao. Ăn tối xong ảnh ngồi xem TV. Thình lình, ảnh kêu “Đau đầu quá!” rồi gục xuống bất tỉnh. Em gọi xe cứu thương đến đưa vô bịnh viện. Hiện em đang ở phòng cấp cứu. Ảnh chưa tỉnh. Em rối trí quá! Không biết mình phải làm gì đây?
– Chị báo cho sắp nhỏ biết chưa?
– Dạ rồi. Nhưng đứa gần nhất cũng phải 5 giờ lái xe, đứa ở xa, sáng mai mới đi máy bay về.
– Ảnh không sao đâu. Chị bình tỉnh. Đưa vô bịnh viện là yên tâm.Tụi tôi sẽ đến ngay bây giờ. Lên xe, chúng tôi sẽ nói chuyện sau. Nhớ là phải bình tỉnh. Hai giờ nữa chúng tôi sẽ đến bịnh viện.
Ban đêm, xa lộ 95 không đến nỗi kẹt xe. Từ Richmond hướng về thành phố Falls Church , phía bắc tiểu bang, gần hai giờ, chúng tôi đã có mặt tại bịnh viện. Bịnh viện về đêm thật yên tĩnh. Theo sự hướng dẫn của nhân viên trực, chúng tôi đi rất nhẹ dọc hành lang để tìm phòng hồi sức.
<!–[if !supportLineBreakNewLine]–>
<!–[endif]–>

Anh Hùng nằm trên giường với đủ thứ dây nhợ, ống trợ thở nối với dàn máy sát tường. Một cái máy điện tâm đồ với lằn sóng xanh chạy đều đều, yếu ớt. Chị Hùng quì bên cạnh, nắm tay chồng, thì thầm.
– Anh cố gắng nghe em nói. Em chỉ nói một câu thôi. Em không nói được cho anh nghe thì em đau khổ suốt đời, ân hận suốt đời. Anh có thương em không? Thương em thì nghe em nói. Nghe anh! Tội nghiệp em mà anh…
Chúng tôi đứng bên cạnh mà chị vẫn không hay biết. Vợ tôi cúi xuống vỗ nhẹ vai chị, chị quay lại, đứng lên, ôm vợ tôi, nước mắt trào ra.
– Ảnh không nghe em nói! Ảnh không biết gì nữa. Sao em ngu quá? Không nói khi ảnh còn khỏe mạnh. Mà thình lình, ảnh bị như vầy…
Chị nói lảm nhảm như người mất trí. Vợ tôi không hiểu gì cả nhưng vẫn vỗ về, nhỏ nhẹ.
– Ảnh không sao đâu. Em biết, nhiều người bị như vậy, sẽ tỉnh lại. Chị đừng lo. Bác sĩ nói sao?
– Bác sĩ nói ảnh bị xuất huyết não, đang chuẩn bị, sẽ mổ ngay. Em sợ, người ta mổ rồi ảnh đi luôn. Em mà không nói được cho ảnh nghe, chắc em chết theo để linh hồn em được gặp ảnh, nói mấy lời…
Vợ tôi lại nhìn tôi, không hiểu chuyện gì quan trọng, khẩn cấp đến độ phải nói ra cho người sắp chết nghe. Đáng ra, chính người bịnh mới cần trăn trối trước khi từ giả cõi đời. Vợ tôi, biết rằng chuyện gia đình người ta, không nên tò mò, chỉ trấn an.
– Sáng mai, mổ xong là ảnh tỉnh dậy, sẽ nghe chị nói. Chị yên tâm. Bình tỉnh mà chuẩn bị tinh thần, cầu xin Trời Phật phù hộ ảnh tai qua nạn khỏi.
Nhưng chị ta như không nghe, cứ lảm nhảm.
– Bao yêu thương, săn sóc ảnh giành cho em, em hiểu, em đón nhận, nhưng sao em ngu quá, không nói cho ảnh biết em cũng yêu thương ảnh…
Vợ tôi ngớ ra, tưởng chị điên thật rồi. Vợ chồng yêu thương nhau, đâu cần phải nói ra mới hiểu?

Chỉ mình tôi biết điều đó. Tôi nói với chị ta.
– Xin chị bình tỉnh. Tôi sẽ cố giúp chị xem sao. Tôi với anh Hùng thân thiết còn hơn ruột thịt. Hi vọng, tôi nói ảnh sẽ nghe.
Nhìn điện tâm đồ, thấy những gợn sóng rất yếu ớt, tôi biết, có mổ cũng rất ít hi vọng, nhưng tôi tin, sự sống trong anh ta vẫn còn. Tôi ra dấu cho chị Hùng đến bên cạnh rồi cúi sát tai anh, nói chậm rãi.
– Tôi là Nguyễn văn Chánh, bạn anh đây. Chúng ta ở tù chung, khi còn ở bên Việt Nam , anh còn nhớ không? Anh cố gắng nghe tôi nói, một điều rất quan trọng…

Nếu anh nghe được, anh chấp nhận, xin anh chuyển động mi mắt hoặc con ngươi của mắt anh. Vợ anh đang đứng bên anh đây. Vợ anh nói rằng, chị chỉ yêu thương một người duy nhất trong đời là anh mà thôi. Anh có nghe không, có chấp nhận không?
Mọi người im lặng, chăm chú nhìn đôi mắt đang nhắm nghiền của anh Hùng. Đột nhiên, đôi mi của anh Hùng chuyển động như muốn mở ra rồi nhắm lại.

Tuy rất nhẹ nhưng mọi người đều thấy rõ. Chị Hùng ôm chồng khóc òa lên. Tin rằng anh Hùng có nghe tiếng khóc của vợ nên một lúc sau tôi mới ra dấu cho chị yên lặng, rồi nói vào tai anh Hùng.
– Bây giờ, vợ anh, chị Hùng sẽ nói cho anh nghe. Chị yêu thương anh từ lúc nào. Anh cố gắng nghe vợ anh nói.
Tôi bước lùi cho chị Hùng quì xuống, cúi sát tai chồng và nói, từng tiếng một.
– Anh Hùng. Anh là chồng em. Em yêu thương chỉ một mình anh. Em yêu thương anh từ ngày đầu, từ đêm đầu, từ giây phút đầu em trở thành vợ anh… Em lạy anh. Đừng giận em nghe anh! Xin anh thương em. Em là vợ anh. Tội nghiệp em. Nghe anh!
Nói đến đó thì nghẹn lời, chị đứng lên lùi lại, hai tay để lên ngực, nhưng mắt vẫn không rời đôi mắt chồng. Mọi người nín thở chờ đợi. Rồi đôi con ngươi dưới hai mi mắt nhắm nghiền của anh Hùng chuyển động nhẹ, hướng về phía chị Hùng và dừng lại.

Tôi nói với chị.
– Anh Hùng đã hiểu chị, đã chấp nhận lời yêu thương của chị.
Bỗng chị Hùng lảo đảo, níu tay vợ tôi rồi ngã quị xuống, bất tỉnh.

Vợ tôi đỡ lấy chị, ngồi bệt xuống sàn, ôm chị vào lòng. Tôi bảo vợ.
-Không sao đâu. Bị xúc động mạnh. Để anh đi gọi y tá…
Thật ra, là chị ấy đã trăn trối với chồng.

Phạm Thành Châu

Anh Nguyễn v Thập gởi

Thư Gởi Bạn Hiền I

Thư Gởi Bạn Hiền I

Giuse Phạm Văn Tuyến

Bạn thân mến,

Nếu như tôi được khuyên bạn một điều, thì tôi xin được khuyên bạn là hãy học hỏi Kinh Thánh. Tại sao? Nếu bạn có hỏi thì thú thực, tôi không có lý lẽ gì cao siêu để giải thích cho bạn, mà tôi cũng chẳng biết làm sao để thuyết phục bạn cho được, nhưng tôi xin được chia xẻ với bạn lý do đã thúc đẩy tôi học hỏi Kinh Thánh.

Một cuối tuần, có lẽ cũng đã hơn hai mươi năm về trước, tôi thấy mình buồn chán vì rảnh rỗi không có gì làm. Tôi vốn là một người rất năng động, ngồi yên là không được, và cuối tuần này cũng vậy. Ði tới đi lui tìm việc, tôi đã quyết định là phải dọn lại cái tủ sách cho gọn ghẽ.  Sau hơn hai tiếng đồng hồ sắp xếp, đứng nhìn tủ sách sạch sẽ gọn gàng, tôi cảm thấy rất hài lòng. Ðưa mắt nhìn từng ngăn tủ, từng cuốn sách, lòng tôi thấy vui. Những ý nghĩ miên man bắt đầu tới; từ ý nghĩ này sang ý nghĩ khác, óc tưởng tượng của tôi bắt đầu phiêu du. Rồi cứ thế, tối thả hồn đưa mình về những ngày đầu tiên trên đất Mỹ. Tôi nhớ lại những khó khăn vì ngôn ngữ bất đồng, những vụng dại trong cách cư xử do sự khác biệt trong các phong tục tập quán. Cái gì cũng xa lạ hết, vậy mà bây giờ tôi đã tốt nghiệp đại học. Có công ăn việc làm, có nhà, có xe, có mọi thứ cho những nhu cầu cần thiết. Tôi cảm thấy tự mãn, mà hình như còn hơn tự mãn nữa; tôi thấy như có một chút kiêu hãnh nhen nhúm trong lòng. Tôi tự khen mình, giỏi thật! Rồi như để chứng minh cái giỏi của mình, tôi bắt đầu đếm xem mình đã phải đọc, phải học bao nhiêu cuốn sách để có thể tốt nghiệp đại học. Từ những cuốn toán dầy cộm, đến những cuốn lý, hóa, khoa học vật liệu, tĩnh học, động học, thôi thì đủ các môn, các sách, nhưng tôi bỗng khựng lại, gần như giựt mình, khi tôi đếm đến cuốn Thánh Kinh. Phải rồi, tôi tự nghĩ, mình có đọc cuốn này bao giờ đâu mà đếm! Tôi mua cuốn Thánh Kinh này đã sáu bảy năm về trước; chẳng phải vì tôi muốn đọc, hay vì ngoan đạo, mà vì tôi muốn ủng hộ một cơ quan nào đó mà tôi quên mất, họ bán Sách Thánh để gây quỹ. Tôi đặt cuốn Thánh Kinh này ở ngay giữa tủ sách, ngăn cao nhất và có đèn chiếu sáng. Tôi thấy cuốn Thánh Kinh này gần như hằng ngày nhưng tôi chưa bao giờ đọc nó hết. Ðứng đó nhìn cuốn Thánh Kinh lòng tôi bỗng thấy nao nao. Niềm kiêu hãnh, lòng tự mãn, mọi ý nghĩ, mọi hình ảnh vừa tràn ngập óc tưởng tượng của tôi mấy phút trước tự dưng biến tan. Trong khoảnh khắc, hồn tôi bỗng như trống rỗng. Tôi tự hỏi sao mình chưa đọc cuồn sách này? Từ tiểu học, qua trung học, cho đến hết đại học, chỉ tính sách giáo khoa thôi, tôi đọc, không phải chỉ đọc mà còn phải học nữa, có tới ba trăm cuốn sách. Nếu tính các sách để tham khảo nữa thì có tới bốn trăm, cộng thêm sách vở báo chí để đọc cho vui, các tiểu thuyết vô bổ, tất cả có lẽ tôi đã đọc đến năm sáu trăm cuốn sách; thế mà Kinh Thánh thì tôi chưa đọc bao giờ! Tại sao vậy?  Ðứng đó như cây chết, hồn tôi trầm ngâm, tư lự. Tôi thấy như lòng mình dấy lên chút xao xuyến, hơi bồi hồi. Không phải cái xao xuyến của thuở vừa biết yêu; cũng chẳng là sự bồi hồi lúc trông ngóng người tình. Phải rồi…, không phải xao xuyến, cũng chẳng bồi hồi, mà là một tâm tư khó tả. Tôi còn đang miên man với tâm tư mông lung khó tả này, thì một ý nghĩ khác vọt  đến làm tôi cảm thấy luyến tiếc. Tôi tiếc cho đời người ngắn ngủi! Sống được trăm năm đã kể là lâu, mà thực ra có mấy người sống được trăm năm! Năm năm đầu là thời thơ ấu. Trong năm năm này, ngoài là nguồn vui cho những người xung quanh, nguồn vui mà chính mình cũng không biết, thì giá trị cuộc đời vào những năm này có gì đâu? Có ai làm gì được cho mình, cho đời?  Hai mươi lăm năm kế là thời gian để học, để chuẩn bị cho những năm sắp tới. Ba mươi năm sau là thời gian để vật lộn, để ganh đua, để tìm kiếm. Rồi từ đó, những gì chúng ta tìm được, đạt được bắt đầu phai mờ, bắt đầu dần dần mất giá trị; vậy mà để đạt được những thứ chóng qua này, tôi đã phải đọc, phải học đến mấy trăm cuốn sách. Còn cho cuộc sống mai hậu, cuộc sống vĩnh cửu, thì chỉ có một cuốn Thánh Kinh thôi mà tôi chưa đọc bao giờ. Tôi dại thật! Từ đó tôi bắt đầu đọc và học hỏi Thánh Kinh.

Bạn thân mến, Thánh Kinh khó hiểu thật! Bạn có nhớ là tôi vừa tự khen mình là giỏi không? Tôi đã đọc, học và hiểu cả mấy trăm cuốn sách, thế mà cuốn Thánh Kinh thì tôi chịu không hiểu nổi. Tôi tưởng là tôi không không hiểu vì tôi đọc Kinh Thánh viết bằng Tiếng Mỹ, nhưng khi đọc Kinh Thánh viết bằng Tiếng Việt, tôi cũng chịu chết. Những chữ, những từ dùng trong Kinh Thánh thì tôi hiểu, nhưng ý nghĩa của những việc Chúa làm, những lời Chúa dạy, của những diễn biến, những sự việc xảy ra trong Kinh Thánh thì tôi đã đọc đi đọc lại, đọc đến nản lòng mà có rất nhiều điều tôi vẫn chưa hiểu được. Tôi đã định bụng là phải đầu hàng, nhưng ngay khi tôi nản chí, thì trong tôi như lóe lên một tia sáng. Phải rồi, những sách giáo khoa mà tôi vừa kể ra ở trên, đâu phải tôi đã đọc là hiểu liền được đâu! Tôi cũng đã phải hỏi người này, nhờ người kia giải thích mới hiểu nổi đấy chứ. Thánh Kinh cũng vậy, nếu không hiểu thì bạn phải hỏi. Nhưng hỏi ai đây? Có rất nhiều người được ơn hiểu biết Thánh Kinh để cho chúng ta hỏi, nhưng người có thể giải thích, bất cứ cuốn sách nào, cách đúng nhất, chính là tác giả của cuốn sách đó. Thành ra, ngoài học hỏi Kinh Thánh từ những vị có thẩm quyền về Kinh Thánh, chúng ta còn phải hỏi ngay chính Chúa Giêsu. Tới đây chắc bạn phải phì cười. Hỏi Chúa Giêsu! Làm sao để hỏi Chúa Giêsu? Ðể tôi chia xẻ với bạn nhé. Tôi được một hồng ân, đó là từ khi bắt đầu học hỏi Kinh Thánh thì tôi nhận ra là ỏ gần nhà tôi, trong khoảng 15 dậm, luôn luôn có nhà chầu Thánh Thể thường xuyên (Perpetual Adoration), và tôi đã chọn một giờ chầu mỗi tuần. Ðây là giờ tôi dùng để tâm sự, để than thở, và nhất là để đem mọi thắc mắc của tôi đến để trình bày với Chúa Giêsu. Trong giờ này, có khi tôi chỉ đọc kinh, đọc sách, nhưng phần nhiều thì tôi chỉ ngắm nhìn Thánh Thể Chúa và suy nghĩ về những điều trong Thánh Kinh mà tôi không hiểu. Rồi bạn có biết không? Chính những lúc đó, những lúc mà tôi để hồn đắm chìn trong những đoạn Thánh Kinh khó hiểu, là lúc mà tôi hiểu được, tìm được câu trả lời cho những thắc mắc của mình. Bạn cứ thử xem. Chúa Giêsu đã không hiện ra bằng xương bằng thịt để nói chuyện với tôi, chắc Ngài cũng không hiện ra như vậy với bạn đâu, nhưng tôi dám chắc là ban sẽ được ơn thông hiểu Lời Chúa đúng với đấng bậc của mình. Tôi đã hiểu được gì? Tất nhiên là tôi vẫn chưa hiểu hết được những gì viết trong Kinh Thánh, nhưng những hiểu biết tôi được ban cho thì cũng nhiều lắm. Tôi muốn được chia xẻ với bạn tất cả, nhưng trong phạm vi ngắn gọn của bài này; tôi chỉ có thể chia xẻ với bạn một chút, một chút nhỏ nhoi thôi để bạn có thể thấy được kho tàng tình yêu vô tận tàng ẩn trong Kinh Thánh. Khi thấy được kho tàng tình yêu này, tôi bảo đảm, bạn sẽ ghiền đọc Kinh Thánh.

Bạn thân mến, theo sách Sáng Thế Ký Chương 1 và 2 thì trong sáu ngày đầu, Chúa tạo dựng tất cả trời đất, mặt trời, mặt trăng, các tinh tú, biển cả sông ngòi, chim muông, cầm thú, cùng mọi sự, và Người nghỉ ngơi vào ngày thứ bảy, có đúng không? Đặc biệt là ngày thứ sáu, trong ngày thứ sáu Chúa tạo dựng cái gì là đặc biệt, đố bạn đó.

Thưa bạn, trong ngày thứ sáu Chúa tạo dựng con người. Khi tạo dựng con người; Chúa cũng tạo dựng cách rất là đặc biệt. Rất đặc biệt ở chỗ là khi tác tạo muôn loài, bất cứ sự gì, Chúa cũng chỉ phán có một lời. Hãy có mặt trời, là có mặt trời. Hãy có chim muông cầm thú, là có chim muông cầm thú. Nhưng khi tạo dựng con người thì Chúa lại đã không phán một lời để có con người. Vậy Thiên Chúa tạo dựng con nguời như thế nào? Kinh Thánh nói cách rất đơn giản, đó là “The Lord God formed man out of the clay of the ground…” Câu này tuy đơn giản nhưng lại tiềm ẩn một công trình tạo dựng rất phức tạp, vĩ đại, và quy mô.  Ðể hiểu được chút nào những gì tiềm ẩn trong câu này, trước hết chúng ta hãy để ý đến chữ “The”. Chữ “The” là chỉ định từ xác định (definite article), chứ không phải là chỉ định từ bất định (indefinite article), tức là không phải Chúa đã dùng bất cứ cục đất nào mà phải là cục đất “được chỉ định này” mới được, và như thế là có sự định đoạt, có sự an bài. Nói theo cách làm việc của chúng ta là có kế hoạch.

Rồi để bổ túc cho sự định đoạt này là sự lựa chọn được diễn tả trong mệnh đề “out of the clay of the ground”. Sự lựa chọn này rất là quan trọnng, vì khi đã lựa chọn thì ai cũng chọn cho hợp ý mình, đúng không? Thiên Chúa cũng vậy, khi tác tạo chúng ta Người cũng đã lựa chọn một cục đất sét cho hợp với ý Người, chứ Người đã không dùng bất cứ cục đất sét nào, và Người làm như vậy để chúng ta thấy được sự quan tâm đặc biệt của Người dành cho chúng ta. Một điểm quan trọng nữa, đó là Chúa đã chọn đất sét. Tại sao vậy? Tại sao Chúa không chọn cát, bùn, hay sỏi đá? Bạn biết khi còn ướt, đất sét mềm, dẻo, dễ nắn nót nói lên sự yếu đuối, uyển chuyển, dễ uốn nắn của con người. Khi đã khô, nhất là sau khi được nung nấu, đất sét rất cứng và bền nói lên sự bền bỉ, sức chịu đựng có chút nào cứng đầu và ương ngạnh của chúng ta. Ðất sét còn có đặc tính nối kết (cohesiveness) gắn bó với nhau nói lên sự gắn bó giữa con người với nhau và với Chúa. Cho nên khi chưa tác tạo chúng ta, thì Chúa đã làm nên đất sét cho mục đích này; để từ đó Người đã chọn làm công việc như một người thợ gốm, công việc được Tiên Tri Isaia diễn tả trong chương 64:8 của ông như sau :  “Yet, O LORD, thou art our Father; we are the clay, and thou art our potter; we are all the work of thy hand.” Lý do nữa mà Chúa dùng đất sét là để nhắc nhở chúng ta hãy sống theo đường lối của Chúa; bằng không Chúa sẽ đối xử với chúng ta như Người tuyên phán qua Tiên Tri Jeremiah chương 18:2-4 như sau: (2) “Arise, and go down to the potter’s house, and there I will let you hear my words.” (3) So I went down to the potter’s house, and there he was working at his wheel. (4) And the vessel he was making of clay was spoiled in the potter’s hand, and he reworked it into another vessel, as it seemed good to the potter to do. Thành ra từ nguyên thủy, từ lúc tạo dựng chúng ta, Người đã chuẩn bị tất cả để sau này Người lại dùng các tiên tri mà nhắc nhở cho chúng ta thân phân của mình.
Chữ quan trọng nữa là động từ form. Form tức là nắn nót cho đúng với hay theo với một khuôn khổ nào, và theo Sách Sáng Thế Ký, chương 1 câu 26 thì Chúa formed, nắn nót chúng ta theo như hình ảnh Người. Sau cùng thì Chúa còn phải thở hơi của Người vào lỗ mũi của chúng ta, lúc đó chúng ta mới có sự sống. Con cá có sự sống không? Có chứ! Con chó có sự sống không? Có chứ! Nhưng Chúa có thở hơi của Người vào con cá hay con chó hay bất cứ một sinh vật nào khác không? Thưa không! Bạn thấy chưa, tôi đã nói sự tạo dựng con người của Thiên Chúa là một công trình phức tạp và quy mô chứ đâu có đơn giản. Nhưng tại sao vậy?  Bạn có bao giờ đắp tượng hay nhờ ai đắp tượng của chính bạn chưa? Chắc là chưa vì ít có người làm như vậy lắm. Nhưng giả sử như bạn muốn đắp tượng của chính bạn thì bạn có bỏ công bỏ sức, bỏ hết mọi nỗ lực vào công việc này để cho pho tượng đó giống bạn và hợp ý bạn không? Nhất định là có rồi, phải không? Khi đã đắp được pho tương giống như bạn, pho tượng mà bạn rất hài lòng thì bạn có yêu thích, có trân quý, có đặt vào một chỗ thích hợp nhất trong nhà của bạn không? Tôi dám chắc là không riêng gì bạn, mà ai cũng làm như thế, và ngay cả Thiên Chúa cũng vậy, vì khi tác tạo chúng ta nên như hình ảnh Người, thì đó là lúc Người tạc pho tượng của chính Người, cho nên Người mới yêu thương chúng ta hơn mọi loài thụ tạo khác. Và cũng chính vì quá yêu thương chúng ta nên thay vì chỉ phán một lời để chúng ta có sự sống, thì Người lại cúi xuống thở hơi vào chúng ta để chúng ta có sự sống. Người thở hơi vào chúng ta như thế nào? Bạn có biết làm hô hấp nhân tạo theo phương pháp mouth to mouth không? Theo tôi thì Chúa thở hơi vào chúng ta như vậy đó, và như vậy là Chúa hôn chúng ta thì đúng hơn. Tôi nói Chúa hôn chúng ta vì Chúa yêu chúng ta qúa độ, mà hôn là một cách để biểu lộ tình yêu nên tôi mới nói Chúa hôn chúng ta, chứ tôi không có ý nói là Thánh Kinh sai. Xin đừng hiểu lầm. Bạn thân mến, bây giờ thì bạn thấy được tình yêu nồng nàn, tình yêu tuyệt vời mà Thiên Chúa dành cho bạn rồi chứ? Bạn có vui không? Có cảm thấy sự có mặt của bạn trên đời này là một hồng ân cao cả không? Chưa hết đâu bạn ạ. Bạn có biết sau khi đã tác tạo và ban sự sống cho chúng ta thì Thiên Chúa làm gì không? Ðố bạn một lần nữa đó.

Thưa bạn, sau khi đã tác tạo và ban sự sống cho chúng ta thì Thiên Chúa nghỉ ngơi, và đó là ngày thứ bảy. Bạn trả lời có đúng không? Cám ơn bạn, nhưng câu đố kế tiếp này thì tôi chắc là bạn không có câu trả lời. Ðố bạn tại sao Chúa lai nghỉ vào ngày thứ bảy? Chúa mệt à? Không, nhất định là không! Bởi vì Thiên Chúa đâu có bị lệ thuộc vào môi trường, thời gian, không gian, hay bất cứ một đìêu kiện sinh hóa nào đâu mà mệt? Vậy thì tại sao Chúa nghỉ? Bạn có biết là tôi phải chầu Thánh Thể bao nhiêu lần mới có được câu trả lời không? Bây giờ tự nhiên tôi lại cho bạn câu trả lời được sao? Ðâu có dễ như vậy! Nhưng thôi, tôi sẵn sàng chia xẻ với bạn; chỉ xin bạn đọc một kinh Sáng Danh, đọc ngay bây giờ, để tán tụng, để ngợi khen, và để cảm tạ tình yêu cao vời của Thiên Chúa, rồi xin bạn đọc tiếp.

Bạn thân mến, trở lại chuyện đắp tượng ở trên. Khi bạn đắp tượng của bạn, nếu bạn thấy gì sai thì tất nhiên là bạn phải sửa; chỗ nào thiếu thì bạn thêm vào, chỗ nào thừa thì bạn bớt ra. Và giả như bạn không đồng ý với pho tượng chút nào hết, thì bạn có thể đập đi và làm lại, y như người thợ gốm ở trên vậy. Cứ như thế cho đến lúc bạn thấy thật hài lòng với pho tượng; đến lúc bạn thấy pho tượng của bạn không còn gì cần phải sửa chữa nữa, thì bạn ngưng, bạn nghỉ, không tiếp tục nữa vì công việc đã hoàn thành, có đúng không? Thiên Chúa cũng vậy, công trình tạo dựng vũ trụ của Người bắt đầu từ ngày thứ nhất, chưa ưng ý, Người tiếp tục sang ngày thứ hai…, thứ ba…, thứ tư…, thứ năm…, và sau cùng đến ngày thứ sáu, sau khi tạo dựng con người thì Người cảm thấy quá hài lòng với công việc của mình, Người đã thấy là công trình của Người đến đây là hoàn tất, nên Người ngưng, Người nghỉ.  Bạn thấy chưa, Thiên Chúa yêu thương chúng ta đến độ sau khi tạo dựng chúng ta rồi, thì Người không còn mưốn tạo dựng thêm một loài thụ tạo nào nữa. Người đặt chúng ta vào vị trí độc nhất vô nhị trong trái tim của Người. Bạn còn chờ gì nữa mà không đáp trả lại tình yêu cao vời này. Hãy học hỏi Kinh Thánh, bạn sẽ còn thấy nhiều điều lạ lùng khác.

Bạn thân mến, tôi vừa chia xẻ với bạn lý do tại sao tôi học hỏi Kinh Thánh. Tôi cũng đã trình bày với bạn những khó khăn và phương pháp tôi dùng để tìm câu giải đáp cho những gì tôi không hiểu khi học hỏi Kinh Thánh. Sau cùng tôi cũng đã chia xẻ với bạn một chút hiểu biết về Thiên Chúa mà tôi được ban cho. Trong sự chia xẻ này, tôi hy vọng bạn đã nhận ra là những gì viết trong Kinh Thánh thường là rất đơn giản nhưng lại khó hiểu. Nhưng bạn có biết không ? Sự đơn giản của Kinh Thánh chính là cái cửa của một lâu đài nguy nga cổ kính, nếu bạn không mở thì không bao giờ bạn có thể khám phá được những kho tàng chứa đụng bên trong. Sự khó hiểu của Kinh Thánh chính là lời mời: Hãy tìm kiếm Thiên Chúa. Nếu bạn không tìm thì làm sao bạn gặp được đây? Nguyện xin Thiên Chúa tuôn đổ mọi hồng ân xuống cho bạn để bạn có thể gặp gỡ Người, và nếu được xin bạn hãy phổ biến bức thư này. Khi phổ biến bức thư này xin bạn đừng sửa chữa gì. Tôi sẵn sàng đón nhận mọi sửa sai, mọi ý kiến xây dựng, và nếu bạn muốn góp ý, xin bạn ghé thăm trang blog:  http://tongdobacai.blogspot.com/ hay

http://cauchuyenhangngay.blogspot.com/

Thân ái mến chào trong tình yêu Thiên Chúa và Mẹ Maria,

Giuse Phạm Văn Tuyến

Viết xong tại Charlotte, NC

Ngày 2 tháng 2, năm 2012

Ðể thân tặng người vợ mà tôi yêu quý

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

 

Diễm Xưa – Nhóm Sóng

Diễm Xưa – Nhóm Sóng

httpv://www.youtube.com/watch?v=EUSaB2SGM1s&feature=youtu.be

*Richard Fuller (hay Rick Phú),* 65 t : người Mỹ sống ở VN từ 10 năm nay, hát và dịch nhạc TCS. Trước đó, anh Phú làm tình nguyện viên trong hội International Voluntary Services (IVS) 4 năm từ 1969 đến 1973.

*Thủy Tiên,* 36 t: nhà có tất cả 8 anh chị em, mồ côi cha từ lúc 2 tuổi,  lên 7 biết giúp mẹ buôn bán nuôi gia đình, khuyết tật miệng (lúc 8 tuổi bị bệnh noma- cam tẩu mã- ăn dần miệng và môi, phải mổ 8 lần và bị mất giọng  nói). Tự tập nói lại để hát (tập trong lu nước) vì đam mê muốn hát nhạc TCS.

*Thế Vinh,* 42 t: mất cánh tay phải . Là cậu bé mồ côi chăn trâu, lúc 8 tuổi té từ lưng trâu bị gãy tay, phải cưa đi. Vì mê đàn nên bỏ ra hơn 3 năm để tự tìm ra cách chơi đàn guitar 1 tay và thổi harmonica.

*Hà Chương*, 29 t : cậu bé con nhà nông nghèo, khiếm thị từ lúc lên 2, đi làm tự nuôi ăn học . Mê âm nhạc. Bắt đầu sáng tác từ lúc 15 tuổi. Tốt nghiệp thủ khoa Viện Quốc gia Âm Nhạc VN. Đọat 8 huy chuơng vàng về ca và đàn bầu ở các kỳ thi quốc gia và tỉnh. Nay là nhạc sĩ sáng tác nhạc, ca sĩ và chơi đàn bầu, guitar, piano.

Những tấm gương và tài năng rất đáng khâm phục .

Nếu các anh chị & các bạn nghe thấy được thì xin bâm vào “Like” để ủng hộ và phổ biến YouTube này ra giùm.


Bốn nghệ sĩ này có diễn với nhau theo nhóm 2 người hay 3 người, nhưng chưa bao giờ cả 4 nguời như trong SÓNG.

Nguyễn Phi Phúc  gởi

Tổng thống Chavez qua đời

Tổng thống Chavez qua đời

Thứ ba, 5 tháng 3, 2013             nguồn:BBC

Hugo Chavez

Hugo Chavez gây nhiều tranh cãi

Tổng thống Venezuela Hugo Chavez đã qua đời ở tuổi 58, theo tuyên bố của phó tổng thống nước này.

Ông Chavez đã không xuất hiện trước công chúng từ khi quay về nước tháng trước sau đợt điều trị ung thư ở Cuba.

Phó tổng thống Nicolas Maduro loan báo tối thứ Ba, đồng thời nói đã trục xuất hai nhà ngoại giao Mỹ vì theo dõi quân đội Venezuela.

Ông Maduro nói ông Chavez qua đời sau khi “chống chọi với cơn bệnh nặng gần hai năm”.

Ông tuyên bố không nghi ngờ rằng bệnh ung thư của ông Chavez là do các kẻ thù của Venezuela tạo ra.

Theo hiến pháp, chủ tịch quốc hội Diosdado Cabello sẽ làm tổng thống tạm quyền cho đến khi có bầu cử.

Vị Tổng thống 58 tuổi, người đã cầm quyền trong 14 năm, tiết lộ ông bị ung thư hồi tháng 6/2011.

Ông đã trải qua bốn lần phẫu thuật, cùng nhiều đợt xạ trị và hóa trị liệu.

Ông Chavez tái cử thêm một nhiệm kỳ sáu năm vào tháng 10/2012, nhưng Tòa án Tối cao phán quyết rằng tuyên thệ của ông có thể được trì hoãn vì lý do bệnh tật.

Tranh cãi

Xuất thân từ lính nhảy dù, và lần đầu tiên ông Chavez nổi lên nhờ lãnh đạo cuộc đảo chính bất thành năm 1992.

Tháng Hai năm 1992, ông Chavez lãnh đạo cuộc đảo chính bất thành nhằm lật đổ chính quyền tổng thống Carlos Andres Perez, vốn đang gặp phản ứng giận dữ của dân chúng do chính sách thắt chặt chi tiêu.

HUGO CHAVEZ

  • Sinh ngày 28/7/1954 ở Sabaneta, bang Barinas, cha mẹ đều là giáo viên.
  • Tốt nghiệp học viện quân sự năm 1975
  • Có bốn người con
  • Rất thích chơi bóng rổ

Cuộc đảo chính thất bại được bắt nguồn từ khoảng một thập kỷ trước, khi ông Chavez và một nhóm sĩ quan thành lập phong trào bí mật đặt tên theo lãnh đạo độc lập của Nam Phi: Simon Bolivar.

Khởi nghĩa 1992 khiến 18 người thiệt mạng và 60 người bị thương buộc Hugo Chavez phải ra đầu thú.

Ông bị giam tới tiều tụy trong một trại quân tù, trong khi các cộng tác của ông ở bên ngoài chiến đấu giành chính quyền chín tháng sau đó.

Cuộc đảo chính lần hai này, vào tháng 11 năm 1992, cũng bị đập tan.

Ông Chavez ngồi tù hai năm thì được lệnh ân xá. Ngay lập tức ông thành lập đảng mới, gọi là Phong trào Cộng hòa lần Năm, và dần chuyển từ lính tráng thành dân chính trị.

Trong thời gian Hugo Chavez gom góp quyền lực cho cuộc bầu cử năm 1998, chính quyền Venezuela cũ đã tan đàn xẻ nghé.

Từ đó, ông Chavez thắng hàng loạt các cuộc tranh cử và trưng cầu dân ý, gồm cả việc thông qua thay đổi hiến pháp về nhiệm kỳ tổng thống.

Những người ủng hộ nói rằng, ông là đại diện cho dân nghèo; còn phe chỉ trích cho rằng ông ta ngày càng chuyên quyền.

Hugo Chavez: Những mốc chính

  • 02/1999: Nhận chức sau thắng cử năm 1998
  • 07/2000: Tái đắc cử dưới hiến pháp mới về nhiệm kỳ tổng thống 6 năm
  • 04/2002: Đảo chính bất thành. Chavez trở lại nắm quyền chỉ sau 2 ngày
  • 08/2004: Thắng trưng cầu dân ý về việc ông có được tại vị tới hết nhiệm kỳ
  • 12/2006: Thắng nhiệm kỳ 6 năm với 63% phiếu bầu
  • 12/2007: Thất bại trong trưng cầu dân ý cho hiến pháp mới về nhiệm kỳ tổng thống vô thời hạn
  • 02/2009: Thắng trưng cầu dân ý về tăng thời hạn nhiệm kỳ cho các công chức đắc cử
  • 09/2010: Đảng ông Chavez thắng đa số trong bầu cử Quốc viện, nhưng đảng đối lập cũng nắm tới 40% số ghế
  • 06/2011: Tiết lộ thông tin ông phải điều trị ung thư
  • 02/2012: Trải qua cuộc phẫu thuật thứ hai ở Cuba
  • 10/2012: Tái đắc cử nhiệm kỳ tổng thống 6 năm

Ông Chavez hứa thực hiện “cách mạng” chính sách xã hội, và thường xuyên chỉ trích những “tên đầu sỏ chính trị” làm mất đi hình ảnh về giới cầm quyền, trở thành “tay sai của bọn tư bản quốc tế”.

Chưa từng bỏ lỡ bất kỳ cơ hội nào để được xuất hiện trước công chúng, ông có lần gọi các chủ tập đoàn khai thác dầu là ‘những kẻ sống trong biệt thự xa hoa, nơi họ ngủ tập thể với nhau, và uống whisky”.

Ông Chavez cũng thường xuyên va chạm với giới lãnh đạo nhà thờ, nhóm bị ông buộc tội là lờ đi những người nghèo, đánh bạn với đảng đối lập, và bảo vệ quyền lợi của người giàu.

“Họ không đi theo… con đường của Chúa,” ông Chavez từng nói trong một bài phát biểu.

Mối quan hệ với Hoa Kỳ trở nên tồi tệ chưa từng có, khi ông buộc tội chính quyền Bush “dùng khủng bố để đối chọi khủng bố” trong cuộc chiến với Afghanistan sau vụ 11/9 năm 2001.

Ông Chavez nói Hoa Kỳ hậu thuẫn một cuộc đảo chính ngắn khiến ông phải rời văn phòng vài ngày vào năm 2002.

Ông sống sót qua thời kỳ này và trở nên mạnh mẽ hơn hai năm sau đó trong cuộc trưng cầu dân ý về giới lãnh đạo. Đến năm 2006, ông giành chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống Venezuela.

Chính quyền Chavez thực thi một số “nhiệm vụ” về chính sách xã hội, trong đó có giáo dục và dịch vụ y tế cho cộng đồng. Nhưng nghèo đói và thất nghiệp vẫn lan tràn mặc cho trữ lượng dầu mỏ lớn mà nước này sở hữu.

CHẶNG ĐƯỜNG

CHẶNG ĐƯỜNG
Description: stairway-to-heaven

Chặng đường anh đã đi
Nơi đó anh đã đến
Chặng đường tôi đang đi
Mong luôn đi cùng Ngài

Tất cả đều là những chặng đường mà mỗi người chúng ta phải trải qua, các Thánh nam nữ của Ngài đã đi và đã đến, và các Thánh vẫn tiếp tục dìu dắt chúng ta đi quãng đường còn lại với Ngài và trong Ngài.  Con đường duy nhất dẫn chúng ta đến nơi chúng ta mong mỏi đến là qua Chúa Giêsu.  Có ai đi quãng đường đời có nhiều ngóc nghách mà không bị lạc bao giờ?  Có ai mà đi qua đoạn đường có nhiều thú vui mà lại không muốn dừng chân?  Có lẽ phần đông chúng ta cũng đang đi con đường như người phụ nữ thành Samari, và mong muốn được đến nơi mà cô đã đến.
Câu chuyện của người phụ nữ thành Samari là câu chuyện đi tìm Đấng Sinh Thành của mỗi một người chúng ta, vì chỉ trong Đấng Sinh Thành chúng ta mới tìm được cội nguồn thật, và chỉ có nơi đó chúng ta mới thật sự tìm được chính mình.  Hành trình đi tìm của mỗi người khác nhau, và chỉ có trong sự tĩnh lặng riêng tư của tâm hồn, chúng ta mới biết được mình đã gặp được Đấng đó chưa, và nếu đã gặp rồi chúng ta đang có ở trong Ngài không.  Chặng đường này là chặng đường của mỗi người, dầu là của những cụ già tóc bạc, hay là của các em mới lớn lên, dầu là người đã lập gia đình, hay là đang sống độc thân, hay trong bậc tu trì, tất cả chúng ta cần phải đi chặng đường này với Ngài.  Nếu ai trong chúng ta sống gần gũi với Ngài và để cho Ngài dìu dắt thì Ngài sẽ dẫn chúng ta vào bậc sống mà Ngài chọn cho mỗi một người chúng ta, bậc sống nào cũng ở trong Ngài và bậc sống nào cũng thánh thiện và tốt đẹp.  Và trong mỗi bậc sống, chúng ta tiếp tục đồng hành với Ngài, không phải chỉ một vài ngày nhưng đi với Ngài mọi ngày trong suốt con đường còn lại của ta, vì khoảnh khắc nào chúng ta đi ra khỏi Ngài, chính lúc đó chúng ta đã lạc lối.

Người phụ nữ thành Samari cũng đã trải qua chặng đường tìm kiếm.  Mỗi đời chồng là mỗi lần tìm kiếm.  Cứ mỗi một đời chồng đi qua có lẽ sự tìm kiếm của cô khẩn trương và sâu xa hơn, và chắc cũng đã nhiều lần cô cảm thấy tuyệt vọng vì sau những lần tưởng mình đã tìm được nhưng sao tâm hồn vẫn thấy còn trống vắng.  Thế nhưng cô đã không bỏ cuộc và vẫn cứ đi tìm.  Có lẽ tâm hồn của cô thôi thúc cô tiếp tục đi tìm vì nó mong muốn được gặp Đấng Sinh Thành.  Những tìm kiếm mà người phụ nữ này đã trải qua không xa lạ gì với chúng ta.  Có người cũng giống như cô và đã đi tìm kiếm trong tình người.  Có người đi tìm trong tiền tài danh vọng.  Có kẻ đi tìm qua những chai rượu.  Có người mải mê trong những vật trang sức và đồ hiệu mắc tiền, và có kẻ đi tìm trong sự hiểu biết trí tuệ.  Đã biết bao nhiêu lần chúng ta đi tìm Đấng Sinh Thành không phải ở chính nơi Ngài nhưng ở những thụ tạo của Ngài.

Cũng vì muốn được thoả mãn những ao ước bên trong, người phụ nữ thành Samari chẳng ngại cái nắng gắt của buổi trưa ở miền sa mạc, và đã lên đường đi tìm một cái gì đó mà tâm hồn của cô luôn khát khao.  Có lẽ Gioan đã mượn hình ảnh “mười hai giờ trưa” để nói lên sự khát khao tột đỉnh của cô, và vì không thể chần chờ được nữa, cô đã ra đi.  Cô đi đến nơi mà tổ phụ Gia-cóp đã từng đến, uống nước mà tổ phụ của cô đã từng uống, và mong sao bên bờ giếng và trong giòng nước này cô tìm kiếm được một chút cội nguồn mà tâm hồn của cô hằng khắc khoải mong chờ.  Chính bên bờ giếng này, cô đã gặp được Đấng Sinh Thành của cô, của tổ phụ Gia-cóp, và của mọi loài tạo vật.  Ngài đã ở đó chờ cô.  Một cuộc đối thoại giữa Ngài và cô đã xảy ra, và Ngài là người khởi đầu câu chuyện .  Thoạt đầu, cô đã có những dị nghị và thắc mắc, nhưng Chúa Giêsu đã ôn tồn nhẫn nại giúp cô nhận ra Ngài là ai, và dạy cho cô con đường dẫn đến sự thật, “Nhưng giờ đã đến –và chính là lúc này đây – giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế.  Thiên Chúa là thần khí và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật” (Jn 4:23-24).

Con đường đi tìm Đấng Sinh Thành là vậy đó, cũng có lúc tâm hồn chúng ta cũng nóng bỏng lên vì sự trống vắng khi chưa tìm được cội nguồn, khi chúng ta còn lang thang bên những thụ tạo của Ngài.  Trong những lúc trống vắng nóng bỏng của tâm hồn, chúng ta hãy đến với Ngài trong tâm tình của một người đang đi tìm kiếm, và thưa với Ngài những khao khát trong tâm hồn của chúng ta.  Chúng ta hãy khiêm nhường đến với Ngài trong Bí Tích Thánh Thể vì đó là cội nguồn của chúng ta.  Ngài luôn ở đó chờ ta, và trong tình yêu thương của một người Cha, Ngài cũng sẽ khởi đầu câu chuyện và dẫn ta về với Ngài.  Như người phụ nữ thành Samari, chúng ta cũng sẽ có những lo âu dị nghị khi cuộc sống của chúng ta thay đổi.  Chúng ta cũng sẽ có những thắc mắc khi cái nhìn và đường lối của Ngài khác với cái nhìn của ta và những gì chúng ta thường làm, và có lẽ cũng như người phụ nữ kia, chúng ta cũng lắm lúc dám thách thức Ngài khi chúng ta chưa hiểu con đường Ngài dẫn chúng ta đi.  Khi đó Ngài cũng sẽ ôn tồn kiên nhẫn dạy cho chúng ta biết Ngài là Đấng Sinh Thành, và Ngài chắc cũng chẳng ngại về những thách thức của ta, vì qua những thắc mắc và thách thức Ngài dạy cho ta biết rõ ta là ai và Ngài là ai.  Khi gặp được Ngài chúng ta sẽ tìm được cội nguồn, và khi chúng ta luôn ở trong Ngài, tâm hồn chúng ta sẽ không còn nóng bỏng lên vì sự trống vắng nữa.  Khi “giờ đã đến,” Ngài cũng sẽ dạy cho chúng ta thờ phượng Ngài trong ánh sáng và sự thật, trong yêu thương đồng loại và sự khiêm nhường của loài thụ tạo.

Trong cuộc đối thoại giữa Ngài và người phụ nữ, Chúa Giêsu đã nhắc lại hành trình đi tìm kiếm của cô, những khắc khoải mà cô đã phải chịu trong bao năm và người phụ nữ đã nhận ra Ngài là Đấng Kitô.  Đây là giây phút huyền nhiệm khi tâm hồn của cô cảm nhận được sự cảm thông của một người Cha luôn dõi theo con cái của Ngài.  Không phải Ngài đã biết được những gì đã xảy ra trong đời của cô vì Ngài là một đấng tiên tri như cô đã hiểu lúc ban đầu, nhưng Ngài biết vì trong đời của cô luôn có sự hiện diện của Đấng Sinh Thành.  Cũng vậy, mỗi bước hành trình của ta đều có Ngài.  Ngài luôn bước đi bên ta trong âm thầm và chờ đợi sự trở về của ta với Ngài.  Đã bao nhiêu lần trong đời ta, Ngài đã đến và chạm vào bờ vai và ta đã nhún vai phủ nhận sự hiện diện của Ngài và rồi tiếp tục đi con đường ta đang đi mặc cho những thôi thúc khắc khoải trong tâm hồn?  Dầu chúng ta có đối xử lạnh nhạt với Ngài thế nào đi nữa, Ngài luôn ở bên ta vì “Ngài không thể nào chối bỏ chính mình” (2Tm 2:13).  Làm sao Ngài có thể bỏ ta được khi ta mang lấy hình ảnh của chính Ngài và sức sống của ta chính là sức sống của Ngài?
Mùa Chay là mùa Giáo Hội nhắc nhở mỗi một người chúng ta bất kỳ đang ở trong bậc sống nào biết nhìn lại chặng đường của mình đang đi và xem xét lại đã bao lần Ngài đã đến và chạm lấy bờ vai ta nhưng ta vẫn làm ngơ hoặc biết nhưng vẫn chối từ.  Có lẽ đây là dịp chúng ta ngồi lại với chính mình trong cõi riêng tư và xin Ngài cho chúng ta được một lần gặp gỡ Ngài như Ngài đã cho người phụ nữ thành Samari gặp gỡ Ngài bên bờ giếng, để rồi mỗi một người chúng ta cũng sẽ chứng kiến được giây phút huyền nhiệm khi tâm hồn ta gặp được Đấng Sinh Thành, và chúng ta sẽ trở nên những người thờ phượng Thiên Chúa Cha đích thực như tâm hồn chúng ta hằng mong muốn.

Củ Khoai 3/2013

Anh chị Thụ & Mai gởi

Bài học marketing từ người ăn xin

Bài học marketing từ người ăn xin

Đăng bởi lúc 6:39 Sáng 5/03/13

nguồn:chuacuuthe.com

VRNs (05.03.2013) – Internet – Tôi xách túi đồ nhãn hiệu Levi’s ra khỏi Plaza rồi đứng lại ở cửa chờ bạn. Một tay ăn mày chuyên nghiệp phát hiện ra tôi, sán tới đứng trước mặt. Câu chuyện của tôi chỉ có thế thôi. Thế nhưng, tay ăn mày đã dạy tôi một bài học kinh tế còn sâu sắc hơn một khóa học tại chức kinh tế ở trường. Tôi kể câu chuyện này chính bởi ý nguyện của tay ăn mày đó.

– Xin anh… cho tôi ít tiền đi!

Tôi đứng đó chả có việc gì nên tiện tay vứt cho hắn đồng tiền xu, rồi bắt chuyện cùng nhau. Ăn mày rất thích kể lể.

– Tôi chỉ ăn mày quanh khu mua sắm này thôi, anh biết không? Tôi chỉ liếc một phát là thấy anh ngay. Đi mua Levi’s ở Plaza chắc chắn nhiều tiền…

– Hả? Ông cũng hiểu đời phết nhỉ! – Tôi ngạc nhiên.

– Làm ăn mày, cũng phải ăn mày cho nó có khoa học. – Ông ta bắt đầu mở máy.

Tôi ngẫm nghĩ một lát, thấy thú vị bèn hỏi:

– Thế nào là ăn mày một cách khoa học?

Tôi nhìn kỹ ông ta, đầu tóc rối bù, quần áo rách nát, tay gầy giơ xương, nhưng lại sạch sẽ.

Ông ta giảng giải:

– Ai chẳng sợ và ghét ăn mày, nhưng tôi tin anh không ghét tôi, tôi đoan chắc điều đó. Đấy là điểm tôi khác biệt với những thằng ăn mày khác.

Tôi gật đầu đồng ý, đúng là tôi không ghét ông ta, nên tôi đang nói chuyện với ông ta đấy thôi.

– Tôi biết phân tích SWOT, những ưu thế, bất lợi, những cơ hội và nguy cơ. Đối mặt với những thằng ăn mày là đối thủ cạnh tranh của tôi, ưu thế (Strengths) của tôi là tôi không làm người ta phản cảm, lánh sợ. Cơ hội (Opportunities) và nguy cơ (Threats) thì chỉ là những yếu tố điều kiện bên ngoài thuộc về hoàn cảnh, có thể là dân số ở đây đông hay vắng, thành phố có quyết định chỉnh trang đô thị, dẹp hè phố chăng… Tôi đã từng tính toán rất cụ tỉ (cụ thể và tỉ mỉ) rằng, khu vực thương mại này người qua lại đông, mỗi ngày khoảng mười nghìn người, nghèo thì nhiều lắm, nhưng người giàu còn nhiều hơn. Trên phương diện lý luận, giả như mỗi ngày tôi xin được mỗi người một tờ một nghìn đồng, thì mỗi tháng thu nhập của tôi đã được ba trăm triệu đồng. Nhưng thực tế, đâu phải ai cũng cho ăn mày tiền, mà một ngày làm sao tôi đi xin được mười nghìn lượt người. Vì thế, tôi phải phân tích, ai là khách hàng mục tiêu của tôi, đâu là khách hàng tiềm năng của tôi.

Ông ta lấy giọng nói tiếp:

– Ở khu Plaza này, khách hàng mục tiêu của tôi chiếm khoảng 30% số lượng người mua sắm, tỉ lệ thành công khoảng 70%. Lượng khách hàng tiềm năng chiếm khoảng 20%, tỉ lệ thành công trên đối tượng này khoảng 50%. Còn lại 50% số người, tôi chọn cách là bỏ qua họ, bởi tôi không có đủ thời gian để tìm vận may của mình với họ, tức là xin tiền họ.

– Thế ông định nghĩa thế nào về khách hàng của ông? – Tôi căn vặn.

– Trước tiên, khách hàng mục tiêu nhé. Thì những nam thanh niên trẻ như anh đấy, có thu nhập, nên tiêu tiền không lưỡng lự. Ngoài ra, các đôi tình nhân cũng nằm trong đối tượng khách hàng mục tiêu của tôi, họ không thể mất mặt trước bạn khác phái, vì thế đành phải ra tay hào phóng. Rồi tôi chọn các cô gái xinh đẹp đi một mình là khách hàng tiềm năng, bởi họ rất sợ bị lẽo đẽo theo, chắc chắn họ chọn cách bỏ tiền ra cho rảnh nợ. Hai đối tượng này đều thuộc tầm tuổi 20-30. Nếu tuổi khách hàng nhỏ quá, họ không có thu nhập, mà tuổi già hơn, thì họ có thể đã có gia đình, tiền bạc bị vợ cầm hết rồi. Những ông chồng đó biết đâu có khi đang âm thầm tiếc hận rằng không thể ngửa tay ra xin tiền của tôi ấy chứ!

– Thế thì mỗi ngày ông xin được bao nhiêu tiền?

– Thứ hai đến thứ sáu, sẽ kém một chút, khoảng hai trăm nghìn. Cuối tuần thậm chí có thể 400-500 nghìn.

– Hả? Nhiều vậy sao?

Thấy tôi nghi ngờ, ông ta tính cho tôi thấy:

– Tôi cũng khác gì anh, tôi cũng làm việc tám giờ vàng ngọc. Buổi sáng từ 11h đến tối 7h, cuối tuần vẫn đi làm như thường. Mỗi lần ăn mày một người tôi mất khoảng 5 giây, trừ đi thời gian tôi đi lại, di chuyển giữa các mục tiêu, thường một phút tôi xin được một lần được một nghìn, 8 tiếng tôi xin được 480 nghìn, rồi tính với tỉ lệ thành công 60% [(70%+50%)÷2] thì tôi được khoảng 300 nghìn. Chiến lược ăn mày của tôi là dứt khoát không đeo bám khách chạy dọc phố. Nếu xin mà họ không cho, tôi dứt khoát không bám theo họ. Bởi nếu họ cho tiền thì đã cho ngay rồi, nếu họ cho vì bị đeo bám lâu, thì tỉ lệ thành công cũng nhỏ. Tôi không thể mang thời gian ăn mày có giới hạn của tôi để đi lãng phí trên những người khách này, trong khi tôi có thể xoay ngay sang mục tiêu bên cạnh…

Trời, tay ăn mày này có đầu óc quá đi, phân tích như thể giám đốc kinh doanh hoặc giám đốc tiếp thị vậy.

– Ông nói tiếp đi! – Tôi hào hứng.

– Có người bảo ăn mày có số may hay xui, tôi không nghĩ thế. Lấy ví dụ cho anh nhé, nếu có một thanh niên đẹp trai và một phụ nữ xinh đẹp đứng trước cửa shop đồ lót mỹ phẩm, thì anh sẽ chọn ai để ăn mày?

Tôi ngẫm nghĩ rồi bảo, tôi không biết.

– Anh nên đi đến xin tiền anh thanh niên kia. Vì đứng bên anh ta là một phụ nữ đẹp, anh ta chẳng lẽ lại không cho ăn mày tiền. Nhưng nếu anh đi xin cô gái đẹp, cô ta sẽ giả vờ là ghê sợ anh rồi lánh xa anh. Thôi cho anh một ví dụ nữa: Hôm nọ đứng ở cửa siêu thị BigC, có một cô gái trẻ tay cầm túi đồ vừa mua từ siêu thị, một đôi nam nữ yêu nhau đang đứng ăn kem, và một anh chàng đóng bộ công chức chỉnh tề, tay xách túi đựng máy tính xách tay. Tôi chỉ nhìn họ ba giây, sẽ không ngần ngừ bước thẳng tới mặt cô gái trẻ xin tiền, cô gái cho tôi hẳn hai ngàn, nhưng ngạc nhiên hỏi tôi tại sao chỉ xin tiền có mỗi cô ta. Tôi trả lời rằng, cái đôi tình nhân kia đang ăn, họ không tiện rút ví ra cho tiền; anh kia trông có vẻ lắm tiền, trông như sếp, nhưng vì thế trên người họ thường không có sẵn tiền lẻ. Còn cô vừa mua sắm ở siêu thị ra, cô tất còn ít tiền thừa, tiền lẻ.

Chí lý, tôi càng nghe tay ăn mày nói càng tỉnh cả người ra.

– Cho nên tôi bảo rồi, tri thức quyết định tất cả!

Tôi nghe sếp tôi nói bao lần câu này, nhưng đây là lần đầu tôi nghe một thằng ăn mày nói câu này.

– Ăn mày cũng phải mang tri thức ra mà ăn mày. Chứ ngày ngày nằm ệch ra ở xó chợ, cầu thang lên đường vượt giao lộ, xin ai cho được tiền? Những người đi qua giao lộ, chạy qua cổng chợ đều vội vàng hoặc cồng kềnh, ai ra đấy mà chơi bao giờ, ra đấy xin chỉ mệt người. Phải trang bị tri thức cho chính mình, học kiến thức mới làm người ta thông minh lên, những người thông minh sẽ không bao giờ ngừng học hỏi kiến thức mới. Thế kỷ 21 rồi, bây giờ người ta cần gì, có phải là cần nhân tài không?

Có lần, có một người cho tôi hẳn 50 nghìn, nhờ tôi đứng dưới cửa sổ gào: “Hồng ơi, anh yêu em”, gào 100 lần. Tôi tính ra gọi một tiếng mất 5 giây, thời gian cũng tương tự như tôi đi ăn mày một lần, nhưng lợi nhuận đạt được chỉ 500 đồng, còn kém đi ăn mày, thế là tôi từ chối.

Ở đây, nói chung một tay ăn mày một tháng có thể đi xin được một nghìn hoặc tám trăm lần. Người nào may mắn thì cùng lắm đi xin được khoảng hai nghìn lần. Dân số ở đây khoảng ba triệu, ăn mày độ chục anh, tức là tôi cứ khoảng mười nghìn người dân mới ăn mày một người. Như thế thu nhập của tôi ổn định, về cơ bản là cho dù kinh tế thế giới đi lên hay đi xuống, tình hình xin tiền của tôi vẫn ổn định, không biến động nhiều….

Trời, tôi phục tay ăn mày này quá!

– Tôi thường nói, tôi là một thằng ăn mày vui vẻ. Những thằng ăn mày khác thường vui vì xin được nhiều tiền. Tôi thường bảo chúng nó là, chúng mày nhầm rồi. Vì vui vẻ thì mới xin được nhiều tiền chứ.

Quá chuẩn!

– Ăn mày là nghề nghiệp của tôi, phải hiểu được niềm vui do công việc của mình mang lại. Lúc trời mưa, ít người ra phố, những thằng ăn mày khác đều ủ rũ oán trách hoặc ngủ. Đừng nên như thế, hãy tranh thủ mà cảm nhận vẻ đẹp của thành phố! Tối về, tôi dắt vợ và con đi chơi ngắm trời đêm, nhà ba người nói cười vui vẻ, có lúc đi đường gặp đồng nghiệp, tôi có khi cũng vứt cho họ một đồng xu, để thấy họ vui vẻ đi, nhìn họ như nhìn thấy chính mình.

– Ối ông cũng có vợ con?

– Vợ tôi ở nhà làm bà nội trợ, con tôi đi học. Tôi vay tiền ngân hàng mua một căn nhà nhỏ ở ngoại thành, trả nợ dần trong mười năm, vẫn còn sáu năm nữa mới trả hết. Tôi phải nỗ lực kiếm tiền, con tôi còn phải học lên đại học, tôi sẽ cho nó học Quản trị kinh doanh, Marketing, để con tôi có thể trở thành một thằng ăn mày xuất sắc hơn bố nó.

Tôi buột miệng:

– Ông ơi, ông có thu nhận tôi làm đệ tử không?…..

Sưu Tầm

từ internet