Về Lại Núi Rừng

Về Lại Núi Rừng


Người miền núi muốn ôm khung trời.
Trời tự do giữ trong vòng tay.

Tưởng Năng Tiến


Tiếng Trống Cao Nguyên – Y Vân


Hôm 8 tháng 8 năm 2013, báo Dân trí đi tin:

Chiều ngày 7/8, người dân và công an huyện Tây Trà đã tổ chức tìm kiếm đưa hai cha con người dân tộc Cor hơn 40 năm sống trong rừng, trở về địa phương…

Sống biệt lập trong rừng, ông Thanh và con trai tự chế tạo dụng cụ như rìu, dao từ mảnh sắt vụn của bom đạn, sử dụng vỏ cây khô làm khố mặc che thân, ăn uống bằng củ mì, bắp, lá cây và tự dựng túp lều trên thân cây cao khoảng 6m để phòng thú rừng.

Hiện hai cha con ông Thanh đã được đưa về xã Trà Phong (nơi ở cũ). Lực lượng chức năng tổ chức canh giữ, đặc biệt với người con Hồ Văn Lang thường xuyên có biểu hiện chạy trốn về lại rừng.”

hovanlang

Người con Hồ Văn Lang
luôn muốn bỏ trốn về lại rừng.

Ảnh và chú thích của Hồng Long

Về sự kiện này, có không ít lời bàn (ra) nghe không vui vẻ mấy:

– Blogger Khải Đơn:

Chuyện bắt đầu lãng nhách, bỗng nhiên một ngày nọ, có 1 đoàn người bu vô rừng tóm cổ hai cha con ông già 80 tuổi tên Hồ Văn Thanh và đứa con hơn 40 tuổi tên Hồ Văn Loan ra, và tuyên bố rằng mình ‘giải cứu’ được họ – người rừng.

Blogger Nguyễn Quang Vinh:

Tôi không coi việc lôi tuột cha con ông Lang từ trong rừng sâu ra mà gọi là ‘giải cứu’, là nhân đạo,‘trách nhiệm’, không, bởi vì bản chất của sự giải cứu không nằm ở trường hợp này, người ta ăn ở ổn định 40 năm, đùng đùng vào vây, bắt, trói, cùm, lôi cổ về rồi đồng thanh to mồm ‘giải cứu’ là nghĩa làm sao…

Chưa có một tờ báo nào có một bài tử tế với bạn đọc nhìn về khoa học nhân văn về thân phận của hai con người này, chỉ toàn là những chi tiết hiếu kỳ, và có vẻ như họ -NGƯỜI RỪNG, cuối cùng chỉ là phương tiện không hơn không kém cho báo chí ngấu nghiến tin bài ảnh và cho địa phương và gia đình hưởng lợi mà thôi, nói ác hơn chút, như hai con thú lạ trong công viên mà thôi. Tính nhân văn đã bị hoen ố, đã bị chà đạp, đã bị lợi dụng, đã bị biến chất, đã bị kinh doanh theo rất nhiều hình thức…

Rồi cũng sẽ qua hết. Vài tháng nữa, sẽ không còn ai về coi, không còn nhà báo nào đưa tin, lắng xuống, phẳng lỳ, và lúc đó, thậm chí ‘người rừng’ có khi ngửa nón đi ăn mày cũng chẳng ai hay, vì người “giải cứu” đã hoàn thành nhiệm vụ, kẻ bôi chuyện cũng đã xong, còn lại những đêm trắng bất an của cha con họ, còn lại cuộc sống lớ ngớ, vụng dại, bất cẩn, bế tắc của cha con họ…

Tôi muốn thay họ – cha con ông Lang – để hét lên: Câm hết đi, giải tán hết đi, quên chúng tôi đi như đã quên 40 năm, để chúng tôi yên ổn, để chúng tôi trở lại rừng, để chúng tôi tự do...”

Trời, tưởng gì chớ ở trong vòng tay nhà nước CHXHCNV mà đòi sống “tự do” thì đâu có được – cha nội? Còn viễn tượng về một cuộc sống “lớ ngớ, vụng dại, bất cẩn, bế tắc của cha con họ” coi như là… cầm chắc. Không tin, xem lại (Wikipedia) “cuộc hành trình về với cộng đồng” của người Rục là biết liền hà:

Tộc người Rục được một tiểu đội công an Quảng Bình phát hiện vào ngày 12 tháng 8 năm 1959 trong hang sâu tại vùng hang động Phong Nha – Kẻ Bàng thuộc xã Thượng Hóa huyện Minh Hóa (Quảng Bình) gồm 11 hộ với 34 người. Người Rục có tập quán rất lạc hậu, quen ở hang sâu, săn bắt, hái lượm, nhưng họ cũng có một cuộc sống tinh thần phong phú với những nhạc cụ núi rừng như đàn trơ bon, đàn môi, sáo dọc và làn điệu cà lưm cà lềnh. Do tập quán lạc hậu, sống trong hang đá, săn bắt, hái lượm tận rừng sâu, người Rục có nguy cơ suy giảm dân số hết sức nghiêm trọng.Trong hơn 40 năm, người Rục đã làm một cuộc hành trình về với cộng đồng.”

Họ về tới đâu rồi?

Cứ theo như báo Quân đội nhân dân (số ra ngày 2 tháng 1 năm 2011) thì “người Rục đã vào hợp tác xã,” và “mô hình này đang được bà con người Rục hồ hởi đón nhận!”

Thiệt là quá đã, và quá đáng.

So với bước (“chân dép lốp đi vào vũ trụ”) của người miền xuôi thì đồng bào Rục –  rõ ràng – tiến nhanh, và tiếng mạnh hơn gấp triệu lần. Họ phóng (cái rẹt) từ thời kỳ săn bắt & hái lượm, nhẩy băng băng qua qua giai đoạn bán định canh và định canh, bỏ qua luôn giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản, để bước (cái rột) lên chủ nghĩa xã hội chỉ trong một thời gian kỷ lục: năm mươi năm chẵn.

Tuy nhiên, mười tháng sau – sau khi người Rục “đã vào hợp tác xã” –  vào hôm 24 tháng 10 năm 2011, blogger Cu Làng Cát (chợt) nhận ra có điều… rất lạ:

Người Rục rời hang đá 50 năm đã có chi bộ Đảng, hội phụ nữ, hội thanh niên, đoàn viên, hội phụ nữ, hội nông dân… tức là đủ thứ hội. Mình thấy thế thì quả là thiên tài cho ai sắp xếp được ở đây các hội này.

Nhưng hội đầy đủ thế mà bà con vẫn 6 tháng không có gạo ăn là nỗi đau vô cùng. Nhà nước trợ cấp 6 tháng gạo, mỗi khẩu 15kg một tháng cho người Rục, 6 tháng còn lại chỉ biết sắn và củ quả rừng… Và Việt Nam là cường quốc xuất khẩu lúa gạo mà người Rục đói gạo là rất lạ.

Lạ hơn nữa là mới hơn hai tháng trước, theo báo Công an nhân dân (số ra ngày 20 tháng 7 năm 2011) ngay trong vụ thu hoạch lúa đầu tiên, mỗi gia đình người Rục  đã nhận được “cả tấn thóc” cơ mà:

“Mặt trời vừa ló rạng bằng con sào, cả bản Mò o Ồ Ồ như bừng tỉnh bởi tiếng cười, tiếng nói mùa vui giữa cánh đồng rộng 10 ha lúa vàng rực giữa thung lũng Trường Sơn. Đã nhiều lần lên với đồng bào Rục, nhưng con đường, ngõ xóm, những mái nhà thân thương của bà con hôm nay thấy thật lạ. Niềm vui của bà con đã lan toả đối với chúng tôi…

Dưới ánh nắng gắt gao của ngày hè, hàng trăm cán bộ, chiến sĩ biên phòng và bà con dân bản vẫn thoăn thoắt công việc của nhà nông. Sau ba tháng cày sâu, cuốc bẫm; sau nhiều năm chờ đợi giờ được gặt thành quả lao động do mình tạo ra nên bà con dân bản ai cũng phấn chấn. Niềm vui vỡ oà trong ánh mắt…

Lần đầu tiên nhiều hộ gia đình nơi đây được nhận gần cả tấn… Cái đói bị đẩy lùi xa tít tắp.”

Cái đói (có lẽ) chỉ “bị đẩy lùi xa tít tắp” trên… mấy mặt báo Công an thôi. Còn trên trang mạng của blogger Cu Làng Cát, độc giả lại nhìn thấy qua những “ánh mắt” (vô cùng) buồn bã:

rừng 2

Ảnh chụp hôm 24 tháng 10 năm 2011

rừng 3

Ảnh chụp hôm 24 tháng 10 năm 2011

Nếu hai cha con người dân tộc Cor mà nhìn thấy những hình ảnh của đồng bào Rục (bây giờ) thì e rằng họ sẽ lo âu (lắm) về cuộc sống của chính mình – mai hậu.

Đường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh !

Mà họ nào có cần nghĩ ngợi xa xôi hay lâu lắc gì đâu.Vừa mới được “giải cứu” xong hôm trước, qua hôm sau hai cha con người dân tộc Cor đã (lật đật) xin được… về lại núi rừng ngay – cho nó chắc ăn – theo như tường thuật của  ký giả Minh Tú, báo Đất Việt:

Cha anh Lang, ông Thanh luôn thốt lên giọng điệu thương nhớ núi rừng:“tra xú mờ gót”(muốn trở về rừng, thăm rẫy). Ở làng có người hỏi anh Lang:“xun manh lé” (thích ở đâu), Lang đáp không chần chừ:“manh gốc” (thích ở rừng).

Báo Dân trí, số thượng dẫn, cũng ghi nhận tương tự: “Lực lượng chức năng tổ chức canh giữ, đặc biệt với người con Hồ Văn Lang thường xuyên có biểu hiện chạy trốn về lại rừng.”

Cái “biểu hiện” này cũng “thường xuyên” tìm thấy trong cộng đồng người Rục. Ông Cao Pang, hiện vẫn đang cư trú trong một hang đá, mới nói với phóng viên của báo Gia Lai: (vào hôm 8 tháng 6 năm 2013) như sau: “Ở rừng thích hơn, tiện hơn, yên tĩnh hơn! Về bản ở vài bữa lại nhớ rừng không chịu được! Cái nhớ ấy khó nói lắm!”

Thằng chả ở hang mà sao cư xử và ăn nói tế nhị hết sức. Chớ không lẽ lại nói trắng phớ ra rằng cái cách tổ chức xã hội hiện nay, ở đất nước này – với chi bộ đảng, hội phụ nữ, hội thanh niên, đoàn viên, hội phụ nữ, hội nông dân… tức là đủ thứ hội – khiến cho mấy cái cột đèn còn (nhấp nhổm) muốn đi thì có người nào mà muốn ở lại, bất kể là người rừng hay người Rục.

K’ Tien

Hội đồng Giám mục Cuba kêu gọi cải cách chính trị

Hội đồng Giám mục Cuba kêu gọi cải cách chính trị

Đức Hồng Y Jaime Ortega, lãnh đạo Giáo hội Công giáo Cuba. Ảnh chụp ngày 20/05/2010 tại La Habana

Đức Hồng Y Jaime Ortega, lãnh đạo Giáo hội Công giáo Cuba. Ảnh chụp ngày 20/05/2010 tại La Habana

REUTERS/Enrique De La Osa

Tú Anh

RFI

Lần đầu tiên trong nhiều thập niên, Giáo hội Công giáo Cuba trực tiếp kêu gọi chính quyền La Habana đẩy mạnh cải cách kinh tế và dân chủ hóa chế độ. Thư yêu cầu « hòa giải dân tộc » đã được Hội Đồng Giám Mục công bố vào chủ nhật 15/09/2013.

Hội đồng Giám mục Cuba đã công bố bức thư « Hy vọng không làm thất vọng » trên trang mạng của Giáo Hội Công Giáo Cuba.

Qua bức thư này, Hội đồng Giám mục kêu gọi chính phủ Cuba về đối ngoại hãy cải thiện quan hệ với Hoa Kỳ, về đối nội cần phải đối thoại để hòa giải dân tộc, để cho người dân quyền tự lập, tự do thực hiện ước mơ của mình kể cả việc di cư sang một quốc gia khác.

Từ khi lên thay Fidel Castro vào năm 2006, Raoul Castro đã ban hành nhiều biện pháp « đổi mới » kinh tế tại Cuba.

Do vậy, Hội đồng Giám mục Cuba nhận định : Lãnh vực chính trị cũng cần thích ứng với thực tế như trong lãnh vực kinh tế… Luật pháp và chính trị cũng phải được đổi mới. Chức sắc lãnh đạo Giáo hội Công giáo Cuba kêu gọi chính quyền xem xét lại chính sách đối với Hoa Kỳ mà từ nhiều thập niên nay đã gây tác hại cho nhân dân Cuba.

Theo AFP, bức thư này đánh dấu lời kêu gọi đầu tiên của Hội đồng Giám mục Cuba, trực tiếp yêu cầu chính quyền cải cách kể từ 20 năm qua, tiếp theo sau bức thư thứ nhất công bố năm 1993, trong bối cảnh kinh tế quốc gia bị khủng hoảng nghiêm trọng sau khi Liên Xô, nguồn tài trợ của Cuba, sụp đổ.

Chủ tịch Raoul Castro xem Giáo hội Công giáo Cuba là tổ chức duy nhất mà chính quyền chấp nhận đối thoại.

Từ Tiên Lãng đến Thái Bình

Từ Tiên Lãng đến Thái Bình

Thanh Quang, phóng viên RFA
09-16 – 2013

RFA

000_APH2002010775969-305.jpg

Nông dân chuẩn bị đất cho vụ lúa mới trên một cánh đồng ở một tỉnh phía Bắc, ảnh minh họa.

AFP photo

Biến cố Mỹ Yên hiện giờ vẫn còn xôn xao công luận, khi – ngược dòng thời gian hơn một năm về trước – tiếng súng hoa cải cảnh báo chứ không cố sát của anh em Đòan Văn Vươn ở Tiên Lãng vẫn chưa nguôi trong lòng người dân oan nói riêng và dư luận nói chung, thì hôm thứ Tư ngày 11 tháng 9 vừa rồi, tiếng súng cố sát Thái Bình của dân oan Đặng Ngọc Viết thảm khốc hơn khi nhắm vào đầu 5 cán bộ tại Trung tâm Phát triển Quỹ đất TP Thái Bình khiến một người tử vong (tính cho tới thời điểm này), 3 người trọng thương, một người bị bắn trượt; và kẻ sát nhân – cũng là nạn nhân – sau đó tự sát. Như vậy là quê hương Thái Bình của Đặng Ngọc Viết – cũng là quê hương của những nông dân cần cù một sương hai nắng “bán mặt cho đất bán lưng cho trời” – nói theo lời blogger Võ Văn Tạo – “lại chẳng ‘thái bình’ !”.

Thủ phạm là Luật đất đai

Qua bài “Giá nào để cứu chuộc ?”, blogger Dân Nguyễn nhận thấy tiếng súng Tiên Lãng phát từ “súng bắn chim săn thú” chỉ để “đánh động dư luận” trong khi súng Thái Bình “kê vào đầu quan chức mà nhả đạn ” ngay tại chốn công đường khiến người dân cắt nghĩa sự kiện này “rất ngắn gọn và chính xác” rằng “tức nước vỡ bờ”, “Con giun xéo lắm cũng quằn” hay “ nơi nào có áp bức thì nơi đó có đấu tranh”…cho dù phía chính quyền “tránh nói, tránh nghe tới” những cụm từ như vậy, mà chỉ có cái nhìn duy nhất như “ tội phạm cực kỳ nguy hiểm, cực kỳ manh động…” mà thôi. Tác giả Dân Nguyễn phân tích:

Dù thế nào thì hành động giết người cũng không thể được biện minh. Nhưng khi nghe một vụ xả súng của kẻ tâm thần, người ta hết sức xót xa thương tiếc những nạn nhân. Khi nghe tin một vụ đánh bom của bọn khủng bố, người ta cũng dành tình cảm xót thương cho những nạn nhân, và căm phẫn kẻ gây tội ác…Còn vụ nổ súng ở Thái Bình thì sao ? Xét đến cùng, kẻ gây tội vừa là thủ phạm, lại vừa là nạn nhân. Hệt Chí Phèo, muốn làm người lương thiện mà đâu có được! Đáng giận, nhưng cũng đáng thương! Thủ phạm đích thực chính là cái Luật đất đai “Sở hữu toàn dân” kia. Bởi vì bản chất của cái luật này, ai cũng thấy là “Sở hữu toàn quan”. Chừng nào cái luật “Sở hữu toàn dân” trí trá kia chưa bị “bắt”, thì nó vẫn còn là thủ phạm cực kỳ nguy hiểm, gây hậu quả nghiêm trọng cho toàn xã hội và cho toàn dân…

Nhắc đến “sở hữu tòan dân”, nhà báo Kha Lương Ngãi, nguyên Phó Tổng biên tập báo Saigòn Giải phóng, cho đây là nguyên nhân của vấn đề:

“Chừng nào cái luật “Sở hữu toàn dân” trí trá kia chưa bị “bắt”, thì nó vẫn còn là thủ phạm cực kỳ nguy hiểm, gây hậu quả nghiêm trọng cho toàn xã hội và cho toàn dân…
– Tác giả Dân Nguyễn”

Luật lệ quy định đất đai là của toàn dân, chính là ở đó. Cái đó đã tạo điều kiện tước đoạt đất của dân cho nên dân người ta mới phản ứng như thế và phản ứng như thế là đúng. Muốn khắc phục phải thay đổi vấn đề “đất đai là của toàn dân” phải bỏ cái đó mới được.

Blogger Phạm Đình Trọng nhấn mạnh rằng:

Chỉ có trả lại quyền sở hữu đất đai thiêng liêng của người dân, cho người dân chứ không thể lấy cái quyền công hữu hóa đất đai là sở hữu toàn dân để cướp đất của người ta được. Chỉ tạo điều kiện cho bọn quan tham nó cướp đất của người dân và nó sẽ đẩy nhà nước này tới chỗ đối lập với toàn bộ dân tộc Việt Nam chứ không phải chỉ mấy người nông dân mà thôi đâu.

Bà Nguyễn Thị Thương, vợ dân oan Đoàn Văn Vươn đang bị tù tội oan khuất trong “biến cố Tiên Lãng” cũng lên tiếng:

Bất công, không công bằng với người dân, họ bị dồn đến bước đường cùng nên mới bộc phát đến như thế !

Theo blogger Osin Huy Đức thì “Cái gọi là ‘chênh lệch địa tô’ mà những người cộng sản đòi xóa bỏ đang trở lại và khiến họ trở nên mù lòa, đồng thời, đẩy người dân tới ‘bước đường cùng’. Quả bom Đoàn Văn Vươn đã không đủ để cảnh báo một hệ thống đã cạn kiệt khả năng thức tỉnh”.

Qua bài tựa đề “Những cái chết được báo trước”, blogger Thùy Linh cũng lưu ý rằng “Tiếng súng hoa cải của anh em Đoàn Văn Vươn hầu như không tưới tẩm một chút ân hận, một chút nghĩ lại, một chút thay đổi…của chính quyền. Kẻ xua quân đi cướp bóc dân thì ngồi ở vị trí điều tra và quan tòa. Và sau đó họ được tưởng thưởng bằng cái lon tướng với sự hả hê”. Theo nhà văn Thùy Linh thì  “Chưa khi nào mùi tử khí phả vào chúng ta với những đau đớn, nghẹn ngào lẫn phẫn uất, một cuộc sống được gọi là thời bình, được cho là ‘dân chủ gấp vạn lần’ tư bản; được coi là ‘đang bị các thế lực thù địch chống phá quyết liệt’; được rao giảng là một một nhà nước “vì dân, do dân, của dân”…Nhưng, nhà văn Thùy Linh báo động, “Nhiều năm rồi người ta không còn xa lạ với đoàn đoàn lũ lũ dân oan khiếu kiện đất đai trôi nổi, vật vờ khắp các thành phố nhỏ, to. Tiếng kêu của những kẻ bần cùng rơi vào một hố đen quyền lực, thăm thẳm những mưu mô, toan tính bằng một thái độ cương quyết, tàn bạo, lạnh lùng…Thậm chí những dân oan còn bị chính quyền xua đuổi, trấn áp, kể cả những ai muốn giúp đỡ họ. Phía trước là một tương lai không lối thoát. Phía sau là sự dồn đuổi, cướp bóc của bạo quyền. Họ đi về đâu ?”.

Blogger Lê Diễn Đức thì thấy “rõ ràng là có gì khuất tất” gây nên cảnh bất công ngoài sức chịu đựng của dân oan, dồn họ vào bước đường cùng thì mới “nảy sinh ra hành động trả thù khốc liệt như thế”. Qua bài “Tiếng gọi từ cái chết”, blogger Lê Diễn Đức cho biết:

Chúng ta đã từng chứng kiến sự bất công này khắp ba miền Trung Nam Bắc suốt hơn hai thập niên qua. Cảnh nông dân ăn nằm vật vã nơi vỉa hè, công viên để khiếu kiện đất đai trở thành bức tranh thường lệ. Bi kịch như nông dân Vụ Bản đeo khăn tang, nông dân Dương Nội bày biện âm binh để đòi đất và giữ đất. Biết bao bà mẹ Việt Nam cầm những tấm bằng “Tổ quốc ghi công” lê lết tìm đến các cơ quan công quyền với tờ đơn khiếu nại trong vô vọng và bất lực. Người ta đã phải khoả thân để chống đối như hai mẹ con bà Phạm Thị Lài ở Cần Thơ, phải tự thiêu như bà Đinh Thị Kim Liêng, phải nổ súng để bảo vệ thành quả mồ hôi nước mắt của mình như Đoàn Văn Vươn ở Tiên lãng, Hải Phòng…Tiếng súng Đòan Văn Vươn vì không chết nên anh phải chịu bản án 5 năm tù. Anh Viết không muốn thế. Anh chọn cái chết !

Những cái chết được báo trước

000_Hkg2312971-200.jpg

Một thanh niên đi ngang một dự án xây dựng tại Hà Nội hôm 24/4/2009, ảnh minh họa. AFP photo

Khi viết về “Những cái chết được báo trước”, nhà văn Thùy Linh cũng không quên nhắc tới “ thêm một trường hợp đau lòng” xảy ra ở Lâm Đồng, nơi dân oan Phạm Anh Nam tự tử vào tháng 10 năm 2011 mà mãi đến đầu năm 2013 này người ta mới biết cái chết oan khuất đó khi con gái ông, cô Phạm Thị Anh Kiều, mang di ảnh của cha ra vườn hoa Mai Xuân Thưởng kêu oan cho thân phụ, với lá thư tuyệt mệnh mà dân oan đau khổ ấy để lại cho vợ con ông – nguyên văn – rằng “Anh rất thương em và các con. Nhưng vì hạnh phúc cho nhiều gia đình, anh phải đòi công lý”. Đó là chưa kể, nói theo lời blogger J.B. Nguyễn Hữu Vinh, cụ dân oan Hà Thị Nhung “gửi lại linh hồn mình nơi vườn hoa Lý Tự Trọng để đưa cái xác vô hồn về lại quê hương sau bao năm kiếm ăn lần hồi bằng nhặt rác để đi kiện, sau bao năm chạy tán loạn khi thấy công an hoặc côn đồ khủng bố ngày đêm”.

Nhà văn Thùy Linh nêu lên câu hỏi rằng thế còn trường hợp Đặng Ngọc Viết – vẫn liên quan đến chuyện đất đai, giải tỏa, đền bù – thì sao ? Nhà văn nhận thấy Đặng Ngọc Viết  không còn bất cứ hy vọng, sự cảm thông, đối thọai, công lý ở “những người khoát áo chính quyền” khi mọi ngôn từ không còn tác dụng, muốn đối thọai không ai lắng nghe, mọi ngả sống bị bít lối…Nhưng, blogger Thùy Linh nhấn mạnh, “ngôn từ tắt tiếng không có nghĩa là sự im lặng…”. Và “Cái chết được báo trước” của Đặng Ngọc Viết, theo nhà văn Thùy Linh, thể hiện qua “Cái cách Viết chuẩn bị ảnh thờ cho mình, nói lời tạm biệt với cha già bệnh tật trước lúc ra đi, quì trước tượng Bồ Tát Quan Thế Âm sám hối hay cầu xin vãng sanh chỉ ít giây tự bắn vào ngực mình…như một bi tráng ca thời đại”.

Qua bài “Chết ngay và chết từ từ”, nhà văn Nguyễn Quang Vinh nhấn mạnh rằng có một vấn đề còn lớn hơn cả vụ án mạng này, đó là giới cầm quyền không chỉ điều tra về phía người gây án, vì đây là điều tất nhiên, mà họ cần phải “điều tra nguyên nhân gây án, điều tra những người bị hại”. “Trưởng thôn Khoai Lang” Nguyễn Quang Vinh nhận xét:

“Không đi tới tận cùng nguyên nhân, chỉ xét về một phía đối tượng gây án đã chết mà đình chỉ vụ án thì lại dung dưỡng cho những ẩn họa đối kháng gây bất ổn xã hội.
– Nguyễn Quang Vinh”

Theo thông tin ban đầu công an Thái Bình nói với báo chí, nguyên nhân gây án có liên quan đến việc giá cả, phương thức, hành xử đền bù giải phóng mặt bằng giữa gia đình Viết và một số gia đình khác với chính quyền. Mâu thuẫn tới mức nào để sinh án mạng như thế, mà lại án mạng ngay tại cơ quan nhà nước. Bỏ qua nguyên nhân này, chỉ căn cứ vào đối tượng đã chết để đình chỉ điều tra là vội vàng. Phải khởi tố vụ án mới có đủ thực quyền và sức mạnh để truy đến cùng nguyên nhân. Nếu có chuyện chính quyền ép dân, chính quyền không tuân thủ quy định pháp luật trong đền bù đất hoặc tiêu cực thì phải xử lý nghiêm những người đại diện chính quyền làm việc này. Không đi tới tận cùng nguyên nhân, chỉ xét về một phía đối tượng gây án đã chết mà đình chỉ vụ án thì lại dung dưỡng cho những ẩn họa đối kháng gây bất ổn xã hội.

Sau cùng, nhà văn Thùy Linh “Cầu cho những hương hồn mệt mỏi nơi trần thế như ông Nguyễn Anh Nam, Đặng Ngọc Viết được siêu sanh. Vì họ đã trả nợ bởi chính cái chết của mình…Bởi những kẻ đáng bị xử án trước những cái chết như thế này vẫn sống nhởn nhơ và ‘giương cao ngọn cờ bách chiến bách thắng’ – một ‘chiến thắng’ trước cái chết của người dân mà họ làm ‘đại diện’…”.

Nhà báo Lê Diễn Đức thì “xin thắp nén nhang cho con người bất hạnh Đặng Ngọc Viết”, blogger Dân Nguyễn “Xin cắm một nén nhang lên mộ Viết, một người vốn dĩ hiền lành trên quê lúa Thái Bình”. Còn cư dân mạng Trương Ba Không bày tỏ nỗi buồn rằng:

Mình đã khóc khi đọc 6 bài báo về một chủ đề. Khóc âm thầm cho những nỗi đau riêng của những kiếp người kém may mắn… nhưng khi chợt biết anh Đặng Ngọc Viết đã tự sát sau khi xả súng vào một nhóm quan chức địa phương Thái Bình, thì mình đã khóc oà thành tiếng cho nỗi đau của cả một xã hội loạn.

THIÊN ĐÀNG Ở ĐÂU ?

THIÊN ĐÀNG Ở ĐÂU ?

PHÙNG VĂN HÓA, 9.2013

Trích EPHATA 579

Trong Đức Tin truyền thống thì Thiên Đàng hay Hỏa Ngục vẫn được nhìn nhận như là một nơi chốn trong không gian: Thiên Đàng ở… tít trên trời, còn Hỏa Ngục thì ở sâu dưới lòng đất. Thế nhưng cách hiểu như thế, Thần Học ngày nay đã thẳng thừng bác bỏ: “Nếu bạn đã từng nghĩ như tôi hoặc vẫn còn đang nghĩ Thiên Đàng, Luyện Ngục và Hỏa Ngục là những nơi chốn thì sai rồi. Bạn cứ mở cuốn Toát yếu Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo do Đức Giáo Hoàng Benedicto XVI soạn thảo ra mà xem thì sẽ thấy quan niệm về nơi chốn của Thiên Đàng, Luyện Ngục và Hỏa Ngục như là nơi chốn là sai bét tè le” ( Nguồn Tinmung.net Lm Ansgar Phạm Tĩnh – Tháng các linh hồn – Tìm hiểu ).

Những ai cho rằng Thiên Đàng có một nơi chốn là… sai, vậy Thiên Đàng có thể là gì ? “Thiên Đàng là tình trạng hạnh phúc tối thượng và vĩnh viễn. Ai chết trong ân sủng của Thiên Chúa và ai không cần bất cứ sự thanh luyện cuối cùng nào sẽ được quy tụ quanh Chúa Giêsu và Đức Maria, các thiên thần và các Thánh được chiêm ngắm Thiên Chúa “mặt giáp mặt” ( 1Cr 13, 12 )… sống trong sự hiệp thông tình yêu với Chúa Ba Ngôi và chuyển cầu cho chúng ta” ( Toát yếu Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo # 209. Nguồn Tinmung.net, Lm. Ansgar Phạm Tĩnh, đã dẫn ).

“Nơi chốn” ( places ) khác với tình trạng ở chỗ, một đàng có vị trí cương vực rõ ràng, còn một đàng thì không. Khi nói Thiên Đàng không phải nơi chốn mà chỉ là một thứ tình trạng, điều ấy phải chăng là mâu thuẫn khi nói: Tất cả những ai chết trong ân sủng của Thiên Chúa và ai không cần bất cứ sự thanh luyện cuối cùng nào sẽ được quy tụ quanh Chúa Giêsu Đức Maria, các thiên thần và các Thánh… Vậy thử hỏi làm sao có thể… quy tụ nếu không có một nơi chốn nào đó để quy về, tụ về ?

Cái nơi chốn để tất cả những ai chết trong ân sủng của Thiên Chúa sẽ được quy tụ đó chính là Nước Thiên Đàng mà Đức Kitô đòi hỏi cần phải tin: “Lòng các ngươi chớ bối rối, đã tin Đức Chúa Trời thì cũng hãy tin Ta nữa. Trong Nhà Cha Ta có nhiều chỗ ở. Bằng chẳng vậy, Ta đã nói cho các ngươi rồi. Ta đi để sắm sẵn cho các ngươi một chỗ. Khi Ta đi mà sắm sẵn cho các ngươi một chỗ rồi, thì Ta sẽ trở lại tiếp các ngươi về với Ta, hầu cho Ta ở đâu thì các ngươi cũng sẽ ở đó” ( Ga 14, 1 – 3 ).

Chúa Kitô Phục Sinh đã về Trời ngự bên hữu Chúa Cha trong vinh quang. Chúng ta xác tín điều ấy đồng thời cũng tin nếu mình sống trong ân sủng thì rồi cũng sẽ được về ở nơi cõi hằng sống ấy. Tin vào sự hiện hữu của Nước Thiên Đàng đời đời cũng chính là tin vào lời hứa của Đức Kitô. Đây phải là Đức Tin chân chính ( chánh tín ) của người có Đạo, nếu không tất cả sẽ trở nên mờ mịt để rồi không khỏi đưa đến bế tắc khủng hoảng.

Dẫu vậy, để tin vào lời hứa của Chúa là điều rất khó. Chính Thánh Tôma khi nghe Chúa nói: “Nơi Ta đi các ngươi đã biết cũng biết đường rồi” ( Ga 14, 4 ) thì ngài chưa hiểu, bởi vậy nên mới hỏi tiếp: “Thưa Chúa chúng tôi chẳng biết Chúa đi đâu làm sao biết đường ? ( Ga 14, 5 ). Không biết Chúa đi đâu thì làm sao biết được chốn về của Chúa ? Nghe vậy Chúa Giêsu đã đưa ra lời khẳng định: “Ta là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” ( Ga 14, 6 ).

Chúa Giêsu tự nhận mình là Đường, điều ấy có nghĩa một khi đã là Đường thì phải dẫn đến một nơi chốn nào đó, chứ đâu cứ mãi mãi chỉ là con đường ? Sự thực thì với chủ trương Qui Kitô ( Christocentrisme ) tức lấy Kitô làm cứu cánh, Thần Học đã khiến con đường dẫn đến Chúa Cha trở nên hoàn toàn bế tắc. Sự bế tắc ấy chính là ở chỗ đã phủ nhận Tin Mừng Nước Trời Mầu Nhiệm của Đức Kitô thành ra một thứ Nước Trời tục hóa: “Vậy Nước Thiên Chúa mà Đức Kitô rao giảng không phải là một thực thể ở trên Trời nhưng là một tình trạng tương lai ở thế gian khi người nghèo không còn nghèo, người áp bức không còn bị áp bức. Nó được biểu thị bằng một ngôi nhà hay một đô thị có tường thành bao quanh” ( Lm. Micae Trần Đình Quảng – Đức Kitô trước khi có Kitô giáo – Một nỗ lực hiện đại trở về với Đức Giêsu lịch sử ).

Nói Nước Thiên Chúa mà Đức Kitô rao giảng không phải là thực thể… ở trên Trời, điều ấy là chính xác. Tuy nhiên với việc không cho Nước Thiên Chúa là thực thể ở trên Trời để rồi cho đó là tình trạng tương lai ở thế gian khi người nghèo không còn nghèo, người bị áp bức không còn bị áp bức, thì đó thuần túy chỉ là ảo tưởng. Ảo tưởng Thiên Đàng trần gian đã thể hiện qua nhiều chủ thuyết khác nhau. Saint Simon ( 1760 – 1825 ) đề ra nhiệm vụ của tôn giáo là hướng dẫn xã hội tiến tới mục đích trọng đại là cải thiện một cách càng nhanh càng tốt số phận của giai cấp nghèo khổ nhất” ( Karl Heinz Weger, SJ, Phê Bình Các Tôn Giáo ). F. Nietzsche ( 1844 – 1900 ) thì muốn xây dựng hình ảnh một con người siêu nhân. Trong số những ảo tưởng đó thì ảo tưởng về một thế giới đại đồng do Karl Marx khởi xướng thông qua đấu tranh giai cấp là tệ hại nhất, và thực tế nó đã sụp đổ tan tành như ai nấy đều biết.

Ảo tưởng nào mà chẳng sụp đổ, bởi bản chất của nó là vậy chẳng thể khác. Mục đích xuống thế của Đức Kitô là để rao giảng Tin Mừng Nước Trời: “Vào rạng ngày, Ngài ra đi đến nơi vắng vẻ. Có quần chúng kéo đi tìm Ngài, theo kịp và muốn giữ lại không cho Ngài đi khỏi họ. Ngài nói cùng họ rằng: Ta cần phải rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành thị khác. Vì cốt tại việc đó mà Ta được sai đến” ( Lc 4, 42 – 43 ).

Đức Kitô xác định mục đích xuống thế là để rao giảng Tin Mừng Nước Trời. Thế nhưng Nước Trời ấy là một thực tại mầu nhiệm không ai có thể lãnh hội nếu không bước vào con đường thực hành bỏ mình: “Ai muốn theo Ta thì hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình hàng ngày mà theo. Vì hễ ai muốn cứu mạng sống mình thì phải mất. còn hễ ai vì cớ Ta mà mất mạng sống mình thì sẽ nhận lại được. Vì lợi lãi cả và thế gian mà mất linh hồn thì nào được ích gì ?” ( Lc 9, 23 – 25 ).

Lời Chúa là Lời Hằng Sống và Lời Hằng Sống ấy chỉ có thể tác động nơi những kẻ nào thực hành nó. Thực hành phần nào sẽ có được lợi ích phần đó. Điều này cũng giống như việc ăn, có ăn mới no, còn không ăn thì chẳng thể no. Chỉ khi nào bước vào con đường bỏ mình thì chân lý mới được thể hiện và khi ấy sẽ chẳng quan ngại chi với việc Thiên Đàng ở đâu hoặc ở trong hay ở ngoài mình bởi lẽ tất cả đều được quyết định ở nơi tâm.

Đối với đại đa số người Công Giáo chúng ta thì Thiên Đàng luôn được đồng hóa với Nước Trời ( Nước Thiên Chúa, Nước Đức Chúa Trời… ). Niềm tin đơn sơ ấy quả thật đã nâng đỡ đời sống Đức Tin của bao thế hệ. Tuy nhiên xét về mặt Thần Học thì không thể chấp nhận. Lý do bởi vì nếu cho Thiên Đàng là nước ở trên Trời tức trong cõi không gian vật chất này thì Thiên Chúa cũng phải ở trong cõi không gian đó. “Đại chúng cho rằng có thể suy diễn vấn đề trên qua nguyên tắc: Thiên Đàng là nơi Thiên Chúa ngự. Vậy nếu biết Thiên Chúa ở đâu ta sẽ biết Thiên Đàng ở đó.

Người ta cũng đã tưởng rằng chỉ có ba câu trả lời cho vấn đề ấy. Thứ nhất thuở xưa người ta tin Thiên Chúa tạo ra vũ trụ nhưng Thiên Chúa là Đấng siêu việt vượt trên vật chất nên không đồng hóa với vũ trụ. Thiên Chúa ( phải ) ở ngoài vũ trụ. Đến thế kỷ 18, con người khám phá ra vũ trụ vô cùng lớn, lớn đến mức dù ta có di chuyển với tốc độ ánh sáng qua hàng ngàn năm cũng chưa tới biên giới của nó. Con người không chấp nhận nổi có chỗ nào gọi là bên trên hay bên ngoài vũ trụ. Vả lại nếu Thiên Chúa ở bên ngoài vũ trụ, vậy vũ trụ càng lớn Chúa lại càng ở rất xa con người. Làm sao con người có thể gần Thiên Chúa để cầu nguyện ? ( Nguồn: Lamhong.org, 16.7.2013, Đỗ Trân Duy – Thiên Đàng ở đâu ? ).

Thiên Chúa không thể ở trên, siêu việt khỏi vũ trụ, mà cũng không thể ở ngoài vũ trụ, bởi vũ trụ thì vô biên. Sở dĩ Thần Học có những lập luận đại loại như thế là vì trước sau với họ, Thiên Chúa vẫn chỉ là một thứ khái niệm chết khô. Đang khi đó Đức Kitô là Đấng đến để mạc khải về một thực tại ẩn giấu. Thực tại ẩn giấu ấy có khi được gọi là Đấng Cha, có khi là Nước Trời. Dù dưới bất kỳ danh xưng nào thì thực tại ấy vẫn là Thực Tại Tâm mà con người cần phải hết lòng tìm mới gặp: “Trước hết hãy lo tìm kiếm Nước Đức Chúa Trời và sự công chính của Ngài” ( Mt 6, 33 ).

Chúa bảo phải tìm kiếm, nhưng nếu Nước Trời là nước ở tít trên chốn cao xanh thăm thẳm kia thì biết đường nào mà tìm mà kiếm ? Tìm kiếm ở đây không phải là tìm cái chi đó ở đâu xa khác nhưng là tìm cái Đạo vốn sẵn có ở nơi mình: “Đạo ở gần ngươi, ở trong miệng ngươi và ở trong lòng ngươi, tức là Đạo Đức Tin mà chúng tôi rao giảng đây. Vậy nếu miệng ngươi thừa nhận Chúa Giêsu là Cứu Chúa và lòng ngươi tin Đức Chúa Trời đã khiến Ngài từ kẻ chết sống lại thì ngươi sẽ được cứu” ( Rm 10, 8 – 9 ).

Đạo Chúa là Đạo Đức Tin, thế nhưng Đức Tin ấy cần phải gắn liền với việc tìm kiếm, nếu không nó sẽ sớm lụi tàn để trở thành một thứ đạo hình thức. “Bề ngoài xem ra có vẻ đạo đức thánh thiện nhưng thực ra đã chối bỏ quyền năng của sự ấy” ( 2Tm 3, 5 ). Đức Tin có một quyền năng rất lớn bởi nó là một trong ba Nhân Đức ( Tin Cậy Mến ) quyết định phần phúc cho ta ở đời sau vô cùng. Tin có Nước Thiên Đàng. Cậy vào lượng nhân từ vô lượng vô biên của Chúa. Yêu mến Thiên Chúa và tha nhân như chính mình thì ắt sẽ gặp được Ngài: “Nếu ai thương yêu Ta thì vâng giữ Đạo Ta, Cha Ta sẽ thương yêu người. Chúng ta đều đến cùng người và lập cư với người” ( Ga 14, 23 ).

Chúa nói “chúng ta đều đến lập cư”, có nghĩa cả Ba Ngôi Thiên Chúa đều đến và ở trong ta. Chúa ở đâu thì đấy là Thiên Đàng, vậy hà cớ chi phải hỏi: Thiên Đàng ở đâu ?

PHÙNG VĂN HÓA, 9.2013

Viện Dưỡng Lão

Viện Dưỡng Lão

BS. Trần Công Bảo

Cổ nhân có câu: “sinh, bệnh, lão, tử“. Bốn giai đoạn này không ai có thể tránh khỏi. Chuẩn bị ứng phó với bệnh tật và tuổi già của mình và của thân nhân mình là điều ai cũng có dịp nghĩ tới, kể cả chính kẻ viết bài này là tôi cũng đang sắp sửa bước vào tuổi “thất thập cổ lai hi”. Anh bạn thân của tôi, Bs. TNT từ lâu có đề nghị tôi viết một bài về “Viện Dưỡng Lão” để giúp bà con mình có thêm một chút khái niệm về “Viện Dưỡng Lão” vì anh biết trong suốt 27 năm qua tôi đã liên tục săn sóc cho các cụ già tại các viện dưỡng lão, và cũng đã là “Giám Đốc Y Tế” (Medical Director) của nhiều “Viện Dưỡng Lão” trong vùng. Nay tôi muốn chia sẻ cùng qúy bạn một số kinh nghiệm và hiểu biết về “Viện Dưỡng Lão”. Trong Việt ngữ chúng ta thường dùng từ Viện Dưỡng Lão, nhưng trong Anh ngữ thì có nhiều từ khác nhau như Nursing home, Convalescent home, Rehabilitation and Nursing center, Skilled nursing facility (SNF), Rest home… Nói chung, “Viện Dưỡng Lão” là một nơi cho những người bị yếu kém về thể xác không thể tự săn sóc cho mình được trong cuộc sống hàng ngày. Thí dụ như không thể nấu nướng, giặt giũ, đi chợ… nặng hơn nữa như không đủ sức để làm những việc tối cần thiết cho cuộc sống như ăn uống, đi tiêu, đi tiểu… hoặc cần phải có thuốc men đúng lúc mà không thể tự làm được. Khi nói tới “Viện Dưỡng Lão” người ta thường chỉ nghĩ tới những người già mà thôi. Thật ra có nhiều người “trẻ” nhưng vì tật bệnh không thể tự lo cho mình được cần phải có sự giúp đỡ của SNF (skilled nursing facility). Vậy thế nào là “Viện Dưỡng Lão”? “Viện Dưỡng Lão” là nơi cung cấp những dịch vụ cần thiết cho cuộc sống hàng ngày cho những người không đủ khả năng lo cho chính mình. Tùy theo mức độ trầm trọng của bệnh tật mà có những

“Viện Dưỡng Lão” khác nhau:

1- Skilled Nursing Facility (SKF): là nơi cung cấp những dịch vụ cho những người bị khuyết tật nặng như tai biến mạch máu não gây nên bán thân bất toại, hôn mê lâu dài, hoàn toàn không còn khả năng ngay cả trong việc ăn, nuốt, tiêu, tiểu… Thường thường tại Skilled Nursing Facility có hai phần: phục hồi (rehabilitation) và săn sóc sức khỏe (nursing care). Có những người sau khi được giải phẫu thay xương khớp háng (hip replacement), thay đầu gối (knee replacement), hay mổ tim (bypass, thay valve tim)… cần thời gian tập dượt để phục hồi (rehabilitation). Sau đó họ có thể về nhà sinh hoạt bình thường cùng gia đình.

2- Intermediate care facility (ICF): cung cấp dịch vụ cho những người bệnh như tật nguyền, già cả nhưng không cần săn sóc cao (intensive care). Thường thường những người này không có thân nhân để lo cho mình nên phải vào đây ở cho đến ngày cuối cùng (custody care).

3- Assisted living facility (ALF): Thường thường những người vào Assisted living facility vẫn còn khả năng tự lo những nhu cầu căn bản như tắm rửa, thay quần áo, đi tiêu, đi tiểu một mình được. Họ chỉ cần giúp đỡ trong việc bếp núc, theo dõi thuốc men và chuyên chở đi thăm bác sĩ, nhà thờ, chùa chiền hay mua sắm lặt vặt. Họ vẫn còn phần nào “độc lập”.

4- “Viện Dưỡng Lão” cho những người quá lú lẫn (Alzheimer facility): có những bệnh nhân bị lú lẫn nặng, đến nỗi không nhận ra người thân như vợ, chồng, con cháu nữa. Không biết tự đi vào buồng tắm, phòng vệ sinh để làm những công việc tối thiểu. Họ không biết họ ở đâu, dễ đi lang thang và lạc đường. Nếu ở nhà thì phải có người lo cho 24/24. Những “Viện Dưỡng Lão” dành riêng cho những bệnh nhân này, thường là “locked facilty”, cửa ra vào được khóa lại để bệnh nhân không thể đi lạc ra ngoài. Cách đây khá lâu đã có trường hợp một bệnh nhân đi ra khỏi viện, lạc đường, bị xe lửa cán chết! Từ đó có locked facilty. Đôi khi cũng có những viện bệnh nhân được gắn alarm vào cổ chân. Nếu bệnh nhân đi qua cửa thì alarm sẽ báo động và nhân viên sẽ kịp thời mang về lại.

NHỮNG DỊCH VỤ ĐƯỢC CUNG CẤP TẠI “VIỆN DƯỠNG LÃO”:

Điều này tùy theo từng viện. Tuy nhiên những dịch vụ sau đây là cần thiết:

1- Phòng ngủ.

2- Ăn uống

3- Theo dõi thuốc men

4- Những điều tối thiểu hàng ngày như tắm rửa, thay quần áo, vệ sinh cá nhân…

5- 24/24 lo cho những trường hợp bệnh khẩn cấp.

6- Sinh hoạt hàng ngày như giải trí, tôn giáo…

7- Vật lý trị liệu. Dịch vụ này rất quan trọng để giúp người bệnh có thể phục hồi càng nhiều càng tốt. Trong vật lý trị liệu có nhiều dịch vụ khác nhau:

a. Tập dượt (physical therapy): như tập đi, tập lên xuống cầu thang, tập tự vào giường ngủ hay ra khỏi giường một cách an toàn, không vấp ngã…

b. Speech therapy: tập nói, tập nuốt khi ăn uống… Có những bệnh nhân bị stroke, không thể nói hay ăn được, cần được tập để phục hồi chức năng này.

c. Occupational therapy: Tập mang giầy, bí tất (vớ)… Tập sử dụng bếp gaz, bếp điện cho an toàn để tránh bị tai nạn.

AI TRẢ TIỀN CHO VDL?


Có nhiều nguồn tài trợ khác nhau:

1- Medicare

2- Medicaid (ở California là Medi-Cal).

3- Bảo hiểm tư, có nhiều người mua sẵn bảo hiểm cho “Viện Dưỡng Lão”.

4- Tiền để dành của người bệnh (personal funds). MEDICARE là do qũy liên bang, chỉ trả tối đa 100 ngày cho những bệnh nhân cần tập dượt để phục hồi khả năng tại một Skilled Nursing Facility (SNF). Thường những bệnh nhân bị stroke, gãy xương… cần dịch vụ này. Medicare KHÔNG TRẢ cho custody care. MEDICAID là do qũy liên bang và tiểu bang. Qũy này trả nhiều hay ít là tùy từng tiểu bang. Medicaid trả cho dịch vụ y tế và custody care.

BẢO HIỂM TƯ: thì tùy theo từng trường hợp sẽ có những quyền lợi khác nhau, nhưng thường rất hạn chế. Hiện nay người ta ước lượng trên nước Mỹ có khoảng 1.4 triệu người sống trong 15,800 “Viện Dưỡng Lão”. Các “Viện Dưỡng Lão” này đặt dưới sự kiểm soát của bộ y tế, đặc biệt là do Centers for Medicare & Medicaid Services (CMS) giám sát. Hàng năm các “Viện Dưỡng Lão” đều phải trải qua một cuộc kiểm soát rất gắt gao (survey) của CMS. “Viện Dưỡng Lão” nào không đúng tiêu chuẩn thì có thể bị đóng cửa! Mục đích thanh tra của CMS là để bảo đảm cho các bệnh nhân tại “Viện Dưỡng Lão” được săn sóc an toàn, đầy đủ với phẩm chất cao. Đồng thời tránh những trường hợp bị bỏ bê (negligence) hay bạo hành (abuse) về thể xác lẫn tinh thần. Tại mỗi “Viện Dưỡng Lão” đều có lưu trữ hồ sơ kiểm soát cho công chúng xem. Bất cứ ai cũng có thể xem kết quả của các cuộc thanh sát này. Tất cả các “Viện Dưỡng Lão” đều phải có các biện pháp để bảo đảm sự săn sóc cho bệnh nhân theo đúng tiêu chuẩn. Nếu không sẽ bị phạt tiền, và có những trường hợp bị đóng cửa. Trên đây tôi đã trình bày sơ qua về những điểm chính của “Viện Dưỡng Lão”. Tuy nhiên, như quý bạn đã từng nghe và biết, có nhiều khác biệt giữa những “Viện Dưỡng Lão”. Theo tôi nhận xét thì quan niệm chung của mọi người là “không muốn vào “Viện Dưỡng Lão””. Chúng ta từng nghe những chuyện không tốt thì nhiều, mà những chuyện tốt thì ít. “Tiếng lành đồn gần, tiếng dữ đồn xa”, là câu ngạn ngữ người mình vẫn nói từ xa xưa đến nay. Tôi đã đọc không biết bao nhiêu là bài viết về việc con cái “bất hiếu”, bỏ bố mẹ, ông bà vào “Viện Dưỡng Lão” rồi không đoái hoài tới. Tôi cũng thấy nhiều trường hợp các cụ vào “Viện Dưỡng Lão” một thời gian rồi không muốn về nhà với con cháu nữa! Trên đời này không có gì là tuyệt đối cả, trong cái hay có cái dở, và trong cái dở lại có thể tìm ra cái hay. Vậy chúng ta rút tỉa được kinh nghiệm gì trong vấn đề này? Tôi chỉ xin nêu lên những nhận xét chủ quan của riêng tôi mà thôi. Có thể quý vị không đồng ý hết, nhưng nếu rút tỉa được ít nhiều ý kiến xây dựng thì “cũng tốt thôi”.

NHỮNG “BỆNH” CÓ THỂ DO “VIỆN DƯỠNG LÃO” GÂY RA:


1- Lo lắng (anxiety): Trong tháng 9/2011 những nhà nghiên cứu hỏi ý kiến của 378 bệnh nhân trên 60 tuổi nằm “Viện Dưỡng Lão” tại thành phố Rochester, New York. Kết qủa là có trên 27.3% trả lời là họ bị bệnh lo lắng, từ vừa đến nặng. Nếu không được chữa trị sẽ đưa đến bệnh trầm cảm (depression). Nên nhớ là 378 bệnh nhân này là người Mỹ chính cống, sinh ra và lớn lên tại Mỹ. Chúng ta hãy tưởng tượng người Việt mình không biết rành tiếng Anh, không hợp phong tục, tập quán thì sự khó khăn sẽ nhiều như thế nào! Còn một vấn đề nữa là thức ăn, chúng ta quen “nước mắm, thịt kho”…, làm sao mà có thể nuốt hamburger, sandwich… ngày này qua ngày khác! Các vấn đề này càng làm bệnh lo lắng, trầm cảm nặng thêm!

2- Phản ứng của thuốc (adverse drug reactions): Trong tháng 1/2012 ngưòi ta theo dõi các bệnh nhân tại VDL, kết qủa là ít nhất 40% các bệnh nhân dùng trên 9 loại thuốc khác nhau. Uống càng nhiều thuốc thì phản ứng càng nhiều. Có ba loại phản ứng khác nhau:

a. Phản ứng phụ (side effects): thí dụ như uống aspirin làm bao tử khó chịu, thuốc cao máu làm táo bón… Loại này thường xảy ra, không cần phải ngưng thuốc.

b. Drug interference: (tạm dịch là thuốc đối tác với nhau): có nhiều loại thuốc uống chung với nhau sẽ làm tăng hoặc giảm sức tác dụng. Thí dụ thuốc loãng máu coumadin mà uống chung với thuốc tim như amiodarone sẽ làm dễ chảy máu. Có những thức ăn hay nước uống dùng chung với thuốc cũng ảnh hưởng đến thuốc. Thí dụ uống nước bưởi hay nho với một vài loại thuốc cũng sẽ tăng sức tác dụng của thuốc, dễ gây ngộ độc.

c. Dị ứng với thuốc (allergic reaction): Loại này nguy hiểm hơn, thường làm da nổi mề đay, đỏ, ngứa. Nếu nặng thì có thể chết được như phản ứng với penicillin chẳng hạn. Nếu bị dị ứng thì phải ngưng thuốc ngay.

3- Ngã té (fall): Người già rất dễ bị té ngã gây nên nhiều biến chứng quan trọng như chảy máu trong đầu (intracranial bleeding), gãy xương (như gãy cổ xương đùi, tay…). Khi già quá hoặc có những bệnh ảnh hưởng đến sự di chuyển, không còn đi lại vững vàng, nhanh nhẹn như lúc trẻ nên dễ vấp, té ngã.

4Da bị lở loét (decubitus ulcers): Những người bị liệt giường, không đủ sức để tự mình xoay trở trên giường, rất dễ bị lở loét da gây nên nhiều biến chứng tai hại.

5- Nhiễm trùng (infection): như sưng phổi, nhiễm trùng đường tiểu… nhất là những người cần phải dùng máy móc như máy thở (respirator), ống thông tiểu (Folley catheter)…

6- Thiếu dinh dưỡng, thiếu nước (malnutrition, dehydration): Ở các cụ già thì trung tâm khát (thirst center) trong não không còn nhạy cảm nữa, nên nhiều khi cơ thể cần nước mà không thấy khát không uống nên bị thiếu nước. Cái cảm giác “ngon miệng (appetite) cũng giảm đi nên không muốn ăn nhiều gây nên tình trạng thiếu dinh dưỡng.

VẬY CÓ NÊN VÀO VDL KHÔNG?

Việc này thì tùy trường hợp. Theo tôi:

1- Nếu còn có thể ở nhà được mà vẫn an toàn thì ở nhà tốt hơn. Nếu tài chánh cho phép, thì dù mình không đủ khả năng lo cho mình, mình vẫn có thể mướn người “bán thời gian” (part time) đến lo cho mình vài giờ mỗi ngày, giúp ăn uống, tắm rửa, dọn dẹp trong nhà, thuốc men, chở đi bác sĩ…

2- Nếu không thể ở nhà được, mà tài chánh cho phép thì có thể ở những assisted living facilities. Ở đây thường họ chỉ nhận tiền (personal funds) chứ không nhận medicare & medicaid. Tại đây thì sự săn sóc sẽ tốt hơn.

3- Group homes (nhà tư): Có những người nhận săn sóc cho chừng 4-6 người mỗi nhà. Họ cũng lo việc ăn uống, chỗ ở, thuốc men, chở đi bác sĩ…Thường thì rẻ hơn tùy từng group.

4- Nếu “chẳng đặng đừng” phải vào “Viện Dưỡng Lão” thì phải làm sao để có được sự săn sóc “tốt nhất”? a. Làm sao để lựa chọn “Viện Dưỡng Lão”: * Vào internet để xem ranking của “Viện Dưỡng Lão” (tương tự như các tiệm ăn có xếp loại A, B, C…) * Mỗi “Viện Dưỡng Lão” đều phải có cuốn sổ phúc trình về các cuộc thanh tra (survey) do bộ y tế làm hàng năm. Trong đó bộ y tế sẽ nêu lên những khuyết điểm mà họ đã tìm thấy. Cuốn sổ này được để ở khu công cộng (public area) trong khuôn viên của “Viện Dưỡng Lão”. Hỏi receptionist thì họ sẽ chỉ cho.

* Hỏi ý kiến thân nhân những người có thân nhân đang nằm tại đó.

* Quan sát bên trong và ngoài của “Viện Dưỡng Lão”: xem có sạch sẽ, không mùi hôi, nước tiểu. Theo dõi cách đối xử, săn sóc của nhân viên với bệnh nhân.

* Nếu có thể thì tìm một “Viện Dưỡng Lão” có nhiều người Việt đang ở để có nhân viên nói tiếng Việt, có thức ăn Việt, có chương trình giải trí theo kiểu Việt. b. Nếu đã quyết định chọn “Viện Dưỡng Lão” cho người thân rồi thì phải làm gì sau đó?

* Chuẩn bị tư tưởng không những cho bệnh nhân mà còn cho cả chính mình và mọi người trong gia đình để có được sự chấp nhận (acceptance) càng nhiều càng tốt.

* Thăm viếng thường xuyên: Nếu nhà đông con cháu thì không nên đến thật đông một lần rồi sau đó nhiều ngày không có ai đến. Nếu được, nhất là trong vài tháng đầu, luân phiên nhau tới, mỗi ngày một lần một vài người. Làm lịch trình ai đi thăm ngày nào, giờ nào…

* Nên làm một cuốn sổ “thông tin” (communication book) để cạnh giường. Trong cuốn sổ này mỗi khi ai đến thăm thì viết ngày giờ, tên người đến thăm, và nhận xét xem bệnh nhân có vấn đề gì cần lưu ý, giải quyết. Nếu không có vấn đề gì thì cũng nên viết vào là không có hoặc cho nhận xét về vui, buồn, than thở của bệnh nhân…

* Cuối tuần hay ngày lễ: nên có người vào hoặc mang bệnh nhân về nhà nửa buổi để được sống với không khí gia đình dù ngắn ngủi, hay đưa ra khỏi “Viện Dưỡng Lão” để làm đầu, tóc hoặc tới tiệm ăn cho khuây khỏa…

* Nên sắp xếp để bệnh nhân có sách báo, băng nhạc bằng tiếng Việt cho bệnh nhân giải trí.

* Cho dù có những bệnh nhân bị hôn mê bất tỉnh lâu dài, nhưng khi đến thăm hãy cứ thì thầm bên tai họ những lời yêu thương, những kỷ niệm cũ. Nắm tay, xoa đầu để tỏ tình thương yêu. Tuy họ không có thể cảm thấy được 100% nhưng chắc chắn họ vẫn còn một chút nhận thức, làm họ hạnh phúc hơn, mặc dù mình không nhận thấy. Để bên đầu giường những băng nhạc, câu kinh mà khi còn khỏe họ đã thích nghe.

* Một điều chót mà theo kinh nghiệm của tôi, rất có hiệu qủa: đối xử tốt nhưng nghiêm túc với nhân viên của “Viện Dưỡng Lão”: – Đối xử tốt: lịch sự, nhẹ nhàng, không thiếu những lời cám ơn cho những nhân viên phục vụ tốt. Thỉnh thoảng mua một vài món quà nhỏ cho họ (tôi xin nhấn mạnh “nhỏ thôi”– đừng nên coi đây là hối lộ) như đồ ăn, thức uống… để bày tỏ lòng biết ơn của mình. Mình tốt với họ thì họ sẽ quan tâm đến mình nhiều hơn. Người mình vẫn nói: “Có qua có lại mới toại lòng nhau”). Tuy nhiên đối xử tốt không có nghĩa là mình chấp nhận những sai trái của họ. Thí dụ mình đã báo cáo những thay đổi về sức khỏe của bệnh nhân cho họ mà không ai quan tâm giải quyết thì mình phải lịch sự nêu ra liền. Nếu cần thì gặp ngay những người có trách nhiệm như charge nurse, nursing director và ngay cả giám đốc của “Viện Dưỡng Lão” để được giải quyết. Nên nhớ là phải lịch sự, nhã nhặn nhưng cương quyết thì họ sẽ nể phục mình. Tôi đã thấy nhiều trường hợp đạt yêu cầu một cách rất khả quan. Trên đây là những kinh nghiệm của tôi xin chia sẻ với quý bạn. Dĩ nhiên là không hoàn toàn đầy đủ tất cả những gì quý bạn mong muốn, nhưng hy vọng cũng đáp ứng được phần nào những ưu tư, lo lắng cho người thân của quý bạn.

Bác sĩ Trần Công Bảo

THIÊN CHÚA LÀ CHA GIÀU LÒNG THƯƠNG XÓT

THIÊN CHÚA LÀ CHA GIÀU LÒNG THƯƠNG XÓT

Tác giả: Lm. Anmai, C.Ss.R.

Ai trong chúng ta hơn một lần rơi vào cảnh mất mát, thất lạc. Mất mát, thất lạc và khi tìm thấy sẽ thật là vui.

Giản đơn như khi ta đi đâu đó mà hành lý của ta bị thất lạc, ta sẽ cảm thấy khó chịu vô cùng vì những gì cần thiết cho nhu cầu sinh hoạt thường ngày của ta. Nếu như tìm được thì phải nói còn gì bằng vì không phải sống trong cảnh khó chịu nhất là khi đi xa, khi cần đến những thứ cần dùng.

Mất, tìm thấy, quả là niềm vui lớn.

Chúa Giêsu, tất tâm lý khi dùng hình ảnh, bài học nào đó để dạy cho những người đi theo Chúa hay những người cần phải dạy – đặc biệt là những người Pharisêu hay Biệt phái mỗi khi có dịp. Chúa dùng dụ ngôn, Chúa dùng những câu chuyện, những hình ảnh đôi khi xem ra chẳng dính gì đến bài học hay thậm chí ngược với bài học Chúa cần dạy. Để khi ngộ ra rồi thì người nghe càng thấm và càng nhớ.

Hôm nay, Chúa lấy hình ảnh hết sức gần với đời sống du mục của người Do Thái vì nghề chính của người Do Thái là nghề chăn chiên : “Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất? Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai. Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: “Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó”. Lẽ dĩ nhiên là sau khi tìm được con chiên bị mất đó thì người bi mất vui và niềm vui đó được chia sẻ với bạn bè, với đồng nghiệp, với họ hàng, với hàng xóm.

Hình ảnh con chiên, con vật được đẩy xa hơn một chút đó là đồng tiền. Đồng tiền nó chính là gia sản của con người và họ tìm đủ mọi cách khư khư để giữ không để cho nó rơi rớt hay bị mất. Chúa Giêsu dùng ngay hình ảnh của người phụ nữ (nói đến phụ nữ là người chân yếu tay mềm, yếu thân yếu thế) bị mất tiền. Tiền nó quý đến độ phải thắp đèn soi cũng như quét nhà thật kỹ để tìm cho kỳ được đồng tiền bị mất. Tìm được, dĩ nhiên người phụ nữ ấy phấn khởi và mời bạn bè hàng xóm lại để chia vui.

Đỉnh điểm trong cái mất hôm nay không phải là mấy con vật, mất đồng tiền mà là mất người. Chúa Giêsu lại đưa ra câu chuyện hết sức hấp dẫn và lý thú. Những người có mặt hôm đó chăm chú nghe vì câu chuyện quá hay.

Câu chuyện về người con hoang đàng quá quen thuộc với chúng ta nhưng rất lạ với những người nghe hôm ấy. Giản đơn là có hai đứa con, đứa thì hư hỏng bỏ nhà ra đi. Sau khi ra đi mới chợt nhận ra lầm lỗi của mình và hối lỗi quay về. Người cha vui vẻ đón nhận con mình vào lại nhà. Niềm vui không thể nào diễn tả được để rồi người cha thết tiệt ăn mừng.

Tâm tình, câu chuyện mà Chúa Giêsu muốn chuyển tải đến đó chính là ơn cứu độ mà Thiên Chúa dành cho con người. Thiên Chúa muốn cứu độ mọi người (1Tim 2,4), không phải chỉ cách tổng quát và tập thể, nhưng còn là một cách cá biệt. Ngài không muốn một số kẻ được chọn nào đó, Ngài muốn cứu vớt tất cả. Cho dù chỉ có một linh hồn cần được đưa về với Ngài (một con chiên trong số 100 con) Ngài cũng lo liệu tìm mọi cách để đưa kẻ ấy trở về.

Chúa Kitô là mục tử tốt lành, biết tên từng con chiên một (Ga 10,3). Sứ mệnh của Ngài là đưa những con chiên lạc nhà Israel trở về đàn (Mt 15,24). Cũng như Chúa Kitô, Kitô hữu không được bỏ rơi kẻ nào trong những tương giao nhân loại hay tôn giáo của mình, nhưng phải sẵn sàng tiếp nhận mọi thiện chí, sẵn sàng tiếp xúc một cách chân thành hữu ích. Không phải môi trường rộng lớn mới là quan trọng. Thánh Francois de Sales có nói: “Một linh hồn đã là một địa phận khá lớn cho một giám mục rồi”

Cho dù tội lỗi đến đâu, chúng ta không bao giờ được thất vọng vào Thiên Chúa. . Tình yêu của Thiên Chúa và của Chúa Kitô luôn đeo đuổi chúng ta (Rm 8,37-39). Thiên Chúa luôn mong chờ chúng ta, để vác chúng ta lên đôi vai khi cần (Is 40,11) và đưa chúng ta về lại ràng. Chúng ta hãy tin tưởng vào sự âu yếm của Thiên Chúa chúng ta. Hãy thưa với Ngài rằng chúng ta là con chiên lạc lối và hãy xin Ngài đến tìm kiếm ta cho mau (Tv 119,176) để từ đây săn sóc ta như con chiên thân thuộc (Tv 95, 7) trong tình yêu thắm thiết của Ngài.

Thiên Chúa vui mừng biết bao được tụ họp đoàn dân Ngài trong giáo hội để nhờ Chúa Kitô dâng lên hy lễ thờ phượng. Trong đoàn chiên đông đảo, vẫn có đó, vẫn còn đó những con chiên trung tín nhưng cũng có những con thất tín bất trung lầm đường lạc bước. Với những con chiên lầm đường lạc bước đó, Ngài đã bằng cách này hay cách khác, đặc biệt là tình yêu thương tha thứ để chờ đợi, để đón mừng những con chiên đó quay về..

Trong dụ ngôn người cha nhận hậu, chúng ta phảng phất nhìn thấy được dụ ngôn người cha của đứa con hoang đàng một mạc khải về lòng thương xót, sự âu yếm khôn lường của Thiên Chúa đối với những người tội lỗi. Tình âu yếm đó đã được Chúa Giêsu tỏ ra cho loài người trong việc Ngài chăm lo cho các tội nhân suốt sứ vụ rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa, và cách đặt biệt rõ nét nhất là trong viêc hy sinh mạng sống Ngài để chuộc tội cho họ.

Khi khám phá ra một tình yêu như vậy không thể làm cho ta tràn đầy tin tưởng vào Đấng đã yêu thương chúng ta. Chúng ta quá biết mình là những tội nhân; nhưng chúng ta từ nay không được quên rằng thân phận khốn nạn đó không làm Thiên Chúa ghét bỏ chúng ta, trái lại càng khiến Ngài yêu chúng ta hơn. Vì vậy chúng ta vững tin cho chính mình, và cũng vững tin cho những kẻ khác. Chúng ta cũng đang sống giữa những người tội lỗi. Khi thấy các anh em ấy gặp khốn khó hay lầm lạc, chúng ta hãy nhớ lại rằng họ vẫn được Thiên Chúa yêu, và tình yêu đó đủ mạnh để cứu rỗi họ.

Và khi khám phá ra khuôn mặt, tấm lòng, tình yêu của Thiên Chúa chúng ta lại thấy mở ra sự đòi buộc của tình yêu đó trong tâm hồn chúng ta.

Người con cả của dụ ngôn, vì không hiểu tình yêu của Cha, cũng không hiểu được lời mời gọi phát xuất từ tình yêu đó: anh ta chỉ thực sự là người con hiếu thảo của cha khi biết chia sẻ tình yêu của cha, biết thương mến đứa em. Việc đề phòng mà dụ ngôn muốn nhắc nhở cho người người biệt phái không phải là không liên hệ đến Kitô hữu. Dụ ngôn nhắc cho họ nhớ rằng người ta không thể phục vụ Thiên Chúa đúng ý Ngài nếu không yêu Ngài và không thông hiệp vào tình yêu của Ngài đối với anh em, cho dù những người này là tội nhân.

Thái độ của Chúa Giêsu hoàn toàn trái ngược với con tim lạnh lùng kiêu căng của người biệt phái, kẻ tưởng mình đang sống an toàn vì đã thi hành tỉ mỉ những giới luật. Người môn đệ chân chính và đích thực của Chúa Giêsu có lý nào hay có quyền gì để khinh bỉ xa tránh những kẻ đang gặp hoạn nạn khó khăn do tội lỗi. Tình yêu Thiên Chúa kêu mời chúng ta yêu mến anh em. “Anh em thân mến, nếu Thiên Chúa đã yêu mến ta như thế, thì ta cũng phải yêu mến nhau” (1Ga 4,11)

Khi chúng ta cảm nhận được tình thương tha thứ từ nơi Cha thì khi đó chúng ta cũng mở lòng bao dung và yêu thương anh chị em đồng loại như Cha chúng ta ở trên Trời vậy.

LỜI MỜI KHÓ

LỜI MỜI KHÓ

Tác giả: Lm. Anmai, C.Ss.R.

“Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hàng ngày mà theo” (Lc 9, 23)

Ở đời ! Có chăng người ta sẽ hăng hái bước đi theo ai đó, đi tìm điều gì đó nhẹ nhàng và thênh thang, êm ái và dịu chàng chứ chẳng ai đời lại muốn đi tìm cái khổ, cái khó cả.

Thoạt đầu, xem ra lời mời gọi khó nghe và nghịch lý nhưng ở khi đối diện với thực tại của cuộc đời, ai cũng có cây thập giá của đời mình. Và nếu như ai vui lòng vác những đau khổ, những vất vả thì đến cuối cuộc đời, đến cuối chặng đường sẽ cảm thấy lòng thanh thản và được hưởng vinh quang cùng với Đấng đã vui lòng vâng phục Chúa Cha.

Thập giá, từ xưa đó chính là dấu chỉ, là biểu tượng, là hình ảnh, là dụng cụ để người ta thi hành án tử cho tên tử tội. Với Chúa Giêsu cũng vậy, Chúa Giêsu cũng không thoát khỏi cây thập giá khi thi hành án. Án tử người ta dành cho Chúa Giêsu cũng chỉ vì cái tội kiêu ngạo. Cũng vì loại trừ, vì khước từ một Đấng Thiên Sai, Đấng Cứu Độ trần gian cho nhân loại, những người Do Thái thời Chúa Giêsu đã tìm đủ mọi cách để khử trừ Đấng đó ra khỏi cuộc đời này khi có dịp.

Cái tội kiêu ngạo đẩy con người vào con đường chết đó không phải có vào thời Chúa Giêsu nhưng nó đã có từ khi con người xuất hiện. Chính ông bà nguyên tổ đã đẩy Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời của mình vì tưởng rằng sau khi ăn trái cấm như lời con rắn dữ mời gọi họ sẽ hơn Thiên Chúa.

Vẫn là cái tội kiêu ngạo không chấp nhận thân phận thụ tạo của mình.

Trong cái thân phận là thụ tạo, điều chính yếu, điều căn cốt nhất mà con người phải nhận ra đó chính là mình chẳng là gì cả, tất cả là nhờ Chúa và bởi Chúa. Khi ý thức như vậy, con người sẽ cảm thấy nhẹ nhàng và thanh thản. Và ngược lại, khi con người không nhận ra căn cốt của đời mình thì con người sẽ nổi loạn để rồi lại bất phục tùng và cảm thấy mệt mỏi khi phải vác thập giá của đời mình.

Trong dòng chảy lịch sử cứu độ, những khuôn mặt, nhưng hình ảnh của những con người đau khổ vẫn còn đó như là bài học cho những ai bước theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá. Những khuôn mặt đó, nhìn thấy quả là đau khổ bởi lẽ không còn gì đau khổ hơn nhưng những người đó vẫn đi theo Chúa cho đến cùng.

Khuôn mặt sáng, khuôn mặt đẹp mà ta nhìn ngắm phải chăng là khuôn mặt của ông Giob. Đọc lại cuộc đời của ông. Nỗi đau tột cùng của ông sẽ không đau lắm khi ông là người bình thường mà lại rơi vào cảnh mất mát, đau thương cả tinh thần lẫn thể xác. Nỗi đau càng giày vò ông khi cuộc đời của ông đang sống trong vinh quang, trong phú quý và có thể nói là đỉnh, là điều mà nhiều người mơ ước với cái cơ nghiệp, con đàn cháu đống cùng với đàn súc vật thật đông. Nỗi đau sâu hoẵm đó nó khoét đời ông và thử thách niềm tin của ông khi những người bạn đến thách thức ông. Đau hơn nữa đó chính là lời phỉ báng, lời kém tin của người vợ của ông. Nhưng, trong những thử thách đó, lòng ông vẫn đơn thành : “Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về lòng đất cũng trần truồng. Chúa đã ban cho, Chúa lại lấy đi. Người muốn sao nên vậy : xin chúc tụng danh Chúa. Mình biết đón nhận ơn lành từ Thiên Chúa, còn điều dữ lại không biết đón nhận sao?” (G 1,21 ; 2,10b)

Lịch sử lại cứ trôi và cuộc đời vẫn chảy. Ta lại bắt gặp hình ảnh của người môn đệ đã hoàn thành cách xuất sắc khi bước theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá.

Nhìn, nghe, đọc những trang giấy trong sách Thánh, ta sẽ thấy những đau khổ của người môn đệ đau khổ đến tột cùng là Đức Trinh Nữ Maria. Thấy thôi chứ không cảm được đau khổ mà Mẹ phải chịu.

Thập giá ập đến ngay cuộc đời của Mẹ khi Mẹ nhận lời sứ thần truyền là mang thai Đấng Cứu Độ. Sẽ bị ném đá theo luật Do Thái ngay khi người ta truy tầm ra rằng thiếu nữ Maria không có chồng mà lại có mang. Thoát được án tử sau khi Giuse nhận Mẹ về làm vợ. Cuộc đời đâu êm ả như bao người suy và bao nhiêu người nghĩ. Tưởng chừng một màu hồng tươi đẹp trải suốt trên cuộc đời của Mẹ nhưng đâu được như thế ! Đau khổ cứ như cuộn, cứ như ôm lấy cuộc đời của Mẹ. Đau khổ đó cuộc vào đời Mẹ cho đến tận cùng đó chính là đỉnh đồi Canvê. Không còn nỗi nhục và nỗi đau nào cho bằng con mình vô tội lại chịu chết treo cùng với hai người có tội. Vô cớ, oan khiên nhưng đành phải chấp nhận bởi lòng người gian ác.

Mẹ đã thưa hai tiếng xin vâng cho đến cuối cuộc đời.

Và sẽ là một thiếu sót lớn hay nói cách khác là sẽ vô nghĩa khi không chiêm ngắm con người chịu treo trên thập giá để mang lại ơn cứu độ cho con người. Ơn cứu độ cho nhân loại khởi nguồn từ con người đã hoàn toàn vâng phục chịu chết treo trên thập giá như người mang trọng tội.

Thư gửi tín hữu Philip đã diễn tả :

“Đức Giêsu Kitô

vốn dĩ là Thiên Chúa

mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì

địa vị ngang hàng với Thiên Chúa,

nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang

mặc lấy thân nô lệ

trở nên giống phàm nhân

sống như người trần thế.

Người lại còn hạ mình

vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết,

chết trên cây thập tự. (Pl 2, 6-8)

Chúa Giêsu, dù ở cái địa vị vinh quang nhưng lại trút bỏ và vâng phục và chết một cách nhục nhã. Còn ta, ta là ai mà ta lại tưởng mình thế này thế kia để ta lại muốn một lần nữa treo Chúa Giêsu – Đấng Cứu Độ trần gian – trên thập giá.

Chúa bắt phàm nhân trở về cát bụi,

Ngài phán bảo : “Hỡi người trần thế, trở về cát bụi đi !”

Ngàn năm Chúa kể là gì,

tựa hôm qua đã qua đi mất rồi,

khác nào một trống canh thôi !

Ngài cuốn đi, chúng chỉ là giấc mộng,

như cỏ đồng trổi mọc ban mai,

nở hoa vươn mạnh sớm ngày,

chiều về ủ rũ tàn phai chẳng còn.

Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống,

ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan.

Lạy Chúa, xin trở lại ! Ngài đợi đến bao giờ ?

Xin chạnh lòng thương xót những tôi tớ Ngài đây. (Tv 89,3-4.5-6.12)

Lời mời gọi bước theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá mãi mãi vẫn là lời mời gọi luôn luôn mới và giá trị trên cuộc đời của ta. Lời mời gọi đó quả là khó chứ không phải dễ dàng bước theo. Khi và chỉ khi ta nhìn nhận thật phận tôi đòi của chúng ta, thân phận thụ tạo của chúng ta thì khi ấy chúng ta lại nhẹ nhàng và thanh thản để đi theo con đường mà Chúa Giêsu đã đi. Và, khi vâng phục đến tột đỉnh vác thập giá đời mình thì dĩ nhiên ta cũng sẽ được hưởng phần phúc cứu độ mà Đấng Cứu Độ trần gian bị treo trên thập giá đã hứa ban cho những ai ngày mỗi ngày bước đi theo Ngài.

Lễ suy tôn Thánh Giá

Anmai, CSsR

Người già nhất thế giới qua đời

Người già nhất thế giới qua đời

Cụ ông Salustiano Sanchez-Blazquez 112 tuổi được xem là người già nhất thế giới.

Cụ ông Salustiano Sanchez-Blazquez 112 tuổi được xem là người già nhất thế giới.

15.09.2013

Người được sách kỷ lục Guinness thế giới xem là người già nhất thế giới đã qua đời.

Cụ ông Salustiano Sanchez-Blazquez qua đời hôm thứ Sáu tại một viện dưỡng lão ở thành phố Grand Island, tiểu bang New York.

Năm nay cụ 112 tuổi.

Cụ sinh năm 1901 tại làng El Tejado do Bejar, nước Tây Ban Nha.

Khi còn là một thiếu niên, cụ và người em trai và một nhóm bạn làm cho một vườn mía ở Cuba.

Cụ Sanchez di cư sang Mỹ năm 1920 qua ngả New York và sau đó định cư trong tiểu bang này, tự học nhạc và sống bằng nghề nhạc sĩ.

Bà vợ của cụ qua đời năm 1988.

Cụ Sanchez còn để lại một con gái, một con trai, 7 cháu nội, 15 chắt, và 5 chít.

Tổng thư ký LHQ : Bachar al-Assad phạm “tội ác chống nhân loại”

Tổng thư ký LHQ : Bachar al-Assad phạm “tội ác chống nhân loại”

Ông Ban Ki Moon họp báo tại trụ sở Liên Hiệp Quốc - REUTERS

Ông Ban Ki Moon họp báo tại trụ sở Liên Hiệp Quốc – REUTERS

Tú Anh

RFI

Bản báo cáo của chuyên gia Liên Hiệp Quốc sẽ kết luận với những bằng chứng rõ ràng xác nhận có một vụ tấn công bằng vũ khí hóa học ngày 21/08/2013 tại ngoại ô Damas. Trên đây là thông báo của Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki Moon vào chiều hôm qua 13/09/2013.

Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki Moon không quy trách nhiệm trực tiếp cho chế độ Damas nhưng tố cáo Tổng thống al Assad “phạm tội ác chống nhân loại” và phải trả lời trước công lý. Từ New York, thông tín viên Karim Lebhour tường thuật :

Bản báo cáo sẽ đưa ra bằng chứng “không thể chối cãi được”. Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc xác quyết rằng kết luận của các chuyên gia vũ khí hóa học từ Syria trở về sẽ cho thấy không có một yếu tố nào có thể hoài nghi sự thực đã xảy ra vào ngày 21 tháng 8.

Bản báo cáo sẽ được công bố vào thứ hai 16/09/2013 tới. Tổng thư ký Ban Ki Moon không lên án một ai, không gọi đích danh chính quyền Syria là thủ phạm nhưng ông nhấn mạnh là Bachar al Assad đã nhiều lần phạm “tội ác chống nhân loại” và các nhà lãnh đạo Syria sẽ phải trả lời trước pháp luật một khi chiến tranh kết thúc.

Ông Ban Ki Moon nói: “Hành động khủng khiếp dùng vũ khí hóa học tấn công đã sát hại 1400 người và làm 5000 người khác vẫn còn nằm trong bệnh viện. Phái bộ chuyên gia của Liên Hiệp Quốc sắp công bố bản báo cáo. Bằng chứng sẽ rất đầy đủ không thể phủ nhận được.

Bản báo cáo sẽ chứng minh vũ khí hóa học đã được sử dụng tại Syria mặc dù hiện giờ tôi không thể khằng định công khai vì bản phúc trình chưa đến tay tôi. Tổng thống Syria đã phạm nhiều tội ác chống nhân loại. Tôi tin chắc rằng những người có trách nhiệm sẽ phải trả lời (trước công lý) một khi chiến tranh kết thúc. Giờ đây, chúng ta phải làm mọi cách để xung đột nhường chỗ cho đối thoại”.

Mặc dù bản báo cáo Liên Hiệp Quốc không nói ai là thủ phạm tấn công bằng vũ khí hóa học nhưng các nhà ngoại giao thẩm định chuyện đó không khó khăn. Câu trả lời nằm ngay trong công thức hóa chất, loại tên lửa mang đầu đạn hóa học và quỷ đạo của tên lửa. Tất cả những yếu tố này sẽ chỉ ra tội trạng của chính quyền Damas.

Bản phúc trình của Liên Hiệp Quốc có tính đáng tin cậy vì phát xuất từ một cuộc điều tra độc lập. Pháp và Hoa Kỳ chắc chắn sẽ dựa vào kết luận này để áp đặt một tiến trình thanh tra nghiêm nhặt các kho vũ khí của Syria. Cuộc thương lượng tiếp tục tại New York để thiết lập cơ chế thanh tra cụ thể một khi Mỹ và Nga đạt thỏa thuận”.

Những thứ cần phải quên

Những thứ cần phải quên

image

Trong cuộc sống của mình, bạn đã học được nhiều thứ, đó là học sự yêu thương, học được cách nhớ nhung một ai đó và bây giờ bạn sẽ học cách quên. Vì trong cuộc sống có những chuyện nên gìn giữ, nên cất giấu nhưng cũng có những thứ cần phải quên đi.

Vậy những gì bạn cần phải quên đi?

image

Quên đi những đau khổ:

Cuộc đời không ai lúc nào cũng vui vẻ và lúc nào những điều tốt đẹp nhất cũng đến với mình. Khi bạn chia tay với người yêu bạn sẽ giam cầm mình trong đau khổ, trong những lần khóc sướt mướt. Bạn thu mình lại và có những lúc bạn tưởng chừng như trái tim mình vỡ tung ra. Bạn mềm yếu, cảm giác như chỉ có người đó mới đưa bạn ra khỏi cái nỗi đau đó mà thôi. Khi ấy bạn cần phải học cách quên đi người đó, học cách quên đi một người sẽ làm cho trái tim bạn lành lại theo thời gian. Mọi đau khổ sẽ tan biến. Mặc dù với một số bạn sẽ rất khó nhưng chưa thử làm sao chúng ta biết có làm được hay không.

image

Quên đi những hận thù:

Ai đó đã lấy đi của bạn một thứ gì đó quý giá, ai đó đã lỡ xúc phạm bạn, ai đó vô tình đã làm bạn đau. Bạn cảm thấy tức giận, bạn cảm thấy lòng hận thù trong mình dâng cao. Nhưng Người ta nói tức giận là lấy sai lầm của người khác trừng phạt chính mình. Cứ mãi nhớ đến những hận thù đó thì người bị tổn thương nhiều nhất chính là bạn. Suốt ngày bạn sẽ dằn vặt bản thân, bạn sẽ tìm mọi cách để trả thù lại người ta nhưng càng suy nghĩ càng khiến cho bạn cảm thấy nặng nề. Tâm hồn bạn sẽ chẳng khi nào được thanh thản. Vậy tại sao bạn không thử học cách quên đi mọi hận thù và dám tha thứ cho những gì người khác đã làm khiến bạn tổn thương . Cuộc sống sẽ đẹp hơn, nhẹ nhõm hơn nếu bạn biết quên đi thứ cần phải quên đấy bạn ạ.

image

Quên đi những khuyết điểm của người khác:

Đối với chúng ta thường dễ dàng giang tay đón lấy những ưu điểm của bạn bè, người thân. Nhưng khi họ có khuyết điểm chúng ta lại khép tay lại và tránh thật xa họ. Trên đời này chẳng có gì là hoàn hảo, chính bản thân chúng ta cũng là một mảnh ghép của cuộc sống cũng có những lúc phạm phải một sai lầm, và có một vài khuyết điểm nào đấy. Chúng ta học cách quên đi khuyết điểm của người khác là chúng ta đang học cách hoàn thiện bản thân mình, đang làm cho tâm hồn chúng ta trở nên rộng lượng hơn. Đừng lúc nào cũng nghĩ đến mặt xấu của người đối diện mà hãy nghĩ đến ưu điểm. Vì như thế sẽ làm cho mối quan hệ của bạn và người ta sẽ trở nên tốt đẹp, khăng khít hơn.

image

Quên đi những kỷ niệm, quên đi quá khứ:

Những kỷ niệm đẹp, những quá khứ êm đềm hay đau khổ đối với một số người sẽ giữ mãi trong lòng để từ đó mà chiêm nghiệm mà sống tốt hơn. Nhưng trong một vài trường hợp bạn cũng phải cố quên đi quá khứ, quên đi những kỷ niệm. Bạn không thể lúc nào cũng sống trong cái kỷ niệm một thời tay trong tay với người yêu cũ. Bạn cũng không thể sống mãi trong cái quá khứ của một thời tuổi thơ êm đềm hay đau khổ mãi được. Bạn cần phải quên nó đi, bỏ lại nó ở phía sau lưng để mà bước đi, để mà lớn lên. Quên ở đây không hẳn bắt bạn quên vĩnh viễn mà quên ở đây là bạn tạm thời cất giữ nó ở một góc nào đó sâu thẳm trong tim để rồi có lúc lấy ra mà nhớ, mà vui mà buồn. Rồi cũng có thể khi bạn lớn lên một chút bạn sẽ nghĩ về chúng như một cái gì đó quý giá. Bạn sẽ tự cười, “à thì ra mình đã lớn”…

image

Quên đi lợi ích cá nhân:

Ai cũng chỉ biết sống cho mình thì cuộc sống này sẽ trở nên ích kỷ và hẹp hòi, sẽ chẳng còn ai quan tâm đến ai nữa. Bạn phải học cách quên đi cái tôi cá nhân để có thể hòa cùng nhịp sống chung của cộng đồng. Bạn đi mùa hè xanh nhưng luôn chọn những việc nhẹ nhàng, luôn nghĩ cho bản thân. Trước khi làm một việc gì đó bạn luôn nghĩ đến mình sẽ được gì và mình sẽ mất gì. Nếu mất nhiều hơn được bạn sẽ chẳng bao giờ làm. Triết lý đó sẽ đúng đối với một số trường hợp. Nó sẽ hoàn toàn là ích kỷ nếu đó là làm vì lợi ích cộng đồng, làm vì tập thể. Chắc trong chúng ta chẳng lạ lẫm gì với những chiếc áo xanh tình nguyện, đêm ngày túc trực nơi bến xe để tiếp sức cho các thí sinh thi Đại học. Họ chẳng nề hà một công việc gì dù nắng làm cho cháy da, áo ướt đẫm mồ hôi. Bởi lẽ họ đã quên lợi ích cá nhân mà dốc sức vào lợi ích của tập thể. Cho và nhận đôi khi có thể mang ra để so sánh nhưng không phải lúc nào cũng so sánh được đâu bạn ạ. Có thể bạn sẽ mất nhiều hơn được nhưng đến một lúc nào đấy bạn sẽ cảm thấy cái mất ấy của mình là một điều đáng tự hào.

Và mỗi khi như vậy bạn sẽ cất cao tiếng hát “ ai cũng chọn việc nhẹ nhàng gian khổ sẽ thuộc về ai…”

image

Nhớ và Quên là hai phạm trù trái ngược nhau. Hãy nhớ những cái gì cần phải nhớ và hãy quên đi những thứ đáng phải quên. Chỉ khi quên đi những thứ gọi là “spam” trong tâm hồn mình bạn sẽ cảm thấy thật thanh thản. Tâm lí của bạn khi ấy sẽ trở nên cân bằng hơn. Vì ai đó đã nói rằng “ Trong cuộc sống phải biết thứ gì cần nhặt lên và thứ gì cần bỏ xuống”

S.T.

Tàn nhẫn

Tàn nhẫn

Tôi không có dịp đi nước ngoài nhiều, nên không biết ở ngoài người ta có hệ thống chăm sóc sức khỏe cho lãnh đạo hay không. Nhưng nhìn từ góc độ y đức tôi thấy chuyện dành ra một tài khoản và ban bệ chỉ để lo chuyện sức khỏe cho lãnh đạo thật là vô minh.

Thời còn làm trong bệnh viện nhà nước tôi chứng kiến nhiều cảnh đau lòng. Thường dân không có thuốc phải nằm chờ chết. Cán bộ cao cấp thì được lệnh mua thuốc ngoại, giá bao nhiêu cũng được duyệt. Thường dân nằm la liệt hành lang bệnh viện. Cán bộ nằm phòng có máy lạnh. Đó là thời 79-85. Nhưng thời nay cũng chẳng có gì khác. Cũng như giữa giàu và nghèo, khoảng cách giữa dân và quan càng ngày càng lớn. Quan thì giàu, dân thì nghèo.

Người ta nói một chuyện làm một chuyện khác. Nói xóa bỏ giai cấp, nhưng lại tạo nên một giai cấp ăn trên ngồi trước. Nói là đầy tờ nhân dân, nhưng trong thực tế là cha mẹ nhân dân. Ngôn ngữ dưới thời XHCNVN không còn ý nghĩa thật của nó nữa.

Sài Gòn có bệnh viện Thống Nhất dành cho lãnh đạo. Nhưng ít ai biết rằng bất cứ tỉnh nào cũng có một khu trong bệnh viện chỉ dành cho lãnh đạo. Phải bao nhiêu tuổi đảng mới được nằm ở các khu đặc trị đó. Tôi không có vinh dự điều trị cho các vị lãnh đạo vì tôi đoán lý lịch của mình không “sạch” mấy (do học y thời trước 75). Nhưng tôi được biết đồng nghiệp điều trị cho các lãnh đạo than trời lắm. Họ nói các vị lãnh đạo coi bác sĩ chẳng ra gì, đối xử với bác sĩ như là cấp trên và cấp dưới. Chán lắm. Bực tức lắm. Nhưng nhiệm vụ và y đức thì phải làm, chứ chẳng ai ham làm trong các khu đặc trị cho lãnh đạo cả.

Thật ra, mấy khu đặc trị là những khu nguy hiểm trong bệnh viện. Dù trang bị tốt hơn các khu khác, nhưng tử vong vẫn cao trong mấy khu đặc trị. Lý do đơn giản là bác sĩ chẳng dám quyết định gì cả. Cái gì cũng hỏi cấp trên. Có lẽ nhiều người không biết, nhưng có ca phải hỏi ý kiến … cấp ủy. Không có hệ thống y khoa nước nào quái đản như nước ta, bác sĩ xin ý kiến cấp ủy để điều trị! Có cụ bị để nằm cho đến chết vì chẳng ai dám quyết định, ai cũng sợ trách nhiệm. Có lần tôi tham dự hội chẩn về một trường hợp và bị ám ảnh lâu dài về hệ thống y tế dưới thời XHCN. Ông cụ không phải là cán bộ cao cấp, nhưng là bố của một ông thứ trưởng, nên cũng được nằm khu dành cho lãnh đạo. Ông cụ bị cao huyết áp và tiểu đường, bệnh rất hay gặp. Người ta hội chẩn mãi, xin ý kiến mãi, thậm chí ông thứ trưởng bay vào Sài Gòn thăm bố. Chẳng ai dám làm gì! Ba tuần sau, ông cụ qua đời. Chính cái hệ thống phân biệt đối xử và giai cấp làm cho ông cụ chết.

Chính cái hệ thống đó đang giết người dân nữa. Đọc blog thấy có tin Thanh Hóa “đầu tư xây dựng trụ sở Ban Bảo vệ – Chăm sóc sức khỏe cán bộ tỉnh Thanh Hóa“. Có cái gì ghê tởm ở đây. Chúng ta biết rằng người dân Thanh Hóa đang đói. Gần 250.000 người đói. Vậy mà người ta thản nhiên tập trung tiền bạc vào việc chăm sóc sức khỏe cán bộ!

Thử nhìn qua hai hình dưới đây để thấy bản chất của chế độ:

http://images.yume.vn/buzz/20110216/image/2.jpg

Đâu chỉ Thanh Hóa mới lo chăm sóc sức khỏe cán bộ. Trung ương cũng thế. Chẳng những huy động, mà còn huy động toàn hệ thống. Thử đọc bản tin Huy động sức mạnh của toàn hệ thống trong công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cán bộ thì biết người ta muốn gì. Đọc bản tin đó gần chục lần tôi vẫn không giải thích được tại sao người ta lại vô cảm, ngạo mạn, ngang nhiên, trắng trợn như thế.

Trong khi bệnh viện các cấp quá tải, trong khi hai ba bệnh nhân phải nằm chung giường, trong khi bệnh nhân nằm ghế bố la liệt ngoài hành lang, mà có một giai cấp ngang nhiên huy động toàn hệ thống để chăm sóc cho một nhúm cán bộ đảng viên. Họ xem bệnh viện, bác sĩ, y tá, chuyên gia như là tài sản của riêng họ, muốn làm gì thì làm. Không hiểu trong lịch sử nước nhà, đã có một giai cấp thống trị nào chẳng những bất tài mà còn tàn nhẫn với người dân như hiện nay. Tìm hoài trong cổ sử mà chưa thấy. Tạm thời có thể nói đảng viên là giai cấp tàn nhẫn nhất với người dân trong lịch sử Việt Nam?

BSNgọc

CHỈ CẦN CA NGỢI CHÚA RỒI ƠN LÀNH SẼ ĐẾN III

CHỈ CẦN CA NGỢI CHÚA RỒI ƠN LÀNH SẼ ĐẾN III
Phan Sinh Trần
09.2013
Bạn có bao giờ cảm thấy lòng lâng lâng tin yêu Chúa khi hát những bài thánh ca lúc Nhập Lễ, lúc Rước Lễ không ? Vâng, tôi biết Bạn cảm thấy điều đó nhiều lần, tôi cho rằng đó là một khởi đầu tốt trong sự Ca Ngợi Chúa. Đã có “Sự Đổi Mới” cùng với muôn vàn ơn phước trong đời sống các Thánh khi họ ca ngợi, thờ phượng Chúa hết lòng, hết sức vì Kinh Thánh đã hứa: “Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác” (Gioan I: 15). Một khi ta được ở trong Chúa, thì đương nhiên sẽ có đầy tràn ơn sủng vì Chúa vốn là nguồn của mọi sự thay đổi tốt đẹp, mọi ơn chữa lành, mọi ơn lành khác.

  1. 1. Chúa có quà tặng khi ta ca ngợi Ngài , tôi xin chia sẻ về một chuyện vui vui về ca ngợi, số là Mùa lễ Tạ Ơn năm 2009, Gia đình tôi đã muốn mời Nhóm Sinh hoạt trong Giáo Xứ đến nhà để họp mặt nhân dịp Lễ Tạ Ơn. Vợ Chồng chúng tôi chuẩn bị thức ăn đãi khách, vì là ngày lễ tạ ơn, chúng tôi đã làm món gà tây đút lò như thông lệ ở mọi nơi trên nước Mỹ. Vào ngày lễ Tạ Ơn, nhà nhà làm món gà Tây, văn phòng, hãng xưởng cũng đãi nhân viên bằng món truyền thống gà Tây, giầu nghèo gì cũng độc một món gà Tây đút lò, gà Tây chiên. Theo khẩu vị người Việt thì đây là một món khô khan và mau ngán.
Khi đó hai vợ chồng chúng tôi, đã vừa làm vừa hát Ca Ngợi Chúa rất là tâm đắc và ăn khớp với nhau. Chúng tôi hát những bài ưa thích, “Lời Ngài là sức sống đời con”, “ I love you Lord and I lift my voice to worship you” … Mọi sự chuẩn bị về đồ ăn, thức uống đã diễn ra khá là suôn sẻ, đến khi các Anh Chị Em trong Nhóm đến và thưởng thức món ăn, ai cũng trầm trồ là “chưa bao giờ ăn món gà tây đút lò mà lại ngon như vậy”. Thật là ngộ ! vì, đây là món lặp lại ở mọi nơi, ăn nhiều rôi nên không có gì hấp dẫn, nhưng mà … gà Tây cộng với sự ca ngợi Chúa vào hôm đó , đã là một món ăn rất đắt hàng, Chúa biến nó thành một món ăn ngon độc đáo như lời thực khách nhận xét “chưa bao giờ ăn gà tây đút lò nào mà ngon như thế ! ”. Có lẽ lời khen này là một sự thực vì kể từ đó đến nay, chưa bao giờ cả nhà tôi và các Anh Chị Em khác đã có dịp thưởng thức gà Tây với cùng chất lượng như lần đó mặc dù cách làm và công thức vốn đều giống như nhau. Thực là một sự chăm sóc, tỉ mỉ của Chúa, Ngài ban cho một món quà nhỏ, vui tươi cho cả Nhóm , gồm Chủ và Khách khi chúng tôi vừa làm món ăn vừa Ca Ngợi Chúa. Cũng có cách giải thích khác là khi ta ăn trong tâm tình yêu mến và cảm thông thì món ăn sẽ ngon hơn. Dù là cách giải thích nào đi nữa thì đó cũng là một bầu khí tốt lành, và một sự suôn sẻ đặc biệt mà Chúa ban cho bắt đầu bằng sự Ca Ngợi phải không Bạn ?
  1. 2. Ca Ngợi đích thực thì có sự hiện diện đầy quyền năng của Chúa: Lời hứa của Chúa Giê Su là… đâu có hai, ba người họp lại nhân danh Ta, thì có Ta ở đó, giữa họ”. Chỉ cần hai ba người cầu nguyện thôi là đã có Chúa rồi huống chi ta có cả Nhóm hết lòng ca ngợi thì Chúa sẽ ngự đến, Ngài hiện diện với đầy oai quyền trong khi chúng ta cùng ca ngợi Chúa. Dịp mùa Chay năm 2008 , Nhóm chúng tôi cùng với các Nhóm khác dự tĩnh tâm và chầu Chúa Thánh Thể tại tu hội Tận Hiến , Texas. Chúng tôi ca ngợi Chúa Thánh Thể trong giờ chầu rất hăng say và sốt sắng, đến cuối buổi chầu, Cha Duy An Nguyễn manh Hùng đã rước Chúa Thánh Thể đi từng hàng ghế để chúc lành cho mỗi người tham dự. Khi Chúa đi đến hàng ghế của gia đình Chị N, thì mọi người trong hàng ghế này gồm chồng, em và người nhà đều té nhào, đổ rụp xuống giống, họ như cây chuối đổ xuống trong cơn gió bão lớn . Chị N hét lến “ Chúa ơi , con thờ lạy Chúa, con tôn vinh Chúa, con biết Chúa rồi, con biết rồi …” còn anh T chồng của chị N thì vừa té vừa rên rỉ “Lạy Chúa , Lạy Chúa”. Khi đó tôi đang quì ở hàng ghế sát phía sau, Tôi cũng té nhào, chúi nhủi còn bao tử tôi thì nó nâng lên hạ xuống đến mấy lần một cách vi veo. Chưa bao giờ trong đời tôi ở trong tình trạng bao tử lên xuống với biên độ lớn như vậy, cho dù là đi máy bay vào ngày trời giông tố . Tôi thắc mắc, Chúa Thánh Thể đã ban ơn gì cho Chị N . Tới khi Chị N, vốn là tín hữu mới tin Chúa được 1 năm lên chia xẻ và làm chứng cho mọi người về ơn Chúa , chúng tôi mới vỡ lẽ: vì là người bên lương khi trước, nên theo thói quen, chị đã cầu nguyện theo lối dân gian như vầy:
Lậy Chúa , nếu Chúa đang hiện diện nơi đây thì xin Chúa hãy đụng chạm vào lòng con và lòng Anh Chị Em chung quanh .
Và Chúa đã nhận lời Chị, Chúa tỏ uy quyền của Ngài cho Chị và những người chung quanh trong một buổi cầu nguyện Ca Ngợi lòng thương xót Chúa rất sốt sắng.
  1. 3. Ca Ngợi Chúa có thể làm cho mình tha thứ, làm cho mình thay đổi đến mức độ hoàn toàn. Vì trong khi ca ngợi Chúa, nếu mình còn oán giận ai, thì mình sẽ không được Chúa nhận lời, lời ca ngợi của mình trở nên khô khan và vô nghĩa giống như nó đi vào hư vô và hoàn toàn không có sự hiện diện của Chúa trong lúc minh ca ngợi nữa, điều này sẽ thôi thúc lương tâm ta mau chóng làm hòa với người mà mình giận hờn để lại được có sự hiện diện của Chúa trong đời sống ca ngợi của mình, trường hợp này, thật là giống đúng như Lời Chúa căn dặn trong Kinh Thánh: “… hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5,24).
Có một chị luật sư nọ, đã chia sẻ trong Nhóm của chúng tôi, khi chị bị một người bạn thân nói xấu và làm thiệt hại về uy tín và tình cảm, Chị buồn bã và tức giận vô cùng, không thể nào chấp nhận được một người thân của mình đã có hành xử coi thường và bêu xấu đời tư, thực là một diều kị cho uy tín của một người hành nghề liên quan đến công lý như Chị, đó là chưa kể tâm lý của nghề “ Thày cãi “ đòi hỏi phải làm cho ra ngô, ra khoai cái việc nói xấu vô lý này. Chị đã không thể ngưng lại lòng căm ghét và nghĩ xấu cho bạn, Chị liền vào phòng riêng ca ngợi Chúa trong khoảng 45 phút , càng hát nhứng bài hát tâm tình về lòng bao dung và độ lượng của Chúa kính yêu thì Chị càng thấy lòng nhẹ nhàng, thư thái. Đến khi ca ngợi Chúa xong, thì Chị đã có thể hoàn toàn quên đi lỗi lầm của người Bạn. Ca ngợi Chúa thật là có sức biến đổi lòng người , từ oán giận thành tha thứ , từ ghét bỏ thành chấp nhận và thông cảm.
Tôi cũng đã thử cách này của Chị, tôi là một người khi nóng giận với vợ thì lỗ mãng và nói nhiều câu làm cho vợ đau khổ cả nhiều năm trời, tôi lại còn có cái tự tôn và kiêu ngạo ngầm. Có những lần, bất đồng ý kiến, tôi cãi nhau với vợ tới mức muốn bùng nổ căn nhà. Áp dụng cách của Chị luật sư , khi cãi nhau đến mức nặng tệ , tôi bỏ đi, lái xe đến sân nhà thờ, ngồi trong xe, tôi xin lỗi Chúa và ca ngợi Chúa, khi đó thường thì Chúa sẽ làm cho mình nhìn thấy cái lỗi lớn là sự nóng nảy, hiếu thắng của mình, rồi tiếp tục trong tinh thần nhẹ nhàng, thanh thản của Ca ngợi tôi sẽ không còn coi phần ai thắng, thua , ai phải, ai sai là quan trọng nữa, và cho đến cuối buổi ca ngợi thì tôi đã có thể cầu nguyện cho người mà mình vừa cãi vã. Khi đó , việc quay về nhà để xin lỗi vợ, ôm hôn vợ sẽ trở nên là việc đương nhiên và dễ dàng , mặc dù chỉ vài giờ trước mình còn coi vợ như kẻ không thể nào ở chung. Tôi nhận ra rằng, chỉ có Chúa qua sự ca ngợi mới có thể thay đổi lòng tôi cách chóng vánh như vậy mà thôi. Cũng có lần giận một thày Phó tế nọ về cách điều hành lớp Giáo lý , tôi đã mất Chúa cả mấy tháng trời vì Chúa đã nói rồi hãy để của lễ lại đó …, đi làm hòa với người anh em ấy đã nếu như tôi không làm được thì Chúa không thèm nhìn đến những lời ca ngợi vô nghĩa , của tôi. Rồi trong một dịp ca ngợi Chúa trong Thánh lễ, được ơn Chúa thúc đẩy, tôi đã chay ra bắt tay và làm hòa với Thầy.
Như vậy, từ thái độ quên đi cái “TÔI” lớn bự đến chỗ có một tâm tình hết sức đơn sơ như trẻ em và tùy thuộc vào ý Chúa, khao khát làm theo ý Chúa . Tất cả, tôi đã chỉ có thể có được khi ca ngợi và kết hợp với Chúa.
Ơn đổi mới được ban cho người Ca Ngợi Chúa về mọi mặt nhất là về tinh thần, tính hạnh và tình yêu thương. Thực ra, “Sự Đổi Mới” trong đời sống mình khi ca ngợi sẽ là mấu chốt của mọi ơn khác, ơn lành phải bắt đầu từ nơi chính người ca ngợi Chúa trước rồi lan sang cho người mà mình muốn cầu nguyện cho.
Bạn ơi, chúng ta hãy cùng bước vào trong sự hiện diện của Chúa bằng cách ca ngợi Chúa với hết linh hồn, hết tâm tình như Vua Đa vít xưa, để chính hôm nay, Bạn được cảm biết cụ thể rằng Chúa Giê Su ngọt ngào, thương xót, thánh khiết và đẹp đẽ dường nào qua muôn vàn ơn phước mà Chúa ban cho.
Hãy hoan hô Yavê, toàn thể cõi đất,
hãy phụng thờ Người trong niềm hoan vui,
hãy đến trước nhan Người trong tiếng hò reo! (Thánh Vịnh 100: 1-2)
Phan Sinh Trần