Chúng tôi đã “giết chết” một người bạn

Chúng tôi đã “giết chết” một người bạn

Năm nay tôi đã gần bảy mươi tuổi. Cái tuổi mà con cháu đã có thể chúc thọ được rồi. Tôi đã chứng kiến biết bao câu chuyện cuộc đời. Nhưng có một câu chuyện mà tôi không thể nào quên được. Tôi viết lá thư này gửi các anh, các chị  để kể lại câu chuyện mà tôi là một người liên quan đến câu chuyện đó. Hy vọng, câu chuyện của tôi nếu được in lên sẽ nói với bạn đọc gần xa một điều gì đó về cuộc đời này.

Câu chuyện xảy ra vào năm cuối cùng trong đời sinh viên của tôi, ở ký túc xá mà tôi ở lúc đó. Một hôm, chúng tôi đi tập quân sự. Duy chỉ có một người trong phòng kêu ốm và ở lại. Người đó là S, quê ở Thanh Hóa. Buổi chiều trở về, tôi sắp xếp lại đồ đạc cá nhân và hoảng hốt nhận ra một chỉ vàng của tôi không cánh mà bay. Đó là chỉ vàng mà cha mẹ cho để mua xe đạp đi làm sau khi tôi ra trường. Ngay lúc đó, tôi nhìn S đang nằm quay mặt vào tường và hoàn toàn tin rằng S đã lấy cắp chỉ vàng của tôi. Tôi đề nghị mọi người trong phòng cho tôi khám tư trang của họ. Cuộc khám xét không thành công.

Nhưng qua phân tích của chúng tôi và qua thái độ hoang mang của S, chúng tôi đều tin S đã giả ốm ở nhà để lấy cắp chỉ vàng của tôi. Chúng tôi đã báo cáo sự việc với nhà trường. Bảo vệ nhà trường cho biết, buổi sáng chúng tôi đi tập quân sự thì S có ra khỏi trường khoảng một giờ đồng hồ. Mặc dù S cả quyết không hề lấy cắp chỉ vàng ấy, nhưng chúng tôi và nhà trường đã tiến hành nhiều cuộc họp để chất vấn và khẳng định thủ phạm vụ trộm đó là S.

Một tuần sau, chúng tôi phát hiện S mang một tải mì sợi ra ga tàu mang về quê. Chúng tôi túm lại hỏi S lấy tiền đâu mà mua mì sợi. S không nói gì mà ôm mặt khóc. Năm đó, nhà trường đã không xét tốt nghiệp cho S mặc dù học lực của S rất khá, với lý do đã có hành vi đạo đức xấu và không trung thực với tội lỗi của mình. Chúng tôi hồ hởi nhận bằng tốt nghiệp và quyết định phân công công tác. Chỉ có S không được nhận bằng tốt nghiệp và tạm thời không được phân công công tác. Đồng thời nhà trường có công văn gửi về địa phương S sinh sống đề nghị địa phương theo dõi và giáo dục S. Khi nào địa phương chứng nhận S đã hối cải và tiến bộ thì nhà trường sẽ xem xét giải quyết trường hợp của S.

Thời gian cứ thế trôi đi. Một số bạn bè học cùng chúng tôi vẫn có liên lạc với nhau. Duy chỉ có S là không ai biết rõ ràng ở đâu và làm gì. Nhà trường cho biết, S cũng không quay lại trường để xin cấp bằng và phân công công tác.

Ngày tháng trôi qua, tôi chẳng còn nhớ tới chỉ vàng bị lấy cắp năm xưa. Trong đám bạn bè tôi, có những người rất thành đạt. Đặc biệt H đã trở thành một người rất giàu có bằng năng lực và sức lao động của chính anh. Anh là một người được xã hội biết đến.

Một hôm, sau ngày tôi vừa nghỉ hưu, có một thanh niên mang đến nhà tôi một lá thư và một cái hộp giấy nhỏ. Anh thanh niên nói là một người nhờ chuyển, nhưng lại nói là không nhớ tên người đó. Tôi băn khoăn và hồi hộp mở thư ra. Lá thư chỉ vẻn vẹn mấy dòng: “Anh P thân mến, tôi xin được gửi trả lại anh chỉ vàng mà tôi đã lấy của anh cách đây mấy chục năm. Tôi sẽ đến gặp anh để xin anh thứ tội. Kính”. Đọc thư xong, tôi thực sự bàng hoàng. Lá thư không ký tên. Tôi không còn nhận được chữ đó là của ai viết nữa. Tôi đoán đó là thư của S. Tôi mở chiếc hộp giấy nhỏ và nhận ra trong đó có một chỉ vàng. Đó là một chỉ vàng mới. Không hiểu tại sao lúc đó nước mắt tôi chảy ra giàn giụa. Lúc này tôi mới thực sự nghĩ đến S với một nỗi xót thương. Ngày ấy, S là sinh viên nghèo nhất trong lớp. Bố S mất sớm. Mẹ S phải tần tảo nuôi năm anh chị em S ăn học. Có lẽ vì thế mà trong một phút không làm chủ được mình, S đã trở thành một kẻ ăn cắp. Nếu lúc đó, chúng tôi có được sự xót thương như bây giờ thì có lẽ chúng tôi không đẩy S vào tình cảnh như ngày ấy. Sau khi nhận được lá thư và chỉ vàng, tôi hầu như mất ăn, mất ngủ. Có một nỗi ân hận cứ xâm chiếm lòng tôi. Ngày ngày tôi đợi S đến tìm. Tôi sẽ nói với S là tôi tha thứ tất cả và tôi cũng xin lỗi S vì lòng tôi thiếu sự thông cảm và thiếu vị tha.Một buổi sáng có tiếng chuông cửa. Tôi vội chạy ra mở cửa. Người xuất hiện trước tôi không phải là S mà là H. Tôi reo lên: “Ối, hôm nay sao rồng lại đến nhà tôm thế này”. Khác với những lần gặp gỡ trước kia, hôm đó gương mặt H trầm tư khác thường. Tôi kéo H vào nhà và nói ngay: “Mình vừa nhận được thư thằng S. Cậu có biết nó viết gì không? Nó hứa trả lại tôi chỉ vàng và nói sẽ đến gặp tôi để xin lỗi”. Khi tôi nói xong, H bước đến bên tôi và nói: “Anh P, anh không nhận ra chữ viết của tôi ư. Tôi chính là người viết lá thư đó. Tôi chính là người đã ăn cắp chỉ vàng của anh”. Nói xong, H như đổ vào tôi và khóc rống lên. Tôi vô cùng bàng hoàng và không tin đó là sự thật. Khóc xong, H đã kể cho tôi nghe tất cả sự thật. Vì cũng muốn mua một chiếc xe đạp sau khi tốt nghiệp đi làm, H đã tìm cách lấy trộm chỉ vàng. Và suốt thời gian qua, H rất ăn năn và luôn tìm kiếm S để chuộc lỗi. Thế rồi chúng tôi quyết định về quê S mặc dù biết S không còn sinh sống ở quê đã lâu. Vất vả lắm chúng tôi mới biết thông tin về S: Sau khi bị nhà trường gửi công văn đến địa phương thông báo về đạo đức của mình, S đã phải chịu quá nhiều tai tiếng và những ánh mắt khinh bỉ của hàng xóm. S đã xin đi khai hoang ở một huyện miền núi. Nghe vậy, chúng tôi lại tức tốc lên đường tìm đến nơi S đang sinh sống. Ở đó S sống cùng vợ con trong một ngôi nhà gỗ đẹp dưới chân một dãy đồi. S trồng trọt và mở một trang trại chăn bò lớn. Trông anh già hơn tuổi nhưng khỏe mạnh và đôi mắt nhân ái vô cùng. Cả ba chúng tôi ôm lấy nhau mà khóc.


Tôi và H quyết định ngủ lại một đêm với S. H xin S cho H được kể sự thật cho vợ con S nghe để họ thanh thản và hãnh diện về chồng, về cha mình và H muốn được tạ lỗi với vợ con S. Nhưng S gạt đi và nói:

“Chưa bao giờ họ tin tôi là kẻ ăn cắp”.

Trước khi chia tay nhau, H cầm tay S khóc và nói:

“Mình có tội với cậu. Cậu đã tha tội cho mình. Nhưng mình muốn được trả một phần nhỏ cái nợ lớn mà đời mình đã mang nợ với cậu. Hãy nói mình phải trả nợ cậu như thế nào”.

S mỉm cười và nói:

“Ông đã trả hết nợ rồi”.

Khi tôi và H còn chưa hiểu ý thì S nói:

“Việc ông nói ra sự thật về tội lỗi của ông là ông đã trả hết nợ rồi. Đừng nghĩ gì về chuyện cũ nữa. Mà thực ra, ông nợ chính ông nhiều hơn là ông nợ tôi. Nợ người dễ trả hơn nợ chính mình”.

Cho đến lúc đó, tôi mới thực sự hiểu con người S. Tôi hiểu ra một điều gì đó thật xúc động, thật sâu sắc về cuộc đời này. Hóa ra, có những tâm hồn lớn lao và cao thượng lại nằm trong những con người khốn khó và giản dị như thế.

Cũng trong cái đêm thức với S tại ngôi nhà gỗ của anh, chúng tôi mới biết những ngày đi học, khi nghỉ học, S vẫn đi quay mì sợi thuê để mua mì sợi cứu đói cho gia đình. Chúng tôi đã không hiểu được bạn bè mình. Chúng tôi đã làm cho một con người như S nếu không có nghị lực, không có lòng tin có thể dễ dàng rơi vào tuyệt vọng.

Thưa các anh, các chị, câu chuyện tôi kể cho các anh, các chị chỉ có vậy. Nhưng với tôi đó là một bài học về con người và về cuộc đời. Kính chúc các anh, các chị mạnh khỏe, an khang và thịnh vượng.

Thân ái,

Đ. V. P

‘Cậu Thủy’ và ‘Cậu Hồ’

‘Cậu Thủy’ và ‘Cậu Hồ’

Ngân hàng Chính sách Xã hội cũng đã nhờ 'cậu Thủy' tìm kiếm hài cốt và mồ mả của các liệt sĩ.

Ngân hàng Chính sách Xã hội cũng đã nhờ ‘cậu Thủy’ tìm kiếm hài cốt và mồ mả của các liệt sĩ.

Nguyễn Hưng Quốc

31.10.2013

Hằng ngày, tôi vẫn vào các tờ báo mạng ở trong nước, từ lề phải đến lề trái, để đọc tin. Có điều, hầu như chưa bao giờ tôi mở các bản tin về những chuyện như “tâm linh” hay “ngoại cảm”. Với tôi, chúng đều thuộc loại nhảm nhí, không đáng mất thì giờ: vô ích, hơn nữa, còn có thể gây cảm giác bức bối khó chịu: vô duyên. Vậy mà, tình cờ, sáng nay, một người bạn lại hỏi tôi về “Cậu Thủy”. Tôi ngơ ngác, không biết gì cả. Anh mới kể vắn tắt về các “thành tích” của “cậu”. Thấy thú vị, về nhà, tôi vào internet để… làm quen với “cậu”.

“Cậu” tên thật là Nguyễn Văn Thúy, quê ở thị trấn Chờ, Yên Phong, Bắc Ninh, sinh năm 1959, năm nay 54 tuổi. Trước, “cậu” làm công an; sau, không biết vì lý do gì, “cậu” về làm dân. Quen thói cũ, làm dân, “cậu” cũng không chịu sống một cách lương thiện: Cậu tàng trữ vũ khí quân dụng và lừa đảo hết người này đến người khác. “Cậu” và vợ “cậu” bị bắt và ở tù hơn 10 năm. Được thả về, mấy năm sau, “cậu” bỗng nổi tiếng là một nhà ngoại cảm xuất sắc và càng ngày càng giàu.

Cái giàu của “cậu” có thể nhìn thấy ngay ở ngôi nhà “cậu” ở: Nhà ba tầng, xây theo kiểu biệt thự, trên nóc có hai con rồng chầu; trước cổng, có hai bức tượng sư tử bằng đá trắng lớn sừng sững rất uy nghi. Trong nhà, nghe nói, các vật dụng đều thuộc loại đắt tiền.

Tiền ấy từ đâu ra?

Trước hết là từ khách hàng của cậu, những người muốn tìm hài cốt hoặc mồ mả của thân nhân. Suốt mấy chục năm chiến tranh, số người chết mà không tìm thấy xác hoặc xác bị vùi vội vã đâu đó trong rừng hoặc trên đồng hoang khá nhiều. Sau chiến tranh, một số người bị tù hoặc bị cải tạo chết và bị lấp dối giá đâu đó dưới lớp đất nông cũng không ít. Thân nhân những kẻ bất hạnh ấy không ngừng tìm kiếm. Cách tìm kiếm được báo chí trong nước quảng cáo nhiều nhất là nhờ các nhà ngoại cảm, trong đó, có “Cậu Thủy”.

Nghe nói khách hàng của “cậu” đông đến độ, lúc nào cũng nườm nượp; nhiều người, muốn gặp cậu, phải ăn chực nằm chờ trước nhà “cậu” cả đến mấy ngày trời. Khi gặp, “cậu” yêu cầu ghi tên người chết muốn tìm để “cậu” gọi âm binh tìm kiếm hoặc nhờ “Mẫu” chỉ giúp.  Sau khi đã được “âm binh” báo cáo, “cậu” cho thuê xe chở gia đình khách hàng đi tìm mộ. Toàn bộ chi phí xe cộ và tài xế cho chuyến đi, khách hàng phải trả, khoảng năm bảy chục triệu. Cuối cùng, sau khi tìm được mộ thân nhân rồi, khách lại phải “hậu tạ” cho “cậu” một số tiền nữa. Nói chung, theo dư luận, muốn đến gặp “cậu”, người ta phải chuẩn bị ít nhất là 150 triệu đồng!

Thứ hai, một số cơ quan nhà nước cũng nhờ “cậu”, trong đó, được đề cập đến nhiều nhất là Ngân hàng Chính sách Xã hội. Cơ quan này đã nhờ “cậu Thủy” tìm kiếm hài cốt và mồ mả của các liệt sĩ. Dĩ nhiên là “cậu” làm được ngay. Tổng cộng, “cậu” tìm được 105 bộ hài cốt; mỗi bộ, được trả 75 triệu đồng; như vậy, “cậu” bỏ túi cả thảy được 7.9 tỉ đồng (khoảng gần 400.000 đô la). Các hài cốt được “cậu” tìm, sau đó, được mang về cải táng trong Nghĩa trang liệt sĩ các tỉnh một cách long trọng để mọi người thấy rõ là đảng và chính phủ không hề quên ơn những người con đã hy sinh thân mình cho… cách mạng!

Nhưng mới đây, một số nhà báo, sau nhiều năm âm thầm điều tra, đã tiết lộ một sự thật khủng khiếp: những cái gọi là hài cốt ấy chỉ là xương heo hay xương bò mà “cậu” Thủy đã thuê người chôn sẵn. Chưa hết. “Cậu” còn khôn ngoan chôn theo một số bình tông (“bidon”, bình đựng nước) có khắc tên nguệch ngoạc cũng như một số đôi dép cao su. Có điều phần lớn các bình tông cũng như dép cao su ấy còn khá mới. Nhưng không sao. Ngân hàng Chính sách Xã hội vẫn nhắm mắt trả tiền cho “cậu”. Miễn là có cái xương nào đó mang về cải táng trong Nghĩa trang liệt sĩ để thân nhân của họ an tâm và đồng bào khắp nơi đến thắp nhang kính vái!

Trước những sự thật được vạch trần không thể chối cãi được đó, ngày 28 tháng 10 vừa qua, công an đã đến còng tay “cậu Thủy”. Những ngày sau đó, báo chí khắp nơi nhao nhao chửi bới “cậu” là nhà ngoại cảm dỏm (ý là có những “nhà ngoại cảm” thật?).

Riêng tôi, đọc, tôi lại thấy thương “cậu”. Đương nhiên là “cậu” có lỗi, trước hết và chủ yếu là có lỗi với thân nhân những người đã chết. Những người ấy chắc phải thương bố/mẹ/chồng/vợ/con của mình lắm nên trong bao nhiêu năm không ngừng tìm kiếm; đến khi cầm được bộ xương heo/bò ngỡ là hài cốt của người thân, hẳn họ mừng rỡ vô cùng. Đến lúc nhận ra được sự thật, không biết họ sẽ đau đớn đến độ nào? Nhưng dù vậy, tôi vẫn thương “Cậu Thủy” vì, nghĩ cho cùng, tội của “cậu” cũng chả có gì đặc biệt.
Ở Việt Nam, trong thế kỷ 20 vừa qua, có một “nhà ngoại cảm” khác lừa dối nhiều người và nhận được nhiều tiền thưởng bất chính hơn “cậu Thủy” nhiều: Đó là “Cậu Hồ”.

“Cậu Hồ” cũng có tài sai khiến rất nhiều âm binh. “Cậu” cũng có “Mẫu” chỉ vẽ từng đường đi nước bước. “Cậu” cũng đem nhiều xương heo, xương bò, xương chó… ra lừa dân chúng để mọi người tin đó là thánh tích hay xá lợi của các bậc thần linh rồi sì sụp cúi lạy. “Cậu Thủy” chỉ làm 105 bộ hài cốt liệt sĩ giả; “cậu Hồ” chế tạo không những hài cốt liệt sĩ giả mà cả hài cốt quốc tổ giả và thần thánh giả; không những chỉ quy tập trong các nghĩa trang mà còn dựng sừng sững trong các cung điện, lâu đài, dinh này phủ nọ hết sức lộng lẫy và nguy nga. Nhiều bộ xương đến bây giờ vẫn còn ngọ nguậy và phóng uế tùm lum. “Cậu Thủy” chỉ lừa được một dùm người trong có sáu năm; “Cậu Hồ” thì lừa được cả thiên hạ trong gần một thế kỷ.

“Cậu” nào cũng dỏm. Nhưng nghĩ cho cùng, so với “cậu Hồ”, “cậu Thủy” chỉ là một thằng nhóc khôn lỏi. Có gì mà phải làm ầm ĩ chứ? Thôi, tha cho “cậu” ấy đi mấy bạn công an ạ.
Đồng môn và đồng chí với nhau cả mà.

Một học sinh Trung Quốc nhảy lầu chết « theo lệnh » của thầy giáo

Một học sinh Trung Quốc nhảy lầu chết « theo lệnh » của thầy giáo

Trò chơi tập làm bộ đội, tại khuôn viên Đông Dương, tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc (Ảnh chụp 25/10/2013)

Trò chơi tập làm bộ đội, tại khuôn viên Đông Dương, tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc (Ảnh chụp 25/10/2013)

REUTERS

Thụy My

RFI

Đài phát thanh quốc gia Trung Quốc (CNR) hôm nay 31/10/2013 loan tin, một học sinh Trung Quốc 10 tuổi đã tử vong khi nhảy từ tầng lầu thứ 30 xuống đất, sau khi bị thầy giáo ra lệnh phải viết bản tự kiểm, nếu không thì phải nhảy từ trên lầu xuống.

Em học sinh này bị thầy giáo ra lệnh phải viết một bản tự kiểm gồm 1.000 từ vì đã nói chuyện trong lớp. Phóng sự của Đài phát thanh quốc gia Trung Quốc trích lời thân nhân và hàng xóm của học sinh trên cho biết, cậu bé nhiều lần không hoàn thành nổi bản tự kiểm, và thầy giáo bèn nói, thế thì chỉ còn cách nhảy từ trên tòa nhà xuống.

Cũng theo CNR, người ta tìm thấy mảnh giấy trong một cuốn sách giáo khoa của em học sinh, viết nguệch ngoạc mấy chữ : « Thầy ơi, con không viết nổi. Con đã do dự nhiều lần khi cố gắng nhảy từ trên lầu xuống ».

Sau cái chết bi thảm của cậu bé, các thành viên trong gia đình đã giương biểu ngữ bên ngoài ngôi trường tại thành phố Thành Đô mang dòng chữ : « Thầy giáo đã buộc con chúng tôi phải nhảy lầu » – theo các tấm ảnh được đưa lên internet hôm nay.

Một viên chức có trách nhiệm của khu Cẩm Giang, nơi xảy ra thảm kịch nói là công an đang tiến hành điều tra, và không cho biết thêm chi tiết. Trên tài khoản tiểu blog, nhà trường viết rằng em học sinh trên và nhiều bạn học đã được lệnh viết bản phản tỉnh về thái độ của mình, sau khi gây trở ngại cho một cuộc thi hùng biện trong trường. Trường cam đoan là cậu bé chết « do tai nạn ».

Hệ thống giáo dục Trung Quốc có tiếng là kỷ luật nghiêm khắc. Truyền thống Trung Hoa buộc phải tuyệt đối tôn trọng bề trên, và học sinh phải luôn ngoan ngoãn vâng lời thầy cô.

Các buổi tự kiểm đã để lại dấu ấn sâu đậm cho xã hội Trung Quốc trong những năm tháng đen tối dưới chế độ Mao Trạch Đông, và mới đây lại được nêu cao nhân chiến dịch chống tham nhũng đang được tiến hành.

CHỈ CẦN CA NGỢI CHÚA RỒI ƠN LÀNH SẼ ĐẾN VI

CHỈ CẦN CA NGỢI CHÚA RỒI ƠN LÀNH SẼ ĐẾN VI

Phan Sinh Trần.

Một trong những cách ca ngợi Chúa mà nhiều người biết đến, đó là Đọc chuỗi kinh “Lòng thương xót Chúa”. Đây cũng có thể là cách ca ngợi Chuá mà bạn yêu thích phải không ? Cảm được sự hy sinh vô bờ bến của Chúa qua kinh “ Lòng Thương xót” là cách ta dùng để bày tỏ lòng cảm ơn , tôn vinh và thần phục Ngài.

Thú thật với bạn là phải trải qua một thời gian thì tôi mới được Chúa cho cảm thấy say mê, thích thú khi đọc kinh này mỗi ngày lúc ba giờ chiều. Lúc đầu tôi chỉ đọc một cách khá miễn cưỡng , tôi ép mình đọc kinh Lòng thương xót vì đó là ước muốn của Chúa khi Ngài nói với Thánh nữ Faustina: “Vào lúc 3 giờ chiều, con hãy khẩn nài Lòng Thương Xót của Cha, đặc biệt cho các tội nhân; chớ gì con hãy dùng một giây lát ngắn ngủi để dìm mình trong cuộc Thương Khó, nhất là với nỗi đớn đau chịu ruồng rẫy trong cơn hấp hối của Cha.”

Tôi vốn không quen đọc kinh lập đi lập lại, nhưng mà qua ngày tháng, khi đọc Lòng thương xót Chúa, thì sự dậy dỗ của Chúa lại khác, trong mỗi câu kinh Chúa mở mắt cho tôi 3 điều :

  1. 1. Chúa đau đớn như thế nào .

Trong mối câu kinh “ Vì cuộc khổ nạn đau thương của Chúa Giê su” , Chúa cho thấy từng sự đau đớn khác nhau của Chúa, nào là, sự thờ ơ của tôi trước tình yêu tha thiết của Chúa đã là một bẽ bàng, rồi đến cảnh tội nhân sống trong đam mê, và sầm sập , ào ào lao vào đường chết làm cho Đức Chúa Giê Su đau đớn vô cùng khi mà những hy sinh trên thập giá của Chúa đang thành ra vô ích cho vô số người, nào là phá thai tràn lan làm Chúa đau đớn cùng với hàng trăm triệu nạn nhân thai nhi , Tội ấu dâm tran lan làm Chúa đau đớn tột độ, … Từ sự cảm thông với hy sinh của Chúa ta sẽ biết ơn và yêu mến Ngài them nhiều biết bao nhiêu !

  1. 2. Ta hoàn toàn có thể cậy dựa vào lòng Ngài.

Trong mỗi câu kinh “ Xin Cha thương xót …” thì lòng ta bừng lên một niềm trông cậy mãnh liệt vì như Chúa Giê Su hứa, khi ta cậy vào máu khổ nạn Chúa, thì máu này có đủ sức để rửa xóa bất kỳ tội lỗi nào trên thế gian này, dù tội đó lớn đến mức nào, dù tội đó di hại tới bao nhiêu đời. Khi ta dâng cuộc hy sinh khổ nạn của Chúa Giê Su lên Chúa Cha và nài xin tha thứ thì Cha đã sắn lòng mà tha thứ hết. Không tin thác và phấn khởi sao được phải không bạn ?

  1. 3. Cảm thông và cầu nguyện cho mình và anh em khác.

Chúa thay cho mình một tấm lòng biết chạnh thương và muốn cùng chia xẻ với các Anh Em thân thuộc đang phải trải qua các gian nan, bệnh tât , khổ sở vì bị áp chế , bị nghèo đói, bị vu khống, bị bỏ tù oan … Với các tội nhân thì lòng ta ăn năn thay cho họ , lòng ta xót xa cầu thay cho Anh Em.

Kết quả là khi đọc “Lòng thương xót “ với hết linh hồn, trong tín thác và yêu kính Chúa Giê Su, Chúa Cha, thì đã có quá nhiều sự tha thứ và chứa lành xảy ra mà nhiều bạn cũng đã biết, mục kích , đã có kinh nghiệm. Về phần nhóm của chúng tôi thì mới đây đã được Chúa ban một ơn đặc biệt này,

Khi đó là vào một ngày thứ bẩy, gia đình Anh X đi câu cá tại Quintana gần FreePort Texas. Cửa biển Quitana là một vấn nạn cho dân câu cá nghiệp dư, nước rất cạn chỉ tới ngang hông , nhưng xoáy thành các hố sâu rất nguy hiểm, lâu lâu có một dòng nước ngầm, nằm dưới các đợt sóng đánh từ bên hông, nó kéo rút mọi thứ ra biển . Mặt nước rất cạn là một bẫy ngầm quá nguy hiểm cho bất kỳ người nào mới đến Quintana. Chỉ mới vào dịp lễ Memorial, cách đây năm tháng, đã có một gia đình năm người khi đang câu cá đã bị nước cuốn trôi tới giờ vẫn không tìm ra xác.

Anh X bị nạn tại bãi này, một giòng triều ngầm đã cuốn Anh X ra biển khi anh đang cố gắng cứu một người khác và có khả năng không tìm thấy xác Anh X. Anh Em trẻ trong nhóm Thánh linh đã kéo tới an ủi Chị X và muốn đi tìm xác anh X ngoài biển. Điều tốt là, trước đó mấy tuần, Chúa đã sắp xếp cho một Anh nọ tạm gọi là anh Y vào tham gia trong Nhóm Thánh Linh Giáo Xứ , anh Y có tàu đi chơi, tàu lớn, máy 500 mã lực, có thể cưỡi trên sóng biển, anh Y đã tận tình dùng tàu cùng với gia đình và bạn bè đi tìm anh X. Chúng tôi đã tìm trên bờ ngày hôm trước , hôm sau thì Anh X lái tàu đi lùng hết các bãi, các cửa biển, từ sáng cho đến ba giờ, chúng tôi đã không tìm thấy một dấu hiệu, dấu vết nào. Trước đó, Coast Guard, lực lượng phòng duyên đã cho máy bay đi tìm trong một chu vi 27 dặm, kéo dài 48 tiếng đồng hồ mà không có kết quả.

Đến ba giờ chiều thì tất cả Anh Em trên tàu quì xuống và cùng đọc kinh Lòng thương xót Chúa, Tối cũng biết rằng, không phải chỉ có chúng tôi, từ xa trên bờ và tận các vùng xa hơn nữa như Florida, Victoria Texas, có các Cha Tri, Cha Phi, Các Sơ và Anh Chị Em Cầu Nguyện online cùng hiệp thông và cầu xin Lòng thương xót Chúa ..

Khi chúng tôi đọc kinh xong, thì quẹo tàu lên bờ và tiếp tục bàn kế hoạch tìm kiếm, còn đang nói với nhau thì đã có một tàu khác đến báo xác Anh X đã nổi lên, cách chỗ chúng tôi đang đứng độ vài trăm mét. Đó là sự hiêu nghiệm của việc kêu cầu “ Lòng thương xót Chúa”. Sự chu đáo của Chúa không chỉ ở đó, trong suốt 15 năm trường, Chúa đã biến đổi anh X từ một người thò ơ với Chúa , trở thành một người thật là tuyệt vời về đạo hạnh và tin yêu để Anh X có thể sẵn sàng cho ngày về nhà Cha. Suốt 15 năm trường , Anh chỉ có một ước ao là làm chứng cho Chúa về ơn đổi mới mà Chúa Thánh Linh có thể ban cho bất kỳ ai tin vào Ngài, nhất là trong mấy tháng cuối , anh có dịp cầu nguyện mỗi ngày hai tiếng đồng hồ, cho từng thành viên trong Nhóm Thánh linh chúng tôi, Anh dặn dò , nhắn nhủ từng Anh Em ở xa Nhóm, hơn nữa Anh là một người chồng, người Cha lý tưởng không thể nào tốt hơn, hết lòng lo từng chút, chu đáo cho vợ, cho con.. Cho đến giây phút cuối đời, anh vẫn đang hy sinh cứu người.

Cảm tạ Chúa kính yêu, trong biến cố của Anh X làm cho chúng tôi thấy sức mạnh của “ Lòng thương xót Chúa”.

Xin 1 đan cử những ơn khác từ “ Lòng thương xót Chúa”. Cháu tôi làm nghề nail , nó lại bị bịnh viêm xoang mũi từ năm cháu 17 tuổi , xương mặt ở gần mũi vị nhiễm trùng chảy mũ, và đã mổ một lần để nạo xương ở các vụng bị viêm nhiễm, tuy nhiên, tình trạng chỉ đỡ được hơn một năm , rồi cháu lại bị như cũ, càng tiếp xúc với hóa chất trong tiệm nail và hít thở khí độc thì vùng mắt , mũi cháu càng sung đỏ phù lên và rất là khổ sở vì nước mắt, nước mũi chảy đêm ngày. Bệnh làm nhức đầu đến mức không ngủ nghỉ và không thở được. Tình trạng ngày một tê hơn và không có giải pháp y khoa nào có thể làm cho dứt bênh, đến giờ là 23 năm trường cháu bị bệnh hành hạ. Thấy cảnh đó tôi không thể nào cầm lòng và cầu nguyện kinh “ Lòng thương xót “ cho cháu. Cầu cho cháu được một tháng thì tôi thấy lòng bình an và chuyển sang cầu nguyện cho người khác. Tháng 3 năm nay , trong một dịp tang lễ , tôi có dịp gặp lại Cháu ở Canada , khi tôi hỏi về bệnh tình thì cháu mới sực nhớ và nhận ra là Chúa đã chữa cho cháu khỏi hẳn từ mấy tháng trời nay rồi mà không để ý . Lòng thương xót tuyệt vời của Chúa đã chữa lành cho cháu! Còn hơn thế nữa , theo như lời của chau làm chứng thì Chúa còn chữa lành các mối liên hệ và các bệnh về tâm linh cho Cháu này nữa.

Tới đây sẽ có Bạn dặt câu hỏi là Làm sao để đọc kinh Lòng thương xót hoài mà không nhàm chán và máy móc ?

Sự khác biệt là chúng ta đã không chỉ đọc với sự mệt mỏi, u buồn nhưng với lòng tràn đầy trông cậy và biết ơn Chúa.

Sự khác biệt là chúng ta đọc trong lòng líu lo thưa với Chúa Cha , Cha ơi một hy sinh thân mình của con Cha là đủ cho Cha tha hết và thương đến người Anh Em mà con đang cầu nguyện.

Sự khác biệt là chúng ta đọc trong tinh thần sốt sắng hứng khởi của Chúa Thánh Linh .

Bạn ơi , chiến thuật của mỗi Nhóm, mối Tĩnh Tâm Thánh Linh khi phải đối phó với ma quỉ , bệnh tật, tội lỗi là , ta hãy Ca Ngợi Chúa qua kinh “ Lòng Thương Xót Chúa” lúc 3 giờ chiều mỗi ngày. Bạn đang cầu nguyện đặc biệt cho ai , thì có ngày tôi biết cách chắc rằng bạn sẽ có dịp viết ra đây lời làm chứng vể ơn phước qua Lòng thương xót của Người.

Mình sẽ không thể bỏ qua một ngày mà khong đọc kinh Lòng thương xót của Chúa vì lời hứa sau đây của Chúa Giê Su kính yêu:

… Cha nhắc cho con nhớ rằng mỗi khi nghe đồng hồ điểm 3 giờ chiều, con hãy dìm mình hoàn toàn trong Lòng Thương Xót Cha, thờ lạy và tôn vinh; con hãy kêu nài sự toàn năng của Lòng Thương Xót Cha cho toàn thế giới, và nhất là cho các tội nhân đáng thương; vì vào giờ phút ấy, lượng Lòng Thương Xót được mở toang ra cho mọi linh hồn. Trong giờ này, con xin được mọi sự cho chính con và những linh hồn mà con cầu nguyện cho; đó là giờ của ân sủng cho toàn thế giới” ( Nhật ký Thánh Faustina, bài 1572)

Có phải công chức nhiều làm túi tiền quốc gia eo hẹp?

Có phải công chức nhiều làm túi tiền quốc gia eo hẹp?

Vũ Hoàng, phóng viên RFA
2013-10-31

cong-chuc-305

Đợt thi tuyển công chức trực tuyến đầu tiên do Bộ Nội Vụ tổ chức hồi tháng 1 năm 2013.

Courtesy TPO

Cùng với ngân sách Chính phủ gặp nhiều khó khăn, cân đối thu chi căng thẳng, dù kiến nghị giảm lương 100.000 đồng đối với mỗi cán bộ công chức đã bị Thủ tướng bác bỏ, song ít nhiều những động thái này cho thấy túi tiền quốc gia đang nhiều eo hẹp, trong đó, nhân tố gánh nặng công chức khiến nhiều người lo lắng.

Dư 30% số công chức

Với nhận định của Phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cách đây không lâu: “có tới 30% số công chức không có cũng được, bởi họ làm việc theo kiểu sáng cắp ô đi, tối cắp ô về không mang lại bất cứ thứ hiệu quả công việc nào”, đã ít nhiều cho thấy thực trạng cồng kềnh và trì trệ của giới công chức Việt Nam. Nếu đối chiếu con số này với một phân tích khác của nguyên Bộ trưởng Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Vũ Đức Đam rằng: “cứ hình dung nếu ngân sách thu 100 đồng…có 65% chi cho thường xuyên, trong số này khoảng một nửa là chi lương cho công chức, viên chức”, thì mới thấy một lượng ngân sách nhà nước đã bị lãng phí ra sao.

Hãy khoan bàn tới các con số cụ thể của từng bộ ngành hay các cấp tỉnh thành, tính đến hết năm 2012, Việt Nam có trên 2,2 triệu công chức viên. Theo khái niệm của Luật cán bộ, họ là các đối tượng thuộc cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị hay xã hội làm việc trên khắp 63 tỉnh thành Việt Nam.

” Bây giờ người ta nói nhiều đến chuyện tinh giản biên chế, nhưng sẽ dẫn đến những khó khăn trong việc sửa luật, nghị định rồi thông tư, điều này rất là khó.
-TS Vũ Ngọc Xuân”

Vẫn biết mọi so sánh là khập khiễng, nhưng thử làm một phép tính: Hoa Kỳ có trên 310 triệu dân, số công viên chức quản lý khoảng 2,2 triệu người, trong khi Việt Nam có dân số chưa bằng 1/3 nhưng số công viên chức cũng xấp xỉ, chưa kể xét về địa lý Việt Nam lại nhỏ chưa bằng 1/10 Hoa Kỳ… Những con số biết nói này cho thấy Việt Nam đang gặp một trở ngại lớn về hiệu quả làm việc của đội ngũ công chức… phải chăng túi tiền quốc gia eo hẹp vì lượng công chức quá đông, quá nhiều? Câu hỏi này của dư luận hẳn không phải là không có cơ sở.

Giải thích về hiện tượng trên, T.S Vũ Ngọc Xuân, giảng viên chính khoa Kinh tế, trường Đại học Kinh tế Quốc dân cho chúng tôi biết:

“Về mặt thể chế Việt Nam có mô hình giống với Trung Quốc, công chức viên chức mang tính chất là gắn bó suốt cuộc đời. Cho nên thu nhập của công chức ở Việt Nam thấp, một mặt là do cơ chế của Việt Nam là kinh tế thị trường nhưng định hướng xã hội chủ nghĩa. Về yếu tố con người, để sa thải người lao động thì luật pháp không cho phép mặc dù có một số trường hợp nhưng rất khó để vận dụng. Vì thế, bây giờ người ta nói nhiều đến chuyện tinh giản biên chế, nhưng sẽ dẫn đến những khó khăn trong việc sửa luật, nghị định rồi thông tư, điều này rất là khó.”

cong-chuc-1-250

Công chức làm việc trong một cơ quan hành chính công ở Đà Nẵng, ảnh minh họa chụp trước đây. Courtesy LĐ.

Vấn đề mà T.S Vũ Ngọc Xuân phân tích chính do cơ chế và luật định của “định hướng xã hội chủ nghĩa” là những rào cản khiến việc sa thải công chức tại Việt Nam không dễ dàng… chưa kể những chuyện chưa nói ra ai cũng biết là một lượng lớn thành phần này lại nằm ở những vị trí được xem là “dễ chấm mút,” là con ông cháu cha hay có các mối quan hệ chằng chịt với giới lãnh đạo… vì thế không phải ngẫu nhiên mà bản thân Chủ tịch Nguyễn Sinh Hùng từng thừa nhận “chạy này, chạy kia… khâu nào cũng có.”

Để có góc nhìn của người trong cuộc, chúng tôi trao đổi với ông Trương Văn Quảng, một cán bộ phụ trách nhân sự ở một bộ tại Hà Nội, ông cho biết còn rất nhiều bất cập không chỉ ở khâu cuối sa thải, mà bắt nguồn ngay từ khâu đầu vào tuyển dụng công chức ở Việt Nam:

“Khi tuyển dụng những người mới vào làm thì năng lực còn hạn chế, chưa có kinh nghiệm… nhưng do mối quan hệ cấp trên cấp dưới, do chạy chọt hay nể nang nhau nhưng cứ tuyển người vào làm, nên hiệu quả công việc trong quá trình triển khai thực tế gặp rất nhiều khó khăn, nên không đáp ứng được nhu cầu công việc. Có bức xúc trong vấn đề tuyển dụng cán bộ ngay từ khâu đầu vào.

Đáng lẽ giải quyết công việc nhanh gọn nhưng do cơ chế, chính sách văn bản chồng chéo, thủ tục hành chính cồng kềnh, số lượng người ngồi chơi xơi nước hơi bị nhiều, điều đó làm cản trở công việc.”

Làm ít, thưởng nhiều

Không chỉ những đối tượng được cho là “ngồi chơi xơi nước hơi bị nhiều” mà điểm đáng chú ý là khi có chế độ khen thưởng, tăng lương hay nhận hưởng các quyền lợi thì thường những cán bộ công chức này lại đứng đầu danh sách xét duyệt, ông Quảng cho biết tiếp:

” Vấn đề tăng lương hay sắp xếp tổ chức công việc gặp nhiều khó khăn bởi do những quan hệ cấp trên cấp dưới, nể nang đâm ra không đi thẳng vào năng lực cán bộ.
-Ô. Trương Văn Quảng”

“Khi họ đã làm việc thì vấn đề tăng lương hay sắp xếp tổ chức công việc gặp nhiều khó khăn bởi do những quan hệ cấp trên cấp dưới, nể nang đâm ra không đi thẳng vào năng lực cán bộ, đây là thực trạng trong bộ máy hành chính sự nghiệp của các bộ ngành hay thành phố hay các cơ sở của các tỉnh.”

Ngoài ra, ông Quảng còn cho biết thêm rằng, bởi nhiều khi trình độ của người quản lý có hạn, họ cần nhận vào tổ chức mình những thành phần “tay chân” để coi như có những người hậu thuẫn anh em, luôn đứng ra ủng hộ mỗi khi bầu cử, bỏ phiếu… Nghiễm nhiên thành phần đó là những kẻ ngồi chơi xơi nước, đi muộn về sớm, ăn cắp giờ công, đến nơi làm việc chỉ để lên mạng mua sắm, facebook, hết giờ về đi nhậu… phải chăng vì thế Việt Nam nghèo nhưng tỉ lệ người dùng internet thuộc diện cao nhất trên thế giới? và Việt Nam cũng trở thành quốc gia tiêu thụ hàng đầu thế giới 2,6 tỉ lít bia mỗi năm?

Nếu nhìn vào gốc gác vấn đề, những đối tượng cán bộ công chức là những người hưởng lương từ ngân sách nhà nước, mà ngân sách nhà nước là tiền thuế của dân. Quay lại chuyện 30% công chức “sáng cắp ô đi tối cắp ô về” nghĩa rằng chúng ta đang có chừng hơn 700.000 cán bộ dôi dư, nhân với con số trung bình 2 triệu đồng/ tháng, nghĩa là, mỗi năm Việt Nam lãng phí khoảng 17.000 tỷ đồng để chi trả cho bộ máy công chức nhà nước.

Số tiền này được chắt chiu từ mồ hôi công sức của những người nông dân chân lấm tay bùn, bán mặt cho đất bán lưng cho trời, của những người công nhân vất vả trong các xưởng may nóng nực…họ đóng thuế để cho những công chức ngồi hưởng thụ trong các phòng điều hòa mát lạnh. Phải chăng nỗi nhức nhối cho vấn đề bội chi ngân sách hay túi tiền quốc gia eo hẹp mà Quốc hội đang đau đầu đã có lời giải đáp?

Hẳn câu hỏi mà quý vị đang đặt ra là làm sao để loại bỏ những thành phần “ăn cơm chúa múa tối ngày”này! Chắc chắn không dễ dàng, bởi họ đã có một hệ thống dày đặc những văn bản pháp lý đứng ra bảo vệ, họ có một lớp quan hệ thần thế đứng ra bao bọc. Chỉ khi nào cái tâm của nhà quản lý, của các cấp lãnh đạo thực sự nghĩ đến lợi ích chung của toàn xã hội thì việc chọn lọc và loại bỏ những đối tượng trên mới có thể trở thành sự thật…

Một tay chơi môtô nhận giải thưởng Mẹ Têrêsa vì đã giải phóng các binh lính trẻ em

Một tay chơi môtô nhận giải thưởng Mẹ Têrêsa vì đã giải phóng các binh lính trẻ em

chuacuuthe.com

VRNs (31.10.2013) – Sài Gòn – Sam Childers, một tay chơi môtô kì cự, đã cống hiến hơn 13 năm qua để giải cứu những binh lính nô lệ trẻ em tại phía Bắc Uganda và Nam Sudan thuộc Châu Phi. Ông vừa được Quỹ Harmony trao Giải thưởng Quốc tế Tưởng nhớ Mẹ Têrêsa năm 2013 trong lĩnh vực công bằng xã hội. Sam Childers là người bản địa vùng Pennsylvania, Hoa Kỳ, ông đã từng có thời kỳ nghiện ngập, bạo lực và từ bỏ Kitô giáo

Trao đổi với hãng AsiaNews, ông nói rằng, giải thưởng này thuộc về hàng ngàn trẻ em trong cuộc chiến tranh Sudan, và ở nhiều nơi khác trên thế giới, họ phải sống hàng ngày trong nỗi sợ hãi thường trực và bị đe dọa do các cuộc tấn công.

Lễ trao giải đã diễn ra hôm 27 tháng 10 tại The Leela, Mumbai. Ông Childers nói rằng, “Tôi không bao giờ đặt ra giới hạn về những gì mình có thể làm cho cuộc đời một đứa trẻ. Tôi không thể chấp nhận hoặc tin rằng những đứa trẻ có tai, có mũi, có tay và chân sẽ phải chịu cảnh tật nguyền [trong chiến tranh]“.

Sơ Prema, Bề Trên Dòng Thừa Sai Bác Ái (dòng mà Mẹ Têrêsa đã sáng lập), cũng gửi một điện thư chúc mừng người chiến thắng giải thưởng.

Ông Childers nói, “Chân Phước Têrêsa là một phụ nữ tuyệt vời, và tôi ngưỡng mộ lòng dũng cảm của mẹ. Mặc dù mẹ gặp nhiều khó khăn về mọi phương diện, mẹ không bao giờ từ bỏ sứ mệnh của mình vì mẹ khao khát Chúa Kitô”.

“Tôi đã theo gương của Mẹ [Têrêsa],” ông nói tiếp “Đừng giới hạn những gì bạn có thể làm cho Thiên Chúa, và Ngài sẽ không giới hạn những gì mà Ngài sẽ làm cho bạn.

Quỹ Harmony được thành lập vào tháng 10 năm 2005 với mục tiêu nhằm vinh danh các di sản của Mẹ Têrêsa và công bằng xã hội.

Abraham Mathai, người sáng lập và là chủ tịch của hiệp hội cho biết, hiệp hội phấn đấu “nhằm khôi phục niềm tin vào lòng trắc ẩn, bình đẳng xã hội và hòa bình, bằng cách thừa nhận các cá nhân và tổ chức làm việc vì xã hội.”

Khánh Tâm chuyển ngữ

Sự Sống Bất Diệt

Sự Sống Bất Diệt

 

Hôm ấy, một hoàng tử nọ và ba vị cận thần lên đường kinh lý kiểm tra đất nước rộng lớn của vua cha.  Khi tới trên đỉnh núi cao, hoàng tử đưa mắt nhìn xuống miền đất mênh mông phía dưới.  Một lúc sau, hoàng tử ngậm ngùi lên tiếng:

– Ôi, quê hương thân mến!  Ôi đất nước dấu yêu!  Ngươi thật xinh đẹp biết bao với những thung lũng êm dịu, những mặt hồ trong xanh đầy ánh sáng, những cánh đồng với đủ thứ hoa muôn màu sắc, những núi đồi hùng vĩ và những khu rừng tĩnh mạc êm đềm.  Thế nhưng, ta sẽ phải chết và sẽ phải từ biệt ngươi, sẽ không bao giờ còn được chiêm ngắm vẻ đẹp của ngươi nữa.  Ôi sự chết, nhưng tại sao lại phải có sự chết?

Rồi hoàng tử buồn sầu nức nở.  Thấy vậy, hai vị cận thần cũng mủi lòng khóc theo.  Họ than thở và tìm cách ủi an hoàng tử. Trong khi đó, vị cận thần thứ ba chỉ mỉm cười và không một lời phát biểu.  Về tới triều đình, hoàng tử gọi vị cận thần thứ ba đến và trách hỏi:

– Hôm nay, khi đứng trên núi cao, tâm hồn ta buồn sầu khôn tả.  Trong khi hai vị cận thần kia tìm cách an ủi ta, còn ngươi, tại sao ngươi chẳng nói gì mà lại mỉm cười như thế?

Vị cận thần thứ ba khôn ngoan trả lời:

– Tâu lạy hoàng tử.  Xin hoàng tử hãy nghĩ lại xem.  Nếu những vị danh nhân đại tướng từ trước đến nay tiếp tục sống mãi, không ai phải chết, đời sống họ sẽ ra thế nào và vận mệnh thiên hạ sẽ ra sao?  Nếu hoàng đế, vua ông nội của hoàng tử không phải chết thì làm sao vua cha của hoàng tử có thể lên ngôi kế vị được?  Nếu vua cha của hoàng tử còn tiếp tục sống mãi thì làm sao hoàng tử có thể cai trị trên ngai vua cha được?  Nếu như tất cả các hoàng tử và các vua chúa trên trần gian này còn tiếp tục sống mãi thì lúc này hoàng tử sẽ thế nào?  Hôm nay, hạ thần đã nhìn thấy một hoàng tử thiếu hiểu biết sự thật về thân phận con người, lại thêm hai vị cố vấn chỉ biết nịnh bợ vuốt ve sự khờ dại của hoàng tử nữa thì làm sao mà hạ thần lại không thấy buồn cười được?

Lời nói khôn ngoan của vị cận thần thứ ba đã làm cho hoàng tử thức tỉnh và cảm thấy hổ ngươi vì sự khờ dại của mình.  Hoàng tử nói thêm:

– Sau này, khi giờ chết đến, ta chỉ muốn một mình ngươi bên cạnh giường ta mà thôi.

Là người, ai lại không sợ chết.

Bởi vì biết rõ những gì phải bỏ lại đàng sau, nhưng không biết trước mắt sẽ gặp thấy điều gì, chính vì những điều chưa biết đó làm cho con người thêm băn khoăn lo sợ.  Tuy nhiên, trên trần gian này không có chân lý nào chắc chắn hơn là sự chết.  Mỗi người sinh ra trên trần gian đều phải chết, tuy không ai biết được chính xác mình sẽ phải chết khi nào, chết cách nào và chết ở đâu.  Thế nhưng, đâu phải tất cả mọi người đều nghĩ tới cái chết của mình.  Biết bao nhiêu người sống như thể là sẽ không bao giờ phải chết hoặc vì dửng dưng, hoặc vì cố tình muốn gạt bỏ nó sang một bên để khỏi phải bận tâm đến cuộc sống hiện tại của họ.

Chúa Giêsu tuy là Con Một của Thiên Chúa hằng sống và là nguồn mạch sự sống, nhưng đã tự nguyện mặc lấy thân phận con người hay chết, và hơn nữa đã muốn chấp nhận cái chết khổ nhục trên thập giá để nhắc nhở con người thực tại về sự chết là gì và đâu là con đường dẫn tới sự sống hạnh phúc thật, sự sống bất diệt.

Trong Phúc-âm, trước khi bước vào con đường khổ nạn, Chúa Giêsu đưa ba môn đệ thân cận nhất lên núi cao và cho họ thấy trước vinh quang của Ngài để củng cố niềm tin của họ, để họ không nản lòng thất vọng vì sẽ phải đứng trước cái chết khổ nhục của Ngài, vì biết rằng đó là ngưỡng cửa dẫn vào vinh quang của sự sống bất diệt.

Con đường cứu độ đó không thể nào chỉ dừng lại trong vinh quang của núi Tabor, nhưng là vững bước cùng Chúa vác thập giá tiến lên núi Sọ qua sự chết đi từng ngày trong cuộc sống của mình.

Chết đi cho tính kiêu ngạo, cho lòng ích kỷ tự ái và mọi thói hư nết xấu, để sống cho Chúa trong tinh thần phục vụ và yêu thương.

 

R. Veritas

From: ThiênKim & Nguyễn Kim Bằng

Quyền lực và trách nhiệm

Quyền lực và trách nhiệm

Nguyễn Hưng Quốc

28.10.2013

Bản chất của chính trị là quan hệ quyền lực. Quyền lực, nói một cách tóm tắt, là khả năng ảnh hưởng đến cách suy nghĩ cũng như hành vi của người khác. Trong hệ thống đẳng cấp của chính trị, chức vụ càng lớn, quyền lực càng nhiều; quyền lực càng nhiều, ảnh hưởng trên suy nghĩ và hành vi của người khác càng sâu và rộng. Ở vị trí cao nhất trong một quốc gia, ảnh hưởng ấy có thể tác động đến mọi công dân trong nước ấy. Ở Tây phương, hầu như ai cũng biết: Khi thay đổi lãnh tụ, chúng ta thay đổi chính phủ; và khi thay đổi chính phủ, chúng ta thay đổi cả quốc gia.

Về phương diện chính trị, có nhiều loại quyền lực, nhưng đơn giản và phổ biến nhất, có hai loại chính: quyền lực chính đáng và quyền lực không chính đáng. Quyền lực chỉ được xem là chính đáng khi nó được dân chúng ủy thác: Lúc ấy, quyền lực (power) biến thành thẩm quyền (authority).

Có thể nói thẩm quyền là thứ quyền lực được sự đồng thuận giữa người cai trị và những người bị trị. Hình thức phổ biến nhất của sự đồng thuận ấy là qua các cuộc bầu cử tự do, bình đẳng, công khai và minh bạch.

Tuy nhiên, dù được tiến hành dưới hình thức nào thì mọi quyền lực và mọi thẩm quyền đều phải đáp ứng được một số điều kiện dân chủ, trong đó, quan trọng nhất là giới hạn và trách nhiệm. Cái gọi là giới hạn ấy có hai khía cạnh chính: một là giới hạn về thời gian (có tính chất nhiệm kỳ, không phải vĩnh viễn, cha truyền con nối) và giới hạn của chính quyền lực (phải chấp nhận phân quyền và chịu sự kiểm soát của các cơ quan độc lập). Những điều này đã có nhiều người viết. Ở đây, tôi chỉ xin tập trung vào yếu tố trách nhiệm.

Nếu bản chất của quyền lực, dưới các chế độ dân chủ, là sự đồng thuận thì hai cơ sở chính để duy trì sự đồng thuận ấy là: sự tín nhiệm và trách nhiệm. Nói đến tín nhiệm là nói đến một thứ quan hệ nhiều chiều, nhưng trong đó, chiều quan trọng nhất là chiều từ dưới lên: những người bị trị tín nhiệm những người cai trị. Trách nhiệm, ngược lại, chủ yếu là theo chiều từ trên xuống: những người có quyền lực phải chịu trách nhiệm về chính quyền lực của mình, và với những người đã ủy thác quyền lực ấy cho mình.

Quyền lực không phải là một cái gì có tính chất tự thân: quyền lực vì quyền lực. Mọi quyền lực chính đáng đều có tính mục đích: quyền lực để làm một cái gì. Dưới chế độ độc tài, cái gì đó là bản thân người và/hoặc gia đình người có quyền lực; dưới chế độ dân chủ, cái gì đó là những mục tiêu chung mà mọi người tin tưởng và giao phó, thuộc về cộng đồng, hay rộng hơn, quốc gia. Những mục tiêu chung ấy chính là trách nhiệm.

Có thể nói, quyền lực chỉ chính đáng trong chừng mực nó gắn liền với trách nhiệm và chu toàn trách nhiệm. Một nhà lãnh đạo lý tưởng phải nhắm đến trách nhiệm nhiều hơn là quyền lực. Ở Việt Nam, ngược lại, với quyền lực, người ta muốn tuyệt đối (độc quyền lãnh đạo), nhưng với trách nhiệm, người ta lại muốn chia sẻ (trách nhiệm tập thể). Hậu quả là không ai chịu trách nhiệm về điều gì cả, ngay cả với những sai lầm của chính mình và/hoặc thuộc quyền hạn của mình.

Tất cả những điều ấy, người ta đều thấy từ lâu. Vụ thất thoát tài sản đến cả mấy tỉ đô la của tập đoàn kinh tế Vinashin: Không ai chịu trách nhiệm cả. Các vụ vỡ nợ liên tục của các tập đoàn kinh tế quốc doanh khác sau đó: Không ai chịu trách nhiệm cả. Kinh tế càng lúc càng suy thoái: Không ai chịu trách nhiệm cả. Nạn tham nhũng càng ngày càng phát triển từ một số con sâu đến cả một “bầy sâu”: Không ai chịu trách nhiệm cả. Đạo đức ở khắp mọi nơi càng ngày càng suy đồi: Không ai chịu trách nhiệm cả. Giáo dục càng ngày càng xuống dốc: Không ai chịu trách nhiệm cả.

Mới đây, gây xôn xao dư luận trong nước nhiều nhất là những chuyện liên quan đến ngành y tế: Nhiều bác sĩ, vì bất cẩn và thiếu đạo đức, làm chết hàng loạt bệnh nhân, trong đó có các sản phụ và trẻ em, thậm chí, một bác sĩ thẩm mỹ ở Hà Nội làm chết bệnh nhân rồi vứt xác xuống sông Hồng để phi tang. Trách nhiệm thuộc về ai? Không có ai nhận cả. Mọi người cứ đổ lỗi cho nhau. Dân chúng bức xúc đến độ, lần đầu tiên trên báo chí chính thống (PetroTimes) trong nước, có người kêu gọi Bộ trưởng Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến từ chức.

Có lẽ, cuối cùng, bà Nguyễn Thị Kim Tiến vẫn tiếp tục làm Bộ trưởng. Như tất cả những nhà lãnh đạo khác của Việt Nam từ trước đến nay. Vô trách nhiệm đến mấy, cái ghế của họ vẫn bất khả xâm phạm, dù cái giá mà họ và đảng họ phải trả rất đắt: Càng ngày càng mất sự tín nhiệm của dân chúng.

Không có trách nhiệm, mọi quyền lực đều là ăn cắp. Không có sự tín nhiệm, mọi quyền lực đều là ăn cướp. Không có cả hai, người ta vừa ăn cắp vừa ăn cướp.

Một ‘nhà ngoại cảm’ Việt Nam bị bắt vì tội lừa đảo

Một ‘nhà ngoại cảm’ Việt Nam bị bắt vì tội lừa đảo

Những hoạt động tìm kiếm, quy tập mộ liệt sĩ của ông Thúy nhận được sự tài trợ của Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam, một ngân hàng quốc doanh

Những hoạt động tìm kiếm, quy tập mộ liệt sĩ của ông Thúy nhận được sự tài trợ của Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam, một ngân hàng quốc doanh

30.10.2013

Truyền thông Việt Nam đưa tin một người đàn ông tự xưng là ‘nhà ngoại cảm’ đã bị bắt vì tội lừa đảo giả mạo hài cốt liệt sĩ và nhận tiền thù lao hơn bảy tỉ đồng Việt Nam (khoảng 350.000 đô la).

Báo Thanh Niên cho hay vụ việc bị đưa ra ánh sáng sau khi một nhóm pháp y quân đội phân tích chín bộ hài cốt mà ông Thúy nói là của liệt sĩ. Kết quả giám định cho thấy những hài cốt này hóa ra là xương động vật.

Ðược biết những hoạt động tìm kiếm, quy tập mộ liệt sĩ của ông Thúy nhận được sự tài trợ của Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam, một ngân hàng quốc doanh. Sau mỗi vụ tìm hài cốt liệt sĩ, ông Thúy được ngân hàng chuyển ngân 75 triệu đồng một hài cốt.

Trả lời phỏng vấn của trang tin vnexpress, một lãnh đạo của ngân hàng này nói sự tài trợ này là việc làm “phát tâm” và không vụ lợi.

Ông nói ngân hàng tin tưởng kết quả tìm kiếm của ông Thúy vì “không có nghiệp vụ để xác định là xương người hay xương động vật.”

Công an tỉnh Quảng Trị hôm 18/10 đã quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can.

Cũng theo truyền thông trong nước, ông Thúy trước đây từng bị bắt giam về tội lừa đảo, chiếm đoạt tài sản.

Nguồn: Associated Press/ThanhNien/vnexpress

NHỮNG NGƯỜI DỌN ĐƯỜNG

NHỮNG NGƯỜI DỌN ĐƯỜNG

Việc đi thăm những công viên quốc gia ở Mỹ là một trải nghiệm không thể quên được.  Nhưng việc khám phá ra một trong những công viên đó còn đáng nhớ hơn nhiều.  Ở những con đường dành cho những vận động viên đi bộ đường dài, chúng ta sẽ thấy nhiều chỉ dẫn được xếp đặt cẩn thận để giúp cho họ đi dễ dàng hơn.  Trên những con đường đó, chúng ta sẽ thấy nhiều cột định vị.  Ở những đoạn dốc khó đi, chúng ta sẽ thấy các bậc thang được đục ra từ những hòn đá lớn.  Ở những chỗ đầm lầy, chúng ta sẽ thấy những viên đá được kê sẵn để người đi bước qua dễ dàng.  Ở những đoạn nguy hiểm, chúng ta sẽ thấy những bảng cảnh báo được đặt sẵn.

Nhờ vào sự sắp xếp cẩn thận đó, các vận động viên thậm chí không chuyên nghiệp có thể an toàn băng qua rừng sâu và địa hình núi non hiểm trở.  Khi đi trên đường đó, ta sẽ ngạc nhiên thấy một sự chuẩn bị rất công phu.  Ta sẽ dễ dàng nhận ra một điều: không có những con đường như thế thì một vận động viên bình thường cũng sẽ hoàn toàn thất bại.

Các vị Thánh đã làm những điều tương tự như thế cho chúng ta.  Họ đã dọn sẵn đường đi cho chúng ta. Các Ngài đã đặt những dấu hiệu để báo trước cho chúng ta.  Các Ngài là những người đi tiên phong để dẫn đường cho chúng ta, những người dẫn đường tuyệt vời.  Các Ngài đã chỉ cho chúng ta thấy người bình thường như chúng ta vẫn có thể thực hiện được nhiều điều lớn lao cốt làm đẹp lòng Thiên Chúa. Họ là những tấm gương sáng ngời về sự cương quyết, hiến dâng và hy sinh.

Người Kitô hữu cần noi theo các vị Thánh đó.  Một số các vị ấy đã hoàn thành tốt sứ mệnh.  Một số khác đã vấp ngã, đã lầm lỡ, đã thất bại nhưng cuối cùng các Ngài đã đi vào chính lộ.  Tất cả các vị Thánh ấy đã cố gắng trải rộng tình yêu và lòng dũng cảm trong chính nơi con người các Ngài.

Tất cả tấm gương tốt đều không bị bỏ qua trong danh sách các vị Thánh.  Tất cả các Ngài đều ở giữa chúng ta, thậm chí ngay trong thời của chúng ta.  Các vị Thánh cả nam lẫn nữ và những câu chuyện của các Ngài đã hướng dẫn chúng ta đi trên hành trình cuộc đời.  Đó là những câu chuyện về lòng mến Chúa yêu người – là hai giới răn cao trọng nhất đã được kết hợp thành một giới răn duy nhất mà tầm quan trọng của nó thật phi thường.

Chúng ta có thể đón nhận nguồn động viên, sự khích lệ từ các Thánh đã đi trước chúng ta và dọn đường cho chúng ta.  Mỗi vị đã dọn một con đường cho chúng ta đi qua dễ dàng hơn.  Khi chúng ta nếm trải sự chán nản, cảm giác thất bại thì cũng là lúc các Ngài nói với chúng ta: “Chúng ta luôn ở bên con.  Đừng bỏ cuộc.”

Tuy nhiên, chúng ta thường có khuynh hướng đặt các Thánh lên vị trí cao qúy đến mức chúng ta cảm thấy xứng đáng khi tự bào chữa về việc noi gương sống của các Ngài.  Trong trường hợp đó, sự sùng kính các Thánh sẽ trở nên một chướng ngại hơn là một sự giúp đỡ.

Các vị Thánh như những mẫu gương cho chúng ta noi theo.  Vì các Ngài trước kia cũng là những người tội lỗi.  Các Ngài là những người luôn nhắc chúng ta nhớ về cuộc sống thế gian này.  Các Ngài đã thắp lên lòng nhiệt huyết nơi chúng ta, hướng dẫn, khích lệ chúng ta và cho chúng ta niềm hy vọng. Dĩ nhiên các Ngài cũng là những người trung gian cầu bầu cho chúng ta bên tòa Chúa.

Nhưng các Ngài không thể nào làm thay những việc bổn phận chúng ta phải làm.  Các Ngài không dạy cho chúng ta phương pháp nào ngắn gọn để giúp ta tránh khỏi những vấn đề khó khăn hay dễ dàng đi qua con đường hẹp.  Chúng ta đừng mong chờ người khác làm việc thay cho chúng ta trong khi chúng ta lại không tự mình nghiêm túc rèn luyện.  Chính chúng ta phải đi trên con đường đó, phải đi bằng chính đôi chân của mình.  Các vị Thánh chỉ giúp chúng ta thêm lòng can đảm để vượt qua khó khăn mà thôi.

Phaolô Nguyễn Hồ Hữu Thành

Phỏng dịch từ New Sunday Holyday

From: langthangchieutim

Cha Khách…

Cha Khách…


Nhà thờ xóm tôi thỉnh thoảng có cha ngoại quốc ghé qua làm lễ, mỗi cha một vẻ, từ diện mạo cho đến phong cách giảng. Đa phần các cha dựa vào mẫu giấy đã soạn trước để diễn giải phúc âm bằng ngoại ngữ, vì tiếng pháp không phải là tiếng mẹ đẻ của ngài.

Mùa Thu năm nay, cha trẻ gốc Châu Phi đến xóm tôi làm lễ hai lần. Ngoài lợi điễm thông thạo pháp ngữ, ngài có lối giảng như người dẫn chương trình TV hiện nay. Vừa giảng, vừa hỏi rồi để giáo dân « suy tư bên bờ vắng », đó là cách lôi kéo giáo dân « nhập cuộc » với ngài, nhưng « cái đinh » của bài giảng là quan điễm riêng của ngài rất sát với thực tế.
Thánh lễ dành cho gia đình chiều nay với dàn nhạc sống của giới trẻ và những bài thánh ca hào hứng, còn có cha khách chủ tế, thật thú vị.
Mở đầu bài giảng, cha bật mí, lần đầu tiên trong đời linh mục, tôi được giáo dân « ra chủ đề » để tôi làm bài, bữa nay các bạn trẻ yêu cầu tôi nói làm sao để các bạn phải nhớ đến bài phúc âm này dài lâu.
Ngài gãi đầu thỏ thẻ, hình như vị trí của tôi vừa bị hoán đổi, không sao, có Chúa Thánh Thần soi sáng, tôi tin có thể đáp ứng yêu cầu của các bạn.
Trong bài phúc âm này, Chúa bảo nếu chân, tay hay mắt của chúng ta làm đều xấu, thì phải chặt bỏ phần đó đi, nói vậy đạo của Chúa xem ra « hơi ác độc » và mất hẳn đức nhân từ, không dạy chúng ta phải tha thứ như thường nghe.
Quý vị nghĩ gì, và hiểu thế nào về từ ngữ chúng ta vừa nghe, hình như đoạn phúc âm này chúng ta đã nghe nhiều lần trong đời, chắc quý vị đã nghe các cha giải đáp những lần trước rồi, tôi phải nói làm sao để không nhàm chán đây.

Cha nhìn mọi người cười cười, hồi nhỏ tôi nghe bài phúc âm này cũng thấy đạo của mình khá rùng rợn, nhưng từ khi đi tu tôi mới hiểu hết ý Chúa.
Theo Thánh Kinh, Chúa bảo, thân thể chúng ta hư hỏng tới đâu chặt bỏ tới đó, kiểu này hầu như ai trong chúng ta cũng một lần trong đời trở thành phế nhân.

Nói vậy mà không phải vậy, động từ chặt đứt, vứt bỏ tay chân hay khoét mắt đó, đưa tới hình ảnh « không toàn thân » của chúng ta, bài phúc âm đưa ra câu hỏi, ai trong chúng ta dám tự hào mình là người hoàn thiện.
Chúa chấp nhận chúng ta khuyết tật, không hoàn hảo, vì thế Chúa mới đến tìm những con chiên ghẻ để cứu vớt, nhưng đáng buồn thay, chúng ta quá tự mãn nên có thấy Chúa đâu.
Chúa ra đời trong cảnh nghèo khó, lớn lên cặp bồ đánh bạn với dân chài lưới, bà góa, dân khố rách áo ôm, và chịu chết vì cái tính trịch thượng của chúng ta.

Thưa quý vị, trong đời tu trì, tôi từng được giáo dân săn đón, ưu đãi, bỡi vì tôi

«đại diện Chúa» theo cái nhìn trần tục của quý vị, vô tình đôi khi quý vị bóp méo thánh kinh.
Chúa đến để phục vụ chứ đâu phải để làm Chúa ăn trên ngồi trước, tôi làm cha là để rao giảng Tin Mừng, tôi thuộc lớp người đi phục vụ chứ đâu phải mặc áo dòng để « làm cha thiên hạ ».

Bây giờ tôi xin trả bài với các bạn trẻ đây, các bạn chơi nhạc, hát hay, có tương lai tươi sáng trước mặt, biết đâu sau này có bạn sẽ trở thành thị trưởng, dân biểu, một người nỗi danh, hay cũng chỉ là thường dân như đa số chúng ta đây.
Sau này dù có là gì đi nữa các bạn cũng nên nhớ đến cái Đức Khiêm Nhường, đó là kim chỉ Nam để chúng ta không lạc lối và xa rời Chúa. Biết mình là người không hoàn hảo, người khiếm khuyết, nghĩa là nhận ra thân phận con người phải liên tục tu luyện để giống hình ảnh Chúa tạo ra chúng ta thuở ban sơ, thuở con người chưa tự kiêu, tự mãn để bị sập bẩy con rắn độc.
Hình ảnh con rắn phỉnh gạt bà Eva cũng chính là tính ngạo mạn, tự đại, tự mãn của chúng ta đó thôi, tội nghiệp cho thân phận mỏng dòn của chúng ta, dễ vỡ, dễ sa lầy lắm. Tôi nói ít, hy vọng quý vị và các bạn trẻ hiểu nhiều vì tôi chủ trương, tôi gợi ý Lời Chúa, quý vị là người tìm lời giải đáp và thực hành điều mình tìm thấy, nếu mình làm sai thì làm lại, Chúa luôn ở bên ta để dìu dắt ta.

Xin cảm ơn cha xứ đã cho phép tôi đến với quý vị, cảm ơn các bạn trẻ đã ra đề bài để tôi có cơ hội « mở đề bài », các bạn làm bài tiếp nhé và hãy nhớ chúng ta không phải là người hoàn hảo nên phải luôn tìm đến Chúa xin Người giúp đỡ.
Lần này cũng như lần trước, cha lại làm tôi suy tư, hình ảnh con người tàn phế này tôi đã thấy đâu đây, chính xác, chính chúng ta đó thôi chứ ai vào đây. Vì đã có lần ta tự khoát vào người chiếc áo hào nhoáng của kẻ tài ba, khôn ngoan, cao siêu hơn người khác, những tĩnh từ phù du chỉ đưa ta xa rời con đường đến với Chúa.
Cha khách nói hay hơn cha xứ dân Tây chính gốc, có thể vì ngài « mặc cảm » mình là dân ngoại quốc, cũng chỉ là khách vãng lai của xứ đạo nên ngài phải « soạn bài » thật kỷ để thu hút giáo dân.
Tôi không nghĩ như vậy, vì môn hùng biện cha nào cũng được đào tạo trong lúc học Thần Học, bài vỡ thì Phúc Âm từ ngàn xưa vẫn không thay đổi, có chăng là tài hùng biện của mỗi người mới là thiên phú.
Cái duyên ăn nói là đặc tính riêng của từng người, và cha khách đã « lấy lòng » giáo dân xóm tôi qua tài dẫn chuyện rất chuyên nghiệp. Cái nghiệp vãng lai của ngài hình như đang bén rể ở xóm tôi, tôi hy vọng rồi cha sẽ tiếp tục lai vãng đến đây để lôi cuống giới trẻ, và cả dân sồn sồn sắp bước vào giới « lão niên » như tôi đây, khám phá Phúc Âm, dù đã hơn hai ngàn năm vẫn có sức hấp dẫn, làm ta thắc mắc, tự vấn xem mình đã phụ lòng Chúa bao nhiêu lần rồi.

Tôi vừa viết xong bài này, cũng là lúc Roma ra thông báo Đức Thánh Cha vừa đâm đơn từ chức vì lý do sức khoẻ.
Giáo dân kẻ khen, người tiếc, tôi thán phục ngài sát đất, người uy quyền nhất Giáo Hội vừa thừa nhận, lực bất tồng tâm.

Đức Thánh Cha cũng chỉ lập lại bài phúc âm cha khách đề cập đến vài tháng trước, ngài tự nhận mình mang thân phận tầm thường như mọi người trước mặt Chúa và nhờ ơn Chúa Thánh Thần soi sáng ngài đã lấy một quyết định gương mẫu, một bài học để đời cho hậu thế.
Cuộc đời này rồi sẽ qua đi, còn chăng là dấu ấn của ngài, « thời đại » của ngài tuy ngắn hơn Đức Thánh Cha Jean Paul II, nhưng lại kết thúc trong bối cảnh đáng được chúng ta chiêm nghiệm.
Chung cuộc chúng ta cũng chỉ là khách vãng lai của trái đất này thôi, vậy hãy sống thật xứng đáng những ngày dù buồn hay vui đều là những ngày có Chúa trong cuộc đời chúng ta.

July 2013 / Đoàn Thị

THÁNG MƯỜI MỘT, NGHĨ SUY VỀ CÁI CHẾT

THÁNG MƯỜI MỘT, NGHĨ SUY VỀ CÁI CHẾT

Jos.Vinc. Ngọc Biển

Tháng Mười Một lại về, trong tâm trí bạn và tôi.  Tháng Mười Một là tháng mà Giáo Hội mời gọi ta hãy suy nghĩ về cái chết của mình và tha nhân. Khi ta suy nghĩ về sự chết, ta sẽ nhận ra sự yếu đuối của thân phận con người, sự mong manh và tính bất định của sự sống. Như vậy, khi suy nghĩ về sự chết thì cũng là lúc ta suy nghĩ về sự sống. Bởi vì nhờ suy nghĩ về sự chết mà ta có thể sống tốt cũng như hài hòa hơn trong các mối tương quan với tha nhân, đồng thời thêm xác tín mạnh mẽ vào sự sống trường sinh mai hậu. Nhà thơ R.Tagore đã viết thật chí lý khi ông dám chấp nhận cái chết là một sự thật: “Cuộc sống không phải là một cái gì bền vững và thường hằng, đó là một phát hiện đau đớn, nhưng lại đem đến cho tôi một cảm giác nhẹ nhàng” và “Cái chết đã đem lại cho tôi một cái nhìn đúng đắn hơn”[[1]]

Bạn thân mến!

Khi chọn tháng mười một là tháng dành riêng để cầu nguyện cho các linh hồn, hay những dịp cầu hồn, an táng, những dịp kính nhớ tổ tiên…Giáo Hội muốn mời gọi con cái của mình một mặt tưởng nhớ tới những người đã khuất để cầu nguyện cho họ. Mặt khác, Giáo Hội cũng muốn chính những người còn đang sống hãy nghĩ đến thân phận của mình, một ngày nào đó rồi cũng sẽ phải ra đi như những người thân yêu của mình đã lần lượt lìa bỏ thế gian để về với thế giới bên kia. Vậy, đâu là ý nghĩa của cuộc sống? Cuộc đời sẽ đi về đâu? Bên kia cõi chết là gì? Qua bài viết này, người viết xin được chia sẻ tính hiệp thông trong mầu nhiệm Giáo Hội. Đồng thời cũng là một suy niệm về cái chết trong cuộc sống thực tại. Và,  đây cũng là lời mời gọi mọi người hãy suy nghĩ về cái chết để được sống, đáng sống và tồn tại. Tất cả, xin được khiêm tốn chia sẻ những gẫm suy về ý nghĩa cái chết của những người có niềm tin.

Trong mười điều răn, Thiên Chúa đã dành hẳn điều răn thứ bốn nói về lòng hiếu thảo của con cháu đối với ông bà cha mẹ, trước các điều răn hướng về con người. Đây không phải là lời khuyên mà là một luật buộc phải thi hành như các điều răn khác.

Vậy hiếu kính cha mẹ là yêu mến, biết ơn, vâng lời, giúp đỡ cha mẹ khi còn sống và cầu nguyện cho các ngài khi đã qua đời. Nhưng mang trong mình những giới hạn nhất định, nên nhiều khi chúng ta đã không thể chu toàn được với các ngài. Thật vậy, không ai có thể chu toàn lòng kính mến đối với những bậc ông bà cha mẹ, hoặc vuông tròn sự yêu thương hoà đồng giữa anh chị em ruột thịt trong nhà, và bà con thân thuộc lối xóm được. Cho dù nếu có, thì trong tháng các linh hồn này, Hội Thánh cũng nhắc nhở chúng ta làm mới lại những yêu thương ấy đối với những người đã khuất, để từ đó làm mới lại mối dây liên lạc yêu thương, tương kính với những người đang sống. Những người mà chúng ta gặp gỡ hằng ngày.

Truyền thống của Giáo Hội dạy cho ta biết rằng: các linh hồn là những người đã một thời sống cùng, sống với chúng ta trên cõi trần này, nhưng các ngài đã ra đi trước. Vì mang trong mình thân phận của con người, nên nhiều khi các ngài mang lấy tội mà đi vào cõi chết. Những  lỗi lầm đó có thể là do yếu đuối của các ngài, có khi vì chúng ta mà các ngài phải bị liên luỵ…như vậy, trước khi về hưởng trọn vẹn niềm vui và hạnh phúc bên Chúa như các thánh, các ngài phải thanh luyện cho xứng đáng trước sự thánh thiện vô cùng của Thiên Chúa. Những người còn sống có thể dâng thánh lễ, làm các việc lành đạo đức, dâng những hy sinh, hãm mình…để cầu nguyện cho các linh hồn. Mặt khác, khi cầu nguyện cho các linh hồn, Giáo Hội muốn cho chúng ta hiểu được rằng, đây còn là thái độ của lòng biết ơn. Vì: trước hết, ta sống là nhờ cha mẹ và người thân. Quả vậy, chúng ta lớn dần lên trong sự vất vả một nắng hai sương của cha mẹ. Từ những đêm thức trắng lo toan, đến những tần tảo quanh năm suốt tháng để ta được nuôi dưỡng nên người. Trong nụ cười của chúng ta có sự chết (hy sinh) của cha mẹ. Trong niềm vui của chúng ta có đau khổ của đấng sinh thành. Và thế rồi, dầu cha mẹ có khuất núi, thì các ngài lại đang hiện diện nơi con cháu là chúng ta, vì chúng ta mang trong mình huyết nhục cũng như sự hy sinh của các ngài[[2]]. Như vậy, với niềm tin vào Đức Kitô chết và Phục Sinh, vào những lời Chúa hứa, chúng ta phó thác người thân chúng ta nơi Lòng Thương Xót của Thiên Chúa.

Ngoài việc đọc kinh, cầu nguyện…cho các linh hồn thì việc đi viếng nghĩa trang, việc sửa sang phần mộ là việc tốt. Nhưng điều tốt này lại có ích cho người còn sống nhiều hơn. Bởi lẽ, từ cái nghĩa trang mà chúng ta thấy đó, từ cái nấm mồ mà chúng ta đang sửa sang tô quét đó, từ những hũ đựng hài cốt mà chúng ta ngắm nhìn đó, chúng ta thấy được cái kiếp sống vắn vỏi của con người. Suy nghĩ về vấn đề này, thánh Augúttinô nói: “Mọi sự dầu hay, hay dở, đều không chắc chắn, chỉ sự chết là chắc chắn sẽ xảy đến”. Thi sĩ  R.Tagore cũng nói: “Với ông, sự sống và cái chết chỉ là hai bờ của một dòng sông, là hai bầu vú mang đầy sữa ngọt ngào trên ngực trần của người mẹ: “Khi mẹ giằng con khỏi vú bên này, con oà khóc, nhưng liền đó lại thấy nguồn an ủi ở bầu vú bên kia”[[3]]. Cái đích điểm mà tất cả mọi người ở trần gian này sẽ phải đến gặp nhau là ở chỗ: ba tấc đất sâu, và một nấm mộ cô đơn lạnh lẽo. Chính vì thế mà Giáo Hội muốn chúng ta không dừng lại ở những tấc đất, nấm mộ đó mà hãy đi tìm cho mình một ý nghĩa đằng sau cái chết. Muốn cái chết của mình thật sự có ý nghĩa, thì trước tiên hãy nghiêm túc suy nghĩ ngay đến cái chết của chính mình trong cuộc sống hiện tại, hầu chuẩn bị cho xứng đáng khi đến trình diện với Chúa trong ngày chết của chúng ta. Thoạt nghe, có vẻ vô lý! Tại sao đang sống mà lại phải suy nghĩ về cái chết?

Thiết nghĩ, trước khi bàn về vấn đề này, tưởng cũng nên nhắc lại những tâm tình trong Kinh Thánh và lời của các các thánh nói về cái chết: “Chính anh chị em đã rõ: ngày của Chúa sẽ đến bất ngờ, như kẻ trộm lúc đêm khuya.” ( 1Tx 5, 2);Hãy tỉnh thức, vì Con Người sẽ đến phán xét chúng ta vào giờ chúng ta không ngờ.” (Lc 12,40);còn thánh Grêgory đã nói về cái chết như sau: “Chúng ta không biết trước sẽ chết giờ nào, để chúng ta luôn chuẩn bị sẵn sàng.” ; thánh Bênađô tiếp: vì chúng ta có thể chết bất cứ giờ nào, bất cứ ở đâu, nên muốn chết lành, được cứu rỗi, phải sẵn sàng đón nhận sự chết: “Thần chết đến bất cứ giờ nào, bất cứ ở đâu, nên chúng ta phải luôn sẵn sàng chờ đợi nó.”

Suy niệm đến đây, tôi sực nhớ cách đây mấy năm, tôi có quen một thầy tu, khi đến thăm, tôi thấy trên bàn học của thầy luôn có một chiếc quan tài nhỏ, trong chiếc quan tài đó có tấm hình của thầy và một bản cáo phó mà chính thầy viết cho mình. Khi hỏi thì được thầy giải thích như sau: chiếc quan tài này là hình bóng của sự chết, bởi vì nó sẽ ôm trọn xác chết khi con người ta hết hơi. Con người khi còn sống có là vua chúa quan quyền, hay người phu quét rác; dù là tỷ phú hay người ăn xin; dù là giáo hoàng hay giáo dân…chết là hết. Cái chết là sự thật. Nên mỗi khi đi đâu về, tôi thường hay ngắm nó, và suy nghĩ về cái chết của chính mình…từ đó tôi lo sám hối về những thiếu xót và xin ơn tha thứ của Thiên Chúa. Còn bài cáo phó mà tôi tự tay viết cho chính mình là vì tôi thiết nghĩ: điều tốt cho tương lai mà tôi muốn, thì hãy chuẩn bị ngay từ bây giờ. Điều tốt mà tôi mong muốn cho tương lai là gì nếu không phải là được ở bên Chúa. Vậy ngay từ giây phút này, tôi hãy lo sống sao cho đáng sống, để cái chết của tôi thật sự là một cuộc đi về như lời bài hát: lạy Chúa, bao ngày tháng con hằng mơ ước, tìm về bên Chúa, niềm vui suối an hoà…hay “Chúng ta  biết rằng : nếu ngôi nhà chúng ta ở dưới đất, là chiếc lều này, bị phá hủy đi, thì chúng ta có một nơi ở do Thiên Chúa dựng lên, một ngôi nhà vĩnh cửu ở trên trời, không do tay người thế làm ra” (2 Cr 5,1). Vì thế, cái chết là “một cõi đi về” và “Hãy để cuộc đời tươi đẹp như hoa mùa hạ, và hãy để cái chết về như lá mùa thu”[[4]4]

Nghe đến đây, tôi thực sự cảm thấy “sốc”. Sốc vì tôi sực nhớ đến câu chuyện trong Kinh Thánh: nhân vật chính của câu chuyện là “một người giàu có”, ruộng nương sinh nhiều hoa lợi, đến nỗi ông quyết định xây nhiều kho mới, lớn hơn. Ông nói: “Ta sẽ tích trữ tất cả thóc lúa và của cải vào đó” và “ta sẽ nhủ lòng: Hồn ta hỡi, mình bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm, cứ nghỉ ngơi, ăn uống, vui chơi cho đã”. Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta: “Ðồ ngốc, nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi” lúc đó ngươi tính sao? (x. Lc 12,16 -20). Và chuyện đã xảy ra đúng như vậy. Ở tận đỉnh cao của vinh hoa phú qúy, người giàu có ấy phải lìa bỏ đời này…Sốc nữa vì đây là sáng kiến táo bạo của thầy. Nhưng nghĩ suy một chút, tôi mới nhận ra đây là một chân lý. Bởi đã có nguời định nghĩa cuộc sống là một hành trình để tiến tới… cái chết. Hay như thánh Phaolô: “mỗi ngày tôi phải đối diện với cái chết” (1Cr 15,32). Thật thế, mỗi ngày sống là đời ta ngắn lại; mỗi hoàng hôn ta mất đi một ngày. Sống là đang đi dần tới cõi chết. Sự sống và cái chết nó hoà quyện lại với nhau.

Thật vậy, cái chết là một người bạn thân thiết với con người. Chả thế mà thánh Phanxicô Assisi đã gọi nó là “Chị Chết”. Chị Chết này dù muốn dù không, Chị cứ đến với cuộc đời ta như người nhà. Không cần báo trước, chẳng cần ai dẫn đường. Chị đến như một người trộm. Như vậy, thân phận con người là một cái gì đó mỏng dòn dễ vỡ. Cuộc sống nơi dương gian này chỉ là tạm bợ. Ý thức được như thế là để xin ơn tha thứ, đồng thời cũng lo chuẩn bị cho mình một cái giấy thông hành trên hành trình về với Chúa. Giấy thông hành này không mua được bằng tiền, không có được bằng quyền, mà phải đánh đổi bằng: lòng sám hối, sự canh tân, việc đạo đức, những hy sinh, hãm mình…sống và làm theo Lời Chúa dạy. Có thế, ta mới hy vọng được chung hưởng hạnh phúc muôn đời với các thánh.

Ước mong sao, mỗi người hãy dâng những hy sinh hãm mình, đặc biệt là thánh lễ để cầu nguyện cho các linh hồn. Đây là tấm lòng biết ơn cao cả mà Chúa muốn nơi chúng ta khi tưởng nhớ đến người quá cố, đồng thời đây cũng là trách nhiệm của mỗi người chúng ta khi sống trong mầu nhiệm Giáo Hội hiệp thông. Đàng khác, đây cũng là thời gian thuận tiện để ta suy nghĩ về chính cái chết của mình. Thật vậy, suy gẫm về sự chết là điều cần thiết, giúp ta biết quan tâm hơn đến cuộc sống: làm thế nào để yêu, để tha thứ và để chấp nhận; làm thế nào để tránh những tội lỗi, những vấp phạm, và giết chết cái tôi ích kỷ của mình như hạt lúc gieo vào lòng đất, để chỉ còn muốn sống cho Chúa cách trọn vẹn hầu phụng sự Ngài và phục vụ tha nhân.

Như vậy, khi suy nghĩ về cái chết, chúng ta hãy có tâm tình như thánh Phaolô:“Đối với tôi, sống là Đức Kitô, và chết là một mối lợi”. Vì thế, “Không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.” (Rm 8, 39). Và cuối cùng, cái chết đến với tôi như một niềm hãnh diện:“Còn tôi, đã đến giờ tôi phải  ra đi. Tôi đã thi đấu trong cuộc đấu cao đẹp, đã chạy hết quãng đường dài. Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính. Chúa sẽ trao phần thưởng đó cho tôi, và không phải chỉ cho tôi, nhưng cho tất cả những ai mong đợi Người” ( 2 Tm 4, 6-8). Chỉ có chết trong tội mới tách rời chúng ta ra khỏi Chúa, còn chết trong Chúa là một giải thoát, đưa chúng ta vào sự sống viên mãn của Ngài.

Để kết thúc bài viết này, xin đặt mình vào tâm tình của người sắp ra đi và mong muốn được khắc ghi trên chính bia mộ của mình những hàng chữ sau như một lời chăng trối cho người còn sống:

“Những gì tôi đang có, xin trả lại cho đời.

Những gì thuộc về tôi, nay không còn nữa.

Những gì tôi cho đi, từ nay thuộc về tôi.

Trao ban là còn mãi – Tình yêu không thể chết.”



[1] X. R.Tagore, thời đại, tr. 185.

[2] Gm Giuse Vũ Văn Thiên, Sự sống – sự chết, truy cập ngày 22-12-2012, trên: http://www.hdgmvietnam.org/su-song-%E2%80%93-su-chet/2821.54.11.aspx.

[3] R.Tagore, tập thơ dâng, bài 95.

[4]. Đào Xuân Quý, những cánh chim bay lạc, tr. 45.

Tác giả: Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển