Hạnh phúc trường cửu

Hạnh phúc trường cửu

Tháng Mười 6, 2013 by Trần Đình Hoành

Chào các bạn,


Tìm kiếm thì không yên ổn. Nếu bạn tìm một chiếc chìa khóa bị mất chẳng hạn, bạn chẳng thể ngồi yên một chỗ, hay nằm ngủ, để tìm. Bạn phải tìm kiếm khắp nơi, lục tung tóe khắp chỗ, để tìm.

Cho nên, bạn không thể có được giác ngộ nếu bạn tìm giác ngộ, vì tìm kiếm là tung tóe mà giác ngộ là tĩnh lặng, an lạc, Niết bàn, hạnh phúc trường cửu.

Đừng nhầm lẫn hạnh phúc trường cửu với sướng vui chốc lát. Ví dụ: yêu là sướng vui. Nhưng mất người yêu là đau khổ. Cho nên yêu không phải là hạnh phúc trường cửu.

Nhưng một trái tim giác ngộ thì có bình an và hạnh phúc trường cửu, vì trái tim giác ngộ đã biết cách làm cho mình tĩnh lặng và an lạc vĩnh viễn, không còn những xung động tạo nên những nhồi dập nhức nhối trong lòng.

Hạnh phúc trường cửu là khả năng của trái tim của bạn luôn luôn tĩnh lặng trước mọi sự vật, mọi sự kiện, mọi con người, mọi biến chuyển, mọi thay đổi, mọi hoàn cảnh… An lạc nội tâm không lệ thuộc vào điều gì cả, ngoại trừ khả năng của bạn giữ trái tim luôn tĩnh lặng. Ồ, mà đã đến mức đó rồi thì bạn không cần giữ trái tim tĩnh lặng–trái tim bạn đã biết cách để luôn tĩnh lặng.

An lạc nội tâm là không bám vào “tôi”, không bám vào “tôi là”, không bám vào “cái của tôi, cái tôi thích, cái tôi không thích”—tức là vô ngã.

“Không bám vào” không có nghĩa là “không sờ đến”. “Không bám vào” có nghĩa là “có sờ đến thì cũng không bị dính mắc”: có tiền cũng không dính mắc vào tiền, có danh cũng không dính mắc vào danh, có quyền lực cũng không dính mắc vào quyền lực… Có cũng được, không có cũng được, chẳng màng có với không. Đó là “không bám vào”. Đó là vô chấp.

Vô ngã thì vô chấp.

Vô ngã, vô chấp, thì tĩnh lặng và an lạc. Đó là hạnh phúc vĩnh cửu.

Đó là cái nền bạn đứng bên trên để chinh phục thế giới.

Chúc các bạn luôn hạnh phúc.

Mến,

TÂM LÝ ĐÁM ĐÔNG

TÂM LÝ ĐÁM ĐÔNG

Có một hiện tượng phổ biến trong xã hội hôm nay mà người ta gọi là “tâm lý đám đông”, “sống theo phong trào”.  Do hiện tượng này, việc đánh giá một hành động hay một lời nói không còn dựa trên những chuẩn mực đạo đức của truyền thống hay của các tôn giáo, nhưng dựa theo đám đông.  Một hành động tự nó là xấu, nhưng có nhiều người làm, thì tự nhiên nó bớt xấu đi, thậm chí hành động đó được coi là bình thường.  Và, một khi được coi là bình thường, thì không cần phải áy náy hay bận tâm về “tính luân lý” của hành động đó nữa.  Cách đây vài chục năm, việc một cặp vợ chồng bỏ nhau là điều hổ nhục cho hai dòng họ, vì thế mà cha mẹ đôi bên tìm đủ mọi cách để hàn gắn những rạn nứt, vừa để bảo vệ hạnh phúc gia đình, vừa giữ thể diện với những người xung quanh.  Ngày nay, tình trạng ly hôn ngày càng nhiều, nên nhiều bậc cha mẹ và các bạn trẻ dựa vào “tâm lý đám đông” để lập luận: “Ôi giào, xung quanh ta có đầy người làm thế”.  Và như thế, một việc tự nó là không bình thường đã trở nên bình thường vì có nhiều người làm như vậy.  Có thể kể đến lối suy nghĩ tương tự về nạn phá thai, nghiện ngập, trộm cắp hay nhiều loại hình tệ nạn khác.

Báo chí tuần qua thu hút nhiều quan tâm của độc giả khi đưa những thông tin về một sự kiện có liên quan đến ngành y.  Tại bệnh viện đa khoa Hoài Đức (Hà Nội), có một số dược sĩ vì lòng tham đã “nhân bản” những kết quả xét nghiệm, xào xáo nhằm trục lợi từ quỹ bảo hiểm.  Chị Hoàng Thị Nguyệt, công tác tại Khoa Xét nghiệm Bệnh viện đa khoa Hoài Đức và hai đồng nghiệp đã không chấp nhận việc làm trái lương tâm đó, nên đã can đảm tố cáo hành vi gian lận.  Điều ngạc nhiên là sau khi chị Nguyệt phát đơn tố cáo thì chị bị đuổi việc và bị tố cáo ngược lại.  Cấp trên đã can thiệp, chị Nguyệt và hai người đồng nghiệp được trả lại danh dự, nhưng trong một khung cảnh bất bình thường, theo kiểu “mặt cười miệng mếu”.  “Sáng 16-8-2013, lãnh đạo Sở Y tế Hà Nội đã tổ chức khen thưởng cho chị Hoàng Thị Nguyệt và hai người có đơn tố cáo sai phạm xảy ra tại Bệnh viện Đa khoa Hoài Đức.  Nhiều ý kiến cho rằng buổi lễ chỉ diễn ra trong vòng 30 phút sơ sài, buồn tẻ, hình thức, đặc biệt mức thưởng 320.000 đồng cho một người là quá ít, thậm chí là “xúc phạm người tố cáo tiêu cực” (VnExpress ngày 19-8-2013).

Qua sự kiện này, chúng ta thấy rõ ảnh hưởng của tâm lý đám đông.  Vâng, chị Nguyệt và hai người đồng nghiệp là những người lương thiện, đáng khen, nhưng đối với phần lớn tập thể cán bộ nhân viên của bệnh viện Hoài Đức, thì chị không có chỗ ở đây, vì chị không nghĩ như họ, không đồng quan điểm với họ.  Trong khi một số đông toa rập với nhau để làm những điều khuất tất nhằm trục lợi, thì chị suy nghĩ và hành động ngược lại.  Chị không hành động giống như đám đông, như tập thể.  Chị giống như một cung đàn rất hay nhưng lạc điệu giữa một mớ âm thanh hỗn tạp nhằm phục vụ lợi ích một số cá nhân đang muốn vơ vét cho đầy túi tham.  Vì thế, trong cơ quan này, không có chỗ cho chị.  Tố cáo người làm sai là việc tốt, nhưng trong bối cảnh xã hội mà xem ra ở đâu cũng sai như thế, thì việc tố cáo lại coi là không bình thường và khó chấp nhận.  Vì thế mà những người phụ nữ này đã buồn bã kết luận: “đấu tranh” thì “tránh đâu”.

Trong thông điệp đầu tiên của mình, Đức Thánh Cha Phanxicô đã viết: “Ngày nay, chân lý thường bị giảm xuống thành sự xác thực chủ quan của mỗi người, chỉ có giá trị cho cuộc sống cá nhân” (Lumen Fidei, số 34). Tâm lý đám đông cũng đang ảnh hưởng tai hại đến đời sống đức tin và luân lý.  Đức tin bị coi là một hành vi cá nhân, tùy chủ quan nhận định của mỗi người.  Khá nhiều bạn trẻ lơ là với việc sống đạo vì họ lập luận xung quanh mình có nhiều người cũng thế.  Nhiều bạn trẻ đua theo phong trào sống thử, phá thai, vì nghĩ rằng đó là một lối sống của xã hội mới, xã hội hiện đại và nhất là vì có rất nhiều người cùng quan điểm với họ.  Họ đã đánh mất cảm thức về tội, không còn áy náy lương tâm khi phạm tội.  Họ lợi dụng danh nghĩa tự do để làm bất cứ điều gì họ muốn.  Họ giống như người đã trót vấy bùn đen, tiếp tục nhấn chìm vì nghĩ đàng nào cũng đã nhiễm bùn rồi.  Kết quả là những cuộc đời không có tương lai, trở thành gánh nặng đè lên vai người thân.  Cũng cần nhắc đến trách nhiệm của những bậc phụ huynh trước tâm lý đám đông.  Có những người cha người mẹ không quan tâm đến đời sống đức tin cũng như đạo đức xã hội của con cái mình.  Không ít người đã chép miệng thanh minh “thời thế bây giờ nó như vậy”.

Chúng ta không để dòng nước “thời thế” lôi cuốn.  Con người thụ động để cho dòng đời lôi cuốn sẽ tự biến mình thành một khúc gỗ trôi sông.  Chỉ có con người có bản lĩnh mới dám can đảm lội ngược dòng, “tâm bất biến giữa cuộc đời vạn biến”.

“Hãy chiến đấu qua cửa hẹp mà vào (Nước Trời)” (Lc 13,24).  Chúa Giêsu đề nghị với chúng ta một giải pháp, một con đường để đạt tới hạnh phúc.  Tâm lý đám đông bao giờ cũng tạo ra những con đường dễ dãi, hấp dẫn đối với mọi người.  Thời nào cũng thế, người ta có khuynh hướng lảng tránh những hy sinh, khước từ những cố gắng.  Và khi tìm những điều dễ dãi để đáp ứng những nhu cầu của bản năng, người ta tìm ra đủ mọi thứ lập luận bảo vệ cho hành động và lối sống của mình.  “Bước qua cửa hẹp” còn có nghĩa là đi qua cửa có tên là Giêsu, vì chính Người tuyên bố: “Tôi là cửa, ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu” (Ga 10,9).  Đi qua cửa Giêsu tức là nhận làm môn sinh và nỗ lực thụ giáo với Người.

Hạnh phúc Nước Trời là kết quả của những cố gắng của cá nhân mỗi người chứ không phải là dựa vào đám đông.  Thánh Phaolô khuyên giáo dân Philipphê “Anh em hãy biết kính giới và run sợ mà gia công lo việc cứu rỗi chính mình” (Pl 2,12).  Giữa cuộc đời đầy biến động chao đảo này, người Kitô hữu được mời gọi can đảm sống theo sự thật, noi gương Đức Giêsu, Đấng đã đến để chiếu rọi ánh sáng vào cuộc đời tối tăm, là vị Chứng Nhân trung thành, Đấng yêu mến chúng ta và lấy máu mình rửa sạch tội lỗi chúng ta (x. Kh 1,5-8). Sự chọn lựa ý muốn của Chúa Cha đã khiến Người phải trả giá là khổ hình thập tự, nhưng Người đã đón nhận trong sự vâng phục và trung thành để qua đó, vinh quang Chúa Cha được thể hiện qua biến cố đau thương này.

Đại uý James Mulligan là một tù binh Hoa Kỳ bị bắt và cầm tù năm 1966 tại trại giam Hỏa Lò (Hà Nội).  Trong tối tăm của ngục tù, anh vẫn vững vàng cậy trông.  Mỗi ngày, anh đều lần hạt Mân côi và cầu nguyện với Chúa: “Lạy Chúa, xin cho con sức mạnh và lòng kiên quyết vững vàng.  Chẳng có ai hay biết ngoài một mình con với Chúa, nhưng chỉ cần như vậy mà thôi.  Chúa đã chịu khổ hình vì niềm tin của Chúa, còn con đây cũng đang chịu khổ hình vì niềm tin của con.  Đúng vẫn là đúng cho dù không ai đúng cả; còn sai vẫn là sai cho dù mọi người đều sai hết” (trích trong bài thuyết trình của tiến sĩ Charles Rice, nhân ngày lễ ra trường của sinh viên đại học Notre-Dame, Hoa Kỳ, tháng 5-2010.  Bài thuyết trình có tựa đề: Thiên Chúa không hề chết, Ngài cũng chẳng mỏi mệt).

“Có thì nói có, không thì nói không, thêm thắt điều gì là do ác quỷ (Mt 5,37), một điều tưởng chừng như rất đơn giản mà trong thực tế không dễ dàng thực hiện, bởi lẽ chúng ta có khuynh hướng sống theo đám đông, “gió chiều nào che chiều đó”.  Vì thế mà nhiều khi ta đánh mất chính mình, và cũng vì thế mà cái ác, cái xấu vẫn đang tồn tại trong cuộc sống chúng ta.

GM Giuse Vũ Văn Thiên

From: langthangchieutim

LM Lý được giải thưởng Truman-Reagan Medal of Freedom”

LM Lý được giải thưởng Truman-Reagan Medal of Freedom”
October 08, 2013

nguoi-viet.com


WASHINGTON DC (NV) .-
Sáng hội Tưởng Niệm Nạn Nhân Cộng Sản trên thế giới vinh danh và trao giải thưởng năm nay cho linh mục Nguyễn Văn Lý hiện đang bị tù tại Việt Nam.

Linh mục Nguyễn Văn Lý bị một Công an CSVN bịt miệng khi ngài lên tiếng đả kích Cộng Sản tại phiên tòa ở Huế ngày 30/3/2007. Tấm hình này được coi như biểu tượng của sự vi phạm nhân quyền tại Việt Nam. (Hình: AFP/Getty Images)

Theo nguồn tin từ Hoa Thịnh Đốn, Sáng Hội Tưởng Niệm Nạn Nhân Cộng Sản (Victims of Communism Memorial Foundation) vừa quyết định vinh danh và trao huy chương  “Truman-Reagan Medal of Freedom” năm nay cho linh mục Nguyễn Văn Lý vì đã đấu tranh không ngừng nghỉ cho nhân quyền, tự do tôn giáo, bất chấp tù tội, nguy hiểm bản thân nên đã bị nhà cầm quyền CSVN kết án tù.

Giải thưởng và huy chương “Truman-Reagan Medal of Freedom” dành cho linh mục Nguyễn Văn Lý sẽ được tổ chức trao tặng tại Hoa Thịnh Đốn vào ngày 1/11/2013 tới đây.

Linh mục Nguyễn Văn Lý, 67 tuổi, đã bị nhà cầm quyền Việt Nam bỏ tù 3 lần mà thời gian ở tù tổng cộng đã gần 20 năm, chưa kể các năm tháng bị quản chế. Hiện ông đang bị giam giữ ở nhà tù Ba Sao tỉnh Nam Hà với bản án 8 năm với cáo buộc “Tuyên truyền chống nhà nước”.

Dù đã bị tai biến mạch máu ít nhất 3 lần trong nhà tù, nhiều lúc không thể tự di chuyển đi đứng và gần với cái chết, ông vẫn không được nhà cầm quyền CSVN trả tự do dù có sự vận động mạnh mẽ của các chính phủ và quốc hội các nước Tây phương, đặc biệt là Hoa Kỳ.

Linh mục Lý đã tố cáo nhà cầm quyền CSVN thi hành các chính sách cai trị ngược lại với những cam kết quốc tế về nhân quyền, đòi chế độ trả lại cho nhân dân các quyền tự do căn bản như quyền tự do báo chí, tự do phát biểu, tự do hội họp lập hội, tự do tôn giáo, tuy có ghi trong bản hiến pháp của chế độ nhưng bị hạn chế nghiêm ngặt trong thực tế.

Linh mục Nguyễn Văn Lý là một trong những người sáng lập Khối 8406, một tổ chức công dân vận động dân chủ hóa đất nước, đòi CSVN bỏ điều 4 hiến pháp dành độc quyền cai trị cho đảng Cộng Sản và đòi bầu cử quốc hội trực tiếp, tự do ứng cử và bầu cử.

Tượng nữ thần Dân Chủ tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn, nhắc nhở mọi người về hơn 100 triệu nạn nhân bị Cộng Sản sát hại khắp trên thế giới. (Hình: Wikipedia)


Bất cứ người dân nào đi ra ngoài khuôn khổ của nhà cầm quyền độc tài tại Việt Nam, đều bị bắt bỏ tù dựa trên những điều luật hình sự mơ hồ. Khi còn là quản xứ họ đạo An Truyền gần thành phố Huế, linh mục Lý đã cùng giáo dân treo biểu ngữ “Tự do tôn giáo hay là chết” quanh nhà thờ.

Sáng hội Tưởng Niệm Nạn Nhân Cộng Sản có cựu tổng thống George W. Bush là chủ tịch danh dự.

Sáng Hội Tưởng Niệm Nạn Nhân Cộng Sản là một tổ chức vô vị lợi mang tính giáo dục ở Hoa Kỳ. Tổ chức được thành lập theo một đạo luật năm 1993 với mục đích tưởng niệm hơn 100 triệu nạn nhân đã bị Cộng Sản sát hại trên thế giới.

Linh mục Nguyễn Văn Lý từng được nhiều vị dân cử tại Hoa kỳ và quốc hội Liên Âu đề cử giải thưởng Nobel Hòa Bình. (TN)

LỠ LÀNG,

LỠ LÀNG,

Người đâu gặp gỡ làm chi,
Có duyên không nợ lấy gì trả nhau,
Đời là một chuỗi lao đao,
Tình như bọt biển tan mau cấp thời,
Giăng tay khấn nguyện xin trời,
Cho chim liền cánh hay cây liền cành,
Lời xin gió cuộn bay nhanh,
Vào trong mộng tưởng xuân xanh lỡ làng,
Bây giờ cách biệt đôi đàng,
Trời không giải quyết bắt thang làm gì ???


Liverpool.7/10/2013.
Song Như.

Kính gởi quý Thầy Cô và các bạn LVC.
Kính chúc sức khỏe.
KT.

MARIA, NGƯỜI NỮ THÁNH THỂ

MARIA, NGƯỜI NỮ THÁNH THỂ

Bài Tin Mừng tường thuật cuộc truyền tin kết thúc bằng hai tiếng “Xin Vâng” của Đức Mẹ. Với hai tiếng “Xin Vâng”, cuộc đời Đức Mẹ hoàn toàn thay đổi.  Từ nay Mẹ không còn sống cho mình nhưng hoàn toàn sống cho Thiên Chúa.  Mẹ kết hiệp chặt chẽ với Thiên Chúa qua Chúa Giêsu.  Và vì thế, Mẹ trở thành gương mẫu của lòng tôn sùng và thực hành bí tích Thánh Thể.

Thật vậy, với hai tiếng “Xin Vâng”, Mẹ là gương mẫu trong việc đón nhận Thánh Thể.  Khi đón nhận Ngôi Hai Thiên Chúa vào lòng, Mẹ hoàn toàn tin tưởng thịt máu của bào thai Mẹ được diễm phúc cưu mang trong lòng chính là Thiên Chúa.  Như thế, Mẹ khuyên dạy ta khi đón nhận Mình Thánh Chúa, hãy tin vững vàng ta đã đón nhận Thịt Máu của Chúa Giêsu.

Với hai tiếng “Xin Vâng”, tâm hồn Mẹ trở nên ngôi nhà chầu đầu tiên được đón tiếp, cất giữ Chúa Giêsu Thánh Thể.  Đây chính là ngôi nhà chầu xinh đẹp nhất vì cung lòng thanh khiết của Mẹ là một đền thờ nguy nga lộng lẫy.  Hơn nữa việc luôn ghi nhớ và suy niệm những điều thiên thần nói, giúp Mẹ luôn hướng về Chúa Giêsu trong lòng, biến Mẹ thành một người chầu Mình Thánh liên tục.  Như thế Mẹ khuyên dạy ta hãy năng chầu Mình Thánh Chúa.

Sau khi thưa “Xin Vâng”, Mẹ vội vã lên đường đi viếng bà thánh Elizabeth.  Đây chính là cuộc rước kiệu Thánh Thể đầu tiên.  Cuộc rước kiệu thật đơn sơ, không kèn trống, không đông đảo, nhưng đầy sốt sắng, đầy cung kính nên đã đem lại lợi ích phi thường: đem ơn cứu độ đến cho ông thánh Gioan Baotixita còn trong lòng mẹ, làm cho mọi người tràn đầy niềm vui.  Như thế Mẹ nhắn nhủ ta kiệu Thánh Thể sốt sắng sẽ đem lại nhiều ơn ích thiêng liêng.

Nhưng cũng với hai tiếng “Xin Vâng”, Mẹ luôn hướng về Chúa Giêsu.  Từ khi còn trong bào thai cho đến khi sinh ra trong hang đá Bêlem.  Từ khi ấu thơ cho đến khi hoạt động công khai.  Việc Mẹ tất tả đi tìm Chúa Giêsu trong đền thờ Giêrusalem nói lên sự gắn bó mật thiết.  Mẹ coi Chúa Giêsu là lẽ sống.  Mẹ không thể sống nếu thiếu vắng Chúa.  Với lòng tha thiết tìm kiếm Chúa, Mẹ khuyên dạy ta hãy yêu mến đến khao khát Chúa.  Vì Thánh Thể Chúa chính là nguồn sự sống của ta.

Với hai tiếng “Xin Vâng”, không những Mẹ vâng lời Thiên Chúa hoàn toàn, mà còn dạy mọi người biết vâng lời Chúa.  Nên tại tiệc cưới Cana, Mẹ khuyên nhủ gia nhân: “Người bảo gì các con hãy cứ làm theo” (Ga 2,5).  Thái độ hoàn toàn vâng phục đã được Chúa thưởng công bằng phép lạ “nước lã hóa thành rượu ngon”.  Hôm nay Mẹ cũng nhắc nhủ ta: Nếu Chúa đã dặn dò: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” (Lc 22-19), thì hãy vâng lời Chúa, siêng năng tham dự thánh lễ, chầu Mình Thánh Chúa, chịu lễ, chắc chắn Chúa sẽ làm phép lạ đổi mới đời các con như biến nước lã thành rượu ngon.

Với hai tiếng “Xin Vâng”, Mẹ hoàn toàn kết hiệp với Chúa Giêsu, theo Chúa trên đường lên Núi Sọ và đứng dưới chân thánh giá để nên một với Chúa Giêsu trong việc dâng hiến chính bản thân mình, dâng những đau đớn khổ cực làm của lễ đền tội cho nhân loại.  Ở đây Mẹ đã sống mầu nhiệm Thánh Thể, mầu nhiệm tự hiến mình cho nhân loại.  Như Chúa Giêsu, tấm lòng tan nát của Mẹ đã trở thành tấm bánh bẻ ra ban cho nhân loại sự sống mới.  Như thế Mẹ dạy ta phải biết hiến thân chịu mọi đau đớn, vất vả trong đời sống để nên một với Chúa Giêsu Thánh Thể.  Việc kết hiệp với Chúa Giêsu Thánh Thể để hiến dâng thân mình sẽ đem lại hạnh phúc cho bản thân và cho tha nhân.

Và với hai tiếng “Xin Vâng”, một lần cuối cùng Mẹ vâng lời Chúa, nhận thánh Gioan làm con. Nhận thánh Gioan là nhận cả nhân loại làm con.  Vì thế Mẹ đã sống mầu nhiệm Thánh Thể khi hiệp nhất với tất cả mọi người, nhận tất cả nhân loại vào gia đình mình, đón tiếp mọi người vào đồng bàn trong bữa tiệc Thánh Thể, và trong bữa tiệc Nước Trời.  Hôm nay, Mẹ nhắn nhủ ta khi chịu lễ rồi hãy biết yêu thương đoàn kết vì tất cả chúng ta được đồng bàn với Chúa, cùng ăn một bánh, cùng uống một chén với nhau.  Và tất cả chúng ta đều là các chi thể trong thân thể của Chúa.  Tuy năm Thánh Thể đã kết thúc, nhưng việc yêu mến sùng kính và nhất là việc sống bí tích Thánh Thể vẫn tiếp diễn.  Đặc biệt trong tháng Mân Côi, nếu ta yêu mến Đức Mẹ, ta càng phải yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể, vì Mẹ chính là mẫu gương yêu mến Thánh Thể, đến nỗi Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô đệ nhị đã gọi Mẹ là “Người Nữ Thánh Thể”.  Nếu chúng ta siêng năng lần hạt Mân Côi, chắc chắn Đức Mẹ sẽ hướng dẫn ta đến yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể, vì tất cả các mầu nhiệm trong kinh Mân Côi đều hướng về Chúa Giêsu.  Và mầu nhiệm Năm Sự Sáng đưa ta trực tiếp tới bí tích Thánh Thể.  Thật là đẹp khi ta lần hạt trước Thánh Thể.  Vì như Đức Mẹ đã khấn cầu cho tiệc cưới Cana được ơn phúc thế nào, hôm nay, trước Thánh Thể, Đức Mẹ cũng khẩn cầu ơn phúc cho chúng ta như vậy.

Lạy Mẹ Mân Côi, xin dạy con biết yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể và xin Mẹ khẩn cầu cho con bên tòa Chúa.

TGM Giuse Ngô Quang Kiệt

From: langthangchieutim & Anh chị Thụ Mai gởi

Đau khổ có giá trị cứu độ

Đau khổ có giá trị cứu độ

TRẦM THIÊN THU

Tại sao Thiên Chúa cho phép những điều đó xảy ra?

Đó là câu hỏi người ta vẫn đặt ra, hầu như là “vấn đề muôn thuở”. Đau khổ xảy ra mọi thời và mọi nơi: Giết người tập thể, giết người hàng loạt, đánh bom khủng bố, động đất, sóng thần,… Rồi những thảm họa cá nhân: Em bé chết đuối trong cơn giông bão, người trẻ chết trong vụ tai nạn, người già chết đơn độc, đám cưới bỗng trở thành đám ma,…

Hãy bắt đầu với sự thật là bất kỳ ai cũng không thể có câu trả lời rõ ràng về vấn đề đau khổ!

Trong Cựu ước, Thiên Chúa thẳng thắn “đặt vấn đề” với Thánh Gióp: “Ngươi ở đâu khi Ta đặt nền móng cho đất? Nếu ngươi thông hiểu thì cứ nói đi!” (G 38:4). Và cả chương 38 trong sách Gióp là một loạt câu hỏi, chúng ta không dễ trả lời.

Trong Tân ước, khi nói về người mù từ khi mới sinh (Ga 9:1-3) và những người bị chết khi tháp sụp đổ (Lc 13:2-5), Chúa Giêsu nói rằng các trường hợp bi đát đó là cách của Thiên Chúa trừng phạt tội lỗi của ai đó chứ không hẳn là tội lỗi của chính người đó.

Cũng vậy, có gợi ý để chúng ta nhận biết những vấn đề tương tự – tại sao Thiên Chúa để cho điều đó xảy ra? Có thể áp dụng cho cả điều tốt và điều xấu. Tại sao Thiên Chúa cho phép hôn nhân hạnh phúc? Được thăng cấp trong công việc? Thỏa mãn trong nghề nghiệp? Những điều vui này có thật như những điều bất hạnh, và vẫn có bàn tay của Thiên Chúa trong cả điều tốt lẫn điều xấu. Tại sao Ngài cho phép chúng xảy ra?

Về điều tốt, dĩ nhiên chúng ta dễ trả lời: Thiên Chúa cho phép chúng xảy ra vì Ngài muốn chúng ta hạnh phúc. Nhưng cách trả lời như vậy còn quá thiển cận. Thiên Chúa muốn con người chịu đau khổ để cảm nhận hạnh phúc. Vậy tại sao Ngài lại để họ chịu đau khổ?

Để hiểu rõ lý do Thiên Chúa cho phép mọi thứ xảy ra, cả tốt và xấu, chúng ta cần biết toàn bộ kế hoạch tiền định của Ngài. Nhưng đó là điều chúng ta không thể biết cho tới khi chúng ta đối diện Thiên Chúa trên Thiên Đàng. Điều đó sẽ rõ ràng về mọi thứ phù hợp với nhau trong sự viên mãn của Ý Chúa. Hiện nay, chúng ta chỉ có thể phỏng đoán mà thôi.

Nhưng chúng ta có một số gợi ý để cố gắng xử lý. Trong tông thư Salvifici Doloris (11-2-1984, nói về “sự đau khổ mang tính cứu độ”), ĐGH Gioan Phaolô II đã noi gương Thánh Phaolô tìm kiếm “ý nghĩa sự đau khổ” theo Kitô giáo để thông phần đau khổ cứu độ của Đức Kitô. Đau khổ cho người ta cách trở nên người đồng công cứu độ với Đức Kitô, chia sẻ hoạt động cứu độ của Ngài, đền tội mình, và góp phần vào công cuộc cứu độ của Ngài mở ra cho mọi người.

Như vậy có sự khuyến khích đối với việc chịu đau khổ chăng? Không hề có. Cách giải thích này không không có ý nói về lý do Thiên Chúa cho phép đau khổ xảy ra, cũng không có ý nói chịu đau khổ là niềm vui. Về việc chịu đau khổ, ĐGH Gioan Phaolô II nói: “Giá trị của sự khám phá cuối cùng là niềm vui tiếp theo”.

Giá trị cứu độ của cuộc đời Chúa Giêsu không chỉ nằm trong sự đau khổ. Hiện tại trong cuộc đời Ngài là một tổng thể. Từ viễn cảnh đó, đau khổ tạo ý nghĩa để nghĩ về những điều hạnh phúc trong cuộc đời chúng ta để tham dự vào những khoảnh khắc vui mừng trong cuộc đời cứu độ của Đức Kitô: Ảnh hưởng gia đình tại căn nhà ở Nadaret, sự lao động trong xưởng thợ của Đức Thánh Giuse, cùng họp mặt với các tông đồ khi mọi sự êm xuôi. Mọi thứ đều có giá trị cứu độ cùng với Thập giá. Cũng như mọi thứ xảy ra trong cuộc đời chúng ta, cả đau khổ và hạnh phúc, đều có thể có giá trị cứu độ.

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ CatholicExchange.com)

Lễ các Thiên thần Bản mệnh, 2-10-2013

4 vương cung thánh đường ở Việt Nam

4 vương cung thánh đường ở Việt Nam

Trong khoảng 6.000 nhà thờ trên cả nước, Việt Nam vinh dự sở hữu 4 vương cung tháng đường thuộc 4 tỉnh: Hà Nam, Nam Định, Quảng Trị và TP HCM.

Nhà thờ Thiên chúa giáo luôn có sức hấp dẫn đặc biệt với bất kỳ ai. Bởi vậy mà không ít tour du lịch, nhà thờ là điểm dừng chân không thể bỏ qua trong hành trình khám phá điểm đến. Trong đó phải kể đến các vương cung thánh đường, danh hiệu được Giáo hoàng tôn vinh đặc biệt dành cho những nhà thờ có kiến trúc to lớn, cổ kính, mang ý nghĩa lịch sử và tâm linh quan trọng.

1. Nhà thờ Kẻ Sở

Vương cung thánh đường Sở Kiện hay nhà thờ Kẻ Sở tọa lạc ở thị trấn Kiện Khê, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Dù là một tiểu vương cung thánh đường mới được sắc phong năm 2010, nhưng nhà thờ Kẻ Sở thật sự là điểm đến thú vị với kiến trúc đồ sộ và phong cách Đông – Tây hội tụ.

Ke-So-hdgmvietnam-8076-1380514969.jpg

Toàn bộ nền được lót gỗ lim chống sụt lún. Ảnh: hdgmvn

Nhà thờ được xây dựng theo kiến trúc vòm cao vút cổ điển phương Tây từ trần đến cửa. Trên tường có các ô cửa kính màu vẽ tranh các vị thánh hoặc các sự kiện trong Kinh Thánh. Tuy nhiên, khu vực cung thánh và bàn thờ được làm bằng gỗ chạm trổ tinh vi, sơn son thiếp vàng theo phong cách truyền thống Việt Nam. Do xây dựng trên một cái đầm nên toàn bộ nền cũng được lót gỗ lim chống sụt lún.

Nhiều du khách đến đây tỏ ra thích thú với ngọn tháp cao treo 4 quả chuông mang các sắc âm đố – mi – son – đồ. Quả nặng nhất gần 2,5 tấn được người dân ở đây gọi là chuông “Bồng”. Vào ngày lễ, nơi đây phải huy động đến cả chục thanh niên trai tráng đến kéo chuông. Tiếng chuông vang lên như một bản đàn vang vọng từng thôn làng, ngõ xóm nơi đây.

2. Nhà thờ Phú Nhai

Nhà thờ Phú Nhai là vương cung thánh đường Đức Mẹ Vô nhiễm Phú Nhai thuộc Giáo phận Bùi Chu, xã Xuân Phương, huyện Xuân Trường, Nam Định.

Phu-Nhai-chudu-3262-1380514969.jpg

Đây được mệnh danh là nhà thờ lớn nhất Đông Dương. Ảnh: chudu

Khi mới xây dựng nhà thờ có phong cách kiến trúc Gothic đậm dấu ấn Tây Ban Nha. Đến nay nhà thờ được xây lại theo phong cách kiến trúc Gothic Pháp. Điều đặc biệt là nhà thờ Phú Nhai có hai tháp chuông. Bốn quả chuông đặt ở đây đều được đúc từ Pháp chuyển sang với trọng lượng từ 100 kg đến 2 tấn. Xung quanh nhà thờ có các phù điêu thể hiện 14 Đàng Thánh Giá.

Sau khi tham quan nhà thờ được mệnh danh lớn nhất Đông Dương, du khách chiêm ngưỡng được toàn cảnh của huyện Xuân Trường khi đứng trên ngọn tháp cao của nhà thờ Phú Nhai.

3. Nhà thờ La Vang

Nhà thờ La Vang nằm ở xã Hải Phú, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Năm 1961, nhà thờ được tôn phong là vương cung thánh đường. Ban đầu đây là một ngôi nhà thờ bằng ngói, được thiết kế theo kiến trúc cổ Việt Nam nhưng mặt tiền vẫn mang hơi thở châu Âu hiện đại với hai tầng mái và hai cánh thánh giá. Tháp chuông hình vuông hai tầng nổi bật lên giữa cảnh đồi.

La-Vang-wiki-JPG-6169-1380514969.jpg

Vẻ đẹp cổ kính của nhà thờ La Vang. Ảnh: wiki

Nhà thờ La Vang đã được nhiều lần trùng tu và xây mới, nhưng khi đến đây du khách vẫn được chiêm ngưỡng vẻ đẹp cổ kính của phong cách kiến trúc Việt qua hình dáng những mái ngói thân quen, kiểu dáng ngôi nhà ở, ngôi đình Việt. Thêm vào đó, du khách cũng sẽ bị lôi cuốn bởi quần thể tượng gồm 15 pho tượng diễn tả 15 điều màu nhiệm.

4. Nhà thờ chính tòa Đức Bà Sài Gòn

Nhà thờ chính tòa Đức Bà Sài Gòn đã không còn xa lạ với mỗi người dân TP HCM và khách du lịch trên cả nước. Nhưng ít ai biết rằng, đây là một trong 4 vương cung thánh đường của cả nước.

nha-tho-duc-ba-hochiminhcity-g-9079-4422

Nhà thờ Đức Bà là điểm đến yêu thích của nhiều du khách. Ảnh: hochiminhcity.gov.vn

Điểm nhấn của nhà thờ là bức tường được xây bằng gạch xuất xứ từ Marseille (Pháp) từ cuối thế kỷ 19 nhưng đến nay vẫn giữ nguyên màu sắc hồng tươi, không bám bụi rêu. Bởi vậy dù không hiểu hết ý nghĩa văn hóa và lịch sử của nhà thờ Đức Bà nhưng khi đến Sài Gòn, ai cũng muốn có một bức hình với công trình độc đáo ấy.

Ngay trước mái vòm nhà thờ là chiếc đồng hồ Thụy Sĩ. Trải qua hơn 130 năm nhưng chiếc đồng hồ vẫn hoạt động khá chính xác và được lên giây mỗi tuần. Trong 6 quả chuông mang âm đô – rê – mi – son – la – si, chuông Son nặng gần 8,8 tấn là một trong những quả chuông lớn nhất thế giới. Nằm giữa trung tâm thành phố năng động nhất cả nước, nhà thờ Đức Bà mang đến một nốt trầm xao xuyến níu chân du khách bốn phương.

Kim Anh

CÓ PHẢI VỢ ANH..

CÓ PHẢI VỢ ANH..

hoanghaithuy

Vàng Ảnh, Vàng Anh
Có phải vợ anh
Chui vào tay áo..

Tôi được nghe chuyện “Vàng Ảnh Vàng Anh “70 năm trước. Mẹ tôi kể tôi nghe chuyện “Vàng Ảnh, Vàng Anh” năm tôi năm, sáu tuổi. Chuyện xưa nằm trong ký ức tôi. Qua năm tháng, ký ức tôi rệu rã, hôm nay tôi nhớ được ngần này về chuyện “Vàng Ảnh, Vàng Anh “:

Chuyện Tấm Cám. Ðoạn cuối chuyện: Tấm làm vợ vua, được vị Vua trẻ tuổi yêu thương. Một hôm Tấm về thăm làng quê. Cám bầy chuyện cho Tấm trèo cây cau hái trái cau. Cám chặt gốc cây cau. Cây cau đổ, Tấm ngã xuống chết. Cám dàn xếp cho vụ Cám giết chị thành tai nạn. Tấm chết. Cám được thay chị làm vợ Vua.

Linh hồn Tấm nhập vào con chim vàng anh – những tên gọi khác của con chim này là hoàng oanh, hoàng anh, hoàng yến – chim vàng anh mang linh hồn Tấm bay vào cung vua. Hôm ấy ông Vua trẻ tình cờ đi ngang chỗ cung nữ – dưới quyền Cám – giặt và phơi y phục của Vua – Vua nghe tiếng con chim vàng anh hót nghe như tiếng người:

“Phơi áo chồng tao
Thì phơi bằng sào
Ðừng phơi bờ rào
Rách áo chồng tao..”

Vua nhìn con chim vàng anh mà nhớ đến Tấm, người vợ Vua yêu thương đã chết. Vua đưa tay áo lên, nói với chim:

“Vàng ảnh, vàng anh
Có phải vợ anh
Chui vào tay áo..”

Con chim vàng anh bay vào tay áo của Vua.

o O o

Tôi bỗng nhớ chuyện “Vàng ảnh, vàng anh.. Có phải vợ anh.. Chui vào tay áo” lúc nửa đêm qua khi tôi nằm đọc Bút ký “Những Ngày Tháng Khó Quên” của tác giả Ngô Ðình Châu, một cựu sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà. Ông sĩ quan Ngô Ðình Châu đi HO đến Virginia trước tôi mấy năm. Ông là một trong số nhiều ông giúp đỡ vợ chồng tôi khi chúng tôi đến Xứ Tình Nhân Mỹ Quốc.

Tác giả Ngô Ðình Châu là em ruột Họa sĩ Mạnh Quỳnh. Tôi sẽ gửi đến quí vị bài viết của tôi về Họa sĩ Mạnh Quỳnh, bài viết căn cứ trên lời kể của ông Ngô Ðình Châu. Hôm nay tôi chỉ viết về tác phẩm “Những Ngày Tháng Khó Quên”, văn phẩm cuối cùng của ông Ngô Ðình Châu. Ông đã trăm năm hồng lệ ở Virginia. Tôi tiếc khi ông còn sống tôi đã không đọc kỹ “Những Ngày Tháng Khó Quên” của ông.

Sĩ quan Ngô Ðình Châu bị đi tù khổ sai ở Sốc Trăng. Dưới đây là một đoạn trích trong “Những Ngày Tháng Khó Quên.” Ðoạn truyện này làm tôi nhớ chuyện “Vàng ảnh, vàng anh.. Có phải vợ anh..”

Ngô Ðình Châu. Những Ngày Tháng Khó Quên. Trích:

book-cover

Trong những ngày đi cuốc đất với anh em, tôi chứng kiến một chuyện thật là khó tin nhưng có thật.

Ðó là chuyện xẩy ra với một Thiếu úy Cảnh sát làm việc ở Ty Cảnh sát Sóc Trăng, lâu ngày tôi quên tên anh, nhưng có nhiều anh em tôi chứng kiến chuyện này, trong số có anh Phạm Kim Anh hiện sống ở Magnolia Westminster, Cali.

Nguyên sau ngày 30 Tháng Tư, 1975, bọn Việt Cộng bắt tất cả sĩ quan quân đội và cảnh sát đi tù. Anh Thiếu úy bị bắt giam khi người vợ trẻ của anh đang bệnh nặng. Biết mình sắp chết, chị guợng đến khám tù xin gặp mặt chồng. Không được gặp chồng, chị về nhà và chết trong ngày hôm sau.

Anh Thiếu úy ở trong tù được tin vợ chết chỉ biết ưá nước mắt. Mấy tháng sau bọn tù chúng tôi bị đưa đến Cù Lao Vung. Tôi ở cùng đội với anh Thiếu úy. Suốt buổi chỉ thấy anh cắm cúi cuốc đất, nhưng ở gần anh thì thấy môi anh mấp máy như anh thầm nói chuyện với ai đó.

Rôi đến một chiều chúng tôi đang làm rẫy ngoài trời thì trời bỗng u ám, bỗng có một con chim từ xa bay đến, bay lượn vòng trên đầu anh Thiếu úy, chim kêu lên những tiếng “Khách.. Khách..” Chúng tôi thấy anh Thiếu úy ngưng cuốc, ngửng lên nhìn con chim. Anh nói nhỏ câu gì đó cùng lúc anh giơ bàn tay lên, con chim xà xuống đâu trên bàn tay anh. Anh nói nhỏ gì đó với con chim một lúc rất lâu.

Rồi mưa đổ xuống. Con chim bay lên, lượn ba vòng trên đầu người tù xong chim bay đi mất. Người tù đứng sững dưới mưa nhìn theo bóng chim bay.

Tối đó trong phòng giam, anh Thiếu úy rưng rưng nước mắt nghẹn ngào kể cho chúng tôi nghe: vì thương nhớ vợ anh nên anh thường nói chuyện với chị như chị còn sống. Lúc ấy bỗng có chim bay đến lượn vòng trên đầu anh, anh nghĩ có thể hồn vợ anh nhập vào con chim, bay đến an ủi anh. Anh thầm nói: “Nếu Em về, Em đậu lên tay anh..”

Ngưng trích.

Câu chuyện trên đây làm tôi thêm tin người ta có linh hồn, và con người sau khi chết có một thời gian linh hồn vương vấn trần gian. Rất có thể nếu có người thân thương tiếc quá, linh hồn người chết không bỏ đi được. Cô em văn nghệ của tôi, người chồng cô yêu thương hồng lệ, gặp tôi cô nói:

“Em phải quên chồng em, để chồng em được siêu thoát. Cứ giữ anh ấy ở mãi với em là em ích kỷ, em chỉ biết có em.”

Cuộc đời đã có nhiều chuyện buồn. Tôi không muốn làm quí vị buồn thêm. Mời quí vị đọc một chuyện vui.

Như Chuyện Thần Tiên

Mỹ Lan

Mỹ Lan

Tôi tên là Ðào Duy Kỳ, dòng dõi Ðào Duy Từ, là một Trung úy trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, tốt nghiệp trường Võ Bị Thủ Ðức, ra đơn vị tác chiến khoảng hai năm thì ngày 30-4-1975  đến. Cũng như mọi sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa, tôi đã bị giải ra Bắc và chịu tù đầy qua các trại Sơn La, Yên Bái, Lạng Sơn…

Khoảng năm 1983, chúng tôi bị chuyển trại về Vĩnh Phú. Một hôm nhóm tôi gồm 20 người đi đốn cây trong rừng. Buổi trưa là giờ ăn, tôi bèn đi sâu vào rừng để tìm chuối rừng hay rau rừng để “cải thiện.” bữa ăn Bỗng nhiên tôi thấy có một cánh tay phụ nữ trắng trẻo giơ lên vẫy tôi. Tôi nhìn quanh rồi bước đến thì một người con gái hiện ra ôm lấy tôi, kéo tôi vào một cái hang ở dưới một gốc cây. Nàng ôm tôi và nói bằng tiếng Việt rất rõ ràng, rành mạch:

“Em yêu anh! Anh yêu em đi.”

Tôi không kịp nghĩ gì cả, tôi ôm nàng, cởi vội y phục nàng.Tôi như con hổ đói vồ con hươu tơ. Tôi như anh con trai mới lớn lần đầu được ôm hôn một cô gái trắng trinh. Da thịt nàng thơm mùi gái trinh. Tôi đắm vào một thế giới đầy cảm xúc tuyệt vời.

Xong việc, nàng ngồi dậy, hôn tôi và bảo tôi:

“Anh đi nhanh đi. Em tên là Mỹ Lan.”

Tôi nói:

“Cảm ơn em đã đến, đã cho anh những giây phút tuyệt vời.”

Tôi ôm nàng nhưng không nói tên tôi vì tôi không mong được gặp lại nàng lần thứ hai trong đời, việc gặp lại cô gái rất khó đối với một tù nhân giữa núi rừng âm u! Hơn nữa, tôi sợ câu chuyện có thể bị vỡ lỡ mà mang tai họa cho tôi và nàng.

Trước khi ra khỏi hang, tôi nhìn ngược nhìn xuôi lỹ lưỡng. Thấy không có ai, tôi nhanh nhẹn bước ra rồi tiếp tục công việc như chẳng có việc gì xảy ra. Mấy hôm sau, khi đi đốn cây rừng, tôi cố ý trở lại nơi này, nhưng không thấy bóng dáng nàng hay một vết tích nào của nàng. Tôi cố ý lắng nghe trong trại có tin tức gì một người con gái nào bị bắt ở gần trại không, nhưng tuyệt nhiên không nghe ai nói gì cả. Tôi mừng nàng được an toàn. Tôi phục nàng can đảm, dám xông pha hiểm nguy. Nếu chuyện vỡ lỡ, nàng có thể bị khổ về nhiều tội.

Nàng có thể mang tội gián điệp và bị tù mãn kiếp, héo úa một đời xuân. Tôi bị tù đã đành, nhưng nàng tại sao lại mạo hiểm? Ngoài đời thiếu gì trai tơ? Thiếu gì đàn ông? Tôi không thể hiểu nguyên do nào mà nàng tìm đến hiến dâng trinh tiết của nàng cho tôi như thế! Nàng là con gái miền núi, đâu phải ngưởi Tây phương mà có lối “yêu cuồng sống vội” như vậy? Quả thật tội không hiểu. Dẫu nàng là người thế nào đi nữa, tôi yêu nàng, tôi trân quý nàng. Nàng là một vị tiên hiện đến trong đời tôi. Nàng đến một lần và chỉ ban ân cho tôi một lần thôi! Tôi nhớ nàng mãi.

Tôi nhớ làn da trắng ngà của nàng, hương thơm trên thân thể nàng, nhất là nốt ruồi bên mép trái, đặc biệt là một nốt ruồi son giữa ngực của nàng. Nàng chợt đến rồi chợt đi như con bướm vàng trong giấc mộng. Thỉnh thoảng tôi nhớ đến nàng. Trong giấc mơ, tôi thấy nàng cùng tôi âu yếm.Tôi thắc mắc không hiểu nàng là ai. Nàng là một cô gái Mường hay cô gái Kinh? Nàng là một sơn nữ hay một cán bộ ở trong vùng? Nàng lãng mạn muốn tìm của lạ miền Nam hay nàng là một cô gái bụi đời? Dẫu sao, đối với tôi, nàng là một vưu vật!

Tuần sau, chúng tôi được lệnh chuyển trại về Sơn La. Việc di chuyển này làm cho lòng tôi thêm chua xót.Thế là tôi xa cách Vĩnh Phú, không còn cơ hội gặp lại Mỹ Lan.

Năm 1985, tôi được phóng thích.

Trước đây, tôi nghe nói một số sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa bị giải ra Bắc bằng xe lửa đã bị dân chúng ngoài Bắc ném đá. Nhưng lần này trên xe lửa từ Hà Nội về đến Quảng Bình , chúng tôi không thấy có chuyện gì xẩy ra. Khi tầu về đến ga  Quảng Trị, rồi ga Huế, ga Quảng Nam, chúng tôi xuống tàu đi lại cho giãn gân cốt, thì được đồng bào vồn vã hỏi chuyện, nắm tay, kẻ cười, người khóc làm cho chúng tôi rất xúc động. Khi chúng tôi lên tàu, đồng bào ném quà bánh cho chúng tôi rất nhiều. Tình cảm đồng bào quê hương miền Nam rất nồng thắm với những đứa con bất hạnh như chúng tôi!

Sang năm 1986, tôi cùng anh chị em trong gia đình tổ chức vượt biên, may mắn chúng tôi đến được Paulo Bidong; năm 1987, tôi được đi định cư ở Hoa Kỳ. Tại Houston, tôi vừa đi làm vừa ghi tên vào đại học. Sau mấy năm, tôi đỗ bằng kỹ sư điện toán và làm việc cho hãng Corel. Sau tôi gặp Mai Linh, người Mỹ Tho, chúng tôi kết hôn.

Thỉnh thoảng tôi nhớ đến kỷ niệm Vĩnh Phú, Mỹ Lan đến rồi đi như trong giấc mộng Liêu Trai. Tôi nghĩ nàng có lẽ đã lấy chồng, hằng ngày vợ chồng mang gùi vào núi bẻ măng, đào khoai, nhổ sắn như hình ảnh những người dân thiểu số mà tôi thường thấy khi đi Ðà Lạt chơi. Tôi thấy bóng nàng ẩn hiện trong núi rừng Vĩnh Phú và lòng tôi cảm thấy luyến tiếc bâng khuâng. Tôi nghĩ cuộc đời nàng sẽ héo úa trong chốn rừng sâu. Giỏi lắm thì nàng sẽ thành một cán bộ thương nghiệp hay Hợp tác xã trong bản làng, tay dắt con lớn, vai địu con nhỏ, ngực teo, mặt mũi xanh xao như bao cô nàng Thổ Mán nơi thượng du miền Bắc. Hay cao hơn nàng là một nữ đảng viên cấp xã, cấp huyện, mang áo bộ đội bỏ ngoài quần, đội nón cối, đi dép râu, vai mang săc-cốt, thân gầy ốm, dáng lom khom. Những hình ảnh của nàng, lúc ẩn lúc hiện trong tâm trí tôi làm thành một kho kỷ vật êm đềm.

Cuộc hôn nhân của của Mai Linh và tôi rất hạnh phúc. Chúng tôi sống bên nhau được ba năm thì Mai Linh bị bệnh ung thư rồi mất. Tôi buồn rầu mấy năm trời. Hình ảnh Mỹ Lan lại hiện đến trong tôi rất ngọt ngào và thần bí. Hương thơm của thân thể nàng như còn vương vấn trong mũi tôi và thân thể tôi. Tôi có ý định về Việt Nam du lịch, thăm lại Vĩnh Phú, tìm lại mối tình xưa. Nhưng tôi lại không dám vì cuộc đời như nước chảy mây trôi, thuyền trôi mà bến bờ cũng đổi thay, quá khứ e đã tan vỡ như xác pháo mùa Xuân, không thể nào tìm lại được. Nếu đào bới quá khứ,chỉ thêm đau lòng như Lưu Nguyễn khi trở lại quê xưa!

Các bạn khuyên tôi nên đi du lịch một chuyến để quên sầu. Tôi mua vé máy bay đi du lịch Ðức, Pháp, và Ý vì Tây phương đối với tôi có nhiều quyến rũ. Hơn nữa, tôi có bà chị họ định cư tại Tây Ðức. Chị tôi có con du học tại Tây Ðức trước 1975, đỗ tiến sĩ, sau 1975 xin ở lại, rồi bảo lãnh gia đình qua đây. Khi tôi đến Tây Ðức, gặp anh chị và các cháu, tôi vui mừng hết sức. Các cháu lái xe đưa tôi đi xem cảnh trong thành phố. Một hôm các cháu đưa tôi đi ăn phở ở một tiệm phở của người Việt nổi tiếng là ngon nhất tại đây. Khi bà chủ tiến tới chào hỏi chúng tôi thì tôi ngạc nhiên hết sức, vì nàng là Mỹ Lan, người tình một khắc mà tôi ghi nhớ ngàn đời. Bên môi trái của nàng vẫn in rõ một nốt ruồi duyên. Tôi  bàng hoàng đứng dậy, kéo nàng ra một bên, hỏi nhỏ:

– Phải chăng em là Mỹ Lan? Chúng ta đã gặp nhau tại trại tù Vĩnh Phú?

Sau một phút ngỡ ngàng, nàng  nhận ra tôi. Tôi hỏi nàng và kể lể mọi sự. Chúng tôi ôm nhau mà khóc. Nàng giao công việc cho người nhà rồi đưa tôi về nhà nàng. Còn tôi, tôi quay lại bảo các cháu tôi:

“Bà chủ nhà hàng là bạn quen của cậu ở Việt Nam. Bà ấy mời cậu lại nhà. Các cháu về trước, cậu sẽ về sau”.

Tôi theo nàng ra xe.

Nhà nàng ở tại một khu yên tĩnh trong thành phố. Nàng ở một mình với con trai. Các anh em nàng có nhà riêng. Người thì đi làm các hãng tư, người thì phụ giúp nàng trông coi tiệm phở. Khi còn hai chúng tôi, nàng kể sự tình. Quê nàng ở Sơn Tây, tổ tiên nhiều người đỗ cử nhân, tiến sĩ, làm quan  ở triều Lê, triều Nguyễn. Năm 1954, cộng sản về Hà Nội, mở cuộc cải cách ruộng đất và cải tạo công thương nghiệp, gia đình nàng bị quy là địa chủ. Mẹ nàng và anh em nàng thu vén tài sản, bỏ trốn lên mạn ngược. Ban đầu, gia đình nàng giả làm thương gia lên buôn bán để tìm hiểu, sau đó làm nhà cửa gần bản Mường, lán Thổ tại Vĩnh Phú.

Gia đình nàng ăn mặc, nói năng và sinh hoạt  theo phong tục bản Mường, Mán. Nhờ khéo giao thiệp, gia đình nàng được cảm tình dân chúng nơi đây, được họ giúp đỡ và che chở. Nàng nghe tin các sĩ quan miền Nam bị đưa ra giam giữ tại Vĩnh Phú, là một nơi gần bản Mường của nàng. Tuy chưa gặp những người miền Nam, nhưng lòng nàng chan chứa cảm tình với các tù nhân miền Nam vì họ với nàng  cùng chung cảnh ngộ, là nạn nhân của chế độ cộng sản. Nàng quyết gặp một sĩ quan miền Nam và sẵn sàng hiến thân cho chàng ta để giữ lấy dòng máu trong sạch của người quốc gia. Nàng cam tâm mang tiếng “không chồng mà chửa” còn hơn ở góa trong rừng thẳm, hoặc phải lấy anh Mán, anh Thổ hay anh cộng sản làm chồng! Nàng đã nghiên cứu địa hình địa vật, và đã đào hang ẩn náu đưới một gốc cây trong rừng, nơi tù cải tạo thường tới lao động. Nàng đã chờ đợi vài ngày đêm; cuối cùng nàng đã gặp tôi, và đã toại nguyện.

Sau cuộc ân ái đầu tiên và duy nhất ấy với người tù khổ sai VNCH là tôi, nàng có thai. Lúc này, mẹ nàng đã mất, anh em nàng chung sống với nhau. Hằng ngày, anh em nàng phải tô mặt cho đen thêm một chút để tránh cặp mặt cú vọ của cộng sản, mặc dầu nơi đây hoang vắng, người Kinh ít khi lên đây. Gia đình nàng cũng theo nếp “du canh” của người thiểu số mà di chuyển nơi này nơi nọ. Cứ vài năm là một lần di chuyển, như vậy cũng có lợi là tránh được sự theo dõi của công an. Nhân dịp người Hoa bị đánh đuổi trong vụ nạn kiều, anh em nàng theo họ sang Hoa Lục, rồi sang Hongkong.

Tại đây, chính phủ Hongkong bắt anh em nàng vào trại tập trung. Sau một thời gian, gia đình nàng được phái đoàn Tây Ðức nhận cho định cư tại Tây Ðức. Anh em nàng lúc đầu xin làm công nhân cho các hãng xưởng, sau cả nhà quyết định góp vốn mở hàng phở, và anh em nàng đã thành công. Khách hàng vào ra nườm nượp, người Việt Nam đã đành mà người Ðức, Pháp, Mỹ cũng thích ăn phở của nhà nàng. Con trai nàng nay đã lớn, được mười tuổi, đang theo học trung học và nàng thì vẫn phòng không chiếc bóng. Còn tôi, tôi cũng kể đời tôi từ nhỏ cho đến nay, qua bao chuỗi ngày sóng gió và đau thương.

Chúng tôi ngồi nói chuyện một hồi thì nàng rủ tôi theo nàng đón con đi học về. Chúng tôi ra xe do nàng lái, đến chờ đợi ở cổng trường. Vài phút sau thì học sinh tan học. Con nàng ra xe. Nàng giới thiệu tôi với con nàng:

– Hưng, đây là bố ruột của con từ Mỹ sang tìm mẹ.

Tôi thấy Hưng giống tôi nhưng cao to hơn, trắng hơn. Tôi ôm con tôi và con tôi cũng ôm tôi trong xúc động. Tôi rất mừng vì bất chợt mà tôi đã có một đứa con trai khôn lớn.

Tối hôm đó, Mỹ Lan và tôi sống trong đêm tân hôn. Ðêm đó cũng là đêm thứ hai tôi thấy lại bộ ngực trần trắng như ngọc với một nốt ruồi son nằm ở giữa hai gò bồng đảo của nàng.

Tôi ngỏ lời xin cưới nàng làm vợ, nàng sung sướng cười trong hàng nước mắt. Tôi hỏi nàng muốn sang Mỹ hay ở lại Ðức, nàng trả lời nàng muốn sang Mỹ cùng tôi chung sống. Mấy tháng sau, chúng tôi tiến hành thủ tục hôn nhân và bảo lãnh. Ðám cưới của chúng tôi được tổ chức đơn giản tại Ðức, gồm anh chị họ và các cháu của tôi, cùng anh em nhà nàng với bạn bè. Sau đó, vợ chồng và con chúng tôi về Mỹ, chúng tôi sống một đời tự do và hạnh phúc.

Sơn Trung

Quỳnh Mai chuyển

CTHÐ: Tôi tìm được đoạn truyện trên đây trên Web Internet. Thấy truyện hay quá tôi đặt tên truyện là “Như Chuyện Thần Tiên.” Tôi tưởng đó là chuyện thật. Rồi tôi thấy chuyện không thể, chuyện không phải là chuyện thật. Ở đời này, đời xưa, đời sau làm gì có cuộc Tình nào Thần Tiên như thế.

Rồi tôi nghĩ sao lại không? Biết đâu đó chẳng phải là chuyện thật? Nếu đó không phải là Chuyện Thật, tôi thán phục ông bạn nào sáng tác ra Chuyện. Tưởng tượng của ông bạn phong phú, lãng mạn, tuyệt vời hơn tôi nhiều lắm.

Mà tại sao ta lại không cho đó là Chuyện Thật? Chuyện làm cho Tim Ta ấm lại, Chuyện làm cho Ta thấy Ðời bớt u ám, bớt sầu buồn. Chuyện cho ta thấy Con Người không chỉ giết nhau, bỏ tù nhau, Con Người Yêu Nhau dza dzít. Chuyện làm ta yêu Ðời, yêu Người. Chuyện làm cho ta trong một khoảnh khắc thời gian, trở về cái tuổi ta thơ ấu, khi ta ngây thơ, ta tin tất cả những chuyện Tình Ðẹp ta nghe kể đều là chuyện thật. Ta còn đòi hỏi gì hơn ở một Chuyện Kể??

Chương trình ‘bảo hiểm y tế vừa túi tiền’ đi vào hoạt động

Chương trình ‘bảo hiểm y tế vừa túi tiền’ đi vào hoạt động

Thượng nghị sĩ Barbara Boxer (phải) trình bày phần nói về phúc lợi cho phụ nữ của Đạo luật Chăm sóc sức khỏe vừa túi tiền trong một cuộc họp báo tại trụ sở Quốc hội, 30/9/13

Thượng nghị sĩ Barbara Boxer (phải) trình bày phần nói về phúc lợi cho phụ nữ của Đạo luật Chăm sóc sức khỏe vừa túi tiền trong một cuộc họp báo tại trụ sở Quốc hội, 30/9/13

01.10.2013

Hoa Kỳ đã bắt đầu bán bảo hiểm y tế cho hàng triệu người chưa có bảo hiểm để giúp họ trả các hóa đơn thuốc men.

Sáng thứ Ba, chính phủ liên bang đã khai trương một website cung cấp thông tin cho những người chưa có bảo hiểm có thể mua bảo hiểm như thế nào.

Trang web mới mở có nhiều người truy cập quá đến nổi nhiều người đã nhận được những báo lỗi, nhưng vấn đề này dường như đã được chỉnh lại sau đó.

Các chính sách bảo hiểm mới, nằm trong khuôn khổ của một đạo luật, một thành tựu về lập pháp, của Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama, và việc thông qua đạo luật năm 2010 với các biện pháp cải cách gồm nhiều mặt, là những cải cách mang nhiều hoài bão nhất của nước Mỹ trong gần 50 năm nay.

Chương trình cải cách này một phần nhằm mục tiêu bán bảo hiểm y tế cho 30 triệu hay con số cao hơn nữa những người chưa có bảo hiểm y tế, tuy nhiên cũng đòi hỏi bất cứ ai chọn không mua bảo hiểm sẽ phải trả tiền phạt.

Các cải cách này, được nhiều người ở Mỹ gọi là Obamacare, và vẫn còn tranh cãi như khi luật này được chấp thuận chỉ bởi những thành viên Dân chủ của Tổng thống Obama trong Quốc hội,  với sự chống đối kiên quyết của các đối phương thuộc đảng Cộng hòa

Đạo luật này là trọng tâm của tình trạng bế tắc ngân sách đã dẫn đến việc các cơ quan chính phủ, lần đầu tiên trong 17 năm qua,  buộc phải đóng cửa một phần.

Nhiều nhà lập pháp Cộng hòa mưu tìm việc chấm dứt tài trợ cho chương trình cải cách này, hay ít nhất hoãn việc thực thi đầy đủ luật.

Bảo hiểm trong chương trình này do các công ty tư nhân cung cấp, thông qua những trao đổi của từng tiểu bang, sẽ có hiệu lực vào tháng Giêng, nhưng nhiều biện pháp cải cách khác đã được đưa ra từ khi Tổng thống Obama ký ban hành luật.

Khi mối đe dọa đóng cửa chính phủ thực sự gần kề hôm thứ Hai, Tổng thống Obama nói với các thành viên đảng Cộng hòa rằng họ sẽ không thể ngăn chặn đạo luật được. Ông nói:

“Đạo luật chăm sóc sức khỏe vừa túi tiền đang tiến hành. Ngân khoản đã được định. Quý vị không thể bác bỏ nó được.”

Tổng thống Obama, theo chương trình đã định vào tối thứ Ba tới đây sẽ nói về bước khởi đầu của việc bán bảo hiểm này, và sẽ gặp những người trông đợi mua bảo hiểm y tế theo chương trình này.

Một giáo xứ được khai sinh trong vùng trắng tôn giáo huyện Iagrai, tỉnh Gia Lai

Một giáo xứ được khai sinh trong vùng trắng tôn giáo huyện Iagrai, tỉnh Gia Lai

Đăng bởi lúc 1:58 Sáng 6/10/13

chuacuuthe.com

VRNs (06.10.2013) – Gia Lai – Lúc 11 giờ, ngày 04.10.2013, Đức cha Micae Hoàng Đức Oanh, Giám mục Giáo phận Kontum đã chính thức thành lập giáo xứ IaTô, trong địa bàn huyện Iagrai, tỉnh Gia Lai và trao trách nhiệm chăm sóc giáo xứ cho Dòng Anh Em Hèn Mọn (Dòng Phanxicô). Hôm nay cũng là lễ kính nhớ Thánh Tổ Phanxicô Assisi, Đấng sáng lập Dòng Phanxicô.

Giáo xứ IaTô Huyện Jagrai nằm cách Tp Pleiku khoảng 30 km về hướng Tây Nam, giáp biên giới Campuchia. Trước năm 1975 là vùng căn cứ cách mạng, nên các tôn giáo gần như trắng. Sau năm 1975, vào thập niên 80, một số giáo dân đi kinh tế mới đến vùng đất này, trong đó có khoảng 15 hộ với gần 80 nhân khẩu là giáo dân. Tại thời điển đó, ngay các giáo xứ lớn ở thành phố Pleiku, việc sinh hoạt tôn giáo cũng cam go, nên tại IaTô người Kitô hữu không được tham gia một chút gì hoạt động tôn giáo chính thức của Giáo hội. Họ chỉ biết cầu nguyện tại tư gia và cũng không dám cho mọi người biết mình là người Công giáo.

Nhờ sự hoạt động của Chúa, sức mạnh đức tin mỗi tín hữu tăng lên dần, những người tin Chúa bắt đầu tìm cách liên lạc và sinh hoạt với nhau. Khoảng thời gian 1984 – 1994, anh em kết hợp lại và cử người về trình lên cha Quy và cha Thượng ở giáo xứ Thăng Thiên tại TP Pleiku để được hình thành một xóm giáo. Trong thời gian 10 năm đó, các cha gần như không đến được với giáo dân IaTô. Mỗi khi có việc, anh em phải âm thầm về giáo xứ Thăng Thiên sinh hoạt, tham dự những ngày lễ trọng.

Năm 1995 mọi sinh hoạt đạo của IaTô chuyển sang cho giáo xứ Thánh Tâm coi sóc. Lúc đó Đức giám mục đương kim của giáo phận Kontum đang là là linh mục quản xứ giáo xứ Thánh Tâm.

Ngày 26.04.1995, cha Micae đã về dâng thánh lễ chui đầu tiên cho IaTô tại gia đình ông Vịnh. Tiếp sau đó, cha Micae về rửa tội chui cho các em nhỏ tại nhà ông Bảy Chiêng. Cha Micae đặt ông Bảy chiêng làm xóm trưởng xóm giáo 2 và ông Vịnh làm xóm trưởng xóm giáo IaChâm.

Năm 1996 hai xóm giáo lại chuyển sang sinh hoạt với giáo xứ Đức An do cha Phêrô Nguyễn Vân Đông đảm nhiệm. Cho đến năm 1996, tại IaTô chưa có một người anh em dân tộc Jarai nào biết về đạo Công giáo.

Năm 1998, một số anh chị em như ama Krenh, ama Ương, ami Béo, ơi Hằng, ơi Đer, ama Hương, ama Thùy, ơi Tăm … đến gặp cha Antôn Vương Đình Tài, CSsR, ở Pleichoét và xin cha đón nhận họ. Cha Tài đã quy tụ số anh em này về Pleichoét để học hỏi Tin Mừng một thời gian, rồi giao lại cho cha Đông kiêm nhiệm vùng Jarai.

Vào  Phục Sinh năm 2002, ngày 30.03.2002, có 12 anh chị em Jarai đầu tiên được rửa tội. Sau đó, ngày 23.06.2002 rất nhiều anh chị em Jarai đã về giáo xứ Thánh Tâm chịu phép Thanh Tẩy. Trong số này có nhiều anh chị em đã trở thành Akố  Khul trong làng của họ và từ các anh chị em này, việc rao giảng Tin Mừng được tỏa đi các buôn làng.

Khi người Jarai bắt đầu loan báo Tin Mừng cho người Jarai thì cũng là lúc các anh chị em bị chính quyền truy bắt, nên họ đã gặp muôn vàn khốn khổ. Cuộc sống gian khổ đã không làm cho anh chị em Jarai chùng bước, mà họ tiếp tục ra đi để đưa các anh chị em mới theo đạo về chịu bí tích Thanh tẩy, lúc thì nhà thờ Đức An khi thì trung tâm truyền giáo Pleichoét, lúc khác lại tại nhà thờ Thánh Tâm. Bất cứ chỗ nào thuận tiện là các cha đều đón nhận anh chị em.

Năm 2004, cha Giuse Trần Văn Bảy về quản nhiệm giáo xứ Đức An, cha quy tụ anh chị em nhiệt tình vùng IaTô về gíao xứ Đức An để học hỏi giáo lý và cách dạy giáo lý lại cho xóm giáo mình. Cha đã mượn nhà anh Tuấn làm nơi sinh hoạt chung để hình thành một xóm giáo.

Ngày 19.04.2005 Dòng Anh Em Hèn Mọm (OFM) đã được Đức giám mục Giáo phận Kontum giao phụ trách truyền giáo huyện Ia Grai. Nhận sứ mệnh đi đến một huyện mà nhà cầm quyền xem tôn giáo là một cái gai, nên khó khăn càng chồng chất. Có những lúc các cha  gần như muốn bỏ cuộc bởi áp lực của chính quyền quá lớn. Nhưng khi nhìn vào sự khao khát, sự khó nghèo, sự đói rách của anh chị em bệnh phong cùi, các cha đã chấp nhận sự bắt bớ, trục xuất để rồi âm thầm chịu đựng, lén đến với anh em dân tộc và bệnh nhân cùi.

Cha Nicôla Vũ Ngọc Hải, Bề trên dòng tại miền truyền giáo Gia Lai, đứng giữa anh chị em Jarai

Cha Nicôla Vũ Ngọc Hải, Bề trên Dòng Phanxicô tại miền truyền giáo Gia Lai, đứng giữa anh chị em Jarai

Cha Nicôla Vũ Ngọc Hải, Bề trên Dòng Phanxicô tại miền truyền giáo Gia Lai đã đến dâng lễ đẩu tiên vào ngày 18.08.2006 cùng với cha Giám tỉnh Dòng Phanxicô Vương Đình Khởi, cha Bảy và hai thầy phó tế Trung và Long, để ban bi tích thêm sức cho 52 người.

Ngày 28.12.2006, Đức giám mục Kontum đã bổ nhiệm cha Giuse Trần Văn Long về làm quản nhiệm IaTô và các giáo điểm huyện Iagrai. Đến năm 2010, Đức giám mục thấy sự lớn mạnh của các xóm giáo ở IaTô, số giáo dân trên 2000 người, nên ngài cho nâng lên hàng giáo xứ. Tòa Giám Mục đã có thông báo cho chinh quyền nhưng mọi việc gần như bị lãng quên. Năm 2011, Tòa Giám Mục đặt lại vấn đề thì hai năm sau, đến ngày 08.08.2013 chính quyền tỉnh Gia Lai mới có quyết định công nhận.

Đầu thánh lễ, cha quản nhiệm Giuse Trần Văn Long đọc quyết định của chính quyền công nhận giáo xứ. Đức giám mục Giáo phận đã nói không thành lời khi dòng nước mắt tuôn trào, hòa chung các đôi mắt đầy lệ của các cha đồng tế với tiếng khóc của cộng đoàn.

Lời nói của Đức cha Micae đi đôi dòng nước mắt: “Trên 20 năm, trải qua bao gian lao khốn cùng mà anh chị em gánh chịu cho Đức Tin của mình. Đâu phải tới ngày hôm nay giáo xứ IaTô mới hình thành. Huyện Jagrai phải có nhiều giáo xứ như Ia Kha, Ia Chăm, Ia Jok, Ia O… Các nơi này, anh chị em kitô hữu của chúng ta có rất nhiều. Chúng ta đến với Thiên Chúa bởi Đức Tin nhưng Đức Tin của chúng ta không được chính quyền đón nhận bởi cơ chế xin cho trong mọi sinh hoạt. IaGrai là một vùng trắng về tôn giáo bởi trước đây là vùng căn cứ. Nhưng anh chị em đã quy tụ lại sống Đức Tin của mình. Nhất là với các anh chị em người dân tộc ở IaTô, từ một nơi không biết Thiên Chúa là ai mà năm 2010 đã có 1289 anh chị em đã đón nhận Tin Mừng. Anh chị em người Kinh thập niên 80 có 80 người bây giờ trên 800. Vì đâu có sự kiện này ? Đó là vì chúng ta biết giữ vững Đức tin biết đi rao giảng biết loan báo cho mọi người biết chúng ta là con một Cha, anh em một nhà.

(Từ trái sang) Cha Tổng đại diện, Đức giám mục giáo phận, và Cha bề trên Dòng Phanxicô tại Tây Nguyên

(Từ trái sang) Cha Tổng đại diện, Đức giám mục giáo phận, và Cha bề trên Dòng Phanxicô tại Tây Nguyên

Đức Giám mục nói tiếp: “Nhân ngày lể Thánh Phanxicô Assisi, tôi muốn nói tâm gương của ngài với anh chị em. Thánh Phanxicô đến với thầy Yêsu và tìm thấy nơi thầy Yêsu của mình là một tấm gương đức độ. Ngài đã rũ bỏ mọi vinh hoa phú quý, bởi ngài xuất thân từ một gia đình giàu sang sung túc. Ngài thấy nơi thầy Yêsu là hiên thân của nhân đức, ngài từ bỏ mọi phú quý để đến với anh chị em tầng lớp khốn cùng bị xã hội khinh chê ruồng bỏ, ngài gắn liền cuộc sống của mình với bao anh chị em phong cùi bệnh hoạn mà ai cũng ghê tởm. Ngài đã chia sẽ ủi an và đưa những kẻ khốn cùng ấy đến với thầy Yêsu của mình. Tấm gương của ngài đến ngày hôm nay, Giáo hội vẫn còn học hỏi và tiếp bước noi theo.

Cuối cùng Đức cha Micae nói: “Tôi xin các ơn các Cha dòng Phanxicô đã đảm nhiệm cho việc truyền giáo tại vùng Iagrai. Cám ơn anh chị em Kinh cũng như Thượng đã và đang thực hiện sứ vụ truyền giáo của mình”.

PV. VRNs tại Pleiku