Chuyện nghệ sĩ sân khấu trùng tên

Chuyện nghệ sĩ sân khấu trùng tên

Ngành Mai, thông tín viên RFA
2013-10-12

mong-tuyen-305.jpg

Nghệ sĩ Mộng Tuyền, ảnh sưu tập chụp trước đây.

File photo

Dễ nhầm lẫn

Ngoài xã hội nếu như có 2 người trùng tên nhau cũng đã gây khó khăn cho thiên hạ xác định, mỗi khi đề cập đến một trong 2 người thì trong văn nghệ cũng vậy thôi. Trong làng sân khấu có đến những 3 nàng Thanh Lan, do vậy mà thiên hạ rất dễ nhầm lẫn.

Khi nói về một buổi trình diễn ở sân khấu, hoặc ai đó đang nói về người nghệ sĩ mà nghe họ đề cập đến 2 chữ Thanh Lan, thì chắc rằng người nghe phải nghĩ ngợi trong vài giây và tự đánh dấu hỏi xem người ta muốn nói đến Thanh Lan nào đây.

Thật vậy, trong làng sân khấu, ca nhạc có đến 3 nàng Thanh Lan xuất hiện ở 3 thời kỳ: Thanh Lan thời Đệ Nhứt Cộng Hòa; sang thời Đệ Nhị Cộng Hòa lại có nàng Thanh Lan khác xuất hiện, và sau 1975 lại có thêm một nàng Thanh Lan nữa. Do đó mà khán giả, thiên hạ rất dễ nhầm lẫn, người ta có thể hiểu ca sĩ này sang nghệ sĩ kia… Cái đặc biệt là cả 3 nàng đều có nét đẹp riêng và nổi tiếng mỗi người một cách.

Chúng tôi tạm thời gọi 3 nàng Thanh Lan bằng số 1, 2, 3 theo thứ tự thời gian trước sau mà các nàng ta xuất hiện ở mỗi thời kỳ.

Trước hết nói về Thanh Lan 1 thì nàng này xuất hiện trước nhất, đã tạo được tên tuổi cùng thời với Thanh Thúy ở những nhà hàng Văn Cảnh, Hòa Bình, Bồng Lai, phòng trà Anh Vũ và các sân khấu đại nhạc hội. Nếu như Thanh Thúy quyến rũ khán giả bằng giọng ca truyền cảm và nét đẹp dịu hiền, thì Thanh Lan 1 đã thu hút được người xem bằng sắc vóc và nét bạo dạn khi trình diễn. Thanh Lan đi vào tâm hồn khán giả do cái “duyên”, cái “bạo” chớ không phải do sự tạo rung động khó quên bằng giọng ca như Thanh Thúy hoặc Hoàng Oanh.

Thanh Lan 1 còn một lợi điểm nữa là rất ăn ảnh. Vì thế, nàng bước qua địa hạt phim ảnh thật dễ dàng. Trên màn bạc, Thanh Lan đã xuất hiện trong các phim “Đò Chiều”, “Bẽ Bàng”, “Cảnh Đẹp Miền Nam”, và thủ một vai chánh trong phim “Ảo Ảnh”. Con đường nghệ thuật đã đưa Thanh Lan 1 dến nếp sống trưởng giả, từ một nữ vũ sinh trong đoàn Kim Chung vào khoảng năm 1958. Nàng bắt đầu qua tân nhạc năm 1959, người hường dẫn về tân nhạc đầu tiên cho Thanh Lan là nhạc sĩ Phó Quốc Thăng.

TRANG-THANH-LAN2-250.jpg

Nghệ sĩ Bạch Tuyết và Nghệ sĩ Trang Thanh Lan tại giải Kim Khánh. File photo.

Nét đẹp của Thanh Lan được công nhận năm 1962, khi người ta tôn phong nàng làm “hoa hậu nghệ sĩ” và long trọng trao vương miện cho nàng trên sân khấu Anh Vũ. Phòng trà Anh Vũ ở Sài Gòn, là nơi mà những nhân vật tai to mặt lớn thời Đệ Nhứt Cộng Hòa thường lui tới. Tên tuổi và sự giao thiệp đã đưa Thanh Lan lên địa vị một “phu nhân” giàu sang đến mức triệu phú, hồi chế độ Ngô Đình Diệm.

Thế nhưng, nếp sống trưởng giả không làm Thanh Lan quên nghệ thuật, vì vậy thỉnh thoảng vẫn phải tìm tới một nơi có nhạc để hát, hoặc tự ý, hoặc theo lời mời. Hát không còn là sinh kế, nhưng hát cho… đỡ nhớ. Thanh Lan bảo vậy đó. Thanh Lan cũng không quên mình là 1 nữ nghệ sĩ có ít nhiều nguồn gốc từ giới cải lương. Vì vậy nàng vẫn yêu sân khấu bộ môn này và vẫn thường đi coi cải lương, ngồi ở hàng ghế đầu theo dõi mà say mê thích thú.

Do xuất thân từ đoàn cải lương Kim Chung, nên khi nghe tin Thanh Lan được bầu làm hoa hậu thì cả đoàn Kim Chung đã cười rần lên (không biết cười vấn đề gì).

Có lần một ký giả kịch trường phỏng vấn:

“Thanh Lan bây giờ muốn những gì?”

Nàng đáp:

“Chẳng muốn gì nữa, chỉ ngủ trong hạnh phục sẵn có và niềm vui hiện tại là thích nhứt. Mỗi ngày Thanh Lan ở nhà cưng cậu con trai hoặc lái xe đi dạo phố.”

Bấy giờ nàng đã làm chủ những chiếc xe hơi, những ngôi biệt thự trị giá bạc triệu. Nghe nói thì Thanh Lan 1 là phu nhân của ông Cao Xuân Vỹ (chẳng biết có đúng hay sai). Từ sau 1975 người ta không nghe thấy nàng ca sĩ Thanh Lan 1 này ca hát gì cả, đã giải nghệ, và có lẽ đã ra hải ngoại nhưng không xuất hiện.

Tiếp đây là đề cập đến Thanh Lan 2, nàng này xuất hiện khoảng sau năm Mậu Thân, và nổi tiếng như cồn vào những năm cuối của thời Đệ Nhị Cộng Hòa. Thanh Lan 2 “lừng danh” nhiều hơn so với Thanh Lan 1, không những ở lãnh vực nghệ thuật mà luôn cả ngoài xã hội. Báo chí tốn khá nhiều giấy mực với nàng Thanh Lan 2 này, từ chuyện Dũng Long Biên (chồng của cô) đến chuyện đóng phim “Tiếng Hát Học Trò”, đóng phim “Tinh Khúc Thứ 10” với tài tử Nhật Bổn trên sông Hương v.v…

Không biết tại sao mà mỗi lần có việc gì đó xảy ra liên quan đến Thanh Lan 2 thì báo chí tập trung vào để nói. Tóm lại là Thanh Lan 2 nổi tiếng khá nhiều do những xì căng đan, mà báo chí thời bấy giờ đã triệt để khai thác, mà báo nói nhiều là thiên hạ bàn tán nhiều vậy. Hiện nay Thanh Lan 2 đã ở hải ngoại gần 20 năm, thỉnh thoảng vẫn còn đi hát. Khoảng hơn một năm trước đây cô có tham gia sô hát của kịch sĩ Túy Hồng.

Giờ thì nói đến nàng Thanh Lan 3 nhỏ nhứt, nàng này xuất hiện sau 1975, không có những “dậy sóng” như hai nàng kia, được khán giả biết đến là nhờ ca hát, và từng làm bầu gánh cải lương, nhưng rồi gánh hát rã nghỉ làm bầu luôn.

Thanh Lan 3 sinh quán ở Vĩnh Long, trong gia đình truyền thống cổ nhạc, và là em chú bác với nghệ sĩ Thành Tôn (hát bội). Nàng từng theo học lớp tân nhạc với Duy Khánh, và cũng từng học lớp có cổ nhạc ờ lò Út Trong. Sau đó thì chính thức đi vào nghề qua việc gia nhập đoàn cải lương tuồng cổ Phước Thành. Kế thì đi đoàn Đất Mũi và điều kiện thuận lợi đẩy nàng nhảy lên làm bầu gánh hát Sân Khấu Mới Đồng Nai. Thanh Lan có dịp kinh nghiệm được nỗi đắng cay nghiệp làm bầu, gặp cảnh đào kép eo sách, làm khó đủ thứ, đòi mượn tiền trước giao kèo rồi lại bỏ đi… Đoàn hát kiệt quệ, Thanh Lan cho đoàn rã gánh và đi hát chầu trở lại cho mấy đoàn khác. Thanh Lan 3 vừa mới nổi tiếng, được báo chí nói đến, đăng hình, nhưng rồi do “ngành cải lương cúc rũ thu tàn” nên hiện nay người ta chẳng biết Thanh Lan này ra sao, ở đâu?

Trên đây là thành tích của 3 nàng Thanh Lan, chúng tôi nêu lên tổng quát những sự kiện nổi bật, chớ nếu như đi vào chi tiết thì quá rườm rà…

Ngoài 3 nàng Thanh Lan cùng mang một tên, thì cũng có 2 nàng Kim Loan trùng tên với nhau.

thanh-tam-250.jpg

Các nghệ sĩ đoạt giải Thanh Tâm (từ trái sang):Thanh Nga, Ngọc Giàu, Lan Chi, Bích Sơn. File photo.

Vào thời đầu thập niên 1960 trong làng tân nhạc có ca sĩ Kim Loan, vừa đẹp lại vừa hát hay, và nhân lúc Hoa Kỳ phóng phi thuyền Apollo 11, cô nàng nói với báo chí: “Tôi thích lên cung trăng nhưng cũng sợ nguy hiểm quá!” (Không biết nói đùa hay có dụng ý gì chăng)?

Trong khi đó thì phía bên cải lương cũng có cô đào Kim Loan, và dù rằng khác lãnh vực nhưng cả hai đều đứng trên sân khấu, nên có thể người ta hiểu lầm, gây ngộ nhận giữa Kim Loan này và Kim Loan kia. Cũng như có dư luận cho rằng hai nàng Kim Loan chỉ là một thôi, mà lúc bấy giờ nghe đâu hình như Kim Loan tân nhạc có phàn nàn, rằng bộ hết tên rồi sao mà lại lấy trùng tên với cô, để cho thiên hạ thắc mắc chớ? (Có lẽ Kim Loan cải lương xuất hiện sau).

Thật vậy, nếu phải chi Kim Loan cải lương mà tài nghệ yếu kém, chỉ là cái bóng mờ ít ai chú ý, hoặc là không được cải nhan sắc mỹ miều trời cho, thì người ta nghĩ chắc sẽ không có vấn đề gì. Đằng này cả hai đều trẻ đẹp, tuổi đời lại cũng được khán giả ái mộ, nên vấn đề mới được đặt ra, mà chung cuộc thì người sau luôn bị thiệt thòi.

Báo chí thời có có nêu lên sự thể, thiên hạ cũng lên tiếng phê bình này nọ, chạm đến lòng từ ái của một nghệ sĩ, đồng thời cũng có những đề nghị thế nào đó, nên sau ngày lãnh giải Thanh Tâm 1963, Kim Loan cải lương đã quyết định đổi tên là Mộng Tuyền. Cô tuyên bố với mọi người rằng, cô được khán giả mến chuộng là do khả năng tài sắc của mình, chớ đâu có phải nhờ ở cái tên “Kim Loan”! Quả thật thời gian sau Mộng Tuyền được phía điện ảnh mời đóng phim, đảm nhận vai chánh của mấy cuốn phim, và làm trưởng ban cải lương ở đài truyền hình, tên tuổi nổi như cồn.

Có thể nói Mộng Tuyền là một trong những cô đào sân khấu đẹp nhứt vào thời đó, cô đã hát qua nhiều gánh, và lọt vào bao nhiêu cặp mắt xanh của bầu bì, vương tôn công tử, cũng như những anh kép cùng trang lứa. Ngày ấy một hoa mai trắng rụng vào tim cô, trung tá Nam được cái diễm phúc ấy, và đám cưới tổ chức tại nhà hàng Bát Đạt ở Chợ Lớn. Có những cơn sóng gió xảy ra, nàng nói bởi vì mình đã chọn, mình đã yêu, thì phải chiều nhau cho đến ngày răng long tóc bạc! Nhưng chưa đến ngày đó, trước ngày tàn cuộc chiến vài tháng thì Mộng Tuyền đã bái bai ông xã hoa mai trắng kia.

Sau 1975 Mộng Tuyền chánh thức làm vợ ông Bầu Xuân, và khi ông này đi học tập cải tạo hơn 3 năm, nàng ôm cầm sang thuyền khác, và ôm theo trên cả trăm cây vàng khiến cho ông này khổ đau, chán ngán quá ở vậy luôn. Người ta nói có lẽ ông Bầu Xuân khó kiếm ra một cô đào nào mà tài sắc như Mộng Tuyền, nên không thèm có vợ nữa.

Còn Kim Loan tân nhạc thì về sau cũng nổi tiếng không kém, nhưng chỉ ít năm sau vào lúc danh tiếng nổi như cồn thì Kim Loan đi Tây Đức và ở luôn bên Đức. Kể từ lúc ấy trong làng tân nhạc vắng bóng Kim Loan, và khi Kim Loan kia đi rồi, nàng Kim Loan ở lại cũng mang tên khác, thành thử ra sân khấu Việt Nam chẳng còn ai là Kim Loan hết.

Tiếng Cú Bis

Tiếng Cú Bis

Tưởng Năng Tiến

Xã hội chúng ta không cần thêm bất kỳ một “bên thắng cuộc” nào nữa, mà đang khát khao sự hòa giải và yêu thương.
Trịnh Hữu Long

Ngày 25 tháng 6 năm 2013, sinh viên Từ Anh Tú bị “mời đi làm việc” vì sở hữu một cuốn sách (Bên Thắng Cuộc) của nhà báo Huy Đức. Qua hôm sau, RFA đã trực tiếp truyền thanh lời cô Từ Thị Minh Thu – em gái của T.A.T – về chi tiết của vụ mời mọc (rầm rộ) này:

Lúc 9:30 sáng công an ở Hưng Yên đến… gồm 15 người, có cả đại tá, thượng tá, và trung tá…”

Công an ở đâu ra mà lắm thế, và rảnh rỗi thế, hả Trời? Đã thế, ở đâu cũng thế, chứ chả riêng gì thành phố Hưng Yên. Trước đó, có bữa, báo Dân Việt đã buồn bã đi tin:

Trung tá Nguyễn Hoàng Tương – Phó Công an phường An Hoà, Rạch Giá, Kiên Giang bị tạm đình chỉ công tác để làm rõ nguyên nhân dẫn đến vụ xô xát với ông Cao Trọng Lợi.”


Mới đây, báo Pháp Luật cũng vừa cho hay:

“Ngày 8/7, Công an tỉnh Khánh Hòa đã kết luận bước đầu về vụ Trung tá Hồ Lưu Luyến – nguyên Đội phó Đội Tuần tra kiểm soát giao thông Cam Ranh bị tố ép doanh nghiệp (DN) trả tiền nhậu, dùng số điện thoại cá nhân in trên danh thiếp giới thiệu quán cơm, cây xăng để “tiếp thị”.

Trung Tá Hồ Lưu Luyến đang “tác nghiệp” – ảnh Phương Nam

Nếu cấp bậc của những nhân vật kể trên nhỏ hơn, và tương xứng với những chức vụ (khiêm tốn) của họ hơn thì sự việc, xem ra, chắc đỡ … xấu hơn – thí dụ như:

–         Trung sĩ  Nguyễn Hoàng Tương , phó công an phường An Hoà, xô xát với dân …

–         Trung sĩ Hồ Lưu Luyến, đội phó đội tuần tra kiểm soát giao thông Cam Ranh, dùng số điện thoại cá nhân in trên danh thiếp giới thiệu quán cơm, cây xăng để tiếp thị …

Chớ đeo lon đại tá, thượng tá, trung tá mà đi … “bắt” một cuốn sách, hay lê la đầu làng cuối xóm đánh nhau với dân, hoặc đứng đường “tiếp thị” (một hai chầu nhậu) thì rõ ràng là không được đẹp, và cũng hơi bị … hẹp.

Sự hẹp hòi này có nguyên do rất giản dị, theo như ghi nhận của ông Trần Ngân –  trên trang viet-studies:

“…từ khi thủ tướng Dũng, một nhà chính trị kỳ tài trong việc xây dựng phe cánh và đấu đá nội bộ lên làm thủ tướng thì ông này đã phong hàm tướng cho hàng loạt cán bộ CA:

–        2007: 29 thiếu tướng; 12 trung tướng (CAND, 28/4/2007)

–        2008: 33 thiếu tướng, 4 trung tướng (http://CAND, 5/6/2008)

–        2009: 10 thiếu tướng, 5 trung tướng (CA TP.HCM, 20/10/2009)

–        2010: 44 thiếu tướng, 8 trung tướng (Langmotrach, 2010)

–        2011: 51 thiếu tướng, 7 trung tướng (VOV, 16/12/2011)

–        2012: 34 thiếu tướng, 14 trung tướng (CA Đà Nẵng, 2012)

Như vậy, chỉ trong 6 năm, thủ tướng Dũng đã ký phong hàm cho tổng cộng là 201 thiếu tướng và 50 trung tướng ngành CA, đây là một con số rất lớn so với thời kỳ trước đó cũng như so với lực lượng cảnh sát của hầu hết các quốc gia trên thế giới…”

Tướng mà nhiều (tới) cỡ đó thì tá ra … đứng đường là phải rồi, chớ còn phàn nàn chi nữa – đúng không?

Thì đâu có ai dám phàn nàn, thắc mắc, hay khiếu nại gì nhưng nghĩ tới hậu vận cũng phải thấy lo chớ bộ. Bây giờ thì Đảng còn mình, nếu không có rượu cũng có bia bốc lai rai nhưng rồi biết ra sao – ngày sau – khi Đảng không còn tồn tại nữa?

Mà cái ngày đó, ngó bộ, cũng không xa xôi gì lắm – theo như tường trình của Thanh Trúc (RFA) nghe được vào hôm 6 tháng 9 năm 2013:

“Báo động của ILO Tổ Chức Lao Động Quốc Tế, rằng nguồn quĩ hưu trí của Việt Nam sẽ bị thâm hụt và cạn kiệt trong thời gian tới … Giám đốc  Bảo Hiểm Xã Hội thành phố Hồ Chí Minh, ông Cao Văn Sang, cho rằng cảnh báo này có cơ sở vì theo dự kiến đến năm 2023, số thu Bảo Hiểm Xã Hội dành cho hưu trí sẽ ngang bằng số chi, và những năm sau đó muốn trả lương hưu thì phải sử dụng số dư từ nguồn thu Bảo Hiểm Xã Hội của những năm trước. Hậu quả là, ông Cao Văn Sang nói tiếp, một thập niên nữa tức vào năm 2034 thì nguồn quĩ hưu trí bị cạn kiệt và không còn tiền để thanh toán.”

Ngân qũi cạn kiệt là kể như “hết phim,” theo như cách nói (gở) của blogger tranhung09. Hết phim là hết chuyện nhưng nhà nước mà hết tiền thì sẽ nẩy sinh ra cả tỉ chuyện lôi thôi. Viễn ảnh không chỉ sẽ ảm đạm mà còn hứa hẹn rất nhiều rối loạn, cùng bạo loạn.

Hình ảnh của những ông đại tá vá xe hay trung tá bán chè, chắc chắn, sẽ lại tái diễn trong tương lai gần.  Nhưng sau một cuộc đời tác nghiệp, và tác yêu tác quái, liệu đám sĩ quan công an sẽ được để cho yên thân kiếm ăn ở đầu đường hay cuối phố  như qúi vị sĩ quan quân đội – ngày trước – hay không?

Ảnh: Phan Hữu Lập

Đây không phải là câu hỏi chỉ dành riêng của những ông trung tá vá xe, hay đại tá công an bán chè (mai hậu) mà cho tất cả của mọi người dân Việt. Không ít người vẫn thường  cầu mong cho cái chế độ hiện hành sụp đổ nhưng hầu như không mấy ai bận tâm về những hệ quả ngay sau đó.

Trong một bài viết trước (Tiếng Cú) chúng tôi đã mạo muội đề cập đến vấn đề này. Nay xin phép được nhắc lại – đôi điều – với hy vọng là mong được dư luận quan tâm:

Lực lượng công an hiện nay, dù đông đảo và có vẻ áp đảo – theo như cách đánh giá của nhà báo Ngô Nhân Dụng – chỉ là một thứ “xi măng cốt tre” thôi. Và cái  giàn “xi măng cốt tre” này được một nhà báo khác, ông Bùi Tín, ghi nhận như sau:

“Dưới danh hiệu Công an Nhân dân, dưới khẩu hiệu Công an là bạn dân, trong con mắt của đông đảo người dân lương thiện, công an bị đánh giá là bọn kiêu binh tệ hại nhất, dùng quyền lực để hà hiếp, bóc lột, làm tiền, cướp đất, cướp nhà cửa, của cải của nhân dân một cách ngang ngược, bị nhân dân xa lánh, khinh bỉ nhất.”

Sau hơn nửa thế kỷ “dùng quyền lực để hà hiếp, bóc lột, làm tiền, cướp đất, cướp nhà cửa, của cải của nhân dân một cách ngang ngược,” chuyện gì sẽ xẩy ra cho “bọn kiêu binh tệ hại nhất” này – khi cái “giàn xi măng cốt tre” gẫy đổ?

Câu hỏi được đặt ra (xem chừng) đã muộn nhưng muộn còn hơn không. Bên cạnh những vấn đề cấp thiết khác trước mắt (đạo đức xã hội suy vi, tình trạng sắc tộc căng thẳng, an ninh lãnh thổ bị đe dọa, tài nguyên cùng ngân sách quốc gia bị thao túng và cạn kiệt, môi trường bị hủy hoại…) tưởng chúng ta cũng cần phải quan tâm và chuẩn bị để giảm thiểu (tối đa) cảnh tàn bạo – sau này – khi mà những cô chú công an (bỗng chốc) biến thành đích nhắm cho mọi người trút sự thù hằn, oán hận, và phẫn uất đã chất chứa hơn nửa thế kỷ qua!

Chỉ cần nhìn thái độ hiếu sát của dân làng ở những nơi có kẻ trộm chó bị đánh chết (tại chỗ) hay nghe nghóng sự đồng tình của dư luận trước vụ nổ súng của ông Đặng Ngọc Viết – bây giờ – cũng có thể đoán biết được “độ nóng” của người dân đã lên cao đến mức nào rồi?

Trước những sự kiện vừa kể, bất cứ ai còn quan tâm đến vận mệnh đất nước cũng đều thấy bất an:

Blogger Cánh Cò: “Không thể nói là lạ, mà phải nói là man rợ. Chỉ có kẻ man rợ chưa hưởng ánh sáng văn minh mới có thể hành động một cách xuẩn động như vậy. Cái lạ là họ không ở trong hang động, họ đang sống, đang sinh hoạt bình thường tại nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, đất nước luôn tự hào có truyền thống này truyền thống nọ nhưng hình như đã lâu không ai nhắc tới truyền thống thương yêu đồng loại. Bằng chứng là tại cái làng ấy, cái thôn ấy người ta thương chó hơn còn ‘đồng loại người’. Họ đồng loạt vung tất cả phương tiện giết người lên. Giết tập thể. Giết hội đồng.

–         Ông Nguyễn Nguyễn Gia Kiểng: “Trong một quốc gia bình thường một hành động như vậy chắc chắn đã phải bị đồng thanh lên án. Chúng ta đang ở trong một tình trạng tâm thần rất không bình thường. Xã hội ta có nguy cơ bùng nổ.”

–         Ông Nguyễn Quang A: ”… tôi thực sự bị sốc khi xem một đoạn video mang tên ‘Lê Quốc Quân’ trên mạng. Tại đó một người phụ nữ hô to ‘Học tập gương anh hùng Đặng Ngọc Viết ở Thái Bình,’… ‘Nhìn thẳng đầu bọn quan tham mà nổ súng,’ ‘Nhìn thẳng đầu bọn tham nhũng mà bóp cò’.

Với ít nhiều chủ quan, tôi thành thật tin rằng đã đến lúc mà lòng bao dung, đức nhân ái, và tính độ lượng (vốn) tiềm tàng trong tâm hồn dân tộc Việt cần phải được khơi dậy và đề cao – chứ không phải là những việc làm ngược lại. Trong tinh thần này, cách đây chưa lâu, blogger Mai Xuân Dũng đã gửi đi những lời lẽ cảnh cáo tuy nhẹ nhàng, và ôn tồn nhưng rất đáng trân trọng:

Cũng là một lũ bần cùng khố dây khố rợ cả, nên thương nhau thì hơn. Bức tranh tôi có post lên đấy, các chú xem nhé: bão cát thì ngập đến đầu gối các chú rồi, bão đang to lên lắm, liệu mà nương nhờ nhau cho khỏi cát vùi bão dập thì hơn chứ đừng làm cái chuyện bẩn thỉu như vậy. Nếu các chú là con người, cũng có vợ và con cái như những người khác thì hối đi kẻo không kịp.”

Tranh Goya. Nguồn: blog Mai Xuân Dũng

Trước viễn cảnh “cát vùi bão dập” này, nhà văn Dương Thu Hương cũng đã ân cần nhắc nhở mọi người đừng quên rằng giữa “bầy chó berger của chế độ” không thiếu những người trung thực và tử tế:

Tuy nhiên, tôi không có ý nói rằng toàn thể các sĩ quan công an đều là bọn mafia, đều là quân cướp. Bởi, nói như vậy là vu khống, là hàm hồ… Trong đám công an, không thiếu những người trung thực, theo ngôn ngữ bình dân, người tử tế. Chỉ có điều họ đã trở thành thiểu số và họ gần như vô năng.

Những kẻ “thiểu số vô năng” này, tất nhiên, đều vô tội. Còn cái đám đa số còn lại (cũng) chỉ là nạn nhân của một thể chế bạo ngược, và bất nhân thôi – như cách nhìn bao dung của nhà văn Uyên Thao: ”Mọi con dân Việt Nam, vì thế, đều trở thành nạn nhân bi thảm vì bị tước đoạt mọi quyền sống, bao gồm trong đó không ít nạn nhân đã và đang còn đóng vai thủ phạm gieo rắc tội ác không chỉ cho đồng loại mà cho ngay cả bản thân.”

Nghĩ cho cùng họ vẫn đáng tha thứ hơn là trừng phạt. Hơn nữa, hơn nửa thế kỷ qua, có người dân Việt nào dám tự hào nói rằng mình hoàn toàn (và tuyệt đối) không bị ảnh hưởng, hay lây nhiễm tính vô cảm và thói bạc ác của chế độ hiện hành?

Nói thế (e) độ lượng quá chăng? Biết thế nhưng với hiện cảnh, với lịch sử của một dân tộc đã triền miên sống giữa cảnh bom đạn máu lửa, giữa oán hận chất chồng, và nghi kỵ và phân hoá – kéo dài hết từ đời này sang đời khác – liệu có lựa chọn nào khác (thế) không?

Tưởng Năng Tiến

Khoảng Cách Giữa Giàu Và Nghèo

Khong Cách Gia Giàu Và Nghèo

Rev.John Nguyen

Người mẹ bảo đứa con trai: ăn thêm cái nữa đi con. Đứa bé trả lời: ngán quá, con không ăn đâu. Con ráng ăn thêm một cái, má thương, má cưng. Con nói là không ăn mà. Vứt đi! Vứt nó đi! Thằng bé lắc đầu quầy quậy, gạt mạnh tay mẹ làm chiếc bánh kem văng qua cửa xe, nó rơi xuống vệ đường, sát mép cống. Chiếc xe hơi láng bóng rồ máy chạy đi.

Hai đứa trẻ đang bới móc đống rác gần đó, thấy chiếc bánh nằm chỏng chơ, chạy đến nhặt. Mắt hai đứa sáng rực lên, dán chặt vào chiếc bánh thơm ngon. Thấy bánh lấm láp, đứa con gái nuốt nước miếng. Anh trai bảo: Anh thổi sạch rồi mình ăn. Thằng anh phùng má thổi. Bụi đường đã dính vào bánh, chẳng chịu đi. Đứa em sốt ruột cũng ghé miệng thổi tiếp. Chính cái miệng háu đói của nó làm chiếc bánh rơi tõm xuống cống hôi thúi, chìm mất. Con bé khóc và nói: tại anh hai thổi mạnh – Ừa. Tại anh! Nhưng kem còn dính trên tay anh nè. Cho em liếm ba ngón, anh chỉ liếm hai ngón thôi!.

Đọc câu chuyện này, chúng ta cảm thấy xúc động và chạnh lòng cho những trẻ em nghèo bất hạnh. Đồng thời, nó nói lên khoảng cách giữa kẻ giàu và người nghèo. Kẻ thì dư thừa, phung phí của ăn, bên cạnh đó thì có người đang đói khát. Cũng như câu chuyện trong dụ ngôn hôm nay, Chúa Giê-su đưa ra cho ta thấy sự khác biệt giữa ông nhà giàu và anh La-da-rô nghèo khó. Nó nói lên về cái hố sâu ngăn cách kẻ giàu người nghèo trên thế giới này.

Theo quy luật tiền định của tiền bạc, thì người giàu sinh sống riêng biệt: nhà cửa, xe cộ, giải trí, y tế, sinh hoạt… Ông nhà giàu này ăn mặc toàn là gấm vóc lụa là, ngày ngày yến tiệc linh đình. Bên cạnh đó, anh nhà nghèo La-da-rô nằm trước cổng ông ta, thèm được những thứ trên bàn rơi xuống để ăn cho no bụng cũng không có để ăn. Anh ta thì cũng giống như những con chó đang chờ những khúc xương rơi xuống từ bàn của ông chủ.

Nhưng rồi, cả hai đều chết. Mọi thứ đều đảo ngược trật tự. Anh La-da-rô đã được đứng trong hàng ngũ của các thiên thần, bên cạnh Áp-ra-ham và những người có đức tin. Ngược lại, ông nhà giàu kia lại xuống hỏa ngục, bị lửa thiêu đốt và bị cực hình. Bấy giờ, ông ta kêu lên: ” Lạy tổ phụ Áp-ra-ham, xin thương xót con”.

Có người muốn biết ông giàu ấy đã phạm tội gì để bị sa vào hỏa ngục. Phải chăng ông ta đã từ chối không cho anh La-da-rô những mẩu bánh thừa của ông! Tin Mừng không nói thế. Tội của ông ta là thái độ dửng dưng vô cảm trước những con người bất hạnh. Ông không nhìn thấy La-da-rô nằm trước cửa nhà ông.

Ngày nay cũng có hàng ngàn anh La-da-rô cũng đang nằm chờ miếng ăn, chờ sự bố thí và giúp đỡ của chúng ta. Với quy mô toàn cầu hóa hiện nay, các nước tiên tiến và thành phần tiểu số giàu có đã chiếm hết chỗ trên bàn ăn cho người nghèo ở các nước nghèo. Các công nghiệp quốc gia và các nguồn lao động đã bị hủy diệt do hệ thống mậu dịch tự do đã xô đẩy hàng triệu La-da-rô ra bên lề xã hội dẫn đến chết vì nghèo đói, vì chiến tranh và bạo lực gây ra. Người nghèo sống chung với những bãi rác bẩn thiểu, hôi thối để mưu sinh vì miếng ăn hàng ngày. Trẻ em không được học hành, bị lạm dụng và bóc lột sức lao động. Cụ thể, hình ảnh ông nhà giàu Tin Mừng cho thấy, ông ta không chỉ hưởng thụ, ăn chơi xa hoa phung phí mà còn thể hiện đẳng cấp sự giàu có của mình. Ông ta chỉ nghĩ đến quyền lợi của mình. Sự ích kỷ của ông ta đã làm cho trái tim trở nên vô cảm, và cánh cửa tâm hồn của ông ta đã khép lại.

Thật vậy, với cuộc sống bon chen giữa đời thường, tôi chỉ biết tìm kiếm cho riêng mình mà quên đi những người xung quanh họ đang đói khổ. Tôi chỉ biết xin Chúa thật nhiều mà không biết cho đi những người đang cần sự giúp đỡ. Tôi chỉ muốn người khác yêu thương mình mà chẳng bao giờ nghĩ đến những khác người, những người già nua, cô đơn bệnh tật không có ai để nương tựa. Tôi chỉ muốn bước vào cửa thiên đàng nhưng cửa tâm hồn thì luôn khép lại, chẳng biết chạnh lòng thương.

Ước gì, Lời Chúa hôm nay đánh thức trái tim chai lỳ khô cứng của con, để con biết rung cảm, biết mở rộng bàn tay và con tim với tha nhân và xóa đi khoảng cách phân biệt đối xử giữa người giàu và người nghèo vì tất cả mọi người đều là hình ảnh và con cái của Chúa. Amen.

Rev.John Nguyen

“Nhắc làm chi? Ôi! nhắc làm chi nữa?”

“Nhắc làm chi? Ôi! nhắc làm chi nữa?”

“Em đi rồi, mưa gió suốt trang thơ.”
(dẫn từ thơ Đinh Hùng)

Lc 18: 1-8

Cũng có thể, nhà thơ từng bảo thế. Cũng rất đúng, lời dụ ngôn kể vị chánh-án nói như vậy.

Dụ ngôn hôm nay, thánh-sử Luca ghi lại lời của chánh án từng phán-quyết cũng rất thật. Sự thật ở dụ ngôn vẫn rất thực, ở mọi thời. Thời buổi ấy, lại thấy vị chánh án từng chán ngán cảnh tội nhân cứ đeo bám quấy rầy như dịch tễ, để đòi cho được một phán quyết rất công minh. Ngôn ngữ đời thường đều diễn-tả chuyện đeo bám như dịch-tễ là những quấy rầy/phiền hà, thường khó tránh.

Tiếng Do thái, mô-tả cảnh-tình này lại mang ý-nghĩa của một phiền-hà khiến người trong cuộc thành vô dụng. Phiền hà, là chuyện mà người trong cuộc cứ quấy rầy đòi mãi một chuyện mà chẳng ai muốn dính líu, giải quyết. Sách Isaya ở đoạn 7 câu 13 cũng có lời tương-tự: “Nghe đây, hỡi nhà Đa-vít! Các ngươi làm phiền thiên-hạ chưa đủ sao, mà còn muốn làm phiền cả Thiên Chúa?”

Vấn đề ở đây, là hỏi rằng: đối nghịch động-thái quấy rầy/phiền hà và đeo bám là có ý gì?

Cũng có thể, đối chọi chuyện phiền hà đeo bám, là: chuyện trò thân mật với ai đó, cho đời vui. Và, điều đối chọi giữa “lải nhải” với “quấy rầy” là “chuyện trò thân mật”, rất thật tâm. Đúng thế, hình-thức đổi-trao giữa hai người bằng lời nói, vẫn là chuyện vui/buồn thường ngày ở khắp chốn. Bởi, một khi đã nói năng, nếu không là chuyện trò thân mật, thì chắc phải là động-thái lải nhải, quấy rầy như dịch tễ thôi.

Về chuyện trò thân mật, thánh Bênêđíchtô từng qui-định với anh em Dòng mình, là: bất cứ anh em nào một khi đã tuyên hứa trước mặt Chúa và Bề trên rằng: mình quyết sống ổn định, chuyện trò/trao đổi suốt đời với anh em và tuyệt đối tuân phục đấng lãnh đạo nhà Dòng, cả ba điều này trở thành lời khấn hứa mang cùng ý nghĩa. Là thày dòng sống khắc khổ, là chấp-nhận sống trọn vẹn cuộc sống cộng-đoàn có đổi-trao. Nói như thế, thì: đây không là lời tuyên-khấn giữ thinh lặng suốt đời; và, cũng không là chọn lựa tồi đối với những ai sống đời tu trì bởi cộng-đoàn nhà Dòng đã đồng ý như thế.

Luật dòng Biển Đức viết bằng tiếng La-tinh lại đã thấy có cụm từ “hồi hướng trở về” thay cho chủ trương “chuyện trò trao đổi”, như vừa nói. Thông thường thì, tiếng La-tinh “cổ” rày diễn-tả việc “hồi hướng trở về” như sinh-hoạt quay vòng tròn có đổi thay, theo nghĩa luân-lý hoặc tu-đức. Thế nhưng, bản gốc luật này do chính thánh Bênêđíchtô lập ra, đã nhấn mạnh đến việc cần thiết phải chuyện trò/trao đổi chứ không phải chỉ mỗi “hồi hướng trở về”, với Đạo Chúa.

Với tiếng La-tinh “cổ”, thì: chuyện trò/trao đổi có nghĩa: năng lui tới nơi nào đó, cứ quẩn quanh đến trò chuyện với những người hay đến nơi đó. Tự-vựng này, đi vào tiếng La-tinh của Kitô-hữu trước thời thánh Bênêđíchtô còn sống. Từ-vựng đây, diễn tả lối sống thông thường có quan-hệ mật-thiết với mọi người, và còn hiệp-thông giao dịch với mọi người khác nữa.

Điều này, còn có nghĩa: chung sống với người khác hoặc có liên-hệ mật-thiết với mọi người theo cung-cách không giống với kiểu của mình. Đây, còn là lối sống ít giống với cách sống của mình nhưng giống kiểu của người khác, nhiều hơn. Đây còn là: sự hiện-diện ở nơi nào đó để hoà trộn với người khác theo cung-cách nói năng/chuyện trò rập theo kiểu người khác, chứ không theo ý mình. Nói cho cùng, đây là yếu-tố chính của đồng hành, có tương-tác.

Theo nghĩa này, tốt hơn ta nên chuyện trò/đồng hành với nhau hơn là chỉ “hồi hướng trở về’ với thánh-hội, mà thôi. Bởi, cộng-đoàn Hội thánh ở đâu cũng thế, vẫn luôn đòi hỏi ta chuyện trò/đồng hành hơn chỉ quay trở về, mà thôi. Người tu trì, đồng hành chuyện trò với nhau, vẫn có thể không là nhóm “hồi hướng” quay về chốn cũ mà sinh sống. Họ là người biết chuyện vãn, giao du rất tế-nhị. Xem như thế, thì đồng hành trong chuyện trò mới là chuyện cần thiết cho đời tu.

Kinh thánh viết bằng tiếng Do thái, cũng có cụm-từ chỉ việc “hồi hướng trở về” như tự-vựng “shub” có nghĩa đen, để chỉ sự việc quay đầu trở lại, thôi. Thông thường, từ này là chỉ về cuộc sống quay vòng tròn nhưng lại có nghĩa gốc-gác nói về chuyến trở về sau bao ngày lưu vong/lưu đày chốn đất khách quê người. Việc này, còn có nghĩa: trở về với đất miền được Chúa phú ban cho riêng mình và mình quyết sẽ ở nơi đó mãi, chứ tuyệt nhiên không phải nơi nào khác. Nói theo tính cách linh thiêng có tương-quan, ta đã đi vào chốn “lưu vong/lưu đày” rồi, vẫn cần khám phá chốn miền thực thụ để mình sẽ về lại đó mà sinh sống.

Tân Ước cũng có cụm từ “hồi hướng trở về” tương tự như tự-vựng “epistrophe” ta có thói quen dịch là “hồi hướng”, cũng rất đúng. Thế nhưng, mỗi khi mô tả Chúa, sách Tân Ước của ta thích sử-dụng cụm từ “metanoia”. Lại nữa, ngôn-ngữ của ta cũng lại dịch cụm-từ này thành một “hồi hướng trở về”, giống như thế. Tuy nhiên, “metanoia” thực ra không có nghĩa “trở về” hay “trở lại” theo cung cách mà lâu nay ta vẫn tưởng.

Metanoia là điều được Chúa đòi-hỏi những ai dấn bước theo chân Ngài, phải làm thế. Cụm từ này, thường dịch thành động-thái “đổi mới tâm can”, nhưng không chỉ mỗi thế, mà còn hơn thế nữa. Tiếp-vĩ-ngữ “noia” ở chữ “meta-noia” xuất tự tiếng “nous” của Hy Lạp, mang ý-nghĩa: một hiểu biết thực-chất của những gì xảy đến và diễn biến theo chiều-hướng sâu-sắc. Suy cho kỹ, nếu ta đặt tiếp-đầu-ngữ “meta” ở trước chữ “nous” bên tiếng Hy Lạp, ta sẽ tạo ý-nghĩa: tư-thế của một người không biết được những gì đang diễn-tiến và cũng không tìm ra được ý-nghĩa của nó cho đến khi có ai đó đến giúp cho mình và mời mình học hỏi, lắng nghe cũng như đi vào một chuyện trò, còn tiếp-diễn.

Muốn hiểu “Metanoia” cho đúng, thì không thể gọi đó là cuộc “hồi hướng trở về”, được. Trao đổi với ai, như thế, phải hiểu như động-thái biết lắng-nghe, chuyện trò và cứ thế để hiệp-thông tiến-triển, rồi ra mơi thông-hiểu nhau hai chiều. Trong trao-đổi, luôn có đối-thoại tương-tác hầu tạo dựng bầu khí mới, tức: một giòng chảy xuyên suốt đượm nhiều nghĩa. Tức: bất cứ ai chủ-trương cho đi chính mình mình, trong trao-đổi/đối-thoại là mình tự cho chính mình cho người khác, dù không biết gì về “người khác” ấy, để rồi tìm cách hiểu biết người khác, có khác mình nhiều không, đó mới là đối thoại, đổi-trao.

Đối-thoại đổi trao, là cung-cách nhận thức không biết trước sự việc sẽ diễn-tiến ra sao. Tuy nhiên, lại giáp mặt tạo tình thưong-yêu thoải-mái và an toàn cho ta. Nó đòi cho được một thoải mái thích thú liên tục, không ràng buộc. Bởi, có thoải mái trong đối thoại/đổi trao, con người mới không tìm về những quấy rầy/phiền hà bất cứ ai.

Truyện dụ-ngôn hôm nay, tác giả Tin Mừng nói đến động-thái quấy rầy/phiền hà của bà goá nọ đối với vị thẩm-phán chẳng biết kính sợ Chúa cũng chẳng thiết tha gì chuyện lắng nghe người phàm. Chính đó là xu-hướng quấy rầy/phiền hà không thích-hợp cho một đối-thoại/đổi trao rất thực. Quấy rầy/phiền hà không có chân đứng trong đối thoại/đổi trao. Bởi, nó luôn là rào cản là nói một chiều, chẳng cần nghe ai nói. Là, đòi hỏi mãi không dứt từ một người không biết đến đổi trao, đối thoại. Trong sống đời thực tế, động-thái đối thoại lành mạnh, linh đạo vẫn cần thiết hơn một hồi hướng trở về, mà vẫn thế.

Điều này cũng có thể áp-dụng cho tương-quan ta có với Chúa. Đối đầu quan hệ với Chúa không thể có chuyện quấy rầy phiền hà được, bởi Chúa đã cho tất cả mọi sự từ trước, thế nên ta không cần đòi thêm gì nữa hết. Cũng không cần có cố gắng để “hồi hướng trở về” mà chẳng đổi thay động thái rất đòi và hỏi đủ thứ. Tương quan đối-thoại với Chúa, cũng phải biết là Chúa đã tặng ban cho ta hết mọi thứ ta cần đến.

Giờ đây, ta không cần làm hết sức mình, bằng một “hồi hướng trở về” để khám phá ra Chúa, bởi chính Ngài đã khám phá ra ta từ hồi nào, rồi. Nay, chỉ cần ta đi vào với đối thoại/đổi trao thật mật-thiết với Đấng từng thương yêu ta trước. Chỉ cần ta biết nói lời “cảm tạ” Chúa, tự khắc Ngài sẽ đón chào ta trong vui mừng, thôi.

Bởi, Chúa từng nói với ta là: Ngài rất chán ngán với những người suốt ngày cứ nguyện cầu bằng đường lối quấy rầy/phiền, những là: “Lạy Chúa! Lạy Chúa!” để “hồi hướng trở về” mà lại không có được cuộc chuyện trò thân mật, thoải mái như bạn Đồng Hành, trong yêu thương. Chúa vẫn từng dạy ta hãy có lời khấn-nguyền đi vào chuyện trò mật thiết với Ngài và Ngài đã hứa chẳng khi nào làm phiền ta hết.

Giả như Chúa cũng đầu hàng chúng ta và/hoặc bà goá nọ –như hành xử của vị thẩm phán trong truyện dụ ngôn vừa kể- ta có nghĩ rằng Chúa sẽ làm ít đi chỉ để cho con người “hồi hướng trở về” với Ngài mà thôi, không? Hay, Ngài những muốn ta luôn có cuộc chuyện trò thoải-mái, mật thiết với Ngài? Câu trả lời dành cho mỗi người trong ta, là như thế.

Trong cảm-nhận tính bức thiết của một chuyện trò thoải mái với Chúa, với mọi người, cũng nên ngâm tiếp lời thơ trên, rằng:

“Nhắc làm chi? Ôi! Nhắc làm chi nữa?

Em đi rồi, mưa gió suốt trang thơ.

Mây lìa ngàn, e lệ cánh chim thu.

Con bướm ép thoát hồn mơ giấc ngủ.”

Nhà thơ nay không nhắc làm chi nữa, vì nàng thơ nay đã đi rồi, “mưa gió suốt trang thơ.” Nhưng nhà Đạo, lại cứ nhắc lại những chuyện tương tự truyện dụ ngôn hôm nay ở trình thuật, để còn nhớ. Nhớ, mà chuyện trò thân mật với Chúa, hơn là chỉ đòi và hỏi nơi Chúa đủ mọi điều, chẳng thiết thực.

Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh

Mai Tá lược dịch

Chuyện Phiếm đọc trong tuần thứ 31 mùa thuờng niên năm C 03-11-2013

Hãy cứ vui chơi cuộc đời”
Ðừng cuồng điên mơ trăm năm sau
còn đây em ngọt ngào
Ðứng bên ngày yêu dấu
Nhìn mây trôi đang tìm về núi cao
(Trịnh Công Sơn – Hãy Cứ Vui Như Mọi Ngày)

(Mt 5: 12/Rm 12: 15-18)

Nếu bạn và tôi ta lại tưởng rằng: người viết nhạc bản ở đây từng lấy ý/từ thi-ca của nữ sĩ họ Hồ nổi tiếng nọ, e không ổn. Nhưng, nếu lại bảo ý/lời đó cũng tương tự như lời khuyên của sách Diễm Ca ở Cựu Ước, thì xin bạn và xin tôi, ta tiếp tục bàn và luận mang đôi chút “phiếm lọan”, rồi dẫn người đọc vào với Lời vàng của thánh nhân hiền lành, thật cũng nên.

Nên hay không, vẫn cứ xin tôi và xin bạn, ta cứ mạnh dạn mà bàn/mà luận, kệ những lời ca nghe rất quen chỉ để khích lệ những người thấy cuộc đời mình khá buồn chán, chẳng thiết gì kể cả chuyện sống Đạo, hoặc chăm nom cuộc sống cho hạnh đạo, nhiều thú vị.

Với những vị thấy đời mình không còn hứng thú, chí ít là khi cận kề tuổi 7, 8 bó như bầy tôi đây thì có hát trăm ngàn câu như sau, cũng chẳng lay động được nỗi lòng “con quốc quốc” hoặc “cái gia gia”, làm gì cho cam:

“Hãy cứ vui chơi cuộc đời.
Dù ngày mai em như chim bay
Bỏ quên đây một người
Hát bên trời gian dối
dù ta như con đường dài vắng người
Hãy cứ vui chơi cuộc đời
Hãy cứ vui như mọi ngày
Bên trời còn nắng lá trời còn xanh
Phố còn người đông rồi quên rồi quên.”
(Trịnh Công Sơn – bđd)

Giả như người viết nhạc, nay còn sống, hẳn nhiều bạn bè quẩn quanh với cuộc sống như tôi hoặc ai đó, có lẽ cũng sẽ hỏi rằng: có nên hát theo anh, theo em những lời cuối, rất khích lệ một lập trường, như sau:

“Hãy cứ vui như mọi ngày
Dù chiều nay không ai qua đây
hỏi thăm tôi một lời
vẫn yên chờ đêm tới
Lòng ta trăm con hạc gầy vút bay
(Trịnh Công Sơn – bđd)

Dẫn nhập một lời có hơi “bốc” thế rồi, nay bần đạo lại sẽ xin bạn và xin tôi, ta đi vào vấn đề của nhà Đạo, mà cùng với một số các đấng bậc trong Đạo, cứ hỏi rằng: Đạo mình nay có Đấng Chủ Quản ở trên cao tít ấy cũng rất mới mẻ và năng nổ đã tạo được sức sống vui tươi, hấp dẫn cho thánh Hội không? Đã phóng khoáng hơn hay vẫn bảo thủ? Thì, đây là một trong những câu trả lời rất “tương đối”, như sau:

“Chắc chắn với thời gian chúng ta sẽ còn thấy những ưu tiên mới mà Giáo Hội sẽ đưa lên hàng đầu, nhưng về câu hỏi liệu Giáo Hội có thể ‘phóng khoáng’ hay ‘bảo thủ’ hơn thì câu trả lời chắc chắn là Không!

‘Phóng Khoáng’ (Liberal) và ‘Bảo Thủ’ (Conservative) là những ý niệm chính trị mà từ lâu đã không bao giờ phù hợp với quan điểm cuả Giáo Hội.

Tại Mỹ và Châu Âu thì khuynh hướng phóng khoáng có nghiã là ‘phá thai tự do’, ‘hôn nhân đồng tính’, là những hành động mà Giáo Hội chống. Tuy nhiên những chủ trương như ‘giúp đỡ lao động’ để tạo ra ‘công bằng xã hội’, giúp người di cư, ‘cải thiện y tế’ là những việc mà Giáo Hội cổ võ.

Trái lại khuynh hướng bảo thủ cũng có những điều thuận và nghịch với Giáo Hội. ‘Bảo vệ gia đình’, ‘phò sự sống’, ‘bảo vệ luân lý’ là những điều phù hợp với đạo lý cuả Giáo Hội, trái lại những chủ trương như ‘phò thương mại’, ‘chống nghiệp đoàn’, ‘chống di cư’, ‘khai thác thiên nhiên tự do’ là những điều ngược với Giáo Hội.

Vì thế mà chúng ta thấy Giáo Hội hầu như lúc nào cũng có một sự gì để than phiền về một chính quyền, dù là bảo thủ hay phóng khoáng. Thí dụ khi còn là Hồng Y, Đức Thánh Cha đã ‘đụng chạm’ khá nhiều với chính quyền bảo thủ Cristina Fernandez de Kirchner hiện tại cuả Argentina. Bên Brazil, Giáo Hội đang lên tiếng phản đối chính quyền phóng khoáng Dilma Rousseff vì những chính sách phá thai. Còn ở Mỹ thì Giáo Hội đang kiện ra toà chính quyền cuả Obama vì tội ‘hạn chế tự do tôn giáo’.

Cho nên, tuy Giáo Hội dạy phải tuân phục quyền bính dân sự, nhưng với tư cách là ‘thầy dạy luân lý’, Giáo Hội sẽ lên tiếng chống lại mọi sự ác khi nó xảy ra.

Vì không hiểu như vậy cho nên gần đây cả hai phe bảo thủ và phóng khoáng đã đồng thanh lên tiếng ca ngợi những lời tuyên bố cuả Đức Thánh Cha và tự cho là mình đã chiến thắng.” (x. Trần Mạnh Trác, Nguyên nhân những tranh cãi chung quanh các bài phỏng vấn của Đức Giáo Hoàng, www.Vietcatholic.org/News/Html/116521.htm  10/10/2013)

Hỏi chuyện về nhà Đạo, hôm nay, thì cũng chỉ dám hỏi như thế, chứ người hỏi có lẽ cũng đã biết trước câu trả lời sẽ như thế nào, rồi. Hỏi về chuyện Đạo hoặc chuyện đi Đạo và sống đích-thực đời đi Đạo, còn là hỏi giống như cha/cố nhà xứ hỏi “con chiên” như sau:

“Úi chà! Còn gì quý bằng thấy ông đây quay trở về với giáo xứ đi lễ nhà thờ rất đều đặn. Cho cha hỏi một câu hỏi nhỏ, để rút kinh nghiệm mục vụ, có được không?

-Cha cứ tự nhiên như con cái Chúa. Con đây, nay sẵn sà trả lời Cha thôi!

-Thế ông đi nhà thờ trở lại như thế này, có phải là do Cha giảng hay hơn trước rất nhiều, phải thế không?

-Dạ thú thật với cha, là: mỗi lần nghe cha giảng, con cứ phải ra bên ngoài nhà thờ phì phà điếu thuốc cho đỡ thèm, chứ có biết cha giảng hay dở thế nào đâu! Sở dĩ con đi nhà thờ trở lại là do mụ vợ nhà con nó cứ càm ràm hoài, chịu không nổi!” (x. The Catholic Weekly, Parish Pump, 25/8/2013 tr. )

Hỏi về chuyện Đạo, còn là hỏi cha/hỏi cố xem đời đi Đạo: sao dạo này ra như hơi nản, cũng chán ngán, như người giáo dân ở huyện nhà Sydney cũng đã có câu hỏi vào tháng ngày mà Giáo hội quen gọi là “Tháng Mân Côi” về việc lần chuỗi hạt Mân Côi, đâu có gì vui, như sau:

“Thưa cha. Mới đây bọn con cố tạo lại thói quen tốt lành do cha mẹ để lại, là: tập cho con cháu quen đọc kinh tối có lần chuỗi Mân Côi, ngõ hầu hưởng ơn lành Chúa Mẹ ban từ việc này, thì hai đưa con của con, một lên 13 còn đứa kia mới 11, lại cứ bảo: “Đọc kinh lần chuỗi hoài ngán quá mẹ ạ!” Con cố tìm đủ mọi cách mà chẳng sao thuyết phục được bọn con nhỏ ngồi im mà đọc kinh, cho tốt. Thế nên, con viết thư này hỏi xem Cha có cách nào giúp con giải thích cho con của con chhúng hiểu về chuỗi Mân Côi, tốt lành là dường nào? Con kính biết ơn Cha rất nhiều.” (Câu hỏi từ một giáo dân nữ ở Sydney bối rối quá quên đề tên)

Ở đây nữa, khi đã hỏi cha/hỏi cố về chuyện Đạo rồi, thì cha/cố nào mà chẳng tìm cách trả lời/trả vốn để người hỏi được yên tâm. Và hôm nay, câu trả lời (mà không trả vốn) của vị cha/cố ở Sydney, vẫn như sau:

“Kinh nghiệm ở đời cho ta biết: trẻ con, đứa nào cũng nói như nhau khi chúng không muốn làm điều gì do người người lớn áp đặt, chỉ bảo. Thế nên, câu cửa miệng chúng vẫn bảo, là: “chán lắm cơ, mẹ ạ!” Biết bao lần dân con Đạo mình vẫn thường nghe câu cửa miệng của nhiều giáo hữu ở mọi nơi/mọi thời, rằng: Thánh lễ Misa, Đàng Thánh Giá và cả đến chuyện đi thăm ông/bà nội/ngoại hoặc bà con thân thuộc cao tuổi, đều là những việc cũng rất chán!

Rất nhiều chuyện, ta đều nói được như thế. Nhưng trước tiên, không nên và không thể coi Chuỗi Mân Côi, thánh lễ Misa hoặc thăm viếng người già.. là hình thái mang nặng tính cách giải trí, giải khuây được. Bởi các sinh hoạt hoặc sự việc này, chẳng bao giờ mang ý-nghĩa như thế cả. Giả như, ta có đi đến nơi này/chốn nọ để giải khuây đi nữa, thì cũng không thể nói ngay ra rằng: mình thấy nơi ấy, chốn nọ rất ngán ngẫm. Thế nhưng, nếu ta làm việc gì cốt giúp vui người nào hoặc làm việc gì rất có nghĩa hoặc ý tốt, thì cũng chẳng có gì khác biệt nếu đó là chuyện rất chán, nhưng ta lại vẫn làm.

Thế nên, đi thăm người thân thuộc nào mà cho dù mình thấy chán ngán, tức: chỉ muốn chứng tỏ cho họ thấy tình mình thương yêu; và khi ta chọn chủ đề nào đó ở trường học mà không thấy có gì thích thú, nhưng rất cần thiết cho toàn bộ công cuộc giáo dục khiến để ta nên người. Hoặc, công việc rửa chén/bát sau khi ăn và/hoặc ra sân sau làm vườn để vui lòng mẹ/cha là những đấng/những vị từng làm cho mình quá nhiều thứ dù mình không vui thú gì cho cam, nhưng vẫn làm. Cũng thế, trong tương quan mật-thiết với Chúa, ta vẫn làm những việc như đi nhà thờ dự lễ và lần chuỗi Mân Côi đọc kinh dài giờ, không phải để làm cho mình được vui, mà để chứng tỏ rằng: ta cảm kích những điều lành thánh Chúa ban cho ngõ hầu lớn lên trong tình thương yêu của Ngài.

Với chuỗi Mân Côi, chính Đức Mẹ đã yêu cầu/cổ võ ta thường xuyên lẫn chuỗi hạt. Vào lần hiện ra ở Lộ Đức năm 1858, chính Mẹ đã hiện ra với thánh nữ Bernadette trong tay Mẹ có tràng chuỗi và Mẹ đã cùng đọc kinh với thánh-nữ Bernadette ngay khi đó. Ở Fatima năm 1918, vào lần hiện ra đầu tiên ngày 13/5, tay Mẹ cũng cầm tràng hạt và bảo ba vị thánh trẻ hãy năng lần hạt Mân Côi, mỗi ngày. Lần sau, vào tháng 7 năm ấy, Mẹ cũng yêu cầu ba thánh trẻ hãy siêng năng lần chuỗi hạt Mân Côi để cầu nguyện cho hoà bình thế-giới và cho chiến tranh mau chấm dứt. Lần cuối cùng vào ngày 13 tháng Mười năm đó, Mẹ đã làm phép lạ cả thể về mặt trời quay, và cũng chính Mẹ cho biết Mẹ là “Mẹ Mân Côi” và Mẹ còn cho các thánh trẻ thấy ba tấm bảng/thị kiến diễn bày 3 mầu nhiệm “năm sự vui”, “năm sự thương” và “năm sự mừng” ở tràng hạt Mân Côi. Giả như ta chỉ thực thi điều Mẹ dạy để làm vui lòng Người Mẹ trên trời, là Đấng yêu thương ta hết mình và dạy ta làm thế, hẳn là ta vẫn làm thế dù cho việc ấy có chán ngán hay không.

Thế nhưng, lần chuỗi Mân Côi không chỉ làm Mẹ vui lòng mà thôi, nhưng ta còn hưởng được nhiều điều tốt lành do việc ấy đem đến. Trong lúc lẫn chuỗi, nếu ta suy gẫm các mầu nhiệm gợi ý trong đó, ta sẽ hiểu biết Đức Mẹ và Chúa của ta nhiều hơn. Nói cho cùng, thì các mầu nhiệm trong chuỗi Mân Côi để xét đến các sự kiện chính xảy ra trong đời của Chúa, từ lúc Mẹ cưu mang Chúa nơi cung lòng thánh thiện của Mẹ, rồi ngang qua thuở thiếu thời và cuộc đời công khai của Chúa ngang qua việc chịu khổ nhục, hành hạ cho đến chết và rồi Ngài lại đã phục sinh rất quang vinh vui hưởng vinh quang của Ngài cùng với Mẹ Ngài, và là Mẹ của ta.

Chính vì lý do như thế, mà toà thánh La Mã đã có Chỉ dẫn cho các Đức Giám Mục thực thi công cuộc mục vụ qua tông thư “Ecclesiae imago”, trong đó có nói: các Đức Giáo Hoàng đều khuyến khích con dân trong đạo hãy đọc kinh lần Chuỗi Mân Côi không ngừng nghỉ, là vì đó là bản tóm lược trọn vẹn Kinh thánh và đó còn là khuôn mẫu của việc sùng kính vẫn được Hội thánh khuyến khích mà các thánh của ta vẫn thực hiện.

Và, khi đã suy gẫm các mầu nhiệm mà chuỗi Mân Côi chuyển tại, ta sẽ không còn thấy đó là chuyện đáng chán. Trái lại, ta còn thấy việc này khá ngắn ngủi vì chỉ mất độ dăm ba phút để nghiệm suy một mầu nhiệm súc tích là thế. Nhằm biến cho việc suy gẫm này dễ thực hiện hơn, cũng nên tập trung suy-tư về khía cạnh nào đó của mầu nhiệm, coi đó như một nhân đức, bí tích, như chân lý hoặc lòng sùng kính từ đó ta có được.

Khi cùng đọc với con cái trong nhà, cũng nên yêu cầu các cháu xướng kinh và bắt đầu mầu nhiệm trước rồi đề nghị cả nhà sẽ quyết tâm thực thi mầu nhiệm nào đó thành hiện thực. Chẳng hạn như các cháu đề nghị: cả nhà đọc chục kinh này là để cầu nguyện cho hoà bình diễn ra ở Syria chẳng hạn, hoặc cho các trẻ em bị thất lạc vì chiến tranh, các trẻ mồ côi, đau yếu hoặc cho bà con thân thuộc vừa mới qua đời chẳng hạn có như thế các cháu mới thấy có chất xúc tác trong nguyện cầu, đọc kinh vì hiểu nhiều hơn, rõ hơn.

Cuối cùng, ai cũng thế, khi đã yêu thương người nào rồi, sẽ chẳng bao giờ thấy chán/ngán nói đi nói lại mãi chỉ một câu Anh yêu em/ Em yêu anh nhiều lắm. Nói nhiều như thế, cũng đâu bao giờ thấy chán, đâu nhỉ. Cũng thế, khi ta đã suy gẫm về cuộc đời rất đỗi yêu thương của Chúa và Đức Mẹ rồi, chắc chắn sẽ chẳng bao giờ thấy chán ngán hoặc buồn rầu hết. Cuối cùng, vấn đề chỉ là quyết tâm của mỗi người, mà thôi.” (x. Lm John Flader, The Catholic Weekly 13/10/2013, tr. 10)

Trích dẫn ở đây, người người những dẫn và trích cốt để nói lên rằng: Đấng quyền thế ở trên cao từng mang lại nhiều hứng khởi nơi cuộc sống cho cả triệu triệu người trên thế giới như Đức Giáo Hoàng của ta là thế, mà khi đã chấp nhận tham gia cuộc phỏng vấn của báo chí, cũng bị mang tiếng là người tạo “tranh cãi” về cuộc sống của thánh hội, ở trần thế. Nói như thế, có ý bảo rằng: có đặt vấn đề, vấn nạn hay sao đó, vẫn cứ mời bạn và mời tôi, ta cứ hát mãi câu ca rất “đời”, rằng:

Hãy cứ vui như mọi ngày
Nhìn người đi như mây vô danh
Dù chân xưa dặm nghìn
Vẫn như còn thấp thoáng
Dù trong ta đêm thì thầm tiếng buồn.”

(Trịnh Công Sơn – bđd)

Hát rồi hoặc nghe rồi, hãy nhớ lời Đấng Thánh Hiền từng khuyên dân con mọi người ở mọi nơi, rằng:

“Anh em hãy vui mừng hớn hở,

vì phần thưởng dành cho anh em

ở trên trời thật lớn lao.”

(Mt 5: 12)

Và thêm một câu khác, cũng từ “vị thánh của mọi thời” rất muốn vui, rằng:

“Hãy vui với người vui, khóc với người khóc.

Hãy đồng tâm nhất trí với nhau,

đừng tự cao tự đại, nhưng ham thích những gì hèn mọn.

Hãy làm tất cả những gì anh em có thể làm được,

để sống hoà thuận với mọi người.”

(Rm 12: 15-18)

Xem thế thì, hỡi bạn và hỡi tôi, ta chỉ có thể sống mà hát thêm, rằng: Hãy cứ vui như mọi ngày, nhìn người đi như mây vô danh.” Vô danh, hoặc có tên và có tuổi, vẫn là người anh, người chị của tôi/của bạn trong thánh Hội và xã hội, vẫn rất vui.

Xem thế thì, chân lý cuộc đời rõ ràng còn đó lời nhủ: “Hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.” Lớn lao, to tát hơn nhiều niềm vui của người đời chỉ lo ăn chơi. Niềm vui đây, còn được diễn tả bằng văn/thơ truyện kể không theo kiểu của nữ sĩ họ Hồ rất mang tiếng, mà là lối kể cũng rất vui rất tâm tình khi kể về “cái chết” mà người người rất chán/ngán:

“Ông Tư bị ung thư và biết chắc không thể sống lâu hơn sáu tháng. Ông bình tĩnh chờ cái chết, và vui vẻ sống những ngày ngắn ngủi còn lại, mà không bi ai, không sợ hãi. Ông muốn sau khi chết, gia đình làm đám tang theo ý riêng của ông.

Nếu có ai biết ông Tư đang cận kề cái chết mà ái ngại cho ông, thì ông cười vui mà an ủi họ – chứ không phải là họ an ủi ông – rằng, nếu tin theo đạo Chúa, thì khi chết được về thiên đàng, ngồi dưới chân Chúa, sung sướng thế sao mà ai cũng sợ chết?

Nếu theo đạo Phật, thì khi chết cũng sẽ về Tây Phương Cực Lạc, vĩnh cửu an bình, thì mừng vui chứ sao lại bi ai? Và nếu nói theo đức Đạt Lai Lạt Ma, thì cái xác thân ở trần gian, có thể ví như bộ áo quần ta mang, khi nó đã sờn cũ, xấu xí, rách rưới mục nát rồi, thì nên bỏ đi, mà mang bộ áo quần khác, đại ý nói đi đầu thai kiếp khác, mang thân xác mới hơn.

Ông Tư nói với bạn rằng, thân xác ông bây giờ như cái quần đã mục mông, rách đáy, không còn che được cái muốn che, thì phải bỏ đi, không xài nữa là hơn.

Bởi vậy, ông bình tĩnh đón chờ cái chết cận kề. Khi biết ông bị ung thư sắp chết, thì phút đầu tiên, ông lặng người đi. Nhưng rất mau sau đó, ông nghĩ ra rằng bây giờ chỉ còn hai con đường để lựa chọn.

Một là rầu rĩ bi ai, than thân trách phận, oán thán trời đất, làm cho những ngày ngắn ngủi còn lại trở thành u ám, khổ sở, muộn phiền. Hai là bình tĩnh chấp nhận điều không thể tránh được với thái độ tích cực, lạc quan, vui vẻ. Làm cho những ngày còn lại thành tươi vui, tốt đẹp và ý nghĩa hơn. Khi ra đi sẽ không có chút tiếc thương vướng bận.

Ông chọn con đường sau, nên không buồn bã, không hoang mang, không bi ai. Ông thấy cuộc đời bỗng đáng yêu hơn, đẹp hơn. Ông mở lòng vui vẻ đón nhận từng thời khắc, từng ngày còn lại.

Mỗi sáng dậy, ông ca hát nhạc vui, và nói chuyện khôi hài cùng vợ con. Ông cố làm đẹp lòng mọi người, vì ông nghĩ rằng, sau khi nhắm mắt nằm xuống, thì dù có muốn tử tế với những người thân thương, cũng không còn làm được nữa.

Ông Tư dặn thêm vợ rằng đừng đăng báo, không đăng cáo phó gì cả. Đừng làm rộn, bận trí bà con gần xa, buộc họ phải thăm viếng. Không nên để phiền ai phúng điếu chia buồn. Ông đưa tờ báo cho bà, và nói:


Em nhìn vào mấy cái cáo phó nầy đây, đọc thấy buồn cười : Chúng tôi đau đớn báo tin cho thân bằng quyến thuộc: Ông Nguyễn Văn Mỗ đã được Chúa gọi về vào ngày , tháng, năm, hưởng thọ 82 tuổi… Được Chúa gọi thì phải vui mừng, sung sướng, chứ sao lại đau đớn báo tin ? Về với Chúa là khổ lắm sao? Có đi tù cải tạo đâu mà đau buồn?…”

Và, ông Tư dặn vợ con khi ông chết chỉ nên đưa bài thơ “Khi tôi chết” thay cho cáo phó. Thơ rằng:

Nếu làm biếng, cứ nằm nhà thoải mái
Viếng thăm chi, vài phút có thêm gì ?
Mắt đã nhắm. Lạnh thân. Da bầm tái .
Dẫu bôi son, trát phấn cũng thâm chì.

Tôi đi trước, hẹn gặp nhau ở đó,
Ai thay da mãi mãi sống trăm đời .
Kẻ trước người sau, xếp hàng xuống mộ
Biết đâu là khởi điểm cuộc rong chơi.

Nếu có khóc, khóc cho người còn lại,
Bởi từ nay thiếu vắng nỗi đầy vơi .
Cũng mất mát, dáng hình, lời thân ái
Tựa nương nhau, hụt hẫng giữa đất trời.

Đừng đăng báo, phân ưu lời cáo phó
Chuyện thường tình, phí giấy có ích chi ?
Gởi mua gạo, giúp người nghèo đói khó
Dịu đau buồn những kiếp sống hàn vi,

Trỗi nhạc vui cho người người ý thức,
Cuộc nhân sinh sống chết cũng tương đồng,
Khi nằm xuống, xuôi tay và nhắm mắt
Thì đau buồn hạnh phúc cũng hư không.

Đừng xây mộ, khắc bia ghi tên tuổi
Vài trăm năm hoang vắng, chẳng ai hoài .
Vũ trụ vô cùng, thời gian tiếp nối,
Tỉ tỉ người đã chết tự sơ khai.

Khi tôi chết đừng ma chay đình đám,
Hỏa thiêu tàn, tro xác gởi về quê
Dẫu bốn biển, cũng là nhà, bầu bạn
Trong tôi còn tha thiết chút tình mê.

Thì cũng C, H, O, N kết lại,
Nắm tro xương hài cốt khác nhau gì,
Nhưng đất mẹ chan hòa niềm thân ái,
Cho tôi về, dù cát bụi vô tri.

Đọc xong bài thơ, có người thì mỉm cười, có người vui hản, và nói chuyện oang oang. Họ cho rằng bài thơ đã nói hết ý nguyện của người chết. Người chết không muốn bạn bè buồn rầu, thương tiếc, thì việc chi mà lại làm bộ, gượng gạo tạo ra nét buồn khổ trên mặt.

Vợ con người chết cũng không tỏ vẻ buồn rầu, mà cũng không hớn hở. Không một tiếng khóc lóc, thở than. Nhạc vui vẫn dồn dập phát ra từ máy vang dội. Khi khách đã đến chật nhà, và đúng giờ cử hành tang lễ, bà vợ ông Tư và đứa con trai mang áo quần trắng đứng chắp tay bên bàn thờ, cô con gái đứng bên tấm ảnh ông, cầm máy vi âm nhoẻn miệng cười và nói :

-Thưa các cụ, cô bác chú dì, bà con bạn bè thân thiết xa gần, chúng tôi xin cám ơn quý vị đã có lòng đến viếng tang Ba chúng tôi. Tang lễ nầy làm theo ý nguyện của người quá cố. Không làm tang lễ theo tục lệ bình thường, vì sợ trái với ước vọng cuối cùng của Ba chúng tôi. Chúng tôi xin nhận lấy mọi lời trách móc nếu có từ bà con bạn bè.

Ba chúng tôi đã bình tĩnh và vui vẻ đón cái chết như một sự trở về không tránh được. Trong những ngày cuối của cuộc đời, Ba chúng tôi rất vui, chuẩn bị kỹ cho gia đình và cho chính ông. Ông đã dặn dò chúng tôi, không nên khóc lóc, không nên buồn rầu, vì sự thực không có chi đáng buồn cả. Ông dặn chúng tôi vặn cuốn băng sau đây cho bà con cô bác nghe.

Đọc thơ văn/cáo phó của “Ông Tư” ở trên, hẳn người đọc cũng thấm thía cuộc đời chỉ là thế, có mỗi thế. Mỗi thế thôi, nhưng hãy cứ vui lên nếu ta nhận ra rằng: mọi chuyện ở đời, cần nhất là vui!”. Bởi có vui, ta mới có thể sống và thực hiện mọi nguyện ước, kể cả ước nguyện làm dân con Đức Chúa Trời. ở mọi thời.

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn muốn vui chơi cuộc đời

nay hết thời.

NỢ LÀ MỘT QUÀ TẶNG

 

NỢ LÀ MỘT QUÀ TẶNG

Khi nói tới từ ‘Nợ’, có lẽ, ta vẫn nghĩ tới những món nợ: nợ ngân hàng bao nhiêu tiền, nợ gia đình này gia đình kia bao nhiêu ký thóc-ký gạo, nợ mấy ngày công mấy tháng lương, nợ người này người kia mấy cây vàng… Và có nợ thì phải lo để trả; trả không xong thì đâm lo lắng, buồn phiền, có khi mất ăn mất ngủ, thậm chí còn chạy để “trốn nợ”.  Như vậy, nợ ở đây như là một “gánh nặng” đè trên vai con người.

Đã gánh thì nặng là điều chắc chắn rồi!  Và khi trả được nợ ta như trút được một gánh nặng trên vai! Nhưng cái nợ cứ muốn kết bạn với ta; khổ nỗi ta thì chẳng muốn chút nào!  “Chả nhẽ” suốt cuộc đời này ta phải mang trên vai một “người bạn” mà ta chẳng hề quý, chẳng hề thích sao?  Giả như ta có “quẳng gánh nặng đi để vui sống” thì ta có thực sự vui, thực sự hết gánh nặng không?  Và lúc ấy ta là ai?  Ta không phải là một người trốn nợ sao?  Nếu vậy từ “trách nhiệm” trong cuộc đời còn ý nghĩa gì?

Nếu nợ là một gánh nặng, ngày sống của ta sẽ rất nặng nề, với hàng khối công việc, với những mệt mỏi về thể xác, với những người tôi chẳng hề muốn gặp nhưng vẫn cứ phải đối diện hàng ngày, với những “món quà” dù không muốn cũng phải nhận…

Thế nhưng, dù nợ có là gánh nặng nó cũng giúp ta biết sống trách nhiệm với cuộc đời: trách nhiệm với những điều ta đã làm, tức vay thì phải trả!  Ấy vậy, nếu chỉ dừng lại ở mức độ trách nhiệm với cuộc đời tức phải lo mà trả nợ thôi thì cuộc đời vẫn luôn là một gánh buồn phiền đung đưa trĩu nặng trên vai.

Cuộc đời sẽ bớt nặng, tươi vui và rực nắng hơn khi ta sống tâm tình ‘Nợ là một quà tặng’: Nợ một ánh mắt, một nụ cười; nợ một cái bắt tay, một lòng cảm thông,… nợ bạn bè, cha mẹ, người thân trong những lúc nâng đỡ sẻ chia vui buồn… nợ cái hơi ấm tuổi còn trong nôi…  Có khi là nợ một lời nói nhẹ nhàng, dễ thương và ngọt ngào của một ai đó…  Quả thực, cuộc sống luôn cho ta những món nợ như là những quà tặng.  Nếu ngày nào ta cũng sống với tâm tình “nợ” như là một món quà, là một sự trao tặng ta nhận được từ người yêu thương, chắc hẳn cuộc đời của ta thật đẹp, thật đáng quý và thật nhẹ nhàng!

Ấy vậy mà đi qua một con đường hoa đẹp, chiêm ngắm cảnh bình minh hay hoàng hôn, ngửi mùi hương nhè nhẹ của những cánh hoa vừa mới nở buổi sớm, tản mạn với nhau những câu chuyện đầu năm… có khi nào ta nghĩ mình đang nợ một ai đó ngoài tiền bạc không nhỉ?  Hay có khi nào ta nghĩ mình “nợ cuộc đời từng tia nắng mai” như nhạc sĩ Nguyễn Nhất Huy đã đặt tâm tình “nợ” của ông trên giai điệu bài hát “Vẫn nợ cuộc đời” không?

Vì cuộc đời “có những khi ước mơ chưa đầy mà đã vội vơi đi rồi”, nên nợ không chỉ cho ta thấy trách nhiệm nhưng còn là biết ơn cuộc đời! “Cảm ơn đời mỗi sáng mai thức dậy, ta có thêm một ngày nữa để yêu thương”; và “nếu còn một ngày để sống” tôi sẽ chọn một ngày sống với tâm tình biết ơn đời, “đời cho ta” biết bao điều cao đẹp!  Biết đâu chính khi ta biết ơn đời, ta sẽ có được một thái độ ngạc nhiên.  Ngạc nhiên để khám phá quà tặng cuộc đời.  Ngạc nhiên thấy “nợ” cho ta “liên hệ” gắn bó với cuộc đời, gần gũi với tha nhân!

Nắng Sớm

KIẾP NÀO YÊU CHÚA

KIẾP NÀO YÊU CHÚA

Tôma Đỗ Lộc Sơn

Cách đây 20 năm, gần nhà tôi có anh bạn trẻ, hễ đi làm về là cả xóm đều biết. Bởi vì: “Kiếp nào có yêu nhau, thì xin tìm đến mai sau….”. Bài hát của nhạc sĩ Phạm Duy lại vang lên từ chiếc máy cassette của anh, làm cả xóm phải “thưởng thức”.

Một hôm tôi đến làm quen, vờ thích bài hát này, mượn về nghe và để xem anh chàng này có “Bị” gì không. Rất may, vì anh ta chỉ có một băng nhạc nên nghe đi nghe lại chứ không có vấn đề gì. Tiện thể, tôi cho anh ta “Mượn” cuốn băng Thánh ca do ca sĩ Hoàng Oanh thể hiện (Đã thủ sẵn) đang thịnh hành lúc bấy giờ, ngay hôm đó, cả xóm được nghe nhạc Thánh .

Vài ngày sau, gặp lai anh và anh cho biết:

– Trước đây em chỉ có một cuốn băng nhạc vàng, nên em để nghe cho đỡ buồn, chứ thật ra em không tin những lời bài hát đó, không có kiếp này kiếp kia. Đời người Chúa chỉ cho sống có một lần. Từ hôm có cuốn Thánh ca anh cho mượn, em lại thích nghe nhạc Thánh, em lấy làm tiếc vì phải để hàng xóm nghe những bài hát ủy mị, không có thật .

Quả vậy. Thiên Chúa tạo dựng “Cỗ máy” con người cho mỗi người chỉ một lần trong đời ( Như động cơ máy). Cỗ máy con người này có linh hồn, biết đúng sai, phải trái để tự hoàn thiện bản thân mình. Trong thời gian vận hành, cỗ máy nào hỏng hóc sẽ được đưa về Gara luyện ngục, đại tu cũng chỉ một lần, sau cùng tất cả các cỗ máy được đưa về diện kiến Người Chủ sáng tạo ra mình.

Con người vì lầm lỗi, vì nuối tiếc những gì mình đã làm, những gì mình chưa làm, nên đã bấu víu vào những chuyện vô thường, tưởng tượng ra con đường đi có đoạn nối tiếp, để làm lại những gì mình làm sai, những gì mình chưa làm được.

“ Thầy là đường, là sự thật và là sự sống….”(Ga 14,6). Đó là lời khẳng định của Chúa Giêsu, Đấng đã được Chúa Cha “Người Chủ Sáng Tạo” sai đến để nói cho nhân loại biết được điều này, Ngài còn cho biết thêm “Ta và Cha Ta là một” có nghĩa là lời giáo huấn của Chúa Giêsu là lời của Đấng Sáng Tạo.

Rất tiếc, ngày nay có nhiều người công giáo giơ cao tay lên tuyên xưng là con của Chúa, nhưng không nghe hoặc hoài nghi Lời Chúa truyền dạy, bằng cách là xem bói toán, tin vào vận may số đề, vé số… vv.. Anh bạn trẻ kia khi đã biết và hiểu Lời Chúa, chắc chắn anh ta đã không nghe những bản nhạc vàng này, dù nghe cho đỡ buồn.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm ơn đức tin cho chúng con, để chúng con biết nghe và giữ Lời Chúa truyền dạy, không hoang mang những chuyện vô thường, kiếp này kiếp kia, để chúng con vững bước trên con đường tiến về Nhà Chúa. Amen.

Tôma Đỗ Lộc Sơn

Nổ kho thuốc pháo tại Phú Thọ, ít nhất 21 người chết

Nổ kho thuốc pháo tại Phú Thọ, ít nhất 21 người chết

RFA

12.10.2013

no-phu-tho-305.jpg

Ít nhất 21 người chết, hàng trăm người khác bị thương khi kho chứa thuốc pháo tại huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ bùng nổ vào lúc 7 giờ 55 phút sáng 12/10.

Screen capture

Ít nhất 21 người chết, hàng trăm người khác bị thương khi kho chứa thuốc pháo tại huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ bùng nổ vào lúc 7 giờ 55 phút sáng nay.

Theo tin từ AFP cho biết kho thuốc pháo thuộc sự quản lý của đơn vị Z121 của Bộ quốc phòng cách Hà Nội 120 cây số về hướng Bắc. Vụ nổ xảy ra vượt ngoài sự kiểm soát của lực lượng cứu hỏa cũng như cấp cứu trong nhiều giờ liền.

Một viên chức quân đội nói với hãng tin AFP có 21 người chết đã được xác nhận và 98 người khác bị thương, đa số bị bỏng vì lửa. Khoảng hơn 2.000 người dân sống gần khu vực đã phải di tản tránh lửa và các tai biến khác. Tất cả đều chạy về hướng Việt Trì, cách xa khu vực gần 40 cây số.

Theo các báo trong nước ghi nhận vụ nổ xảy ra trong khi có hơn 300 nhân công đang làm việc do đó số thương vong rất lớn. Nguyên nhân vụ nổ chưa được xác minh và các toán cứu hộ vẫn đang chờ cứu hỏa dập tắt lửa để tìm thêm thi thể nạn nhân.

Theo nhân chứng cho biết ngọn lửa bùng cao cách xa hiện trường hơn 15 cây số vẫn nhìn thấy. Tiếng nổ làm rung chuyển một khu vực chu vi hơn 10 cấy số và người dân rất hoảng loạn chạy trốn nhưng không được hướng dẫn phương hướng.

Hàng đoàn xe gắn máy kẹt cứng trên các con đường khiến xe cứu thương không thề làm việc. Bệnh viện huyện Thanh Ba đã quá tải và nạn nhân phải nằm chờ mang đi Việt Trì cấp cứu.

Đến 3 giờ chiều hôm nay theo thông tin từ bệnh viện đa khoa thị xã Phú Thọ đã có 200 ca cấp cứu từ biến cố này. Nhà máy Z121 thuộc Tổng cục Công Nghiệp Quốc phòng là nơi duy nhất sản xuất pháo hoa cho cả nước trong các dịp lễ lớn.

Năm 2010 một vụ nổ thuốc pháo tại sân vận động Mỹ Đình trong dịp lễ Ngàn năm Thăng Long đã khiến 4 người chết trong đó có ba người ngoại quốc.

Vụ nổ xảy ra ngay lúc lễ quốc tang đại tướng Võ Nguyên Giáp bắt đầu tại Hà Nội vào lúc 7 giờ 30 sáng hôm nay.

30 ĐIỀU GỢI Ý GIÚP XÉT MÌNH

30 ĐIỀU GỢI Ý GIÚP XÉT MÌNH

01. Chấp sự tầm thường của mình và không tìm cách vượt qua.

02. Sống không mục đích, buông trôi, thiếu cố gắng.

03. Ở lì trong tình trạng ấu trĩ về tri thức và tinh thần.

04. Bốc đồng, làm theo hứng, thiếu bàn hỏi, suy nghĩ, cầu nguyện.

05. Nhiều tham vọng nhưng lại không nhằm phục vụ tha nhân.

06. Thiếu can đảm để bênh vực chân lý và công lý.

07. Hạ mình khúm núm trước kẻ giàu có và quyền lực.

08. Bao giờ cũng tự cho là mình có lý.

09. Lo cho thân xác quá mức trong khi lại bê trễ phần linh hồn.

10. Yêu tha nhân một cách ích kỷ, chỉ đòi về mà không cho đi.

11. Không thiết gì đến việc thăng tiến tha nhân trong xã hội.

12. Biếng nhác, không làm việc mà vẫn hái ra tiền một cách dễ dàng.

13. Đòi hỏi trẻ em và người khác những điều mình không dám làm.

14. Không phát triển các khả năng tự nhiên để phục vụ.

15. Bo bo thành kiến, kỳ thị chủng tộc và giai cấp.

16. Phí phạm thời giờ và của cải của mình cũng như của người khác.

17. Thiếu tinh thần trọng của chung.

18. Không tỏ lòng xót thương người nghèo khó, bơ vơ tất bạt.

19. Dửng dưng vô cảm trước một đám tang.

0. Không bao giờ xin lỗi ai sau khi đã làm mích lòng họ.

21. Chẳng bao giờ biết lắng nghe người khác.

22. Không nhìn ra ưu điểm nơi người khác, chỉ dán mắt vào sở đắc của mình.

23. Hà tiện nụ cười và ánh mắt cảm thông.

24. Không yêu quý sinh vật, cỏ cây thiên nhiên là tạo vật của Chúa ban.

25. Không góp phần vào việc tông đồ, thừa sai rao giảng Tin Mừng.

26. Ngồi chờ phép lạ mà không tìm gặp Chúa trong các dấu chỉ thời đại.

27. Chỉ biết xin ơn này ơn nọ mà không biết cảm tạ ngợi khen Chúa.

28. Sống gian trá, giả hình, đeo mặt nạ, chỉ là Ki-tô hữu trên danh nghĩa.

29. Không để tâm trau dồi, trao đổi, học hỏi các kiến thức tôn giáo.

30. Thờ ơ, không chịu cầu nguyện trò chuyện với Chúa bao giờ.

Theo gợi ý của các Linh Mục SNAVET và LEBRET

Lời Hay Ý Đẹp

Lời Hay Ý Đẹp

“Trăm năm trước thì ta chưa gặp
Trăm năm sau biết gặp lại không!
Cuộc đời sắc sắc không không
Thôi thì hãy sống hết lòng với nhau”
(Sưu Tầm)

“Thinking is easy, acting is difficult, and to put one’s thoughts into action is the most difficult thing in the world.”
-Johann Wolfgang von Goethe-

CÂN NHẮC TRƯỚC KHI NÓI VỀ MỘT NGƯỜI KHÁC

CÂN NHẮC TRƯỚC KHI NÓI VỀ MỘT NGƯỜI KHÁC

Cung Nhật Thành lược dịch

Trong xã hội cổ đại Hy Lạp, Socrates (469 – 399 B.C.) thường được xem là một triết gia có kiến thức rộng rãi vì ông rất tự tin và khéo léo về sự hiểu biết của mình. Một hôm có thân hữu đến gặp nhà học giả nổi tiếng và nói với ông như sau:
– Tôi vừa nghe chuyện về một nguời bạn của ông, Socrates, tôi kể cho ông nghe nhé?
Socrates trả lời ngay:
– Khoan, khoan đã, tôi không muốn nghe gì hết trước khi ông vui lòng trả lời câu hỏi ngắn , tôi gọi nó là cuộc trắc nghiệm “Ba lần cân nhắc”…
– Ba Lần cân nhắc?
Socrates tiếp tục:
– Đúng vậy. Trước khi ông nói chuyện về người bạn của tôi cho tôi nghe, tốt nhất là tôi hỏi trước… Đầu tiên là cân nhắc Sự Thật, những gì mà ông sắp nói cho tôi nghe có đúng hay không?
– Không đâu, thật sự là tôi chỉ mới nghe người ta nói thôi và….
– Được rồi, như thế ông không biết chắc là chuyện sắp nói đúng hay sai. Thôi mình sang phần hai với sự cân nhắc về Tốt và Xấu. Tôi tin là những gì ông sắp nói về bạn tôi đều tốt đẹp cả…có đúng không nào…
– Ngược lại chỉ toàn xấu….
Socrates ngắt lời ngay ….”Ông muốn nói với tôi là bạn tôi có những chuyện không tốt nhưng ông lại không biết chắc chắn là chuyện ấy đúng hay sai phải không…. Thôi thì mình sang phần chót, cân nhắc về Lợi Ích của câu chuyện. Chuyện ông sắp nói về bạn tôi cho tôi nghe liệu có ích lợi gì cho tôi không ”……
– Không, không chắc đâu tôi nghĩ không ….
Socrates lắc đầu và kết luận:
– Nếu chuyện ông sắp nói cho tôi nghe về bạn tôi không đúng, không tốt và cũng chẳng ích lợi gì cho tôi hết….. Vậy ông nói với tôi làm gì cho phí thì giờ của cả hai?

Chuyện vui này cho chúng ta thấy tại sao Socrates có tiếng là học giả thông minh và khôn ngoan nhất trong cổ sử Hy Lạp. Socrates cũng nói cuộc sống là cần thiết nhưng cần thiết hơn nữa là phải sống như thế nào… và cuộc đời sẽ tốt đẹp hơn nếu chúng ta cố gắng sống tốt hơn với mọi người.

SƯU TẦM

Trung Quốc bắt giữ hai công dân Mỹ tại tỉnh Chiết Giang

Trung Quốc bắt giữ hai công dân Mỹ tại tỉnh Chiết Giang

Tiến sĩ vật lý Devra Marcus (G), luật sư Kody Kness (T) và vợ nhà ly khai Chu Ngu Phu (Zhu Yufu), trước nhà tù số 4 tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc, ngày 12/10/2013

Tiến sĩ vật lý Devra Marcus (G), luật sư Kody Kness (T) và vợ nhà ly khai Chu Ngu Phu (Zhu Yufu), trước nhà tù số 4 tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc, ngày 12/10/2013

(Ảnh: China Aid)

Trọng Nghĩa

RFI

Theo tổ chức bảo vệ nhân quyền China Aid, trụ sở tại Mỹ, vào hôm nay, 13/10/2013, chính quyền tỉnh Chiết Giang (miền đông Trung Quốc) đã bắt giữ hai công dân Mỹ khi họ tìm cách tiếp xúc với một nhà ly khai hiện bị cầm tù.

Nữ bác sĩ Devra Marcus, hành nghề tại Washington cùng người bạn đồng hành tên Kness Kody đã đến nhà tù tỉnh Chiết Giang để xin được gặp ông Chu Ngu Phu (Zhu Yufu) một nhà đấu tranh bảo vệ nhân quyền đang thọ án tù tại đây. Không những không được gặp tù nhân này, mà cả hai người khách Mỹ đều bị chính quyền nhà tù câu lưu.

Nhà ly khai Chu Ngu Phu đã bị kết án 7 năm tù vào tháng 02/2012 vì đã viết một bài thơ bị cáo buộc là mang nội dung « phản nghịch » khi kêu gọi người dân Trung Quốc tập hợp lại với nhau để tiếng nói của mình được lắng nghe. Nhân vật này đã bị buộc vào tội danh « kích động lật đổ » chính quyền.

Theo hãng tin Pháp AFP, bài thơ của ông Chu Người Phu có đoạn tạm dịch như sau : « Đã đến lúc hỡi người dân Trung Quốc ! Quảng trường là của mọi người… Đã đến lúc bạn dùng đôi chân để đến quảng trường biểu thị sự lựa chọn của mình ».

Lời bài thơ rõ ràng gợi lên Quảng trường Thiên An Môn tại Bắc Kinh, trung tâm của các cuộc biểu tình rầm rộ đòi dân chủ trong hai tháng 05 và 06/1989, vốn đã bị đàn áp đẫm máu và hiện đôi khi vẫn là nơi thực hiện các hành động phản đối riêng lẻ.

Về hai công dân Mỹ bị bắt, trong một thông báo công bố trước khi khởi hành, nữ bác sĩ Marcus đã công khai cho biết hai mục tiêu chuyến thăm Trung Quốc đầu tiên của bà : Nghiên cứu hội họa và khám bệnh cho ông Chu Ngu Phu.

Theo bà Marcus, bà đã nhận được thông tin theo đó ông Chu Ngu Phu, 60 tuổi, không được ăn uống và chăm sóc thuốc men đầy đủ và nhiều lần bị bất tỉnh. Bà viết : « Dựa trên thông tin đó tôi sợ rằng ông Chu Ngu Phu có thể bị chết do thiếu chăm sóc y tế và điều trị ».

Chính quyền Hoa Kỳ đã từng lên tiếng kêu gọi Bắc Kinh trả tự do cho nhà ly khai này cũng như tất cả các tù nhân khác bị kết án tù chỉ vì đã bày tỏ chính kiến ​​một cách ôn hòa.

G20 kêu gọi Mỹ khẩn cấp giải quyết khủng hoảng ngân sách

G20 kêu gọi Mỹ khẩn cấp giải quyết khủng hoảng ngân sách

Tổng Giám đốc Quỹ Tiền tệ Quốc tế - IMF - Christine Lagarde, trong cuộc họp báo, tại Washington, 10/10/2013

Tổng Giám đốc Quỹ Tiền tệ Quốc tế – IMF – Christine Lagarde, trong cuộc họp báo, tại Washington, 10/10/2013

REUTERS

RFI

Cuộc họp toàn thể của Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng Thế giới, ngày hôm qua, 11/10/2013, ở Washington, đã kêu gọi chính quyền Mỹ khẩn trương hành động, giải quyết cuộc khủng hoảng ngân sách.

Từ Washington, thông tín viên RFI Jean Louis Pourtet tường trình:

« Trong những cuộc họp kiểu như thế này, Hoa Kỳ thường có thói quen dạy dỗ các nước khác hơn là bị nhắc nhở. Thế nhưng, năm nay, Washington bị phê phán vì nhiều lý do khác nhau. Trong thông cáo, nhóm G20 tài chính đã đề nghị Hoa Kỳ « khẩn cấp hành động để giải quyết những bấp bênh về ngân sách trong ngắn hạn ». Tình trạng tê liệt ngân sách và mối đe dọa mất khả năng thanh toán của cường quốc số một 1 kinh tế làm cho cộng đồng tài chính quốc tế lo ngại.

Một lo lắng khác : Sắp sửa đến thời điểm chấm dứt chính sách kích thích hào phóng của Cục Dự trữ Liên bang, bơm 80 tỷ đô la mỗi tháng cho nền kinh tế. Giới đầu tư trước đây đã rút vốn ra khỏi các nước đang trỗi dậy, sẽ bị mất đi một nguồn tài chính quan trọng. Kể từ sau thông báo của ông Ben Kernanke vào mùa xuân vừa qua, các nước Châu Phi phải trả lãi cao hơn khi đi vay.

Trong thông cáo của mình, các Ngân hàng Trung ương của các nước Châu Phi lo ngại việc chấm dứt hỗ trợ tiền tệ, đã cảnh báo nguy cơ « làm trật đường ray » tiến trình phục hồi tăng trưởng trên thế giới. Hoa Kỳ còn bị nhóm G20 chỉ trích về việc chưa thông qua kế hoạch cải cách Quỹ Tiền tệ Quốc tế cho phép các nước đang trỗi dậy có trọng lượng hơn trong định chế này.

Về điểm phê phán thứ nhất, vào lúc cuộc khủng hoảng ngân sách bước sang ngày thứ 12, Nhà Trắng và đảng Cộng Hòa vẫn chưa đạt được một thỏa thuận. Tuy nhiên, dường như, cả hai bên tỏ quyết tâm tìm kiếm một thỏa hiệp để thoát ra khỏi tình trạng bế tắc. Song kết quả đạt được rất khiêm tốn : Từ 48 giờ qua, hai bên vẫn đang thương thuyết với nhau.

Tối Thứ Năm, Tổng thống Barack Obama đã tiếp các phái đoàn Thượng nghị sĩ và dân biểu của đảng Cộng Hòa. Nhiều người trong số họ bắt đầu thực sự lo ngại về tác động chính trị của cuộc khủng hoảng đối với đảng Cộng Hòa, bị coi là phải chịu trách nhiệm về tình trạng bế tắc hiện nay, theo như nhìn nhận của 60% dân Mỹ qua các cuộc thăm dò dư luận.

Hôm qua, Tổng thống Obama và Chủ tịch Hạ viện John Boehner đã nói chuyện với nhau qua điện thoại. Chủ tịch Hạ viện (thuộc đảng Cộng Hòa) đề xuất cho phép nâng mức trần của nợ công cho đến ngày 22/11/2013, nhưng không chấp nhận cho mở lại các cơ quan chính quyền Liên bang trừ phi đạt được thỏa thuận giảm một số chi phí công. Còn các Thượng nghị sĩ của đảng Cộng Hòa thì đề nghị nâng mức trần nợ từ nay đến đầu năm tới, chấm dứt việc đóng cửa các cơ quan chính quyền, đổi lại, thuế đánh vào một số thiết bị y tế sẽ bị xóa bỏ.

Chắc chắn là đề xuất của Thượng viện phù hợp với mong muốn của Tổng thống hơn, nhưng trong cả hai trường hợp, đảng Cộng Hòa đều đưa ra điều kiện khi bỏ phiếu chấp thuận giải quyết vấn đề nợ và ngân sách. Thế nhưng, Tổng thống Mỹ vẫn tuyên bố rằng ông chỉ bắt đầu đàm phán khi các dân biểu không được đưa ra các điều kiện tiên quyết để bỏ phiếu thông qua việc nâng mức trần nợ và cho mở cửa trở lại toàn bộ các cơ quan Liên bang.

Tuy nhiên, dưới áp lực của người dân, ngày càng tỏ thái độ bất bình, cả hai đảng Cộng Hòa và Dân Chủ đều đang cố gắng hơn để tìm kiếm lối thoái ra khỏi khủng hoảng ».