Các tổ chức nhân quyền kêu gọi Miến Điện thả hết tù nhân chính trị

Các tổ chức nhân quyền kêu gọi Miến Điện thả hết tù nhân chính trị

Tù nhân chính trị Miến Điện Win Thaw (trái) và Win Hla bên ngoài nhà tù Insein sau khi được trả tự do, ngày 23 tháng 7, 2013.

Tù nhân chính trị Miến Điện Win Thaw (trái) và Win Hla bên ngoài nhà tù Insein sau khi được trả tự do, ngày 23 tháng 7, 2013.

 

24.12.2013

Các tổ chức nhân quyền hối thúc Tổng thống Miến Ðiện có đường lối cải cách giữ lời hứa trả tự do cho tất cả tù nhân chính trị vào cuối năm nay.

Hàng trăm tù nhân chính trị đã được trả tự do trong 2 năm qua trong một đợt ân xá theo lệnh của Tổng thống Thein Sein.

Nhưng hàng chục người bất đồng chính kiến vẫn còn bị giam giữ, và nhiều người chỉ trích là Miến Điện còn được gọi là Myanmar tiếp tục bỏ tù những người chỉ trích chính phủ.

Tổ chức theo dõi Nhân quyền Human Rights Watch hôm nay cho hay chỉ có 39 người bị tù trong danh sách các tù nhân chính trị được một ủy ban duyệt xét của chính phủ cứu xét.

Nhưng con số này không bao gồm 200 người bị truy tố trong năm nay về các tội chính trị, nhiều người bị truy tố theo luật mới nghiêm nhặt hạn chế các cuộc biểu tình.

Tổ chức theo dõi Nhân quyền muốn Miến Điện trả tự do cho tất cả các tù nhân chính trị và thực hiện cải cách tư pháp để ngăn ngừa những vụ bắt giữ tiếp diễn.

Ủy ban Duyệt xét Tù nhân chính trị do chính phủ bổ nhiệm đưa ra đề nghị tương tự trong một bức thư gởi đến Tổng thống trước đây trong tháng.

Các thành viên ủy ban dự trù họp với các giới chức cao cấp tại Naypidaw ngày hôm nay, hy vọng tất cả các tù nhân chính trị có thể được trả tự do trước ngày 31 tháng 12.

Trước đây trong năm, trong một chuyến đến thăm London, Tổng thống Thein Sein đã hứa sẽ trả tự do cho tất cả các tù nhân chính trị trước cuối năm nay.

Giam giữ tùy tiện các đối thủ chính trị là đặc điểm của nhà cầm quyền quân sự Miến Điện, đã cai trị nước này 5 thập niên cho đến năm 2011.

Ngoài việc trả tự do cho các tù nhân chính trị, chính phủ mới Miến Điện đã nới lỏng kiểm duyệt báo chí và cho phép lãnh tụ đối lập Aung San Suu Kyi ra tranh cử Quốc hội thành công.

Cải cách tại Miến Điện nhận được sự ca ngợi của các chính phủ phương Tây, nhiều chính phủ đã nới lỏng các chế tài đối với quốc gia Đông Nam Á này.

CHÚA ĐÃ SINH RA

CHÚA ĐÃ SINH RA

Lm. Vĩnh Sang, dcct.

Ngày lễ mừng Chúa Giáng Sinh đã gần kề, khắp nơi trang hoàng hoa đèn rực rỡ, phố phường vui nhộn, các nhà thờ tưng bừng với những lễ hội, những chương trình mừng lễ Giáng Sinh, các hội đoàn công giáo nhộn nhịp với các chương trình sinh hoạt và vui chơi. Đó là hình ảnh ở các thành phố lớn, nơi có nhiều phương tiện và tài chánh để thực hiện. Còn các vùng thôn quê và vùng sâu vùng xa thì sao ?

Năm trước (2012), tôi lên vùng cao nguyên phía tây đất nước, chia sẻ mục vụ với anh em tôi vào dịp Giáng Sinh. 12g00 trưa 24/12, ba anh em linh mục chúng tôi có bữa cơm trưa với một vài em dân tộc sống chung nhà, thực đơn là đĩa rau rừng luộc, chấm với nước mắm từ 1 cái đầu con cá kho đi kho lại một tuần rồi. Nghỉ trưa xong, một em người dân tôc đưa tôi lên đường lúc 16g00, bắt đầu hành trình dâng lễ đêm cho 3 điểm, rồi sẽ đi ngược trở lại dâng lễ sáng cũng ba điểm đó.

Ba điểm dâng lễ, một điểm có ngôi nhà nguyện nhỏ bằng tôn vách gỗ, một điểm là sân nhà một gia đình có đạo, sân không mái, một điểm ở giữa môt khu đất trống trong làng, không điểm nào có nhà vệ sinh, không điểm nào có tòa giải tội. Đứng ở gốc cây giải tội, rồi tế nhị đi tìm gốc cây khác để đi vệ sinh! Kể từ bữa cơm 12g00 ngày 24/12, sáng hôm sau 25/12 trở về đến Trung tâm lúc 9g00, bếp hoang lạnh vì các anh em kia đi dâng lễ ở các điểm khác xa hơn vẫn chưa về.

Chúng ta chỉ biết một vùng nhỏ, những vùng khác thì sao ? Không khác tí nào, có khi còn nghèo hơn, khó khăn hơn. Là người Kitô hữu chúng ta sẽ nghĩ gì trước sư chênh lệch lớn lao ấy, chúng ta có yên ổn để lên tiếng quảng bá về một máng cỏ trong thơ văn, trong nhạc kịch, trong ánh đèn muôn màu muôn sắc ? Ngày lễ Giáng Sinh năm nay Đức Giáo Hoàng Phanxico sẽ đi đâu, thăm ai, và dâng lễ ở đâu? Tuần Thánh vừa rồi ngài vào nhà tù thăm tù nhân trẻ, rửa chân cho tù nhân trẻ, thậm chí hôn những bàn chân đó một cách cung kính. Ngay trong Giáo Hội chúng ta không được phép để sự giàu nghèo phân cách chúng ta quá đáng như vậy. Câu chuyện người giàu có và ông Lazaro nghèo khổ vẫn là một câu chuyên nhắc nhớ chúng ta về một sự công bằng Chúa mong muốn. Giàu có không là cái tội, tội ở chỗ sống giàu có mà quên người nghèo khó bên mình. Chúa là Đấng nhân từ vô cùng nhưng Chúa cũng là Đấng công bằng vô cùng.

Sẽ là bài thánh ca tuyệt hảo, sẽ là một bài giảng sâu sắc, sẽ là một hang đá ấm cúng, sẽ là một cộng đoàn Kitô hữu đầy ánh sáng, sẽ là một chứng từ mặn muối nồng men khi chúng ta, kẻ đang sinh sống ở những thành phố giàu có dư đầy phương tiện, tìm đến chia sẻ với những nơi nghèo khổ, lạnh lẽo những ngày mùa đông rét mướt. Hãy bớt đi những ánh đèn giăng giăng đầy phố, để gởi đến những căn lều tối tăm tồi tàn một vài anh lửa đêm đông. Hãy bớt đi những đĩa đồ ăn thừa bứa, để gởi đến những mâm cơm chỉ có ngô (bắp) muối với rau rừng. Tôi đã có dịp gặp các anh chị em “dân oan” ở vườn hoa Mai Xuân Thưởng – Hà Nội, mời anh em một bữa cơm có thịt, họ đã bị khó chịu ngay sau đó vì không quen ăn thịt, mấy ngày sau họ chỉ xin ăn cơm với muối vì đã quen như vậy, có cơm là quí rồi vì quanh năm chỉ có ngô (bắp) mà thôi.

Người ta đã biến ngày lễ Giáng Sinh trở thành ngày hội vui chơi của xã hội, người có lòng tin phải biết dừng lại để không bị cuốn vào làn sóng tục hóa như vậy. Sự thánh thiêng của Mầu Nhiệm Con Chúa làm người bị loại mất, còn lại chỉ là sự xa hoa, hào nhoáng của thế gian. Máng cỏ là máng cỏ thật chứ không phải là biệt thự giàu sang, Thiên Chúa làm người thật và làm người trong cảnh khó nghèo, chia cái nghèo với nhân loại. Chúng ta phải làm sao để thông truyền Tin Mừng một cách trung thực.

Lm. Vĩnh Sang, dcct.

20/12/2013

Tâm thơ Mùa Giáng Sinh 2013 và Năm Mới 2014

Tâm thơ Mùa Giáng Sinh 2013 và Năm Mới 2014

Kính chúc quý Độc giả và Thân Hữu Website  “Kẻ Đi Tìm”

tràn đầy Hồng Ân Thiên Chúa, Năm Mới nhiều Sức Khoẻ và luôn Bình An.

Cách đây khoảng hai tuần Linh mục Trần Thiên Ân giảng tĩnh tâm tại Giáo Xứ

Đức Kitô Ngôi Lời Nhập Thể đã có nói ” Mỗi sáng khi chúng ta thức dậy, thấy đôi chân mình còn bước xuống giường được. Chính đó là Hồng Ân vì biết mình vẫn còn sống.”

Xin gởi đến các bạn hai câu thơ cũ ai cũng biết, nhưng cũng xin được  gởi lại một lần nữa  gọi là chia sẻ tâm tình Khen ngợi, Chúc tụng và Tạ Ơn Thiên Chúa:

” Tạ Ơn Trời mỗi sáng mai thức dậy,

Cho Con còn ngày nữa để yêu thương.”

” Vì Tất Cả Là Hồng Ân”

BBT

 

Giáo Hoàng kêu gọi chấm dứt tình trạng vô gia cư trên thế giới

Giáo Hoàng kêu gọi chấm dứt tình trạng vô gia cư trên thế giới
Giáo Hoàng Phanxicô khi đến Quãng trường Thánh Phêrô, ngày 04/09/2013

Giáo Hoàng Phanxicô khi đến Quãng trường Thánh Phêrô, ngày 04/09/2013

Reuters

Trọng Thành

RFI

Hôm nay 22/12/2013, theo AFP, bốn ngày trước lễ Giáng sinh Noel, Giáo Hoàng Phanxicô kêu gọi chính quyền các quốc gia trên toàn thế giới và các cơ quan dịch vụ xã hội « nỗ lực tối đa để mỗi gia đình có được một nơi ở ».

Trước hàng chục ngàn tín đồ Công giáo tập hợp tại quảng trường thánh Phêrô (Roma), trong một cuộc nói chuyện ngắn từ một cửa sổ của Cung Giáo Hoàng, người đứng đầu Vatican bất ngờ có những câu nói ngoài bài diễn văn chính thức : « Tôi nhìn thấy đằng kia, có dòng chữ lớn (trên một biểu ngữ) : Những người nghèo không còn có thể chờ đợi được nữa !… ». Những lời nói của Giáo Hoàng được công chúng hoan hô nhiệt liệt.

Vị Giáo Hoàng người Achentina nhấn mạnh thực trạng hiện nay : « Có bao nhiêu gia đình không có nơi ở ! Hoặc là họ chưa bao giờ có, hoặc họ bị mất nhà vì bao nhiêu lý do khác nhau. Gia đình và nơi ở luôn đi cùng nhau ! Rất khó để gây dựng một gia đình khi không có chốn nương thân ». Ông kêu gọi các chính quyền và các cơ quan dịch vụ xã hội hết sức nỗ lực để « mọi gia đình đều có một mái nhà ».

Giáo Hoàng Phanxicô nổi tiếng là người rất chú ý đến các vấn đề xã hội. Vào cuối cuộc nói chuyện, Giáo Hoàng hướng đến một nhóm gồm khoảng hàng chục người Ý tập hợp tại quảng trường thánh Phêrô để phản đối chính sách thắt lưng buộc bụng. Ông kêu gọi họ tránh bạo động và tham gia « đóng góp tích cực » bằng con đường « đối thoại và bảo vệ các quyền lợi hợp pháp ». Những người biểu tình bao gồm nhiều thành phần rất khác nhau, từ nhà buôn, nông dân, đến những người lao động bấp bênh hay sinh viên…, đã tập hợp tại Roma để bày tỏ thái độ chống chính sách kinh tế khắc khổ của Thủ tướng Enrico Lette. Tuy nhiên, họ đã không thành công trong việc huy động đông đảo người tham gia.

Cuối cuộc nói chuyện ngắn nói trên, Giáo Hoàng Phanxicô chúc tất cả « một kỳ Noel hy vọng, công bình và bác ái ».

 

Philippines : Nổ súng tại sân bay Manila khiến bốn người chết

Philippines : Nổ súng tại sân bay Manila khiến bốn người chết

Cảnh phi trường quốc tế Manila  sau vụ nổ súng,  ngày 20/12/2013

Cảnh phi trường quốc tế Manila sau vụ nổ súng, ngày 20/12/2013

REUTERS/Che Cillo

Trọng Thành

RFI

Hôm nay, 20/12/2013, tại sân bay Manila, Philippines, một số hung thủ hiện còn chưa xác định được danh tính, đã xả súng giết hại bốn người, trong đó có một thị trưởng.

Đoạn phim trên kênh truyền hình địa phương GMA cho thấy các hành khách hoảng loạn, khi một người bị trúng đạn chết gục trên mặt đất ở bên ngoài cửa số 3.

Hai người trong số ba người thiệt mạng khác là cháu trai của người thị trưởng, mới 18 tháng tuối, và một cộng sự của ông, theo thông báo của Bộ trưởng Tư pháp Philippines. Vụ nổ súng kể trên còn khiến 4 người khác bị thương.

Thị trưởng Ukol Talumpa – người vừa bị sát hại – là người đứng đầu thành phố Lagaban, với khoảng 40.000 dân cư, thuộc đảo Mindanao, nơi hoành hành của nhiều băng đảng tội phạm và các nhóm vũ trang Hồi giáo đòi độc lập. Thị trưởng Ukol Talumpa vừa thắng cử trong cuộc bầu cử hồi tháng 5, đối mặt với thị trưởng mãn nhiệm, thuộc đảng của Tổng thống Benigno Aquino. Ông đã từng chết hụt hai lần vào năm 2012 và năm 2010, trong đó có một vụ tấn công tại Manila.

Theo giới quan sát, đời sống chính trị tại Philippines bị tham nhũng và bạo lực hoành hành, đặc biệt vào thời điểm sát các cuộc bầu cử. Vào tháng 5 vừa rồi, hơn 60 người đã thiệt mạng trong khoảng thời gian diễn ra các cuộc bầu cử địa phương.

 

Dọn đường cho bản án Trương Duy Nhất

Dọn đường cho bản án Trương Duy Nhất

Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2013-12-20

tdn-2-305.jpg

Blogger Truơng Duy Nhất, ảnh chụp trước đây.

Courtesy TDN Facebook

 

Hai tờ báo Công An Nhân Dân và Petrotimes cho đăng cùng lúc bài viết phân tích kết luận của cơ quan điều tra về các tội trạng của Trương Duy Nhất. Nếu đọc cả hai bài thì sẽ thấy rất rõ cả hai tờ báo đều nhận được thông tin từ một nguồn duy nhất đó là cơ quan điều tra của Bộ công an.

Những tội trạng mà cơ quan điều tra đưa ra để cáo buộc Trương Duy Nhất có thể gói gọn lại bốn điều: thứ nhất phê phán chính phủ, thứ hai thông tin sai lệch về hiện trạng kinh tế, xã hội của Việt Nam, thứ ba bác bỏ tính chất vinh quang của ngày 30 tháng 4, thứ tư đưa ra cái nhìn bi quan một chiều về hiện tình đất nước.

Những tội danh không thuyết phục

Bốn điều mà cơ quan điều tra đưa ra có lẽ chưa thể kết luận trước tòa án vì thiếu chứng cứ buộc tội. Phê phán chính phủ là một cái quyền của người dân miễn là hành động phê phán ấy dựa trên những sự thật chứng minh được. Hiến pháp không có điều khoản nào cấm sự phê phán ấy và vì vậy tòa án dựa vào chương điều nào để kết tội bị cáo?

“Khi ăn nhậu chúng tôi nói với nhau: thằng đó là đảng viên nhưng mà nó tốt! Tại sao chúng ta để quần chúng coi đảng viên là người xấu và người nào là người tốt thì đó là thực tế cá biệt?
-Ô. Nguyễn Văn Đực”

Về thông tin sai lệch hiện trạng kinh tế, xã hội Việt Nam xét trên bình diện pháp lý không cơ quan nào có quyền bắt giữ ông Trương Duy Nhất khi chưa có thông số kỹ thuật đáng tin cậy chứng minh ngược lại điều ông Nhất viết. Nếu cơ quan điều tra chỉ dựa vào số liệu của nhà nước cung cấp thì ông Nhất hoàn toàn có quyền đem các dữ liệu khác từ những định chế kinh tế, tài chánh của nước ngoài để chứng minh ngược lại, do đó giam giữ ông Nhất với tội danh này hoàn toàn là một hành động bất hợp pháp của chính phủ.

Chính quyền cũng không thể bắt giữ ông Trương Duy Nhất về quan điểm xem ngày 30 tháng 4 là ngày Quốc hận vì ngày chiến thắng này đã chia rẽ dân tộc nặng nề. Nếu giam giữ, cáo buộc hay kết án ông về quan điểm ấy thì có lẽ chính Thủ tướng Võ Văn Kiệt mới là người đáng bị xem xét hơn blogger Trương Duy Nhất. Khi Thủ tướng Kiệt nói câu “có triệu người vui thì cũng có triệu người buồn” trong ngày 30 tháng 4 thì chính vị thủ tướng này đã thừa nhận sự hận thù trong chính ngày ấy không nên tồn tại nữa. Trương Duy Nhất chỉ có thể bị kết án vì đã lập lại một câu nói nổi tiếng của ông Kiệt mà không xin giấy phép, thế thôi.

tdn-250.jpg

Bài viết phân tích kết luận của cơ quan điều tra về các tội trạng của Trương Duy Nhất trên báo Petrotimes hôm 15/12/2013. Screen capture.

Về cáo buộc ông Nhất đã có cái nhìn bi quan, một chiều hiện tình đất nước thì cơ quan điều tra đã đi quá xa khi tự tiện lập ra một tội danh hoàn toàn không có trong hiến pháp Việt Nam.

Trương Duy Nhất là một blogger, bài viết của ông có tính cách riêng tư, nếu nó được cộng đồng mạng chuyển tải hay chia sẻ nằm ngoài khả năng của ông. Hơn nữa công dân trong một nước nếu có than phiền, trách móc hoàn cảnh của xã hội họ đang sống thì cũng là chuyện bình thường vì từ những nhận xét ấy một chính quyền tốt sẽ có cơ hội điều chỉnh chính sách của mình cho phù hợp những yêu cầu của người dân.

Trong nhiều trường hợp, chính sự ca tụng, tô hồng những điều không có thật trong xã hội là viên thuôc độc bọc đường đối với những chế độ cộng sản trên thế giới từ những thập niên qua.

Ngôn ngữ dân gian trở thành trọng tội?

Riêng điều mà cơ quan điều tra kết tội ông đã dùng từ “Ông Thị trưởng” để ám chỉ một Trung ương Ủy viên cũng như câu nói đã trở thành truyển khẩu của dân gian: “thằng này đảng viên đấy nhưng hắn tốt, tốt lắm” thì có lẽ không tòa án nào có thể thụ lý tội danh châm biếm được.

Trong một cuộc họp doanh nhân với Chủ tịch nước Trương Tấn Sang tại thành phố Hồ Chí Minh vào tháng 7 vừa qua ông Nguyễn Văn Đực, Giám đốc công ty Bất động sản Đất Lành đã nói câu này:

“Ở ngoài dư luận người ta có câu chuyện vui rằng. Khi ăn nhậu chúng tôi nói với nhau: thằng đó là đảng viên nhưng mà nó tốt! Tại sao chúng ta để quần chúng coi đảng viên là người xấu và người nào là người tốt thì đó là thực tế cá biệt?”

“Cái điều 258 nó rất là mơ hồ, nó đã vi phạm, dẫm đạp lên điều 19 của Công ước quốc tế về Nhân quyền. Họ muốn dằn tiếng nói của phong trào tiếng nói tự do dân chủ trong nước.
-Ô. Trương Minh Đức”

Ông Đực chẳng những không bị bắt mà còn được tiếng là đã giúp cho Chủ Tịch nước biết thêm những gì mà dân chúng đang suy nghĩ về tư cách của đảng viên ngày nay.

Tất cả những lý lẽ cáo buộc vừa trình bày được gói gọn trong điều luật 258 để kết án nhà báo, blogger Trương Duy Nhất.

Nhà báo Trương Minh Đức, từng làm việc cho báo Tiền Phong, Pháp Luật và cũng là nạn nhân của điều 258 chia sẻ:

“Tôi cũng là nạn nhân của điều 258 trước đây, với bản án 5 năm tôi cũng chia sẻ với trường hợp của anh Trương Duy Nhất. Cùng một thời bị bắt với Trương Duy Nhất cũng có Phạm Viết Đào rồi Đinh Nhật Huy. Cái điều 258 nó rất là mơ hồ, nó đã vi phạm, dẫm đạp lên điều 19 của Công ước quốc tế về Nhân quyền. Họ muốn dằn tiếng nói của phong trào tiếng nói tự do dân chủ trong nước ở thời điểm đó. Nghị định 72 cấm đoán Internet, họ đưa vài người ra họ bắt dằn mặt tiếng nói dân chủ cũng như một cảnh báo.

Nói về tác nghiệp, báo chí khi đưa tin thì có tin đúng mà đôi khi cũng có tin sai lệch cũng có mình phải thừa nhận như vậy. Nhưng đối với những thông tin sai lệch thì nó phải có một tòa án để xét xử. Phải có bị cáo và phải có người bị hại thì mới gọi là họ vi phạm. Còn như khi mà họ xử tôi cũng vậy trong điều 258 thì tôi hỏi họ tôi là bị cáo còn ai la người bị hại thì họ không đưa ra được bằng chứng người bị hại là ai, rất là vô hình. Cái điều 258 chỉ đề bịt miệng tiếng nói của người làm báo thôi.”

Rò rỉ thông tin từ nội bộ?

Trước đây ít lâu nhà báo Phạm Chí Dũng từng công tác trong bộ máy an ninh suốt 16 năm cũng đã nếm trải điều 258 một thời gian nhưng nhìn vụ án Trương Duy Nhất với cái nhìn khác. Phạm Chí Dũng cho rằng Trương Duy Nhất bị bắt vì đã đưa thông tin nhạy cảm về đại hội đảng với vấn đề nhân sự.

Blogger Huỳnh Ngọc Chênh, cây viết của tờ Thanh Niên trong nhiều năm chia sẻ quan điểm này:

“Trước đây anh Phạm Chí Dũng có viết một bài nói rằng anh Trương Duy Nhất bị bắt xuất phát từ những nguồn tin, tức là anh Nhất đã nắm được những thông tin mà ở vị trí của anh ấy không thể nắm được phải do ai đó ở cấp rất cao rò rỉ thông tin. Tôi nghĩ rằng nhận xét đó của anh Phạm Chí Dũng là rất đúng. Hồi Hội nghị Trung ương đảng thì anh Nhất đưa ra nhiều thông tin rất là cập nhật, rất mau và cũng rất chính xác về chuyện bầu cử thay người vào Bộ chính trị. Tôi nghĩ có thể xuất phát từ chuyện đó người ta muốn biết ai cung cấp thông tin cho anh, theo suy nghĩ của tôi thì đó là lý do chính còn những điều nêu ra trong kết luận điều tra vừa rồi tôi thấy không có điểm nào thuyết phục được để mà cáo buộc ràng ảnh có tội được hết. Dĩ nhiên luật pháp Việt Nam mình dựa vào điều 258 thì rất chung chung và nó có thể bắt được mọi người vì vậy nếu đem điều 258 ra thì có thể cáo buộc anh Nhất tội này tội khác được.

Nghi vấn Trương Duy Nhất bị bắt vì đã rò rỉ nguồn tin tối mật dù sao cũng chỉ là nghi vấn vì nếu muốn kết án ông thì tội “tiết lộ bí mật nhà nước” đã có sẵn tại sao lại không áp dụng? Hay là Bộ chính trị sợ bứt dây động rừng có thể nổ ra hàng chục vụ Trương Duy Nhất khác?

Trước đây trong một lần phỏng vấn với người blogger nổi tiếng này chúng tôi được ông cho biết khi phải bỏ nghề làm báo để viết blog:

“Tất nhiên là có nhiều cái trăn trở chứ nhưng mà khi tôi quyết định có thể nói nhiều người không tin đâu. Tôi chuẩn bị điều này lâu lắm rồi vì vậy tôi rất nhẹ người chứ không có gì nặng nề lắm đâu. Quan điểm của tôi là thế này, tôi là người sinh ra với nghề cầm bút, nghề viết nên tôi muốn mình phải viết được điều gì cần phải viết.

Tôi có mấy chục năm làm báo rồi, có tới sáu thẻ nhà báo rồi. Tất nhiên khi nghỉ một cái nghề mà mình máu thịt với mình như thế thì cũng băn khoăn nhưng nặng nề thì không, bởi vì tôi chuẩn bị kỹ cho nó rồi. Tôi đã làm cho báo Công An Quảng Nam Đà Nẵng 8 năm. Tôi đi làm báo từ năm 1987 đến 31 tháng 12 năm 1994. Năm 1995 báo Đại Đoàn Kết mời tôi về làm phái viên thường trú tại miền Trung, từ đó đến nay chỉ hai tờ thôi.

Nhà báo, blogger Trương Duy Nhất dĩ nhiên biết sự nguy hiểm của mình phải gặp vì vậy sự chuẩn bị chu đáo nhất của ông trong trại giam là câu khẳng định trước nhân viên điều tra: không nhận bất cứ cáo buộc nào, có nghĩa là không chấp nhận một thỏa hiệp để mong được giảm án, tuy ông biết làm như vậy là chấp nhận mang thêm số ngày ngồi trong tù của ông trong thời gian tới.

 

Nhạc sĩ Việt Dzũng qua đời tại California

Nhạc sĩ Việt Dzũng qua đời tại California
December 20, 2013

nguoi-viet.com

 

WESTMINSTER (NV) – Nhạc sĩ Việt Dzũng vừa qua đời lúc 10:35 phút sáng, ngày 20 tháng 12, 2013, sau một cơn trụy tim, tại Fountain Valley Regional Hospital, Orange County, California.

Nhạc sĩ Việt Dzũng. (Hình: Dân Huỳnh/Người Việt)

Việt Dzũng tên thật Nguyễn Ngọc Hùng Dũng, sinh năm 1958 tại Sài Gòn.

Thân phụ của ông là bác sĩ Nguyễn Ngọc Bảy, và mẹ là cựu giáo sư trung học Gia Long. Ông theo gia đình di tản từ năm 1975, định cư tại các tiểu bang Nebraska, Texas và cuối cùng là California.

Nhà báo Nguyễn Văn Khanh, Giám Đốc Ban Việt Ngữ đài Á Châu Tự Do cho biết, thân mẫu của nhạc sĩ Việt Dzũng nói với ông rằng, hệ miễn nhiễm của con trai bà bị yếu từ lâu.

Việt Dzũng là tác giả của nhiều ca khúc được đồng bào hải ngoại yêu mến, như “Chút Quà Cho Quê Hương,” “Lời Kinh Ðêm,” “Mời Em Về”…

Việt Dzũng dẫn chương trình trong chương trình ca nhạc “Ngọc Trong Tim” tại Little Saigon, ngày 20 tháng Năm, 2012. (Hình: Dân Huỳnh/Người Việt)

Việt Dzũng là một người đa tài và có lòng với cộng đồng tị nạn hải ngoại. Ông là một trong những MC chính của tất cả các chương trình của Trung Tâm Asia.

Ông cũng là một nhà báo, là xướng ngôn viên của các đài phát thanh tại nam California, như Little Saigon Radio (1992-1996), Bolsa Radio từ 1996 đến nay.

Trong các sinh hoạt cộng đồng, ông hoạt động tích cực, đấu tranh cho các vấn đề tự do, nhân quyền cho Việt Nam. (H.G.)

Ý NGHĨA VIỆC GIÁNG SINH CỦA CHÚA GIÊSU

Ý NGHĨA VIỆC GIÁNG SINH CỦA CHÚA GIÊSU

(BÀI GIÁO LÝ CỦA ĐTC PHANXICÔ)

Tác giả: GLV. Phạm Xuân Khôi (chuyển ngữ)

“Thiên Chúa, qua Chúa Giêsu, đã liên hệ với loài người đến nỗi trở thành một người trong chúng ta, điều đó có nghĩa là bất cứ điều gì chúng ta làm cho anh chị em mình là chúng ta làm cho Ngưởi.”

Dưới đây là bản dịch bài Giáo Lý ĐTC Phanxicô ban hành ngày 18 tháng 12 năm 2013 trong buổi Triều Yết Chung được tổ chức tại Quảng Trường Thánh Phêrô.  Hôm nay nói về ý nghĩa của việc Chúa Giáng Sinh.

* * *

Anh chị em thân mến, chào anh chị em,

Cuộc gặp gỡ này diễn ra trong bầu không khí tinh thần của Mùa Vọng, được nên mãnh liệt hơn vì ở trong Tuần Cửu Nhật Giáng Sinh, chúng ta đang sống những ngày dẫn chúng ta đến Đại Lễ Giáng Sinh.  Vì vậy, hôm nay tôi muốn cùng anh chị em suy niệm về việc giáng sinh của Chúa Giêsu, ngày lễ của đức tin và đức cậy, là điều vượt quá sự bất ổn và bi quan.  Và đây là lý do cho niềm hy vọng của chúng ta: Thiên Chúa ở cùng chúng ta và Thiên Chúa vẫn còn tin tưởng chúng ta!  Nhưng chúng ta hãy suy nghĩ kỹ về điều này:  Thiên Chúa ở với chúng ta và Thiên Chúa vẫn tin tưởng chúng ta.  Thiên Chúa Cha này rất đại lượng!  Ngài đến để ở với loài người, lựa chọn Trái Đất như nơi cư ngụ của mình để được với loài người và để con người tìm thấy Ngài ở nơi mà họ sống những ngày tháng của mình trong niềm vui hay nỗi buồn.  Vì vậy, trần gian không còn chỉ là một “thung lũng nước mắt”, nhưng là nơi mà Thiên Chúa đã cắm lều, là nơi gặp gỡ giữa Thiên Chúa và loài người, là nơi của sự đoàn kết của Thiên Chúa với loài người.

Thiên Chúa muốn chia sẻ thân phận con người của chúng ta đến mức trở nên một với chúng ta trong con người của Chúa Giêsu, Đấng là Thiên Chúa thật và người thật.  Nhưng có một điều khác còn đáng ngạc nhiên hơn.  Sự hiện diện của Thiên Chúa giữa nhân loại đã không được thực hiện trong một thế giới lý tưởng, an bình, nhưng trong thế giới thật này, được đánh dấu bằng rất nhiều điều tốt và xấu, được đánh dấu bằng những chia rẽ, sự dữ, nghèo đói, áp bức và chiến tranh.  Người đã chọn để sống trong thực trạng của lịch sử của chúng ta, với tất cả gánh nặng của những giới hạn và những thảm trạng của nó.  Khi làm như thế Người đã chứng minh khuynh hướng thương xót vô hạn và đầy tình thương dành cho con người.  Người là Thiên Chúa ở cùng chúng ta, Chúa Giêsu là Thiên Chúa ở cùng chúng ta.  Anh chị em có tin điều này không?  Chúng ta hãy tuyên xưng điều này: Chúa Giêsu là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta! Chúa Giêsu là Thiên Chúa luôn luôn ở với chúng ta và mãi mãi ở cùng chúng ta trong sự đau khổ và lo buồn của lịch sử.  Việc ra đời của Chúa Giêsu là một sự tỏ lộ rằng Thiên Chúa là tự mình “đứng về phía” loài người một lần mà thôi là đủ để cứu chúng ta, để nâng chúng ta lên từ bụi đất của những khốn khổ, những khó khăn và những tội lỗi của chúng ta.

Từ đó có “món quà” vĩ đại là Hài Nhi ở Bethlehem:  Người đem đến cho chúng ta năng lực tinh thần, một năng lực giúp chúng ta không bị chìm trong những công việc khổ cực của mình, trong tuyệt vọng của mình, trong những nỗi buồn của mình, bởi vì đó là một năng lực sưởi ấm và biến đổi tâm hồn.  Thực ra, việc ra đời của Chúa Giêsu mang đến cho chúng ta Tin Mừng là chúng ta được Thiên Chúa yêu thương vô cùng và cách riêng, và không những Thiên Chúa chỉ làm cho chúng ta biết tình yêu này,  mà Người còn ban nó và thông truyền nó cho chúng ta!

Từ việc vui mừng chiêm ngắm mầu nhiệm Con Thiên Chúa sinh ra cho chúng ta, chúng ta có thể lấy rút ra hai điều để suy nghĩ.

Điều thứ nhất là nếu trong ngày Lễ Giáng sinh, Thiên Chúa không tỏ mình ra là một Đấng ở trên cao và thống trị vũ trụ, nhưng là một Đấng tự hạ mình, ngự xuống đất, nhỏ bé và nghèo nàn, điều đó có nghĩa là để được giống như Người, chúng ta không được đặt mình ở trên người khác, nhưng thay vì thế thì chúng ta phải cúi xuống, hiến thân phục vụ, làm cho chúng ta thành nhỏ bé với những người bé nhỏ và nghèo khó với những người khó nghèo.  Nhưng thật là xấu khi anh chị em nhìn thấy một Kitô hữu không muốn cúi mình xuống, không muốn phục vụ.  Một Kitô hữu lúc nào cũng phô trương khắp nơi, là điều buồn nôn: người ấy không phải là một Kitô hữu, mà là kẻ ngoại đạo.  Một Kitô hữu phục vụ, tự hạ mình xuống.  Chúng ta hãy làm việc để chắc chắn rằng anh chị em của chúng ta không bao giờ cảm thấy cô đơn!

Hậu quả thứ hai: nếu Thiên Chúa, qua Chúa Giêsu, đã liên hệ với loài người đến nỗi trở thành một người trong chúng ta, điều đó có nghĩa là bất cứ điều gì chúng ta làm cho anh chị em mình là chúng ta làm cho Ngưởi.  Chính Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta rằng ai đã nuôi nấng, chào đón, thăm viếng, yêu thương một trong những người bé nhỏ nhất và nghèo khổ nhất giữa loài người, thì đã làm điều ấy cho Con Thiên Chúa.

Chúng ta hãy phó mình cho sự chuyển cầu từ mẫu của Đức Mẹ Maria, Mẹ Chúa Giêsu và Mẹ chúng ta để Mẹ giúp chúng ta trong Giáng sinh Thánh này, giờ đây đã gần, ngõ hầu nhận ra trên gương mặt của những người lân cận của chúng ta, đặc biệt là những người yếu đuối nhất và thiệt thòi nhất, hình ảnh của Con Thiên Chúa làm người.

Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ

http://giaoly.org/vn

ĐTC: Giáng Sinh là lễ của sự tin tưởng và niềm hy vọng

ĐTC: Giáng Sinh là lễ của sự tin tưởng và niềm hy vọng


Linh Tiến Khải

12/18/2013

Giáng Sinh là lễ của sự tin tưởng và niềm hy vọng. Nó cử hành biến cố Chúa Giêsu xuống thế làm người để sống với chúng ta trong lịch sử loài người, với tất cả gánh nặng các hạn hẹp và thảm cảnh của nó.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với các tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi gặp gỡ chung tại quảng trường Thánh Phêrô sáng thứ tư 18-12-2013.

Vì buổi tiếp kiến diễn ra trong bầu khí thiêng liêng của mùa Vọng trở thành sâu đậm hơn nhờ tuần cửu nhật nên Đức Thánh Cha đã suy tư về ý nghĩa của lễ Giáng Sinh. Ngài nói:

Hôm nay tôi muốn cùng anh chị em suy tư về lễ Giáng Sinh của Chúa Giêsu, ngày lễ của sự tin tưởng và niềm hy vọng, vượt thắng sự bất ổn và bi quan. Và lý do niềm hy vọng của chúng ta là điều này: Thiên Chúa ở với chúng ta và vẫn còn tin tưởng nơi chúng ta! Anh chị em hãy nghĩ tới điều này: Thiên Chúa ở với chúng ta và vẫn còn tin tưởng nơi chúng ta! Thiên Chúa Cha thật là quảng đại.

Thiên Chúa đến ở với loài người, lựa chọn trái đất như nơi ở của mình để cùng sống với con người và để làm cho mình được tìm thấy tại nơi con người trải qua các ngày của mình trong niềm vui và trong khổ đau. Vì thế trái đất không chỉ còn là ”thung lũng nước mắt” nữa, mà là nơi chính Thiên Chúa đã cắm lều của Ngài, là nơi Thiên Chúa gặp gỡ con người và liên đới với con người.

Thiên Chúa đã muốn chia sẻ điều kiện làm người của chúng ta đến độ trở thành một với chúng ta trong con người của Đức Giêsu, là người thật và là Thiên Chúa thật. Nhưng còn có điều gì đó gây ngạc nhiên hơn nữa. Sự hiện diện của Thiên Chúa giữa loài người đã không được thực hiện trong một thế giới lý tưởng, tình tứ, nhưng trong thế giới thực sự này, bị ghi dấu bởi các chia rẽ, gian ác, nghèo túng, các chuyên quyền và chiến tranh. Ngài đã lựa chọn ở trong lịch sử của chúng ta như nó là, với tất cả gánh nặng của các hạn hẹp và các thảm cảnh của nó. Khi làm như thế Ngài đã chứng minh cho thấy một cách không thể vượt hơn được khuynh hướng xót thương và tràn đầy tình yêu của Ngài đối với con người. Ngài là Thiên Chúa ở với chúng ta; Đức Giêsu là Thiên Chúa ở với chúng ta. Anh chị em có tin điều này không? Tín hữu trả lời ”Có”. Chúng ta hãy cùng nhau tuyên xưng điều này: Đức Giêsu là Thiên Chúa ờ cùng chúng ta. Tất cả mọi người lập lại. Một lần nữa. Đó tốt lắm xin cám ơn anh chị em. Chúa Giêsu là Thiên Chúa ở cùng chúng ta, từ luôn luôn và sẽ mãi mãi ở với chúng ta trong khổ đau và khốn khó của của lịch sử.

Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha định nghĩa lễ Giáng Sinh như sau:

Lễ Giáng Sinh của Chúa Giêsu biểu lộ cho thấy Thiên Chúa đã đứng về phía con người một lần cho tất cả, để cứu vớt chúng ta, để nâng chúng ta dậy từ bụi đất của các nỗi bần cùng, khó khăn và tội lỗi của chúng ta. Từ đó phát xuất ra món quà vĩ đại của Hài Nhi Bếtlehem: một năng lực tinh thần giúp chúng ta không chìm sâu trong các mệt nhọc, thất vọng, buồn sầu của chúng ta; bởi vì nó là một năng lực sưởi ấm và biến đổi con tim. Thật thế việc sinh ra của Chúa Giêsu đem đến cho chúng ta một tin vui: đó là chúng ta được Thiên Chúa yêu thương vô cùng và một cách đặc biệt, và tình yêu này Ngài không chỉ làm cho chúng ta nhận biết, mà còn ban tặng và thông truyền nó cho chúng ta nữa!

Từ việc tươi vui chiêm ngưỡng mầu nhiệm của Con Thiên Chúa sinh ra vì chúng ta, chúng ta có thể rút tỉa ra hai điều.

Thứ nhất đó là nếu trong lễ Giáng Sinh Thiên Chúa không tự mạc khải như một người ở trên cao và thống trị vũ trụ, nhưng như Đấng tự hạ mình xuống trên trái đất bé nhỏ và nghèo nàn này, thì điều này có nghĩa là để giống như Ngài chúng ta không được ở bên trên các người khác, nhưng trái lại phải hạ mình xuống, để phục vụ, để trở nên bé nhỏ với những người bé nhỏ và nghèo với người nghèo. Thật là một điều xấu, khi thấy một Kitô hữu không muốn hạ mình xuống, không muốn phục vụ, một Kitô hữu vênh váo khắp nơi: thật là xấu có phải không? Người đó không phải là tín hữu Kitô, mà là một người ngoại giáo. Kitô hữu thì hạ mình và phục vụ. Chúng ta hãy làm sao để các anh chị em này không bao giờ cảm thấy cô đơn! Sự hiện diện liên đới của chúng ta bên cạnh họ không chỉ diễn tả bằng lời nói nhưng bằng sự hùng hồn của các cử chỉ cho thấy Thiên Chúa gần gũi tất cả mọi người.

Đề cập tới khía cạnh thứ hai Đức Thánh Cha nói:

Nếu qua Chúa Giêsu Thiên Chúa đã liên lụy với con người cho tới nỗi trở thành như một người trong chúng ta, thì có nghĩa là bất cứ gì chúng ta sẽ làm cho một người anh chị em, là chúng ta làm cho Chúa. Chính Chúa Giêsu đã nhắc cho chúng ta nhớ điều đó: ai cho ăn, lắng nghe, thăm viếng, yêu thương một trong những người bé nhỏ và nghèo nàn nhất là đã làm cho chính Con Thiên Chúa. Trái lại, ai khước từ, quên lãng, không biết tới một trong các người bé nhỏ và nghèo nàn nhất là đã bỏ quên và khước từ chính Thiên Chúa (x. Mt 25,35-46). Như thánh Gioan đã viết: ”Thật ra ai không yêu thương người anh em mà mình trông thấy, thì không thể yêu thương Thiên Chúa mà mình không trông thấy” (1 Ga 4,20).

Chúng ta hãy phó thác cho sự cầu bầu hiền mẫu của Mẹ Maria, Mẹ Chúa Giêsu và Mẹ chúng ta, để Mẹ giúp chúng ta trong lễ Giáng Sinh thánh gần kề này, nhận biết nơi gương mặt của tha nhân, đặc biệt của những người yếu đuối và bị gạt bỏ ngoài lề nhất, hình ảnh của Con Thiên Chúa làm người. Xin Mẹ Maria nâng đỡ chúng ta trong quyết tâm trao ban cho tất cả mọi người tình yêu thương, lòng tốt và sự quảng đại của chúng ta. Trong cách thế này chúng ta sẽ phản ánh và kéo dài ánh sáng của Chúa Giêsu, Đấng từ hang đá Bếtlêhem tiếp tục tỏa lan trong các con tim, bằng cách hiến tặng niềm vui và hòa bình, mà chúng ta ngưỡng vọng từ tận thẳm sâu con người chúng ta.

Sáng thứ tư 18-12-2013 đã có vài ca đoàn và ban nhạc ”Viva la Gente” của phong trào Tổ Ấm hát thánh ca Giáng Sinh và trình tấu chào mừng Đức Thánh Cha cũng như tạo bầu khí tươi vui cho buổi tiếp kiến.

Chào các tín hữu Đức Thánh Cha chúc mọi người những ngày hành hương sốt sắng, lễ Giáng Sinh và Năm mới tươi vui an lành và thịnh vượng.

Chào các tín hữu Ba Lan hiện diện tại quảng trường cũng như bên Ba lan và khắp nơi trên thế giới Đức Thánh Cha xin mọi người hãy nghĩ tới các người nghèo, người đói, người cô đơn, người vô gia cư, bị gạt bỏ ngoài lề xã hội, cũng như các nạn nhân của chiến tranh, đặc biệt là các trẻ em.

Ngài cũng đã chào nhiều người đau yếu ngồi trên xe lăn, ôm hôn vuốt ve và an ủi họ. Đức Thánh Cha khích lệ người trẻ tiến tới với mầu nhiệm Giáng Sinh với cùng các tâm tình đức tin và sự khiêm nhường của Mẹ Maria. Ngài cầu mong cho các anh chị em đau yếu kín múc được niềm vui và sự bình an mà Chúa Giêsu đem đến cho nhân loại. Đức Thánh Cha nhắn nhủ các cặp vợ chồng mới cưới chiêm ngưỡng Thánh Gia Nagiarét và noi gương các nhân đức của Thánh Gia.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với kinh Lậy Cha và phép lành tòa thánh Đức Thánh Cha ban cho mọi người.

Bài học của một linh mục trẻ

Bài học của một linh mục trẻ

chuacuuthe.com

VRNs ( 19.12.2013) – Sài Gòn- Có một câu nói rất ý nghĩa : « Việc học không bao giờ được coi là đủ, vì nó như dòng nước trên nguồn chảy mãi ra biển khơi….  Muốn học thì phải có trường, và không ngôi trường nào đầy đủ, sinh động, chân chính và cay đắng hơn ngôi trường này: Trường Đời… ». Ở góc độ truyền giáo, một cha giáo của tôi khẳng định : « Luôn có những bài học đắt giá dành cho những nhà truyền giáo từ chính những con người họ tiếp cận. Hay nói cách khác, nhà truyền giáo được sự tác động trở lại, hay được truyền giáo trở lại, từ chính những người mà họ phục vụ. » Tôi rất tâm đắc với những nhận định này vì đó là thực tế mà tôi cảm nhận.

Nếu luôn có đó một sự tác động hỗ tương trong mọi tương quan, thì với tư cách là người linh mục, tôi đón nhận quá nhiều bài học phục vụ từ chính những người dân tại giáo xứ. Tôi không muốn nêu tên cụ thể những con người được nói đến ở đây, bởi lẽ, trong mắt tôi, họ đã quá nổi tiếng trong lĩnh vực của họ.

* * *

Người đầu tiên dạy cho tôi sự hy sinh phục vụ là một cụ ông vóc người nhỏ nhắn, khuôn mặt hiền lành phúc hậu, ít nói hay cười và làm rất nhiều, mà lại làm toàn chuyện « độc ». Con cái cụ đã lập gia đình hết, trong nhà chỉ còn hai ông bà già, thành ra cụ có nhiều thời gian cho việc phục vụ của mình. Không giữ bất kỳ chức vụ gì trong giáo xứ nhưng cái cụ làm được cho giáo xứ thì, với tôi, quá nhiều. Điều quý giá ở nơi cụ là những việc cụ làm thường âm thầm ít người biết đến, và một khi đã quyết thì làm cho đến cùng, không nản chí, không buông xuôi. Mỗi khi có những công trình xây dựng nhà tình thương hay giúp đỡ một gia đình nghèo nào đó (cả người kinh và người dân tộc), cụ nhiệt thành không những bỏ công của của cá nhân mà còn khuyến khích con cái hy sinh giúp sức. Thậm chí có trường hợp gia đình nghèo neo đơn cần có chỗ trú thân, chính cụ lên kế hoạch vận động con cái cháu chắt của cụ. Cụ còn đi thuyết phục tôi và mọi người tham gia để gia đình đó có được cái nhà tươm tất. Tôi may mắn được gặp và cộng tác với cụ, đặc biệt trong việc xây dựng nhà tình thương cho bà con sắc tộc Êđê. Có một vài công trình chính cụ nhận phần xây cất. Quá tuyệt vời !

Sự chín chắn, từng trải của tuổi già, tấm lòng đại lượng của một kitô hữu, lòng nhiệt huyết cùng với sự khiêm tốn của một giáo dân như cụ quả thật đã có sức ảnh hưởng lớn trên tôi.

* * *

Nếu ai đến Châu Sơn mà muốn trải nghiệm cái nghèo về đủ mọi phương diện, hãy đến với những người mà tôi sắp kể đây. Và tôi nghĩ, một khi đã chứng kiến, tôi không tin là có một ai đó còn dám than thân trách phận với Chúa rằng sao để cho con nghèo, bởi đơn giản, không còn ai nghèo hơn những người này.

Những người tôi nói đến là một người mẹ chịu nhiều đau khổ để nuôi nấng người con gái hơn nửa thế kỷ bệnh tật nằm một chỗ trên giường bệnh. Suốt hơn năm mươi ba năm cứ âm thầm, cặm cụi như thế. Thời điểm tôi ở đó, người mẹ không còn đi lễ được vì sức yếu, nên tôi vẫn thường đến cho cụ rước lễ. Có những lúc bà cụ tâm sự : « Cha à, bây giờ con cứ mong cho nó chết trước con, chứ nếu con chết trước, không biết nó sẽ sống thế nào nữa. » Nhiều lúc cho cụ rước lễ, vào trong nhà mùi xú uế bốc lên nồng nặc, chịu không thấu. Người con gái thì vẫn nằm đó, hồn nhiên vô tư, cười cười nói nói mà không biết mình nói gì. Hai mảnh đời, hai thân phận cứ quấn chặt vào nhau mà sống. Một người thì ý thức được cái nghèo tận cùng của phận người, cái khắc nghiệt của cơm áo gạo tiền, cái quay quắt của bệnh tật, và vì thế, sống trong sự dày vò của nỗi khổ tâm. Còn người kia thì vô tư không chút mảy may nghĩ đến cái bất hạnh nhất có thể xảy đến : một ngày kia người mẹ có thể mất đi. Bởi không ai có thể (hay dám) hình dung cô sẽ thế nào khi không có mẹ.[1] Dù vẫn có những người xung quanh như con cái, dâu rể lo lắng đấy, rồi thỉnh thoảng cũng có những hội đoàn, nhóm này nhóm kia thương tình ghé thăm giúp đỡ chút quà mọn. Nhưng tất cả chỉ là sự trợ giúp tương đối nào đó thôi, làm sao cất khỏi họ gánh nặng của thân phận khắc nghiệt ? Đó thực sự là người nghèo về mọi phương diện, nghèo nhất, nghèo cùng cực ! Nhìn về quá khứ là hơn năm mươi ba năm chôn chân một chỗ, cái ăn cái mặc cứ phải cậy nhờ vào người khác mà không thể tự lo cho mình. Quá khứ là sống chung với bệnh tật, với mùi xú uế mà không có cách nào để thoát ra. Còn hiện tại ? Thưa là nụ cười ngây ngô hồn nhiên của người con gái hơn năm mươi ba tuổi đầu, suốt ngày không thoát ra khỏi được cái giường của riêng mình. Hiện tại là khuôn mặt đầy nếp nhăn với cặp mắt u buồn của người mẹ già, là sự cam chịu đầy tức tưởi trước nghịch cảnh. Thế còn tương lai? Tôi nhớ lại câu nói đau đớn của cụ già, xem ra nghịch lý, nhưng là một nghịch lý hoàn toàn logich với tâm hồn của người mẹ : « … Con muốn nó chết trước con … ».

Đứng trước hai người phụ nữ ấy, bỗng thấy mình quá đầy đủ, quá sung sướng. Tôi cảm thấy những khó khăn trở ngại mà mình gặp phải thật ra đâu là gì so với những gì mà hai người phụ nữ ấy đang gánh lấy. Đứng trước họ, chợt nhận ra mình đã quá hoang phí về mọi thứ được ban : tiền bạc, thời gian, cơ hội, tương quan con người …. Phải duyệt xét cuộc sống để sống tốt hơn trong sự khó nghèo, phải trân trọng với tất cả những gì được ban để sống cho xứng đáng. Cuộc đời của hai người phụ nữ nghèo ấy thực sự đã để lại cho tôi quá nhiều bài học !

* * *

Bài học thứ ba tôi học được là tính tự lập và vượt khó từ một cô bé. Qua đến nước Pháp, bài học này trở nên quý giá vô cùng khi mà tôi phải tự xoay xở hết mọi chuyện trong cuộc sống của mình. Có lẽ phải mở ngoặc để giải thích một chút. Ở Việt Nam, người giáo dân thương mến các cha và sẵn sàng giúp đỡ cho các « đấng ». Nhiều người sẵn sàng đi mua máy móc, vật dụng, quần áo … cho các ngài. Nhiều người giáo dân có chuyên môn trong lĩnh vực của mình như tin học, điện gia dụng, giấy tờ hành chính … sẵn sàng giúp các cha miễn phí (vì giúp các đấng ai nỡ lòng lấy tiền). Đến một lúc, cha chỉ biết việc đạo, còn đụng đến việc đời thì cha hơi lúng túng. Qua đến Pháp, tất cả đều phải tự lập, phải tự xoay sở tất tần tật. Cũng phải mất một thời gian làm quen với chuyện đó. Nhưng may mắn đã có một chút kinh nghiệm nhờ học được từ môi trường Châu Sơn nên không bị điêu đứng.

Ngày đầu tiên tôi gặp cô bé mà tôi học hỏi ấy là trong buổi phát quà cho các em học sinh giỏi của giáo xứ trong dịp đầu năm học. Cô gái ấy bị khuyết tật nặng toàn thân dẫn đến tình trạng từ cách đi đứng đến nói năng diễn tả rất khó khăn. Theo như tôi được biết, ngoài bố mẹ của cô bé thì những người khác phải rất khó khăn mới có thể hiểu được điều cô bé nói. Nhưng như người ta thường nói, Thượng Đế rất công bằng, người lấy của người ta cái này thì sẽ ban lại cho cái khác để cuộc sống được quân bình. Cô bé khuyết tật ấy rất thông minh sáng dạ và viết lách thuộc hàng xuất sắc. Học giáo lý luôn luôn có bằng khen và phần thưởng. Nghe đâu cô bé có lúc cũng đã đoạt giải học sinh giỏi văn của thành phố Buôn Ma Thuột. Nhưng có một điều đặc biệt hơn, cô bé luôn tìm cách để sống tự lập, cố gắng giới hạn ở mức thấp nhất sự làm phiền người khác. Nghe mẹ cô kể : bé luôn luôn tự mình lo việc vệ sinh cá nhân, súc miệng đánh răng, di chuyển trong nhà … và nhiều việc khác. Chỉ những khi đi xa như đến trường học hay đến nhà thờ, thì mới phải để bố chở đi.

Cách đây bốn năm, bất hạnh ập đến khi người thân yêu gần gũi nhất của cô bé là ông bố đột ngột qua đời ở tuổi còn rất trẻ. Chỗ dựa lớn nhất bỗng dưng bị cái chết cướp đi. Hụt hẫng và trống rỗng ! Đau khổ và cay đắng ! Chúa lại thinh lặng đến mức lạnh lùng trong biến cố đau thương. Mọi người nghẹn ngào nhìn cô bé khóc đến nỗi không còn sức mà khóc, không còn nước mắt mà tuôn. Gánh nặng cuộc đời trở nên trĩu nặng hơn trên đôi vai gầy.

Nhưng nỗi đau như con thú dữ đã không đủ sức quật ngã con người đầy nghị lực ấy. Cô gượng dậy trên sự mất mát, can đảm đối diện với bất hạnh và từng bước chế ngự nó. Nghe đâu vài tháng sau khi bố mất, cô bé quyết xin mẹ vào Sài Gòn theo học một khoá tin học và chụp ảnh. Rồi từ từ cũng thành nghề. Lâu lâu hỏi thăm tin tức lại thấy tình hình cô bé sáng sủa hơn. Cô đã có thể phụ mẹ bán xăng, bàng hàng tạp hoá, có lúc cũng mở nghề làm thiệp đám cưới. Có người thương giúp cho cái máy photocopy, cũng mở dịch vụ photo giấy tờ cho học sinh của ngôi trường gần đó. Một ngày kia tôi đến thăm cô và gia đình. Thật bất ngờ, cô còn làm thêm cả nghề chụp ảnh thẻ lấy ngay. Tôi thắc mắc làm sao chụp ảnh với đôi tay lúc nào cũng run lẩy bẩy thế. Cô cười : « Cha cứ thử. Con chụp cho cha. » Rồi cô chụp thật. Không những làm được, mà còn làm rất đẹp là đàng khác. Thật là đáng khâm phục !

Cô bé không đầu hàng số phận. Luôn luôn có ở đó ý chí vươn lên, tìm kiếm mọi cơ hội và nắm bắt nó. Đúng hơn cô tìm cách tạo cơ hội cho mình. Cái cô đạt được về phương diện vật chất, qua các công việc cô làm, có lẽ không là gì so với những người khác, nhưng giá trị cuộc đời cô thì thật là đáng để học hỏi : đó là một hình mẫu về ý chí tự lập và tinh thần vượt khó, vượt qua số phận để vươn lên và tồn tại. Cuộc đời cô thực sự là một bài học đắt giá cho tôi.

*************

Những người thầy của tôi trong « trường học Châu Sơn » là những con người bình dị như thế đấy. Dĩ nhiên còn rất nhiều những con người khác nữa mà vì giới hạn bài viết tôi không thể kể ra. Những bài học ấy tôi vẫn cứ phải nghiền ngẫm và áp dụng từng ngày. Tạ Ơn Chúa.

JB. Hồ Quang Lâm, dcct

Cuộc trùng phùng hy hữu của một gia đình HO trên đất Mỹ (1)

Cuộc trùng phùng hy hữu của một gia đình HO trên đất Mỹ (1)

Tác giả : Du Tử Nguyễn Định

Tác giả là cựu sĩ quan VNCH, khoá 8/68 Sỹ Quan Trừ Bị Thủ Đức, phục vụ tại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II, bị bắt tại Ban Mê Thuột ngày 14 tháng 3 năm 1975; Đến Mỹ tháng 4/2005, hiện cư ngụ tại Carlsbad, California.

Đây là chuyện có thật của đứa trẻ bị thất lạc khi đi vượt biển chỉ mới 8 tuổi .

1. Cuộc Tìm Kiếm Vô Vọng

Thuận xếp tập hồ sơ lại, nhìn người con gái đối diện, mỉm cười đứng dậy bắt tay cô gái và nói:

– Chúc mừng cô gia nhập vào Biomedical Research của chúng tôi. Khi nào cô có thể đi làm được?

– Dạ em cần về công ty cũ báo cho họ biết, có thể cho em 2 tuần để thu xếp được không?

– Vâng, nếu có trở ngại cô cho tôi biết nhé.

– Dạ. Xin cám ơn anh nhiều lắm. Chào anh.

Chờ cho người con gái bước ra khỏi phòng, anh ngồi xuống, băn khoăn tự hỏi, không biết mình còn quên điều gì chưa dặn cô ta không, và còn sót điều gì chưa làm? Sao mình lại có cảm giác hồi hộp và bâng khuâng?

Nhìn khuôn mặt cô ta rất quen và dường như thân thiết lắm, không hiểu mình gặp cô ta ở đâu, High School, hay lúc còn học Bio. Anh mở lại hồ sơ, đọc thêm một lần nữa Resume của cô gái, Thái, Thủy-Vi, tốt nghiệp Master of Biomedical Sciences tại DMU (Des Moines University, Iowa)… Thuận giật mình. Cô ta họ Thái, cùng họ với Thuận. Iowa, nơi cô ta học, không phải tiểu bang mình đã học. Vậy là chưa từng gặp, mà sao như linh cảm thấy điều gì lạ lùng. Lúc phỏng vấn, hai ba lần Thuận định hỏi, nhưng rồi lại e ngại, sợ qúa đường đột gây ngộ nhận.

Giữ chức vụ này đã 5 năm, Thuận đã interview nhiều người, anh hết sức né tránh những ngộ nhận không cần thiết, nhất là khi phải interview đồng hương của mình, dù có ý muốn nâng đỡ, cũng chỉ ngấm ngầm và để trong lòng, nhưng đây là lần thứ nhất anh có cảm giác này. Đọc mức lương đề nghị, anh như một cái máy, để mức lương tối đa cho phép phỏng vấn viên, anh nghĩ, cô ta thật xứng đáng được như thế.

Những suy nghĩ về cô gái làm anh bận rộn và quên mất cả thời gian, cho đển khi tiếng điện thoại reo lên, anh mới biết là đã đến giờ, mở cặp da, bỏ hồ sơ vào và ra về, mà tâm hồn cứ quẩn quanh trong ý nghĩ “không biết có còn sót điều nào chưa bảo cô ấy không, thôi để cô ta đi làm rồi mình sẽ hỏi cho rõ ngọn ngành là đã gặp cô ta ở đâu, có khi là đi lễ Chủ nhật gặp được không chừng” .

Về đến nhà, lúc ngồi ăn cơm, Thuận kể cho vợ anh nghe về cuộc phỏng vấn một người con gái Việt Nam mang họ Thái và những tình cảm mơ hồ, lạ lùng trong anh, anh thú nhận là giờ này vẫn còn hình dung ra khuôn mặt và dáng dung của cô ấy, anh biết rất rõ ràng, tình cảm ấy không phải là loại tình cảm nam nữ, nhưng thực sự anh lại không hiểu.

– Có gì đâu, ngày nào cô ấy đi làm thì anh hỏi chuyện cô ấy là được rồi, hay anh lại muốn em giúp? Tại anh nhạy cảm thôi, em hiểu anh đang nghĩ tới điều gì, bên nội hay bên ngoại phải không? Đâu phải là lần đầu anh suy nghĩ như thế. Nhưng anh không có em gái mà.

– Thì đành như vậy, nhưng anh lại sợ mình vụng về không khéo léo lại gây hiểu lầm.

– OK, đến ngày đó em tới ăn trưa với anh, rồi giả như tình cờ em gặp cô ấy, chúng ta hỏi chuyện xã giao được không?

– Được vậy thì tốt lắm.

– Nhưng mà cô ấy chắc là dễ thương, duyên dáng, mặn mà lắm phải không? Nếu không làm sao ông chồng em lại tơ vương đến như thế.

– Dạo này hình như tiếng Việt của em giỏi hơn nhiều, nói chuyện nghe văn hoa bóng bẩy quá, phải như ngày xưa em học Văn chương hay Nhân chủng học thì dễ nổi tiếng lắm đó.

– Đùa anh vậy thôi chứ ngay khi biết cô ta cùng họ với anh, em hiểu ngay điều anh đang bận tâm. Em sẽ giúp anh.

Thuận nhìn vợ với lòng cảm kích. Loan là bác sĩ ngoại khoa. Hai người lập gia đình đã hơn 15 năm, có hai đứa con gái, nhưng tình cảm vợ chồng lúc nào cũng thân ái mặn nồng, đúng như câu các cụ bảo “vợ chồng lúc nào cũng tương kính như tân”. Phần Loan, nàng hiểu nỗi khắc khoải của người chồng sau bao năm tìm kiếm vô vọng.

*

Thuận vượt biển đến Mỹ năm 1978, khi chỉ mới 8 tuổi, được một gia đình người bản xứ không có con nhận nuôi và đón tại phi trường, khi Thuận vừa từ đảo đến.

Thuận không nhớ gì về gia đình mình, ngoài tấm hình được bọc plastic, luồn trong lưng quần mà lúc ra đi mẹ Thuận đã để vào, tấm hình ấy gồm có ba mẹ Thuận, Thuận và một người em trai nhỏ hơn Thuận 3 tuổi, mặt sau của tấm hình có ghi là: Thái Ngọc Trác (1947), Chung thị ngọc Hân (1953), Thái Ngọc Thuận (1970), và Thái ngọc Trị (1973).

Ba má nuôi của Thuận đã kể cho Thuận nghe về tai nạn của chiếc tàu chở Thuận và 48 người khác vượt biển, bị lạc đường trên biển, hết lương thực và nước uống, rất nhiều người đã chết vì đói và khát, chỉ còn Thuận và 5 người khác gồm 3 trẻ em còn sống sót. Đó là những gì Thuận biết về chuyến vượt biển của mình, những người sống sót đó là ai, hiện nay ở đâu anh không hề biết. Ba má nuôi của Thuận cũng đã dùng tấm hình ấy để hỏi thăm tin tức về gia đình Thuận ở các cộng đồng người Việt trên đất nước này, hay hầu hết các nước Pháp, Anh, Canada, Úc … nhưng không hề nhận được một tin tức nào.

Tuy là người bản xứ, nhưng giữa anh và ba má nuôi, thật rất gần gủi và thân thiết không khác gì ruột thịt, có lẽ tại từ những ngày đầu anh côi cút, lạc loài, và bơ vơ, được ba má nuôi chăm sóc dưỡng dục, đã cho anh một ấn tượng hoàn hảo về hai ông bà, và làm cho anh trở nên gần gũi với người bản xứ thực sự. Nhất là thời gian anh còn ở tiểu học, lúc nào cũng được má nuôi đưa đón đến trường. Ngày anh tốt nghiệp đại học, ba má nuôi ôm hôn anh trước sân trường làm anh xúc động đến rơi nước mắt.

Từ nhiều năm qua, Thuận cũng đã cố công tìm lại gia đình ruột thịt của mình. Chàng rất muốn về Việt Nam để tìm lại gia đình, nhưng không biết phải bắt đầu tìm từ chổ nào, hỏi thăm những người hàng xóm cũ, hay hỏi tin tức từ quê của ông bà nội ngoại. Điều không may là lúc ra đi Thuận chưa đầy 8 tuổi, đầu óc non nớt đó không thể nhớ được nơi Thuận đã ở, ngoài con đường Phan Chu Trinh mà Thuận như mang máng nhớ, còn lại chỉ là những hình ảnh mơ hồ.

Thuận chỉ biết nhà của gia đình anh ở rất gần chợ, từ nhà có thể đi bộ đến một Tiệm may, gần đó là những quán xá như tiệm chè, quán kem, và vườn sau của nhà là một cây mai rất nhiều cành, mà Thuận nhớ hàng năm khi Tết đến, mẹ vẫn thường hay cắt nhánh đem vào chưng bàn thờ hay là cắm ở phòng khách, ngoài ra Thuận không còn nhớ được gì nữa. Bác Khôi ở cạnh nhà Thuận, hàng xóm mà Thuận thường chui qua vườn sau để cùng chơi đùa với Lân và chị Cúc, cũng đã dọn đi sau khi Sài gòn bị chiếm. Rất nhiều những gia đình khu Thuận ở đã bỏ đi hay bị đuổi khỏi nhà.

Ngày Thuận ra đi, căn nhà bác Khôi và chị Cúc đã bị một gia đình bộ đội dọn vào, và gia đình bác Khôi ra sao cũng không nghe mẹ nhắc đến, chính vì thế mà hàng xóm của Thuận đã toàn là những người lạ không ai tiếp xúc .

Còn về gia đình nội, ngoại thì Thuận chỉ nhớ trước đây ông bà nội ở Đà Lạt, mất miền Nam, gia đình nội và các cô chú nghe mẹ nói về Phước Tuy và đã mất tin tức liên lạc. Bên ngoại còn cậu Tuấn, đi tù, cậu Hưng đã vượt biên, nhưng không liên lạc được, còn dì Út thì lên ở với gia đình Thuận và đi cùng chuyến tàu với Thuận nhưng đã chết vì đói và khát. Đó là lý do mà Thuận không về Việt Nam để tìm kiếm.

Với tất cả phương tiện mà Thuận biết và có thể, Thuận đã dùng hết, để hỏi thăm tin gia đình trên các tiểu bang của nước Mỹ hay là tìm đến Canada, theo sự chỉ dẫn của một vị đại tá, nguyên Trưởng phòng II của Quân Đoàn II, “Hãy bắt đầu từ đơn vị ít người nhất, như các Liên đoàn, Sư đoàn, Bộ Tư lênh. Từ nước gần nhất, đến nước xa xôi . . . ” và Thuận đã tìm đến Canada, gặp một vị đại tá Hải Quân, Chủ tịch liên Hội người Việt, Ông cư ngụ ở một thành phố ngoại ô của Thủ đô Canada, thành phố Nepean, rồi gặp vị Chủ tịch Hội Cựu Quân Nhân tại Ottawa, nhưng không ai biết tin tức về gia đình anh. Anh lại lần lượt tìm liên lạc với các liên đoàn, như Liên đoàn 21, 22 Biệt động Quân, Liên đoàn 6 BDQ, Liên đoàn công Binh, Liên đoàn Quân Y, các bệnh viện từ Duy Tân, Nguyễn Huệ, đến Tổng Y Viện Cộng Hòa, các Phòng I của các Sư đoàn Vùng Hỏa tuyến, đến 22, 23, 18, 25, 7, 9… Sư đoàn Dù, TQLC, nhưng chỉ là những cuộc tìm kiếm vô vọng.

Cách đây mấy năm, anh nghe vị cựu Chỉ Huy Trưởng LD 72 Quân Y kể chuyện về đời sống ở Úc, anh đã tìm cách làm quen với những người ở Úc và quen được một ông cụ mà ngày xưa có con làm Phó tỉnh Gia định và Giám sát viện, từ đó, anh liên lạc được với các sở ANQD, Hành Chánh TC, các Trung Tâm HCTV Tiểu khu , và kết quả vẫn là câu “Trời Phật nhất định sẽ không phụ lòng hiếu thuận của cháu đâu, rồi có ngày cha con mẹ con lại đoàn tụ”

Anh thất vọng, bỏ cách thức tìm kiếm từ các đơn vị Quân đội, và quay về với đầu mối cũ mà ba má nuôi anh từng tìm, đó là các Trại tù Cải tạo, từ Bắc chí Nam. Anh được tiếp xúc với rất nhiều người tù Cải tạo, chứng kiến cuộc sống của họ, những vất vả và cố gắng của họ làm anh ngậm ngùi và xúc động, những lúc như vậy, anh lại thầm nghĩ đến ba mẹ, “nếu ba mẹ còn sống, con sẽ không để ba mẹ vất vả đâu”.

Vào năm cuối của Biomedical scientist, Thuận nghe tin có một vị Linh mục ở nhà tù Trại Đưng, Thanh Hóa, biết tin về một Sĩ quan tên Trác, trốn trại bị Việt cộng bắn chết, Thuận đã bỏ nửa chừng để bay đi Nouvelle Calédonie (Tân đảo), nơi cha Stanislas Cosca Hoa đang làm cha xứ, để hỏi thăm tin tức,

– Thưa cha con là Thái Ngọc Thuận, ở xa đến xin gặp cha để hỏi về tin của ba con là Thái ngọc Trác, đây là hình của gia đình chúng con.

– Hình mờ quá, tôi nhìn không rõ, nhưng mà tôi cũng không biết gì về ông cụ đâu. Ai nói cho anh biết tin này?

– Một người quen ở Tân Tây Lan nói cho con, nhưng họ cũng không biết đích xác, họ chỉ bảo con viết thư hỏi tin tức ở cha mà thôi.

– Thật là tội nghiệp, lòng của con Chúa sẽ biết. Đã đến đây thì hãy ở vài ngày coi cho biết Tân Đảo, người Việt ít có ai đi du lịch tới nơi này.

– Thưa cha ở đây có bao nhiêu giáo dân.

– Chừng hơn 500 người, nhưng lòng tin kính Chúa thì rất sốt sắng.

Thuận rời Giáo xứ Nouméa Kitô Vua mà lòng mang đầy nỗi tuyệt vọng mênh mông.

Trở về Thuận viết thư nhờ bà Khúc Minh Thơ giúp đỡ, rồi theo dõi Chương trình HO của các người đi tù cải tạo trở về, nhưng vẫn không tìm ra manh mối của gia đình, người thân, nội hay ngoại. Điều đáng tiếc là Thuận không biết cấp bậc của ba, đơn vị của ba, hay của cậu Tuấn, cậu Hưng, để mà dò la, cho nên đến chổ nào, hay viết thư đi đâu cũng không ai biết cách nào giúp đỡ. Hàng năm, kể từ sau khi tốt nghiệp, Thuận xông xáo vào các hoạt động của cộng đồng người Việt, nhất là của các hội Cựu Quân Nhân để làm quen hỏi thăm , nhưng câu hỏi mà Thuận luôn luôn nghe là “ba cháu cấp bậc gì, đơn vị sau cùng ở đâu?” Thuận chỉ lắc đầu không biết, có người thấy vậy còn nghi ngờ Thuận có lòng tới quấy nhiễu đã tỏ thái độ xua đuổi.

Hình ảnh cuối cùng còn rõ nhất trong đầu Thuận là buổi chiều ra đi, mẹ ôm Thuận và dì Út vừa mếu máo vừa nói, “Gia đình chỉ còn hai dì cháu, em phải lo cho cháu giúp anh chị, rồi mẹ cúi xuống hôn anh và nói, con phải nghe lời dì Út nhé” và Thuận thấy nước mắt chảy đầy trên mặt mẹ khi anh và dì Út bước lên chiếc xe ra đi.

Cuộc hành trình vượt biên xảy ra như thế nào thực sự Thuận không hay biết, vì anh và nhiều người khi bước lên tàu, đã bị đưa xuống hầm tàu nằm co ro không biết ngày đêm, chỉ khi nào đói thì kêu dì Út, cho đến một ngày dì Út bảo là đã hết thức ăn, hãy cố ngủ đi, và rồi không biết bao nhiêu ngày Thuận đã mệt lả bất tĩnh cho đến lúc được tàu vớt và đưa lên đảo, tỉnh lại, Thuận mới biết là dì đã chết.

Nhờ được ba má nuôi người Mỹ tận tình dưỡng dục, Thuận đã có hoàn cảnh thuận lợi để học hành, thành đạt và anh luôn luôn thương kính ba má nuôi. Khi ông bà còn sinh tiền, vào những ngày lễ như ThanksGiving, Christmas, anh luôn luôn đem vợ con về ở chơi một hay hai ngày với ba má, làm cho ông bà cũng rất hãnh diện và thực sự vui vẻ. Nhưng rồi liên tiếp hai năm, ba nuôi mất rồi má cũng mất. Cuộc tìm kiếm ba mẹ ruột và em trai đã trở thành vô vọng.

Hàng năm, Thuận lấy ngày 30 tháng 4 làm ngày giỗ cho ba mẹ và em, ngày ấy cả nhà đi lễ cầu nguyện cho gia đình.

Điều làm Thuận thương cảm nhất là anh không còn hình dung ra được ba mình như thế nào, trong đầu óc anh khi nghĩ về ba, chỉ là hình ảnh nhạt nhòa trên tấm hình trắng đen mà mẹ trao cho lúc ra đi, và mỗi lần nhìn lại tấm hình, Thuận không làm sao kềm được cảm xúc và các con anh đã bắt gặp rất nhiều lần, những khi như vậy, bao giờ vợ anh cũng chỉ vổ về anh bằng câu nói ” hãy cố quên đi, cố vui với các con, và hãy cầu nguyện cho họ, biết đâu như người ta nói, xa tận chân mây, nhưng gần lại trước mặt, nếu ba mẹ chưa mất, thế nào gia đình mình cũng có ngày đoàn tụ”.

Là một y sĩ, Loan hiểu nỗi khắc khoải của Thuận và luôn tìm cách chia sẻ nỗi ưu tư của chàng, nhưng Thuận còn một nỗi niềm riêng, mà không cách nào anh có thể chia xẻ với vợ: cho tới nay, hai vợ chồng chưa có con trai. Nếu ba mẹ và em đã chết, quả là dòng họ Thái đành đứt đoạn, Thuận thấy mình có lỗi với ba mẹ và ông bà nội hay tổ tiên. Tư tưởng này cứ nhậm gấm tâm hồn Thuận mỗi khi nhìn vợ con vui vẻ bên nhau.

Câu chuyện xảy ra đã mấy chục năm, và cơ hội tìm gặp ba mẹ và em Thuận đã gần như không nghĩ tới. Đúng lúc ấy thì có cuộc phỏng vấn tuyển chuyên viên Biomedical Sciences và cô gái họ Thái xuất hiện.

Khuôn mặt, nụ cười tiếng nói của cô gái họ Thái làm Thuận trằn trọc mãi. Trong bong đêm, Thuận nhắm mắt như cầu nguyện “Ba mẹ ơi, đây là Thành phố Hy Vọng, City of Hope, con và những người làm việc ở đây lúc nào cũng mong ước đem được hy vọng đến cho từng người, và dù chỉ có một tia hy vọng nhỏ nhoi, chúng con và cả những bệnh nhân, cũng không bao giờ dám bỏ lỡ. Ba mẹ hãy chỉ cho con biết phải làm thế nào, nếu quả thật ba mẹ đã về nơi yên nghỉ, xin hãy báo mộng cho con”!