Thánh Maria Goretti, đồng trinh tử đạo

Thánh Maria Goretti, đồng trinh tử đạo

                                                                                        Ngày 06/7

 

Thánh Maria Goretti sinh ngày 16 tháng 10 năm 1890 tại Ancona. Cha mẹ Ngài là những người nhà quê thất học. Vì hoàn cảnh nghèo túng, năm 1899, gia đình Ngài dời về sống trong một nông trại ở làng Auziô, gần Neturô. Đây là một gia đình nghèo khó nhưng giàu lòng tin đến độ chuyển núi dời non. Nhưng gia đình đã bị giao động khi người cha bất ngờ qua đời. Bà góa phụ Assunta không biết nương tựa vào đâu và quyết định tiếp nối công việc nặng nhọc vừa khởi sự. Bà giao các con nhỏ cho trưởng nữ mới 10 tuổi săn sóc. Maria, người con gái ấy là một đứa trẻ hiền lành can đảm biết vâng phục. Thánh nữ thật là một nguồn an ủi cho người mẹ hiền lành, nhưng tỏ ra cương nghị với các em. Dù còn trẻ thánh nữ đã sớm trở thành một người nội trợ giỏi.

Hàng xóm của bà Assunta, là gia đình Serenrlli, họ là những người có tinh thần phục vụ. Nhưng Alessandrô lại chơi với các bạn bè xấu và ham đọc sách nguy hiểm. Nhiều lần anh ta giúp đỡ Maria trong những việc nặng nhọc. Người ta có thể nghĩ là Alessandrô đã cải tính sửa nết vì những ảnh hưởng tốt từ Maria. Maria thì biết ơn và rất trong sáng trong quan hệ tình bạn, nhưng Alessandrô đã không ngần ngại đưa ra những đề nghị bỉ ổi, lại còn đe dọa cô không được nói với ai, không hiểu biết gì, Maria Goretti cảm thấy nguy hiểm phạm tội, và đã thú thực hết với mẹ. Run sợ cho tâm hồn còn tinh trong của con bị hoen ố, bà Assunta đã dạy cho Maria cách thắng vượt sự dữ, đề phòng cho cô khỏi mắc cơn nguy hiểm mà cô chưa biết đến. Maria Goretti hứa sẽ không bao giờ nhượng bộ.

Năm Maria mới 12 tuổi, Alessandrô lại tìm cách cám dỗ nhưng người thiếu nữ đã biết giữ gìn và chống cự lại. Thảm cảnh diễn ra ngày 5 tháng 7 năm 1902. Sáng hôm đó, đợi cho mọi người đi khỏi, Alessandrô tới gần ve vãn cô gái. Cầm dùi trong tay, anh còn đe dọa :
– Nếu cô không chịu, tôi sẽ giết cô.
Cô gái la lớn:
– Không, đó là việc tội Chúa cấm ! Anh sẽ phải vào hỏa ngục.

Không còn kềm được bản năng , Alessandrô lao vào con mồi, đâm cô hơn 14 nhát.

Tiếng kêu la của kẻ hung bạo và của nạn nhân vang tới mọi người lân cận. Bà Assunta vội đưa người con hấp hối của mình tới nhà thương ở Nettunô. Dọc đường Maria nói với mẹ:

– Mẹ ơi ! Anh đã muốn con phạm tội, nhưng con đã cự tuyệt.

Linh mục tới đầu giường cô và nhắc lại cái chết của Chúa Giêsu trên thánh giá với lưỡi đòng, sự hối cải của người trộm lành… rồi Ngài hỏi:

– Maria, con có tha thứ không ?
– Dạ tha, vì tình yêu Chúa Giêsu, chớ gì anh được lên thiên đàng với con.

Alessandrô bị kết án 30 năm khổ sai. Tính hung hăng của anh càng tăng làm các bạn tù khiếp sợ. Tám năm sau, một đêm đã làm biến đổi tất cả. Tội nhân mơ thấy Maria sáng chói giữa vườn huệ và hái một bông trao cho chàng. Hôm sau anh viết lời thú tội, tự thú tất cả cho Đức Giám mục và kể lại cả giấc mơ cho Ngài. Từ ngày đó, thái độ của anh rất gương mẫu. Năm 1929 anh được phóng thích. Năm 1937, quì dưới chân bà Assunta, anh hỏi:

– Bà có tha thứ cho con không ?

Và mẹ của thánh nữ trả lời:

– Nó đã tha cho con rồi, tôi làm khác sao được ?

Lễ Giáng sinh năm ấy, hai người cùng tiến lên bàn thờ rước lễ. Maria Goretti được phong chân phước ngày 27 tháng 4 năm 1927. Đến ngày 24 tháng sáu năm 1930, trước mặt người mẹ đã 87 tuổi, Maria Goretti được Đức Giáo hoàng Piô XII tôn phong lên bậc hiển thánh.

Thánh nữ Maria Goretti nêu gương cho chúng ta về đời sống thanh khiết. Luôn hướng lòng về Chúa với một tình yêu trong sáng, xa tránh tội lỗi. Đặc biệt Ngài đã biết tha thứ a tránh tội lỗi. Đặc biệt Ngài đã biết tha thứ cho người xúc phạm đến mình. Chúng ta cũng hãy xin Chúa ban cho chúng ta những ơn cần thiết ấy để hoàn thiện bản thân mỗi ngày một trở nên xứng đáng hơn.

Ai Nghèo Đều Bị Khinh Dể

Ai Nghèo Đều Bị Khinh Dể

(CN 14 TN, Năm B)

                                                                                            Y Tá Của Chúa,

                                                                                                  Tuyết Mai
Có phải trần gian qua bao nhiêu thế kỷ luôn có những con người giầu quá và nghèo khổ quá?.   Cho đến ngay ngày hôm nay khi chúng ta lên internet đều chứng kiến được cái cảnh một bên là những những căn nhà siêu vẹo sườn là đất và mái lót lá, còn một bên là những villa những cao ốc thật văn minh của thế giới ngày hôm nay.   Rồi thì chuyện anh giầu và tôi nghèo là chuyện đã có từ muôn thưở chỉ trừ độc nhất thời gian Chúa Cha tác tạo nên ông Adong và bà Eva.   Chứ sau đó khi Chúa Cha đuổi hai ông bà ra khỏi vườn Địa Đàng thì đã có sự ganh ghét nhau vì dành miếng ăn và dành cho được ngôi thứ, để được sung sướng và thoải mái cho cái tấm thân rất yếu hèn và rất yếu đuối của con người.

Đi ngược dòng lịch sử từ cái thời của Chúa Giêsu thì gia đình của Chúa Con thật là nghèo khổ, thưa có phải?.   Dượng nuôi của chúa Giêsu chỉ là một anh thợ mộc quèn, kiếm cơm hằng ngày qua công việc rất có hạn của ngài.   Vì đâu có phải ngày nào ngài cũng có việc để làm?.   Rồi thì Mẹ Maria của Chúa cũng chỉ là một bà nội trợ như bao nhiêu bà nội trợ khác.   Ngoài ra ai biết ba Đấng ấy là cột trụ của sự Cứu Độ nhân loại tội lỗi?.   Vâng, chỉ có môn đệ của Chúa là biết gốc tích của gia đình Thánh Gia mà thôi!.   Và vì thế mà sự cao trọng của ba Đấng ấy chẳng ai được biết tới.   Và vì thế mà gia đình Thánh Gia chẳng có một ai nể vì.   Và vì thế mà Chúa Giêsu mới có mặt trên trần gian này!.

Mục đích cao cả ấy khi mà Ngài là Con một Duy Nhất của Thiên Chúa Cha, đã bỏ Trời Cao mà xuống thế làm người.   Để dậy dỗ và làm gương cho hết thảy nhân loại tội lỗi của con người chúng ta.   Ngài dậy chúng ta giữ Giới Răn Chúa Trời.   Ngài dậy chúng ta sống cách “Nghèo cho sạch, rách cho thơm”.   Ngài dậy chúng ta trần gian là cõi tạm, Nước Trời mới là Nơi Sống muôn đời cho những ai thực thi Lời của Chúa.   Mà Lời của Chúa là con người không sống nguyên bởi bánh nhưng chính là những Lời do miệng Chúa phán ra.   Thực thi Lời của Chúa thưa có khó lắm không???.   Chỉ có hai điều Chúa dậy là Trước kính mến Chúa Trời trên hết mọi sự; Sau lại yêu người như mình ta vậy!.   Ấy thế mà thế giới chúng ta đang sống hiện nay vẫn chưa thấy Lời Chúa được thực thi cách tuyệt đối hay ở mức độ mong muốn.

Vì những người giầu xụ thì vẫn giầu xụ và vẫn sống cả cuộc đời trong ích kỷ trong thù hận và ghen ghét.   Và người nghèo càng ngày càng nghèo thêm vì những người ích kỷ này có bao nhiêu họ đã càn quét hết vào cho họ.   Chính vì thế mà con người nghèo khổ bé miệng vẫn còn đầy dẫy có mặt trên toàn thế giới.   Vì người giầu có họ sống thiếu trách nhiệm, vô lương tâm, và tham lam.   Vì sự cho đi của họ chẳng đáng là gì so với cái Có và sự Dư Thừa của họ.   Như Chúa lên án những thành phần này khi Ngài Giêsu ngồi dõi theo sự cho đi của họ khi họ bỏ tiền vào Hòm Tiền trong nhà thờ.   Và đã khen ngợi bà già góa nghèo kia đã bỏ vào hòm nhiều tiền nhất vì bà đã bỏ tất cả những gì bà có.   Sự dâng cúng ấy của bà đã làm Chúa cảm động và tất nhiên việc bà làm đã làm Chúa rất vui lòng.

Người giầu có trên trần gian này họ có riêng ngôi thứ của họ.   Họ chơi chung và kết thân với nhau.   Họ có những trò chơi tiêu khiển thật tốn kém và thật phung phí.   Họ có những trò chơi chết người và trò chơi ấy thường dùng người nghèo ra để làm thú vui tiêu khiển cho họ.   Vì họ giầu có nên họ nuôi biết bao nhiêu người nghèo để làm những việc tay chân cho họ.   Tội nghiệp cho những con người nghèo này biết bao!.   Chỉ vì đánh đổi miếng cơm manh áo, mà giá trị của họ không bằng con chó của dân nhà giầu.   Tay lấm chân bùn có chết cũng mặc bay, đó là sự gian ác của những dân nhà giầu mà ai ai cũng biết.   Bởi thế Chúa mới phán bảo với các môn đệ của Ngài là người giầu thì khó mà được vào Nước Thiên Đàng; như con lạc đà mà chui vào lỗ kim vậy!.   Nhưng rồi Chúa Giêsu cũng thòng thêm câu nhưng việc của Chúa làm thì mọi điều mọi việc đều có thể.

Có phải Ý Chúa nói rằng tuy người giầu có khi họ biết ăn năn sám hối thì họ cũng có thể được vào Nước Trời???.   Phải công nhận những Lời Chúa dậy dành cho những ai Có Tai thì nghe, còn như điếc luôn thì chẳng hiểu nổi sự gì???.   Và chiều sâu của những bài học ấy phải được Chúa mạc khải mới hiểu nổi tận tường.   <Như khi Chúa Giêsu trở về quê nhà đến ngày Sabbat, Người vào giảng trong hội đường, và nhiều thính giả sửng sốt về giáo lý của Người, nên nói rằng: “Bởi đâu ông này được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Người làm được những sự lạ thể ấy? Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em ông không ở với chúng ta đây sao?”.

Chúa Giêsu liền bảo họ: “Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương, gia đình họ hàng mình”. Ở đó Người không làm phép lạ nào được, ngoại trừ đặt tay chữa vài bệnh nhân, và Người ngạc nhiên vì họ cứng lòng tin. Người đi rảo qua các làng chung quanh mà giảng dạy.  Mc 6, 1-6 >.

Điều rất rõ rệt mà chúng ta khẳng định tại sao Chúa bị khinh dể khi Ngài trở về quê quán của Ngài!.   Có phải vì Ngài trở về mà không khoác trên người chiếc áo thụng dài với râu tua tủa và giầy mang lóng lánh?.   Giống như những Pharisêu, nhà Luật Sĩ, Biệt Phái, và phường đạo đức giả của mọi thời đại mà bị Chúa trách mắng luôn?.   Dù ở thời đại nào đi chăng nữa thì giai cấp cao thấp vẫn không bao giờ thay đổi.   Nếu có đổi cũng chỉ vì sự thích nghi mà thôi và vì muốn đánh tâm lý vào giới nghèo, để được lá phiếu, để được cho mục đích riêng của mình, để làm cho giới nghèo càng tin tưởng vào mình hơn.   Thưa để trục lợi, lấy Danh Chúa để buôn thần bán thánh, để mà mắt thiên hạ, để giết người cho dễ dàng bằng cách tạo sự thuận lợi cho cái chiều hướng đồi bại cho cách sống tự do của ngày hôm nay, và v.v.v…..

Nhưng thưa lậy Thiên Chúa của chúng con! Có phải Chúa luôn yêu thương người nghèo cho nên Chúa mới xuống trần gian để bỏ tất cả sự cao sang trên Trời mà nên một giống chúng con?.   Để Ngài mới cảm hóa được con người tội lỗi?.   Để Ngài cảm thông cho sự yếu hèn, nghèo khổ, và luôn sống trong tội lỗi của chúng con?.   Để Ngài hướng dẫn và làm gương cho chúng con biết sống thế nào để được Nước Trời?.   Có phải là vác Thánh Giá của đời mình; mời Thiên Chúa luôn ngự trị vào nhà tâm hồn của chúng con; Kính Chúa và yêu người là hai Giới Răn căn bản và quan trọng nhất; là điều kiện để được Nước Trời?.   Thưa thật đúng thế vì Lời Chúa là đèn soi dẫn bước chúng con đi ….. Amen. 

** Xin bấm vào mã số dưới đây để hát theo:

    http://www.youtube.com/watch?v=MyY5rOuNCts

   (Kính Chúa Yêu Người)          

Y Tá Của Chúa,

Tuyết Mai

(07-05-12)

Bí quyết hạnh phúc của Đức Kitô

Bí quyết hạnh phúc của Đức Kitô 

                                                                                              TRẦM THIÊN THU 

 

 Đức Kitô có một số bí quyết tuyệt vời để sống hạnh phúc mà Ngài đã chia sẻ trong “Bài Giảng Trên Núi”, trong đó bao gồm “Bát Phúc” (Tám Mối Phúc Thật). Chúa Giêsu nói rất rõ đến từng chi tiết về những điều xem chừng rất “ngược đời”, rất “khó lọt tai”, nhưng lại rất hợp lý và thú vị.

1. Về giận ghét. 

Luật Cựu ước: “Không được giết người. Chớ giết người vô tội và người công chính” (Đn 5:17; Đn 13:53). Nhưng Chúa Giêsu dạy: “Ai giận anh em mình thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt. Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình. Anh hãy mau mau dàn xếp với đối phương, khi còn đang trên đường đi với người ấy tới cửa công, kẻo người ấy nộp anh cho quan toà, quan toà lại giao anh cho thuộc hạ, và anh sẽ bị tống ngục. Thầy bảo thật cho anh biết: anh sẽ không ra khỏi đó, trước khi trả hết đồng xu cuối cùng” (Mt 5:22-26; Lc 12:57-59). Như vậy, tội giận ghét người khác cũng giống như tội sát nhân, giết người không cần gươm giáo!

2. Về ngoại tình. 

Luật Cựu ước: “Chớ ngoại tình” (Xh 20:14; Đnl 5:18). Nhưng Chúa Giêsu dạy: “Ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi. Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. Nếu tay phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân phải sa hoả ngục” (Mt 5:28-30).

3. Về ly dị. 

Luật Cựu ước: “Ai rẫy vợ thì phải cho vợ chứng thư ly dị” (Đnl 24:1). Nhưng Chúa Giêsu dạy: “Ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ là đẩy vợ đến chỗ ngoại tình; và ai cưới người đàn bà bị rẫy, thì cũng phạm tội ngoại tình” (Mt 5:31-32; Mt 19:9; Mc 10:11-12; Lc 16:18).

4. Về nhân chứng. 

Luật Cựu ước: “Chớ bội thề, nhưng hãy trọn lời thề với Đức Chúa” (). Nhưng Chúa Giêsu dạy: “Đừng thề chi cả. Đừng chỉ trời mà thề, vì trời là ngai Thiên Chúa. Đừng chỉ đất mà thề, vì đất là bệ dưới chân Người. Đừng chỉ Giêrusalem mà thề, vì đó là thành của Đức Vua cao cả. Đừng chỉ lên đầu mà thề, vì anh không thể làm cho một sợi tóc hoá trắng hay đen được. Nhưng hễ ‘có’ thì phải nói ‘có’, ‘không’ thì phải nói ‘không’. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ” (Mt 5:34-37).

5. Về thù hận.

 

 Luật Cựu ước: “Mắt đền mắt, răng đền răng, mạng đền mạng” (Xh 21:24; Lv 24:20; Đnl 19:21). Nhưng Chúa Giêsu dạy: “Đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài. Nếu có người bắt anh đi một dặm thì hãy đi với người ấy hai dặm. Ai xin thì hãy cho; ai muốn vay mượn thì đừng ngoảnh mặt đi” (Mt 5:39-42; Lc 62:9-30).

Luật Cựu ước: “Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù” (Lv 19:18). Còn Chúa Giêsu dạy: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính. Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi? Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao? Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi thì anh em có làm gì lạ thường đâu? Ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao? Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5:4348; Lc 6:27-28, 32-36).

6. Về nhịn nhục.

 

 Chúa Giêsu dạy: “Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài” (Mt 5:40), “Ai vả anh má bên này, thì hãy giơ cả má bên kia nữa” (Lc 6:29).

7. Về lề luật. 

Chúa Giêsu xác định: “Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 5:20), rồi Ngài vừa dặn dò vừa cảnh báo: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Môsê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn. Vì, Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành. Vậy ai bãi bỏ dù chỉ là một trong những điều răn nhỏ nhất ấy, và dạy người ta làm như thế, thì sẽ bị gọi là kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời. Còn ai tuân hành và dạy làm như thế thì sẽ được gọi là lớn trong Nước Trời” (Mt 5:17-19).

8. Về công chính. 

 

Chúa Giêsu nói: “Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 5:20). Thiên Chúa xác định: “Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế. Vì tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9:13). Như vậy, ai cảm thấy mình đạo đức thì đừng vội “chảnh”, và ai cảm thấy mình tội lỗi thì cũng đừng nản chí sờn lòng.

9. Về công lý. 

Luật Cựu ước: “Ngươi không được phao tin đồn nhảm. Đừng làm chứng gian mà tiếp tay với kẻ xấu. Ngươi không được hùa theo số đông để làm điều trái; trong một vụ kiện, ngươi không được ngả theo số đông mà làm chứng, khiến công lý bị sai lệch. Ngươi không được thiên vị người yếu thế khi họ có việc kiện tụng” (Xh 23:1-3). Chúa Giêsu giải thích: “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình! Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và thành tín. Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ” (Mt 23:23). Công lý là 1 trong 3 điều quan trọng nhất trong luật pháp.

Chúa Giêsu nói với mỗi chúng ta: “Chính anh em là muối cho đời. Nhưng muối mà nhạt đi thì lấy gì muối nó cho mặn lại? Nó đã thành vô dụng thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi. Chính anh em là ánh sáng cho trần gian. Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được. Cũng chẳng có ai thắp đèn rồi lại để dưới cái thùng, nhưng đặt trên đế, và đèn soi chiếu cho mọi người trong nhà. Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5:13-16).

Ngài bảo chúng ta là Muối mặn, là đèn sáng, đồng thời cũng phải là “hạt lúa mì thối trong đất” (Ga 12:24) và là Men giữa đời, nhưng Ngài cũng cảnh báo: “Anh em phải coi chừng, phải đề phòng men Pharisêu và men Hêrôđê!” (Mc 8:15). Và Thánh Phêrô căn dặn: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1 Pr 5:8).

Lạy Thiên Chúa, kẻ thù con đang rình sẵn, xin lấy đức công chính của Ngài mà hướng dẫn con, xin san phẳng lối của Ngài để con tiến bước (Tv 5:9).

TRẦM THIÊN THU

http://translate.google.com/translate?hl=en&sl=vi&tl=en&u=http%3A%2F%2Fkeditim.net

nguồn: từ Maria Thanh Mai gởi

Phê-rô và Phao-lô:

 Phê-rô và Phao-lô:

                                                                                  29 THÁNG SÁU

Chết Cho Đức Tin

Giáo Hội công bố cái chết tử đạo của hai Thánh Tông Đồ Phê-rô và Phao-lô. Và qua việc tưởng niệm cái chết của các ngài, chúng ta cử hành chính cuộc sống của các ngài. Thật vậy, cái chết không phải là kết cục của cuộc sống. Cái chết tựa như dấu ấn cuối cùng mà Thiên Chúa đóng trên toàn bộ cuộc hiện hữu trần thế của con người.

Do đó, cái chết của hai Thánh Tông Đồ Phê-rô và Phao-lô cũng đồng thời trình bày lịch sử đời sống của các ngài. Cuộc sống của mỗi vị càng có ý nghĩa phi thường do bởi mối quan hệ của các ngài với Đức Kitô, Đấng đã gọi các ngài đi theo Người. Đức Kitô đã gọi Simon, con của Giôna, một ngư phủ ở Galilê, và đặt tên cho ông là Phê-rô – nghĩa là “đá”. Người cũng đã gọi Sao-lô thành Tarsus, vốn là một kẻ bách hại các Kitôhữu, và biến ông thành Phao-lô: vị Tông Đồ của các dân ngoại, “một khí cụ do Ta tuyển chọn” (Cv 9,15).

Đời sống của các ngài thật rất phi thường – nhờ ở quyền năng của Chúa Thánh Thần, Đấng đã giúp các ngài làm chứng cho Đức Kitô chịu đóng đanh và phục sinh: “Người sẽ làm chứng về Thầy; cả anh em nữa, cũng làm chứng về Thầy…” (Ga 15,26-27).

Cái chết thảm khốc mà cả Phê-rô và Phao-lô đã trải qua ở Rôma vào thời Nê-ron chính là tiếng nói cuối cùng của chứng tá ấy. Cái chết của các ngài – cái chết đổ máu vì đức tin – là sự hoàn thành trọn vẹn sứ mạng làm chứng của các ngài. Chính vì cái chết tử đạo ấy mà các ngài vẫn còn sống mãi một cách đặc biệt trong sự tưởng niệm của Giáo Hội. Trước hết, các ngài vẫn tiếp tục sống trong Thiên Chúa, Đấng “không phải là Thiên Chúa của kẻ chết nhưng là Thiên Chúa của người sống” (Mt 22,32). Các ngài vẫn sống trong Thiên Chúa cũng như tất cả chúng ta hiện đang sống trong Thiên Chúa.

Nguồn: từ Maria Thanh Mai gởi

Lời Lành Mẹ Khuyên Con Cái

Lời Lành Mẹ Khuyên Con Cái

(Hạnh Phúc Gia Đình)

                                                                                     Y Tá Của Chúa,

                                                                                            Tuyết Mai
Thật hạnh phúc cho tôi được con gái cùng đi ăn sáng với mẹ, vì đây là cháu gái thứ của tôi.   Cháu này tánh tình kín đáo hơn là chị cả của nó!.   Hỏi cháu nó mới nói hoặc cảm thấy rất cần sự giúp đỡ của mẹ nhất thời thì cháu mới hỏi và mới chịu nói.   Đề tài sáng nay cháu cho tôi biết là cháu có ý định đi làm việc thiện nguyện nhưng không giống như của chị cháu là giúp người homeless.   Cháu sẽ xin đi dậy học mùa hè này tại trường tiểu học gần nhà, không lương.  

Cháu có khuynh hướng thích được dậy học vì ngành tương lai của cháu là sẽ đi dậy học.   Hiện cháu cũng đang học trên trường đại học 4 năm và sẽ ra trường mùa Xuân tới này trong ngành giáo dục.   Cháu cũng đang được trường đại học nhận cho dậy học bán thời gian cho những học sinh từ trung học mới lên, đang có cơ hội bị đuổi học vì có điểm thấp.   Cháu cũng đang dậy học bán thời gian tại trường tiểu học gần nhà và rất có cơ hội tương lai sẽ được nhận dậy tại trường này!.

Những giấc mơ của cháu về ngành giáo dục cũng làm cho tôi rất vui mừng, vì cháu thích dậy học sinh ở lứa tuổi còn dậy được, và còn có thay đổi được.   Cháu định bỏ thời giờ đi dậy học free trong thời gian hè cháu chưa trở lại trường.   Cháu yêu học trò lắm! Chắc hẳn Chúa đã sắp xếp và dự định tương lai cho cháu.   Chí hướng của cháu là được dậy, với cách thức dậy học của cháu như Chúa ban cho từ bẩm sinh nên ai cũng yêu thương cháu.   Không hiểu sao mà học trò đứa nào nó cũng bám cháu như sam?.   Học trò lớn trên đại học chúng cũng rất quý mến và học trò tiểu học chúng cũng không rời.   Có phải đó là hướng đi rất tốt cho cháu??.   Và tôi rất đồng ý.

Thường thì đi làm việc mà không có tiền thì ít ai chịu làm thưa có phải?.   Nhưng tôi khuyên cháu nên mạnh dạn vì thứ nhất học trò chúng mời gọi và rất luyến lưu khi mùa hè đến mà cô giáo vắng mặt.   Chúng đã mời cô giáo đến chung vui với chúng trong ngày mãn khóa của lớp 5 là lớp chót của trường tiểu học.   Rồi chúng mời cô đến thăm chúng vì chúng có khóa học hè.   Rồi cô thì cũng mến tay mến chân chúng, cho dù cô vẫn phải đi làm bán thời gian cho tiệm bán cà rem Baskin Robins.  

Tôi khuyên cháu làm việc gì thiện nguyện cũng tốt cả con à! Miễn là việc ấy rất có ý nghĩa.   Không ý nghĩa sao được con, khi mà con có thể làm cho chúng con nít chúng được an ủi trong gia đình mà tổ ấm không có.   Không ý nghĩa sao được khi mà Chúa cho con trái tim biết rung động muốn cho thế hệ trẻ chúng có tình thương và được trở nên con người tốt cho chính chúng, gia đình, và cho xã hội.   Cái nghĩa dậy học chẳng phải ai làm thầy cô cũng có đâu, hiếm lắm con ạ!.   Do đó mẹ rất vui mừng khi con muốn tìm những việc như vậy để làm.   Chứ ở nhà con có làm gì cho ích lợi đâu, và làm việc thì buổi chiều tối con mới phải đi.   Cô giáo mà xin việc không lương thì chẳng trường nào từ chối và con nên nhớ một điều rất quan trọng là con càng làm nhiều giờ thiện nguyện, càng làm nhiều nơi, thì sự kiếm việc làm trong tương lai của con không là trở ngại và không là khó khăn.   Vì có phải con đã cho họ cơ hội biết mặt con, biết khả năng của con, và yêu mến con cách đặc biệt nếu có??.

Tôi yêu lắm các con tôi khi chúng là niềm vui của con nít.   Vì con nít thời nay chúng rất thiếu tình thương yêu của cha mẹ chúng nơi mà gọi là mái ấm gia đình.   Đồng ý rất nhiều người ngày nay tiền không phải là vấn đề thưa anh chị em!.   Cả hai vợ chồng có bằng cấp và đi làm thì họ thuộc cấp trung lưu hạng cao.   Bên Mỹ đây họ cũng mướn được người làm để đón đưa con của họ đi học và về.   Đưa đi học thêm nào là học đàn dương cầm, hội họa, ca múa, và v.v… Nhưng thiếu hẳn tình thương của cha mẹ.   Từ đó những đứa trẻ này trở thành khó dậy và không người dậy dỗ đúng đắn, vì chúng đòi thì sẽ được, chúng khóc thì càng được chìu chuộng nhiều hơn.   Thưa vì cha mẹ chúng cảm thấy (guilty) thiếu bổn phận và thời giờ cho chúng!.

Vì muốn tất cả tương lai con trẻ được lành mạnh, tôi khuyên các con tôi hãy làm việc gì đó nếu có thể, để chúng trẻ hiểu biết hơn, và sống lành mạnh hơn là cuộc sống ích kỷ chỉ biết đòi đồ chơi mắc tiền và những cái chơi có hại.   Tôi khuyên bảo các con tôi là mẹ rất vui và rất hạnh phúc khi cuộc đời của các con biết nghĩ đến người.   Vâng, đương nhiên Chúa ban cho mỗi người mỗi cách yêu người khác nhau!.   Con thì thích dậy dỗ chúng trẻ, yêu thương chúng trẻ, và tích cực xây dựng tương lai cho chúng.   Trong khi ấy thì chị con như Chúa ban cho chị một sức khỏe phi thường là rất mạnh mẽ trong cái đầu và trái tim của nó.

Mẹ rất mừng là Chúa ban cho nhà ta cái hạnh phúc đến từ Trời như thế!.   Những gì Chúa ban cho nhà ta tuy ngẩng lên thì không bằng ai nhưng sự An Bình là quý hơn hết thảy!.   Mẹ cảm ơn con sự chia sẻ đó và đừng e ngại khi con so sánh với chị con vì Chúa ban cho mỗi người mỗi tánh, mỗi khả năng, và mỗi cách thương người riêng.   Chị con thì Chúa ban cho nó sống với người ngoài đời nhiều hơn là trong nhà, cho nên mẹ không màng mà làm dùm nó tất cả những việc vặt vẵn trong nhà đâu! Vì chị con nó không có giờ.

Riêng tôi thầm cảm tạ Thiên Chúa thật nhiều đã ban cho cháu Bảo Hạnh là chị cả trong nhà.   Cháu, Chúa ban cho không được mạnh mẽ trong vấn đề học vấn nên giờ này vẫn còn học thua kém em và còn lận đận.   Chúa ban cho cháu cái dạ dầy không được mạnh mẽ nên ăn gì cháu cũng bị đau bụng, có khi quặn đau và vật vã cả người, bệnh này cháu có từ hồi tiểu học lận.   Cháu chịu đựng được tất cả cái đau bên ngoài dù trầy trụa, bầm tím, và bỏng chân, nhưng cái đau bên trong của cháu thì cháu không chịu được.  

Trước đây hai em của cháu rất khi dể chị của chúng nhất là trước đám bạn của các em, nhưng nay chúng nhìn chị nó bằng ánh mắt khác lắm rồi! Vì nay chúng hiểu chị nó có chứng bệnh chậm lớn slow development, nhưng nhẹ thôi!.   Tôi thỉnh thoảng vẫn còn chọc cháu Bảo Hạnh trước mặt các em của nó nhưng thằng cu em cháu bênh chị rất là mạnh mẽ.   Cháu bảo chị nó đâu có khùng.   Khùng gì mà làm được bao nhiêu chuyện mà một người gọi bình thường không thể?.   Khùng gì mà chị vừa đi làm ba nơi giúp nuôi cả nhà, đi học tập trong lính, đi học full time, và còn giờ để đi làm việc thiện nguyện???.  

Quả công nhận cái khùng của cháu Bảo Hạnh rõ ràng Chúa ban ơn cho chứ ít ai có thể cáng đáng cho nổi vì cháu bị bệnh đau bụng trường kỳ và không phải nhẹ.   Rồi nay cháu sau khi bỏ tập lính thì vào chương trình của Coast Guard (giữ an ninh trên bờ biển) để làm việc thiện nguyện.   Nhưng trước cháu phải học qua khóa training cả ngày vào mỗi ngày thứ Bẩy.   Sức vóc của cháu bề ngoài thì khỏe lắm nhưng ai quen cháu cũng đều biết cháu có cái bụng rất yếu và rất bệnh.

Tôi rất trân quý các việc thiện nguyện các con tôi làm và tôi rất hãnh diện về chúng.   Tôi luôn nhắc nhở chúng là việc làm của mình sẽ luôn được Thiên Chúa trả công, và đừng tính lời lãi với Chúa.   Hãy trải rộng tấm lòng của mình ra thì sẽ nhận ngược lại biết bao nhiêu điều lành mà Chúa ban cho chúng ta hằng ngày rất nhưng không.   Những điều mình cảm nhận được và cả những điều mình không cảm nhận được.   Những gì mình có thể sờ được và cả những gì mình không có thể sờ được.

Được đi cả buổi sáng với con gái của tôi là điều tôi sung sướng và hạnh phúc trong lòng vô cùng.   Vì như giọt nước “trong lành” được chứa đựng trong ly sẽ không bị rơi vãi và càng nhiều giọt nước như thế, tương lai cháu sẽ có thể chia sẻ với người khác.   Trong gia đình của chúng tôi thì mỗi người đều có mang một chứng bệnh khác nhau, mà không bệnh nào là nhẹ cả!.   Có bệnh thì trong thân xác và có bệnh thì ảnh hưởng đến tinh thần.   Nhưng cảm tạ Chúa hằng ngày Người vẫn chăm sóc chúng tôi thật chu đáo và thật đầy đủ.   Người đã tăng sức mạnh từ Trên để chúng tôi có thể chịu đựng được và xin cho được theo Thánh Ý Chúa cho nên.   Cảm tạ Chúa đến muôn muôn đời.   Amen.

** Xin bấm vào mã số dưới đây để hát theo:

     http://www.youtube.com/watch?v=YVmuJaPdSrk

     (Xin Như Tông Đồ Ngài)

Y Tá Của Chúa,

Tuyết Mai

(06-29-12)

Thánh Antôn Maria Giacaria, Linh mục

 Thánh Antôn Maria Giacaria, Linh mục

                                                                          Ngày 5/7

                                 

 Thánh Antôn Maria Giacaria sinh năm 1502 tại Grêmôna, cha Ngài mất sớm. Mẹ Ngài, người góa phụ trẻ 18 tuổi không còn biết tới hạnh phúc nào hơn trên trần gian là đào tạo tâm hồn người con nhỏ của mình. Thấy con thích làm việc hơn là chơi giỡn và biết kiên trì hy sinh hãm mình, bà rất mừng rỡ, chính bà cũng phát huy tình bác ái đối với người nghèo khổ để làm gương cho con.

Thành Grêmôna nơi Antôn sinh trưởng vừa mới hết chiến tranh. Sau cuộc chiếm đóng của người Pháp, dân thành lại phải chiến đấu với Ludorse Sforza. Tình cảnh thật khốn khổ. Ngày kia trên đường đi học về, cậu bé Antôn đã cởi tấm áo thêu của mình cho người nghèo mặc. Thấy vậy, người mẹ đã âu yếm ôm con vào lòng. Từ đó Antôn xin mẹ cho mình được ăn mặc bình thường, có khi còn nhịn phần ăn cho người nghèo nữa.

Thân mẫu Antôn đã chọn cho Ngài những bậc thầy nổi danh về văn chương Hy lạp và Latinh. Vào tuổi 15, Antôn đã theo môn triết học ở Pavie, rồi lại theo đuổi y học ở Padua. Ở đại học người ta chế nhạo nếp sống nghèo khó của Ngài. Tốt nghiệp bằng tiến sĩ hạng ưu, Ngài được rất nhiều khách hàng tín nhiệm. Nhưng Antôn bỏ nghề thuốc để theo môn thần học.

Antôn Giacaria bắt đầu tụ tập trẻ em lại, Ngài nói cho chúng nghe về các chân lý cao trọng. Cha mẹ chúng cũng thường tới nghe dạy. Họ nói: Nào chúng mình đến nghe thiên thần của Chúa.

Tay cầm thánh giá, thánh nhân rảo qua khắp các đường phố nói về ơn cứu chuộc và việc thống hối. Nơi nào bị chế nhạo, bị xỉ nhục, Ngài càng năng lui tới hơn.

Năm 1528, lúc được 36 tuổi, Antôn được thụ phong Linh mục. Ngài đến ở Milan, thăm viếng các người đau khổ trong các nhà thương, nhà tù, nơi các xóm nghèo. Các nghĩa cử Ngài làm đã mang lại cho Ngài danh hiệu “người cha dân tộc”. Ngài ngồi tòa hàng giờ để phục sinh các linh hồn. Ngài chống lại phái thệ phản và đối đầu với bất cứ ai muốn tấn công đức tin tinh tuyền. Cha Antôn có hai người bạn tông đồ là Mariggia và Ferrari. Đức Giáo hoàng truyền cho các Ngài lập một hội dòng mới, các tu sĩ dòng thánh Phaolô. Các Ngài được trao cho việc coi sóc thánh đường thánh Barnabê, nên người ta gọi các Ngài là các cha Barnabê.

Thánh Antôn Maria Giacaria thường nói với các môn sinh:
– “Đặc tính của những tâm hồn đại lượng là phục vụ không mong phần thưởng, chiến đấu không chờ lương bổng. Hãy tiến tới không ngừng và hướng tới sự hoàn thiện cao cả hơn. Hãy nói với Chúa Giêsu bị đóng đinh về tất cả những gì bạn thấy và lãnh ý Người, cho mình và cho người khác”.

Ngài dạy họ phải quen với những phỉ báng khinh miệt nhưng không làm được nếu không hướng trọn ý tưởng về với Chúa. Thánh nhân còn dẫn anh em rảo qua đường phố bằng cách vác Thánh giá mà rao giảng. Họ còn tự động cột giây vào cổ, làm những việc nặng nhọc và một số khác còn đi ăn xin cho người nghèo. Thấy vậy, nhiều người thống hối và cải thiện đời sống. Thánh Antôn còn cổ động lòng sùng kính Thánh Thể khuyên năng rước lễ hơn. Thời đó người ta chỉ rước lễ một hai lần trong năm. Trước sự đổi mới này, nhiều người coi sự nhiệt thành của Ngài là cuồng tín dị đoan. Thánh nhân vẫn an lòng và cảm nghiệm điều Ngài thường nói:
– Bạn sẽ được tháp nhập vào Chúa đến độ không còn lo tưởng đến những sự trên thế gian này nữa.
Năm 1930, Ngài giúp nữ công tước Torelli thành lập một hội dòng nữ. Đức Giáo hoàng Phaolô III đã chuẩn y hội dòng này và đặt tên là “Dòng chị em các thiên thần”.

Năm 1536, cha Antôn Giacaria từ chức bề trên nhà dòng mà Ngài đã giữ từ đầu để đi truyền giáo. Ngài rao giảng Phúc âm và giải hòa các cuộc tranh chấp. Công việc thật bề bộn, không thể lường trước được, dầu vậy thánh nhân vẫn trung thành với tác vụ, các cuộc tĩnh tâm và thư tín. Tuy nhiên lần này, tại Guastalla, thánh nhân đã kiệt sức. Xa các môn sinh, Ngài lui về với thân mẫu. Bà khóc lóc khi thấy con. Nhưng Antôn nói:
– Mẹ ơi! Mẹ đừng khóc nữa. Chẳng bao lâu rồi mẹ cũng được vui mừng với con trong vinh quang bất tận mà bây giờ con đang tiến vào.

Ba giờ chiều ngày 5 tháng 7 năm 1539, Linh mục trẻ 37 tuổi Antôn Maria Giacaria thở hơi cuối cùng trong tay mẹ hiền.
Thánh Antôn Maria Giacaria là mẫu gương cho chúng ta về nhiệt huyết tông đồ. Xin Chúa ban cho chúng ta cũng biết noi gương thánh nhân, luôn hăng say nhiệt thành trong công cuộc truyền giáo.

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

NGƯỜI ĐẠO PHẬT LẦN CHUỖI MÂN CÔI

NGƯỜI ĐẠO PHẬT LẦN CHUỖI MÂN CÔI

                                                                              trích: memaria.org

Anh Phan Tiến Quá – một người Phật giáo, từng là chuyên viên phụ trách âm thanh ánh sáng tại  tụ điểm ca nhạc126 nổi tiếng và rất quen thuộc trong giới trẻ tại TP. HCM. Đất nước hội nhập với nền kinh tế thế giới, nhiều tập đoàn lớn của nước ngoài vào làm ăn tại Việt Nam. Anh Quá có cơ hội đến làm việc cho một siêu thị lớn, cuộc đời anh vì thế mà thay đổi hòan toàn.

Khi còn lãnh đồng lương khiêm tốn, anh có đời sống khép kín, ít giao tiếp và rất yêu thương vợ con. Nhưng kinh tế khá lên, thì anh bắt đầu cởi mở hơn, giao lưu nhiều hơn với bạn bè. Muốn làm ăn thì phải là tay sành điệu, sành điệu với bạn bè và sành điệu trong ánh mắt các em ….gà móng đỏ ! Các quán bia ôm là địa chỉ anh thường xuyên lui tới. Vợ anh đau khổ vật vã vì người chồng phản bội nhưng chị không sao kéo anh về với gia đình được.

Bất ngờ anh mất việc, tiền bạc vì thế mà cạn kiệt dần, nợ nần chồng chất, không lối thoát. Anh trở nên gánh nặng cho người vợ mà anh từng nhẫn tâm phản bội. Mỗi ngày qua đi là một nỗi đau dày xé lương tâm anh. Qua bao đêm dày vò, thao thức, anh quyết định tự tử và xin hiến xác cho khoa học. Ít ra, anh nghĩ rằng, như thế là anh làm được một việc có ích cho đời sau khi chết ! Vợ con anh không còn phải chịu đựng người chồng khốn nạn này nữa! Và cái ngày định mệnh ấy đã đến ……..

Ngày 13/07/2006, anh bỏ nhà ra đi từ rất sớm để thực hiện ý định tự vẫn. Anh đi lang thang vô định, thẫn thờ không biết đi đâu, về đâu ! Gia đình cuống cuồng tìm kiếm nhưng vô ích ! Nhiều lần gọi điện thoại cho anh, chỉ nhận được những tiếng trả lời ò í e… anh đã tắt máy di động rồi ! Càng hoảng sợ, càng không biết làm gì, nhất là vợ con anh, họ chỉ biết ôm mặt mà khóc, kinh hoàng nghĩ đến giờ phút nhận xác của anh trở về !

Thật may mắn, anh có người em cột chèo có đạo, hiền lành và rất thật thà, cô em vợ tân tòng tốt bụng này hay giúp đỡ gia đình anh. Anh yêu mến họ mọi điều, duy chỉ có một điều anh không thích là họ đọc kinh Kính mừng hàng ngày. Anh rất ghét khi họ cầm Chuỗi Mân Côi, miệng thì nhai nhải câu “Kính mừng Maria” …. Anh có ngờ đâu, lúc này chỉ có cặp vợ chồng này nhờ kinh Kính Mừng và chuỗi Lòng Thương Xót, họ cầu nguyện liên lỉ xin Chúa và Mẹ Maria cứu anh thoát khỏi bóng đen của tử thần.

Điều kỳ diệu đã xảy ra, lúc 16:30 chiều, anh mở máy di động và vợ anh đã khóc thảm thiết xin anh nghĩ đến gia đình mà trở về nhà với họ và anh đã xiêu lòng …. Anh trở về trong trạng thái tuyệt vọng. Gia đình anh quá đỗi vui mừng vì anh vẫn còn sống, nhưng phần anh thì ngơ ngác, chán chường. Sáng hôm sau là ngày 14/07/2007, Nguyễn Thế Hùng, người em cột chèo của anh, đã nói vào tai anh :

– ‘’Anh Quá, anh theo tôi, tôi sẽ chỉ cho một người có thể giúp anh trong lúc này’’.

– ‘’ Ừ, đi thì đi’’, anh Quá trả lời.

Hai anh em đến nhóm cầu nguyện Đức Mẹ Mễdu. Đến nơi, Hùng chỉ lên bàn thờ có tượng Đức Mẹ Mễ du, và nói :

– “Anh Quá, bây giờ chỉ có Bà đó mới giúp anh được. Anh hãy qùi xuống và cầu xin Bà ấy đi’’.

Vừa thấy tượng Đức Mẹ Mễdu, như có một sức mạnh vô hình thúc đẩy, anh qùi xuống thầm thì thưa chuyện với Mẹ. Anh say xưa thổ lộ tất cả những ưu tư phiền muộn của anh với Mẹ. Anh nói hết về gia đình anh, bạn bè anh, về thân xác khốn khổ của anh. Bao nhiêu nỗi đắng cay của cuộc đời anh tâm sự hết với Mẹ, anh khẩn thiết xin Mẹ giúp đỡ anh và gia đình anh vượt qua cơn khốn khó này.

Một điều kỳ lạ đã xảy ra : Anh qùi gối suốt hai tiếng đồng hồ bên Mẹ mà không mệt. Đầu gối chưa bao giờ qùi nhưng lại  chịu đựng được cơn đau suốt 120 phút ! Anh Hùng rất đỗi kinh ngạc, vì đã từng dặn rằng : “Nếu anh Quá qùi không được và cảm thấy khó chịu ở trước Nhà Chầu thì anh cứ ra ngoài chờ, khi nào em cầu nguyện xong thì hai anh em cùng về”. Nào ngờ, Quá không bỏ ra giữa chừng mà đắm chìm trong vòng tay yêu thương của Mẹ suốt 2 giờ cầu nguyện Đức Mẹ Mễdu. Anh Quá dường như đã trút được một gánh nặng đè trĩu trong lòng bao năm qua. Chưa bao giờ anh cảm thấy bình an và thanh thản như lúc này. Tâm hồn lâng lâng, tràn ngập một niềm vui khó tả.

Trở về nhà, anh bắt đầu thấy thấm mệt qua bao đêm mất ngủ, anh thèm được ngủ như chưa bao giờ được ngủ và anh thiếp đi trong ánh mắt bừng cháy niềm tin của những người thân yêu trong gia đình. Vừa chợp mắt được một chút thì anh mơ thấy Một Bà rất đẹp hiện đến và dẫn anh đến nhà thờ Huyện Sỹ (Saigon). Bà đưa anh đến núi Đức Mẹ, rồi biến mất. Anh choàng tỉnh giấc và bàng hoàng kinh ngạc về giấc mơ của mình. Anh quyết định đến Nhà Thờ lúc đó gần ba giờ chiều – giờ của lòng thương xót vĩ đại tuôn đổ xuống nhân loại. Anh nhận ra ý của Mẹ : Mẹ dẫn anh đến Lòng Thương Xót của Chúa.

Kể từ đó anh bắt đầu học cách cầu nguyện bằng chuỗi Mân Côi và lần Chuỗi Thương Xót mỗi ba giờ chiều. Kinh Kính Mừng ngày xưa anh ghét cay ghét đắng, nay anh lại dùng chính kinh Mân Côi này để tâm tình say xưa với Mẹ. Mỗi ngày qua đi là một niềm vui. Anh tham gia nhóm cầu nguyện Đức Mẹ Mễdu mỗi tối thứ tư hàng tuần tại nhà thờ Huyện Sỹ. Anh không còn làm cho tụ điểm ca nhạc 126 nữa, nhưng anh trở thành chuyên viên nhiệt thành về âm thanh ánh sáng cho cộng đoàn Mễdu. Anh vẫn là Phật tử nhưng anh đã lần đủ ba chuỗi Kinh Mân Côi, tham dự Thánh Lễ mỗi ngày mà chỉ rước lễ thiêng liêng, đọc Kinh Thánh hằng đêm để nghiền ngẫm và suy niệm Lời Chúa, ăn chay thứ tư và thứ sáu.

Anh ước ao, người vợ thân thương của anh cũng đón nhận đức tin như anh. Trong những lần cầu nguyện, anh dâng ý chỉ này cho Mẹ, cầu xin Mẹ giúp anh. Anh rất đỗi vui mừng vì căn bệnh xuất huyết hậu môn bác sỹ đã chê từ nhiều năm, nay tự nhiên biến mất, điều lạ lùng là anh không hề xin Chúa chữa lành. Người vợ cứng lòng đã nhiều lần thất hứa với Mẹ thì nay vui vẻ song hành với anh đi cầu nguyện và tham dự Thánh Lễ hàng ngày.

Một người đạo Phật đi cầu nguyện không dễ bao giờ, anh gặp rất nhiều trở ngại, có lần anh sắp sửa đi làm chứng cho Chúa thì bị vật té sấp mặt từ cầu thang xuống đất ! Anh bị bất tỉnh, mê man nhưng khi hồi tỉnh anh vẫn liên lỉ cầu nguyện và cuối cùng anh lại đến được với Chúa. Có điều kỳ lạ,̣ là trước mỗi Thánh Lễ anh hay bị sốt khiến anh không thể tham dự Thánh Lễ được. Không vì thế mà anh chùn bước, anh lần chuỗi nhiều hơn, tất cả nỗi đau thể xác anh dâng hết cho Mẹ và Mẹ đã cứu chữa anh. Đức tin của anh ngày một lớn mạnh hơn.

Anh càng hạnh phúc hơn nữa vì ngày 5/5/2007 vợ chồng anh chính thức được làm con Chúa và ngày 6/5/2007 sau khi chịu bí tích hôn phối anh chị đã tổ chức một đám cưới tuy khiêm tốn nhưng ấm cúng. Bạn bè vây quanh chúc cho họ hạnh phúc mãi mãi trong tình yêu Thiên Chúa. Anh chị nghẹn ngào trong niềm vui vô tận :

“Vợ chồng em phó thác hết cho Chúa, tất cả những gì chúng em có là của Chúa. Chúng em không giàu có về vật chất, nhưng đời sống tâm linh của chúng em rất thỏa mái và tròn đầy. Chúng em được đón rước Chúa vào tâm hồn mỗi ngày. Có Chúa là chúng em có tất cả. Chúa là tài sản qúi giá nhất của gia đình chúng em. Sau mấy chục năm chung sống, giờ đây gia đình em mới cảm nghiệm được thế nào là bình an, thế nào là hạnh phúc đích thực! ‘’.

Nguyện xin Mẹ Maria cầu bầu cho gia đình anh chị để họ luôn mãi là ánh sao rực sáng dẫn đường cho nhiều con chiên lạc, đang bước đi trong bóng đêm tội lỗi của thế giới hôm nay. 

Một người con yêu mến Mẹ Mễdu,
Giuse Nguyễn Lê ghi ( .)

NGƯỜI ĐẠO PHẬT LẦN CHUỖI MÂN CÔI

Anh Phan Tiến Quá – một người Phật giáo, từng là chuyên viên phụ trách âm thanh ánh sáng tại  tụ điểm ca nhạc126 nổi tiếng và rất quen thuộc trong giới trẻ tại TP. HCM. Đất nước hội nhập với nền kinh tế thế giới, nhiều tập đoàn lớn của nước ngoài vào làm ăn tại Việt Nam. Anh Quá có cơ hội đến làm việc cho một siêu thị lớn, cuộc đời anh vì thế mà thay đổi hòan toàn.

Khi còn lãnh đồng lương khiêm tốn, anh có đời sống khép kín, ít giao tiếp và rất yêu thương vợ con. Nhưng kinh tế khá lên, thì anh bắt đầu cởi mở hơn, giao lưu nhiều hơn với bạn bè. Muốn làm ăn thì phải là tay sành điệu, sành điệu với bạn bè và sành điệu trong ánh mắt các em ….gà móng đỏ ! Các quán bia ôm là địa chỉ anh thường xuyên lui tới. Vợ anh đau khổ vật vã vì người chồng phản bội nhưng chị không sao kéo anh về với gia đình được.

Bất ngờ anh mất việc, tiền bạc vì thế mà cạn kiệt dần, nợ nần chồng chất, không lối thoát. Anh trở nên gánh nặng cho người vợ mà anh từng nhẫn tâm phản bội. Mỗi ngày qua đi là một nỗi đau dày xé lương tâm anh. Qua bao đêm dày vò, thao thức, anh quyết định tự tử và xin hiến xác cho khoa học. Ít ra, anh nghĩ rằng, như thế là anh làm được một việc có ích cho đời sau khi chết ! Vợ con anh không còn phải chịu đựng người chồng khốn nạn này nữa! Và cái ngày định mệnh ấy đã đến ……..

Ngày 13/07/2006, anh bỏ nhà ra đi từ rất sớm để thực hiện ý định tự vẫn. Anh đi lang thang vô định, thẫn thờ không biết đi đâu, về đâu ! Gia đình cuống cuồng tìm kiếm nhưng vô ích ! Nhiều lần gọi điện thoại cho anh, chỉ nhận được những tiếng trả lời ò í e… anh đã tắt máy di động rồi ! Càng hoảng sợ, càng không biết làm gì, nhất là vợ con anh, họ chỉ biết ôm mặt mà khóc, kinh hoàng nghĩ đến giờ phút nhận xác của anh trở về !

Thật may mắn, anh có người em cột chèo có đạo, hiền lành và rất thật thà, cô em vợ tân tòng tốt bụng này hay giúp đỡ gia đình anh. Anh yêu mến họ mọi điều, duy chỉ có một điều anh không thích là họ đọc kinh Kính mừng hàng ngày. Anh rất ghét khi họ cầm Chuỗi Mân Côi, miệng thì nhai nhải câu “Kính mừng Maria” …. Anh có ngờ đâu, lúc này chỉ có cặp vợ chồng này nhờ kinh Kính Mừng và chuỗi Lòng Thương Xót, họ cầu nguyện liên lỉ xin Chúa và Mẹ Maria cứu anh thoát khỏi bóng đen của tử thần.

Điều kỳ diệu đã xảy ra, lúc 16:30 chiều, anh mở máy di động và vợ anh đã khóc thảm thiết xin anh nghĩ đến gia đình mà trở về nhà với họ và anh đã xiêu lòng …. Anh trở về trong trạng thái tuyệt vọng. Gia đình anh quá đỗi vui mừng vì anh vẫn còn sống, nhưng phần anh thì ngơ ngác, chán chường. Sáng hôm sau là ngày 14/07/2007, Nguyễn Thế Hùng, người em cột chèo của anh, đã nói vào tai anh :

– ‘’Anh Quá, anh theo tôi, tôi sẽ chỉ cho một người có thể giúp anh trong lúc này’’.

– ‘’ Ừ, đi thì đi’’, anh Quá trả lời.

Hai anh em đến nhóm cầu nguyện Đức Mẹ Mễdu. Đến nơi, Hùng chỉ lên bàn thờ có tượng Đức Mẹ Mễ du, và nói :

– “Anh Quá, bây giờ chỉ có Bà đó mới giúp anh được. Anh hãy qùi xuống và cầu xin Bà ấy đi’’.

Vừa thấy tượng Đức Mẹ Mễdu, như có một sức mạnh vô hình thúc đẩy, anh qùi xuống thầm thì thưa chuyện với Mẹ. Anh say xưa thổ lộ tất cả những ưu tư phiền muộn của anh với Mẹ. Anh nói hết về gia đình anh, bạn bè anh, về thân xác khốn khổ của anh. Bao nhiêu nỗi đắng cay của cuộc đời anh tâm sự hết với Mẹ, anh khẩn thiết xin Mẹ giúp đỡ anh và gia đình anh vượt qua cơn khốn khó này.

Một điều kỳ lạ đã xảy ra : Anh qùi gối suốt hai tiếng đồng hồ bên Mẹ mà không mệt. Đầu gối chưa bao giờ qùi nhưng lại  chịu đựng được cơn đau suốt 120 phút ! Anh Hùng rất đỗi kinh ngạc, vì đã từng dặn rằng : “Nếu anh Quá qùi không được và cảm thấy khó chịu ở trước Nhà Chầu thì anh cứ ra ngoài chờ, khi nào em cầu nguyện xong thì hai anh em cùng về”. Nào ngờ, Quá không bỏ ra giữa chừng mà đắm chìm trong vòng tay yêu thương của Mẹ suốt 2 giờ cầu nguyện Đức Mẹ Mễdu. Anh Quá dường như đã trút được một gánh nặng đè trĩu trong lòng bao năm qua. Chưa bao giờ anh cảm thấy bình an và thanh thản như lúc này. Tâm hồn lâng lâng, tràn ngập một niềm vui khó tả.

Trở về nhà, anh bắt đầu thấy thấm mệt qua bao đêm mất ngủ, anh thèm được ngủ như chưa bao giờ được ngủ và anh thiếp đi trong ánh mắt bừng cháy niềm tin của những người thân yêu trong gia đình. Vừa chợp mắt được một chút thì anh mơ thấy Một Bà rất đẹp hiện đến và dẫn anh đến nhà thờ Huyện Sỹ (Saigon). Bà đưa anh đến núi Đức Mẹ, rồi biến mất. Anh choàng tỉnh giấc và bàng hoàng kinh ngạc về giấc mơ của mình. Anh quyết định đến Nhà Thờ lúc đó gần ba giờ chiều – giờ của lòng thương xót vĩ đại tuôn đổ xuống nhân loại. Anh nhận ra ý của Mẹ : Mẹ dẫn anh đến Lòng Thương Xót của Chúa.

Kể từ đó anh bắt đầu học cách cầu nguyện bằng chuỗi Mân Côi và lần Chuỗi Thương Xót mỗi ba giờ chiều. Kinh Kính Mừng ngày xưa anh ghét cay ghét đắng, nay anh lại dùng chính kinh Mân Côi này để tâm tình say xưa với Mẹ. Mỗi ngày qua đi là một niềm vui. Anh tham gia nhóm cầu nguyện Đức Mẹ Mễdu mỗi tối thứ tư hàng tuần tại nhà thờ Huyện Sỹ. Anh không còn làm cho tụ điểm ca nhạc 126 nữa, nhưng anh trở thành chuyên viên nhiệt thành về âm thanh ánh sáng cho cộng đoàn Mễdu. Anh vẫn là Phật tử nhưng anh đã lần đủ ba chuỗi Kinh Mân Côi, tham dự Thánh Lễ mỗi ngày mà chỉ rước lễ thiêng liêng, đọc Kinh Thánh hằng đêm để nghiền ngẫm và suy niệm Lời Chúa, ăn chay thứ tư và thứ sáu.

Anh ước ao, người vợ thân thương của anh cũng đón nhận đức tin như anh. Trong những lần cầu nguyện, anh dâng ý chỉ này cho Mẹ, cầu xin Mẹ giúp anh. Anh rất đỗi vui mừng vì căn bệnh xuất huyết hậu môn bác sỹ đã chê từ nhiều năm, nay tự nhiên biến mất, điều lạ lùng là anh không hề xin Chúa chữa lành. Người vợ cứng lòng đã nhiều lần thất hứa với Mẹ thì nay vui vẻ song hành với anh đi cầu nguyện và tham dự Thánh Lễ hàng ngày.

Một người đạo Phật đi cầu nguyện không dễ bao giờ, anh gặp rất nhiều trở ngại, có lần anh sắp sửa đi làm chứng cho Chúa thì bị vật té sấp mặt từ cầu thang xuống đất ! Anh bị bất tỉnh, mê man nhưng khi hồi tỉnh anh vẫn liên lỉ cầu nguyện và cuối cùng anh lại đến được với Chúa. Có điều kỳ lạ,̣ là trước mỗi Thánh Lễ anh hay bị sốt khiến anh không thể tham dự Thánh Lễ được. Không vì thế mà anh chùn bước, anh lần chuỗi nhiều hơn, tất cả nỗi đau thể xác anh dâng hết cho Mẹ và Mẹ đã cứu chữa anh. Đức tin của anh ngày một lớn mạnh hơn.

Anh càng hạnh phúc hơn nữa vì ngày 5/5/2007 vợ chồng anh chính thức được làm con Chúa và ngày 6/5/2007 sau khi chịu bí tích hôn phối anh chị đã tổ chức một đám cưới tuy khiêm tốn nhưng ấm cúng. Bạn bè vây quanh chúc cho họ hạnh phúc mãi mãi trong tình yêu Thiên Chúa. Anh chị nghẹn ngào trong niềm vui vô tận :

“Vợ chồng em phó thác hết cho Chúa, tất cả những gì chúng em có là của Chúa. Chúng em không giàu có về vật chất, nhưng đời sống tâm linh của chúng em rất thỏa mái và tròn đầy. Chúng em được đón rước Chúa vào tâm hồn mỗi ngày. Có Chúa là chúng em có tất cả. Chúa là tài sản qúi giá nhất của gia đình chúng em. Sau mấy chục năm chung sống, giờ đây gia đình em mới cảm nghiệm được thế nào là bình an, thế nào là hạnh phúc đích thực! ‘’.

Nguyện xin Mẹ Maria cầu bầu cho gia đình anh chị để họ luôn mãi là ánh sao rực sáng dẫn đường cho nhiều con chiên lạc, đang bước đi trong bóng đêm tội lỗi của thế giới hôm nay. 

 

Một người con yêu mến Mẹ Mễdu,
Giuse Nguyễn Lê ghi (
.)

Chữ TÂM

 Chữ TÂM

 

2051.jpg

 

 Tâm là một điểm tuy nhỏ nhưng quan trọng, nên người ta mới gọi là tâm điểm.
Tâm của con người càng quan trọng hơn vì nó nói lên nhân cách của một con người :

Tâm lệch lạc thì cuộc sống nghiêng ngã đảo điên.
– Tâm gian dối thì cuộc sống bất an.
– Tâm ghen ghét thì cuộc sống hận thù.
– Tâm đố kỵ thì cuộc sống mất vui.
– Tâm tham lam thì cuộc sống dối trá…

Cho nên, ta không những đem tâm của mình đặt ngay trên ngực để yêu thương, mà còn :

– Đặt trên tay để giúp đỡ người khác.
– Đặt trên mắt để nhìn thấy nổi khổ của tha nhân.
– Đặt trên chân để mau mắn chạy đến với người cùng khổ.
– Đặt trên miệng để nói lời an ủi với người bất hạnh.
– Đặt trên tai để biết nghe lời than trách, góp ý của người khác.
– Đặt trên vai để biết chịu trách nhiệm và chia sẻ trách nhiệm với anh em chị em.

Thân xác không tim thì thân xác chết, làm người không có tâm thì cuộc sống chỉ có hận thù và là mối nguy hiểm cho mọi người

Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài (Nguyễn Du)

ST

Đừng ngại kêu “ THẦY ƠI, XIN CỨU CON”

Đừng ngại kêu “ THẦY ƠI, XIN CỨU CON”

 

 Một người bạn làm nghề kinh doanh vui miệng hỏi: “Slogan,  Logo của đạo Công giáo là gì?”, “Tình yêu và cây Thánh giá”, tôi trả lời bạn như thế. Và thánh Phêrô  là người đi đầu để tô đậm cho Logo đó khi chọn lựa cái chết bằng thập tự nhưng ở tư thế ngược vì nghĩ rằng mình còn nhiều bất xứng với Thầy Giêsu. Ấn tượng mà 12 Thánh tông đồ để lại cho hậu thế rất khác nhau, có Thánh quá thầm lặng đến mức khi kể tên các vị có nhiều người không thể nhớ như: Simon thuộc nhóm quá khích, nhưng có Thánh mà khi nhắc đến thường được nhiều người đề cập đầu tiên như  Phêrô. Chính ngài đã tạo cho chúng ta sự xao xuyến đến nhói tim khi thốt lên câu ”Lạy Thầy, bỏ Thầy con biết theo ai” (Ga 6,68) hoặc “Thầy ơi, xin cứu con”

 Cánh chim đầu đàn

 Đọc trọn bộ Tin Mừng sẽ phát hiện, trong số 12 tông đồ thì Thánh Phêrô xuất hiện với tần số vượt trội so với các Vị còn lại. Ngài để lại nhiều ấn tượng qua 13  đoạn Tin mừng sau

 1. Nằm trong 4 môn đệ đầu tiên được gọi và được chọn (Mt 4, 18).

 2. Xin Chúa được đi trên mặt nước để đến với Ngài (Mt 14, 22).

 3. Tuyên xưng đức tin thay các anh em “Thầy là Đấng Kitô, con Thiên Chúa hằng sống”(Mt  16, 16).

 4. Xin Chúa Cha xót thương không để  Chúa Giêsu chịu nạn (Mt 16, 22).

 5. Được Chúa Giêsu cho chứng kiến việc biến hình trên núi cao ( Mt 17, 1).

 6. Hỏi Chúa Giêsu về số lần cần khi tha thứ cho anh em khi bị xúc phạm (Mt 18, 22).

 7. Hỏi Chúa Giêsu về phần thưởng dành cho những ai bỏ mọi sự để theo Ngài (Mt 19, 27).

 8. Tuyên hứa theo Thầy “bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai” (Ga 6, 68).

 9. Chúa Giêsu tiên báo cho thánh Phêrô sẽ chối Thầy (Mt 26, 30).

 10. Rút gươm chém đứt tai 1 kẻ bắt Chúa (Ga 18, 10).

 11. Thánh Phêrô chối Thầy 3 lần và ăn năn (Mt 26, 69).

 12. Chạy ra mộ Chúa và thấy ngôi mộ trống (Ga 20, 3).

 13. Được Chúa hỏi 3 lần “Này anh Simon, anh có mến Thầy không” trong lần hiện ra sau ngày Ngài phục sinh.

 Các bài học từ Thánh Phêrô

 Suy tư về các Thánh Tông đồ, chúng ta sẽ thấy những yếu tố sau nổi trội từ thánh Phêrô

 Thường xuyên tu tập

 Thánh Phêrô không chỉ chối Chúa 3 lần, mà còn bị Chúa khiển trách thêm 2 lần khác, thậm chí còn bị Chúa gọi là Xatan. Trong (Mt 16, 23) Đức Giêsu bảo Phêrô: Xatan, lui lại đàng sau Thầy. Đoạn (Mt 14, 31) Đức Giêsu nắm lấy tay ông mà nói “Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi.” Sau những lần nghe Thầy nói thế, tin mừng không mô tả  phản ứng của Phêrô, nhưng theo dõi cả quá trình của ngài chúng ta suy đoán: thánh Phêrô suy niệm, tiêu hóa từ từ các lời dạy, mắng của Chúa Giêsu dành cho mình và từ đó đức tin của ngài lớn mạnh theo năm tháng.

 Tranh thủ học khi còn có Thầy

 Bất cứ lúc nào có thể, chúng ta đều thấy Thánh Phêrô rất tích cực trả lời các câu hỏi của Chúa hoặc đặt ra các vấn nạn để nhờ Thầy tư vấn. Đây là một đức tính khôn ngoan mà vẫn khiêm nhường. Ngài hấp thụ tinh hoa bằng con đường ngắn nhất, chính xác nhất.

 Các website của giáo hội Việt Nam, nếu thuận lợi nên có một ban tư vấn trực tuyến nhằm tăng cường sự hiểu biết, học hỏi của các Kitô hữu (và cả những anh em tôn giáo bạn)  tương tự tổng đài 1080. Hình thức mới này thể hiện ý tưởng “Các con hãy đi rao giảng khắp muôn dân” (Mt 28, 19) thể hiện một cách sâu rộng hơn nhờ tính mọi nơi, mọi lúc của công nghệ hiện đại. Ngoài ra, nó còn biểu đạt sự gần gủi, ân cần của các mục tử đối với các con chiên, nghĩa là mở rộng khái niệm khung viên mềm của Nhà Tạm.

 Lòng mến lớn lao

 Lòng mến từ nội tâm bên trong của các môn đệ dành cho Chúa thì khó đo lường để so sánh. Nhưng lòng mến được tính từ các lời nói, cử chỉ bên ngoài của Thánh Phêrô rất lớn. Đọc lại 13 đoạn tin mừng ở phần trên chúng ta sẽ thấy rõ ràng. Chúng ta đã theo Ngài 40, 50, thậm chí 70 năm,  có thể so sánh lòng mến của chúng ta dành cho Chúa so với Thánh Phêrô mới đi theo Chúa khoảng 3 năm, thì sẽ tự ngộ ra vài vấn đề. Hai đoạn Tin Mừng sau là điển hình. 1. Rút gươm chém đứt tai một trong những kẻ bắt Chúa (Ga 18, 10). 2. Người môn đệ được Chúa thương mến nói với Phêrô Chúa đó. Vừa nghe nói Chúa đó, ông Phêrô vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển” (Ga 21,7).  

 Nhờ lòng mến  này mà Thánh Phêrô, Tôma vẫn nhận nhiều ân sủng của Thiên Chúa dù đức tin, đức cậy của các ngài có những thời điểm chao đảo, yếu đuối. Thánh Phaolô trong Corintô 13, 13 khẳng định “Vậy nay còn lại Tin, Cậy, Mến. Ấy là bộ ba! Nhưng trong bộ ba ấy, Mến lớn hơn cả!”

 Biết kêu cứu đúng lúc

 Bàn về chủ đề Thánh Phêrô, chúng ta dễ xúc động nhất ở đoạn (Mt 14, 22). Khi xin  được đi trên mặt nước để đến với Chúa, lúc bị chao đảo, Thánh Phêrô kêu lên “Thầy ơi xin cứu con”. Trong chúng ta có mấy ai đã sử dùng cụm từ này trong cuộc đời đầy sóng gió, mặc dù chính mình đã đôi lần cũng rơi vào các tình huống sống chết như thế.

 Lạy Thánh Phêrô xin cho chúng con thêm lòng cậy để biết kêu cứu trước những thử thách quá sức mình,  thêm  lòng tin để đủ can đảm trỗi dậy sau các lần vấp ngã, thêm lòng mến để  biết trung kiên theo Chúa từng phút giây cho tới cuối con đường vì hằng nhớ câu nói của vị Giáo hoàng đầu tiên “Bỏ Thầy con biết theo ai”.

 G. Tuấn Anh

nguồn: từ Maria Thanh Mai gởi 

Cảm nghiệm về Đại Hội Canh Tân Đặc Sủng tại California

Cảm nghiệm về Đại Hội Canh Tân Đặc Sủng tại California

Wed, 06/06/2012                                      nguồn: thanhlinh.net

 

                                                                    Tác giả: Thẩm Nguyễn

 Chúa đã làm những việc lạ lùng trước mắt chúng ta.

Câu chuyện cứ lần lượt xảy ra theo thời gian từ sự cảm thông về những đau khổ của một gia đình người bạn.

 Vợ chồng tôi có một người bạn rất thân từ hồi còn trong quân đội. Vợ chồng anh bạn này không phải là người Công Giáo. Cách đây khoảng tám tháng, chị khám phá ra mình bị ung thư não giai đoạn chót. Anh chị rất hoang mang, phần chemo chữa trị, phần chạy đến các đấng thần linh. Vợ chồng tôi và một số bạn trong nhóm ” Chúa Là Tình Yêu” đã đến an ủi anh chị và giới thiệu với anh chị về quyền năng của Thiên Chúa chúng ta . Nhóm chúng tôi đã lần chuỗi Lòng Thương Xót cầu nguyện cho chị. Sau nhiều tuần lễ chemo và cầu nguyện, khối u của chị đã nhỏ lại nhưng chưa hết hẳn . Anh chị rất tin tưởng vào việc chữa lành qua cầu nguyện.

Thế rồi, chúng tôi được một số bạn bè mời tham gia Chương Trình Đại Hội Canh Tân Đặc Sủng, với chủ đề Chúc Tụng Chúa Giêsu, 25 năm Hợp Nhất trong Chúa Thánh Linh được tổ chức tại Santa Clara Convention Center, Santa Clara, California từ chiều thứ sáu 5/25/2012 đến chiều Chúa Nhật 5/28/2012. Vì muốn vợ chồng anh chị bạn được ơn chữa lành và vì nể lời mời của bạn nên chúng tôi đã đến tham dự đại hội này.

 Đại hội được chuẩn bị rất chu đáo. Chương trình gồm có những buổi thờ lạy và ca ngợi Chúa, những buổi thảo luận học hỏi, những buổi ban bí tích hòa giải của các linh mục hiện diện, những Thánh Lễ đa ngôn ngữ và những phần cầu nguyện xin ơn chữa lành. Các sinh hoạt dành riêng cho các nhóm ngôn ngữ khác nhau : Nhóm nói tiếng Anh, tiếng Việt, tiếng Tây Ban Nha…

 Thánh lễ khai mạc được chủ tế bởi Đức Giám Mục Thomas A. Daly, Giáo Phận San Jose với sự đồng tế của quý Đức Ông, Linh Mục, Phó tế. Thánh lễ bế mạc, cũng là Thánh Lễ Chúa Nhật mừng Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Đức Giám Mục Richard J. Garcia, Giáo Phận Monterey đã chủ tế cùng quý Đức Ông, Linh Mục, Thày Sáu và sự tham dự của khoảng 2000 giáo dân. Tôi nhắc đến điều này vì muốn xác định rằng Đại Hội Canh Tân Đặc Sủng 25 Năm Miền Bắc California(NCRC) được chấp nhận và khuyến khích của Giáo Quyền địa phương.

 Khi tham gia các buổi cầu nguyện Canh Tân Đặc Sủng, tôi có những cảm nghiệm, khi dạt dào, lúc xao xuyến.

 Những lời ca tiếng hát tôn vinh ngợi khen Thiên Chúa đã gây xúc động mạnh trong tâm hồn tôi . Bằng việc nâng tâm hồn lên với Chúa tôi cảm nghiệm được như Chúa đang vỗ về yêu thương tôi và tôi tìm được những giây phút bình an thực sự trong yêu thương kết hợp với Chúa.

 Khi đặt tay cầu nguyện, hình ảnh những anh chị té ngã làm tôi cảm thấy có cái gì đó không bình thường. Thánh thần có làm cho người ta ngã lăn ra như thế này không ? Trong đầu óc tôi lúc ấy vọng về những lời dèm phá, lên án của những người đã từng hay chưa từng tham dự Canh Tân Đặc Sủng. Bản thân tôi cũng không thích cái cảnh ngã lăn ra thế này, nhưng tôi không lên án, không coi thường mà cho đó là một hiện tượng lạ cần được tôn trọng khi tâm trí tôi chưa hiểu nổi. Tôi quan sát sự té ngã của quý anh chị với nỗi băn khoăn trong lòng. Có người cho rằng sự té ngã này là gỉa vờ, đóng kịch, nhưng đóng kịch để làm gì trong khi những con người này đến đây với tấm lòng khiêm cung để xin được chữa lành. Những người không té ngã có lãnh được ơn chữa lành không ? Tôi tin là có bởi chính bản thân tôi qua nhiều lần được đặt tay cầu nguyện, tôi chưa từng té ngã, nhưng tôi vẫn nhận được dấu chỉ của sự bình an. Tôi biết có nhiều người dị ứng với cảnh té ngã này , nhưng biết nói sao , ai có thể giải thích được. Có nhiều điều xảy ra mà trí khôn của tôi không hiểu nổi. Có thể do tôi không mở lòng, có thể do tôi còn kiêu ngạo chưa chịu đầu phục Chúa là Đấng tôi phải đầu phục. Tôi sẽ không dám giải thích hay luận bàn này nọ về việc làm của Chúa Thánh Thần.

 Đa số những anh chị trong ban tổ chức nói được tiếng lạ . Ơn nói tiếng lạ, ơn tiên tri, ơn hiểu biết, ơn đạo đức và nhiều ơn khác là những ơn trong bẩy ơn do Chúa Thánh Thần ban cho ai tùy ý Ngài. Tôi cố nghe những thứ tiếng lạ ấy, hình như là tiếng gọi cha Aba, tiếng chúc tụng Ho-sa-na, tiếng ngợi khen Allelua.. và những tiếng khác nữa. Những ai được Chúa ban cho ơn này thì hãy cảm tạ Chúa và dùng ơn này để đem lại lợi ích cho mọi người . Những ai không được ơn nói tiếng lạ, thì đừng ráng nói tiếng lạ…kỳ, như thế sẽ không đẹp ý Chúa và không đem lại lợi ích cho linh hồn mình . Có người đến hỏi tôi ” anh nói tiếng lạ được chưa?”, làm như đi canh tân đặc sủng là phải nói được tiếng lạ!. Có người dèm pha rằng sao mà ơn nói tiếng lạ nhiều thế và mỉa mai…vậy thì theo những người đó ai mới đủ tiêu chuẩn để nói tiếng lạ . Coi chừng chúng ta ngạo mạng không những khước từ hồng ân của Chúa mà còn muốn hướng dẫn Chúa làm theo sự chỉ đạo của mình.Về ơn nói tiếng lạ, tôi biết tôi là kẻ tội lỗi và tôi không xứng đáng với những gì mà anh chị em khác đã nhận được. Tôi xin vâng ý Chúa trong mọi sự và tôi xin sẵn sàng bước đi theo sự dẫn dắt của Chúa.

 Một chị đến tham dự đại hội do lời mời của một người bạn .Chị đến và tham gia cất tiếng ngợi khen Chúa. Chị không xin đặt tay cầu nguyện nhưng sau hai giờ chị cho biết là cánh tay trái của chị lúc sáng này cón rất đau, nhất là khi nhấc lên để mặc áo, nhưng bây giờ không hiểu sao chi đã hết đau và có thể vung tay như bình thường. Chị bận việc phải ra về sớm. Tôi ghi nhận việc lạ lùng này và âm thầm cảm tạ Chúa. Thế mà cũng có người lý luận rằng buổi sáng chị đau là do không cử động cả đêm đến chiêu thì do cử động nhiều nên hết đau, có gì lạ đâu. Thôi thì giải thích thế nào cũng được. Hình như khi còn sinh thời, dù Chúa đã làm nhiều phép lạ nhãn tiền mà người ta vẫn không tin !

 Anh bạn không phải là người Công Giáo của tôi là một người có cá tình mạnh mẽ, thế mà khi ngồi cùng chúng tôi ca ngợi Chúa, anh đã không chút do dự phát biểu ” Thưa quý anh chị, tôi không phải là người Công Giáo như quý anh chị, nhưng tôi cảm nhận được thần khí linh thiêng và tin vào Thiên Chúa, Đấng mà quý anh chị tôn thờ’. Cảm tạ Chúa vì những lời phát biểu đầy thiện ý .

 Vợ của anh, người bị ung thư, sau khi được đặt tay cầu nguyện của Đức Ông James Taratino để xin ơn chữa lành, chị đã xin được rửa tội vào đạo Công Giáo. Chúng tôi đã liên lạc với Giáo Xứ Saint Anthony, thuộc Giáo Phận Oakland để xin cho anh chị ghi tên học đạo và hy vọng sẽ được rửa tội vào Lễ Phục Sinh 2013.

 Và đây là một sự lạ xảy ra trước mắt tôi. Sau Thánh Lễ bế mạc chiều Thứ Bẩy, một giáo dân tên là Bob Canton, một thành viên trong phong trào Canh Tân Đặc Sủng. Ông được ơn cầu nguyện chữa lành bệnh nhân. Ông đã được đến viếng Đức Thánh Cha Benedicto XVI. (http://www.robertcantonministries.org/ ).Trước khoảng 2000 người trong hội trường . Ông cầm Mirco tiến lên bục, ông hăng say nói về quyền phép chữa lành của Chúa qua lời cầu nguyện của chúng ta. Thế rồi bất ngờ ông nhìn xuống và ông mời một cụ già 92 tuổi là người Việt Nam đang ngồi mệt mỏi trên chiếc xe lăn đứng lên. Ông cụ ngần ngừ một chút rồi đứng lên. Ông lại mời tiếp, xin cụ hãy bước đi. Ông cụ từ từ từng bước, bước đi, bước đi từ cánh trái của hội trường ra đến lối đi giữa, rồi cụ tiếp tục đi xuống phía cuối hội trường, cụ vẫy tay chào mọi người. Mọi người vỗ tay ca tụng Chúa. Có người nhẩy lên vui mừng, có người đứng chết trân, có người bật lên tiếng khóc vui mừng vì Chúa đã làm những việc lạ lùng trước mắt chúng ta. Sau khi cụ già đã đi một vòng, cụ trở lại chiếc xe lăn, thì ông Bob đi xuống và ngồi vào chiếc xe lăn ấy và yêu cầu ông cụ đẩy chiếc xe . Ông cụ tươi cười đẩy ông Bob đi một vòng, dù ông Bob là người có sức nặng khoảng gần 200 pounds. Riêng tôi thì tôi đã khóc vì vui mừng được chứng kiến một việc lạ Chúa làm vì thương dân Người . Tôi đã được nghe kể nhiều về việc chữa lành. Nhưng hôm nay là lần đầu tiên trong đời tôi được chứng kiến. Ngoài ra tôi cũng biết rõ về ông cụ này. Cụ là thân phụ của một anh chị cũng là bạn thân thiết với vợ chồng tôi. Ông cụ đã bị giải phẫu mười hai lần và hiện ông cụ mang nhiều bệnh tật, cụ bị liệt không đi được sáu năm nay và phải đi lọc máu bốn lần một tuần vì thận bị hư.

 Hôm sau ngày Chúa Nhật, ông cụ đã trở lại buổi cầu nguyện để làm chứng về những gì Chúa đã làm cho mình. Ông cụ từ xe bước xuống đã đi vào hội trường với đôi chân của mình. Được hỏi cụ có mang xe lăn theo không, ông cụ lắc đầu cười ” Tôi không cần xe nữa, tôi để nó ở nhà rôi “. Đặc biệt hôm nay, cùng đi với ông cụ, không những chỉ có một cặp vợ chồng anh chị bạn tôi, mà còn có rất đông các con trai, con gái , cháu chắt của cụ đã đến để cảm tạ hồng ân của Chúa. Riêng tôi thì việc cụ bước đi đã củng cố niềm tin của tôi vào Chúa rất nhiều. Tôi đã tin và nay lại đã xác tín Chúa luôn hiện diện và đồng hành với tôi trong cuộc lữ hành trần thế này. Một câu hỏi cứ vấn vương trong lòng tôi là không biết Chúa làm phép lạ để làm gì. Ông Lazaro được Chúa cho sống lại, nhưng rồi ông cũng đã chết. Phải chăng Chúa làm phép lạ để cho biết được quyền năng và sự hiện hữu của Ngài trong cõi đời này.Nếu chứng kiến một phép lạ, công nhận đó là một phép lạ mà phép lạ ấy không biến đổi cách sống của tôi thì có ơn ích gì cho tôi. Đọc phúc âm , đọc hạnh các thánh, tôi thấy những người thời Chúa Giêsu đã quá cứng lòng, phép lạ Chúa làm sờ sờ ra đó mà họ vẫn không tin. Ngẫm lại con người ngay nay, vẫn tâm trạng ấy, người ta vẩn không tin mà con nhạo báng, dèm pha những sự việc lạ lùng này. Xin Chúa hãy tha thứ những xúc phạm, những thờ ơ của chúng con đối với quyền năng của Chúa.

 Lạy Chúa, xin Chúa mở mắt mở lòng con để con biết đón nhận nhựng dấu chỉ yêu thương của Chúa và qua đó con được củng cố niềm tin, niềm cậy trông phó thác vào Chúa. Xin cho biết hăng say dấn thân vào việc tông đồ mở mang nước Chúa với một tâm tình khiêm nhường, lắng nghe và trông nhờ vào ơn Thánh Chúa . Amen.

 Giuse Thẩm Nguyễn

Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống 5-28-2012

BÍ QUYẾT THẦN DIỆU ĐỂ ĐẠT ĐƯỢC ĐIỀU MONG ƯỚC

BÍ QUYẾT THẦN DIỆU ĐỂ ĐẠT ĐƯỢC ĐIỀU MONG ƯỚC

                                                                               Lm Inhatio Trần Ngà

                                                          nguồn: conggiaovietnam.net

(Suy niệm Tin Mừng Mác-cô (5, 21-43) trích đọc vào Chúa Nhật 13 thường niên)

 Có một ông vua rất đỗi giàu sang và vô cùng quảng đại. Nhà vua có một kho tàng đầy ắp những báu vật mọi người hằng mơ ước. Nhà vua tuyên bố với thần dân rằng bất cứ ai muốn lấy bất cứ thứ gì trong kho tàng vô tận của vua thì cứ lấy, miễn là phải dùng một loại chìa khoá rất đặc biệt mới mở được kho tàng. Chìa khoá ấy, vua cũng chỉ cho biết là đang nằm trong tầm tay mọi người. Tiếc thay, người ta không biết đó là chìa khoá thần kỳ và chưa mấy ai đem ra sử dụng.

Khi nghe tin nầy, nhiều người nao nức hỏi: Vị vua đại lượng đó là  ai? Kho tàng nằm ở đâu? Chìa khoá nào mở được kho tàng, xin mau mau cho biết.

Đức vua đó chính là Thiên Chúa quyền năng. Kho tàng của Người là vô vàn phúc lộc không bao giờ vơi cạn. Chìa khoá để mở kho tàng ấy là lòng tin. Ai có lòng tin mạnh mẽ, người đó có thể mở được cửa kho tàng và chiếm lấy những gì mình muốn. Ai không  có lòng tin, thì đành bó tay và chẳng thu lượm được gì.

Hai sự kiện thánh sử Mác-cô thuật lại trong Tin Mừng hôm nay minh chứng cho chân lý nầy: 

Trường hợp người phụ nữ bị bệnh băng huyết.

Một người phụ nữ bị băng huyết đã mười hai năm, đã lắm phen tìm thầy chạy thuốc nhưng bệnh của bà vẫn vô phương cứu chữa. Nay gặp Chúa Giê-su, bà mừng như người sắp chết đuối vớ được tấm phao. 

Vì luật cấm những người mang thứ bệnh nhơ uế như bà tiếp cận với người khác (Lv 15, 25) nên bà không dám công khai gặp Chúa Giê-su, chỉ len lén tiến lại phía sau lưng Người, tự nhủ lòng rằng: “Mình chỉ cần sờ được vào áo Người thôi là sẽ được cứu.” Và điều nhiệm mầu đã xảy ra: bà vừa đụng vào áo Chúa Giê-su thì tức khắc huyết cầm lại và bà được chữa lành.

Chúa Giê-su biết có một năng lượng từ mình xuất ra nên quay lại tìm hiểu và khi người phụ nữ  thú nhận việc bà vừa làm, Chúa Giê-su bảo:  “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh.”

Chính Chúa Giê-su xác nhận lòng tin là chìa khoá thần kỳ mở ra cho người đàn bà kho tàng chứa đựng điều mà bà khao khát: được chữa lành chứng bệnh nan y. 

Trường hợp ông trưởng hội đường.

Đang cùng Chúa Giê-su tiến vội về nhà để nhờ Chúa cứu chữa đứa con gái đang hấp hối,  thì người nhà của ông trưởng hội đường chạy đến báo cho ông biết rằng con gái ông chết rồi, đừng phiền Chúa đến nhà làm gì mất công.

Nghe vậy, Chúa Giê-su động viên ông ta: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi. Tin là được. Thế rồi, nhờ lòng tin, con gái ông đã được cứu sống.

Một lần nữa, Tin Mừng chứng tỏ cho thấy lòng tin là chìa khoá đem lại ân sủng nhiệm mầu: đứa con gái thân yêu chết rồi nay được cứu sống!

Còn nhiều sự kiện khác được ghi lại trong Tin Mừng chứng tỏ cho thấy phải có lòng tin  thì mới đạt được điều mong muốn và không có lòng tin thì chẳng được gì (Mt 13, 58). Lòng tin có thể chuyển núi dời non. Với lòng tin, người ta làm được tất cả như lời Chúa Giê-su dạy: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi nầy: “rời khỏi đây, qua bên kia!” nó cũng  sẽ chuyển qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được” (xem thêm: Mt 17, 19-20; Mt 15, 28; Mt 21, 21-22) 

Quả vậy, điểm lại những khuôn mặt đạt được thành công lớn lao trên thế giới, ta thấy rằng nguyên nhân chính giúp họ thành đạt là nhờ mạnh tin. Vững tin rằng mình sẽ làm được thì sẽ được như ý.

Như thế, lòng tin là bí quyết để thành công trên đường đời, và cũng là chìa khoá mở vào kho tàng ân sủng của Thiên Chúa.

 Lạy Chúa, lòng tin của chúng con còn yếu kém nên chẳng thu hoạch được gì. Xin ban thêm lòng tin để chúng con có thể mở được kho tàng ân sủng của Chúa. 

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

Tin Mừng Mác-cô (5, 21-43)

21 Đức Giê-su xuống thuyền, lại trở sang bờ bên kia. Một đám rất đông tụ lại quanh Người. Lúc đó, Người đang ở trên bờ Biển Hồ.22 Có một ông trưởng hội đường tên là Gia-ia đi tới. Vừa thấy Đức Giê-su, ông ta sụp xuống dưới chân Người,23 và khẩn khoản nài xin: “Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu thoát và được sống.”24 Người liền ra đi với ông. Một đám rất đông đi theo và chen lấn Người.
25 Có một bà kia bị băng huyết đã mười hai năm,26 bao phen khổ sở vì chạy thầy chạy thuốc đã nhiều đến tán gia bại sản, mà vẫn tiền mất tật mang, lại còn thêm nặng là khác.27 Được nghe đồn về Đức Giê-su, bà lách qua đám đông, tiến đến phía sau Người, và sờ vào áo của Người.28 Vì bà tự nhủ: “Tôi mà sờ được vào áo Người thôi, là sẽ được cứu.”29 Tức khắc, máu cầm lại, và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh.30 Ngay lúc đó, Đức Giê-su thấy có một năng lực tự nơi mình phát ra, Người liền quay lại giữa đám đông mà hỏi: “Ai đã sờ vào áo tôi? “31 Các môn đệ thưa: “Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy như thế mà Thầy còn hỏi: ÀAi đã sờ vào tôi? “32 Đức Giê-su ngó quanh để nhìn người phụ nữ đã làm điều đó.33 Bà này sợ phát run lên, vì biết cái gì đã xảy đến cho mình. Bà đến phủ phục trước mặt Người, và nói hết sự thật với Người.34 Người nói với bà ta: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh.”

35 Đức Giê-su còn đang nói, thì có mấy người từ nhà ông trưởng hội đường đến bảo: “Con gái ông chết rồi, làm phiền Thầy chi nữa? “36 Nhưng Đức Giê-su nghe được câu nói đó, liền bảo ông trưởng hội đường: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi.”37 Rồi Người không cho ai đi theo mình, trừ ông Phê-rô, ông Gia-cô-bê và em ông này là ông Gio-an.38 Các ngài đến nhà ông trưởng hội đường. Đức Giê-su thấy người ta khóc lóc, kêu la ầm ĩ.39 Người bước vào nhà và bảo họ: “Sao lại náo động và khóc lóc như vậy? Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy! “40 Họ chế nhạo Người. Nhưng Người bắt họ ra ngoài hết, rồi dẫn cha mẹ đứa trẻ và những kẻ cùng đi với Người, vào nơi nó đang nằm.41 Người cầm lấy tay nó và nói: “Ta-li-tha kum”, nghĩa là: “Này bé, Thầy truyền cho con: trỗi dậy đi! “42 Lập tức con bé đứng dậy và đi lại được, vì nó đã mười hai tuổi. Và lập tức, người ta kinh ngạc sững sờ.43 Đức Giê-su nghiêm cấm họ không được để một ai biết việc ấy, và bảo họ cho con bé ăn.

 Tác giả:  Lm Inhatio Trần Ngà

Thánh Cyril ở Alexandria

    Thánh Cyril ở Alexandria
    (376?-444)

 

                                                                         27 Tháng Sáu

     Thánh Cyril sinh ở Alexandria, Ai Cập. Ngài là cháu của Ðức Theophilus, thượng phụ của Alexandria. Sau khi học xong kinh điển và thần học, ngài được chính bác của mình tấn phong linh mục và tháp tùng Ðức Theophilus đến Constantinople để tham dự Thượng Hội Ðồng Oak nhằm truất phế Ðức Gioan Kim Khẩu (sau này mới biết là bị kết tội oan).

     Khi Ðức Theophilus từ trần vào năm 412, ngài lên kế vị bác của mình sau cuộc tranh đấu với phe ủng hộ người đối thủ là Timotheus. Ngay sau khi lên ngôi, Ðức Cyril bắt đầu tấn công lạc thuyết Novatianô với việc đóng cửa các nhà thờ; đuổi những người Do Thái ra khỏi thành phố; và phản bác một số hành động của quan đầu tỉnh Orestes là người theo phe Novatianô.

     Vào năm 430, Ðức Cyril lại xung đột với Nestorius, thượng phụ của Constantinople, là người cho rằng Ðức Maria không phải là Mẹ Thiên Chúa vì Ðức Kitô là Thiên Chúa chứ không phải con người, hậu quả là không thể dùng chữ theotokos (người-mang-Thiên-Chúa) áp dụng cho Ðức Maria. Ðức Cyril thuyết phục được Ðức Giáo Hoàng Celestine I triệu tập một công đồng ở Rôma nhằm lên án Nestorius, và chính ngài cũng hành động tương tự trong công đồng Alexandria.

     Vào năm 431, Ðức Giáo Hoàng Celestine ra lệnh cho Ðức Cyril truất phế Nestorius. Trong Ðại Công Ðồng Ephêsô lần thứ ba, với sự tham dự của hai trăm giám mục và dưới sự chủ tọa của Ðức Cyril, công đồng đã lên án mọi giáo thuyết của Nestorius là sai lầm trước khi Ðức Tổng Giám Mục Gioan ở Antiôkia và bốn mươi hai môn đệ ủng hộ giáo thuyết của Nestorius kịp đến tham dự. Khi thấy mọi sự đã lỡ, họ tổ chức một công đồng riêng để truất phế Ðức Cyril. Hoàng Ðế Theodosius II bắt giữ cả hai người, Ðức Cyril và Nestorius nhưng sau đó đã trả tự do cho Ðức Cyril khi các đại diện của đức giáo hoàng xác nhận các quyết định của công đồng.

     Hai năm sau, Ðức Tổng Giám Mục Gioan, đại diện cho các giám mục ôn hòa ở Antiôkia, đã ký kết một thỏa ước với Ðức Cyril và cùng lên án Nestorius. Trong quãng đời còn lại, Ðức Cyril đã viết nhiều luận án làm sáng tỏ học thuyết về Thiên Chúa Ba Ngôi và mầu nhiệm Nhập Thể nhằm ngăn chặn lạc thuyết Nestorius và Pelagian khỏi ăn sâu vào cộng đồng Kitô Hữu.

     Ngài là thần học gia sáng chói nhất của truyền thống Alexandria. Văn bút của ngài có đặc tính chính xác về tư tưởng, lập trường rõ ràng, và lý luận sắc bén. Các văn bản của ngài gồm các nhận định về Thánh Gioan, Thánh Luca, và ngày lễ Ngũ Tuần, các luận thuyết về thần học tín lý, cũng như các thư từ và bài giảng. Ngài được Ðức Giáo Hoàng Lêô XIII tuyên xưng là tiến sĩ Giáo Hội vào năm 1882.

nguồn: Từ Maria Thanh Mai gởi