CÓ THIÊN ĐÀNG KHÔNG VÀ HẠNH PHÚC THIÊN ĐÀNG RA SAO ?

CÓ THIÊN ĐÀNG KHÔNG VÀ HẠNH PHÚC THIÊN ĐÀNG RA SAO ?

LM ĐAN VINH

I. THIÊN ĐÀNG HIỆN HỮU THỰC SỰ :

1) Đây là một điều phù hợp với sự khôn ngoan và đức công bình vô cùng của Thiên Chúa, và đó cũng chính là cùng đích mầu nhiệm cứu chuộc của Đức Giê-su: Người đến để trả lại cho loài người chúng ta sự sống mà nguyên tổ A-đam E-và xưa đã đánh mất khi phạm tội vì bất phục tùng, để phục hồi địa vị làm con Thiên Chúa cho chúng ta bắt đầu từ trần gian, và kéo dài mãi trên thiên đàng đời sau (x. Rm 5,12-21).

2) Đây còn là một chân lý đức tin:

a)Đức Giê-su nhiều lần đề cập đến thiên đàng trong các bài giảng của Người:

– “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,2).

– “Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa” (Mt 5,8).

– “Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao” (Mt 5,12).

-“Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, và kẻ trộm khoét vách lấy đi. Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, và kẻ trộm không đào ngạch và lấy đi được (Mt 6, 19-20).

-Trong dụ ngôn “Những nén bạc”, ông chủ nói với người đầy tớ biết làm lợi thêm những nén bạc ông đã trao: “Khá lắm, hỡi người đầy tớ tài giỏi và trung thành ! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh !” (Mt 25,21).

b) Đức Giê-su cũng nói với các Tông đồ về thiên đàng như sau: “Trong nhà Cha của Thầy có nhiều chỗ ở, nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi. Vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy sẽ trở lại và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu anh em cũng ở đó” (Ga 14,2-3).

c) Đến ngày tận thế, Đức Giê-su Vua Thẩm Phán sẽ tái lâm để phán xét chung. Tin mừng Mát-thêu tường thuật như sau: “Bấy giờ Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên phải rằng: Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa” (Mt 25,34).

d) Tin Mừng Lu-ca đã ghi nhận về sự kiện Đức Giê-su lên trời như sau: “Chúa Giêsu được đem lên Trời” (Lc 24,51). Trời đây không phải trời xanh, mà là Thiên đàng, nơi Ba Ngôi Thiên Chúa là Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần ngự trị muôn đời.

e) Thánh Phao-lô cũng quả quyết có thiên đàng vĩnh cửu sau cuộc đời trần gian hôm nay: “Quả thật, chúng ta biết rằng: Nếu ngôi nhà của chúng ta ở dưới đất là chiếc lều này bị phá hủy đi, thì chúng ta có một nơi ở do Thiên Chúa dựng lên, một ngôi nhà vĩnh cửu ở trên trời, không do tay người thế làm ra” (2 Cr 5,1).

II. HẠNH PHÚC THIÊN ĐÁNG RA SAO?

1)Những quan niệm sai lạc về hạnh phúc thiên đàng: Một số người có những ý nghĩ không đúng về thiên đàng. Chẳng hạn:

a)Thiên Đàng là phần thưởng của Thiên Chúa ban nhằm thúc đẩy con người ăn ngay ở lành, giống như cha mẹ hứa cho con cái mình bánh kẹo để khuyến khích chúng chăm chỉ học tập. Như thế chẳng lẽ người ta chỉ làm các việc lành vì ích kỷ, nhằm tới lợi riêng cho mình sao ?

Thực ra, thiên đàng tuy là một phần thưởng (x. Mt 5,12), nhưng trước hết, thiên đàng là cùng đích cuộc đời chúng ta. Nếu con người sống mà không hướng về Thiên Chúa thì cuộc đời của họ sẽ vô nghĩa. Chúng ta làm lành để biểu lộ lòng yêu mến Thiên Chúa ở đời này giống như người gieo hạt giống tốt, và đương nhiên sẽ gặt được hoa trái là hạnh phúc thiên đàng đời sau.

b)Một số người lại tưởng tượng ra hạnh phúc thiên đàng theo sở thích của mình: Là nơi không còn phải ưu phiền thử thách, khỏi bị đau khổ, nhưng được sung sướng khoái lạc, được nhìn thấy những phong cảnh đẹp chưa từng được thấy, được nghe những điệu nhạc du dương chưa từng được nghe ở trần gian…

Thực ra, hạnh phúc Thiên Đàng trước hết là hạnh phúc siêu nhiên tinh thần, thỏa mãn được những như cầu của linh hồn chúng ta, được hưởng kiến tôn nhan Thiên Chúa “diện đối diện” như lời thánh Phao-lô dạy: “Bây giờ chúng ta thấy lờ mờ như trong một tấm gương, mai sau sẽ được mặt giáp mặt” (1 Cr 13,12).

c)Có người lại quan niệm thiên đàng theo kiểu tình cảm trần gian. Theo họ: khi lên thiên đàng chúng ta sẽ được gặp lại những người thân của mình trươc đây, được nối lại tình xưa nghĩa cũ, vợ chồng con cái, cha mẹ anh em sẽ sống quây quần bên nhau như ở trần gian…

Thực ra, thiên đàng không phải chỉ là nơi để gặp gỡ các người thân của mình. Thiên Đàng tuy là một gia đình, nhưng là một gia đình thiêng liêng, là nhà của Thiên Chúa là Cha chung, trong đó mọi người đều là anh chị em với nhau.

2)Vậy hạnh phúc thiên đàng thực sự thế nào ? : Hiện nay chúng ta không thể diễn tả hạnh phúc Thiên Đàng như thế nào, vì chưa có ai được lên đó. Muốn hiểu hạnh phúc ấy, ta nên dựa vào Lời Chúa như sau:

a)Theo sách Khải huyền: “Rồi tôi nghe từ phía ngai có tiếng hô to: ‘Ðây là nhà tạm Thiên Chúa ở cùng nhân loại, Người sẽ cư ngụ cùng với họ. Họ sẽ là dân của Người, còn chính Người sẽ là Thiên Chúa ở cùng họ. Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ biến mất” (Kh 21.3-4).

b)Thánh Phê-rô cũng khuyên các tín hữu: “Được chia sẻ những đau khổ của Đức Ki-tô bao nhiêu, anh em hãy vui mừng bấy nhiêu, để khi vinh quang Người tỏ hiện, anh em sẽ được vui mừng hoan hỷ” (1 Pr 4,13).

c)Thánh Phao-lô đã viết về hạnh phúc Thiên đàng như sau: “Điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới. Đó lại là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai mến yêu Người” (1 Cr 2,9).

3)Sự tiếp nhận hạnh phúc thiên đàng nhiếu ít là do phấn đấu của mỗi người:

a)Ơn cứu độ được ban cho hết mọi người: Trong dụ ngôn “Những người thợ đi làm vườn nho”, nhiều người đi làm vườn nho vào những thời điểm khác nhau trong ngày, nhưng đến cuối ngày, mọi người đều được chủ trả lương một đồng bằng nhau (x. Mt 20,1-15). Qua đó cho thấy: Người ta được ơn cứu độ là do tinh thương bao dung của Thiên Chúa, hơn là do công sức riêng của bản thân mình.

b)Tuy nhiên, mọi người không được hạnh phúc bằng nhau: Mỗi người được hưởng kiến tôn nhan Thiên Chúa nhiều ít tùy theo công việc tốt đã làm khi còn sống ở trần gian. Ai yêu mến và làm các việc lành theo thánh ý Thiên Chúa nhiều thì ở đời sau sẽ được hưởng hạnh phúc nhiều hơn. Còn người yêu mến ít và làm ít việc lành khi còn sống, nên đương nhiên sẽ được hưởng hạnh phúc ít hơn trên thiên đàng.

b)Đây cũng là điều hợp lý và phù hợp với đức công bằng vô cùng của Thiên Chúa. Thánh Kinh đã đề cập về vấn đề này như sau:

-Đức Giê-su đã nói với các môn đệ: ”Lòng anh em đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha của Thầy có nhiều chỗ ở. Nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi. Vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy sẽ trở lại và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu anh em cũng ở đó” (Ga 14,1-3).

-“Vậy ai bãi bỏ dù chỉ là một trong những điều răn nhỏ nhất ấy, và dạy người ta làm như thế, thì sẽ bị gọi là kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời. Còn ai tuân hành và dạy làm như thế, thì sẽ được gọi là lớn trong Nước Trời” (Mt 5,19).

-Thánh Phao-lô trình bày về hạnh phúc thiên đàng khác nhau như sau: “Ánh mặt trời thì khác, ánh mặt trăng thì khác, ánh tinh tú thì khác, bởi vì ánh sáng tinh tú này khác với ánh sáng tinh tú kia. Việc kẻ chết sống lại cũng vậy: gieo xuống thì hư nát, mà trỗi dậy thì bất diệt; gieo xuống thì hèn hạ, mà trỗi dậy thì vinh quang; gieo xuống thì yếu đuối, mà trỗi dậy thì mạnh mẽ, gieo xuống là thân thể có sinh khí, mà trỗi dậy là thân thể có thần khí” (1Cr 15,39-44).

-Về sau, Công đồng Florence (1414 -1418) cũng đã khẳng định: “các Đấng Thánh tùy theo công trạng khác nhau sẽ được thấy Chúa khác nhau, người này hoàn hảo hơn người kia”.

-Tuy không bằng nhau, nhưng sẽ không có phân bì ganh ghét, vì mỗi người đều được tràn đầy hạnh phúc, đều ý thức rõ ràng tình yêu và sự công bằng vô cùng của Thiên Chúa. Ta có thể ví hạnh phúc Thiên Đàng giống như nước được đổ vào các đồ chứa mỗi người mang theo lên thiên đàng. Ai ở trần gian làm được nhiều việc lành giống như người sắm cho mình một chiếc chậu to, đang khi người khác làm ít việc lành lại chỉ có được một chiếc tô hay chén nhỏ… Vì ai nấy đều được Chúa đổ đầy ân sủng, nên tuy được hưởng hạnh phúc nhiều ít khác nhau, nhưng không có sự phân bì ganh ghét lẫn nhau.

4)Thiên đàng là nước tình yêu của Thiên Chúa:

a)Người tín hữu sống trên trần gian hướng về Thiên Chúa bằng ba nhân đức đối thần là Tin, Cậy, Mến:

Đức Tin làm cho ta thấy Chúa hiện diện trong mọi tạo vật để ngợi khen cảm tạ Chúa.

Đức Cậy làm cho ta vững lòng cậy trông để cầu xin Chúa ban ơn cứu độ.

Đức mến làm cho ta yêu mến Chúa trên hết mọi sự và tìm cách đáp lại tình yêu ấy.

b)Nhưng ở trên Thiên Đàng thì khác:

Đức tin không còn cần thiết vì ta đã được nhìn thấy Thiên Chúa “diện đối diện”.

Đức cậy cũng không còn, vì ta luôn có Chúa và không sợ phải lìa xa Chúa bao giờ.

Chỉ có đức mến sẽ tồn tại mãi mãi.

Các thánh trên thiên đàng sẽ luôn yêu mến Thiên Chúa vả yêu mến nhau, nên các ngài luôn được hưởng hạnh phúc viên mãn.

c)Thiên Đàng là Nươc Tình Yêu: Các Thánh sẽ không ngừng yêu mến Thiên Chúa, và nhờ tình yêu sẽ có tất cả như thánh Phao-lô đã viết: “Hiện nay, đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại. Nhưng cao trọng hơn cả là đức mến” (1 Cr 13,13). Các tín hữu đang sống ở trần gian vẫn có thể được hưởng hạnh phúc thiên đàng khi biết loại khỏi lòng trí các tội lỗi và các thói hư, để luôn sông tình mến Chúa yêu người. Khi sống trong tình yêu thương là chúng ta sẽ được sống trong Thiên Chúa, hưởng được niềm vui và sự bình an trong tâm hồn, được hưởng hạnh phúc ngay từ đời này và sẽ kéo dài hạnh phúc ấy mãi mãi trên thiên đàng đời sau.

Trích Đối thoại năm Đức Tin: Các vấn đề Kinh Tế, Xã Hội và Thiên Đàng
LM ĐAN VINH

Lễ các linh hồn : Nay người – mai ta

Lễ các linh hồn : Nay người – mai ta


Anmai, CSsR10/27/2013


Chiều nay chầm chậm lần bước vào con đường mòn quen thuộc thường ghé. Lòng nặng trĩu nhớ người ra đi nơi phần mộ nằm khuất sau 3 dãy : Mẹ tôi.

Ngày Mẹ mất, Mẹ được nằm ở mặt tiền của khu mộ, đi vào thăm Mẹ không vướng víu gì cả. Vài năm sau đó, hàng mặt tiền che khuất bởi một hàng mộ mới. Và, vài năm sau nữa muốn đi vào thăm Mẹ phải đi ngang, đi dọc qua mấy người nữa mới đến Mẹ.

Thắp hương, nguyện cầu cho Mẹ cũng như cho những người nằm chung quanh Mẹ. Làn hương tỏa lên, cảm xúc lại dâng trào nhớ Mẹ, nhớ những người thân quen đã hơn một lần mình gặp gỡ nay đã ra đi mãi mãi.

Nguyện kinh, nguyện xin mà hình dung ra thân xác của Mẹ ngày xưa. Một thân xác tuyệt vời mà Thiên Chúa tạo dựng và rồi qua Mẹ, những đứa con được sinh thành. Thân hình đó, thân xác của Mẹ đó nay đã nằm sâu trong lòng đất và giờ đây sau hai mươi năm trời trở thành cát bụi thật sự.

Tạm biệt nghĩa trang chìm nơi Mẹ an nghỉ, tôi trở về với nghĩa trang nổi nằm trong khuôn viên của Tu Viện. Trong nghĩa trang nổi ấy, nơi tạm giữ tàn tro của biết bao nhiêu người thân quen, cách riêng quý cha quý thầy trong Dòng và riêng hơn nữa là những cha những thầy đã có một thời nên duyên nên nợ.

Nén hương trầm tỏa lan và những khuôn mặt thân quen lại dần hiện :

Cha già Giuse nhiều năm trời ở chốn lao tù, cách riêng ngài có tài hài hước qua những câu chuyện tục mà thanh để vơi bớt nỗi buồn. Cha cũng đã ra đi khi hơi tàn sức kiệt …

Thầy già Phêrô, một tu sĩ đi tu từ bé nên vẫn nhiệm nhặt giữ những quy luật của Nhà Dòng. Nếu ai không hiểu thầy thì sẽ khó chịu nhưng biết rồi thì cũng dễ đón nhận. Hình ảnh thầy già tưới cây, đạp chiếc xe đạp chạy quanh quanh nhà dòng nay cũng chẳng còn nữa vì theo quy luật của thời gian.

Cha G.B đầy nhiệt huyết nhưng rồi lại ra đi trong căn bệnh ung thư quái ác. Những ngày cuối đời, vòm họng đã làm cho Cha đau đến tột cùng và Cha cũng đã ra đi.

Cha F.X gần như cả đời mục vụ gắn kết đời mình với vùng truyền giáo nghèo biển mặn. Lửa truyền giáo vẫn bừng cháy nơi Cha nhưng vì sứ vụ Cha đi phục vụ trong công việc khác. Vẫn ước ao trở về quê Mẹ để phục vụ người nghèo nơi vùng truyền giáo nhưng ước mơ đó chưa trọn. Nay Cha trở về quê Trời thật sự, nơi mà lòng Cha hằng mong ước.

Cha Giêrađô, một con người cương trực thẳng tính. Cũng một thời phục vụ Tin Mừng và những năm cuối đời trở về ở trong ngôi nhà Mẹ của Nhà Dòng thật êm đềm. Hành trình về nhà Mẹ của Cha êm đềm như thế nào thì hành trình về nhà Cha của Cha Giêrađô cũng êm đềm như vậy. Chuẩn bị đi dâng Lễ ở xóm giáo thì Cha lại trở về nhà Cha.

Thầy Emmanuel, vì hoàn cảnh sức khỏe, thầy phải chịu đựng một thời gian dài. Thầy đã trở về nhà Cha để được bình an và thanh thản.

Cha già Stêphanô, cả một đời dấn thân cho người nghèo, đặc biệt trong truyền thông. Hình ảnh những ngày cuối đời của cha già vẫn còn in dấu trong tôi. Trong những cơn quặn đau của thể xác một cách tuyệt vời để cùng chịu đau khổ với Đức Kitô …

Nhiều và nhiều hình ảnh thân thương của quý cha quý thầy vẫn còn như đang sống với anh em bởi lẽ cũng đã từng chung chia với nhau sứ vụ, chung chia với nhau bữa cơm và chung chia với nhau cả giận hờn của tính người. Thế nhưng nay, những người đó chỉ còn là nắm tro nằm trong cái hủ chờ ngày Phục Sinh. Những người ấy, giờ đây ta muốn trò chuyện, hàn huyên tâm sự cũng chẳng còn cơ hội. Và, hơn thế nữa, có muốn giận, có muốn hờn, có muốn ghen với họ và ngược lại cũng chẳng được bởi lẽ hai thế giới cách biệt. Khi nằm xuống, xuôi đôi tay, ngừng hơi thở coi như mọi chuyện chấm dứt.

Trở về với góc phòng của Tu Viện, nhớ lại hình ảnh của Mẹ, của ông bà, của quý cha quý thầy thân quen … Những người đó thật gần nhưng giờ cũng đã xa. Dù có muốn làm gì đó cho những người thân đó cũng chẳng được dẫu là một bữa ăn ngon, một cái bánh cũng chẳng được. Và, dù có muốn giận, muốn hờn, muốn trách họ cũng không xong bởi lẽ họ không còn nói được với ta. Chỉ trong niềm tin, trong sâu lắng, trong lặng thầm, trong cõi thiêng ta nguyện cầu cho họ và họ nguyện cầu cho ta.

Ông bà, cha mẹ, những người thân thương nay đã ra đi. Còn ta ? Chẳng lẽ ta ở mãi trong cái cõi tạm này ? Mấy mươi năm ? Giỏi chăng cũng được một trăm. Sợ chưa đến gọi là thọ chứ làm gì có đến tuổi một trăm như thế. Cũng trong quy luật của cuộc sống, nay người thì mai lại đến phận ta. Dù có thuốc tiên đi chăng nữa cũng chẳng ai có thể trường tồn. Và, cũng chẳng ai lột da để sống mãi trên trần thế này. Mỗi ngày qua đi là mỗi ngày đời sống ở dương gian của ta dần khép lại.

Nhớ đến những người thân đó cũng là nhắc đến phận người của chúng ta. Nhắc như thế để liệu làm sao sống cho nhẹ nhàng và thanh thản. Và, hơn thế nữa, hãy cố sống làm sao để khi ta nhắm mắt thì mọi người khóc còn ta, ta mỉm cười thanh thản ra đi.

Nay người, mai ta ! Nhớ như thế để ngày mỗi ngày ta dần buông những gì là vướng bận của cuộc đời để thanh thản trở về Quê Trời, nơi mà cả đời ta hằng thao thức và mong đợi.

Anmai, CSsR

Vụ án Đinh Nhật Uy làm nổi bật thế hệ mới của những nhà tranh đấu ở Việt Nam

Vụ án Đinh Nhật Uy làm nổi bật thế hệ mới của những nhà tranh đấu ở Việt Nam

Blogger Ðinh Nhật Uy sau khi được trả tự do.

Blogger Ðinh Nhật Uy sau khi được trả tự do.

Marianne Brown

29.10.2013

HÀ NỘI — Blogger Đinh Nhật Uy đã bị tòa án Việt Nam xét là can tội “lợi dụng quyền tự do dân chủ” vì đã dùng trang mạng xã hội Facebook để vận động cho việc trả tự do cho em trai là một người chỉ trích chính phủ đang bị bỏ tù. Theo tường thuật của thông tín viên Marianne Brown của đài VOA ở Hà Nội, đây là vụ xử mới nhất liên quan tới một thế hệ mới của những người tranh đấu đặt căn cứ trên internet.

Ông Đinh Nhật Uy, 30 tuổi, đã bị đưa ra tòa xét xử hôm thứ ba vì đã đăng tải thông tin trên trang Facebook để ủng hộ người em trai của ông đang thọ án tù 4 năm về tội phát tán truyền đơn chống chính phủ.

Ông Hà Huy Sơn, luật sư của ông Uy, nói rằng sau một phiên xử ngắn tòa án đã ra phán quyết cho rằng thân chủ của ông phạm tội dùng trang mạng xã hội này để chỉ trích chính phủ.

“Ðây là một trong những vụ án đầu tiên ở Việt Nam mà trang Facebook có vị trí trung tâm đối với những gì mà ông ấy (Ðinh Nhật Uy) bị truy tố.”

Phil Robertson, Human Rights Watch.”

“Theo văn bản khởi tố được đăng lại trên trang blog chính trị Dân Luận, những thông tin trên trang Facebook của Đinh Nhật Uy có những nội dung ngụy tạo, vu khống và xâm phạm lợi ích của nhà nước, tổ chức và công dân.”

Ông Phil Robertson, phó Giám đốc bộ phận Á châu của tổ chức nhân quyền Human Rights Watch, nói rằng lệnh khởi tố ông Đinh Nhật Uy có tính chất khác thường vì nó đặt trọng tâm vào việc ông sử dụng trang mạng xã hội Face book.

“Ngay cả trong trường hợp có những vụ án khác ở Việt Nam dính líu tới những người đã đăng tải thông tin trên Facebook, tôi vẫn cho rằng đây là một trong những vụ án đầu tiên ở Việt Nam mà trang Facebook có vị trí trung tâm đối với những gì mà ông ấy bị truy tố.”

Vụ án này làm nổi bật một thế hệ mới của những nhà tranh đấu ở Việt Nam, là nước có 32 triệu người sử dụng internet trong khối dân khoảng 90 triệu người.

Hơn 70% công dân mạng ở Việt Nam sử dụng Facebook và mặc dù có đôi lúc bị ngăn chặn bởi một số các công ty cung cấp dịch vụ internet, trang mạng xã hội này đã trở thành một diễn đàn rất sinh động cho những người viết blog chính trị ở Việt Nam.

” Hiện nay có một thế hệ mới của những nhà hoạt động internet. Họ là những người rất trẻ, rất can đảm. Họ dùng blog và mạng lưới xã hội để trao đổi thông tin và bày tỏ tình cảm, ý nghĩ của mình.

Nhà hoạt động Vũ Sỹ Hoàng.”

Ông Vũ Sỹ Hoàng, một nhà hoạt động ở Sài Gòn, là một trong số hàng ngàn người tham dự lễ thắp nến cầu nguyện tại một nhà thờ ở Sài Gòn hôm chủ nhật để bày tỏ sự ủng hộ đối với Đinh Nhật Uy và gia đình. Ông Hoàng cho biết cảm nghĩ như sau.

“Tôi nghĩ rằng hiện nay có một thế hệ mới của những nhà hoạt động, những nhà hoạt động internet. Họ là những người rất trẻ, rất can đảm. Họ dùng blog và mạng lưới xã hội để trao đổi thông tin và bày tỏ tình cảm, ý nghĩ của mình.”

Tuy hầu hết các nhân vật tranh đấu chính trị sử dụng truyền thông xã hội, các nhà quan sát nói rằng thế hệ trẻ hơn, lớn lên trong một hoàn cảnh kinh tế khá hơn, có cách tiếp cận riêng trong việc thảo luận về đề tài cải cách chính trị.

Ở Việt Nam trước đây, thảo luận về cải cách là lãnh vực riêng của các nhà trí thức. Nhưng giờ đây, theo giáo sư Jonathan London của Đại học Thành phố Hồng Kông, internet đang mở rộng cuộc thảo luận tới một khối người đông đảo hơn.

“Chúng ta đang thấy sự du nhập hoặc đa dạng hóa của những mô thức bày tỏ quan điểm chính trị. Và dĩ nhiên sức hấp dẫn của truyền thông xã hội ở Việt Nam là nó mang lại cho người dân Việt Nam một điều gì đó rất đặc biệt. Đó là tự do diễn đạt, là ngôn luận chính trị không qua trung gian. Đó là một việc thật sự mới mẻ ở Việt Nam và dĩ nhiên nó làm cho người ta cảm thấy phấn khởi.”

” Điều mà chúng ta đang chứng kiến là cuộc tranh đấu để thấy được những gì làm nên quyền tự do ngôn luận ở Việt Nam…

Jonathan London, Ðại học thành phố Hong Kong.”

Trong lúc các blogger chính trị tìm cách truyền bá thông tin và gây ảnh hưởng lên hàng triệu người sử dụng internet, chính quyền ở đây đang chật vật để tìm hiểu và quản lý diễn đàn mới của cuộc thảo luận chính trị. Giáo sư London cho rằng vụ xử Đinh Nhật Uy nêu bật mối căng thẳng đó.

“Một mặt, những người Việt Nam thuộc mọi thành phần đang đang ứng phó với một cuộc bàn thảo không ngừng thay đổi về xã hội và chính trị. Tôi nghĩ rằng đó là một quá trình mà tự bản thân nó là quá trình rất thú vị và phức tạp. Và mặt khác, đây là một vấn đề chính trị. Điều mà chúng ta đang chứng kiến là cuộc tranh đấu để thấy được những gì làm nên quyền tự do ngôn luận ở Việt Nam.”

Ông Phil Robertson của tổ chức Human Rights Watch cho biết ông tin là cáo trạng nhắm vào ông Đinh Nhật Uy có mục đích hăm dọa để những nhân vật tranh đấu và gia đình của họ không đi theo con đường của ông.

Nhiều người trong gia đình của các nhân vật bất đồng chính kiến đã sử dụng mạng internet để tranh thủ sự ủng hộ cho cuộc vận động của họ.

” Chúng tôi làm việc này cho tương lai. Tôi có một đứa con trai và tôi nghĩ về nó rất nhiều. Cho nên tôi nghĩ rằng điều mà tôi đang làm là làm cho nó…

Nguyễn Trí Dũng, con trai blogger Ðiếu Cày.”

Ông Nguyễn Trí Dũng, con trai của blogger Điếu Cày đang bị bỏ tù, cũng dùng trang Facebook của mình để vận động cho cha ông được thả. Ông nói rằng ông có thể bị bắt vì Điều 258 nhưng ông sẵn sàng chấp nhận hậu quả.

“Tôi không biết Kha và Uy nghĩ gì, nhưng tôi nghĩ rằng chúng tôi làm việc này cho tương lai. Tôi có một đứa con trai và tôi nghĩ về nó rất nhiều. Cho nên tôi nghĩ rằng điều mà tôi đang làm là làm cho nó và mẹ tôi hiểu được điều đó.”

Theo Human Rights Watch, 61 nhà hoạt động và bất đồng chính kiến ở Việt Nam đã bị tòa án Việt Nam kết tội trong năm nay, tăng đáng kể so với con số khoảng 40 người của cả năm 2012. Ông Robertson cho biết ông lo ngại là vụ xử Đinh Nhật Uy chứng tỏ xu hướng này sẽ tiếp tục.

Tôi Không Xin

Tôi Không Xin

Tôi không xin cả cuộc đời
Chỉ mong một chút tình người Việt Nam
Đời tôi nắng dãi mưa dầm
Ôm thương nhớ đứng gọi thầm tên nhau
Con tôi lưu lạc phương nào
Đứa ra miền Bắc, đứa vào miền Nam
Đứa về theo núi theo sông
Chết trong Trại Cấm, chết lòng biển sâu
Nhà tôi dột nát đã lâu
Bốn nghìn năm để một màu khăn tang
Tôi người hành khất Việt Nam
Ngồi nghe máu nhỏ xuống bàn tay khô
Tôi không giành giựt cơ đồ
Chỉ xin một chút tự do làm người.

Khuyết Danh

Cõi Già Trên Đất Lạ

Cõi Già Trên Đất Lạ

(Aging in a Foreign Land)

Tác giả: Andrew Lam

(GNA: Andrew Lam là một nhà văn trẻ, Việt Kiều, khá thành công trong những bài viết của ông về cộng đồng Việt cho độc giả Mỹ. GNA xin vinh dự gởi đến các BCA một bài commentary tiêu biểu của Andrew)

Người Việt có một câu nói: Mỹ là thiên đường giới trẻ, địa ngục giới già. Nay tôi đã vào cái tuổi giữa 70, câu nói này thật là thấm thía. Mỹ có tất cả những sản phẩm dành cho thanh thiếu nhi: đồ chơi, phim ảnh, máy chơi điện tử thính thị, khu giải trí có chủ đề (theme parks). Còn đối với người già, thì chỉ có sự cô lập và nỗi cô đơn.

Căn bản nếp sống của người Việt dựa vào gia đình, cộng đồng, và khi ta mất những cái đó, ta mất đi một phần lớn cái tôi. Khi còn sống ở Việt Nam, tôi không bao giờ nghĩ đến việc sinh sống tại một nơi nào khác ngoài quê hương. Ta sống và chết nơi tiền nhân đã sống và đã chết. Ta có thân nhân, giòng họ; ta có gia đình, có những miếu đền.

Một khi ta đã quen miền đất với mồ mả tổ tiên, ta sẽ không còn sợ tử thần và cái chết. Nhưng tại Mỹ, lối sống cũ của chúng ta không còn nữa. Chúng ta bị buộc phải ra đi khi cuộc chiến kết thúc vào năm 1975, và chúng ta đã sống xa xứ từ lúc đó. Ngày nay, bạn bè và thân nhân của chúng ta tản mạn khắp nơi trên thế giới.

Tại Mỹ, càng già càng mất mát nhiều – bạn bè, thân nhân, trí nhớ, khả năng di chuyển, và ý nghĩ của chính mình. Chuông điện thoại kêu. Tôi nhấc ống máy. Đây là bà tên-này-tên-nọ ở Los Angeles. Bà mắc bệnh tiểu đường và mới bị cưa chân. Rồi chuông điện thoại lại reo nữa: Ông tên-ni-tên-nớ ở Georgia bị ung thư phổi, chỉ còn sống khoảng vài tháng. Ở Việt nam, chúng tôi đều là bạn thân. Nhưng với cái tuổi đời chồng chất như tôi, tôi làm sao đến thăm họ được khi họ hàng ngàn cây số cách xa? Làm sao ta tưởng tượng được đến việc gọi điện thoại cho người bạn thân khi họ nằm chờ chết trong bệnh viện, để nói lời xin lỗi là không thể tận mình đến viếng thăm được lần cuối. Ấy vậy, tôi làm điều này mỗi tháng, buồn lắm.

Tôi và chồng tôi, chúng tôi dự định đi một chuyến du lịch Âu châu vào kỳ hè tới đây. Chuyến đi này là chuyến đi cuối cùng, để nói lời giã biệt thân nhân bè bạn. Chúng tôi biết là sau chuyến đi này, chúng tôi sẽ không đi đây đi đó được nữa vì sức khỏe đã kém, sẽ không thấy mặt họ nữa. Tôi gần như không bước xuống được cầu thang nhà vì đầu gối chân rất đau. Nhà thì đã bán, giờ thì chúng tôi ở trong một chung cư có thang máy vì đó là điều kiện duy nhất mà chúng tôi có thể sống độc lập không nhờ vả đến ai bây giờ.

Điều mà tôi quan tâm nhất là trí nhớ suy sụp rất nhiều. Tôi là người giữ gia phả của giòng họ, nhưng tất cả đều nằm ở trong đầu. Biết ai liên quan với ai như thế nào trong họ là nghề đặc biệt của tôi, người con gái trưởng trong nhà. Nhưng không một đứa con nào của tôi biết được những mối dây liên hệ gia đình trong gia tộc, ngay cả đến những người em của chính tôi. Không có tôi, họ hàng thân thích sẽ trở thành kẻ xa lạ nếu tình cờ gặp nhau trên đường phố. Tôi có thể nhớ đến được những bà con cô dì chú bác ba đời của gia đình bên tôi và của cả bên chồng. Tôi phải viết xuống trước khi trí nhớ tôi lụt hết.

Thỉnh thoảng vào buổi sáng khi thức dậy, tôi lặng nhìn cây cối ngoài phố và tự hỏi tôi đang ở nơi nào. Đôi lúc, tôi đi sang khu chung cư kế cận, nơi có một số mèo hoang, và cho chúng ăn những thức ăn thừa. Khi tôi cất tiếng gọi, chúng nhận ra giọng nói của tôi và bổ xua lại. Bây giờ, chúng là những niềm vui nhỏ của tôi.

Đương nhiên những ngày hạnh phúc nhất là những ngày con cháu đến thăm. Nhưng chúng cũng có đời sống riêng, thỉnh thoảng chỉ đến chơi được một lúc rồi về, tôi làm gì cho hết những khoảng thì giờ trống trải sau đó?

Mẹ tôi, bà mất năm bà 97 tuổi, và mẹ chồng tôi, qua đời lúc 95 tuổi; cả hai người có sống chung trong một khu dưỡng lão nhiều năm. Tôi thường đi xe buýt đến thăm hai bà mỗi ngày, ngay cả khi còn đi làm. Từ lúc đó tôi đã biết cái thảm não của người già trên đất Mỹ, ngay khi tôi còn trẻ trung mạnh khỏe. Các nhân viên điều dưỡng ở đó thường nói với tôi là hai bà có phước lắm, thường có được con cháu đến thăm. Tôi trả lời: “Đó là lối sống của người Việt Nam”. Còn những người già khác, con cháu họ ít đến. Tôi có nhớ một số bà lão, ngồi trên những chiếc xe đẩy, ngóng trông con cháu hay người thân, ngày này qua ngày khác, nhưng chẳng thấy ai. Có cả một bà cụ, cụ còn sống lâu hơn những người con trai; mỗi ngày bà vẫn ngồi chờ trông mong hình ảnh người con trai bước qua khung cửa. Thật tội nghiệp khi người ta sống dai như vậy trong sự cô đơn!

Ở xứ Mỹ này, tuổi già đúng là tuổi lỡ thời; cả hai đều không được người ta kính nể hay cho một chút gì quan trọng. Ở quê nhà, các ông già bà lão thì được nể vì nhất, vì họ là những người chia xẻ túi khôn cùng kinh nghiệm cho những người đi sau. Điều đó không có ở đây. Không ai muốn nghe tiếng nói của người già. Họ cảm thấy bị cô lập ngoài vòng ranh giới của con cháu Mỹ hóa của họ. Chúng cười vang về nhiều thứ mà tôi không hoàn toàn hiểu được. Mỹ đúng là một quốc gia của giới trẻ hơn là giới già như tôi.

Vào những buổi chiều mùa đông, tôi ngồi nhìn những hàng cây trơ trụi lá, tâm hồn lạc lõng. Tôi nghĩ về cái thế giới mà tôi đã biết, nay đã bay xa, như làn khói hương trầm. Tôi nghĩ đến cố hương, đến những mùa lễ Tết ở Saigon, đến những đám cưới, đám hỏi, đến những chuyến du lịch, những lần tíu tít họp mặt gia đình, ai ai cũng có mặt, con nít chạy quanh, người lớn ngồi nói chuyện đời chuyện gẫu, đàn bà con gái quây quần chung lo việc bếp nước. Và tôi cảm thấy rất khao khát những ngày quá khứ xa xưa.

Andrew Lâm (Aging in a Foreign Land)

Cõi Già Trên Đất Lạ [Nguyễn Đức Nguyên chuyển ngữ]

thuật lại theo lời kể của mẹ anh, bà Ngọc Bich Lâm(Lâm Quang Thi).

Andrew Lam là một biên tập viên của NAM (New American Media) và cũng là tác giả cuốn Perfume Dreams: Reflection on the Vietnamese Diaspora ( Những Giấc Mơ Hương: Hoài Niệm Cuộc Sống Xa Quê) (Heyday Books, 2005). Cuốn sách này gần đây đoạt giải thưởng Beyond Margins 2006 của Trung Tâm Văn Bút Mỹ (PEN American Center).

Aging In A Foreign Land

A commentary posted on New American Media on 10 Jan 2007. This article is an account by Ngoc Bich Lam(Quang Thi Lam) as told to her son Andrew Lam.

There’s a Vietnamese saying: America is paradise for the young, but hell for the old, and how true it seems now that I’m in my mid-70s.

America has all these products that cater to children: toys, movies, video games, theme parks. For the old there’s only isolation and loneliness.

Vietnamese are defined by family, by community, and when you lose that, you lose a big part of who you are. In Vietnam I never thought of living anywhere else but in my homeland. You live and die where your ancestors lived and died. You have your relatives, your clan; you have your family, your temple.

Once we were bound to the land in which our ancestors are buried, and we were not afraid of death and dying. But in America our old way of life is gone. We were forced to flee after the war ended in 1975, and we have lived in exile since then. Today, my friends and relatives are scattered across the world.

In America you lose so much the older you get — friends, relatives, memories, mobility, a sense of yourself. The phone rings. I pick it up. It’s Mrs. so-and-so in Los Angeles. She’s got diabetes and had her leg amputated. Then the phone rings again: Mr. so-and-so in Georgia has lung cancer. He’s only got a few months left. Back in Vietnam, we were all good friends. But at my age, how do you visit when they’re thousands of miles away? Can you imagine calling your close friends as they lay dying in a hospital, apologizing for not being able to go see them for one last time? Well, I do that monthly now. It’s very sad.

My husband and I, we are planning a trip this summer to Europe. It’s our final trip, to say goodbye to relatives and friends. We know we won’t be able to travel after this, as our strength is failing. We’ll never see them again after that. I can hardly climb down stairs because my knees hurt very badly. We sold our house and live in a condo with an elevator because it’s the only way to be independent now.

What I worry about most is that my memory is not what it used to be. I am the keeper of our family tree, but it’s all in my head. Who’s related to whom was my specialty, being the oldest daughter in the family. But none of my children know about the large clan connection, not even my younger siblings. Without me, people who used to be relatives will be strangers if they meet again on the street. I used to know all the way to my third cousins on both my side and my husband’s side of the family. I have to write down all of their names before my memory goes.

Sometimes when I get up in the morning, I stare out at the trees outside and wonder where I am. Sometimes I go to the apartment complex across the street, where there are some abandoned cats. I feed them with my leftovers. They recognize my voice. I call and they run to me. They are my source of joy.

When my children and grandchildren visit, it’s a great time, of course. But everyone has their own lives. They come once in a while, but what do you do with all those empty hours that stretch out before you?

My mother, who died at the age of 97, and my mother-in-law, who died at the age of 95, were in the same convalescent home for years. I used to take the bus to see them everyday, even when I was working. I knew how sad it was to grow old in America even back then, when I was healthy and younger. The nurses told me how lucky the two grandmothers were, having all these children and grandchildren visiting them on a regular basis. “It’s the Vietnamese way,” I would tell them. All those other old people, their children rarely visit. I remember a few old women sitting in their wheelchairs waiting for their children or family, day in and day out, and no one came. There was even one who outlived her children and still, everyday, she expected her sons to walk in through the door. How tragic to live so long and to be so alone!

The old are obsolete here in America. Neither respected nor deemed important. Back home, the elders are given the highest place of honor, and it was they who dispensed wisdom and shared their experiences with those who came up after them. It’s not true here. No one wants to hear what you have to say. You feel isolated from your Americanized children and grandchildren. They laugh at things I don’t understand.

America is so much more their country than it is mine. In the winter afternoons I sit and watch the barren trees, feeling very lost. I think of how the whole world I once knew is all gone now, like incense smoke. I think of the old country, of the Tet Festivals back in Saigon, of the weddings and holidays, with gatherings of families and friends, everyone together, children running, adults gossiping, women cooking together, and I feel this deep yearning for the distant past.

Andrew Lam

Lịch Sử Ngày Lễ Các Đẳng Linh Hồn!

Lch S Ngày L Các Đng Linh Hn!

Lm Nguyễn Phước, OFM

Ngay từ thời tiên khởi, Giáo Hội đã khuyến khích chúng ta cầu nguyện cho người chết như một nghĩa cử bác ái.  Thánh Augustine viết, “Nếu chúng ta không lưu tâm gì đến người chết, thì chúng ta sẽ không có thói quen cầu nguyện cho họ.”

Tuy nhiên, các nghi thức cầu cho người chết có tính cách dị đoan thời tiền-Kitô Giáo đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến nỗi mãi cho đến đầu thời Trung Cổ, nhờ các Dòng ẩn tu có thói quen cầu nguyện cho các tu sĩ đã qua đời hàng năm thì một nghi thức phụng vụ cầu cho người chết mới được thiết lập.

Vào giữa thế kỷ 11, Thánh Odilo, Tu Viện Trưởng Dòng Cluny,  ra lệnh rằng mọi tu viện Dòng Cluny phải cầu nguyện đặc biệt và hát kinh Nhật Tụng cầu cho người chết vào ngày 2 tháng Mười Một, ngay sau lễ Các Thánh.  Truyền thống này được lan rộng và sau cùng được Giáo Hội chấp nhận đưa vào niên lịch Công Giáo La Mã.

Ý nghĩa thần học làm nền tảng cho ngày lễ này là sự thừa nhận bản tính yếu đuối của con người.  Vì ít có ai đạt được một đời sống trọn hảo, mà hầu hết đã chết đi với vết tích tội lỗi, do đó cần có thời gian thanh tẩy trước khi linh hồn ấy được đối diện với Thiên Chúa.  Công Ðồng Triđentinô xác nhận có luyện tội và nhấn mạnh rằng lời cầu nguyện của người sống có thể rút bớt thời gian thanh luyện của linh hồn người chết.

Sự dị đoan vẫn còn dính dấp đến ngày lễ này.  Thời trung cổ người ta tin rằng các linh hồn trong luyện tội có thể xuất hiện vào ngày lễ này dưới hình thức các phù thủy, các con cóc hay ma trơi.  Và họ đem thức ăn ra ngoài mộ để yên ủi người chết.

Tuy nhiên việc cử hành lễ với tính cách tôn giáo vẫn trổi vượt.  Người ta tổ chức đọc kinh cầu nguyện ở nghĩa trang hay đi thăm mộ người thân yêu đã qua đời và quét dọn, trang hoàng với nến và hoa.

Có nên cầu nguyện cho người chết hay không, là một tranh luận lớn khiến chia cắt Kitô Giáo.  Vì sự lạm dụng ơn xá trong Giáo Hội thời ấy nên Luther đã tẩy chay quan niệm luyện tội.  Tuy nhiên, đối với chúng ta, cầu cho người thân yêu là một phương cách cắt bỏ sự chia lìa với người chết.

Qua lời cầu nguyện, chúng ta cùng đứng với những người thân yêu, dù còn sống hay đã ra đi trước chúng ta, để dâng lời cầu xin lên Thiên Chúa.

“Chúng ta không thể coi luyện tội là một nhà tù đầy lửa, cận kề với hỏa ngục – hoặc ngay cả ‘một thời gian ngắn của hỏa ngục’.”

Thật phạm thượng khi nghĩ rằng đó là một nơi chốn mà Thiên Chúa bủn xỉn đang bòn rút từng chút thân xác…

Thánh Catherine ở Genoa, vị huyền nhiệm của thế kỷ 15, viết rằng ‘lửa’ luyện tội là tình yêu Thiên Chúa ‘nung nấu’ trong linh hồn đến nỗi, sau cùng, toàn thể linh hồn ấy bừng cháy lên. Ðó là sự đau khổ của lòng khao khát muốn được xứng đáng với Ðấng được coi là đáng yêu quý vô cùng, họ đau khổ vì sự mơ ước được kết hợp đã cầm chắc trong tay, nhưng lại chưa được hưởng thật trọn vẹn.”

(Leonard Foley, O.F.M., Tin Chúa Giêsu).
Lm Nguyễn Phước, OFM

SÀI GÒN ƠI…..!!!

SÀI GÒN ƠI…..!!!

Tôi về thăm lại Sài Gòn,
Từng di tích một chẳng còn nơi đây,
Đường xưa thiếu bóng hàng cây,
Thiếu màu nhung nhớ đong đầy tim ai,
Nắng chiều nung mắt thêm cay,
Khói xe phủ kín hình hài quê hương,
Nhìn người xuôi ngược mà thương,
Trẻ thơ bỏ học đứng đường ăn xin,
Ôi bao cảnh cũ còn in,
Bây giờ xa lạ tâm tình nát tan,
Cuộc đời chìm nỗi lang thang,
Không nhà không cửa còn mang bệnh đời,
Thấu chăng chỉ có ông Trời,
Bao nhiêu khổ ải khắp nơi đất này…

Liverpool.29/10/2013.
Song Như.

Kính gởi quý Thầy Cô và các bạn LVC.
Kính chúc sức khỏe.
KT

Vợ Chồng Khắc Khẩu

Vợ Chồng Khắc Khẩu

Nguyễn Thị Thanh Dương

Bao giờ đi chợ chị Bông cũng đến khu trái cây trước để hi vọng chọn lựa được những thứ tươi ngon kẻo người khác chọn mất khi nhân viên trong chợ chưa kịp bày hàng khác ra. Đi chợ “bon chen” là thế.
Ngay cả khi chị Bông chuẩn bị đậu xe vào bãi parking lúc nãy cũng là chuyện được thua, chị đang nhắm cái chỗ dễ vào nhất nhưng chậm chạp chưa kịp lái vào thì ai đó đã xẹt một cái chiếm chỗ đậu ấy, chẳng lẽ chị xuống xe và nói “ông ơi, chỗ này tôi đã chọn rồi” và cãi nhau với ông ta.
Chị Bông đang lựa những trái chuối màu vàng tươi da mịn màng cho đúng ý thì gặp một ông người Việt Nam lớn tuổi cũng vừa đến và đứng xớ rớ trước quầy chuối, chị Bông nghĩ chắc bác gái đang bận mua rau mua cá nên chia việc cho ông chồng mua chuối chăng?
Chị đến gần ông và ân cần hỏi:
– Bác ơi để tôi lựa chuối giúp. Bác cấn mua mấy pound?
– Chị lấy cho tôi 3 qủa.
– Sao mua ít thế? Bác gái dặn mua mấy pound?
Nghe nhắc đến “bác gái” ông gìa khoảng hơn 70 tuổi được dịp khai ra làm như đã quen chị Bông từ đời nào rồi:
– Tôi và bà ấy ở riêng, ăn riêng. Bà về ở với vợ chồng đứa con gái chỉ thỉnh thoảng tạt về nhà, còn tôi ở nhà một mình, ăn 3 qủa chuối đủ rồi chị ạ.
Chị Bông tò mò khai thác:
– Chắc bác gái về ở phụ giúp cho con cho cháu chứ nỡ lòng nào để bác trai lui cui một mình?
– Bà ấy đi thật đấy vì tôi với bà khắc khẩu, hễ tôi nói điều gì là bà ấy cãi, ngược lại bà nói câu gì tôi cũng cảm thấy ngứa tai lắm nhịn không nổi. Thế là hai vợ chồng cãi nhau cả ngày lẫn đêm.
– Sao lại cãi nhau cả ban đêm hở bác?
. Ông gìa tâm sự:
– Hai vợ chồng ở nhà diện housing, thuê căn chung cư 1 phòng ngủ, cái giường ngủ của con gái mua cho rộng mênh mông, bà ngủ hay đạp lung tung tôi đã nhịn, đêm lục đục ngồi dậy đi tiểu mấy lần tôi cũng nhịn, nhưng bà ấy lại không chịu nhịn tôi, cứ phàn nàn là tôi ngủ ngáy ầm ĩ như người ta cưa gỗ. Tôi lại nhịn lần nữa, phải kê cái giường nhỏ ngoài phòng khách để ngủ thế mà vẫn không yên, bà vẫn kêu ca tiếng ngáy của tôi… vang vọng vào bên trong làm bà mất ngủ kinh niên. Thành ra đêm nào đi ngủ cũng cãi nhau và cả hai cùng mất ngủ
– Nhưng ngày xưa bác ngủ có ngáy to thế không? Ăn ở với nhau bao nhiêu năm bác gái không quen thuộc với tiếng ngáy của chồng sao?
– Ngày xưa cái hồi mới cưới nhau đấy, bà ấy thường nũng nịu rằng tiếng ngáy của anh ru em vào giấc ngủ thần tiên. Nhưng bây giờ bà bảo tuổi gìa khó ngủ và không thể chịu được tiếng ngáy của tôi. Tôi liền bảo vậy bà đi đâu thì đi cho bà ngủ ngon và cho tôi khuất mắt, bà liền cuốn gói đến nhà con gái.
Chị Bông an ủi:
– Tuổi gìa ai cũng đổi tính đổi nết bác ạ, đừng nên trách bác gái.…
Ông đưa tay lên vuốt mấy sợi tóc may mắn còn loe ngoe trên cái đầu hói mênh mông:
– Mỗi lần tôi đi ra tiệm cắt mái tóc này phải cãi nhau xong một trận mới đi được vì bà mắng tôi đầu có 3 cọng tóc cắt làm gì cho phí tiền, để bà ấy cắt cho. Mà bà cắt thì tôi không vừa ý tí nào, bắt tôi nghiêng đầu bên này, ngoẹo đầu bên kia rồi cúi lên cúi xuống mỏi cả cổ.
Chị Bông giật mình nghĩ tới vợ chồng chị. Hai vợ chồng cũng khắc khẩu, đụng tới chuyện gì cũng bất đồng, cũng tranh cãi. Không biết mai kia vợ chồng chị gìa như bác này có đổi tính đổi nết và tình trạng khắc khẩu có trầm trọng thêm không?
– Thế bác tự đi chợ tự nấu cơm hả bác?
– Bà ấy hay con gái mang đồ ăn sang cho tôi, thỉnh thoảng tôi cần thứ gì thì đi mua thêm như ngày hôm nay cần 3 qủa chuối, nhà tôi cách chợ này chỉ một block đường tôi đi bộ cho khỏe người
– Đằng nào cũng công đi bộ, công vào chợ và công đợi tính tiền sao bác không mua hẳn mấy pao chuối
– Ấy, bà ấy ở nhà cũng nói y như chị nói và mắng tôi là lẩm cẩm. Thôi, chào chị tôi về trước nhé.
Ông xách cái bịch có 3 qủa chuối đi ra phía quầy tình tiền và chắc phải xếp hàng rồng rắn khá lâu vì hôm nay cuối tuần chợ đông người.
* * *

Chị Bông đi chợ về đến nhà, xách các túi hàng vào trong bếp nơi gần cái tủ lạnh. Anh Bông đang nằm gác chân trên ghế sofa xem ti vi. Chị đi ra đi vào mấy lượt mà anh chẳng nói gì, chị phải lên tiếng:
– Anh có ra xách giùm mấy món hàng chợ không nào?
– Không! Giọng anh Bông rõ ràng và dứt khoát.
Chị Bông khó chịu:
– Vợ đi chợ về bận túi bụi còn chồng ngồi khểnh ra đấy xem ti vi và uống bia, vợ nhờ một tí không được.
Anh Bông đang uống bia chắc có chút men nên gắt:
– Anh cắt cỏ xong mới vừa tắm rửa và ngồi xem ti vi đây, cái lối nói “nhờ vả” như “sai khiến” của em thì dù anh muốn giúp cũng không thèm giúp.
– Vậy anh muốn em nói thế nào? Năn nỉ hả? Thì đây, anh ơi làm ơn làm phước ra xách giùm em mấy túi hàng, em cám ơn anh suốt đời.
– OK, dù giọng nói của em đành hanh và mỉa mai.
Anh Bông ra xe xách nốt những túi hàng vào nhà và phụ vợ lôi hàng ra để chị Bông xếp vào tủ lạnh cho nhanh. Anh cầm gói đồ biển thập cẩm đông lạnh lên ngắm nghía rồi thảng thốt:
– Sao em mua hàng China? Trong khi chính miệng em thường nói tẩy chay hàng của họ vì nhiều hàng rổm và độc hại…
Chị Bông cầm gói hàng lên xem lại và bào chữa:
– Tại hôm nay đi chợ em… quên mang theo mắt kính, mà hàng Trung Quốc nào cũng chuyên môn in xuất xứ nhỏ xíu hay mập mờ không rõ nguồn gốc. Nhìn sơ sơ mẫu mã em cứ tưởng hàng của Korea.

– Em thì lúc nào cũng tưởng đến hoang tưởng, cũng có lý do chính đáng cho những sai sót của mình. Hôm nọ cũng mua lộn hàng China rồi…
– À, hôm ấy em… lộn kiểu khác, em xớn xác đọc thấy hàng chữ CA, USA em… tưởng sản xuất tại California USA hóa ra là distributed là phân phối bởi công ty ở California, USA. Mà họ láu cá lắm, “Product of China” thì in nhỏ xíu, công ty distribute tại CA, USA thì in to tổ bố hỏi ai không lầm
– Họ tự ti mặc cảm với chính món hàng mình sản xuất, nên không dám in to in đậm, đúng là thứ làm ăn gian dối. Em phải ra chợ trả lại ngay gói hải sản thập cẩm này. Anh thà nhịn chứ không ăn hàng rổm, là vô tình ủng hộ cách làm ăn gian dối của họ.
– Vâng, em sẽ trả lại Anh yên chí đi
Chị lấy lòng chồng, vì biết anh Bông rất bất mãn Trung Quốc chiếm đất chiếm biển của Việt Nam:
– Em không ưa gì Trung Quốc ngoài cái tội làm hàng rổm, hàng gỉa dối cả thế giới đều biết, còn tội bá quyền hà hiếp các nước láng giềng. Họ cướp đảo cướp biển, cướp đất của Việt Nam chúng ta, em thích những phản ứng mạnh mẽ của Nhật Bản và Philippine, cầu mong 2 nước này cho Trung Quốc bài học đích đáng.
Nhưng anh Bông chẳng vừa lòng mà còn khiển trách:
– Em nói như diễn kịch lúc này lúc nọ ai mà tin nổi, một mặt chê trách Trung Quốc một mặt cứ lấy những hình ảnh đẹp đất nước Trung Quốc ở trên net ra khoe và khen nức nở.
Chị Bông bực mình:
– Cảnh thiên nhiên đẹp đẽ ở Trung Quốc thì có tội tình gì? Nơi đâu đẹp thì em khen, em thích. Mà em còn thích các nữ tài tử điện ảnh Trung Quốc nữa đấy, cô Chương Tử Di, cô Củng Lợi đẹp tuyệt vời…
Anh Bông bỏ dở công việc phụ giúp vợ đứng phắt dậy đi ra ghế uống bia và xem ti vi tiếp. Chị Bông càng bực mình nói với theo:
– Không hiểu sao tôi với anh luôn khắc khẩu, nói chuyện chưa được 5 phút là xảy ra bất đồng rồi. Anh nhạy cảm vụ Trung Quốc vừa phải thôi chứ.
– Tôi yêu cầu bà chấm dứt để tôi ngồi yên xem ti vi
– Tôi yêu cầu ông bỏ cái thái độ “chảnh chọe” và bất lịch sự ấy đi nhé, đang nói chuyện với vợ mà đứng phắt dậy bỏ đi không nói một câu.
Xếp đồ vào tủ lạnh xong chị Bông chưa hết bực mình, tuyên bố:
– Tôi chẳng cần ra chợ trả lại cái bịch hải sản này, mai tôi cứ nấu, cứ ăn chắc gì đã chết mà sợ. Ai cũng một lần chết trong đời!
Anh Bông gầm gừ:
– Thế thì bà ăn một mình bà đi.
– OK, tôi không… hèn nhát đâu, khỏi cần thách đố.
Chị Bông vào phòng nằm vì không muốn nhìn mặt đối phương.
Ngày xưa lúc đang yêu nhau và mới cưới nhau hai vợ chồng chị luôn hòa hợp từng lời ăn tiếng nói. Càng ngày thì càng thay đổi, chẳng ai chịu nghe ai.
Mỗi lần cần đi xe cùng chồng cũng là dịp cãi nhau chỉ vì mỗi người một ý không ai nhường ai, anh Bông thích quay cửa kính xe xuống tận cùng cho gío lùa vào xe lồng lộng thì chị Bông muốn đóng cửa xe lại hay mở chút xíu bằng một đốt ngón tay thôi vì chị sợ gió thổi bay tóc.
Anh Bông gắt:
– Tóc bay thì kệ tóc bay. Tôi muốn gío lùa vào xe cho không khí thiên nhiên thoải mái.
Chị Bông cũng gắt:
– Không khí thế nào cũng không quan trọng bằng mái tóc tôi, tôi phải lo bảo vệ nó, tôi không muốn chốc nữa bước xuống xe tóc tôi rối tung lên như một bà điên.
Cuối cùng người chịu thua là chị Bông, hoặc chị xuống xe không đi chung, hoặc chị đành ngồi trong xe nhưng mặt sưng xỉa lên, tay thì luôn giữ cho mái tóc khỏi bay và thỉnh thoảng chị lại rên lên:
– Làm ơn chạy xe chậm lại, cửa xe đã quay xuống tối đa lại chạy nhanh thì không chỉ bay tóc mà… bay cả người luôn đó.
Chị Bông chợt nhớ đến hình ảnh vừa xem trên ti vi tối qua trong chương trình Live Well Network chuyên về đời sống và bếp núc mà chị ưa thích, có cặp vợ chồng gìa người Hispanic tuổi đời độ 70, bà trổ tài nấu một món gì đó có ông đứng bên phụ giúp rất tương đắc, nấu xong bà quay ra tô lại chút môi son và hai vợ chồng ôm nhau tình tứ vài điệu nhảy ngay tại bếp, ngay bên cạnh món ăn vừa nấu rồi uống một chút rượu, rồi thưởng thức món ăn.
Trên màn hình chiếu lại những hình ảnh thời trẻ của họ cả hai đều đẹp đôi, nhưng hiện tại bà mập tròn phục phịch chẳng tương xứng với ông vẫn dáng gầy thanh tao, thế mà họ vẫn bày tỏ tình yêu và hai tâm hồn đồng điệu lãng mạn.
Vợ chồng gìa người ta như thế đấy.
Họ tuổi đời 70 còn tình, vợ chồng chị mới 60 lẽ nào chịu thua? Chị Bông thấy lòng nguôi giận chồng, chị sẽ bắt chước họ
Chị Bông đi ra ngoài thấy chồng vẫn nằm coi ti vi liền ghé mắt nhìn vào ti vi và làm quen cho êm ấm nhà cửa:
– Anh đang xem tin tức hả?
Chồng cũng nguôi ngoai:
– Ừ, anh đang xem tin tức thế giới…
– A, tin tức về Syria đây mà, ngày nào cũng đạn nổ bom rơi tội nghiệp qúa..
– Bởi thế anh cầu mong Mỹ bỏ bom tấn công tiêu diệt chế đô Bashar al Assad cho rồi, nhất là họ đã xử dụng vũ khí hoá học làm chết người hàng loạt.
– Ôi, anh ơi, em không muốn thế….
Anh Bông lại gay gắt:
– Tôi biết ngay mà, hễ tôi nói trắng thì bà phải nói đen, bà luôn làm tôi cụt hứng. Tại sao bà không muốn Mỹ dội bom Syria , nói nghe coi?
– Vì em sợ cảnh chết chóc thêm ở Syria, tội nghiệp! và em cũng sợ… tốn tiền nước Mỹ, nước Mỹ đang nợ nần như chúa Chổm. Tội nghiệp.
Chị Bông xót xa tiếp:
– Nước Mỹ đi đánh giặc kiểu nhà giàu, ngoài máy bay, chiến xa xe tăng, các loại xe cộ, vũ khí đạn dược tối tân họ còn mang tất cả tiện nghi theo người lính Mỹ ra chiến trường. Sau hai cuộc chiến ở Iraq và Afghanistan nước Mỹ đã tốn phí mấy trăm tỷ USD, bao lính Mỹ đã chết và bị thương. Tội nghiệp.
– Trời, chuyện chính trị mà bà làm như chuyện từ thiện, đàn bà chỉ nói chuyện shopping thôi, đừng nói chuyện chính trị với tôi nhé!.
Chị Bông chẳng vừa:
– Mỗi người đều có ý kiến của mình, anh không có quyền mong muốn kẻ khác cùng quan điểm với anh. Tôi là đàn bà cũng biết nghe tin tức chính trị trên ti vi hay đọc trên báo chí, trên net vậy, thua kém gì đàn ông các anh?
– Nhưng tôi với bà không hợp khẩu. Bà nói chuyện phone hàng giờ với bạn bè vui vẻ nhưng bà nói chuyện với tôi chỉ câu trước câu sau là gây bất mãn rồi.
– Thế sao ngày xưa lúc sắp cưới tôi anh khoe là má anh đi coi thày bà mấy nơi, nơi nào cũng nói tuổi tôi và anh rất hợp và anh đòi cưới gấp gấp, càng sớm càng tốt.
– Tôi cũng ngạc nhiên và muốn tìm lại mấy tay thày bà ấy để hỏi cho ra lẽ đây. Mẹ bà cũng dẫn bà đi coi bói và nói tôi với bà không khắc khẩu khắc tinh gì đó mà.…
– Đúng thế, và tôi cũng muốn tìm ông thày bói ấy từ lâu rồi. Thì ra hai chúng ta cùng… hợp nhau ở điểm này.
Chị Bông chợt nhớ ai đó đã nói không nên bàn luận chuyện chính trị và tôn giáo với người khác dễ gây tranh cãi, chỉ nên nói về thời tiết nắng mưa là vô tư nhất. Chị vẫn muốn làm lành nên cố dịu giọng và chuyển đề tài:
– Anh ơi, thời tiết mùa hè nguy hiểm qúa, vụ cháy rừng ở California đốt hết bao nhiêu mẫu đất rừng cây, cư dân ở gần phải di tản vì khói bụi của đám cháy có thể gây ảnh hưởng đến sức khỏe. Bởi vậy em lên án những kẻ sơ ý vứt một mẩu thuốc lá vừa hút hay cắm trại còn sót mẩu củi than chưa dập tắt để bùng lên những đám cháy rừng kinh khủng này.
Chị tưởng sẽ nhận được sự hưởng ứng của chồng, nhưng anh Bông thô lỗ gạt phăng:
– Tôi không phải bộ xã hội để bà trút cảnh thương xót. Sao bà nhiều chuyện qúa vậy, hết chuyện chiến tranh đến chuyện cháy rừng, còn mấy nơi mưa lụt sao bà không liệt kê ra luôn đi…
– Ừ, anh nhắc em mới nhớ, mưa lụt cũng tội ghê, nhưng do trời làm thì chẳng dám trách ai, còn cháy rừng chúng ta có thể tránh được thì nên cẩn thận anh nhé…
– Bà dạy khôn tôi đấy hả? bà làm như mấy vụ cháy rừng kia có… liên quan đến tôi hả?.
Chị Bông không nhịn nữa:
– Này nhé, tôi chỉ tự nhủ lòng nói chung chung thế và mong ai cũng như mình để đừng gây thiệt hại cho người khác thôi. Anh thật là vô cảm.
Anh Bông chưa kịp cãi lại thì tiếng điện thoại bỗng reo lên, anh bốc phone lên:
– A, anh Chí đó hả… vâng, vâng chúng tôi đang ở nhà anh chị cứ đến ngay bây giờ…
Buông phone xuống anh Bông dịu giọng lại với vợ:
– Anh Chí vừa gọi, khoảng 15 phút nữa vợ chồng anh Chí sẽ đến đây cho cá chiều qua họ đi câu về.
Chị Bông cũng dịu giọng:
– Để em ra vườn hái mấy qủa bầu tươi, ít rau thơm và vài quả ớt hiểm biếu lại họ. Lần nào đi câu cá anh chị Chí đều mang chia cho nhà mình.
– Phải đấy, em hái thứ nào cũng nhiều vào, hậu hỉ vào.
Chị Bông lẩm bẩm:
– Vậy mà năm nào em trồng vườn anh cũng nói em bày đặt, vừa mất công chăm sóc vừa tốn tiền nước tưới và tiền phân bón, thà mua ngoài chợ còn rẻ hơn.
Chị Bông nói xong giật mình vì vô tình chị khơi lại chuyện bất đồng, chẳng khác nào chị vừa quăng một mẩu thuốc lá cháy dở vào giữa khu rừng trong mùa hè khô nắng, nhưng may qúa anh Bông không để ý, nên chị sẵn đà tới luôn:
– Trồng vườn vừa có thú vui, vừa có rau trái tươi tốt ăn ngon gấp mấy lần hàng chợ và nhất là thỉnh thoảng làm qùa tặng cho bạn bè. Lần sau anh đừng có cửa quyền mà cấm cản…
Anh Bông gằn giọng:
– Vì có bạn sắp đến tôi nhường bà hai câu rồi, bà mà nói câu thứ ba là tôi tung hê lên đấy. Bà mau ra vườn hái đi kẻo anh chị Chí đến bây giờ, họ lái xe nhanh lắm không lù đù như bà đâu.
Chị Bông biết điều cắp rổ đi ra vườn sau nhà, mặc dù bị chồng chê lái xe lù đù chị đã tự ái chỉ muốn đứng lại cãi vài câu cho hả.
Vợ chồng anh Chí là bạn thân thiết với vợ chồng chị Bông, khi chị Bông vào nhà thì vợ chồng anh Chí cũng đến, anh xách theo cái thùng đá to vào nhà và vui vẻ rao hàng:
– Cá tươi đây, cá tươi đây..
Chị Chí phụ họa với chồng:
– Cá tươi đã làm sạch sẽ rồi, chị Bông chỉ việc cất tủ lạnh ăn dần.
Chị Bông cảm động cất mớ cá vào tủ lạnh, những con cá chẳng biết ở Mỹ gọi là cá gì mà giống như cá He của Việt Nam, cá này tuy nhiều xương nhưng chiên lên thì thơm ngon vô cùng, hai vợ chồng chị Bông đều thích và ghiền luôn nên lần nào đi câu anh Chí cũng để dành một mớ tặng bạn.
Đến lượt anh Bông vui vẻ nói với bạn:
– Rau tươi, bầu tươi, ớt tươi đây, xin tặng lại anh chị.
– Cá tươi chiên vàng và bầu tươi luộc chấm nước mắm tỏi ớt cũng đủ là một mâm cơm thịnh soạn rồi. Cám ơn anh chị
Chị Bông tưởng tượng cảnh hai vợ chồng chị Chí đi câu chắc là lãng mạn lắm, họ ngồi cạnh nhau bên bờ hồ vừa đợi cá cắn câu vừa ngắm cảnh hồ nước mênh mông đang gợn sóng lăn tăn theo gió… Chị Bông khen:
– Anh chị hay đi câu với nhau thật là thú vị, tâm đắc và lãng mạn
Chị Chí thở dài:
– Lãng mạn gì ! tôi đi cùng để phụ ông ấy thôi, mệt muốn chết, ông sai tôi làm đủ thứ và lấy bia cho ông uống trong lúc chờ cá cắn câu, tôi lỡ quên mang áo lạnh thì ông cằn nhằn tôi suốt buổi. Rồi chuyện câu cá cũng cằn nhằn điếc cả tai…
Anh Chí thở than:
– Vậy chứ con cá lớn chưa đủ cỡ bà cũng bắt tôi bỏ vô thùng, thay vì phải thả lại xuống hồ, không cằn nhằn sao được?
– Tôi nghĩ đằng nào cũng là cá cắn câu, đã tốn mồi thì phải giữ lấy cá chứ. Đi câu là cái thú vị của ông nhưng là cái thực tế của tôi.
Chị Bông phải xen vào hỏi chuyện khác nếu không chuyện cãi nhau của họ còn dài.
Khách về rồi chị Bông nói với chồng:
– Thì ra vợ chồng nhà nào cũng có lúc khắc khẩu đâu chỉ nhà mình. Thôi thì cứ coi như cái màn khắc khẩu là vui nhà vui cửa, chứ êm thắm qúa thì cuộc sống tẻ nhạt lắm anh ơi…
Chị Bông nghĩ đến hai vợ chồng gìa người Hispanic nấu ăn trên ti vi, sau cái màn lãng mạn trữ tình yêu thương ấy để quay phim, ở ngoài đời chắc họ cũng từng cãi nhau, giận nhau. Đó mới là cuộc sống đời thường và bình thường. Đó mới là gia vị của cuộc sống như gia vị họ đã nêm nếm vào món ăn
Thấy anh Bông không phản đối gì câu triết lý an phận của mình chị Bông tiếp:
– Em hiểu ra rồi, cuộc sống vợ chồng càng lâu càng cũ thì càng qúa quen thuộc nhàm chán nên chẳng cần lịch sự giữ ý, chẳng cần nhường nhịn nhau, lấy lòng nhau làm gì, bởi thế mới dễ xảy ra đụng chạm, mâu thuẫn. Nhưng miễn sao vẫn sống cùng nhau lâu dài và cả đời là được rồi, đòi hỏi chi những điều lý tưởng đẹp như thơ, đẹp như mơ, phải không anh?.
Bây giờ anh Bông mới mỉm cười:
– Ừ… nãy giờ em nói 2 câu đều thực tế và nghe được, anh không thấy khắc khẩu tí nào.

Nguyễn Thị Thanh Dương
(Sept. 2013)

CHẾT KHÔNG ĐỢI TUỔI

CHẾT KHÔNG ĐỢI TUỔI

Tác giả: Lm. Anmai, C.Ss.R.

Đời người ! Nghĩ cũng lạ ! Có ngày bước vào trần đời ắt có ngày phải ra đi hay gọi là ngày chết. Ngày sinh ra, ngày bước vào đời có đó nhưng ngày chấm hết cuộc đời này không ai biết trước được. Chuyện sống chuyện chết là chuyện của Đấng tạo hóa, thụ tạo chỉ việc vui vẻ sống ngày nào hưởng ngày đó tùy vào đấng nhào nắn ra mình thôi.

Đứa trẻ con của hai vợ chồng thân quen được sinh ra, sống và lớn lên được 5 tuổi. Bỗng một ngày kia cháu sốt, nhập viện được vài tuần và cháu ra đi mãi mãi. Gia đình ngậm ngùi chào từ biệt em …

Người cha kể lại cho tôi hoàn cảnh bi đát của gia đình anh gặp phải đó là chuyện cô con gái 15 tuổi của gia đình. Bé đang đi học bình thường, bỗng dưng đến ngày kia bé sốt và đưa bé nhập viện. 2 tuần lễ chống chọi với cơn sốt và bé ra đi mãi mãi. Gia đình anh sốc đến cực độ nhưng rồi đúng 1 năm sau đó, Chúa lại ban cho anh chị một cháu nữa tạm gọi là thay vào nỗi đau cũng như trống vắng của gia đình.

Bé cháu ở nhà năm nay mới vừa bước vào cái tuổi thần tiên. Vì hoàn cảnh cha mẹ là nhà giáo, cháu cắm đầu cắm cổ học để cho mọi người khỏi cười chê. Ham học như thế, có những hôm chẳng nhớ là mình đã ăn chưa và mình đã đến giờ ngủ chưa … Và rồi những cơn đau đầu ập đến. Bé kể lại là cứ nghĩ là vì học nhiều nên đau đầu chứ cũng chẳng là gì đáng ngại để không cần phải đi kiểm tra sức khỏe. Cứ lướt qua, lướt qua và rồi một ngày kia đi bác sĩ kiểm tra thì kết quả thật đau lòng : bé bị ung thư não.

Với kết quả như vậy, bác sĩ bảo bây giờ không mổ cũng không được và mổ cũng không có khả năng lắm bởi lẽ chứng bệnh này hết sức đặc biệt. Cách đây vài tuần, bé đã mê man 3 ngày không biết gì nữa. Trong tiếng nấc nghẹn ngào, cháu bảo mạng sống của cháu giờ chỉ tính tháng tính ngày thôi chứ không còn tính năm nữa …

Buồn và đau khi nghe tin dữ ấy nhưng đành chịu bởi lẽ ngoài tầm tay với của cả gia đình, của đội ngũ bác sĩ giỏi trong một đất nước tiến bộ … Thế là cứ chờ và cứ đợi đến ngày cuối đời của cháu trong đau buồn của phận ngườ.

Mới đây thôi, một vị bác sĩ chuyên môn khá giỏi của một bệnh viện cũng lớn cũng đã qua đi vì chứng ung thư não. Khi phát hiện ra bệnh tình của mình, vị bác sĩ này nghiên cứu tỉ mỉ và thu thập tất cả các thông tin về bệnh của mình và gửi sang Pháp để nhờ các bác sĩ quen biết hỗ trợ nhưng vẫn không tìm ra giải pháp nào cho căn bệnh mà vị bác sĩ khá trẻ này đang mang. Sau một thời gian vắn, vị bác sĩ 41 tuổi đời này đã ra đi để lại niềm thương nỗi nhớ của gia đình, của bạn bè, của đồng nghiệp và cả những bệnh nhân mà bác sĩ đã tận tình chăm sóc khi còn sinh thời. Đặc biệt, cả bệnh viện gần như mọi người cảm thấy tiếc nuối cho một vị bác sĩ vừa giỏi vừa có tấm lòng đặc biệt với những bệnh nhân nghèo …

Có lẽ đây cũng là vài ba trường hợp mà tôi có dịp tiếp xúc, có dịp gặp gỡ, có dịp quen biết mà nay đã qua đi hay đang đón chờ cái chết đến mỗi ngày trong họ.

Thật ra chẳng có gì là lạ cả bởi lẽ sinh tử là chuyện của Đấng tạo hóa. Điều này chẳng có gì lạ và cũng chẳng có gì mới nơi thân phận con người.

Tính tuổi thọ trong ngoài bảy chục,

Mạnh giỏi chăng là được tám mươi,

Mà phần lớn chỉ là gian lao khốn khổ,

Cuộc đời thấm thoát chúng con đã khuất rồi.

(Tv 89, 10)

Ở Thánh Vịnh 144, câu 4 nhắc ta :

Ấy con người khác chi hơi thở,

vùn vụt tuổi đời tựa bóng câu.

Không chỉ vài đoạn Thánh Vịnh như thế này nhắc ta về sự sống, về cái chết của con người nhưng phản phất và trải dài trong Thánh Kinh và ngay trong những biến cố đời thường ta vẫn thấy hạn chế của con người trước sự sống. Cái chết đến vào lúc con người không ngờ và vào giờ con người cũng chẳng biết.

Nhìn những biến cố như thế để không phải là ta bi quan chán nản buông xuôi cuộc đời của ta nhưng nhìn đó để thấy cái phận người hạn hẹp và mong manh của ta. “Hôm nay người người vui cười rồi mai đây lệ rơi, đời là giấc điệp qua mau nuối tiếc chi bóng sầu …” Tâm tình bài hát tiễn đưa nhắc nhớ phận của con người là như vậy.

Khi nhìn về phận người, về sự sống, về sự chết như vậy để ta nhìn lại cái phận người nhỏ bé và mong manh để rồi kịp nhận ra rằng cuộc đời ta hết sức vắn vỏi và hãy sống đẹp với những ngày tháng mà mình đang có. Và, trong cái đẹp nhất của đời người vẫn là tình yêu thương, vẫn là lòng mến mà Thiên Chúa đã trao ban và mời gọi. Hãy yêu nhau đi khi còn có cơ hội để lỡ may cơ hội vụt mất mà ta không kịp yêu thương cũng là điều dáng tiếc.

Ta đâu biết được ta sẽ sống được bao nhiêu năm, bao nhiêu tháng, báo nhiêu ngày trên đời để rồi ta phải bận lòng và tính toán thiệt hơn. Biết đâu được ngày hôm nay là ngày cuối cùng của ta sống trên cõi tạm này thì sao ?

Anmai, CSsR

HRW kêu gọi Việt Nam trả tự do cho Đinh Nhật Uy

HRW kêu gọi Việt Nam trả tự do cho Đinh Nhật Uy

Blogger Đinh Nhật Uy (DR)

Blogger Đinh Nhật Uy (DR)

Thanh Phương

Trong một thông cáo đề ngày 28/10/2013, tổ chức nhân quyền của Mỹ Human Rights Watch kêu gọi chính phủ Việt Nam trả tự do vô điều kiện cho nhà hoạt động xã hội Đinh Nhật Uy. Ông Uy sẽ ra tòa ngày 29/10 tại Long An với tội danh « lợi dụng các quyền tự do dân chủ », chiếu theo điều 258 bộ Luật Hình sự Việt Nam.

Đinh Nhật Uy là anh ruột của sinh viên Đinh Nguyên Kha, người đã lãnh án 8 năm tù vào tháng 5 vừa qua về tội “tuyên truyền chống Nhà nước” trong phiên xử cùng với sinh viên Nguyễn Phương Uyên. Bản án đối với Đinh Nguyên Kha sau đó được giảm xuống thành 4 năm trong phiên xử phúc thẩm vào tháng 8 (còn đối với Phương Uyên thì được giảm xuống thành án 3 năm tù treo).

Đinh Nhật Uy đã bị bắt ngày 15/06/2013 tại Long An khi anh bắt đầu một chiến dịch trên mạng xã hội Facebook đòi trả tự do cho em trai Đinh Nguyên Kha.

Trong bản cáo trạng đề ngày 06/09, Toà án Nhân dân tỉnh Long An cáo buộc anh Đinh Nguyên Kha vi phạm điều 258 thông qua mạng xã hội Facebook, vì anh đã đăng trên đó những thông tin « sai lạc, nói xấu các lãnh đạo Việt Nam », cũng như đưa tin về các hoạt động của những « tổ chức chống phá Nhà nước ».

Trong bản thông cáo, ông Phil Robertson, Phó Giám đốc ban châu Á của HRW cho rằng : « Việc Việt Nam gia tăng sử dụng các điều luật vi phạm nhân quyền để trấn áp những tiếng nói chỉ trích và những hành động phản kháng ôn hòa là một sự nhạo báng cái gọi là Nhà nước tôn trọng pháp luật. Truy tố Đinh Nhật Uy chỉ vì anh ấy đòi trả tự do cho người em bị cầm tù và chỉ trích chính quyền là một hành động tàn nhẫn ».

Bản thông cáo của HRW yêu cầu Việt Nam nên hủy bỏ điều 258, được dùng để truy tố Đinh Nhật Uy và chấm dứt truy bức những người hành xử một cách ôn hòa các quyền chính trị và dân sự của họ.

HRW nhắc lại rằng trong năm nay ít nhất 61 nhà hoạt động chính trị và bất đồng chính kiến đã bị truy tố và kết án tù ở Việt Nam, tăng đáng kể so với con số khoảng 40 người bị kết án trong năm 2012.

Theo lời ông Robertson, « các nhà hoạt động xã hội dân sự và các blogger ở Việt Nam xem vụ xử Đinh Nhật Uy như là nỗ lực của chính quyền để chứng tỏ là họ có thể vi phạm nhân quyền thoải mái, cho dù Việt Nam đang ứng cử vào Hội đồng Nhân quyền Liên hiệp quốc. Các chính phủ ngoại quốc phải công khai yêu cầu Việt Nam trả tự do ngay lập tức cho Đinh Nguyên Kha và những người khác đang bị cầm tù ở Việt Nam vì đã hành xử các quyền tự do được quốc tế công nhận, nếu không, nước này sẽ gặp khó khăn trong tiến trình bầu cử vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc ».

Chả lẽ mất nước từng phần và tiếp tục bởi những mưu đồ đen tối của họ “Bành” phương Bắc?

Chả lẽ mất nước từng phần và tiếp tục bởi những mưu đồ đen tối của họ “Bành” phương Bắc?

bauxite vietnam.

Nguyễn Trọng Vĩnh

Tôi giật mình khi đọc một đoạn tin ngày 23/10/2013, dưới dòng tít Hà Tĩnh đầy ắp người TQ, nội dung như sau:

“Huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh vốn nổi tiếng là một huyện “chó ăn đá, gà ăn sỏi” trong những năm trước đây. Thế rồi, ngành du lịch phát triển, các điểm du lịch mọc lên dọc bờ biển Kỳ Anh, giá đất tăng vùn vụt… Đây đó cũng là lúc người Kỳ Anh đối diện với những nguy cơ, trong đó đáng kể nhất là nguy cơ đất đai lọt vào tay người TQ, và thanh niên bị nghiện ngập.

Một người dân Kỳ Anh, yêu cầu dấu tên, buồn bã nói rằng dân Kỳ Anh đã thật sự đánh mất mình, họ không còn là chủ của mảnh đất cũng như cảm giác là người dân bản xứ, mà thay vào đó là cảm giác lép vế, thua thiệt trước sự giầu có và hách dịch của người TQ. Đặc biệt tuy mới đến Kỳ Anh sống chưa bao lâu, nhưng các nhóm người TQ ở đây đã tổ chức thành đội ngũ, băng nhómcác ông trùm khá dữ dằn. Họ sẵn sàng xử bất kỳ người Việt Nam nào đụng đến phe nhóm của họ. Hầu như họ đã nắm hoàn toàn quyền lực và thế lực ở Kỳ Anh. Cho dù các ban ngành an ninh, công an ở Kỳ Anh vẫn hoạt động, nhưng hình như họ chẳng xem ra gì, bởi thế lực và tiền bạc của họ quá mạnh. Ông này nói thêm rằng hiện tại huyện Kỳ Anh trong con mắt ông cũng giống như một tiểu khu đặc biệt của người TQ, ở đó mọi thứ quyền lợi và quyền lực đều về tay họ, thậm chí có nhiều cán bộ, công chức ở Kỳ Anh tỏ ra lép vế với người TQ. Với đà này chẳng bao lâu nữa người TQ nghiễm nhiên trở thành ông chủ đích thực của người Kỳ Anh.

Một bà mẹ và một ông bố giấu tên cho biết thêm trước khi người TQ có mặt ở Kỳ Anh, thanh niên ở đây không biết gì về rượu chè, nay 70% thanh niên hư hỏng và nghiện ngập. Bà mẹ và ông bố giấu tên nghi ngờ tác động rất nguy hiểm của người TQ, với ý đồ không tốt”.

Đoạn tin trên cho thấy thực tế Việt Nam đã mất chủ quyền tại huyện Kỳ Anh.

TQ đã mua 3.000 ha rừng biên giới, mua một đoạn bờ biển Đà Nẵng và nơi nào đó nữa. Những nơi TQ mua (hoặc thuê dài hạn) người Việt Nam ngay cả công an cũng không vào được thì cũng giống như Kỳ Anh thôi.

Không biết lực lượng công an tỉnh Hà Tĩnh, lực lượng công an của Bộ có kiểm soát và xử lý vụ Kỳ Anh không?

Không biết Thủ tướng có biết tình hình hiện tại ở Kỳ Anh không?

Ngoài những nơi TQ mua hoặc thuê dài hạn, họ làm chủ, họ làm gì trong những nơi ấy không ai biết.

Dựa vào khai thác Boxit, TQ đã có mặt ở Tây Nguyên chiến lược; dưới dạng vờ “nuôi cá”, họ đã khảo sát được vịnh Cam Ranh; họ đã có mặt ở Vũng Rô, Vũng Áng; thương lái TQ tự do đi nơi này, nơi nọ, “mua” thứ này, thứ khác nhằm phá hoại kinh tế địa phương. TQ trúng thầu rất nhiều công trình ở Việt Nam, họ tự do đưa ồ ạt lao động phổ thông vào, thành ra có hàng vạn người TQ rải khắp nước ta, rồi có những người lưu trú trái phép, định cư trái phép. Đây là một mối nguy nếu ta không cương quyết trục xuất những người TQ nhập cảnh trái phép, lưu trú, định cư trái phép ra khỏi nước ta theo luật pháp Việt Nam. Năm ngoái TQ đưa tin bắt giữ 40 người Việt Nam xâm nhập trái phép TQ. TQ làm được sao ta lại không làm được? Dù “hữu nghị” cũng phải có đấu tranh.

Giới cầm quyền TQ luôn mồm nói “Hữu nghị bền vững, hợp tác cùng thắng, cùng phồn vinh”, nhưng hành động của họ thì hoàn toàn ngược lại. Họ đã cài thế hòng bóp nghẹt ta.

Nhân dân ta cần cảnh giác, những vị có trách nhiệm cần có kế hoạch đề phòng. Theo tôi nghĩ quan trọng nhất là những nhà lãnh đạo cần quay lại với dân, thực hiện dân chủ, thi hành những chủ trương, chính sách hợp lòng dân, thật sự gắn bó với dân thành sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, thì mới có thể hóa giải được âm mưu nham hiểm của chủ nghĩa bành trướng Đại Hán để giữ được độc lập chủ quyền.

N.T.V.

Vụ án xét lại chống đảng, phần 4 – Những người che mắt lịch sử

Vụ án xét lại chống đảng, phần 4 – Những người che mắt lịch sử

Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2013-10-24

maclam10242013.mp3

ldt-305.jpg

Hàng ngồi từ trái sang: Ông Võ Chí Công, Nguyễn Văn Linh, Lê Đức Thọ, Phạm Văn Đồng, Đỗ Mười.

File photo

Trong tập hai của Bên Thắng Cuộc mang tên Quyền Bính, trong chương “Tướng Giáp”, Huy Đức ghi lại lời kể của Trần Quỳnh, trợ lý Lê Duẩn nói về thành phần bị bắt thời gian này: “Những người không tán thành đường lối chống xét lại của Đảng, một số cán bộ cao cấp và trung cấp theo học ở trường Đảng cao cấp Liên Xô và trường quân sự cao cấp Liên Xô bàn kế hoạch chống lại đường lối của Đảng. Họ lập một nhóm vận động thành lập một tổ chức lấy việc thay đổi Bộ Chính trị làm mục tiêu. Họ nhắm vào những người không đồng tình với Nghị quyết 9, trước hết là những sĩ quan cao cấp trong quân đội và những ủy viên trong Trung ương”.

Thật ra đây chỉ là một mối nhỏ trong guồng chỉ rất lớn của vụ án chính trị nổi tiếng này. Những người bị bắt, bị lưu đày sau gần 50 năm vẫn chưa bao giờ được chính quyền chứng minh hành vi kết tội của họ đối với người bị bắt. Hầu hết nạn nhân của vụ án là người yêu chuộng sự đổi mới hợp lý khi chủ nghĩa tôn sùng cá nhân bị chỉ trích tại Liên Xô cũng chính là lúc Lê Duẩn, Lê Đức Thọ muốn củng cố địa vị của họ bằng sức mạnh theo kiểu Mao Trạch Đông chủ trương.

Nghị quyết 9, sự kết giao nguy hiểm

Nghị quyết 9 cho thấy khuynh hướng theo Trung Quốc và ai không đồng tình với khuynh hướng này thì bị thanh trừng. Quyền lực sẽ bị lu mờ nếu hào quang của Tướng Giáp vẫn còn tỏa sáng trên sân khấu chính trị Việt Nam khiến bằng mọi cách phe Lê Duẩn, Lê Đức Thọ phải thực hiện cho được sự ám toán ông qua một vụ án chính trị là cách hay nhất.

“Thời kỳ đó gian khổ lắm vì mang trên đầu các chữ phản: ‘phản Tổ quốc, phản nhân dân, phản đảng’. Gia đình chúng tôi ở bên ngoài thì bị mọi người xa lánh.
-Ô. Hoàng Minh Chính”

Ông Hoàng Minh Chính bị bắt đầu tiên, vợ của ông là bà Lê Hồng Ngọc kể lại nỗi gian truân trong thời gian ấy:

“Đang làm người lãnh đạo tập đoàn thanh niên được đảng tín nhiệm đưa đi học nước ngoài rồi về sẽ cho chức nọ chức kia. Anh tưởng là anh nói như vậy để giúp đảng nhưng cuối cùng cũng không giải quyết được gì hết mà còn bị tù tội. Thời kỳ đó gian khổ lắm vì mang trên đầu các chữ phản: ‘phản Tổ quốc, phản nhân dân, phản đảng’. Gia đình chúng tôi ở bên ngoài thì bị mọi người xa lánh, không ai đến, không ai dám hỏi thăm. Bản thân anh thì hoàn toàn là biệt lập vì cái tội như thế nên cũng nhiều nỗi đau khổ lắm.”

Những người vợ

Là vợ của một người thân cận với Chủ tịch Hồ Chí Minh bà Phạm Thị Tề không thể chịu đựng nỗi sự im lặng của người từng được gia đình mình phục vụ. Nhà văn Vũ Thư Hiên kể lại thái độ gan góc của mẹ mình khi không chịu vào Phủ Chủ tịch đề nhờ sự can thiệp của ông Hồ Chí Minh:

IMG-2447-250.jpg

Nhà văn Vũ Thư Hiên và Blogger Người Buôn Gió tại Paris, ảnh chụp năm 2010. Courtesy Blog Người Buôn Gió.

“Không! Mặc dù bà cụ tôi là người gần gũi ông Hồ Chí Minh ngày xưa. Lúc ông ấy mới về Hà Nội thì ông ấy rất ốm. Ông ấy lúc bấy giờ bị lao phổi, ngoài thuốc chữa thì bà cụ tôi phải nấu thức ăn bổ dưỡng để cận vệ mang vào cho ông ấy. Thế nhưng khi đã bắt ông cụ tôi thì bà bảo cái người đó không còn tin được nữa thế nên bà cụ tôi không liên hệ. Sau này tôi gặp ông Hoàng Quốc Thịnh, lúc ấy là Bộ trưởng Ngoại thương ông ấy nói có một lần ông ấy vào báo cáo với ông Hồ Chí Minh vào giai đoạn ông cụ tôi bị bắt, ông hỏi là tai sao lại bắt những người như anh Huỳnh, cả cuộc đời theo cách mạng như thế? Thì ông ấy (HCM) tỏ vẻ ngạc nhiên hay đóng kịch như là: Tại sao bắt anh Huỳnh? Sao lại bắt?… đại khái như thế? Đấy là lời ông Hoàng Quốc Thịnh nói với tôi.”

Những người đàn bà không bị bắt còn khổ sở hơn chồng của họ. Bà Lê Hồng Ngọc kể lại chuyện ba người đàn bà vợ của các ông Hoàng Minh Chính, Vũ Đình Huỳnh và Đặng Kim Giang:

“Gia đình rất là gian nan khổ sở. Về mặt kinh tế thì không nói cũng biết rồi, vật chất có gì ngoài củ sắn đâu cho nên tất cả những tem phiếu có được đều giữ lại bù đắp cho anh ấy. Thăm nuôi tiếp tế thì rất lâu mới được đi một lần. Trong tình cảnh ấy tôi nghĩ là rất nhiều chị em như tôi như bà Vũ Đình Huỳnh, bà Đặng Kim Giang. Ba chị em hay đi với nhau lắm. Chúng tôi lên tận trên trại Bất Bạt, trên ấy xa xôi lắm. Họ đánh kẻng mới được đi vào, vào thăm mấy tiếng thì phải đi về.”

Theo thư gửi cho nhiều cơ quan chính quyền vào năm 1994, bà Phạm Thị Tề nhắc lại sau Đại hội VI của Đảng, chồng bà là ông Vũ Đình Huỳnh lúc ấy đã được thả ra, có thư gửi tới nguyên Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Văn Linh, một lần nữa yêu cầu ông Linh đưa vụ này ra ánh sáng. Thế nhưng không riêng gì ông Huỳnh mà tất cả những người bị bắt hay đã chết, yêu cầu chính đáng ấy không bao giờ được giải quyết.

Sự im lặng đồng lõa

“Gia đình rất là gian nan khổ sở. Về mặt kinh tế thì không nói cũng biết rồi, vật chất có gì ngoài củ sắn đâu cho nên tất cả những tem phiếu có được đều giữ lại bù đắp cho anh ấy.
-Bà Lê Hồng Ngọc”

Ông Lê Hồng Hà một trong những nạn nhân của vụ án cho biết:

“Những năm sau này, từ năm 90-91 trở đi họ bắt đầu thấy một số các vấn đề không thỏa đáng. Thế thì họ có giải quyết theo kiểu những người bị tù nhiều năm thì tha rồi. Một số các người bị thiệt hại quyền lợi thì được cho khôi phục lại quyền lợi. Ví dụ một số những ông như Lê Trọng Nghĩa, Hoàng Minh Chính thì người ta khôi phục lại mức lương khá khá hơn thôi. Tuy nhiên họ cũng không tuyên bố là sửa sai. Họ sửa nhưng không tuyên bố.”

Ông Hoàng Minh Chính, người trực tiếp mang tinh thần xét lại từ Liên Xô về Việt Nam xứng đáng là người tiên phong vì đã đề nghị đảng cộng sản Việt Nam thay đổi phương hướng trong chính sách của mình nhưng ông đã phải trả một giá rất đắt cho ý tưởng này. Theo lời thuật lại của vợ ông là bà Lê Hồng Ngọc, tên thật Nguyễn Thị Thanh Yến cho biết chồng bà gia nhập đảng cộng sản rất sớm, vào năm 19 tuổi. Người ký giấy giới thiệu cho ông vào đảng là Lê Đức Thọ và cũng chính ông này ký lệnh bắt giam Hoàng Minh Chính vào năm 1967.

Ông bị tù cả thảy 11 năm và 9 năm quản chế, khởi đầu từ 1967 kéo dài đến năm 1990.

Hoàng Minh Chính mất ngày 7 tháng 2 năm 2008. Nói về vụ yêu cầu xét xử những bản án oan sai, trước đó trong một lần trả lời Đài Á Châu Tự Do ông nói:

“Từ trước tới nay tất cả những cái đơn kiện của công dân thực ra họ có trả lời đâu? Mà ở trong nước người ta thường dọi là ‘kiện củ khoai’. Vấn đề này khi kiện thì đối với phương diện pháp lý nói lên rằng có những vu khống như thế và tôi yêu cầu tòa án Việt Nam phải đưa vụ án này ra xét xử. Đấy là nguyên tắc về pháp lý nhưng tin tưởng thì tôi không hề tin tưởng bởi vì từ trước tới nay họ đều im lặng hết.”

Vụ án xét lại chống đảng có thể là vụ án chính trị cuối cùng và lớn nhất của đảng Cộng sản Việt Nam tuy nhiên nó sẽ chẳng bao giờ biến mất hay lãng quên bởi sự lẫn trốn trách nhiệm của những nhân vật cao cấp nhất trong đảng qua nhiều đời Tổng bí thư. Minh oan và trả lại sự thật cho các nạn nhân của vụ án là việc làm hoàn toàn có lợi cho đảng.

Mặc dù nếu công khai những sự kiện này ra thì rất nhiều khuôn mặt đang đứng phía sau hậu trường chính trị khó thoát khỏi sự truy cứu trách nhiệm trước lịch sử dân tộc, tuy nhiên việc làm này sẽ giúp Đảng cộng sản được tiếng là dũng cảm, dám nhận trách nhiệm trước dân chúng để bắt đầu một giai đoạn mới hòa nhập vào dòng chảy dân chủ thật sự với  thế giới.