Hình ảnh Đức Mẹ khóc ở khắp nơi trên thế giới

Hình ảnh Đức Mẹ khóc ở khắp nơi trên thế giới

Tác giả: Sưu tầm                         nguồn Thanhlinh.net

 

 

“Khiết Tâm Vô Nhiễm Nguyên Tội mà con đang chiêm ngưỡng này đã đổ ra rất nhiều nước mắt. Con hãy tôn vinh và an ủi Trái Tim Tân Khổ của Mẹ bằng việc suy phục Thánh Ý Cha và quảng đại chiến đấu chống lại cái tôi của con”. (trích Thông Điệp Tình Yêu Nhân Hậu của Chúa Giêsu với Hồn Nhỏ).

 

Những hình ảnh Đức Mẹ khóc ở các nơi trên thế giới. Đây là những bản tường trình mà có những hiện tượng được Giáo hội công nhận cũng như chưa được cộng nhận. Thanhlinh.net đăng tải để tham khảo và dành sự phán quyết của Giám mục địa phương.


Đức Mẹ khóc tại New Orlearns 1972

Đức Mẹ khóc tại Equador 1906

Đức Mẹ khóc tại Pittsburght, USA 1973

Đức Mẹ khóc tại Ba Lan 2012

Đức Mẹ khóc tại Úc 2001

Đức Mẹ khóc tại Roma 1994

Đức Mẹ khóc tại Columbia

Đức Mẹ khóc tại Nga 1998

Đức Mẹ khóc tại Massachusettes, USA 1991

Đức Mẹ khóc tại Ontario 2010

Đức Mẹ khóc tại Massachusettes, USA 2004

Đức Mẹ khóc tại Virgina USA 1992

Đức Mẹ khóc tại Medjugorje 2011

Đức Mẹ khóc tại Ecuador 2004

Đức Mẹ khóc tại Romania 2003

Đức Mẹ khóc tại 1953

Đức Mẹ khóc tại New Orlearns 1980

Đức Mẹ khóc tại Bangladesh 2003

Đức Mẹ khóc tại New York USA 1972

Đức Mẹ khóc tại Canada 1984

Đức Mẹ khóc tại Ý 1953

Đức Mẹ khóc tại Tây Ninh Việt Nam
 

Đức Mẹ khóc tại Akita, Japan 1973

Đức Mẹ khóc tại La Salette, Pháp 1846

Đức Mẹ khóc tại Á Căn Đình 2011

Đức Mẹ khóc tại Georgia 2012

Đức Mẹ khóc tại Venezuela, 2003

Đức Mẹ khóc tại Illinois, USA 1994

Đức Mẹ khóc tại Phi Luật Tân 1992

Đức Mẹ khóc tại El Salvador 2008

Đức Mẹ khóc tại New York, USA 1984

Đức Mẹ khóc tại Damacus, Syria 1977

Đức Mẹ khóc tại Venezuela 2007

Đức Mẹ khóc tại Los Angeles, USA 2009

Đức Mẹ khóc tại Rockingham Úc 2002

Đức Mẹ khóc tại Venezuela 2010

Đức Mẹ khóc tại Naju, Đại Hàn 1995

Đức Mẹ khóc tại Paraguay

Đức Mẹ khóc tại Hy Lạp 2003

Đức Mẹ khóc tại Ý 1992

Đức Mẹ khóc tại Ý 1972

Đức Mẹ khóc tại Ohio USA 2011

Đức Mẹ khóc tại Ukraine 2009

Đức Mẹ khóc tại Chí Lợi 2012
 

Đức Mẹ chảy máu tại Baton Rouge, New Orlearns 2012
 

 

MỘT TÂM HỒN LỚN TRONG MỘT THÂN THỂ BÉ MỌN

MỘT TÂM HỒN LỚN TRONG MỘT THÂN THỂ BÉ MỌN

(Lễ kính Thánh nữ Tê-rê-sa Hài Đồng Giê-su – 01/10)

Trong một lớp học tại một Liên huynh đoàn Đa Minh thuộc GP Saigon, tôi đươc mời chia sẻ đề tài “Thánh nữ Tê-rê-sa Hài Đồng Giê-su – Mẫu gương Giới Trẻ”. Thánh nữ Tê-rê-sa Hài Đồng Giê-su tác người nhỏ bé, ốm yếu, nhưng lại có một tâm hồn vĩ đại khôn sánh. Ngài đã kiên quyết hiến thân cho Chúa ngay từ năm 15 tuổi. Chín năm sau, mới được 24 tuổi, Chị Thánh đã an nghỉ trong Chúa do bị bệnh lao phổi. Thật quá xứng đáng nếu lấy Thánh nữ
Tê-rê-sa làm mẫu gương cho giới trẻ học tập và rèn luyện trên hành trình loan báo Tin Mừng, làm chứng nhân cho Đấng Cứu Độ Giê-su Ki-tô.

Để hiểu một cách tường tận về Thánh nữ, xin lược qua ít dòng tiểu sử: Là út trong một gia đình có 9 người con (7 gái + 2 trai), Tê-rê-sa chào đời ngày 02/01/1893 tại Boóc-đô (Bordeaux – Pháp). Chị có trí thông minh đặc biệt, nhưng tính tình cứng cỏi, bướng bỉnh nhất nhà. Lên 4 tuổi, mồ côi mẹ. 8 tuổi vào học trường các bà Dòng Thánh Biển Đức. 9 tuổi, mắc chứng nhức đầu (chứng bệnh mà Đông y gọi là “thiên đầu thống”). 10 tuổi bệnh nặng hơn và trở nên nguy kịch vào năm 11 tuổi. Sau đó, thật lạ lùng, Tê-rê-sa kêu van Đức Mẹ thì được khỏi bệnh. 15 tuổi, xin được Đức Thánh Cha Lê-ô XIII chuẩn tuổi để vào Dòng Ca-mê-lô. Vì trong Dòng có vài người trùng tên, nên chị đã lấy tên mình là Tê-rê-sa Hài Đồng Giê-su (Thérèse de l’Enfant Jésus). Việc đặt tên hiệu này – theo thiển ý – là đã có sự tác động lớn từ Thiên Chúa – cụ thể là Đức Giê-su Ki-tô – vào cuộc đời chị và đó cũng chính là bước ngoặt lớn: Kể từ đây chị đã đính ước với Đức Ki-tô và Người đã chính thức là vị Hôn phu kể từ ngày chị được mặc áo Dòng (10/01/1889 – 16 tuổi).

Thứ Sáu Tuần Thánh năm 1896 (23 tuổi), chị bị xuất huyết lần đầu do bị lao phổi và vào khoảng hơn 19 giờ ngày 30/9/1897 (24 tuổi), sau khi đã nói với Chúa: “Con không hối hận vì đã hiến thân cho Tình Yêu Chúa”, và nói với Mẹ Bề trên Dòng: “Thưa Mẹ, xin Mẹ chuẩn bị cho con chết lành”, chị ôm chặt Thánh Giá, miệng thều thào: “Ôi ! Lạy Chúa! Con yêu mến Chúa”, rồi trút hơi thở cuối cùng. Chị được ĐGH Pi-ô XI tuyên phong Chân phước ngày 29/4/1924, và chính thức tuyên Thánh (là Đấng Bảo Trợ, là Bổn mạng các xứ Truyền giáo) ngày 14/12/1927. Ngày Chúa nhật Truyền giáo 19/10/1997, ĐTC Gio-an Phao-lô II
đã công bố Thánh nữ Tê-rê-sa là Tiến sĩ Hội Thánh. Điều đó cho thấy Thánh nữ đúng là một vị Thánh có một tâm hồn vĩ đại trong một thân thể bé mọn với tuổi đời còn rất trẻ.

Đọc tiểu sử của Thánh nữ, ta thấy chị không phải vất vả đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng cho dân chúng, đương đầu với lạc giáo, như thánh Đa Minh; không sống khắc khổ, ăn chay đánh tội như thánh Phan-xi-cô Khó Khăn; không phải bỏ quê hương đi đến những vùng xa
xôi truyền giáo như thánh Phan-xi-cô Xa-vi-ê; không để lại nhiều tác phẩm có giá trị triết lý và thần học như thánh Tô-ma A-qui-nô; không làm nhiều phép lạ giúp đỡ những người nghèo khổ bất hạnh như thánh Mác-tin Po-rê; không chịu cực hình để làm chứng cho Chúa như các thánh Tử vì đạo Việt Nam… Vậy mà tại sao Tê-rê-sa lại được Hội Thánh tôn vinh như một đại thánh của thế kỷ XX và XXI?

Câu trả lời thật hiển nhiên: Chính là nhờ Chị Thánh có một phương cách sống rất đặc biệt phục vụ cho một mục đích tối hảo: Chị đi tu rất sớm không vì mong được sống trong Dòng tu “vui vẻ”, mà vì “Tôi có một  mục đích duy nhất là chết vì Tình Yêu”, “Con không hối hận vì đã hiến Tình Yêu cho Chúa” (xc “L’Histoire de l’Âme” – Truyện Một Tâm Hồn – Thérèse). Rõ ràng điều kiện tiên quyết để được theo chân Thầy Chí Thánh là phải cần có
“MỘT TRÁI TIM chứa một bầu máu nóng (nhiệt tâm, nhiệt huyết)”.

Tiếp theo là phải có MỤC ĐÍCH (hoặc gọi là “Tham vọng”, là “hoài bão” cũng được) rõ ràng để theo đuổi.  Đích thị Thánh nữ Tê-rê-sa đã có một “tham vọng” rất lớn và rất táo bạo ngay từ hồi nhỏ: “đi tu để trở thành một phó tế, linh mục, tông đồ, nhà truyền giáo và… sẽ tử vì đạo để trở thành một vị … THÁNH LỚN”! (xc. “L’Histoire de l’Âme”). Chính Chị Thánh đã đề tặng nữ tu Marthe de Jésus một tấm hình: “Hãy xin Chúa Giê-su cho tôi trở thành
vị thánh lớn, tôi sẽ xin ơn đó cho bạn tập sự yêu quý của tôi”. Ngông nghênh và tự phụ quá chăng? Không đâu! Đó chỉ là phản ánh một tham vọng – một hoài bão lý tưởng của tuổi trẻ rất chính đáng, mà ở đây, xin nói thẳng: Đó chính là một ƯỚC MƠ THÁNH THIỆN rất đáng trân trọng. Tuổi trẻ mà! Những ước mơ “dời non lấp biển” cũng đã từng làm cho tôi, cho bạn thăng hoa cuộc sống nội tâm. Đẹp biết chừng nào những giấc mơ của tuổi trẻ! Riêng với Tê-rê-sa, Chị Thánh còn đi xa hơn, vượt cao hơn nữa kia! Chị đã nói trước khi khấn trọn: “Con vào Dòng để cứu vớt các linh hồn và cầu nguyện cho các linh mục” (ibid). Tuy nhiên, về sau này, chị Thánh đã khiêm nhường nhận ra mình chỉ là “một hạt cát bé nhỏ vô danh”, “có linh hồn nào nhỏ bé và bất toàn hơn con?” (ibid).

 

Ta còn thấy nơi chị Thánh một ĐỨC HY SINH vĩ đại: * Từ chối hưởng thụ vật chất có được do sự nuông chiều của gia đình dành cho người con út (“giầu út hưởng, khó út chịu” – Tục ngữ VN). – * Sẵn sàng khép mình trong luật lệ khắt khe của một Dòng tu khổ hạnh (hãm mình, ép xác, khiêm nhường, chịu khó, vâng phục, khó nghèo, khiết tịnh…). – * Ngoài những công việc được giao coi bộ không thích hợp lắm với một cơ thể gầy yếu, bệnh hoạn như chị, nhưng chị vẫn vui vẻ làm (quét nhà, rửa chén, lau bụi, giặt rũ…), Chị còn vui
vẻ vác thánh giá (chịu đựng cực hình từ bệnh tật: thiên đầu thống, lao phổi…).Để duy trì và phát triển được điều này, chính là nhờ Chị có một niềm cậy trông vững vàng, sắt đá vào sự phù trợ đắc lực của Đức Mẹ. Và vì thế, nên :

Chị Thánh luôn một lòng vì Chúa, vì tha nhân. Có thể khẳng định Thánh nữ Tê-rê-sa đã sống và thể hiện sinh động nhất một Tình Yêu tuyệt vời mà Đức Giê-su Ki-tô đã thể hiện và hằng mong mỏi loài người làm theo: “MẾN CHÚA + YÊU NGƯỜI và sẵn sàng chết cho người mình yêu”. Chị Thánh nói: “Với con thì Thiên Chúa ban cho con Tình Yêu lân tuất vô cùng của Chúa…, mọi sự trọn hảo đều toả ánh Tình Yêu, ngay cả đức công bằng đối với con cũng là Tình Yêu nữa. Thật vui mừng biết bao khi nghĩ đến Thiên Chúa là Đấng nhân lành vô cùng, có Tình Yêu lân tuất vô cùng” (ibid).

Về Đức Ki-tô, Thánh nữ luôn gọi Người là “Đấng phu quân yêu mến” và “Trái tim Chúa Giê-su mong muốn được yêu mến hết sức”. Còn đối với tha nhân? Từ thời gian đầu mới vào Dòng, Chị Thánh đã phải chịu đựng một sức ép khá nặng nề (Mẹ Bề trên Maria Gonzaga trước đó đã bị kết án là độc đoán và đôi khi tính khí thay đổi thất thường, còn các nữ tu bạn cùng Dòng của Chị Thánh – đa phần là lớn tuổi – thì lạnh lùng và hay chế nhạo người khác). Vậy mà về sau, Chị Thánh đã cảm hoá được tất cả, từ Mẹ Bề trên đến mọi thành viên trong Dòng đều rất yêu thương quý mến Chị. Chưa hết, Chị còn dành rất nhiều thời giờ “để
cứu vớt các linh hồn và cầu nguyện cho các linh mục”, rồi làm thơ, viết thư, hồi ký, kịch giải trí, lời nguyện, viết sách (cụ thể như cuốn “Truyện Một Tâm Hồn – L’Histoire de l’Âme” đã đẫn trên)…, với mục đích để: + Mở ra cho mọi người thấy MỘT TÂM HỒN mến Chúa yêu người đến quên cả bản thân;  + Ghi lại những cảm xúc, những kinh nghiệm từng trải trên đường “vác thập giá mình mà theo Đức Ki-tô”;  + Và trên tất cả là “để ca tụng, tôn vinh Thiên Chúa”.

Tất cả những đức tính nêu trên được bộc lộ ra nơi một con người rất hồn nhiên dung dị một con người đơn sơ đến lạ lùng! Vì thế, Thánh nữ đã gặt hái được trong vinh quang một kết quả trên cả ước mơ của mình: * Được Thiên Chúa cho làm nhiều phép lạ (mà Hội Thánh đã công nhận khi phong Chân Phước và tuyên phong Hiển Thánh cho ngài, và cho mãi
đến về sau này nữa, ngài vẫn tiếp tục làm nhiều phép lạ); * Được Hội Thánh tuyên là vị Thánh lớn, là Đấng Bảo Trợ các xứ Truyền Giáo – một vị Thánh chỉ truyền giáo bằng cầu nguyện trong phạm vi 4 bức tường của Tu viện, mà hiệu quả lại vô cùng rực rỡ!

Mẫu gương tuyệt hảo của giới trẻ chúng ta là như vậy đó. Còn chúng ta thì sao, thưa các bạn trẻ thân mến? Dù sao đi nữa thì cũng xin các bạn cùng hiệp ý cầu nguỵên bằng “Kinh cầu nguyện cùng Thánh nữ Tê-rê-sa Hài Đồng Giê-su” (xc. Trang Kinh Nguyện <Thanhlinh.net>):

“Lạy Thánh nữ Tê-rê-sa Hài Đồng Giê-su, người sống rất vắn vỏi trên cõi trần gian, song người đã được đầu đủ nhân đức; lòng tinh khiết, khiêm nhường, tận tâm mến Chúa và yêu người.  Mà nhất là người đã phú trót mình cho Chúa, tin cậy nơi Chúa như con nhỏ tin nơi mẹ nó vậy.

Người đã truyền cho thế gian một con đường rất đơn sơ, để chóng đưa linh hồn đến đỉnh trọn lành, đó là sự khiêm nhượng thật lòng và coi mình như trẻ bé trước mặt Chúa, cùng trông cậy  nơi lòng lân mẫn vô cùng của Chúa. Xin Thánh Tê-rê-sa cầu bầu cho chúng con được dõi theo gương người, là bước vào “tiểu lộ”, là đường người đã trải qua mà đến cùng Chúa.

 

Lạy Thánh nữ Tê-rê-sa Hài Đồng Giê-su, xưa đã hứa cho mưa hoa hồng xuống trên thế gian này, vậy xin người cầu cùng Chúa Trời, xin cho hoa hồng thiêng liêng đổ xuống trên chúng con, làm cho chúng con được yêu mến Chúa như ngườii, và cho khắp nơi được an ninh, hòa hảo; cùng cho Nước Chúa được hiển trị một ngày một lan rộng hơn. Xin vì lời Thánh nữ khẩn nguyện cho người ngọai giáo được trở lại thờ phụng Chúa, hầu sau này được chung phước cùng Thánh nữ trên Thiên đàng. Amen.”

JM. Lam Thy ĐVD.

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

 

Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu

Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu
Ngày 1/10:
Thánh Têrêxa chào đời ngày 2.1.1873 tại Alençon nước Pháp. Song thân là cụ Louis Martin (+ 1894) và bà Maria Guérin (+ 1877) có tất cả 9 người con, nhưng chỉ sống có 5 ; cả 5 cô con gái đều bước vào tu viện. Khi Têrêxa chưa tròn 4 tuổi, bà mẹ Guérin qua đời để lại một tang buồn cho gia đình, nhất là Têrêxa. Bà phải chịu ung thư suốt 12 năm đến lúc kiệt sức phải qua đời. Từ ngày đó ông Louis bỏ Alençon lui về Lisieux với cả gia đình.
Vào tháng 4.1888 Têrêxa vào đan viện Cát Minh ở Lisieux lúc được 15 tuổi. Lúc ấy chị có cảm nghiệm phong phú về đời sống đạo đức. Chính chị xem đêm Giáng Sinh 1886 như là một sự kiện quyết định trong đời sống của chị. Chị cảm nhận hồng ân của một cuộc chuyển đổi hoàn toàn; từ đấy, chị hiểu ơn gọi của cuộc đời mình là yêu Chúa Kitô và yêu con người.
Cuộc đời trong dòng Cát Minh của chị, mặt ngoài rất đơn sơ, nhưng con đường nội tâm càng ngày càng lên cao. Chị hiểu rõ tình yêu của chị đối với Chúa Kitô phải được thực hiện trong việc theo Chúa trên con đường khổ nạn. Thánh Kinh đối với chị ngày càng nên sách đọc duy nhất, nhưng kèm theo đó là thử thách nội tâm và đau khổ phần xác lại diễn ra hằng ngày.
Trong đêm thứ sáu Tuần Thánh năm 1896, chị bị ho ra máu lần đầu tiên. Mười tám tháng cuối cùng là một cuộc tử đạo triền miên. Chị qua đời ngày 30.9.1897, hưởng dương 24 tuổi, với tiếng thì thào : “Lạy Chúa, con yêu Chúa !”
Chúng ta biết được con đường nội tâm của thánh nữ nhờ vào quyển “Lịch sử một tâm hồn” và “Các lời nói” do bà chị ruột cũng là bề trên sưu tập. Têrêxa đi vào cái trọn vẹn, cái vĩ đại: chị muốn yêu mến Chúa Giêsu hơn bất cứ ai trên thế giới ; chị muốn dâng mình cho tình yêu nhân từ của Chúa như của lễ toàn thiêu ; chị muốn yêu tất cả mọi người, như Chúa Giêsu đã yêu. Chống lại kiêu ngạo, chị luôn nhận thức mình hoàn toàn bất lực và nếu có làm được gì, đó là do sức mạnh tình yêu của Chúa ban cho.
Đức Thánh Cha Piô XI nâng Têrêxa lên hàng hiển thánh và đặt làm thánh quan Thầy cho các xứ truyền giáo.

Nguyện xin thánh nữ cầu thay nguyện giúp để chúng ta được đi vào con đường nhỏ; con đường tình yêu: yêu Chúa và yêu mọi người.

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

Tháng Mân Côi

Tháng Mân Côi

TRẦM THIÊN THU

 

Hằng năm, Giáo hội Công giáo dành Tháng Mười để tôn kính Đức Mẹ Mân Côi. Theo miêu tả của tu sĩ Alan de la Roch, Dòng Đa Minh thế kỷ XV, Đức Mẹ đã hiện ra với thánh Đa Minh năm 1206 sau khi thánh nhân cầu nguyện và sám hối vì đã không thành công trong
việc chống tà thuyết Albigensianism (*). Đức Mẹ đã khen ngài về sự chiến đấu anh dũng của ngài chống lại tà thuyết và trao cho ngài Chuỗi Mân Côi làm vũ khí phi thường, đồng thời giải thích cách sử dụng và hiệu quả của Chuỗi Mân Côi. Đức Mẹ bảo thánh Đa Minh rao truyền Chuỗi Mân Côi cho những người khác.

Kinh Mân Côi có nguồn gốc từ chính Thiên Chúa, từ Kinh thánh, và từ Giáo hội. Không lạ gì khi Chuỗi Mân Côi gần gũi với Đức Mẹ và mạnh mẽ đối với Nước Trời.

Rất nhiều người đã được ơn từ việc lần Chuỗi Mân Côi. Chân phước GH Gioan Phaolô II cũng thường xuyên lần Chuỗi Mân Côi khi ngài đi bách bộ. Nếu xem lại lịch sử, chúng ta thấy có nhiều chiến thắng nhờ Chuỗi Mân Côi. Truyền thống ban đầu đã có chiến thắng
tà thuyết Anbi tại trận Muret năm 1213 nhờ Chuỗi Mân Côi.

Dù không muốn chấp nhận truyền thống đó thì cũng phải chân nhận rằng thánh GH Piô V đã góp phần chiến thắng đội quân Thổ Nhĩ Kỳ vào Chúa Nhật đầu tháng 10 năm 1571. Ngay thời điểm đó có Hội Mân Côi (Rosary confraternities) tại Rôma và những nơi khác. Do
đó, thánh GH Piô V đã truyền phải tôn kính Kinh Mân Côi vào chính ngày đó.

Năm 1573, ĐGH Grêgôriô XIII công bố việc mừng lễ Đức Mẹ Mân Côi tại các nhà thờ có bàn thờ dâng kính Đức Mẹ Mân Côi. Năm 1671, ĐGH Clêmentô X mở rộng lễ này trên toàn cõi nước Tây Ban Nha. Chiến thắng anh dũng lần thứ hai trên người Thổ Nhĩ Kỳ, những người đã có lần (cũng như người Nga) đe dọa phá hủy văn minh Kitô giáo, xảy ra vào ngày
5-8-1716, khi hoàng tử Eugene đánh bại họ tại Peterwardein (Hungary). Do đó, ĐGH Clêmentô XI mở rộng lễ Đức Mẹ Mân Côi trong toàn Giáo hội.

Lm. William G. Most đã viết trong cuốn “Đức Maria trong Đời sống Chúng ta” (Mary in Our Lives): “Ngày nay, các mối nguy hiểm còn lớn hơn người Thổ Nhĩ Kỳ, không chỉ đe dọa Kitô giáo mà đe dọa cả nền văn minh, Đức Mẹ thúc giục chúng ta trở lại với Chuỗi Mân Côi để được giúp đỡ. Nếu nhân loại đủ số người làm vậy, đồng thời thực hiện các điều kiện khác mà Đức Mẹ đã đưa ra, chúng ta có lý do chính đáng để tin rằng chúng ta sẽ thoát khỏi mọi mối nguy hiểm”.

Nhưng thiết nghĩ chúng ta cần tích cực lần Chuỗi Mân Côi hàng ngày không vì mong được lợi cho mình mà vì lòng yêu mến chân thành. Người Việt Nam có câu: “Mưu sự tại nhân,
thành sự tại thiên”
. Cứ hành động bằng tất cả niềm tin, cậy, mến thì chúng ta không bao giờ phải thất vọng.

Chúng con xin trao phó mọi sự cho Thiên Chúa và Đức Mẹ, xin quan phòng và lo liệu cho chúng con hôm nay và mãi mãi. Amen.

TRẦM THIÊN THU

(*) Albigensianism: Anbi giáo, một phong trào Kitô giáo được coi là hậu duệ thời trung cổ của Mani giáo (Manichaeism – xem chú thích bên dưới) ở miền Nam nước Pháp hồi thế kỷ XII và XIII, có đặc tính của thuyết nhị nguyên (đồng hiện hữu của hai quy luật đối
nghịch là Thiện và Ác). Thuyết này bị kết án là tà thuyết thời Tòa án Dị giáo (Inquisition).

Manichaeism: Mani giáo, hệ thống tôn giáo nhị nguyên do tiên tri Manes (khoảng 216–276) sáng lập ở Ba Tư hồi thế kỷ III, dựa trên vụ xung đột nguyên thủy giữa ánh sáng và bóng tối, kết hợp với các yếu tố của Kitô giáo ngộ đạo (Gnostic Christianity), Phật giáo (Buddhism), Bái hỏa giáo (Zoroastrianism), và các yếu tố ngoại giáo khác. Thuyết này bị chống đối từ phía Hoàng đế La mã, các triết gia phái tân Platon (Neo-Platonist) và các Kitô hữu chính thống.

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

HS Nghỉ Để Trường Làm Đám Cưới

HS Nghỉ Để Trường Làm Đám Cưới

(10/01/2012)

trích Vietbao.com

HANOI — Chuyện hết sức lạ ở quê nhà: học sinh tại 2  trường học — một ở Hà Nội,  một ở Vĩnh Phúc — phải nghỉ học để nhường khuôn viên trường cho các đám cưới.

Báo Lao Động kể về ngôi trường ở Hà Nội, và báo Pháp Luật & Xã Hôi kể về ngôi trường ở tỉnh Vĩnh Phúc.

Báo Lao Động gọi đó là “Dở khóc dở cười lớp học thành nơi tổ chức đám cưới,”
trích như sau:

“Sáng 24.9, Lao Động nhận được điện thoại của một số phụ huynh có con học tại
điểm Trường Tiểu học Võ Thị Sáu (nằm trong ngõ 18 Hàm Long, Hoàn Kiếm), bức xúc
phản ánh: Con em họ đang phải học ngoài sân trường vì phòng học đã được trường
cho thuê làm đám cưới.

Có mặt tại điểm trường này, chúng tôi khá bất ngờ khi thấy phản ánh là có thật.
Hai phòng học của lớp 2E và 2G nằm trong ngõ 18 phố Hàm Long đã được trưng
dụng, trong đó phòng của lớp 2G đã được trang trí thành phòng tổ chức tiệc
cưới, có cổng hoa bên ngoài cửa lớp, ở vị trí bảng đen là phông cưới đỏ chót. Các
bàn học được phủ khăn trắng, ở trên bày bánh kẹo, hoa quả và có lác đác người
nhà của chú rể ngồi ở đó. Phòng của lớp 2E thì khóa chặt…”

Trong khi đó, báo PL&XH viết bản tin tựa đề “Bắt học sinh nghỉ học để lấy
khuôn viên trường làm nơi tổ chức đám cưới,” trích như sau:

“Nhiều người dân ở xã Tân Tiến, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc đã gọi điện
cho PV phản ánh về việc cán bộ địa chính xã được hiệu trưởng nhà trường cho
mượn trường và lớp học để tổ chức đám cưới. Nghe có vẻ khó tin nhưng quả thật
người dân phản ánh không sai. Toàn bộ mấy trăm học sinh phải nghỉ học chỉ vì lí
do một ông “quan” xã mượn trường tổ chức đám cưới cho con.

Chúng tôi đến trường THCS Tân Tiến vào buổi chiều 26-9, cũng là lúc mà gia chủ
đang hân hoan đón khách vào dự tiệc cưới tại cổng trường THCS Tân Tiến. Trong
khuôn viên trường, một đám cưới hoành tráng đang diễn ra, loa đài bật lên inh
ỏi, khách khứa cười nói rôm rả. Hỏi ra mới hay  đó là đám cưới con trai ông  Lê Mạnh Hùng – Cán bộ địa chính xã Tân Tiến được ông Vũ Việt Thắng – Hiệu trưởng trường THCS Tân Tiến bắt học sinh phải nghỉ học để mượn khuôn viên trường. Nhiều phụ huynh dù là khách mời nhưng vẫn bức xúc vì con họ phải đi học bù vào thứ Bảy, Chủ nhật chỉ vì việc riêng của một cán bộ xã…”

Quả nhiên, đó là chuyện bí hiểm của thiên đường xã hội chủ nghĩa….

 

Thánh Têrêsa Hài Đồng

Thánh  Têrêsa Hài Đồng

Trầm Hương              Thơ                      10/1/2012                     Vietcatholic.net
Hồn thơ trong trắng dịu hiền
Vẫn thường mơ tưởng làm tiên trên trời
Bay lơ lửng khắp mọi nơi
Đem mầu nhiệm lạ tuyệt vời cứu nhân.
Ai trồng cây Đức tuyệt trần
Gieo vào trong đấy lòng nhân tình người
Vẽ vào hồn nhỏ xinh tươi
Vươn lên mạnh mẽ rạng ngời cao sang
Gia đình lá ngọc cành vàng
Hồn thơ được dạy mọi đàng thương yêu
Tim non lửa mến thật nhiều
Yêu người kính Chúa mọi điều hy sinh
Chúa là tuyệt đỉnh đời mình
ThươngYêu nở đóa hoa xinh cho đời
Lòng mến tỏa khắp mọi nơi
Sáng lên lan tỏa cùng trời quang minh
Ước ao được hiến dâng mình
Làm người tình nhỏ xinh xinh Chúa Trời
Truyền giáo đến khắp mọi nơi
Lửa tim hồng thắm vào đời nhân sinh
Mười lăm tuổi rất trong trinh
Xin Giáo Hoàng chuẩn đăng trình vào tu
Dòng Kín sống rất khiêm nhu
Yêu người mến Chúa chăm chu vẹn toàn
Mọi việc chăm chỉ siêng ngoan
Liên lỉ nguyện ngắm để loan Tin Mừng
Tim yêu lửa cháy bừng bừng
Xin cho Linh Mục chẳng ngừng tiến thăng
Gieo hương Bác Ái Công Bằng
Để cho thế giới thấy rằng đạo ngay
Cuộc đời thơm ngát hương bay
Hôm nay Giáo Hội mừng ngày kính tôn
Tâm hồn tỏa ngát hương khôn
Hoa thơm tinh khiết trường tồn khắp nơi
Tê-rê-sa đã về trời
Hoa hồng sẽ rải mưa rơi khắp cùng
Cha Mẹ Ngài cũng về chung
Một gia đình Thánh khiêm cung trên trời
Danh thơm thánh thiện đời đời
Trên Thiên Cung tỏa sáng ngời dương gian.
01.10. ngày kính thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu.

Cha Mẹ của thánh Têrêsa đều đã được phong Á Thánh.
Thời trẻ cả hai người đều ước ao đời sống tu trì nhưng bất thành,và
ước ao được dâng tất cả các con lên Chúa và Ngài đã nhận lời.
Tất cả những người con của hai người đều đi tu.

Bằng chứng Chúa Giêsu hiện hữu

Bằng chứng Chúa Giêsu hiện hữu

Tác giả Tiến sĩ ADRIAN ROGERS (*)

 

 

Chúa Giêsu đã bước đi trên thế gian này. Ngài đã sinh ra và chết đi. Làm sao chúng ta biết được? Có ba bằng chứng cho chúng ta biết.

Các thánh

Cv 10:39-41 nói: “Còn chúng tôi đây xin làm chứng về mọi việc Người đã làm trong cả vùng dân Do-thái và tại chính Giêrusalem. Họ đã treo Người lên cây gỗ mà giết đi. Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy, và cho Người xuất hiện tỏ tường, không phải trước mặt toàn dân, nhưng trước mặt những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước, là chúng tôi, những kẻ đã được cùng ăn cùng uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại”.

Hơn 500 người đã thấy Chúa Giêsu sau khi Ngài sống lại, và đa số những người này đã chết vì đức tin. Người ta có thể sống để nói dối, nhưng rồi họ chết vì cái gì chứ?

Kinh thánh

Cv 10:43 nói: “Tất cả các ngôn sứ đều làm chứng về Người và nói rằng phàm ai tin vào Người thì sẽ nhờ danh Người mà được ơn tha tội”. Khi tác giả nói “các tiên tri”, tác giả đang nói về các ngôn sứ từ sáng thế tới ngôn sứ Malaki (nhớ rằng hồi đó chưa có Tân ước).

Sách Sáng thế, chương 3, nói về Đấng sẽ đạp dập đầu con rắn. Sách Sáng thế, chương 12, nói về Đấng đó đến từ dòng dõi Áp-ra-ham. Trong Sáng  thế 22, chúng ta đọc về việc hiến tế Isaac trên núi, nơi mà sau đó Chúa Giêsu chịu đóng đinh! Toàn bộ sách Lê-vi đầy những hình ảnh về việc hiến tế đổ máu để cứu khỏi tội lỗi. Trong Thánh vịnh 22 có những lời tiên tri về Chúa Giêsu chịu đóng đinh: “Tưởng mình như tan dần ra nước, toàn thân con xương cốt rã rời, con tim đau đớn bồi hồi, mềm như sáp chảy tơi bời ruột gan. Nghe cổ họng
khô ran như ngói, lưỡi với hàm dính lại cùng nhau, chốn tử vong Chúa đặt vào…Bọn ác đó trong ngoài vây bủa, chúng đâm con thủng cả chân tay, xương con đếm được vắn dài; chúng đưa cặp mắt cứ hoài ngó xem. Áo mặc ngoài chúng đem chia chác, còn áo trong cũng bắt thăm luôn…”
. Trong Mikha 5:2, nói rõ Chúa Giêsu sẽ sinh ra tại Belem: “Đức Chúa sẽ bỏ mặc Ít-ra-en cho đến thời một phụ nữ sinh con. Bấy giờ những anh em sống sót của người con đó sẽ trở về với con cái Ít-ra-en”.

Tôi có thể tiếp tục, nhưng cuối cùng là: Có kế hoạch cứu độ trong Kinh thánh và qua Máu cứu độ của Thiên-Chúa-Làm-Người, tức là Đức Giêsu Kitô.

Chúa Thánh Thần

Chúa Thánh Thần dùng Lời Chúa và nói: “Amen. Điều đó đã được viết. Đó là sự thật”. Tôi tạ ơn Chúa vì tôi không phải cố gắng thuyết phục bạn tin Chúa Giêsu. Nếu tôi có nói điều gì để thuyết phục bạn thì có thể có ai đó nói bạn ra khỏi đó!

1 Ga 5:9-11 nói: “Chúng ta vẫn nhận lời chứng của người phàm, thế mà lời chứng của Thiên Chúa còn cao trọng hơn, vì đó là lời chứng của Thiên Chúa, lời Thiên Chúa đã làm chứng về Con của Người. Ai tin vào Con Thiên Chúa, người đó có lời chứng ấy nơi mình. Ai không tin Thiên Chúa, thì coi Thiên Chúa là kẻ nói dối, vì kẻ ấy không tin vào lời Thiên Chúa đã làm chứng về Con của Người. Lời chứng đó là thế này: Thiên Chúa đã ban cho chúng ta
sự sống đời đời, và sự sống ấy ở trong Con của Người”
.

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ Jesus.org)

(*) Qua đời ngày 15-11-2005.

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

Những thiên thần hộ mệnh âm thầm

Những thiên thần hộ mệnh âm thầm

 

Trong đời thường, đôi khi chúng ta nhận được sự trợ giúp trực tiếp hay gián tiếp của
một cộng đồng hay cá nhân nhưng chúng ta không biết hoặc chỉ biết sau một thời
gian. Trong cuộc sống tâm linh cũng thế, có những cá thể vô hình đã giúp đỡ chúng ta trong một số tình huống. Các cá thể này có thể là các tổng lãnh thiên thần, các thiên thần của Thiên Chúa. Sự giúp đở này không chỉ thuộc lãnh vực tâm linh, mà còn thuộc lãnh vực trần thế.

Các thiên thần là ai? Các thiên thần là những thần khí, chuyên lo phục vụ, được sai
đi giúp ích những người sẽ thừa hưởng phần rỗi. Các ngài tồn tại trong một không gian nằm ngoài sự nhận biết của tri giác chúng ta.

Trong Tân Ước, thỉnh thoảng các ngài được đề cập đến, và chúng ta nhận biết các vai
trò của các thiên thần qua các đoạn văn này:

§        Chăm sóc loài người và chiêm ngưỡng nhan Thiên Chúa ( Mt 18, 10).

§        Các thiên thần có đời sống độc lập với nhục thể (Mt 22, 30)

§        Các thiên thần tham gia điều hành trong ngày cánh chung (Mt 13, 39).

§        Chia sẻ niềm vui khi thấy một người tội lỗi quay về ( Lc 15, 10).

§        Mang sứ điệp của Thiên Chúa đến loài người (Lc 1, 19).

§        Dẫn đưa linh hồn người công chính vào chốn thiên cung ( Lc 16, 22)

§        Dâng lên Thiên Chúa lời kinh của các thánh (Kh 5, 8).

 

Rõ ràng, giữa con người và các thiên thần có mối dây liên lạc mật thiết. Các ngài
là công cụ mà Thiên Chúa tạo ra nhằm trợ giúp, cho mỗi chúng ta trên con đường
lữ hành ở trần thế, trước khi về quê Trời. Công việc của các ngài thực hiện, đa phần diễn ra trong âm thầm, lặng lẽ.

Chắc chắn chúng ta đôi lần đã được các ngài, khi thì truyền tải các thông điệp của
Thiên Chúa, lúc thì trợ giúp chúng ta trong những lúc gian nguy. Nhưng do bị
giới hạn của việc nhận biết thông qua các tri giác, nên vô tình chúng ta không
nhận ra những trợ lực vô hình hoặc chỉ  lờ mờ nhận ra. Trải nghiệm vấn đề
này thường mang đậm tính cá nhân. Sự thông tri là đặc ân mà Thiên Chúa dành ban
cho những người khá đặc biệt. Nhiều khi tại một thời điểm, có nhiều người xung
quanh nhưng chỉ một số ít người là được cho thấy, nghe.

Lạy Thiên Chúa, vì vẫn luôn yêu thương loài người, nên Ngài sử dụng các thiên thần  để bênh vực, che chở chúng con, mọi nơi, mọi lúc. Nhân lễ kính các tổng lãnh thiên thần,
chúng con xin cám ơn sự trợ giúp âm thầm của các ngài. Và xin cho chúng con luôn biết sống xứng đáng với những ân phúc mà chúng con đã lãnh nhận
.

 

G. Tuấn Anh.

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

40 years after his death, PADRE PIO looks like this

40 years after his death, PADRE  PIO looks like this

 

Padre Pio, a humble Capuchin priest from San Giovanni Rotondo, Italy , was blessed by
God in many wonderful and mysterious ways. The most dramatic was the stigmata.
Padre Pio bore the wounds of Christ for fifty years! Among his other gifts were perfume, bilocation, prophecy, conversion, reading of souls, and miraculous cures. People are still being cured through his intercession in ways that cannot be explained by medicine or science. More important, if less spectacular, are the spiritual healings that take place in all parts of the world! Padre Pio is a powerful intercessor!!

Padre Pio’s incorrupt body!

To see him resting so peacefully it’s hard to believe that he died 40 years ago!

http://photos.msn.com/Viewing/Album.aspx?PST=8nK2AN1B!1J7krJeGuxwhYuVVpmNn2d4YWjka9e*fYIQJ*ax7A1PjDvCLJbVQ4y1mXyrsPFULXJqsK7GU7GQUQ$$

http://photos.msn.com/Viewing/Album.aspx?PST=8nK2AN1B!1J7krJeGuxwhYuVVpmNn2d4YWjka9e*fYIQJ*ax7A1PjDvCLJbVQ4y1mXyrsPFULXIFYhYdT5jwng$$

http://photos.msn.com/Viewing/Album.aspx?PST=8nK2AN1B!1J7krJeGuxwhYuVVpmNn2d4YWjka9e*fYIQJ*ax7A1PjDvCLJbVQ4y1mXyrsPFULXIRsgurNAy5Qg$$

http://photos.msn.com/Viewing/Album.aspx?PST=8nK2AN1B!1J7krJeGuxwhYuVVpmNn2d4YWjka9e*fYIQJ*ax7A1PjDvCLJbVQ4y1mXyrsPFULXInwwUu*rzIng$$

http://photos.msn.com/Viewing/Album.aspx?PST=8nK2AN1B!1J7krJeGuxwhYuVVpmNn2d4YWjka9e*fYIQJ*ax7A1PjDvCLJbVQ4y1mXyrsPFULXKWiDg3VU!2CA$$

http://photos.msn.com/Viewing/Album.aspx?PST=8nK2AN1B!1J7krJeGuxwhYuVVpmNn2d4YWjka9e*fYIQJ*ax7A1PjDvCLJbVQ4y1mXyrsPFULXINjYUxoaMEfA$$

 

A Prayer to Padre Pio

Beloved Padre Pio, today I come to add my prayer to the thousands of prayers
offered to you every day by those who love and venerate you in Jesus’ name.
They ask for cures and healings, earthly and spiritual blessings, and peace for
body and mind. And because of your friendship with the Lord, he heals those you
ask to be healed, and forgives those you ask be forgiven in Jesus’ name.
Through your visible wounds of the Crucified Jesus, which you bore for 50
years, you were chosen in our time to glorify the crucified Jesus. Because the
Cross has been replaced by other symbols, please help us bring back the
veneration of the wounds of Jesus Christ, for we acknowledge His Precious Blood
as true a sign of salvation, cleansing and purifcation. As we lovingly recall
the wounds that pierced your hands, feet and side, like  beloved Jesus
Christ, we not only remember the blood He shed as you also shed in pain, along
with your smile, and the invisible halo of sweet smelling flowers that
surrounded your presence, certainly the Scent of The Lord, symbolic as the
perfume of sanctity. Padre Pio, may the healings of the sick become the
testimony that the Lord has invited you to join the holy company of Saints. In
your kindness, please help me with my own special request: (mention here your
petition, and make the sign of the Cross). Bless me and my loved ones. In the
name of the Father, the Son and the Holy Spirit. Amen.

In Memoriam J.S.

The following quotes of Padre Pio tell how he looked after and loved his
spiritual family:

‘I love my Spiritual Children as much as my own soul and even more.’

‘Once I take a soul on, I also take on their entire family as my spiritual
children.’

‘To my Spiritual Children, my prayers for you will never be lacking.’

‘If one of my spiritual children ever goes astray, I shall leave my flock and
seek him out.’

nguồn: Vũ P. Thảo gởi

 

Thánh Pacifio ở San Severino

Thánh Pacifio ở San Severino
(1653 — 1721)
4 Tháng Chín

Pacifico sinh trưởng trong một gia đình đặc biệt ở San Severino trong vùng Ancona thuộc
miền trung nước Ý. Sau khi gia nhập dòng Tiểu Ðệ, ngài được thụ phong linh mục.
Ngài dạy triết học trong hai năm và sau đó bắt đầu sứ vụ rao giảng một cách thành công.
Pacifico là một người khổ hạnh. Ngài ăn chay trường, sống bằng bánh mì và nước hoặc xúp. “Áo nhặm” của ngài được làm bằng sắt. Sự khó nghèo và vâng phục là hai đức tính mà các anh em tu sĩ nhớ đến ngài nhiều nhất.
Vào năm 35 tuổi, Pacifico bị bệnh nặng khiến ngài bị điếc, bị mù và bị què. Ngài
dâng sự đau khổ này để cầu nguyện cho người tội lỗi trở lại, và ngài đã chữa lành nhiều bệnh nhân đến với ngài. Pacifico cũng là bề trên tu viện San Severino. Ngài được phong thánh năm 1839.
Lời Bàn
Thánh Pacifico sống sát với những lời của Thánh Phanxicô. Lời ngài rao giảng và cuộc
sống có liên hệ với sự hy sinh hãm mình đền tội.Thánh Phanxicô khuyến khích các
tu sĩ rao giảng Lời Chúa mà không phô trương ầm ĩ hoặc vì tư lợi. Và vì thế, lời của họ mới thực sự là lời của Chúa và hướng đến phúc lợi của người nghe. Ðời sống của Thánh Pacifico đã thể hiện lời ngài rao giảng, và người nghe nhận ra sức mạnh trong lời của ngài.
Lời Trích
“Ngoài ra, tôi khuyên bảo và nhắc nhở các tu sĩ rằng trong sự rao giảng, lời nói của họ phải được nghiên cứu và minh bạch. Họ phải nhắm đến ích lợi và sự thăng tiến tâm
linh của người nghe, nói một cách ngắn gọn về tính tốt cũng như tính xấu, sự trừng phạt và sự vinh quang, vì chính Chúa chúng ta cũng nói ngắn gọn khi ở trần thế” (Thánh Phanxicô, Quy Luật 1223, Ch. 9).
nguồn: Maria Thanh Mai gởi

CON CÁI LÀ QUÀ TẶNG VÔ GIÁ THIÊN CHÚA DÀNH CHO CHA MẸ

CON CÁI LÀ QUÀ TẶNG VÔ GIÁ

THIÊN CHÚA DÀNH CHO CHA MẸ

nguồn: Ephata 527
Cha mẹ tôi đến với nhau vào cái tuổi mà mọi người thường bảo là “trễ hẹn”, cha tôi 36, mẹ tôi thì 29. Đám cưới đã qua đi ba mùa xuân đầy ắp yêu thương, nhưng hoa quả của tình yêu vẫn là một sự mong đợi của gia đình nội ngoại hai bên, mặc dù ông bà tôi đã có rầt nhiều cháu.
Bằng đời sống cầu nguyện với lòng cậy trông, cha mẹ tôi đã được Thiên Chúa yêu thương nhậm lời. Thế là một hình hài bé nhỏ bắt đầu dần hình thành trong dạ mẹ. Khi đó mẹ tôi đã bước sang tuổi 32, biết chuyện ai cũng đều e ngại cho đứa con đầu lòng như tôi, và quả thật là thế !
Tháng thứ ba của thai kỳ, bỗng nhiên mẹ tôi bị ra huyết rất nhiều. Bác sĩ bảo rằng mẹ tôi có
thai ngoài tử cung và yêu cầu phẫu thuật bỏ thai. Niềm vui với đứa con vừa hoài thai trong lòng chưa được bao lâu lại bỏ đi ư ? Cả nhà tôi rất lo lắng và xin bác sĩ cố gắng xem lại bệnh tình của mẹ tôi. Nhờ ơn Chúa, mẹ tôi tai qua nạn khỏi và tôi được giữ lại.
Tháng thứ tư qua đi trong êm đềm. Tháng thứ năm, một lần nữa mẹ tôi lại bị ra huyết. Lần này không nghiêm trọng lắm, nhưng bác sĩ khuyên nên cẩn thận vì thai nhẹ, rất yếu.
Tới tháng thứ sáu cũng qua đi trong sự lo lắng của gia đình.
Một chiều Chúa Nhật trong tháng thứ bảy của thai kỳ, tôi đã được khoảng 29 tuần tuổi, một lần nữa mẹ tôi lại ra huyết. Huyết ra lênh láng. Mẹ tôi được đưa vào bệnh viện trong cơn mưa chiều tầm tã nặng hạt. Cùng với mẹ tôi, lúc đó cũng có một ca của một thai phụ tương tự như mẹ tôi. Sau khi bác sĩ khám cho mẹ tôi và thai phụ kia, ông ấy trao cho cả hai bà mẹ cùng một loại thuốc đen mun nhỏ như hạt tiêu và dặn rằng uống rồi, khi nào đau bụng thì kêu ông ấy đến để lấy thai nhi ra. Khi đó mẹ tôi rất hoang mang lo lắng.
Khoảng một giờ sau khi uống thuốc, người thai phụ kia đau bụng dữ dội và bác sĩ đã lấy thai nhi vừa chết ra khỏi cung lòng của mẹ bé. Nhìn thấy cảnh tượng đó mẹ tôi vô cùng sợ hãi. Sau khi hoàn tất công việc cho thai phụ kia, quay sang mẹ tôi, ông ấy hỏi thăm sức khỏe mẹ tôi. Mẹ tôi nói không có cảm giác đau đớn gì cả, Với nụ cười trên môi, vị bác sĩ nói với mẹ tôi: ”Chúc mừng bà vì bà đã giữ lại được cháu”. Một giấc ngủ êm đềm đến với mẹ. Những tuần lễ sau đó là thời gian chuẩn bị cho tôi được chào đời.
Một ngày trong tuần thứ ba mươi tư của thai kỳ, mẹ tôi vỡ ối nhưng mãi đến 12 tiếng đồng
hồ sau, khi nước ốc đã cạn sạch, tôi mới lọt lòng mẹ. Trường hợp này là một ca sinh khó, nhưng tôi và mẹ đã được an toàn và khỏe mạnh, như một phép lạ kỳ diệu. Mẹ tôi bế con cân nặng 2,8kg trên tay, hai hàng lệ lăn dài trên gò má vì sung sướng và hạnh phúc.
Lạy Chúa, con quả thật hạnh phúc được sinh ra trong sự quan phòng kỳ diệu của Chúa, được cha mẹ đón nhận bằng cả tình yêu. Con có được một mái nhà, một mái nhà yên ấm thật sự để đi về mỗi ngày, với mâm cơm nóng hổi thơm ngon tình gia đình. Con hạnh phúc vì có cha mẹ luôn bên cạnh mình vực con dậy và tiếp tục dẫn dắt con sau những lần vấp ngã xót đau khi con bước chập chững vào đời. Cảm tạ Chúa đã cho con trái tim biết yêu, biết rung động trước cái đẹp và biết cảm thông chia sẻ với những mảnh đời bất hạnh. Cảm tạ Chúa đã thương con, cho con sống trong tình yêu của Chúa, cho con biết ca tụng tình yêu thương của Chúa.
Lạy Chúa, giờ đây lời kinh con dâng lên Chúa là một lòng thờ kính Chúa, là một niềm cậy trông đặt tất cả niềm tin nơi Chúa. Cuộc sống này dù có gian nan vất vả, chúng con vẫn xin nguyện chúc cho cha mẹ luôn có được hạnh phúc và niềm vui. Nguyện xin tình yêu của Chúa đến ở trong gia đình con, cho cha mẹ được muôn phúc lành.
Xin Chúa ban cho con biết ý thức và luôn giữ trọn đạo hiếu với cha mẹ trong mọi hoàn cảnh. Xin cho con nhận ra rằng những gì con có được hôm nay chính là tình yêu của Chúa cho con thông qua hai bậc sinh thành là cha và mẹ con…
Emmanuel LÊ TRẦN CHÍ HIẾU, Nhóm Fiat

ĐỨC MẸ MARIA TRONG CUỘC ĐỜI ĐỨC HỒNG Y PX. NGUYỄN VĂN THUẬN

ĐỨC MẸ MARIA TRONG CUỘC ĐỜI

ĐỨC HỒNG Y PX. NGUYỄN VĂN THUẬN

Bài giảng Lễ giỗ lần thứ 10 Đức Hồng Y tại
Nhà Thờ Tây Ninh, ngày 15.9.2012

nguồn: Ephata 528

 

Quý Cha và anh chị em thân mến,

 

Ngày hôm nay, 15.9.2012, nhân lễ kính Đức Mẹ Bảy Sự Thương Khó, hay còn gọi Đức Mẹ Sầu Bi, chúng ta cùng nhau tập trung từ nhiều nơi về đây, cử hành Lễ giỗ lần thứ 10 của Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, tuy ngày mai 16.9.2012 mới là ngày chính thức ngài được Chúa gọi về.

Chẳng phải tình cờ, hay ngẫu nhiên xảy ra sự trùng hợp này. Trái lại, vì trong suốt cuộc đời nơi trần thế, Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê đã luôn sống kết hợp vô cùng chặt chẽ với Mẹ Maria, qua từng chặng Đường Hy Vọng. Cho nên, Lễ giỗ Đức Hồng Y hôm nay thật là phù hợp với ngày Lễ kính Đức Mẹ Sầu Bi.

Tôi muốn nhân dịp này chia sẻ với tất cả mọi người hiện diện trong nhà thờ này, về Mẹ Maria trong cuộc đời của Đức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê. Những lời chia sẻ sau đây có lẽ không có gì mới lạ đối với những người quen nghe nói, hay đọc những tác phẩm của Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê, hay về ngài. Tôi chỉ xin nhắc lại một số sự kiện và chứng từ, mà tôi ghi nhớ về mối tương quan sống động giữa Đức Hồng Y và Mẹ Maria. Lời lẽ trích dẫn có thể không chính xác, nhưng hi vọng vẫn giữ nguyên được ý nghĩa. Và vì đây là bài chia sẻ
có tính tự phát.

Ngay từ thuở thơ ấu, Bà Nội và Bà Cố đã rót vào tâm hồn ngài tình yêu mến Đức Mẹ qua những buổi kinh tối, lần hạt, cùng nhắn nhủ chí tình. Sau mỗi buổi đọc kinh chung, Bà Nội của ngài còn dâng lên Mẹ thêm một chuỗi Mai Khôi để cầu nguyện cho các Linh mục. Đặc biệt, gia đình Bà Cố rất sùng kính Đức Mẹ La Vang, luôn khuyên nhủ con cháu trông cậy và cầu nguyện cùng Mẹ La Vang. Ngài ghi nhớ rất kỹ ấn tượng này từ thuở thiếu thời.

Nhân dịp Kỷ niệm 200 năm Đức Mẹ La Vang ( 1798 – 1998 ), Văn Phòng Mục Vụ cho người Công Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ, bảo trợ cho tổ chức Đại Hội Thánh Mẫu La Vang ( 21 – 22.8.1998 ), tại Vương Cung Thánh Đường Đức Mẹ Vô Nhiễm, thủ đô Hoa Thịnh Đốn, Hoa Kỳ. Đức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê, lúc bấy giờ vẫn là Tổng Giám Mục, được mời đến thuyết giảng cho Đại Hội. Tôi có bổn phận tiếp đón ngài từ Rôma sang, tại nhà xứ Giáo Xứ Mẹ Việt Nam ( Maryland ).

Khi Đức Tổng Giám Mục Phanxicô Xaviê vừa đến nhà xứ, ngài liền hỏi xin một tờ giấy và cây bút, rồi lui về phòng riêng. Lát sau, ngài ra và tặng cha Chánh xứ Phêrô Nguyễn Thanh Long một bản kinh viết tay. Đây là bản Kinh Đức Mẹ La Vang. Kinh này do cha Giuse Maria Nguyễn Văn Thích sáng tác và được báo Vì Chúa in ra vào năm 1938. Kinh Đức Mẹ La Vang có lời văn bình dị, chan chứa tình cảm đạo đức chân thành của người Giáo Dân Việt Nam, gồm có 50 câu, được mở đầu và kết thúc bằng hai câu này ( xin xem toàn bài thơ phía cuối
bài này ):

 

Lạy ơn Đức Mẹ La Vang,

Xin nghe con mọn thở than mấy lời.

Và cũng từ kinh này, Đức Hồng Y đã giảng dạy và sau đó viết ra tập sách “Sứ điệp Đức Mẹ La Vang,”mà điểm được nhấn mạnh là việc cầu nguyện với Mẹ Maria trong đời sống Đức Tin.

Những điều vừa kể cho phép nói rằng tình yêu mến Mẹ Maria, qua lời kinh nguyện truyền thống, đã được khắc ghi vào tâm khảm của Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê từ thuở niên thiếu, đặc biệt nhất là đối với Đức Mẹ La Vang.

Nhờ vậy, không ai lấy làm ngạc nhiên, khi ngài thường lập lại danh ngôn của Thánh Gioan Maria Vianney: “Đức Mẹ Vô Nhiễm là mối tình đầu của tôi .” Ý lực này được ngài chọn
làm tiêu đề cho “Con cá thứ nhất” trong tác phẩm do ngài viết ra, gồm những suy tư xuất phát từ gian nan và thử thách, mang tựa đề “Năm Chiếc bánh Và Hai Con Cá”.

Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xaviê có kể lại rằng thuở còn du học ở Rôma, ngài đã đến hành hương Đức Mẹ Lộ Đức. Khi cầu nguyện, ngài nghe như có tiếng Đức Mẹ nói trong lòng mình: “Mẹ không hứa ban cho con hoan lạc, vui vẻ, mà ban cho con đau khổ và thử thách.”

Thế nhưng sau khi tốt nghiệp và trở về quê hương, ngài được bổ nhiệm làm Cha Giáo, rồi Giám Đốc Chủng Viện, sau đó là Cha Chính Địa Phận và kế tiếp là Giám Mục Việt Nam tiên khởi của Giáo Phận Nha Trang. Thụ phong Giám Mục vào năm 1967, tức chưa đầy hai năm sau khi Công Đồng Chung Vatican II kết thúc, ngài thừa hưởng tinh thần đổi mới và cập nhật hóa ( aggiornamento ) đời sống và sứ mạng của Hội Thánh Công Giáo. Chính vì thế ngài đã hăng say hoạt động Mục Vụ và Tông Đồ. Nhờ tài năng và đức độ, ngài mở mang các Chủng Viện, khích lệ các ơn gọi tận hiến, phát triển và tổ chức các phong trào, đoàn thể,
đồng thời mở rộng công tác bác ái, nhất là cứu trợ nạn nhân chiến cuộc. Với thời gian, hoạt động Mục Vụ và Tông Đồ của ngài gặt hái liên tiếp những thành qủa với tầm tương lai rạng rỡ, làm cho nhiều người trong cũng như ngoài Giáo Hội phải kính phục.

Sau đó, có dịp trở lại Lộ Đức, ngài thưa với Mẹ: “Những gì Mẹ nhắn nhủ trước đây với con,
hình như chỉ đúng cho Thánh nữ Bernadette, hơn là cho con.”

Và đến ngày 15.8.1975, ngày lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, ngài được mời đến Dinh Độc Lập, nay là Dinh Thống Nhất, để phải bất ngờ chấp nhận khởi sự một cuộc hành trình đầy băn khoăn, gian khổ và thử thách kéo dài 13 năm tiếp theo. Hành trang ra đi ngoài chiếc áo dòng chỉ có một chuỗi hạt Mai Khôi.

Thời gian bị quản chế ở Cây Vông, Nha Trang, là trạm dừng chân thứ nhất, ngài đã bắt chước Thánh Phaolô khi ở trong tù vẫn tiếp tục viết thơ cho các Giáo Đoàn và tín hữu của mình. Ngài đã nghĩ ra cách viết ngắn gọn và súc tích những huấn từ linh đạo. Ngài liều lĩnh làm như thế vì trong hoàn cảnh nào ngài cũng muốn như được sống gần gũi với Giáo Phận, các tín hữu và những người thân yêu của mình.

Chưa đầy một năm, tác phẩm “Đường Hy Vọng” chào đời, gom kết lại những “lá thư” được viết trên những tờ lịch cũ. “Đường Hy Vọng” gồm 24 chương hay 24 chủ đề, trong đó có một chương dành riêng về Mẹ Maria. Tác phẩm này đã trở thành cuốn sách cơ bản cho Linh Đạo Hy Vọng của Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê.

 

Sau này được tự do, có người hỏi ngài: “Trong tù, chắc Đức Cha có nhiều thì giờ cầu nguyện ?” Ngài trả lời: “Vậy ai muốn cầu nguyện thì cứ vào tù !” Thực ra, đã nhiều lần ngài tâm sự rằng có những lúc thể xác yếu đuối, mệt nhọc và đói khát, thêm vào đó là tinh thần căng thẳng, việc cầu nguyện cũng không dễ dàng gì. Nhiều khi ngài cố gắng lắm mới
đọc được Kinh Kính Mừng hay Kinh Hãy Nhớ, nhiều khi chỉ biết kêu lên hai tiếng Ave Maria, Ave Maria… Tuy vậy ngài không bao giờ dám sao lãng việc cậy trông vào Đức Mẹ.

Khi cuộc thử thách cam go dâng lên cao độ, ngài đã dám kêu xin: “Thưa Mẹ, nếu con không còn làm được gì hữu ích cho Giáo Hội, thì xin Mẹ cầu bầu cùng Chúa cho con được chết để sựhy sinh được trọn vẹn. Còn nếu Mẹ thấy con còn có thể giúp ích cho Hội Thánh, thì cho con một dấu chỉ: Cho con được tự do vào một trong các ngày lễ của Đức Mẹ”. Sau này ngài thú nhận rằng không biết mình có phạm tội thách đố Đức Mẹ hay không ! Không những chính mình sống cầu nguyện, ngài cũng không bỏ lỡ cơ hội nào để xin người khác cầu nguyện cho ngài.

Chuyện kể lại rằng có một người cán bộ quản giáo mà ngài quen biết khi còn ở tù, bị chuyển đổi công tác hay được về quê nghỉ phép gì đó ( chi tiết này tôi không còn nhớ chính xác nữa ). Ngài đã nhờ: “Khi anh về, anh nhớ ghé đến La Vang và cầu xin Đức Mẹ cho tôi”. Người cán bộ này giữ lời hứa và đã đến Đức Mẹ La Vang  ở Quảng Trị và nói: “Thưa Đức Mẹ, tôi không có đạo, nhưng ông Thuận nhờ tôi tới đây để cầu xin cho ông ấy. Ông Thuận
muốn gì thì Đức Mẹ cho ông ấy được toại nguyện.”

Đến ngày 21.11.1988, một cán bộ đến gặp ngài:


Ông Thuận, ông ăn cơm chưa ?


Chưa. Tôi đang nấu.


Ăn cơm xong, ăn mặc sạch sẽ để đi gặp lãnh đạo.


Lãnh đạo nào ạ ?


Tôi không biết. Tôi chỉ làm theo lệnh cấp trên.

Cơm trưa xong, ngài được đưa đến Nhà Khách Chính Phủ. Sau cái bắt tay xã giao, ông Mai Chí Thọ, lúc bấy giờ là Bộ trưởng Bộ Nội Vụ, nói:

– Ông Thuận, ông có nguyện vọng gì không ?

– Tôi muốn được tự do.

– Bao giờ ?

– Ngày hôm nay.

Thấy ông Bộ trưởng có vẻ bối rối, ngài nói tiếp:

– Tôi ở tù trải qua 3 đời Đức Giáo Hoàng là Phaolô Đệ lục, Gioan Phaolô Đệ nhất và Gioan Phaolô Đệ nhị. Và thời gian ở tù của tôi cũng đã trải qua 4 đời Tổng Bí Thư Liên Xô:
Breznev, Andropov, Chernenkô và Gorbachev.

– Đúng ! Đúng !

Nói vậy rồi ông Bộ trưởng quay sang nói với người cán bộ:

– Hãy làm cho ông Thuận được toại nguyện.

Hôm đó chính là ngày Lễ Đức Mẹ Dâng Mình vào Đền Thánh và ngài được tự do, ra khỏi ngục tù.

Thưa quí Cha và anh chị em,

Trước đây và đặc biệt sau thời điểm này, Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xaviê luôn rao giảng về lòng sùng kính cũng như cậy trông nơi Đức Mẹ. Ngài cũng đã sáng tác nhiều thơ kinh
dâng Đức Mẹ, nhất là vào những ngày Lễ kính Đức Mẹ. Chúng ta hãy tìm đọc hai tác phẩm do chính ngài biên soạn “Cầu Nguyện Hi Vọng” và “Chứng Nhân Hi Vọng” như là sách thiêng liêng để cảm nghiệm sâu sắc về tình Mẹ Maria, vì Mẹ là Thầy dạy về Đức Tin, Đức Mến và Đức Cậy.

Hôm qua là ngày lễ Suy Tôn Thánh Giá, hôm nay là ngày lễ Đức Mẹ Sầu Bi, ngày mai là ngày Chúa gọi Đức Hồng Y về Nhà Cha. Chúng ta hãy hồi tưởng hình ảnh Đức Mẹ cùng với Thánh Gioan Tông Đồ đứng dưới chân Thánh Giá Chúa Kitô. Gần vào lúc Ơn Cứu Chuộc lên đỉnh điểm, Chúa trăn trối: “Này là Mẹ con” rồi “Đây là con Mẹ”.

Chúng ta ước mơ thấy một lần nữa, nơi Thiên Đường Chúa cũng nói như thế với Mẹ Maria và Đức Hồng Y, vị Tông Đồ nhiệt thành của Chúa đã sống trọn vẹn làm chứng nhân cho niềm hy vọng vào Chúa.

Chuẩn bị bước vào Năm Đức Tin, chúng ta cùng hiệp thông, cộng tác với Giáo Xứ, Giáo Phận và toàn thể Giáo Hội để khởi sự công cuộc Tái Rao giảng Tin Mừng từ bản thân, gia đình đến xã hội. Vì đây là mệnh lệnh của Đức tin Công Giáo.

Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xaviê đã từng nói, Bí Tích Thánh Thể là món quà quí báu nhất mà Chúa đã ban tặng cho nhân loại. Ngoài ra Đức Maria cũng là một món quà quí báu khác, đồng hành với Chúa Kitô. Vì Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Giáo Hội, Mẹ Nhân Loại và
là Mẹ Các Thánh. Chính Mẹ đã từng nói tại tiệc cưới Cana: “Người bảo gì các con
cứ làm như thế.”

Công cuộc Tái Rao Giảng Tin Mừng muốn được hiệu quả nhờ Ơn Chúa phải bám tựa vào Hai Món Quà này như là nguồn sống đồng thời là nguồn tin yêu và hy vọng để chúng ta nhận lấy và truyền ban. Chúng ta nguyện xin Thánh Ý Chúa được thực hiện tốt đẹp như long mong ước của Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận.

“Giờ đây, nhờ lời bầu cử của Ngài và theo Thánh Ý Chúa, xin Chúa ban cho chúng con được ơn đang khẩn cầu, với niềm hy vọng thấy Ngài sớm được vinh hiển trên bàn thờ” để Danh
Cha được cả sáng và Nước Cha trị đến. Amen.

 

AM. TRẦN BÌNH AN,

ghi lại bài giảng của Lm. Giuse Trần Kim Thiện

tại Lễ giỗ 10 năm ngày mất của Đức Hồng Y PX. Nguyễn Văn Thuận

tại Nhà Thờ Tây Ninh, Giáo Phận Phú Cường, ngày 15.9.2012