Một tay chơi môtô nhận giải thưởng Mẹ Têrêsa vì đã giải phóng các binh lính trẻ em

Một tay chơi môtô nhận giải thưởng Mẹ Têrêsa vì đã giải phóng các binh lính trẻ em

chuacuuthe.com

VRNs (31.10.2013) – Sài Gòn – Sam Childers, một tay chơi môtô kì cự, đã cống hiến hơn 13 năm qua để giải cứu những binh lính nô lệ trẻ em tại phía Bắc Uganda và Nam Sudan thuộc Châu Phi. Ông vừa được Quỹ Harmony trao Giải thưởng Quốc tế Tưởng nhớ Mẹ Têrêsa năm 2013 trong lĩnh vực công bằng xã hội. Sam Childers là người bản địa vùng Pennsylvania, Hoa Kỳ, ông đã từng có thời kỳ nghiện ngập, bạo lực và từ bỏ Kitô giáo

Trao đổi với hãng AsiaNews, ông nói rằng, giải thưởng này thuộc về hàng ngàn trẻ em trong cuộc chiến tranh Sudan, và ở nhiều nơi khác trên thế giới, họ phải sống hàng ngày trong nỗi sợ hãi thường trực và bị đe dọa do các cuộc tấn công.

Lễ trao giải đã diễn ra hôm 27 tháng 10 tại The Leela, Mumbai. Ông Childers nói rằng, “Tôi không bao giờ đặt ra giới hạn về những gì mình có thể làm cho cuộc đời một đứa trẻ. Tôi không thể chấp nhận hoặc tin rằng những đứa trẻ có tai, có mũi, có tay và chân sẽ phải chịu cảnh tật nguyền [trong chiến tranh]“.

Sơ Prema, Bề Trên Dòng Thừa Sai Bác Ái (dòng mà Mẹ Têrêsa đã sáng lập), cũng gửi một điện thư chúc mừng người chiến thắng giải thưởng.

Ông Childers nói, “Chân Phước Têrêsa là một phụ nữ tuyệt vời, và tôi ngưỡng mộ lòng dũng cảm của mẹ. Mặc dù mẹ gặp nhiều khó khăn về mọi phương diện, mẹ không bao giờ từ bỏ sứ mệnh của mình vì mẹ khao khát Chúa Kitô”.

“Tôi đã theo gương của Mẹ [Têrêsa],” ông nói tiếp “Đừng giới hạn những gì bạn có thể làm cho Thiên Chúa, và Ngài sẽ không giới hạn những gì mà Ngài sẽ làm cho bạn.

Quỹ Harmony được thành lập vào tháng 10 năm 2005 với mục tiêu nhằm vinh danh các di sản của Mẹ Têrêsa và công bằng xã hội.

Abraham Mathai, người sáng lập và là chủ tịch của hiệp hội cho biết, hiệp hội phấn đấu “nhằm khôi phục niềm tin vào lòng trắc ẩn, bình đẳng xã hội và hòa bình, bằng cách thừa nhận các cá nhân và tổ chức làm việc vì xã hội.”

Khánh Tâm chuyển ngữ

Sự Sống Bất Diệt

Sự Sống Bất Diệt

 

Hôm ấy, một hoàng tử nọ và ba vị cận thần lên đường kinh lý kiểm tra đất nước rộng lớn của vua cha.  Khi tới trên đỉnh núi cao, hoàng tử đưa mắt nhìn xuống miền đất mênh mông phía dưới.  Một lúc sau, hoàng tử ngậm ngùi lên tiếng:

– Ôi, quê hương thân mến!  Ôi đất nước dấu yêu!  Ngươi thật xinh đẹp biết bao với những thung lũng êm dịu, những mặt hồ trong xanh đầy ánh sáng, những cánh đồng với đủ thứ hoa muôn màu sắc, những núi đồi hùng vĩ và những khu rừng tĩnh mạc êm đềm.  Thế nhưng, ta sẽ phải chết và sẽ phải từ biệt ngươi, sẽ không bao giờ còn được chiêm ngắm vẻ đẹp của ngươi nữa.  Ôi sự chết, nhưng tại sao lại phải có sự chết?

Rồi hoàng tử buồn sầu nức nở.  Thấy vậy, hai vị cận thần cũng mủi lòng khóc theo.  Họ than thở và tìm cách ủi an hoàng tử. Trong khi đó, vị cận thần thứ ba chỉ mỉm cười và không một lời phát biểu.  Về tới triều đình, hoàng tử gọi vị cận thần thứ ba đến và trách hỏi:

– Hôm nay, khi đứng trên núi cao, tâm hồn ta buồn sầu khôn tả.  Trong khi hai vị cận thần kia tìm cách an ủi ta, còn ngươi, tại sao ngươi chẳng nói gì mà lại mỉm cười như thế?

Vị cận thần thứ ba khôn ngoan trả lời:

– Tâu lạy hoàng tử.  Xin hoàng tử hãy nghĩ lại xem.  Nếu những vị danh nhân đại tướng từ trước đến nay tiếp tục sống mãi, không ai phải chết, đời sống họ sẽ ra thế nào và vận mệnh thiên hạ sẽ ra sao?  Nếu hoàng đế, vua ông nội của hoàng tử không phải chết thì làm sao vua cha của hoàng tử có thể lên ngôi kế vị được?  Nếu vua cha của hoàng tử còn tiếp tục sống mãi thì làm sao hoàng tử có thể cai trị trên ngai vua cha được?  Nếu như tất cả các hoàng tử và các vua chúa trên trần gian này còn tiếp tục sống mãi thì lúc này hoàng tử sẽ thế nào?  Hôm nay, hạ thần đã nhìn thấy một hoàng tử thiếu hiểu biết sự thật về thân phận con người, lại thêm hai vị cố vấn chỉ biết nịnh bợ vuốt ve sự khờ dại của hoàng tử nữa thì làm sao mà hạ thần lại không thấy buồn cười được?

Lời nói khôn ngoan của vị cận thần thứ ba đã làm cho hoàng tử thức tỉnh và cảm thấy hổ ngươi vì sự khờ dại của mình.  Hoàng tử nói thêm:

– Sau này, khi giờ chết đến, ta chỉ muốn một mình ngươi bên cạnh giường ta mà thôi.

Là người, ai lại không sợ chết.

Bởi vì biết rõ những gì phải bỏ lại đàng sau, nhưng không biết trước mắt sẽ gặp thấy điều gì, chính vì những điều chưa biết đó làm cho con người thêm băn khoăn lo sợ.  Tuy nhiên, trên trần gian này không có chân lý nào chắc chắn hơn là sự chết.  Mỗi người sinh ra trên trần gian đều phải chết, tuy không ai biết được chính xác mình sẽ phải chết khi nào, chết cách nào và chết ở đâu.  Thế nhưng, đâu phải tất cả mọi người đều nghĩ tới cái chết của mình.  Biết bao nhiêu người sống như thể là sẽ không bao giờ phải chết hoặc vì dửng dưng, hoặc vì cố tình muốn gạt bỏ nó sang một bên để khỏi phải bận tâm đến cuộc sống hiện tại của họ.

Chúa Giêsu tuy là Con Một của Thiên Chúa hằng sống và là nguồn mạch sự sống, nhưng đã tự nguyện mặc lấy thân phận con người hay chết, và hơn nữa đã muốn chấp nhận cái chết khổ nhục trên thập giá để nhắc nhở con người thực tại về sự chết là gì và đâu là con đường dẫn tới sự sống hạnh phúc thật, sự sống bất diệt.

Trong Phúc-âm, trước khi bước vào con đường khổ nạn, Chúa Giêsu đưa ba môn đệ thân cận nhất lên núi cao và cho họ thấy trước vinh quang của Ngài để củng cố niềm tin của họ, để họ không nản lòng thất vọng vì sẽ phải đứng trước cái chết khổ nhục của Ngài, vì biết rằng đó là ngưỡng cửa dẫn vào vinh quang của sự sống bất diệt.

Con đường cứu độ đó không thể nào chỉ dừng lại trong vinh quang của núi Tabor, nhưng là vững bước cùng Chúa vác thập giá tiến lên núi Sọ qua sự chết đi từng ngày trong cuộc sống của mình.

Chết đi cho tính kiêu ngạo, cho lòng ích kỷ tự ái và mọi thói hư nết xấu, để sống cho Chúa trong tinh thần phục vụ và yêu thương.

 

R. Veritas

From: ThiênKim & Nguyễn Kim Bằng

Quyền lực và trách nhiệm

Quyền lực và trách nhiệm

Nguyễn Hưng Quốc

28.10.2013

Bản chất của chính trị là quan hệ quyền lực. Quyền lực, nói một cách tóm tắt, là khả năng ảnh hưởng đến cách suy nghĩ cũng như hành vi của người khác. Trong hệ thống đẳng cấp của chính trị, chức vụ càng lớn, quyền lực càng nhiều; quyền lực càng nhiều, ảnh hưởng trên suy nghĩ và hành vi của người khác càng sâu và rộng. Ở vị trí cao nhất trong một quốc gia, ảnh hưởng ấy có thể tác động đến mọi công dân trong nước ấy. Ở Tây phương, hầu như ai cũng biết: Khi thay đổi lãnh tụ, chúng ta thay đổi chính phủ; và khi thay đổi chính phủ, chúng ta thay đổi cả quốc gia.

Về phương diện chính trị, có nhiều loại quyền lực, nhưng đơn giản và phổ biến nhất, có hai loại chính: quyền lực chính đáng và quyền lực không chính đáng. Quyền lực chỉ được xem là chính đáng khi nó được dân chúng ủy thác: Lúc ấy, quyền lực (power) biến thành thẩm quyền (authority).

Có thể nói thẩm quyền là thứ quyền lực được sự đồng thuận giữa người cai trị và những người bị trị. Hình thức phổ biến nhất của sự đồng thuận ấy là qua các cuộc bầu cử tự do, bình đẳng, công khai và minh bạch.

Tuy nhiên, dù được tiến hành dưới hình thức nào thì mọi quyền lực và mọi thẩm quyền đều phải đáp ứng được một số điều kiện dân chủ, trong đó, quan trọng nhất là giới hạn và trách nhiệm. Cái gọi là giới hạn ấy có hai khía cạnh chính: một là giới hạn về thời gian (có tính chất nhiệm kỳ, không phải vĩnh viễn, cha truyền con nối) và giới hạn của chính quyền lực (phải chấp nhận phân quyền và chịu sự kiểm soát của các cơ quan độc lập). Những điều này đã có nhiều người viết. Ở đây, tôi chỉ xin tập trung vào yếu tố trách nhiệm.

Nếu bản chất của quyền lực, dưới các chế độ dân chủ, là sự đồng thuận thì hai cơ sở chính để duy trì sự đồng thuận ấy là: sự tín nhiệm và trách nhiệm. Nói đến tín nhiệm là nói đến một thứ quan hệ nhiều chiều, nhưng trong đó, chiều quan trọng nhất là chiều từ dưới lên: những người bị trị tín nhiệm những người cai trị. Trách nhiệm, ngược lại, chủ yếu là theo chiều từ trên xuống: những người có quyền lực phải chịu trách nhiệm về chính quyền lực của mình, và với những người đã ủy thác quyền lực ấy cho mình.

Quyền lực không phải là một cái gì có tính chất tự thân: quyền lực vì quyền lực. Mọi quyền lực chính đáng đều có tính mục đích: quyền lực để làm một cái gì. Dưới chế độ độc tài, cái gì đó là bản thân người và/hoặc gia đình người có quyền lực; dưới chế độ dân chủ, cái gì đó là những mục tiêu chung mà mọi người tin tưởng và giao phó, thuộc về cộng đồng, hay rộng hơn, quốc gia. Những mục tiêu chung ấy chính là trách nhiệm.

Có thể nói, quyền lực chỉ chính đáng trong chừng mực nó gắn liền với trách nhiệm và chu toàn trách nhiệm. Một nhà lãnh đạo lý tưởng phải nhắm đến trách nhiệm nhiều hơn là quyền lực. Ở Việt Nam, ngược lại, với quyền lực, người ta muốn tuyệt đối (độc quyền lãnh đạo), nhưng với trách nhiệm, người ta lại muốn chia sẻ (trách nhiệm tập thể). Hậu quả là không ai chịu trách nhiệm về điều gì cả, ngay cả với những sai lầm của chính mình và/hoặc thuộc quyền hạn của mình.

Tất cả những điều ấy, người ta đều thấy từ lâu. Vụ thất thoát tài sản đến cả mấy tỉ đô la của tập đoàn kinh tế Vinashin: Không ai chịu trách nhiệm cả. Các vụ vỡ nợ liên tục của các tập đoàn kinh tế quốc doanh khác sau đó: Không ai chịu trách nhiệm cả. Kinh tế càng lúc càng suy thoái: Không ai chịu trách nhiệm cả. Nạn tham nhũng càng ngày càng phát triển từ một số con sâu đến cả một “bầy sâu”: Không ai chịu trách nhiệm cả. Đạo đức ở khắp mọi nơi càng ngày càng suy đồi: Không ai chịu trách nhiệm cả. Giáo dục càng ngày càng xuống dốc: Không ai chịu trách nhiệm cả.

Mới đây, gây xôn xao dư luận trong nước nhiều nhất là những chuyện liên quan đến ngành y tế: Nhiều bác sĩ, vì bất cẩn và thiếu đạo đức, làm chết hàng loạt bệnh nhân, trong đó có các sản phụ và trẻ em, thậm chí, một bác sĩ thẩm mỹ ở Hà Nội làm chết bệnh nhân rồi vứt xác xuống sông Hồng để phi tang. Trách nhiệm thuộc về ai? Không có ai nhận cả. Mọi người cứ đổ lỗi cho nhau. Dân chúng bức xúc đến độ, lần đầu tiên trên báo chí chính thống (PetroTimes) trong nước, có người kêu gọi Bộ trưởng Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến từ chức.

Có lẽ, cuối cùng, bà Nguyễn Thị Kim Tiến vẫn tiếp tục làm Bộ trưởng. Như tất cả những nhà lãnh đạo khác của Việt Nam từ trước đến nay. Vô trách nhiệm đến mấy, cái ghế của họ vẫn bất khả xâm phạm, dù cái giá mà họ và đảng họ phải trả rất đắt: Càng ngày càng mất sự tín nhiệm của dân chúng.

Không có trách nhiệm, mọi quyền lực đều là ăn cắp. Không có sự tín nhiệm, mọi quyền lực đều là ăn cướp. Không có cả hai, người ta vừa ăn cắp vừa ăn cướp.

Một ‘nhà ngoại cảm’ Việt Nam bị bắt vì tội lừa đảo

Một ‘nhà ngoại cảm’ Việt Nam bị bắt vì tội lừa đảo

Những hoạt động tìm kiếm, quy tập mộ liệt sĩ của ông Thúy nhận được sự tài trợ của Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam, một ngân hàng quốc doanh

Những hoạt động tìm kiếm, quy tập mộ liệt sĩ của ông Thúy nhận được sự tài trợ của Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam, một ngân hàng quốc doanh

30.10.2013

Truyền thông Việt Nam đưa tin một người đàn ông tự xưng là ‘nhà ngoại cảm’ đã bị bắt vì tội lừa đảo giả mạo hài cốt liệt sĩ và nhận tiền thù lao hơn bảy tỉ đồng Việt Nam (khoảng 350.000 đô la).

Báo Thanh Niên cho hay vụ việc bị đưa ra ánh sáng sau khi một nhóm pháp y quân đội phân tích chín bộ hài cốt mà ông Thúy nói là của liệt sĩ. Kết quả giám định cho thấy những hài cốt này hóa ra là xương động vật.

Ðược biết những hoạt động tìm kiếm, quy tập mộ liệt sĩ của ông Thúy nhận được sự tài trợ của Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam, một ngân hàng quốc doanh. Sau mỗi vụ tìm hài cốt liệt sĩ, ông Thúy được ngân hàng chuyển ngân 75 triệu đồng một hài cốt.

Trả lời phỏng vấn của trang tin vnexpress, một lãnh đạo của ngân hàng này nói sự tài trợ này là việc làm “phát tâm” và không vụ lợi.

Ông nói ngân hàng tin tưởng kết quả tìm kiếm của ông Thúy vì “không có nghiệp vụ để xác định là xương người hay xương động vật.”

Công an tỉnh Quảng Trị hôm 18/10 đã quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can.

Cũng theo truyền thông trong nước, ông Thúy trước đây từng bị bắt giam về tội lừa đảo, chiếm đoạt tài sản.

Nguồn: Associated Press/ThanhNien/vnexpress

NHỮNG NGƯỜI DỌN ĐƯỜNG

NHỮNG NGƯỜI DỌN ĐƯỜNG

Việc đi thăm những công viên quốc gia ở Mỹ là một trải nghiệm không thể quên được.  Nhưng việc khám phá ra một trong những công viên đó còn đáng nhớ hơn nhiều.  Ở những con đường dành cho những vận động viên đi bộ đường dài, chúng ta sẽ thấy nhiều chỉ dẫn được xếp đặt cẩn thận để giúp cho họ đi dễ dàng hơn.  Trên những con đường đó, chúng ta sẽ thấy nhiều cột định vị.  Ở những đoạn dốc khó đi, chúng ta sẽ thấy các bậc thang được đục ra từ những hòn đá lớn.  Ở những chỗ đầm lầy, chúng ta sẽ thấy những viên đá được kê sẵn để người đi bước qua dễ dàng.  Ở những đoạn nguy hiểm, chúng ta sẽ thấy những bảng cảnh báo được đặt sẵn.

Nhờ vào sự sắp xếp cẩn thận đó, các vận động viên thậm chí không chuyên nghiệp có thể an toàn băng qua rừng sâu và địa hình núi non hiểm trở.  Khi đi trên đường đó, ta sẽ ngạc nhiên thấy một sự chuẩn bị rất công phu.  Ta sẽ dễ dàng nhận ra một điều: không có những con đường như thế thì một vận động viên bình thường cũng sẽ hoàn toàn thất bại.

Các vị Thánh đã làm những điều tương tự như thế cho chúng ta.  Họ đã dọn sẵn đường đi cho chúng ta. Các Ngài đã đặt những dấu hiệu để báo trước cho chúng ta.  Các Ngài là những người đi tiên phong để dẫn đường cho chúng ta, những người dẫn đường tuyệt vời.  Các Ngài đã chỉ cho chúng ta thấy người bình thường như chúng ta vẫn có thể thực hiện được nhiều điều lớn lao cốt làm đẹp lòng Thiên Chúa. Họ là những tấm gương sáng ngời về sự cương quyết, hiến dâng và hy sinh.

Người Kitô hữu cần noi theo các vị Thánh đó.  Một số các vị ấy đã hoàn thành tốt sứ mệnh.  Một số khác đã vấp ngã, đã lầm lỡ, đã thất bại nhưng cuối cùng các Ngài đã đi vào chính lộ.  Tất cả các vị Thánh ấy đã cố gắng trải rộng tình yêu và lòng dũng cảm trong chính nơi con người các Ngài.

Tất cả tấm gương tốt đều không bị bỏ qua trong danh sách các vị Thánh.  Tất cả các Ngài đều ở giữa chúng ta, thậm chí ngay trong thời của chúng ta.  Các vị Thánh cả nam lẫn nữ và những câu chuyện của các Ngài đã hướng dẫn chúng ta đi trên hành trình cuộc đời.  Đó là những câu chuyện về lòng mến Chúa yêu người – là hai giới răn cao trọng nhất đã được kết hợp thành một giới răn duy nhất mà tầm quan trọng của nó thật phi thường.

Chúng ta có thể đón nhận nguồn động viên, sự khích lệ từ các Thánh đã đi trước chúng ta và dọn đường cho chúng ta.  Mỗi vị đã dọn một con đường cho chúng ta đi qua dễ dàng hơn.  Khi chúng ta nếm trải sự chán nản, cảm giác thất bại thì cũng là lúc các Ngài nói với chúng ta: “Chúng ta luôn ở bên con.  Đừng bỏ cuộc.”

Tuy nhiên, chúng ta thường có khuynh hướng đặt các Thánh lên vị trí cao qúy đến mức chúng ta cảm thấy xứng đáng khi tự bào chữa về việc noi gương sống của các Ngài.  Trong trường hợp đó, sự sùng kính các Thánh sẽ trở nên một chướng ngại hơn là một sự giúp đỡ.

Các vị Thánh như những mẫu gương cho chúng ta noi theo.  Vì các Ngài trước kia cũng là những người tội lỗi.  Các Ngài là những người luôn nhắc chúng ta nhớ về cuộc sống thế gian này.  Các Ngài đã thắp lên lòng nhiệt huyết nơi chúng ta, hướng dẫn, khích lệ chúng ta và cho chúng ta niềm hy vọng. Dĩ nhiên các Ngài cũng là những người trung gian cầu bầu cho chúng ta bên tòa Chúa.

Nhưng các Ngài không thể nào làm thay những việc bổn phận chúng ta phải làm.  Các Ngài không dạy cho chúng ta phương pháp nào ngắn gọn để giúp ta tránh khỏi những vấn đề khó khăn hay dễ dàng đi qua con đường hẹp.  Chúng ta đừng mong chờ người khác làm việc thay cho chúng ta trong khi chúng ta lại không tự mình nghiêm túc rèn luyện.  Chính chúng ta phải đi trên con đường đó, phải đi bằng chính đôi chân của mình.  Các vị Thánh chỉ giúp chúng ta thêm lòng can đảm để vượt qua khó khăn mà thôi.

Phaolô Nguyễn Hồ Hữu Thành

Phỏng dịch từ New Sunday Holyday

From: langthangchieutim

Cha Khách…

Cha Khách…


Nhà thờ xóm tôi thỉnh thoảng có cha ngoại quốc ghé qua làm lễ, mỗi cha một vẻ, từ diện mạo cho đến phong cách giảng. Đa phần các cha dựa vào mẫu giấy đã soạn trước để diễn giải phúc âm bằng ngoại ngữ, vì tiếng pháp không phải là tiếng mẹ đẻ của ngài.

Mùa Thu năm nay, cha trẻ gốc Châu Phi đến xóm tôi làm lễ hai lần. Ngoài lợi điễm thông thạo pháp ngữ, ngài có lối giảng như người dẫn chương trình TV hiện nay. Vừa giảng, vừa hỏi rồi để giáo dân « suy tư bên bờ vắng », đó là cách lôi kéo giáo dân « nhập cuộc » với ngài, nhưng « cái đinh » của bài giảng là quan điễm riêng của ngài rất sát với thực tế.
Thánh lễ dành cho gia đình chiều nay với dàn nhạc sống của giới trẻ và những bài thánh ca hào hứng, còn có cha khách chủ tế, thật thú vị.
Mở đầu bài giảng, cha bật mí, lần đầu tiên trong đời linh mục, tôi được giáo dân « ra chủ đề » để tôi làm bài, bữa nay các bạn trẻ yêu cầu tôi nói làm sao để các bạn phải nhớ đến bài phúc âm này dài lâu.
Ngài gãi đầu thỏ thẻ, hình như vị trí của tôi vừa bị hoán đổi, không sao, có Chúa Thánh Thần soi sáng, tôi tin có thể đáp ứng yêu cầu của các bạn.
Trong bài phúc âm này, Chúa bảo nếu chân, tay hay mắt của chúng ta làm đều xấu, thì phải chặt bỏ phần đó đi, nói vậy đạo của Chúa xem ra « hơi ác độc » và mất hẳn đức nhân từ, không dạy chúng ta phải tha thứ như thường nghe.
Quý vị nghĩ gì, và hiểu thế nào về từ ngữ chúng ta vừa nghe, hình như đoạn phúc âm này chúng ta đã nghe nhiều lần trong đời, chắc quý vị đã nghe các cha giải đáp những lần trước rồi, tôi phải nói làm sao để không nhàm chán đây.

Cha nhìn mọi người cười cười, hồi nhỏ tôi nghe bài phúc âm này cũng thấy đạo của mình khá rùng rợn, nhưng từ khi đi tu tôi mới hiểu hết ý Chúa.
Theo Thánh Kinh, Chúa bảo, thân thể chúng ta hư hỏng tới đâu chặt bỏ tới đó, kiểu này hầu như ai trong chúng ta cũng một lần trong đời trở thành phế nhân.

Nói vậy mà không phải vậy, động từ chặt đứt, vứt bỏ tay chân hay khoét mắt đó, đưa tới hình ảnh « không toàn thân » của chúng ta, bài phúc âm đưa ra câu hỏi, ai trong chúng ta dám tự hào mình là người hoàn thiện.
Chúa chấp nhận chúng ta khuyết tật, không hoàn hảo, vì thế Chúa mới đến tìm những con chiên ghẻ để cứu vớt, nhưng đáng buồn thay, chúng ta quá tự mãn nên có thấy Chúa đâu.
Chúa ra đời trong cảnh nghèo khó, lớn lên cặp bồ đánh bạn với dân chài lưới, bà góa, dân khố rách áo ôm, và chịu chết vì cái tính trịch thượng của chúng ta.

Thưa quý vị, trong đời tu trì, tôi từng được giáo dân săn đón, ưu đãi, bỡi vì tôi

«đại diện Chúa» theo cái nhìn trần tục của quý vị, vô tình đôi khi quý vị bóp méo thánh kinh.
Chúa đến để phục vụ chứ đâu phải để làm Chúa ăn trên ngồi trước, tôi làm cha là để rao giảng Tin Mừng, tôi thuộc lớp người đi phục vụ chứ đâu phải mặc áo dòng để « làm cha thiên hạ ».

Bây giờ tôi xin trả bài với các bạn trẻ đây, các bạn chơi nhạc, hát hay, có tương lai tươi sáng trước mặt, biết đâu sau này có bạn sẽ trở thành thị trưởng, dân biểu, một người nỗi danh, hay cũng chỉ là thường dân như đa số chúng ta đây.
Sau này dù có là gì đi nữa các bạn cũng nên nhớ đến cái Đức Khiêm Nhường, đó là kim chỉ Nam để chúng ta không lạc lối và xa rời Chúa. Biết mình là người không hoàn hảo, người khiếm khuyết, nghĩa là nhận ra thân phận con người phải liên tục tu luyện để giống hình ảnh Chúa tạo ra chúng ta thuở ban sơ, thuở con người chưa tự kiêu, tự mãn để bị sập bẩy con rắn độc.
Hình ảnh con rắn phỉnh gạt bà Eva cũng chính là tính ngạo mạn, tự đại, tự mãn của chúng ta đó thôi, tội nghiệp cho thân phận mỏng dòn của chúng ta, dễ vỡ, dễ sa lầy lắm. Tôi nói ít, hy vọng quý vị và các bạn trẻ hiểu nhiều vì tôi chủ trương, tôi gợi ý Lời Chúa, quý vị là người tìm lời giải đáp và thực hành điều mình tìm thấy, nếu mình làm sai thì làm lại, Chúa luôn ở bên ta để dìu dắt ta.

Xin cảm ơn cha xứ đã cho phép tôi đến với quý vị, cảm ơn các bạn trẻ đã ra đề bài để tôi có cơ hội « mở đề bài », các bạn làm bài tiếp nhé và hãy nhớ chúng ta không phải là người hoàn hảo nên phải luôn tìm đến Chúa xin Người giúp đỡ.
Lần này cũng như lần trước, cha lại làm tôi suy tư, hình ảnh con người tàn phế này tôi đã thấy đâu đây, chính xác, chính chúng ta đó thôi chứ ai vào đây. Vì đã có lần ta tự khoát vào người chiếc áo hào nhoáng của kẻ tài ba, khôn ngoan, cao siêu hơn người khác, những tĩnh từ phù du chỉ đưa ta xa rời con đường đến với Chúa.
Cha khách nói hay hơn cha xứ dân Tây chính gốc, có thể vì ngài « mặc cảm » mình là dân ngoại quốc, cũng chỉ là khách vãng lai của xứ đạo nên ngài phải « soạn bài » thật kỷ để thu hút giáo dân.
Tôi không nghĩ như vậy, vì môn hùng biện cha nào cũng được đào tạo trong lúc học Thần Học, bài vỡ thì Phúc Âm từ ngàn xưa vẫn không thay đổi, có chăng là tài hùng biện của mỗi người mới là thiên phú.
Cái duyên ăn nói là đặc tính riêng của từng người, và cha khách đã « lấy lòng » giáo dân xóm tôi qua tài dẫn chuyện rất chuyên nghiệp. Cái nghiệp vãng lai của ngài hình như đang bén rể ở xóm tôi, tôi hy vọng rồi cha sẽ tiếp tục lai vãng đến đây để lôi cuống giới trẻ, và cả dân sồn sồn sắp bước vào giới « lão niên » như tôi đây, khám phá Phúc Âm, dù đã hơn hai ngàn năm vẫn có sức hấp dẫn, làm ta thắc mắc, tự vấn xem mình đã phụ lòng Chúa bao nhiêu lần rồi.

Tôi vừa viết xong bài này, cũng là lúc Roma ra thông báo Đức Thánh Cha vừa đâm đơn từ chức vì lý do sức khoẻ.
Giáo dân kẻ khen, người tiếc, tôi thán phục ngài sát đất, người uy quyền nhất Giáo Hội vừa thừa nhận, lực bất tồng tâm.

Đức Thánh Cha cũng chỉ lập lại bài phúc âm cha khách đề cập đến vài tháng trước, ngài tự nhận mình mang thân phận tầm thường như mọi người trước mặt Chúa và nhờ ơn Chúa Thánh Thần soi sáng ngài đã lấy một quyết định gương mẫu, một bài học để đời cho hậu thế.
Cuộc đời này rồi sẽ qua đi, còn chăng là dấu ấn của ngài, « thời đại » của ngài tuy ngắn hơn Đức Thánh Cha Jean Paul II, nhưng lại kết thúc trong bối cảnh đáng được chúng ta chiêm nghiệm.
Chung cuộc chúng ta cũng chỉ là khách vãng lai của trái đất này thôi, vậy hãy sống thật xứng đáng những ngày dù buồn hay vui đều là những ngày có Chúa trong cuộc đời chúng ta.

July 2013 / Đoàn Thị

THÁNG MƯỜI MỘT, NGHĨ SUY VỀ CÁI CHẾT

THÁNG MƯỜI MỘT, NGHĨ SUY VỀ CÁI CHẾT

Jos.Vinc. Ngọc Biển

Tháng Mười Một lại về, trong tâm trí bạn và tôi.  Tháng Mười Một là tháng mà Giáo Hội mời gọi ta hãy suy nghĩ về cái chết của mình và tha nhân. Khi ta suy nghĩ về sự chết, ta sẽ nhận ra sự yếu đuối của thân phận con người, sự mong manh và tính bất định của sự sống. Như vậy, khi suy nghĩ về sự chết thì cũng là lúc ta suy nghĩ về sự sống. Bởi vì nhờ suy nghĩ về sự chết mà ta có thể sống tốt cũng như hài hòa hơn trong các mối tương quan với tha nhân, đồng thời thêm xác tín mạnh mẽ vào sự sống trường sinh mai hậu. Nhà thơ R.Tagore đã viết thật chí lý khi ông dám chấp nhận cái chết là một sự thật: “Cuộc sống không phải là một cái gì bền vững và thường hằng, đó là một phát hiện đau đớn, nhưng lại đem đến cho tôi một cảm giác nhẹ nhàng” và “Cái chết đã đem lại cho tôi một cái nhìn đúng đắn hơn”[[1]]

Bạn thân mến!

Khi chọn tháng mười một là tháng dành riêng để cầu nguyện cho các linh hồn, hay những dịp cầu hồn, an táng, những dịp kính nhớ tổ tiên…Giáo Hội muốn mời gọi con cái của mình một mặt tưởng nhớ tới những người đã khuất để cầu nguyện cho họ. Mặt khác, Giáo Hội cũng muốn chính những người còn đang sống hãy nghĩ đến thân phận của mình, một ngày nào đó rồi cũng sẽ phải ra đi như những người thân yêu của mình đã lần lượt lìa bỏ thế gian để về với thế giới bên kia. Vậy, đâu là ý nghĩa của cuộc sống? Cuộc đời sẽ đi về đâu? Bên kia cõi chết là gì? Qua bài viết này, người viết xin được chia sẻ tính hiệp thông trong mầu nhiệm Giáo Hội. Đồng thời cũng là một suy niệm về cái chết trong cuộc sống thực tại. Và,  đây cũng là lời mời gọi mọi người hãy suy nghĩ về cái chết để được sống, đáng sống và tồn tại. Tất cả, xin được khiêm tốn chia sẻ những gẫm suy về ý nghĩa cái chết của những người có niềm tin.

Trong mười điều răn, Thiên Chúa đã dành hẳn điều răn thứ bốn nói về lòng hiếu thảo của con cháu đối với ông bà cha mẹ, trước các điều răn hướng về con người. Đây không phải là lời khuyên mà là một luật buộc phải thi hành như các điều răn khác.

Vậy hiếu kính cha mẹ là yêu mến, biết ơn, vâng lời, giúp đỡ cha mẹ khi còn sống và cầu nguyện cho các ngài khi đã qua đời. Nhưng mang trong mình những giới hạn nhất định, nên nhiều khi chúng ta đã không thể chu toàn được với các ngài. Thật vậy, không ai có thể chu toàn lòng kính mến đối với những bậc ông bà cha mẹ, hoặc vuông tròn sự yêu thương hoà đồng giữa anh chị em ruột thịt trong nhà, và bà con thân thuộc lối xóm được. Cho dù nếu có, thì trong tháng các linh hồn này, Hội Thánh cũng nhắc nhở chúng ta làm mới lại những yêu thương ấy đối với những người đã khuất, để từ đó làm mới lại mối dây liên lạc yêu thương, tương kính với những người đang sống. Những người mà chúng ta gặp gỡ hằng ngày.

Truyền thống của Giáo Hội dạy cho ta biết rằng: các linh hồn là những người đã một thời sống cùng, sống với chúng ta trên cõi trần này, nhưng các ngài đã ra đi trước. Vì mang trong mình thân phận của con người, nên nhiều khi các ngài mang lấy tội mà đi vào cõi chết. Những  lỗi lầm đó có thể là do yếu đuối của các ngài, có khi vì chúng ta mà các ngài phải bị liên luỵ…như vậy, trước khi về hưởng trọn vẹn niềm vui và hạnh phúc bên Chúa như các thánh, các ngài phải thanh luyện cho xứng đáng trước sự thánh thiện vô cùng của Thiên Chúa. Những người còn sống có thể dâng thánh lễ, làm các việc lành đạo đức, dâng những hy sinh, hãm mình…để cầu nguyện cho các linh hồn. Mặt khác, khi cầu nguyện cho các linh hồn, Giáo Hội muốn cho chúng ta hiểu được rằng, đây còn là thái độ của lòng biết ơn. Vì: trước hết, ta sống là nhờ cha mẹ và người thân. Quả vậy, chúng ta lớn dần lên trong sự vất vả một nắng hai sương của cha mẹ. Từ những đêm thức trắng lo toan, đến những tần tảo quanh năm suốt tháng để ta được nuôi dưỡng nên người. Trong nụ cười của chúng ta có sự chết (hy sinh) của cha mẹ. Trong niềm vui của chúng ta có đau khổ của đấng sinh thành. Và thế rồi, dầu cha mẹ có khuất núi, thì các ngài lại đang hiện diện nơi con cháu là chúng ta, vì chúng ta mang trong mình huyết nhục cũng như sự hy sinh của các ngài[[2]]. Như vậy, với niềm tin vào Đức Kitô chết và Phục Sinh, vào những lời Chúa hứa, chúng ta phó thác người thân chúng ta nơi Lòng Thương Xót của Thiên Chúa.

Ngoài việc đọc kinh, cầu nguyện…cho các linh hồn thì việc đi viếng nghĩa trang, việc sửa sang phần mộ là việc tốt. Nhưng điều tốt này lại có ích cho người còn sống nhiều hơn. Bởi lẽ, từ cái nghĩa trang mà chúng ta thấy đó, từ cái nấm mồ mà chúng ta đang sửa sang tô quét đó, từ những hũ đựng hài cốt mà chúng ta ngắm nhìn đó, chúng ta thấy được cái kiếp sống vắn vỏi của con người. Suy nghĩ về vấn đề này, thánh Augúttinô nói: “Mọi sự dầu hay, hay dở, đều không chắc chắn, chỉ sự chết là chắc chắn sẽ xảy đến”. Thi sĩ  R.Tagore cũng nói: “Với ông, sự sống và cái chết chỉ là hai bờ của một dòng sông, là hai bầu vú mang đầy sữa ngọt ngào trên ngực trần của người mẹ: “Khi mẹ giằng con khỏi vú bên này, con oà khóc, nhưng liền đó lại thấy nguồn an ủi ở bầu vú bên kia”[[3]]. Cái đích điểm mà tất cả mọi người ở trần gian này sẽ phải đến gặp nhau là ở chỗ: ba tấc đất sâu, và một nấm mộ cô đơn lạnh lẽo. Chính vì thế mà Giáo Hội muốn chúng ta không dừng lại ở những tấc đất, nấm mộ đó mà hãy đi tìm cho mình một ý nghĩa đằng sau cái chết. Muốn cái chết của mình thật sự có ý nghĩa, thì trước tiên hãy nghiêm túc suy nghĩ ngay đến cái chết của chính mình trong cuộc sống hiện tại, hầu chuẩn bị cho xứng đáng khi đến trình diện với Chúa trong ngày chết của chúng ta. Thoạt nghe, có vẻ vô lý! Tại sao đang sống mà lại phải suy nghĩ về cái chết?

Thiết nghĩ, trước khi bàn về vấn đề này, tưởng cũng nên nhắc lại những tâm tình trong Kinh Thánh và lời của các các thánh nói về cái chết: “Chính anh chị em đã rõ: ngày của Chúa sẽ đến bất ngờ, như kẻ trộm lúc đêm khuya.” ( 1Tx 5, 2);Hãy tỉnh thức, vì Con Người sẽ đến phán xét chúng ta vào giờ chúng ta không ngờ.” (Lc 12,40);còn thánh Grêgory đã nói về cái chết như sau: “Chúng ta không biết trước sẽ chết giờ nào, để chúng ta luôn chuẩn bị sẵn sàng.” ; thánh Bênađô tiếp: vì chúng ta có thể chết bất cứ giờ nào, bất cứ ở đâu, nên muốn chết lành, được cứu rỗi, phải sẵn sàng đón nhận sự chết: “Thần chết đến bất cứ giờ nào, bất cứ ở đâu, nên chúng ta phải luôn sẵn sàng chờ đợi nó.”

Suy niệm đến đây, tôi sực nhớ cách đây mấy năm, tôi có quen một thầy tu, khi đến thăm, tôi thấy trên bàn học của thầy luôn có một chiếc quan tài nhỏ, trong chiếc quan tài đó có tấm hình của thầy và một bản cáo phó mà chính thầy viết cho mình. Khi hỏi thì được thầy giải thích như sau: chiếc quan tài này là hình bóng của sự chết, bởi vì nó sẽ ôm trọn xác chết khi con người ta hết hơi. Con người khi còn sống có là vua chúa quan quyền, hay người phu quét rác; dù là tỷ phú hay người ăn xin; dù là giáo hoàng hay giáo dân…chết là hết. Cái chết là sự thật. Nên mỗi khi đi đâu về, tôi thường hay ngắm nó, và suy nghĩ về cái chết của chính mình…từ đó tôi lo sám hối về những thiếu xót và xin ơn tha thứ của Thiên Chúa. Còn bài cáo phó mà tôi tự tay viết cho chính mình là vì tôi thiết nghĩ: điều tốt cho tương lai mà tôi muốn, thì hãy chuẩn bị ngay từ bây giờ. Điều tốt mà tôi mong muốn cho tương lai là gì nếu không phải là được ở bên Chúa. Vậy ngay từ giây phút này, tôi hãy lo sống sao cho đáng sống, để cái chết của tôi thật sự là một cuộc đi về như lời bài hát: lạy Chúa, bao ngày tháng con hằng mơ ước, tìm về bên Chúa, niềm vui suối an hoà…hay “Chúng ta  biết rằng : nếu ngôi nhà chúng ta ở dưới đất, là chiếc lều này, bị phá hủy đi, thì chúng ta có một nơi ở do Thiên Chúa dựng lên, một ngôi nhà vĩnh cửu ở trên trời, không do tay người thế làm ra” (2 Cr 5,1). Vì thế, cái chết là “một cõi đi về” và “Hãy để cuộc đời tươi đẹp như hoa mùa hạ, và hãy để cái chết về như lá mùa thu”[[4]4]

Nghe đến đây, tôi thực sự cảm thấy “sốc”. Sốc vì tôi sực nhớ đến câu chuyện trong Kinh Thánh: nhân vật chính của câu chuyện là “một người giàu có”, ruộng nương sinh nhiều hoa lợi, đến nỗi ông quyết định xây nhiều kho mới, lớn hơn. Ông nói: “Ta sẽ tích trữ tất cả thóc lúa và của cải vào đó” và “ta sẽ nhủ lòng: Hồn ta hỡi, mình bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm, cứ nghỉ ngơi, ăn uống, vui chơi cho đã”. Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta: “Ðồ ngốc, nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi” lúc đó ngươi tính sao? (x. Lc 12,16 -20). Và chuyện đã xảy ra đúng như vậy. Ở tận đỉnh cao của vinh hoa phú qúy, người giàu có ấy phải lìa bỏ đời này…Sốc nữa vì đây là sáng kiến táo bạo của thầy. Nhưng nghĩ suy một chút, tôi mới nhận ra đây là một chân lý. Bởi đã có nguời định nghĩa cuộc sống là một hành trình để tiến tới… cái chết. Hay như thánh Phaolô: “mỗi ngày tôi phải đối diện với cái chết” (1Cr 15,32). Thật thế, mỗi ngày sống là đời ta ngắn lại; mỗi hoàng hôn ta mất đi một ngày. Sống là đang đi dần tới cõi chết. Sự sống và cái chết nó hoà quyện lại với nhau.

Thật vậy, cái chết là một người bạn thân thiết với con người. Chả thế mà thánh Phanxicô Assisi đã gọi nó là “Chị Chết”. Chị Chết này dù muốn dù không, Chị cứ đến với cuộc đời ta như người nhà. Không cần báo trước, chẳng cần ai dẫn đường. Chị đến như một người trộm. Như vậy, thân phận con người là một cái gì đó mỏng dòn dễ vỡ. Cuộc sống nơi dương gian này chỉ là tạm bợ. Ý thức được như thế là để xin ơn tha thứ, đồng thời cũng lo chuẩn bị cho mình một cái giấy thông hành trên hành trình về với Chúa. Giấy thông hành này không mua được bằng tiền, không có được bằng quyền, mà phải đánh đổi bằng: lòng sám hối, sự canh tân, việc đạo đức, những hy sinh, hãm mình…sống và làm theo Lời Chúa dạy. Có thế, ta mới hy vọng được chung hưởng hạnh phúc muôn đời với các thánh.

Ước mong sao, mỗi người hãy dâng những hy sinh hãm mình, đặc biệt là thánh lễ để cầu nguyện cho các linh hồn. Đây là tấm lòng biết ơn cao cả mà Chúa muốn nơi chúng ta khi tưởng nhớ đến người quá cố, đồng thời đây cũng là trách nhiệm của mỗi người chúng ta khi sống trong mầu nhiệm Giáo Hội hiệp thông. Đàng khác, đây cũng là thời gian thuận tiện để ta suy nghĩ về chính cái chết của mình. Thật vậy, suy gẫm về sự chết là điều cần thiết, giúp ta biết quan tâm hơn đến cuộc sống: làm thế nào để yêu, để tha thứ và để chấp nhận; làm thế nào để tránh những tội lỗi, những vấp phạm, và giết chết cái tôi ích kỷ của mình như hạt lúc gieo vào lòng đất, để chỉ còn muốn sống cho Chúa cách trọn vẹn hầu phụng sự Ngài và phục vụ tha nhân.

Như vậy, khi suy nghĩ về cái chết, chúng ta hãy có tâm tình như thánh Phaolô:“Đối với tôi, sống là Đức Kitô, và chết là một mối lợi”. Vì thế, “Không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.” (Rm 8, 39). Và cuối cùng, cái chết đến với tôi như một niềm hãnh diện:“Còn tôi, đã đến giờ tôi phải  ra đi. Tôi đã thi đấu trong cuộc đấu cao đẹp, đã chạy hết quãng đường dài. Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính. Chúa sẽ trao phần thưởng đó cho tôi, và không phải chỉ cho tôi, nhưng cho tất cả những ai mong đợi Người” ( 2 Tm 4, 6-8). Chỉ có chết trong tội mới tách rời chúng ta ra khỏi Chúa, còn chết trong Chúa là một giải thoát, đưa chúng ta vào sự sống viên mãn của Ngài.

Để kết thúc bài viết này, xin đặt mình vào tâm tình của người sắp ra đi và mong muốn được khắc ghi trên chính bia mộ của mình những hàng chữ sau như một lời chăng trối cho người còn sống:

“Những gì tôi đang có, xin trả lại cho đời.

Những gì thuộc về tôi, nay không còn nữa.

Những gì tôi cho đi, từ nay thuộc về tôi.

Trao ban là còn mãi – Tình yêu không thể chết.”



[1] X. R.Tagore, thời đại, tr. 185.

[2] Gm Giuse Vũ Văn Thiên, Sự sống – sự chết, truy cập ngày 22-12-2012, trên: http://www.hdgmvietnam.org/su-song-%E2%80%93-su-chet/2821.54.11.aspx.

[3] R.Tagore, tập thơ dâng, bài 95.

[4]. Đào Xuân Quý, những cánh chim bay lạc, tr. 45.

Tác giả: Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển

TÌNH NGƯỜI CÓ CÒN KHÔNG ?

TÌNH NGƯỜI CÓ CÒN KHÔNG ?

(Trích tập san GHXH tập 10)

Mẩu Bút Chì

“Tự một mình, có công lý thôi chưa đủ. Thật vậy, công lý có thể phản bội chính mình trừ khi nó biết mở ra cho một sức mạnh sâu xa hơn, là bác ái” (TLHT, 203).

Vào thập niên 1980, lúc ấy tôi còn nhỏ, Việt Nam đói nghèo xác xơ. Tại quê tôi, nhiều gia đình phải ăn bánh gói làm từ khoai mì với nhân hạt mít. Ăn như thế triền miên, có khi còn đói ròng đói rã.

Một buổi sáng nọ, một kẻ trộm từ phương nào đến đột nhập vào ẩn nấp ngay trong vườn nhà ông tổ trưởng, chưa kịp hạ thủ đã bị người ta phát hiện, bắt trói gô vào gốc cây giữa sân. Khi tôi hay tin chạy đến – cố chen qua đám đông để nhìn cho rõ – thì mặt mũi anh ta đã sưng húp, người tím bầm, toét máu, áo quần bị xé rách bươm. Thanh niên trai tráng trong xóm kẻ cầm gậy, người tay không, nhảy vào đấm đá túi bụi. Mọi người đều hả hê, đáng đời cho phường đạo tặc! Chứ ai đời người thì cong lưng bòn tro đãi sạn chưa có cái bỏ vào miệng, còn kẻ thì rình rập trộm cướp, còn gì là công lý?

Ban đầu tôi thấy anh ta còn rúm ró, run rẩy, sau một hồi thì vẹo đầu đứng yên. Tôi không dám nhìn nữa, lại cố chen để thoát ra ngoài. Trái tim bé dại của tôi cứ đập thình thịch, tâm thần bấn loạn và chỉ chực bật khóc. Mặc cho người lớn vẫn oang oang chửi bới, mắng nhiếc, chẳng hiểu sao tôi lại ước có một phép màu để giải cứu anh ta ra khỏi nơi đó. Tôi chạy một mạch về nhà, trốn vào góc tủ bưng miệng khóc. Tôi sợ người khác biết tôi khóc thương một “thằng” ăn trộm, điều mà ngay chính đầu óc bé thơ của tôi cũng không giải thích được vì sao tôi lại dám làm cái “chuyện tày trời” như vậy! Chỉ biết rằng tôi ngồi đó, lần lượt tưởng tượng “thằng” ăn trộm bị đánh thê thảm ấy là anh Hai, anh Tư, chị Năm,… thân thương của tôi, những người rất thương tôi, và cũng đã đôi lần vì thấy tôi đói quá mà đã đánh liều lẻn vào rẫy người ta bẻ trộm bắp non, nướng cho tôi ăn cầm hơi…

Lớn lên chút nữa, xem thời sự trên tivi, tôi lại len lén khóc thương cho những người tử tù, nhất là những phạm nhân tuổi đời còn phơi phới. Tôi chẳng biết cảm xúc của mình là đúng hay sai, bởi rõ ràng công luận đều cho rằng kẻ phạm tội phải được nghiêm minh trừng trị, trả lại sự công bằng cho người bị hại. Nhưng tôi cảm thấy, nếu phải tước đoạt sinh mệnh của con người để trả lại sự công bằng cho xã hội, thì dường như sự “công bằng” ấy có cái gì đó không bình an, không “có hậu”, nó chỉ làm thỏa mãn sự giận dữ và lòng thù hận của con người… Lòng tôi vẫn day dứt khôn nguôi!

Khi biết Chúa và biết Tin Mừng, tôi hả lòng khi Chúa trả lời những người Do Thái muốn ném đá người phụ nữ ngoại tình: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi” (Ga 8, 7), và “họ bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi” (Ga 8, 9).

Tôi hả lòng vì nhận ra rằng có một nền công lý không giống với công lý của thế gian, nó vượt lên trên cái công bằng thường tình hạ đẳng của loài người. Công lý ấy đầy ắp yêu thương, có quyền năng cải hóa con người, vì “chỉ có tình yêu mới có thể phục hồi con người về lại với chính mình” (TLHT, 582). Đó là Công Lý của Chúa. (TLHT, 583).

Nói đến đây, tôi chợt nhớ lại lời một linh mục đã chia sẻ với chúng tôi trong lớp học giáo huấn xã hội Công giáo rằng: ở Philippines, một nước có hơn 90% dân số là người Công Giáo, họ đã có một hệ thống nhà tù và chính sách cải tạo con người mang màu sắc của Tin Mừng. Hệ thống ấy đã giúp cải tạo con người một cách đúng nghĩa, tạo cho họ cơ hội hoàn lương để dễ dàng hội nhập vào đời sống cộng đồng. Trong nhà tù, họ vẫn được học hành đến cấp cử nhân, thạc sĩ, được tham gia thi thố tài năng,… Ở một số quốc gia, luật tử hình đã được hủy bỏ. Vì luật tử hình đã tước đi niềm hy vọng và cơ hội được phục thiện, được làm lại cuộc đời của một con người.

Dường như ai cũng hiểu “công bằng” là điều tích cực đáng được tôn trọng. Nhưng không phải ai cũng hiểu “công bằng là cấp độ tối thiểu của tình yêu” (Đức Phao-lô VI, Caritas in Veritate, 6). “Không công bằng” ngày nay thường được hiểu theo nghĩa tiêu cực là “bất công”. Nhưng “không công bằng” còn có nghĩa là trên cả công bằng, là hy sinh vì tình yêu. Như tình yêu và sự hy sinh của cha mẹ dành cho con cái chẳng bao giờ đòi hỏi sự công bằng. Trước khi trút hơi thở trên Thập Giá, Chúa Giêsu đã thực hiện nền công lý tuyệt đối: “Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34).

Tôn trọng sự công bằng là cần thiết, nhưng chỉ quy chiếu về công bằng để rồi gạt bỏ cả yêu thương, từ chối hy sinh và không muốn chịu đựng, không tôn trọng sự khác biệt của nhau thì có khi dẫn đến những tổn thương khôn lường. Phải chăng chính sự mơ hồ, không phân định được ý nghĩa giữa “yêu thương” và “không công bằng” là nguyên nhân của nhiều mâu thuẫn, nhiều sự đổ vỡ gia đình, xào xáo anh em? Bởi ai cũng đòi hỏi công bằng mà không ai chịu nhường nhịn ai. Yêu thương và hy sinh bị quên lãng, thế mà ai cũng tưởng mình đang thực thi công lý! Cũng vì thế, gia đình ngày nay – đặc biệt là gia đình Việt Nam –  đang bị chao đảo dữ dội. Điều đó thể hiện qua tình trạng đổ vỡ, ly dị của các cặp hôn phối (kể cả người Công giáo), và ngày càng xuất hiện nhiều những án mạng xuất phát từ sự tranh chấp của cải trong nội bộ gia đình chỉ vì phân chia tài sản không đồng đều. Quả là đáng lo thay!

Lạy Chúa! Chúa vẫn ở đó, lặng lẽ đau thương trên Thập Giá. Chắc hẳn hết đời này con cũng chưa hiểu hết được Mầu Nhiệm Chúa trao ban. Hôm qua con biết Thập Giá là Mầu Nhiệm Cứu Chuộc, Mầu Nhiệm Tình Yêu, nhưng hôm nay con chợt nhận ra rằng Thập Giá chiếu soi Công Lý nước Trời. Công Lý ấy phá đổ cái công lý thiển cận, ấu trĩ của loài người bằng cái Chết Vì Yêu của Đấng Công Chính. Xin dạy chúng con biết yêu thương như Chúa đã yêu, xin dạy chúng con về đường lối của Ngài (Tv 25, 4), vì chỉ có yêu thương mới dẫn chúng con đến với Công Lý Thật.

Tác giả: Mẩu Bút Chì

Kontum: Chánh thanh tra dùng cuốc bửa đầu dân

Kontum: Chánh thanh tra dùng cuốc bửa đầu dân
October 29, 2013

nguoi-viet.com

Hai công an đánh chết bạn nhậu, bị bắt

KONTUM (NV) Xung đột từ vụ tranh chấp đất đai dẫn đến ấu đả giữa hai nhà hàng xóm. Trong lúc hùng hổ, nóng giận, ông chánh thanh tra Sở Y Tế tỉnh Kon Tum trở thành nghi can dùng cuốc bửa đầu một phụ nữ “phe bên kia” máu me dầm dề.

Chiều ngày 29 tháng 10, người đứng đầu Sở Y Tế tỉnh Kon Tum xác nhận tin cán bộ thuộc quyền đã dùng cuốc đánh người trọng thương.





Ông chánh thanh tra y tế tỉnh, đầu đội nón an toàn, tay cầm cuốc phang vào đầu một phụ nữ trong cuộc xung đột. (Hình: báo Tuổi Trẻ)

Nạn nhân là bà Phan Kim Uyên, 41 tuổi, cư dân phường Thống Nhất, tỉnh Kon Tum đã được đưa vào Sài Gòn điều trị.

Trong khi đó, người “hạ thủ” bà Uyên là ông Nguyễn Ðức Hoàng, chánh thanh tra Sở Y Tế tỉnh Kon Tum, vẫn ung dung đến sở làm như thường lệ.

Theo báo Tuổi Trẻ, vụ xung đột vì tranh chấp đất đai xảy ra khoảng 9 giờ sáng ngày 25 tháng 10, tại đường Nguyễn Huệ, phường Thống Nhất, thành phố Kon Tum. Hai gia đình ông Phan Tân Tiến, 45 tuổi và bà Phạm Thị Quýt, 67 tuổi giành nhau quyền khai thác miếng đất đã sang nhượng qua lại, tọa lạc tại đường Nguyễn Huệ. Trước đó, ông Tiến cho người dựng một hàng rào bằng lưới B.40 quanh miếng đất để ngăn bà Quýt xây nhà.

Vào ngày giờ nói trên, một đoàn cán bộ thành phố Kon Tum được lệnh đến tháo dỡ hàng rào, trả lại tình trạng cũ. Ðoàn cưỡng chế vừa lui bước, sau khi “hoàn thành nhiệm vụ,” hai bên gia đình cãi vã nhau kịch liệt. Lời qua tiếng lại một hồi, đôi bên xúm lại tấn công nhau.

Báo Tuổi Trẻ dẫn lời một nhân chứng nói rằng, ông Nguyễn Ðức Hoàng, chánh thanh tra Sở Y Tế tỉnh Kon Tum – con rể của bà Quýt, đã dùng cuốc bửa đầu bà Uyên, người nhà của ông Tiến trong lúc xô xát. Bà Uyên ngã quị tại chỗ, được thân nhân đưa vào bệnh viện Kon Tum cứu cấp. Các bác sĩ bệnh viện cho biết, bà Uyên bị tét một đường dài 4 phân ở trán, trên chân mày bên trái, thương tích khá trầm trọng.

Lời khai của ông Hoàng trong lúc công an địa phương lập biên bản phủ nhận việc ông dùng cuốc bửa đầu bà Uyên. Ông này khai rằng: “Trong lúc xô xát, tôi có cầm cây cuốc, xô đẩy qua lại làm chiếc cuốc trúng đầu chị Uyên, chứ tôi không có chủ đích.” Tuy nhiên, một người hàng xóm của hai bên gia đình quay phim đoạn xô xát cho thấy, bà Uyên xuất hiện trước đám đông, lăm lăm cầm một hòn gạch. Còn ông Hoàng cầm cây cuốc có cán dài một thước rưỡi rượt theo, dùng cuốc bổ vào đầu bà Trâm mặc dù có rất nhiều người rượt theo tìm cách cản ngăn.

Một nhân chứng “sống” khác là bà Nguyễn Thị Ngọc Lan, 59 tuổi cũng khai rằng, trong cuộc xô xát, mọi người đẩy qua, đẩy lại. Bà này cũng nói, thấy ông Hoàng dùng cuốc đánh vào đầu bà Uyên làm chảy máu dầm dề…

Cho đến nay, vẫn chưa thấy cấp lãnh đạo tỉnh Kon Tum nói gì về vụ này.

Mặt khác tại một quán nhậu giữa phố Hà Nội, đêm 26 tháng 10, xảy ra một vụ ấu đả làm chết một thanh niên. Nạn nhân là ông Trần Mạnh Viễn, 26 tuổi, kế toán viên một công ty đầu tư phát triển đô thị ở Hà Nội đã bị đánh “hội đồng” tại một buổi tiệc mừng sinh nhật của ông.



Quán nhậu, nơi hai cán bộ công an bị tình nghi đã đánh vỡ sọ một bạn nhậu ngồi bàn bên cạnh. (Hình: báo Tiền Phong)


Theo báo Lao Ðộng, nhóm của ông Viễn gồm 4 người đã đến quán nhậu và sau đó là “nhậu giao lưu” với nhóm ngồi bàn bên cạnh khoảng 8 người, trong đó có hai phụ nữ. Cũng chỉ vì cãi cọ trong lúc chơi trò “đoán tuổi,” ấu đả xảy ra. Ông Viễn bị nhóm bên kia nhảy vào đấm đá túi bụi cho đến khi ngã quị tại chỗ. Nạn nhân chết tại bệnh viện vì bị vỡ sọ.

Theo công an Hà Nội, có ba người bên nhóm đánh “hội đồng” ông Viễn bị bắt để điều tra. Trong số này, có hai nghi can là cán bộ công an huyện Từ Liêm, Hà Nội. (PL)