Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện từ trần và đã gia nhập đạo Công Giáo


Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện từ trần và đã gia nhập đạo Công Giáo

RFA
10/2/2012      nguồn: Vietcatholic.net
Nhà thơ “ngục sĩ” Nguyễn  Chí Thiện từ trần và đã gia nhập đạo Công Giáo
Thi sĩ Nguyễn Chí Thiện, được mệnh danh “Ngục sĩ”, nhà thơ phản kháng nổi  tiếng nhất của Việt Nam, vừa từ trần tại Santa Ana, California, Hoa Kỳ lúc 7  giờ 17 phút sáng ngày 2/10/2012, hưởng thọ 73 tuổi
Ông sinh ngày 27 tháng 2 năm 1939 tại Hà Nội, học hành và sinh sống ở Hà Nội,
Hà Nam, Hải phòng với song thân phụ mẫu và một người chị.
Ông từng bị chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng Hoà bắt giam từ năm 1961, vì tội  “phản tuyên truyền” bằng những bài thơ phê phán chế độ. Được trả tự do vào  tháng 11 năm 1964, đến tháng 2-1966 ông lại bị tống giam đến tháng 7-1977.  Ông viết lại bằng tay tập thơ “Hoa địa ngục” sáng tác và ghi nhớ trong tù.
Tháng 7-1979, ông đem đưa được tác phẩm này vào bên trong toà đại sứ Anh. Ông
không đi tị nạn ở Anh và bị bắt ngay trước cổng toà đại sứ, bị tống giam thêm
12 năm, với chế độ giam giữ khắc nghiệt hơn hết so với những khoảng thời gian
bị giam cầm trước đó.
Tập thơ “Hoa địa ngục” từ toà đại sứ Anh ở Hà Nội được chuyển tới giáo sư  Patrick Honey (1925-2005) dạy tại đại học Luân đôn. Sau đó thơ ông được phổ  biến trên báo chí, sách vở của người Việt hải ngoại, được dịch và xuất bản  bằng Anh, Pháp, Việt ngữ. Năm 1985 ông được tặng thưởng khiếm diện giải  thưởng thơ quốc tế tại Rotterdam.
Từ năm 1981 Tổ chức Ân xá Quốc tế Amnesty International, Tổ chức Theo dõi
Nhân quyền Human Rights Watch và Tổ chức nhân quyền Quê Mẹ cùng phát động
chiến dịch kêu gọi quốc tế can thiệp với nhà cầm quyền Việt Nam về trường hợp
của ông.
Suốt thời gian đó ông bị giam tại Hoả Lò, Hà Nội, đến năm 1985 bị đưa đi biệt  giam giữa rừng, kiệt sức và gần chết đói. Năm 1990 ông được đưa tới trại tù Ba Sao săn sóc thuốc men, và được trả tự do vào tháng 10 năm 1991.
Được anh ruột bảo lãnh sang Hoa Kỳ từ năm 1995, ông ghi lại và phổ biến tập  “Hoa địa ngục” thứ nhì, gồm những bài ông sáng tác và ghi nhớ trong thời gian  cầm tù sau . GS Nguyễn Ngọc Bích dịch tác phẩm nay sang Anh ngữ và xuất bản  song ngữ. Ông viết tự truyện bằng Anh ngữ, được đại học Hawaii xuất bản trong  “Beyond Works: Asian Writers on Their Works.”
Thi sĩ “ngục sĩ” Nguyễn Chí Thiện được giải thưởng của Hội Nhà văn  Quốc tế vào năm 1998. Ông sang Pháp, ở lại đó 3 năm để viết “Hoả Lò tập  truyện”. Tác phẩm được dịch sang Anh ngữ, đại học Yale xuất bản năm 2007.
Nhà thơ cư ngụ tại quân Cam California từ năm 2004, phải phấn đấu thường  xuyên với những di chứng bệnh tật trong suốt 27 năm tù ngục, nhưng vẫn đi  nhiều nơi để nói chuyện về kế hoạch dân chủ hoá Việt Nam.
Ông là một người độc thân, mất đi trong sự săn sóc của bạn bè thân hữu và  những cuộc thăm viếng của những đồng bào Việt Nam ái mộ thơ văn của ông,  ngưỡng mộ ý chí bất khuất của ông trước chế độ cộng sản của Nhà nước Việt Nam  Xã hội Chủ Nghĩa.
Vietcatholic xin nói thêm, khi đi tù tại ngoài Bắc Việt Nam, thi sĩ đã cảm  phục tinh thần của Cha Vinh , đã tìm hiểu đạo Công Giáo nên trước khi từ  trần, thi sĩ đã xin gia nhập đạo Công Giáo. LM Cao Phương Kỷ đã rửa tội cho thi sĩ và ban các phép bí tích sau cùng cho thi sĩ.
Thi sĩ lấy tên Thánh là: Thomas More
Xin cầu nguyện cho linh hồn Thomas More  Nguyễn Chí Thiện sớm được hưởng Nhan Thánh Chúa.
xem thêm:   Nuvuongcongly.net
VOA

Quyền năng tuyệt diệu của chuỗi Mân Côi

Quyền năng tuyệt diệu của chuỗi Mân Côi

Kim Hà

Sau đây là lời chia sẻ của LM Amorth, một nhà trừ quỷ nổi tiếng trên thế giới và là Nhà Trừ Quỷ chính tại Tòa Thánh Vatican:

Lý do tại sao chúng ta cần cầu nguyện bằng Chuỗi Kinh Mân Côi?

LM Gabriel Amorth, Nhà trừ quỷ chính (Chief Exorcist) của Tòa Thánh Vatican
viết:

-Một ngày kia, người bạn đồng nghiệp của tôi nghe ma quý nói trong một cuộc trừ quỷ như sau:

“Mỗi một Kinh Kính Mừng giống như một cú đánh mạnh vào đầu tôi. Nếu những người KiTô Giáo biết được quyền năng vĩ đại của Kinh Mân Côi thì sẽ là ngày kết thúc của tôi.”

Điều bí mật làm cho chuỗi kinh Mân Côi rất hữu hiệu là khi đọc Chuỗi kinh này người ta vừa cầu nguyện và vừa suy niệm. Kinh Lạy Cha dâng lên Chúa Cha, Kinh Kính Mừng dâng lên Đức Mẹ Maria và Kinh Sáng Danh dâng lên Thiên Chúa Ba Ngôi. Và lời suy niệm nhắm đến Chúa KiTô.

Xin hãy đọc và suy gẫm từng chữ của chuỗi Kinh Mân Côi một cách rõ ràng. Đừng vội vàng đọc theo người khác. Đừng cướp lời kinh của người hướng dẫn. Xin hãy nhớ rằng khi đọc kinh này, chúng ta đang thưa chuyện cùng Đức Mẹ Maria, Mẹ chúng ta và thật là vô lễ khi người khác đang nói chuyện mà mình nói leo.

Trong trường hợp lần chuỗi Mân Côi chung thì thường có hai bè xướng kinh tức là nói chuyện. Một bè là người hướng dẫn, một bè khác là những người đối đáp. Khi một bè nói chuyện với Đức Mẹ thì bè kia cần thinh lặng.

Hãy đọc kinh cần thận và đọc với trái tim khi chúng ta suy niệm về các Mầu Nhiệm, rồi áp dụng các Mầu Nhiệm trong đời sống hàng ngày.

Hãy truyền bá phương cách cầu nguyện Chuỗi Kinh Mân Côi vì đó là lời nguyện quyền năng nhất để trừ quỷ. Lời kinh Mân Côi dâng lên Thiên chúa Ba Ngôi, lên Đức Mẹ và đó là một lời kinh Toàn Hảo.

Mỗi khi đọc một Chuỗi Kinh Mân Côi là ta suy niệm Năm Mầu Nhiệm. Đức Mẹ cùng
đọc kinh với chúng ta, nên Kinh này có thêm quyền năng. Mẹ và ta đọc đến 53
Kinh Kính Mừng.

Đức Chúa Cha đã dùng một người thụ khải để nói với chúng tôi khi chúng tôi đọc
kinh Mân Côi chung rằng:

“ Khi các con đọc câu kinh: ‘Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, Cầu cho chúng con
là kẻ có tội. ..’ Thì Đức Mẹ đến ngay bên cạnh các con và cầu nguyện chung với các
con. Và Mẹ không đến một mình mà Mẹ đem theo các thiên thần với Mẹ. Vì Mẹ Là Nữ
Vương Các Thiên Thần nên Mẹ đem rất nhiều thiên Thần đến với Mẹ. Mẹ và Chúa
Giêsu luôn kết hợp với nhau, không bao giờ lìa xa nhau. Và Chúa Giêsu không rời
xa Thiên Chúa Ba Ngôi nên Chúa Cha và Chúa Thánh Thần cùng đến. Và khi Thiên
Chúa Ba Ngôi đến thì tất cả các loài thụ tạo cùng quây quần. Thật là một cảnh
tượng đẹp đẽ và chan hòa ánh sáng mà các con không thể tưởng tượng nổi. Mẹ
Thánh của các con đến với tước hiệu là Đức Mẹ Ban Ơn với đôi tay xòe ra. Những
tia sáng chiếu giãi từ đôi tay Mẹ sẽ xuyên thấu qua thể xác các con, chữa lành
và tuôn đổ trên các con với muôn ơn lành. Đó là ân huệ từ trái tim Chúa Giêsu
đổ xuống từ trên cây thánh giá khi người lính đâm thấu Trái Tim Chúa với ngọn
giáo, chảy qua một máng xối thông ơn tinh tuyền để nhận lãnh ân huệ cao quý ấy,
đó là Đức Mẹ.

Bây giờ nếu các con cầu nguyện Chuỗi Kinh Mân Côi
hay khi các con đọc một kinh Kính Mừng, các con sẽ nhận được một phần của những
ân huệ này. Những ai đến gặp Mẹ Maria và cầu nguyện Chuỗi Kinh Mân Côi thì
Satan không thể đụng đến họ.”

Thật là một điều kỳ diệu cho những ai siêng năng cầu nguyện Chuỗi Kinh Mân Côi
với trọn trái tim vì họ sẽ được chúc phúc và được bảo vệ. Lời nguyện của họ
dành cho người khác rất mạnh thế.

Vậy sau khi đọc bài chia sẻ này, xin quý vị hãy khiêm nhường và tìm mọi cách
tốt lành và hoàn hảo để rao truyền việc đọc kinh Mân Côi. Nhờ đó mà Satan không
còn có thể làm hại bản thân chúng ta và gia đình chúng ta được nữa.

Nguồn: Zenit

Kim Hà

nguồn: Sơn Đỗ gởi

Hướng về linh địa Fatima

Hướng về linh địa Fatima

 

Khi hiện ra tại Fatima (Bồ Đào Nha), Đức Mẹ đã nhắn nhủ: “Hãy lần chuỗi Mân Côi
hằng ngày… Hãy cầu nguyện nhiều và dâng những hy sinh để cầu cho các tội nhân… Ta là Mẹ Mân Côi. Chỉ có Mẹ mới có thể giúp các con. …Cuối cùng, Trái tim Vô nhiễm của Mẹ sẽ thắng”.

Tháng Mười lại về. Tháng Mười nhắc chúng ta nhớ lại lời khuyên của Đức Mẹ: Ăn
năn đền tội, tôn sùng Mẫu Tâm, siêng năng lần chuỗi Mân Côi.

Chữ Rosary (Chuỗi Mân Côi) nghĩa là “Triều thiên Hoa hồng” (Crown of Roses).
Đức Mẹ đã mặc khải cho một số người biết rằng mỗi lần đọc kinh Kính Mừng là dâng
cho Mẹ một đóa hồng tươi đẹp và lần xong một chuỗi Mân Côi là dâng cho Mẹ một
triều thiên hoa hồng.

Hoa hồng là hoa của các loài hoa, chuỗi Mân Côi là hoa hồng của mọi lòng sùng kính, do đó mà hoa hồng quan trọng nhất. Chuỗi Mân Côi được coi là lời cầu nguyện hoàn hảo vì trong đó có câu chuyện về ơn cứu độ của chúng ta. Qua chuỗi Mân Côi, chúng ta suy niệm các mầu nhiệm Vui, Thương, Mừng của Chúa Giêsu và Đức Mẹ. Đó là lời cầu nguyện khiêm nhường, khiêm nhường đến nỗi như Đức Mẹ. Đó là lời cầu nguyện chúng ta cùng đọc với Mẹ Thiên Chúa. Với kinh Kính Mừng, chúng ta mời Đức Mẹ cùng cầu nguyện cho chúng ta. Đức Mẹ luôn ban cho chúng ta những điều cần. Đức Mẹ nối kết lời cầu nguyện của Mẹ với lời cầu nguyện của chúng ta. Do đó lời cầu nguyện ấy hữu ích hơn bao giờ hết, vì điều Mẹ xin thì Mẹ đều nhận được, Chúa Giêsu không bao giờ từ chối Mẹ điều gì.

Trong mỗi lần hiện ra, Mẹ luôn mời gọi chúng ta lần chuỗi Mân Côi vì đó là vũ khí mạnh để chống lại ma quỷ, đem bình an thực sự đến cho chúng ta. Qua lời cầu nguyện cùng với Mẹ, chúng ta có thể nhận được tặng phẩm giá trị là biến đổi tâm hồn và hoán cải. Qua lời cầu nguyện hằng ngày, chúng ta xua đuổi nguy hiểm và ma quỷ xa chúng ta và quê hương chúng ta. Chuỗi Mân Côi là lời cầu nguyện lặp đi lặp lại như hai người yêu nhau lặp lại nhiều lần với nhau: “Tôi yêu bạn”.

Trong lần hiện ra ngày 13-7-1917 tại Fatima, Đức Mẹ dạy cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội chúng con, xin cứu các linh hồn cho khỏi hỏa ngục, xin đem các linh hồn lên Thiên đàng, nhất là những linh hồn cần đến Lòng Chúa Thương Xót hơn” (O my Jesus, forgive us our sins, save us from the fires of hell, and lead all souls to Heaven, especially those in most need of Your Mercy).

Phanxicô (Francisco) qua đời ngày 4-4-1919 và Giaxinta (Jacinta) qua đời ngày
20-2-1920. Trước khi giả từ cõi thế, Giaxinta cho biết một ít nhưng đó là những
câu quan trọng. Đây là những lời của Đức Mẹ:

Nhiều linh hồn sa hỏa ngục vì tội xác thịt hơn là vì các lý do khác. Những tội đó xúc phạm Chúa rất nặng. Nhiều cuộc hôn nhân không tốt, họ không làm vui lòng Chúa và không thuộc về Thiên Chúa. Các linh mục phải khiết tịnh, rất khiết tịnh. Họ không được bận rộn với bất cứ thứ gì khác ngoài việc quan tâm Giáo hội và các linh hồn. SỰ BẤT TUÂN CỦA CÁC LINH MỤC ĐỐI VỚI CÁC BỀ TRÊN VÀ ĐỨC  GIÁO HOÀNG LÀ RẤT LÀM MẤT LÒNG CHÚA. Đức Mẹ không thể ngăn cản bàn tay của Chúa Con khỏi trừng phạt thế giới vì nhiều tội trọng.

Hãy nói với mọi người rằng Thiên Chúa ban ân sủng qua Trái Tim Vô Nhiễm của Mẹ
Maria. Hãy bảo họ cầu xin ân sủng từ Mẹ, và Thánh Tâm Chúa Giêsu muốn được tôn
kính cùng với Trái Tim Vô Nhiễm của Mẹ Maria.

Luxia (Lucia) vào Dòng Tiểu muội Thánh Dorothy để học đọc và học viết, sau đó
vào Dòng Coimbra và ở đây cho đến cuối đời.

Ngày 10-12-1925, nữ tu Luxia được thấy Chúa Giêsu Hài Đồng và Đức Trinh Nữ
Maria trong phòng riêng ở tu viện. Đức Mẹ cho bà thấy Trái Tim Mẹ bị gai quấn
xung quanh, rồi Đức Mẹ nói với nữ tu Luxia:

Này con, hãy xem Trái Tim Mẹ bị gai nhọn quấn xung quanh, đó là những người vô
ơn đã đâm vào mỗi khi họ phỉ báng và vô ơn… Con hãy nói với mọi người thế
này:

1. Hãy xưng tội ngày thứ Bảy đầu tháng trong 5 tháng,

2. Rước lễ,

3. Lần chuỗi Mân Côi,

4. Và dành cho Mẹ 15 phút mà suy niệm về 15 Mầu nhiệm Mân Côi, với tâm tình đền
tội, Mẹ hứa giúp họ trong giờ lâm chung bằng những ơn cần thiết để được rỗi
linh hồn.

Trong lần hiện ra ngày 13-7-1917, Đức Mẹ nói: “Mẹ sẽ đến xin thánh hóa nước Nga”. Và Đức Mẹ đã làm điều đó vào ngày 13-6-1929, khi hiện ra với Luxia tại nhà nguyện Dòng Thánh Dorothy, thuộc thành phố Tuy. Luxia nói: “Con đã xin được phép của bề trên và linh mục giải tội cho làm Giờ Thánh từ 11 giờ trưa đến nửa đêm, vào các ngày thứ Năm và thứ
Sáu”.

Đức Mẹ nói với Luxia: “Thời giờ đã đến, điều mà Thiên Chúa yêu cầu Đức thánh
cha, cùng với các giám mục trên thế giới, là dâng nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm của Mẹ, hứa cứu nước Nga bằng cách này. Cũng có nhiều linh hồn mà công lý của Thiên Chúa kết án vì phạm tội xúc phạm đến Mẹ, và Mẹ đã đến yêu cầu đền tội: Hãy hy sinh vì ý này và hãy cầu nguyện”.

Ngày 13-10-1917, khi ba trẻ được bao quanh với khoảng 70.000 người dù trời mưa
như trút, Luxia hỏi Đức Mẹ: “Mẹ muốn gì ở con?”. Đức Mẹ trả lời: “Ta là Mẹ Mân
Côi. Mẹ muốn có một nhà nguyện tại đây để tôn kính Mẹ, và để mọi người cùng lần
chuỗi Mân Côi hằng ngày. Chiến tranh sẽ chấm dứt. Chiến tranh hết thì các binh
sĩ sẽ trở về gia đình”. Luxia hỏi: “Con có thể xin Mẹ chữa lành và hoán cải,
được không Mẹ?”. Đức Mẹ nói: “Một số người thì được, một số người khác thì
không. Điều cần là họ phải xin lỗi vì tội của họ, họ đừng xúc phạm Thiên Chúa
nữa, vì họ đã xúc phạm quá nhiều”. Luxia hỏi: “Mẹ còn muốn gì khác ở con
không?”. Đức Mẹ nói: “Mẹ không muốn gì nữa”.

Những lời đối thoại thật giản dị và dễ thương, nhưng những lời đó như đang xoáy
vào tận đáy lòng chúng ta!

ĐGH Piô XI đã không dâng nước Nga như lời Đức Mẹ yêu cầu Luxia làm, nhưng ngài
đã dâng cả thế giới cho Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ, cách riêng nhắc tới nước Nga.
ĐGH Piô XII đã làm điều tương tự vào năm 1942, và sau đó dâng hiến dân tộc Nga
vào năm 1952.

Ngày 13-5-1982, sau 1 năm bị ám sát tại Quảng trường Thánh Phêrô ngày 13-5-1981, cũng là dịp kỷ niệm Đức Mẹ hiện ra lần thứ nhất tại Fatima, ĐGH Gioan Phaolô II đã tới linh địa Fatima để tạ ơn Đức Mẹ và gặp nữ tu Luxia (một trong ba trẻ được Đức Mẹ hiện ra). Ngài
tin mình sống sót nhờ sự can thiệp trực tiếp của  Đức Mẹ Vô nhiễm.

Ngày 16-10-2002, qua Tông thư Rosarium Virginis Mariae (nói về chuỗi Mân Côi),
ĐGH Gioan Phaolô II đã chính thức thêm 5 mầu nhiệm mới vào chuỗi Mân Côi: Mầu
nhiệm Sáng.

 

TRẦM THIÊN THU (Chuyển ngữ từ TheHolyRosary.org)

Tháng Mân Côi – 2012

Chuyện Cha Trương Bửu Diệp

Chuyện Cha Trương Bửu Diệp

Thưa quý bạn, Bạc Liêulà một tỉnh nhỏ ở vùng đồng bằng sông Cửu Long nhưng có nhiều chuyện nổi tiếng, như về lúa gạo, về muối, về nhãn, về… Công tử Bạc Liêu (1900-1973) trong thời Pháp thuộc, về vụ án Đồng Nọc Nạn của những năm 1928-1930, và về ngôi nhà thờ họ Tắc Sậy với sự linh ứng của Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp, mà gần đây
cả trong nước lẫn ngoài nước ai cũng biết.

Tôi không phải là người Công giáo, hơn nữa lại là một giáo viên (ngày trước gọi là giáo sư trung học) có đầu óc khoa học và ưa chuộng thực tế hơn là những sự tin tưởng mang tính
siêu hình. Tôi đã từng dạy học tại Bạc Liêu suốt 6 năm trời (1965-1971) và học trò của tôi tại các huyện Vĩnh Lợi, Vĩnh Châu, Phước Long, Giá Rai v.v… đông lắm, chúng tôi thường xuống dưới đó chơi. Tôi rất quen thuộc với cái huyện (ngày trước gọi là quận) Giá Rai có ngôi nhà thờ nhỏ tí Tắc Sậy lợp tôn, nằm bên cạnh lộ sau khi đi qua ngôi chợ cũng nhỏ như vậy của thị trấn Hộ Phòng – thị trấn của huyện Giá Rai – khoảng một cây số.

Bây giờ, trong thời buổi CS này, nhà thờ Tắc Sậy tự nhiên nổi tiếng do sự linh thiêng “ai đến khấn nguyện điều gì đều được” của Cha Diệp. Có điều tôi muốn thưa với quý bạn rằng Nhà thờ Tắc Sậy huyện Giá Rai thuộc tình Bạc Liêu chứ không phải thuộc tỉnh Cà Mau. Tất cả các tài liệu đều ghi Bạc Liêu nhưng dân chúng thường nói Ca Mau bởi vì sau năm 1975, khi Cha Trương Bửu Diệp bắt đầu nổi tiếng thì Bạc Liêu thuộc về Cà Mau, kết hợp với tỉnh Cà Mau thành tỉnh Minh Hải, người ta quen gọi là Cà Mau chứ ít khi gọi là Minh Hải. Ngoài ra, Nhà thờ Tắc Sậy nằm trên đường Bạc Liêu đi Cà Mau, cách Bạc Liêu 37 cây số trong khi chỉ cách Cà Mau có 20 cây số nên mọi người dễ bị lầm.

Quý bạn hỏi vậy thì đối với những chuyện đồn đại, bản thân Đoàn Dự tin hay không tin? Tôi xin trả lời rằng tôi không dám nói tin hay không tin, nhưng theo tôi nghĩ, Nhà thờ Tắc Sậy là một ngôi nhà thờ rất nhỏ – nhỏ không thể nào nhỏ hơn được nữa – lại nằm trong một thị trấn cũng nhỏ, đồng không mông quạnh, ở phần gần như cuối cùng đất nước, cách Sài Gòn tới hơn 300 cây số, vậy mà nay được xây dựng thành một cơ ngơi to lớn, hiện đại, nguyên tiền xây cất đã hơn 59 tỉ đồng, tức gần 3 triệu đô-la, ấy là chưa kể các pho tượng 12 vị thánh tông đồ lớn gấp 2 hay 3 lần người thật, toàn bằng gõ đỏ tức loại gỗ quý hiện nay không còn có ở Việt Nam (nhưng còn có ở Campuchia và Lào) mà theo tôi biết, giá mỗi pho tới vài trăm triệu đồng, vậy thì tiền “nội thất” cũng tới hàng triệu đô-la. Toàn là do khách thập phương, lương cũng như giáo, nhất là Việt Kiều tại các nước gửi tới tạ ơn cả. Phải có cái gì đó thiêng liêng và đầy tin tưởng người ta mới dâng hiến lên Cha như thế! Mặt khác tôi cũng nghĩ, khi bị bắt cùng với 70 người vừa chức sắc vừa giáo dân trong họ đạo, Linh mục Phanxicô Trương Bửu Diệp đã hy sinh tính mạng của mình để cứu họ. Sau khi qua đời, ngài hiển linh ban ơn cho người này người kia, “ai xin thì cũng đều được”. Rồi bây giờ mọi người dâng lễ tạ ơn ngài, biến ngôi nhà thờ nhỏ xíu của ngài thành nơi khang trang, hiện đại. Tất cả những việc đó đều là tình người. Đối với tôi, bất cứ cái gì thuộc về tình người đều đáng ca ngợi.

Quý bạn cũng hỏi những chuyện về Cha Diệp thì ai cũng biết, tại sao tôi còn thuật lại? Xin thưa, tính tôi vẫn thế, không kể thì thôi, đã kể là rất chi tiết. Tôi sợ quý bạn tuy biết
nhưng biết từng mảng, không thành hệ thống. Bây giờ tôi xin tường thuật từ đầu đến cuối thật rõ để quý bạn hiểu, xin mời quý bạn xem xét…

 

* * *

 

Tiểu sử Linh mục Trương Bửu Diệp

Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp sinh ngày 01-01-1897, một tháng sau được Cha Giuse Sớm rửa tội ngày 02-02-1897 tại họ đạo Cồn Phước, nay thuộc ấp Mỹ Lợi, xã Mỹ Luông, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang.

Cha ngài là Micae Trương Văn Đặng. Mẹ ngài là Lucia Lê Thị Thanh. Gia đình sinh sống tại họ đạo Cồn Phước tỉnh An Giang.

Năm 1904, lúc ngài 7 tuổi thì mẹ mất. Cha ngài dời gia đình lên Battambang bên Campuchia, sinh sống bằng nghề thợ mộc. Tại đây, thân phụ ngài tục huyền với bà Maria Nguyễn thị Phước, sinh năm 1890, quê gốc tại Mỹ Luông, Chợ Mới, An Giang. Kế mẫu đã sinh cho ngài người em gái tên là Trương thị Thìn (1913), hiện còn sống tại họ đạo Bến Dinh, xã Tân Hòa, huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp.

Năm 1909, cha Phêrô Lê Huỳnh Tiền gửi ngài vào Tiểu chủng viện Cù lao Giêng, xã Tấn Mỹ, Chợ Mới tỉnh An Giang. Học xong tại Tiểu chủng viện, ngài lên Đại chủng viện Nam Vang, Campuchia, (lúc đó các họ đạo An Giang, Châu Đốc, Hà Tiên trực thuộc giáo phận
Pnom Penh, Campuchia).

Năm 1924, sau thời gian tu học, ngài được thụ phong linh mục tại Nam Vang dưới thời Đức Cha Chabalier người Pháp. Lễ vinh quy và mở tay được tổ chức tại nhà người cô ruột là bà Sáu Nhiều, tại họ đạo Cồn Phước.

Từ năm 1924-1927, ngài được bề trên bổ nhiệm làm Cha phó họ đạo Hố Trư, một họ đạo của người Việt sinh sống tại tỉnh Kandal, Campuchia. Từ năm 1927-1929, ngài về làm giáo sư tại Tiểu chủng viện Cù lao Giêng tỉnh An Giang.

Tháng 03 năm 1930, ngài về trông nom họ đạo Tắc Sậy, quận Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu. Trong những năm làm cha sở, ngài quan hệ, giúp đỡ, thành lập nhiều họ đạo khác tại các vùng phụ cận như: Bà Đốc, Cam Bô, An Hải, Đầu Sấu, Chủ Chí, Khúc Tréo, Đồng Gò, Rạch Rắn.

Hoàn cảnh xã hội nhiễu nhương những năm 1945-1946, chiến tranh loạn lạc, bà con nhân dân di tản, Cha Bề Trên địa phận Bạc Liêu là Phêrô Trần Minh Ký và cả các cha người Pháp cũng khuyên ngài lên Bạc Liêu lánh mặt, khi nào tình hình yên ổn thì sẽ trở lại họ đạo Tắc Sậy, nhưng ngài trả lời: “Tôi sống giữa đàn chiên và nếu có chết cũng chết giữa đàn chiên, không đi đâu cả”.

Ngày 12-03-1946, ngài bị bắt cùng với trên 70 chức sắc và giáo dân tại họ đạo Tắc Sậy, bị lùa đi và nhốt tại lẫm lúa nhà ông giáo Sự ở Cây Dừa. Người ta định giết tất cả nhưng ngài nói
chính ngài là chủ chăn các con chiên đó, vậy xin chết thay cho các con chiên của ngài. Họ chấp nhận. Mọi người được thả còn ngài thì bị đem đi thủ tiêu.

Những người trong họ đạo kể rằng đêm hôm ấy ngài về báo mộng cho các vị chức sắc trong họ đạo biết chỗ họ ném xác ngài, trong cái ao nhà ông giáo Sự. Các vị đến nơi được báo mộng thì vớt được xác ngài đã bị chặt đầu với một vết chém ngang cổ chỗ gần mang tai, có
ba vết chém khác trên mình. Thân xác ngài không hiểu sao bị lột hết quần áo, trần trụi như Chúa Giêsu trên thập giá, nhưng hai tay vẫn chắp trước ngực như đang cầu nguyện và nét mặt ngài vẫn bình thản, không có vẻ gì sợ hãi.

Các vị chức sắc lén đưa xác ngài về chôn bí mật trong phòng thánh nhà thờ Khúc Tréo (nhà ông giáo Sự thuộc họ đạo Khúc Tréo, làm thế kín đáo hơn đưa về Tắc Sậy). Như vậy ngài đã tử vì đạo vào ngày 12 tháng 03 năm 1946, nhằm ngày mồng 09 tháng 02 năm Bính Tuất.

Hăm ba năm sau, tức năm 1969, hài cốt ngài được cải táng, di dời về Nhà thờ Tắc Sậy, nơi ngài đã làm chủ chăn trong 16 năm và là cha sở thứ nhì của họ đạo Tắc Sậy.

Hai mươi năm sau nữa, tức năm 1989, ngôi mộ của ngài được trùng tu thành một ngôi nhà mộ nho nhỏ lợp tôn ở phía sau Nhà thờ Tắc Sậy cũng nhỏ như vậy và khánh thành vào ngày
04-06-1989.

Đầu năm nay, 2010, một ngôi nhà mộ cực kỳ khang trang và hiện đại đã xây dựng xong, hài cốt ngài được di chuyển vào đó với lễ cải táng rất long trọng do đức Giám Mục địa phận Cần
Thơ chứng kiến. Ngày nào cũng có các tín hữu ở khắp mọi nơi trong nước cũng như ngoài nước, bên lương cũng như bên giáo, tới thăm viếng, khấn nguyện và tin tưởng vào sự linh ứng của ngài.

Chuyện một số phép lạ của Cha Bửu Diệp

Hiện nay, tuy Giáo hội Công giáo chưa xét phong Thánh cho Cha Bửu Diệp, nhưng trong lòng nhiều tín hữu Công giáo, kể cả một số người thuộc các tôn giáo khác, đã coi Cha như một vị Thánh, vì rất nhiều người khấn xin với ngài và được ngài ban cho như ý. Tại các
nhà thờ Công giáo trong nước, rất nhiều giáo dân xin lễ tạ ơn ngài. Đặc biệt, nhiều người không phải tín đồ Thiên Chúa giáo cũng rất kính mến, tin tưởng ở ngài. Những tấm bảng tạ ơn Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp được gắn trên tường trong căn phòng nguyện tại Nhà thờ Tắc Sậy nhiều không biết bao nhiêu mà kể.

Theo chúng tôi được biết, ở bên Mỹ, cụ Joan Baotixita Võ Hữu Hạnh, một nhà văn lớn tuổi, đã sáng lập “Hội những người con của Cha Trương Bửu Diệp”. Theo cụ, Cha Trương Bửu Diệp đã ban phép lạ cho nhiều người, cả lương cũng như giáo. Sau đây là một số chuyện về các phép lạ đó, bởi vậy tiếng tăm về ngài ngày càng lừng lẫy.

 

Chuyện gia đình ông Lâm ở Lâm Đồng, Đà Lạt:

Ông bà Lâm không phải tín đồ Thiên chúa giáo và chuyện này đã diễn ra năm 1977, do chính ông Lâm kể cho ông Ngọc Quang nghe, ông Ngọc Quang ghi lại trên tập san Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, do cụ Võ Hữu Hạnh chủ trương.

“Bà Lâm bị bệnh viêm ruột và đau dạ dày từ lâu, bệnh đã trở thành vô phương cứu chữa. Bác sĩ tại các bệnh viện ở Sài Gòn đều bó tay. Ông Lâm đành đưa vợ từ Sài Gòn về Lâm Đồng để bà sống những ngày cuối cùng của mình.

Giữa lúc gia đình vừa đưa bà Lâm về tới nhà thì có một vị khách đi đường xa, xe bị hư, trong khi chờ tài xế sửa, ghé vào thăm. Khách là một người cao lớn, khỏe mạnh, gương mặt chữ
điền, hàm râu cánh én, vẻ người phúc hậu với bộ áo dài đen của linh mục.

Ông Lâm vốn tính tình hiền lành, thường rất tôn trọng các vị tu hành, dù lương hay giáo. Mặc dầu nhà đang bận rộn vì vợ bệnh nặng nhưng ông cũng lịch sự tiếp đón khách. Vị linh mục tinh ý hỏi tại sao nét mặt gia chủ có vẻ buồn rầu. Ông Lâm nói thật là vợ bệnh nặng, mới đưa từ Sài Gòn về nhà chờ chết. Vị linh mục nói rằng lúc trước mình cũng bị bệnh nặng như vậy, nhờ một ông bác sĩ tên Hữu cho uống loại thuốc này khỏi bệnh, bây giờ còn dư lại mấy viên. Cha lấy trong túi áo ra ba viên thuốc trao cho ông Lâm và dặn chiều cho bà uống một viên, tối lúc 10 giờ một viên và sáng hôm sau một viên nữa, thế nào cũng khỏi. Ông Lâm tuy không tin lắm nhưng trong lúc tuyệt vọng, ai bảo sao cũng đành nghe vậy. Giữa lúc ấy người tài xế vào thưa xe đã sửa xong, vị linh mục bèn từ giã chủ nhà ra đi. Chủ nhà cảm ơn Cha và hỏi cho biết Cha ở đâu, vị linh mục nói mình trông coi xứ đạo Tắc Sậy? tỉnh
Bạc Liêu.

Sau khi uống viên thuốc thứ nhất vài giờ, bà Lâm cảm thấy bớt đau, trong mình dễ chịu, biết đói và thèm ăn, ngủ ngon. Buổi tối, khoảng chừng 10 giờ, tự nhiên bà thức giấc và nhớ lời Cha dặn, bèn uống thêm viên thuốc thứ hai. Sáng hôm sau thức dậy, bà thấy trong
người khỏe khoắn, không còn mệt mỏi và đau đớn như trước. Bà sung sướng báo tin
cho chồng hay. Ông Lâm mừng quá bèn đem viên thuốc còn lại đến các tiệm để làm
mẫu, mua thêm cho chắc ăn. Nhưng ông đi khắp nơi, kể cả các tiệm thuốc Tây lẫn thuốc Bắc, song chẳng ai biết đó là thuốc gì. Ông đành trở về, cho bà uống nốt viên còn lại và định có dịp sẽ xuống Minh Hải (năm 1977, hai tỉnh Bạc Liêu và Cà Mau bị sáp nhập lại với nhau thành tỉnh Minh Hải) thăm Cha và nhờ Cha nói với ông “bác sĩ Hữu” bán thêm giúp.

Muốn đi từ Lâm Đồng xuống Cà Mau thì phải về Sài Gòn, xuống Cần Thơ, qua Sóc Trăng rồi mới tới Bạc  Liêu, và Hộ Phòng là thị trấn của huyện Giá Rai tỉnh Bạc Liêu, cách thị xã Bạc Liêu 37 cây số, nơi có Nhà thờ Tắc Sậy. Việc giao thông lúc ấy rất khó khăn, phải xếp hàng từ khuya ở Bến Xe Miền Tây để mua vé xe, có khi xếp hàng cũng không mua được vé, đường đi lại lồi lõm, hết sức cực khổ. Bà Lâm mới khỏi bệnh, khó chịu đựng nổi với những chiếc xe cà rịch cà tàng, cổ lỗ đó. Đang lúc ông Lâm lo âu thì có người cháu làm trong cơ quan nhà nước đến chơi, cho biết anh ta sắp đi công tác tại Minh Hải để giao dịch mua lương thực cho tỉnh. Ông Lâm mừng quá, bèn nói với cháu cho đi nhờ xe xuống Tắc Sậy, tiền xăng ông chịu. Người cháu nhận lời vì Nhà thờ Tắc Sậy nằm ngay trên đường Bạc Liêu đi Cà Mau và cách thị xã Cà Mau khoảng 20 cây số, anh ta chở chú thím tới Tắc Sậy rồi
xuống Cà Mau không có gì khó.

Khi qua Bạc Liêu, xuống tới thị trấn Hộ Phòng, Nhà thờ Tắc Sậy nằm cách chợ Hộ Phòng khoảng một cây số, ở phía bên trái. Ông bà Lâm không thể ngờ được nơi ở của vị cha sứ ân nhân lại nhỏ như vậy. Đó là ngôi nhà thờ mái lợp tôn, vách ván, xiêu vẹo trông rất tiêu
điều. Đất nhà thờ rộng mênh mông nhưng chung quanh toàn đồng ruộng, dân cư thưa
thớt.

Chiếc sân đất của nhà thờ không có cổng. Vợ chồng ông Lâm xuống xe, đi vô. Một ông lão bộc (thường gọi là ông Từ) đang quét trên sân. Trông thấy khách lạ, ông Từ có vẻ ngạc nhiên vì ít khi có khách phương xa đến thăm ngôi nhà thờ này. Ông Lâm nói muốn gặp
cha sở, ông Từ mời vào bên trong rồi vào mời cha.

Một lát sau, vị linh mục ra, ngài cho biết ngài là Linh mục Phêrô Nguyễn Ngọc Tỏ, cha sở họ đạo Tắc Sậy. Ông bà Lâm rất ngạc nhiên, vị linh mục này trông không giống vị linh mục đã cho thuốc một chút nào hết mà sao hai vị đều tự nhận mình là cha sở họ đạo Tắc Sậy?
Ông Lâm bày tỏ sự tình và kể mình đã gặp một vị linh mục cao lớn, tóc ngắn, gương mặt chữ điền, hàm râu cá chốt. Cha Tỏ mỉm cười, không lấy gì làm lạ, bèn dẫn vợ chồng ông Lâm qua phía bên hông nhà thờ, tới ngôi mộ của Cha Diệp. Vừa nhìn thấy tấm hình trên bia mộ, tự nhiên ông Lâm quỳ phục xuống và quả quyết đây chính là vị ân nhân đã cho thuốc, cứu bà Lâm khỏi bệnh. Bà Lâm cũng quỳ xuống tạ ơn ngài. Ông bà là người bên lương, không biết làm dấu Thánh giá.

Lúc ra về, ông bà Lâm gửi Cha sở một số tiền nho nhỏ để giúp nhà thờ vì lúc ấy ai cũng nghèo, ông bà không có nhiều. Có lẽ ông bà Lâm là những người đầu tiên đã giúp nhà thờ từ năm 1977”.

 

Chuyện bức ảnh đẫm máu

Sau đây là nguyên văn bức thư của GS Trần Anh Linh gởi cho cụ Võ Hữu Hạnh, nói về bức ảnh đẫm máu. Xin ghi chú thêm rằng chuyện này xảy ra cách đây khoảng chừng 2 năm (2008) và hiện nay Linh mục Gioan Minh vẫn còn ở tại Nhà thờ Hiển Linh đường Ngô Tất Tố (Dương Công Trừng cũ) thuộc giáo phận Thị Nghè. Ngài nổi tiếng về việc khấn nguyện Đức Mẹ giùm những người bệnh tật kết quả rất tốt. Hằng ngày mọi người ở khắp các nơi đến nhờ ngài khấn rất đông nhưng chính quyền địa phương đã ra lệnh cấm vì không muốn có sự tụ tập đông đúc.

Sau đây là bức thư của GS Trần Anh Linh:

“Anh Hạnh thân mến,

Tôi xin gửi tặng anh món quà quí giá mà Cha Diệp đã ban cho tôi qua Cha Gioan Minh: Cha Diệp đã thực hiện một phép lạ nhãn tiền là dùng chính tấm ảnh mà chúng ta đã cho họa sĩ Đại Hàn ở khu Phúc Lộc Thọ vẽ rồi in ra nhiều ấn bản, vừa làm thành sách, vừa in
thành ảnh gởi tặng và bán khắp nơi.

Tấm ảnh đó đã đổ máu đào lênh láng từ vết chém bằng đao kiếm đứt cổ, máu Cha đã đổ ra thấm ướt làm mờ hàng chữ Trương Bửu Diệp bên dưới.

Câu chuyện xảy ra như sau:

Cha Gioan Minh (cựu Tuyên Úy), sau 12 năm học tập cải tạo, đã được cho về và sống ở nhà thờ Chúa Hiển Linh tại Thị Nghè nơi xưa kia Cha Dụ đã thành lập. Cha Minh ở lại Việt Nam, không xin ra nước ngoài theo diện HO dù cha có tới 12 năm ở tù.

Một hôm cha vào Nhà sách Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp ở đường Kỳ Đồng và chọn mua một tấm ảnh của Cha Diệp mà cha đã nghe có nhiều phép lạ. Cô bán hàng dùng giấy báo gói bức ảnh có đóng khung sẵn trao cho cha Minh. Cha Minh về đến nhà, tính mở ra để treo lên tường
thì một ơn lạ đã xảy ra, là máu tươi từ cổ bức ảnh tuôn trào ra thấm ướt cả tờ báo gói bức tranh.

Cha Minh kinh ngạc bèn cho đó là một dấu chỉ quan trọng, nên đã gói lại cẩn thận và lặng lẽ đem lên Tòa Tổng Giám Mục Saigon trình với Đức Cha Phạm Minh Mẫn. Theo cha Minh cho biết thì tấm ảnh thấm máu này đã được gởi qua để Tòa Thánh xét nghiệm, hy vọng
rằng đã đến lúc Tòa Thánh cho lập Ban Điều Tra, tìm hiểu về các ơn lành Cha Diệp đã làm mà việc lạ lùng làm cho máu đào từ vết cổ đổ ra sẽ là một trong những chứng cớ để Tòa Thánh có thể tôn phong Chân Phước cho Cha.

Tôi là bạn thân của cha Minh, nên cha đã tặng tôi một tấm. Tôi sao lại và gởi tặng anh, đây là tài liệu mới nhất về Cha Diệp, anh nên ghi chú vào tập sách Các Ơn Lành của Cha”.

Trần Anh Linh.

 

Chuyện ông chủ thầu vật liệu xây dựng

Từ những năm thuộc thập niên 1980 trở về sau, hằng năm cứ vào các ngày 11-12 tháng 03 dương lịch, dòng người lương, giáo từ các nơi lại đổ về Tắc Sậy. Trên những chiếc xe đò chở
khách, người ta có thể thấy hình một vị linh mục mặt vuông chữ điền rất dễ mến. Họ xuống để dự lễ giỗ của Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp.

Ông Phước, người trông coi phần mộ của Cha Diệp tại Nhà thờ Tắc Sậy, kể lại câu chuyện sau đây vào một buổi trưa tháng 04-2010 như sau:

“Vào khoảng những năm đầu thập niên 1980, bờ kinh cạnh khu nhà thờ này còn là một bãi đất trống, làm nơi ghe và xe cộ dừng lại đổ hàng. Nửa đêm, có một ông chủ ghe chở đầy vật liệu xây dựng như gạch, cát, xi-măng… đậu bên bờ kinh. Ông bỗng trông thấy một vị khách mặc áo dài đen theo kiểu nhà dòng từ trên bờ bước xuống. Vị khách tự xưng mình là cha xứ Nhà thờ Tắc Sậy, muốn mua hết các vật liệu trên ghe để xây lại nhà thờ. Giá cả xong xuôi, chủ ghe đồng ý bán và hẹn hôm sau sẽ cho công nhân đem hàng lên xong ông sẽ nhận tiền.

Sáng hôm sau, trước khi giao hàng, chủ ghe lên nhà thờ, định gặp cha xứ để biết chỗ cho công nhân xếp hàng. Đến khi gặp linh mục Phêrô Nguyễn Ngọc Tỏ, ông rất ngạc nhiên, từ giọng nói cho tới gương mặt, thân hình, vị linh mục này trông không giống với vị khách có ria mép hôm trước một chút nào cả. Cha Tỏ nói: “Tôi hiểu, đó chính là linh hồn cha sở Phanxicô Trương Bửu Diệp đấy. Ý ngài muốn xây lại nhà thờ nên hiện ra như vậy”. Cha kể cho ông chủ thầu nghe các chuyện linh ứng của Cha Bửu Diệp rồi nói: “Ý tôi cũng muốn xây lại ngôi nhà thờ cho đàng hoàng nhưng họ đạo nghèo, chưa đủ tiền. Thôi thì đành cáo lỗi với ông và hẹn khi khác”. Ông chủ thầu nói: “Cha Diệp đã linh ứng như vậy thì con không dám lấy tiền. Mặc dầu con là người bên lương nhưng con xin hiến tất cả các vật liệu trên ghe để nhà thờ xây sửa lại, không nhận một đồng nào cả”. Ông chủ thầu lập tức cho người khuân
gạch, cát, xi-măng từ dưới ghe lên rồi đi, ngay cả tiền công bốc xếp của các công nhân ông cũng tự trả, không để nhà thờ phải trả.

Không ngờ từ đấy ông chủ  ghe buôn bán ngày càng phát đạt. Ông cho rằng mình được Cha Diệp phò hộ nên mỗi lần đi qua Hộ Phòng ông thường quay lại Nhà thờ Tắc Sậy để tạ ơn Cha.

Cũng theo ông Phước, những chuyện linh ứng của Cha Diệp ngày một lan rộng. Từ đó về sau, khách thập phương kéo về nườm nượp để cầu xin Cha ban ơn lành. Nhất là các nghệ sĩ cải lương nổi tiếng, rất nhiều người xuống, họ cầu xin Cha chuyện này chuyện khác, và ai cũng được toại nguyện. Lời nguyện đắc thành, họ đến đền ơn Cha, người thì ghế đá, người thì vật dụng dùng cho nhà thờ, người thì tiền bạc…, nhiều không sao kể xiết. Cứ thế, vào những này cuối tuần hoặc trong dịp lễ giỗ Cha (12 tháng 03 dương lịch), khách thập phương kể cả trong nước lẫn ngoài nước về kính viếng Cha đông như trẩy hội. Có nhiều người đem theo cả những chai nước La Vie đến để bên cạnh mộ, cầu nguyện trước khi mang về cho người trong gia đình. Nhưng cũng có những người tin tưởng đến độ cầu nguyện trong nhà thờ, trước mộ của Cha chưa đủ, họ còn hỏi thăm, tìm đến chiếc ao nhỏ của gia đình ông giáo Sự ngày xưa để chiêm ngưỡng nơi Cha đã bị sát hại.

Điều lạ lùng hơn nữa là theo như lời của vị cha xứ hiện nay là Linh mục Phaolô Nguyễn Thanh Bình, thì có tới 70% khách thập phương xuống Giá Rai kính ngưỡng Cha Diệp là người ngoại đạo hoặc Việt Kiều từ nước ngoài về. Có những người chưa về nhưng đã “nghe nói” tới sự linh ứng của Cha nên đã gửi tiền về giúp nhà thờ xây dựng được một cơ ngơi lớn lao như ngày nay, khả dĩ có thể đón tiếp bất cứ các nhóm hành hương nào dù đông bao nhiêu, họ đều có chỗ nghỉ ngơi đàng hoàng mà không cần phải đóng góp gì cả.

Để kết luận bài này, tôi xin thưa với quý vị độc giả thân mến rằng tôi không phải là người Công giáo, nhưng tôi biết trong Thánh kinh Công giáo có câu nói của Đức chúa Giêsu: “Phúc cho ai không thấy mà tin”. Vậy nay tôi xin dùng câu nói này để cầu Chúa và Cha Diệp ban ơn cho quý vị. Amen.

Đoàn Dự ghi chép

 

Thánh Phanxicô Assisi

Thánh Phanxicô Assisi

Ngày 4/10:

Thánh Phanxicô chào đời vào khoảng cuối năm 1182, tại thành Assisi, ở phía bắc thủ đô Rôma. Cha là ông Phêrô Bênađônê, một thương gia chuyên nghề bán len dạ; mẹ là bà Pica, một phụ nữ hiền đức, hiếm có.

Cậu Phanxicô rất hào hoa, lại được gia đình giàu có nuông chiều, nên cậu mặc sức ăn chơi phung phí. Mộng công danh thôi thúc, Phanxicô theo bá tước Gôthiê đơ Briênnơ đi chinh phục vùng Apulia, gần thành Assisi. Nhưng ý Chúa nhiệm mầu đã khiến Phanxicô đau nặng và bắt buộc phải trở về quê hương.

Lần này, tuy vẫn ăn chơi như trước, nhưng Phanxicô cảm thấy những thú vui xưa kia dần dần mất hết ý nghĩa. Thế rồi Phanxicô đi tìm lý tưởng cao đẹp hơn. Một hôm, lúc đang cầu nguyện trong nguyện đường Đamianô nhỏ bé, Phanxicô nghe tiếng Chúa phán ra từ cây Thánh Giá: “Phanxicô, con hãy đi sửa lại ngôi đền thờ của ta đang đổ nát!” Phanxicô hiểu câu nói này cách nông cạn, nên tình nguyện đi xin từng viên đá đem về sửa lại ba ngôi nguyện đường cạnh Assisi. Phanxicô chưa hiểu rằng, ngôi đền thờ mà Chúa muốn nói chính là Hội Thánh.

Ngày 24.2.1208, đang buổi lễ, Phanxicô nghe được đoạn Phúc Âm: “Các con hãy đi rao giảng Tin Mừng… Các con đừng mang theo tiền bạc, bao gậy…” (Mt 10,10). Phanxicô nhận ra tiếng gọi của Chúa, từ nay quyết tâm triệt để sống khó nghèo và theo Chúa trên con đường Thập Tự (Mt 19,21 ; Lc 9,1-6 ; Mt 16,24). Phanxicô vừa đi rao giảng Tin Mừng vừa khất thực.

Phanxicô yêu những người nghèo, những bệnh nhân mà ngài nhìn thấy Chúa Giêsu ở nơi họ. Ngài chỉ muốn giống Chúa Giêsu cách trọn vẹn trong khó nghèo, trong tình yêu, trong sự giảng dạy và trong đau khổ.

Năm 1220, vì những khó khăn nội bộ của Hội Dòng do một số anh em cấp tiến muốn sửa đổi lý tưởng nghèo khó thuở ban đầu, Phanxicô phải bỏ cuộc truyền giáo cho người Hồi giáo để trở lại nước Ý. Một cuộc tử đạo đặc biệt sắp bắt đầu. Năm 1224, Phanxicô xin rút lui về ẩn mình tại núi Laverna.

Nơi đây, ngài được Chúa in năm dấu thánh của Người trên chân tay và cạnh sườn. Phanxicô đã sống một cuộc tử đạo trong hai năm trời; các vết thương luôn rỉ máu, cộng với nỗi đau khổ do một số anh em sống xa lý tưởng ban đầu gây ra. Trong nỗi cô đơn và đau khổ do bệnh hoạn, ngài chỉ muốn hoàn tất ý định của Thiên Chúa cho đến khi “Bạn Chết” của ngài đến kết thúc cuộc đời vào ngày 3.10.1226.

Đức Giáo Hoàng Grêgôriô IX đã phong ngài lên bậc hiển thánh vào ngày 16.7.1228.

Nhờ lời cầu bầu của thánh Phanxicô. Xin Chúa cho chúng ta biết yêu chuộng hoà bình, hòa bình với mọi người và nhất là với những người đối nghịch với chúng ta.nguồn:

Maria Thanh Mai gởi

LƯU BÚT,& LỜI YÊU CHƯA NÓI,& CHÈO THÚNG GIĂNG CÂU,

LƯU BÚT,

Nhớ hồi còn nhỏ mới làm thơ,
Viết vội trao em nét chữ mờ,
Bây giờ soi lại rồi mới đoán,
Lời ấy còn không? Hay chỉ mơ…
Anh biết đời trai chẳng như thơ,
Tay cầm súng trận vẽ khói mờ,
Hỏa châu soi sáng niềm thao thức,
Phủ kín hồn anh lúc ngẩn ngơ…
Mong ngày về phép thăm người cũ,
Giữa chốn quê hương sáng sương mù,
Biết đâu còn lại dòng lưu bút,
Mình đọc âm thầm như gió ru…
Bây giờ đôi ngả cách đôi nơi,
Em cũng theo chồng xa cách tôi,
Buồn chi cho chóng phai màu tóc,
Tình đã bay xa mất biệt rồi…
Liverpool.1/10/2012.
Song Như.
Thân tặng các bạn LVC.

LỜI YÊU CHƯA NÓI,

Em ra đi mùa thu buồn da diết,
Để riêng anh khánh kiệt cả con tim,
Đếm lá vàng nhớ em xa biền biệt,
Thương làm sao lại cứ muốn đi tìm…
Trăng đêm nay rơi rụng xuống vũng sầu,
Hồn tương tư vật vã ngấm niềm đau,
Biết trong tâm mình còn nghĩ đến nhau,
Hay quên mất những ngày xưa yêu dấu…
Gió êm êm nhè nhẹ áng mây màu,
Mây bay xa có thấy em ở đâu?
Nơi viễn xứ… tình anh chưa kịp nói
Giờ xa rồi gậm nhấm mối tình đau…
Liverpool.1/10/2012.
Song Như.

CHÈO THÚNG GIĂNG CÂU,

Chèo thúng giăng câu giữa biển khơi,
Đêm nay gió lạnh thấm áo tơi,
Vầng trăng èo uột thêm buồn ngủ,
Mực nhỏ cá con mất cả lời…
Cuộc sống ngư nhân nhiều biến đỗi,
Gió to sóng lớn mạng nhỏ nhoi,
Thương đàn con dại không chăn đắp,
Đành phải hy sinh trọn kiếp rồi…
Có ai hiểu được lòng biển cả,
Sóng nỗi sóng chìm thật bao la,
Đồng tiền kiếm được hao xương máu,
Đổi lấy bát cơm nuôi cả nhà…
Chợ sớm chợ chiều cá mực ươn,
Nhìn con lam lũ thấy mà thương,
Ăn còn chưa đủ mơ đi học,
Kiếp sống cơ hàn nặng sầu vương…
Liverpool.27/9/2012.
Song Như.
Kính bái những ngư nhân chèo thúng câu mực ở Phan Thiết.

Từ một cầu thủ dã cầu trở thành Linh Mục

Từ một cầu thủ trở thành Linh Mục

Thầy dòng Desme (bên trái)

 

Silverado, California: Sau nhiều năm sống trong một thế giới vội vã, luôn luôn ồn ào tiếng nhạc, cuối cùng anh Grant Desme,

một cầu thủ dã cầu đã tìm được an bình trong Chúa.

Vào mùa giáng sinh hai năm trước, anh Desme cùng 7 thanh niên khác đã đến tu viện St Michael , sẵn sàng cho một cuộc sống mới.

Anh Grant Desme đã xin đổi tên và đã được giám mục Eugene Hayes đổi tên là Mathew Desme. Trong vòng hai năm qua , anh Mathew Desme đang là tập sinh của chức vụ linh mục cũng như là một thầy dòng ở tu viện Norbertine.

Hai năm trước, anh Grant Desme là một  cầu thủ xuất sắc của hiệp hội dã cầu thiếu niên The Arizona Fall và đã từng được chọn là cầu thủ xuất sắc nhất trong năm 2009.

Cũng trong năm 2009, anh đã được đội dã cầu Oakland Athelics chọn và ký hợp đồng năm đầu với số lương 430 ngàn Mỹ kim.

Nhưng sau một thời gian suy nghĩ, anh ta đã bỏ tất cả, tiền tài danh vọng, để đi học làm một thầy dòng và một linh mục.

 

80 bản đồ chứng tỏ Trường Sa-Hoàng Sa không thuộc Trung Quốc

80 bản đồ chứng tỏ Trường Sa-Hoàng Sa không thuộc Trung Quốc

Ông Thắng Trần, Chủ tịch Viện văn hóa & giáo dục Việt Nam (IVCE) tại New York
(Hoa Kỳ). Ảnh chụp ông Thắng với sách toàn đồ 1933 tại tiệm bán đồ cổ, New York
01.10.2012
Một người Việt ở Mỹ sưu tập 80 bản đồ Tây phương và 3 sách toàn đồ Trung Hoa cho thấy Trường Sa-Hoàng Sa không thuộc chủ quyền Trung Quốc.
Ông Thắng Trần, Chủ tịch Viện văn hóa & giáo dục Việt Nam (IVCE) tại New York (Hoa Kỳ) nói về bộ sưu tập của ông:
“80 bản đồ này có niên đại từ 1626 tới 1980 thể hiện rất rõ hai điều. Thứ nhất, miền Nam của Trung Quốc dừng lại ở đảo Hải Nam và không đi xuống xa hơn về phía Nam. Thứ hai, một số bản đồ Tây phương có chỉ đường hàng hải Bắc-Nam Châu Á, tất cả đường này đi ngang Hoàng Sa những năm 1800 và 1900 khi vùng biển và đảo ở Indochina do người Pháp quản lý. Sau hiệp định Geneva năm 1954, Pháp trao trả toàn vẹn lãnh thổ cho Việt Nam thì tất nhiên Hoàng Sa-Trường Sa nằm trong khu vực trao trả lại cho Việt Nam.”
Ông Thắng cho biết các bản đồ này do ông đích thân tới những nơi bán đồ cổ hoặc lên mạng mua về.
​​Ông Thắng Trần nói ông bắt đầu có ý định sưu tầm những chứng cứ lịch sử này kể  từ nghe tin Tiến sĩ Mai Hồng, nguyên Trưởng phòng tư liệu thư viện – Viện Hán Nôm, công bố tấm bản đồ Trung Quốc thực hiện dưới thời nhà Thanh xuất bản năm  1904 ghi rõ cực nam Trung Quốc là đảo Hải Nam, không bao gồm Hoàng Sa-Trường Sa.
Tấm bản đồ của Tiến sĩ Hồng đã được giao lại cho Bảo tàng Lịch sử Quốc gia bảo
quản và trưng bày hồi cuối tháng 7 vừa qua.
Ông Thắng Trần đã quyết định gửi tặng toàn bộ 80 bản đồ ông sưu tập được cho
Viện phát triển Xã Hội Ðà Nẵng.
Tiến Sĩ Trần Ðức Anh Sơn, Viện Phó Viện phát triển Xã Hội Ðà Nẵng, người đang
phụ trách công tác nghiên cứu về Hoàng Sa – Trường Sa, phát biểu:
“Những phát hiện này của anh Trần Thắng rất quý bởi vì đã giúp cho những
người nghiên cứu như chúng tôi có thêm cơ sở khoa học, chứng lý để có thể góp
phần chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa-Trường Sa và bác bỏ
những đòi hỏi vô lý của Trung Quốc về chủ quyền đối với hai quần đảo này.”
Toàn bộ hình ảnh về bộ sưu tập này được chủ nhân lưu lại tại trang web của Viện Văn hóa và Giáo dục Việt Nam ở địa chỉ ivce.org.

THIÊN THẦN BẢN MỆNH

THIÊN THẦN BẢN MỆNH

LỄ NHỚ NGÀY 02/10

Tác giả: Lương Văn Liêm

nguồn: Thanhlinh.net

 

Theo niên lịch phụng vụ, ngày 02 tháng 10, Giáo Hội mời gọi con cái mình kính nhớ đến các Thiên Thần Bản Mệnh. Trước là để ta dâng lên Thiên Chúa lời cảm tạ tri ân vì Ngài đã ban tặng cho ta những người bạn tuyệt vời, luôn ở kề bên để chăm sóc, gìn giữ, nhắc nhở và bảo vệ ta trên bước đường lữ thứ, kế đến là nhắc nhở ta luôn biết cám ơn các Thiên Thần Bản Mệnh, tâm sự với các ngài, xin các ngài cầu thay nguyện giúp và nhất là ta xin các ngài hướng dẫn ta sống sao cho đẹp lòng Chúa, gìn giữ ta khỏi những mưu mô, chước độc của satan.

Các Thiên Thần Bản Mệnh là ai? Các Ngài có ảnh hưởng gì đến đời sống tâm linh cũng như thể chất của ta? Các ngài song hành và ở bên ta dưới hình thức nào…? Quả thật, đây là những câu hỏi mà gần như ít người quan tâm, bận tâm và tìm hiểu! Ngay như vị thánh Bổn Mạng là vị thánh mà cha mẹ ta chọn cho ta khi ta được chịu phép Rửa Tội, ấy thế mà
nhiều khi ta chẳng nhớ, chẳng biết và không mấy quan tâm!

Phải chăng hình ảnh và sự hiện diện của các Thiên Thần Bản Mệnh chỉ là hư cấu, thêu dệt cho thêm phong phú trong quá trình giữ đạo và sống đạo của người Kitô hữu? Phải chăng các Thiên Thần Bản Mệnh được Thiên Chúa sinh dựng để ngày đêm túc trực bên Thánh Nhan Chúa, luôn dâng lời ca tiếng hát chúc tụng, ngợi khen Thiên Chúa, và tô điểm cho ngai tòa Thiên Chúa? Xin thưa, không phải thế, giờ ta cùng tìm hiểu về hình ảnh, nhiệm
vụ của các Thiên Thần Bản Mệnh trước thánh nhan Thiên Chúa và nhất là trong  cuộc sống lữ hành của ta. Để rồi trong từng ngày sống, ta cảm nhận ra tình yêu của Thiên Chúa dành cho ta lớn lao biết là dường nào qua sự đồng hành của các Thiên Thần Bản Mệnh. Từ đó, ta luôn hướng về các ngài, xin các ngài giúp đỡ, xin các ngài cầu thay nguyện giúp cho ta.

Sách giáo lý Công Giáo dạy ta: “Các thiên thần là những thụ tạo thiêng liêng, không có thân xác, vô hình và bất tử; đó là những hữu thể có ngôi vị, có lý trí và ý chí. Họ không ngừng chiêm ngắm Thiên Chúa diện đối diện và tôn vinh Thiên Chúa; các ngài phục vụ Thiên Chúa và là những sứ giả của Ngài để thực hiện sứ vụ cứu độ loài người. (x. sách GLCG 350). Thánh Basiliô cả xác tín  rằng “Bên cạnh mỗi tín hữu đều có một thiên thần như đấng bảo trợ và mục tử, hướng dẫn họ đến sự sống”. Trong Kinh Thánh rất nhiều chỗ tường thuật lại việc các Thiên Thần Bản Mệnh thực hiện mệnh lệnh của Thiên Chúa để bảo vệ, nâng đỡ , dẫn dắt con người nhân loại.

  • Trình thuật của sách Sáng Thế, sau khi con người đầu  tiên là A-đam và E-va phạm lỗi vì nghe theo lời đường mật của satan. Đức  Chúa đã cắt đặt các thần hộ giá canh giữ đường đến cây trường sinh (x.  St.3, 1-24);
  • Sách Xuất Hành Đức Chúa phán với  ông Mô-sê: “ Này  Ta sai Thiên Sứ đi trước ngươi, để gìn giữ ngươi khi đi đường, và đưa  ngươi vào nơi Ta dọn sẵn. Trước mặt người, ngươi hãy ý tứ và nghe lời  người…” (Xh.23,20-21).
  • Sách các Vua quyển 1 trình thuật việc Thiên Sứ đến an  ủi, tiếp tế lương thực cho ngôn sứ Ê-li-a trên đường ông lên núi  Khô-rếp(x.1V.19,1-8)
  • Sách Tô-bi-a trình thuật việc Chúa Sai thiên sứ  Ra-Pha-en đến để đồng hành, dẫn đường cho Tô-bi-a và việc chữa lành cho  thân phụ của Tô-bi-a là ông Tô-bít (x.Tb.5,1-23;11,1-19).
  • Thánh Vịnh 90 trình thuật lại lời xác tín sự hiện diện  của các Thiên Thần Bản Mệnh thực hiện mệnh lệnh của Thiên Chúa bảo vệ con  cái của Ngài: “ Bạn sẽ không gặp điều ác hại , và tai ương không bén bảng tới  nhà. Bởi chưng Thiên Chúa truyền cho thiên sứ giữ gìn bạn trên khắp nẻo  đường, và thiên sứ sẽ tay đỡ, tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá” (x.Tv.90,1-16).
  • Thánh Phao-lô trong thư gửi cho giáo đoàn Do-thái đã  viết về các Thiên Thần: “Nào tất cả các vị đó không phải là những bậc  thiêng liêng chuyên lo phụng thờ Chúa, được sai đi phục vụ để mưu ích cho những kẻ được thừa hưởng ơn cứu độ sao?”(Dt.1,14).
  • Sách Tin Mừng trình thuật rất nhiều về sự hiện diện của  các Thiên Thần (Sứ thần) của Thiên Chúa: Sứ thần truyền tin cho Đức Maria,  ông Dia-ca-ri-a (x.Lc.1,538); Sứ thần truyền tin cho Thánh Cả Giuse  (xMt.1,18-25;2,13-23); Đạo binh các thiên thần hát vang trong đêm Đức Kitô  giáng sinh(x.Lc.2,1-20); Sứ thần loan báo tin vui Phục Sinh (x.Mt.25,1-8);  Sứ Thần giải thích cho các thánh Tông Đồ về sự kiện Đức Giêsu về Trời
    (x.Cv.1,9-11). Đặc biệt là lời dạy dỗ, nhắc nhở của Đức Giêsu về hình ảnh  và vai trò của các Thiên Thần: “ Anh em hãy coi chừng, chớ khinh một ai  trong những kẻ bé mọn này, quả thật, Thầy nói cho anh em biết: các thiên  thần của họ ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng nhan Cha Thầy, Đấng ngự  trên trời” (Mt.18,10).
  • Giáo Hội xác tín sự hiện diện, nâng đỡ của các Thiên  Thần Bản Mệnh qua lời nguyện nhập lễ kính nhớ các ngài: “ Lạy Chúa! Chúa  sai các Thiên Thần đến gìn giữ chúng con. Xin ban cho chúng con đời này  được các Ngài luôn bênh vực che chở, và đời sau được cùng các Ngài hưởng phúc vinh quang”.

Vâng! Theo ý muốn và tình thương của Thiên Chúa, Ngài đã tác dựng các Thiên Thần, để các ngài trở thành cánh tay nối dài của Thiên Chúa trong việc săn sóc, đồng hành, gìn giữ, nhắc nhở và che chở ta khỏi mưu chước của quyền lực sự dữ, các thiên Thần Bản Mệnh hằng cầu nguyện cho ta trước thánh nhan Chúa, ghi chép tất cả những công việc, tư tưởng, ước
muốn của ta mà dâng lên cho Thiên Chúa.

Mẹ Maria đã mạc khải cho một vị thánh về vai trò của các Thiên Thần bản Mệnh của mỗi người khi họ tham dự thánh lễ. Mẹ phán: “ Khi các con đến tham dự thánh lễ, đến phần vị chủ tế chuẩn bị dâng của lễ. Các con có biết, Thiên Thần Bản Mệnh của các con sẽ thay các con tiến về phía bàn thờ, trên đôi tay của các ngài là những tâm tư, ước nguyện mà các con muốn tiến dâng lên cho Thiên Chúa khi tham dự thánh lễ, cũng có những Thiên Thần tiến lên bàn thánh, nhưng trên tay của các ngài không có chút của lễ nào vì người tham dự thánh lễ không ý thức và đến tham dự thánh lễ một cách máy móc, chia trí, lo ra… Thiên Thần Bản Mệnh của những người tham dự thánh lễ như thế rất buồn và liên lỉ cầu nguyện cho họ” ( trích Mẹ Maria mạc khải thánh lễ).

Có thể nói, rất nhiều người không biết, không hiểu và lãng quên sự hiện diện của các Thiên Thần Bản Mệnh. Các ngài chính là ân sủng, là quà tặng mà Thiên Chúa ban nhưng không cho ta trên bước đường lữ hành. Sự hiện diện của các ngài là dấu chỉ Thiên Chúa luôn ở cùng và ở với ta trong từng ngày sống. Các Thiên Thần luôn hướng dẫn ta trong đời
sống đạo, luôn bênh đỡ ta và gìn giữ ta, nhắc nhở ta mỗi khi ta phạm lỗi bằng tiếng nói của lương tâm. Thế nhưng, nhiều khi ta không nhận ra tiếng nói lương tâm thôi thúc, nhắc nhở ta là tiếng nói của các Thiên Thần Bản Mệnh. Nhiều lần ta thoát khỏi những tai nạn, tai ương trên bước đường, ta không nhận ra chính các Thiên Thần đã bảo vệ, cầu nguyện cho ta, đem lại cho ta sự bình an…!

Nhiệm vụ của Thiên Thần Bản Mệnh là thực hiện mọi công việc mà Thiên Chúa giao phó cho các ngài, dẫu trong đời sống ta thường xuyên vô ơn, lãng quên các ngài, nhưng các ngài không hề bỏ rơi ta hằng ở luôn bên ta, âm thầm bảo vệ, gìn giữ và nhắc nhở ta sống và đi theo đường ngay nẻo chính, giúp ta thực hiện những việc lành phúc đức, hướng dẫn ta
và dắt ta về với Thiên Chúa là Cha luôn yêu thương con cái mình. Ta hãy nghe lời của Thiên Thần nói với ông Tô-bít và Tô-bi-a khi các ông được người dẫn đường nói cho biết sự thật ngài là Ra-pha-en một trong bảy thiên sứ hằng hầu cận và vào chầu trước nhan vinh hiển Chúa, các ông đã hoảng sợ, nhưng sứ thần nói tiếp: “Đừng sợ! Bình an cho các người! Hãy chúc tụng Thiên chúa đến muôn đời! Phần tôi, tôi đã ở với các ngươi không phải do lòng tốt của tôi, mà do do ý muốn của Thiên Chúa….”(x.Tb. 121-22).

Theo dòng lịch sử của Giáo Hội, có rất nhiều câu chuyện kể về những ơn lành và sự đồng hành của các Thiên thần Bản Mệnh. Xin mượn câu chuyện sau để kết thúc đôi dòng suy tư về các Thiên Thần Bản Mệnh

Tại một xứ đạo vùng sâu, vùng xa ở nước Pháp, vào một đêm khi cha sở họ đạo chuẩn bị lên giường nghỉ, bỗng có tiếng gõ cửa và tiếng kêu cứu xin cha sở tới xức dầu cho một bệnh nhân đang trong cơn nguy tử. Trời khuya, muốn tới nhà bệnh nhân, cha sở phải băng qua khu rừng vắng. Với trách nhiệm và bổn phận, cha sở chuẩn bị tư trang để lên đường.
Khi tới đầu khu rừng vắng, với một thân một mình, bỗng trong tâm trí ngài cảm thấy sợ, lúc bấy giờ ngài nhớ tới Thiên Thần Bản Mệnh, ngài cầu nguyện và xin Thiên Thần đi cùng. Ngài đã đến kịp thời ban các phép và cầu nguyện cho bệnh nhân trước khi bệnh nhân trút hơi thở cuối cùng.

Thời gian trôi qua khoảng 10 năm.Vào một buổi chiều người ta đến báo cho ngài có một một người rất muốn gặp Cha, người đó là một tử tù sắp bị hành quyết. Ngài vội lên đường. Khi đến nơi, người tử tù nói:

  • Thưa Cha! Cha có phải là cha sở họ đạo X? Vị mục tử gật đầu và hỏi:
  • Sao anh biết tôi? Người tử tù kể lại
  • Thưa Cha! Cha có nhớ vào một buổi tối cách đây 10 năm,  tại khu rừng vắng, vào thời điểm đó, con đang là một tên cướp của, giết  người đang bị truy nã. Con dự tính sẽ cướp và giết bất cứ ai con gặp. Và  rồi con thấy cha, nhưng thật là xúi quẩy cho con, vì cha không đi một mình, con thấy người đi cùng với cha rất đẹp và rất cao to, con chợt nghĩ
    đây không phải là đối thủ của mình nên đành dậm chân, lui gót xa rời con mồi mà mình đã và đang chờ đợi. Rồi anh kể tiếp:
  • Thưa Cha! Con là người có đạo, nhưng con đã sống bê tha  và trở thành kẻ cướp của giết người, giờ đây con đáng bị người đời trừng  trị, xin cha cho con biết người thanh niên đi cùng cha là ai, vì con thấy  dung mạo của anh ta rất khác thường, hiền lành nhưng uy nghi làm con sợ.  Sững lại ít giây, vị mục tử liền trả lời:
  • Chàng thanh niên đó là Thiên Thần Bản Mệnh. Người tử tù nghe thế liền khóc và xin vị mục tử cho anh xưng tội và chịu các phép sau cùng.

Lạy Chúa! Xin cho con luôn biết kính trọng, yêu mến và cậy trông vào sự che chở của các Thiên Thần Bản Mệnh là những người bạn mà Chúa đã quan phòng ban tặng cho con trên bước đường về quê trời. Xin giúp con luôn biết lắng nghe những lời nhắc nhở của các ngài qua tiếng nói lương tâm, để nhờ ơn Chúa giúp và sự đồng hành của các Thiên Thần Bản Mệnh mà con luôn sống trong bình an và sống đẹp lòng Chúa bây giờ và mãi mãi.Amen

Sài Gòn, ngày 22/09/2012

Antôn Lương Văn Liêm