thôi!!!
‘hưởng thọ’. Vậy sau tuổi 60 mỗi ngày ta sống là một “bonus”, phần thưởng của Trời cho.
Sai lầm lớn nhất của đời người là đánh mất mình.
Phá sản lớn nhất của đời người là tuyệt vọng…
đánh cờ, chơi bài (không phải ăn thua).
LẠC LÕNG,
Nguồn vui đã mất tự lâu rồi,
O về bên nớ bỏ mình tôi,
Nỗi buồn man mác theo dòng nước,
Biết đến bao giờ sẽ ngừng trôi…
Sông Hương núi Ngự vẫn còn đây,
Thiên Mụ hồi chuông thức tim này,
Con đò viễn xứ chưa về bến,
Khắc khoải lòng nhau nỗi đắng cay…
Tràng Tiền nối nhịp tim ai đã,
Chẳng nối hộ tôi mối tình xa,
Một mình lần bước trong đêm tối,
Mơ cuối đường hoang một mái nhà…
O có về thăm tôi tối nay,
Trăng đêm ủ rũ khuất vầng mây,
Che cả tim yêu niềm thổn thức,
Hồn mãi mộng mơ trọn kiếp này !!!
Liverpool.7/10/2012.
Song Như.
MÙA THU TRONG EM…
Em đến thăm tôi một sáng buồn,
Mùa thu vàng lá giọt mưa tuôn,
Mắt em là cả trời thơ mộng,
Ấp ủ dòng thơ tận cõi nguồn…
Từ lúc chia tay càng xa mãi,
Nhớ nhau ngồi đếm những tàn phai,
Thấy em trong cuối trời phiêu lãng,
Hồn mãi cưu mang sẽ có ngày…
Thu qua mấy độ thu lại về,
Em còn xa khuất tận bến mê,
Nhớ dong thuyền cũ về thăm nhé,
Đừng để tim anh lắm ê chề…
Sầu thu man mác ánh thu khơi,
Đếm những dòng trôi ngẫm sự đời,
Rừng bao nhiêu lá anh thầm đếm,
Gởi bấy nhiêu thương đến cho người…
Liverpool.8/10/2012.
Song Như.
TÊRÊSA HÀI ĐỒNG GIÊSU VÀ LÒNG XÓT THƯƠNG
Lm. Giuse Trần Đình Long
Dòng Thánh Thể
Lễ an táng chị Têrêsa Hài Đồng Giêsu, một nữ tu Dòng Kín từ giã cõi đời lúc vừa tròn 24 cái xuân xanh, được cử hành tại nghĩa trang thành phố Lisieux ngày 4/10/1897. Đó là một
đám táng rất đơn sơ, lèo tèo vài vị giáo sĩ, một nhóm bà con bạn hữu và mấy chị Dòng Kín bậc hai. Tất cả chỉ có thế ! Cuộc sống của chị đơn sơ tầm thường quá, tới nỗi có chị đã nói : “Không biết mai đây Têrêsa chết đi, chúng ta sẽ viết tiểu sử giới thiệu ra sao đây ?”. Con đường nên thánh của chị giản dị quá. Nụ cười của chị hồn nhiên qua. Lời nói của chị tình cảm quá, tới nỗi khi cuốn sách “Một Tâm Hồn” được gởi tới những vị có uy tín trong Giáo Hội, một vị đã đọc với một vẻ hoài nghi lạnh nhạt : “Chà, Thánh đâu như hoa lề đường, sao mà dễ thế ! Chuyện gì phải qua rồi cũng sẽ qua !”.
Nhưng các vị đó đã lầm. Bông hoa lề đường đó đã tỏa hương thơm ngào ngạt khắp thế giới. Ngọn gió Thánh Linh thổi nhè nhẹ nhưng đã làm rung chuyển thế kỷ 20. Thánh nữ là sứ
điệp của Thiên Chúa, là lời sống động của Thiên Chúa. Chị đã khám phá ra một con đường nên Thánh mới lạ, rất ngắn, rất dễ, ai cũng có thể đi để tới Thiên Chúa.
Tuyên dương đời sống của thánh nữ, giáo hội ca ngợi giáo thuyết của chị và đã công nhận con đường thơ ấu thiêng liêng rất phù hợp với tinh thần Phúc Âm. Đường thơ ấu thiêng liêng là một bí quyết nên thánh cho mọi tín hữu khắp hoàn cầu. Nếu đường thiêng liêng này được phổ biến, chúng ta sẽ thấy việc canh tân xã hội và giáo hội được thực hiện. Thiên Chúa đã muốn làm tăng giá trị cho Têrêsa bằng một hồng ân khôn ngoan rất đặc biệt. Đức Piô XII đã mạnh bạo đặt sứ mệnh quan trọng của thánh nữ ngang với sứ mệnh của các vị tiến sĩ trong Giáo Hội.
Thánh nữ thành Lisieux đã tìm ra một con đường rất thẳng, rất ngắn, rất mới lạ, lại đơn giản dễ dàng. Đức Piô XI khẳng định : “Chị Dòng Kín khiêm nhượng đã đem cho thế giới một sứ điệp mới. Đường thơ ấu thiêng liêng đã mở ra trong giáo hội một giai đoạn mới, khiến việc nên thánh trở nên dễ dàng với mọi người.”
Tình yêu là tâm điểm, là nguyên tắc, là tận cùng của con đường thơ ấu thiêng liêng. Têrêsa nói : “Với TÌNH YÊU không những tôi CHẠY mà còn BAY”.Châm ngôn sống của thánh nữ là TÌNH YÊU. Yêu Chúa, yêu người với tất cả tấm lòng khiêm cung nhỏ bé như trẻ thơ tin
yêu phó thác vào cha mẹ.
Tinh thần Têrêsa quy tụ phần tinh túy nhất của Tin Mừng. Chúng ta thuộc về một gia đình siêu nhiên liên kết thành huyền thể Chúa Kitô và lan tràn vô biên. Chúng ta có Thiên
Chúa là Cha, Đức Trinh Nữ Maria là mẹ, và tất cả các thánh trên trời dưới đất là anh chị em trong Chúa Kitô.
Têrêsa không có những việc hãm xác kỳ lạ. Mẹ Agnès làm chứng : Tôi thấy Têrêsa càng về cuối đời, càng cố sống hãm mình cách hoàn toàn đơn sơ và mực độ. Chị thường nói với tôi rằng : “Ma quỷ hay đánh lừa những linh hồn quảng đại nhưng thiếu khôn ngoan bằng cách
thúc đẩy họ vào những hy sinh thái quá, vừa làm hại sức khỏe, vừa khiến họ không thể chu toàn bổn phận được, đồng thời lại muốn lấy đó làm tự mãn.Chỉ với những việc làm hèn mọn vô tên tuổi, nhưng lại trung thành lãnh nhận, linh hồn sẽ đạt tới đức yêu mến tinh tuyền là sự bỏ mình hoàn toàn cách mau chóng hơn.”
Giáo hội bảo đảm chắc chắn rằng lối khổ hạnh mới mẻ gồm những việc nhỏ mọn này là con đường nên thánh đích thực không kém đường lối khổ hạnh phi thường.
Cách cầu nguyện của Têrêsa rất đơn giản : “Tôi ở như đứa trẻ không biết chữ. Tôi cứ đơn sơ thật thà trần tình với Chúa những điều tôi muốn nói và bao giờ tôi cũng được Chúa
cảm thông.”
Têrêsa không có những hoạt động hiển hách : “Các chị đừng tưởng phải làm những việc lớn lao mới nên trọn lành được. Chúa Giêsu không cần đến những công trình hiển hách, hay những tư tưởng quảng bác của chúng ta. Nếu Ngài muốn những quan niệm cao siêu, Ngài
đã chẳng có các Thiên Thần thông biết trổi vượt các bậc kỳ tài trần gian ư ? Vậy Chúa không đến trần gian để tìm kẻ thần thông hay các bậc thiên tài, nhưng để yêu dấu sự đơn sơ chân thành.”
Chân lý sáng ngời nhất trong quan niệm của Têrêsa về thế gian cũng như trong cái nhìn Kitô giáo về vũ trụ là :TÌNH CHA của Thiên Chúa đối với chúng ta.
Sở dĩ tín điệp Têrêsa có sức mạnh chinh phục là vì nó biết tìm lại chân lý căn bản của Kitô
giáo. Êm dịu biết bao khi gọi Thiên Chúa là Cha và trở nên con của Ngài. Thánh nữ chỉ nhìn thấy sự dịu hiền vô tận và lòng nhân từ thương xót của Cha trên trời chiếu giãi trong ánh sáng của Thánh Linh, đơn sơ, nhưng sâu sắc.
Quả thật tình yêu là căn nguyên mọi hoạt động của Thiên Chúa trên các vật thụ tạo. Têrêsa dễ nhận ra rằng :Lòng thương xótlà nguyên nhân công việc cứu chuộc của Chúa Kitô
và tất cả chương trình quan phòng của Thiên Chúa.
“Không phải vì đã được gìn giữ khỏi phạm tội trọng mà tôi phó thác yêu mến tiến về Chúa. Cả khi tôi cảm thấy lương tâm bị đè nặng bởi những tội có thể phạm, tôi cũng dám nức lòng phó thác, và với tâm hồn thống hối tôi gieo mình vào vòng tay cứu chuộc… Tôi biết rằng chỉ trong nháy mắt, mọi xúc phạm sẽ tiêu tan như giọt lệ rơi trong than hồng.”
Không bao giờ Têrêsa tỏ vẻ buồn bực khó chịu đối với những chị em đến làm phiền mình. Trong giờ giải trí chị đem hứng thú cho mọi người. Cuối đời chị, lúc bệnh nặng, một hôm Têrêsa viết nhật ký ở ngoài vườn, mấy chị em quấy rầy chị luôn. Mỗi lần, thay vì bực bội hay là xin chị em để mình thư thái, Têrêsa êm đềm đặt bút xuống và gấp tập lại với nụ cười tươi nở trên môi. Chị tự nhủ : “Em đang viết về đức bác ái huynh đệ thì đây là lúc thực hành… Thực hành bác ái huynh đệ bao nhiêu là yêu Chúa bấy nhiêu.”
Bác ái chân chính là biết chịu đựng lỗi lầm của bạn hữu, không ngạc nhiên khi thấy họ yếu
đuối.
Thánh Têrêsa đã khám phá một chân lý mới trong Tin Mừng, mà chính Chúa Giêsu đã nhấn mạnh rất nhiều là : “Trung thành trong điều rất nhỏ mọn”. Bổn phận dù hèn kém, dù tầm thường đến đâu cũng hợp với nền luân lý hoàn hảo nhất.
Sự thánh thiện trước hết là biết thánh hóa đời sống hàng ngày. Phải có một lòng trung thành tuyệt đối và tươi vui với bổn phận trong khung cảnh rất giản dị của đời sống
tầm thường, nơi mà Chúa nhân hậu đã đặt ta vào dưới sự thúc đẩy bền bỉ và mạnh
mẽ của TÌNH YÊU.
Trong cuộc sống âm thầm nơi tu viện, chính khi thực hành những phận sự hèn mọn nhất, tương tự như công việc tầm thường hàng ngày của ta, mà chị Têrêsa Hài Đồng đã trở nên vị
đại thánh đáng kính mến.
Têrêsa sống như trẻ thơ. Trẻ nhỏ đã ý thức được sự yếu hèn của mình, nó cảm thấy mình nghèo khổ thiếu thốn mọi sự và hoàn toàn lệ thuộc : “Ở như trẻ nhỏ tức là biết sự hư vô
của mình, chờ mong mọi sự nơi Chúa từ bi như trẻ con chờ mong cha mình, tức là không lo lắng gì, không tìm kiếm gì…Ta càng khiêm nhường nhận biết mình yếu đuối và khốn nạn, Thiên Chúa từ nhân càng ghé mình đến ta để đổ ơn thánh cho ta dồi dào hơn…Nơi những linh hồn thật khiêm nhường, tình yêu không có gì cản trở, ngay cả những lỗi lầm cũng giúp họ nâng mình gần Chúa hơn.”
Không bao giờ chị Têrêsa Hài Đồng xin cho mình một chút an vui. Chị chấp nhận tất cả từ tay Chúa với một niềm tin yêu phó thác : “Bây giờ tôi không ước ao điều gì nữa nếu điều
đó không làm cho tôi mến Chúa Giêsu đến điên rồ. Chính tình yêu lôi cuốn tôi…Tôi không biết xin gì nữa ngoài việc chu toàn ý Chúa… Chỉ có một điều tôi ao ước, đó là Ý CHÚA…Tôi đã phó thác dù sống hay chết.”
Phó thác đích thực là chỉ tìm ý Chúa. Thánh nữ đã thú nhận phải mất lâu ngày mới đạt tới bậc phó thác đó : “Tôi phải qua nhiều thác ghềnh trước khi đến dòng sông bình an, trước khi đến quả ngon ngọt của việc phó thác hoàn toàn, và của tình yêu hoàn hảo.”
Sau này Mẹ Agnès đã thú nhận rằng : “Không bao giờ tôi có thể đoán được rằng một ngày kia có thể có vấn đề phong thánh cho một chị dòng sống như mọi người thường. Và người ta
thấy chị nhà bếp phân vân không biết nhà dòng sẽ có thể lấy gì mà kê lên bảng thông cáo khi chị Têrêsa qua đời, vì họ chỉ đoán chị là một nữ tu tốt lành.”
Để đạt tới tuyệt đỉnh thánh thiện, không cần làm phép lạ hay ngất trí, không cần phải hoàn tất những công việc phi thường, nhưng chỉ cần mỗi ngày biết chấp nhận bổn phận Chúa
đã ủy thác và hoàn tất với tâm tình yêu mến là đủ. Cách nên Thánh theo Têrêsa là một nếp sống thường ngày hết sức đơn sơ mà được thánh hóa bởi tình yêu.
Chúa muốn dẫn chúng ta tới tột đỉnh thánh thiện, chỉ cần bỏ mình để vâng theo những kế hoạch do lòng nhân từ và thương yêu của Chúa với tâm tình hiếu thảo, cậy trông như
một trẻ thơ. Việc nên thánh ở tại tâm hồn đơn sơ khiêm nhường, ý thức sự yếu hèn của mình mà bạo dạn phó thác cho lòng nhân từ và thương xót của Chúa.
Việc giáo hội phê nhận đường thơ ấu thiêng liêng của chị thánh Têrêsa mời gọi ta mở rộng quan niệm về việc nên thánh. Thánh nhân không chỉ là một người bằng khổ hạnh ăn chay
hãm mình hay đánh tội đến chảy máu, làm cho mọi người phải kinh ngạc. Nhưng thánh
nhân còn là người khiêm tốn, đơn sơ, thuận theo ý Chúa, tín thác hoàn toàn vào lòng thương xót của Chúa, âm thầm chu toàn bổn phận rất nhỏ nhặt hằng ngày của mình trước những con mắt hằn học và khinh khi của người đời.
Đây là lúc để cùng Mẹ Maria, cùng hai thánh nữ Têrêsa và Faustina, chúng ta trở về với con đường nên thánh trong tin yêu phó thác vào lòng thương xót của Chúa. Hãy làm mọi việc, dù là những việc nhỏ nhặt tầm thường nhất, trong tình yêu, theo cách Con Một Chúa đã làm. Vì sứ điệp của Têrêsa trước hết là sứ điệp của TÌNH YÊU: “Ơn gọi của con là trở nên tình yêu.Trong trái tim giáo hội, Mẹ yêu dấu, con sẽ là tình yêu. Như thế con sẽ là tất cả!”
“Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa”
nguồn: Maria Thanh Mai gởi
Con Chỉ Là Tạo Vật – Mai Thiên Vân
httpv://www.youtube.com/watch?v=Nncu9wpYQhg&feature=relmfu
Chuyện người đàn bà 2000 năm trước.
Thánh Margaret Mary được Chúa chọn để dấy động trong Giáo Hội một nhận thức về tình yêu Thiên Chúa được biểu tượng qua trái tim Chúa Giêsu.
Ngài sinh trưởng ở L’Hautecour, Burgundy, nước Pháp. Sau khi cha chết vào lúc tám tuổi, ngài được gửi vào trường Nữ Tu Thánh Clara Khó Nghèo ở Charolles. Ngài phải nằm liệt giường vì bệnh thấp khớp cho đến năm mười lăm tuổi, và lúc ấy ngài đã có lòng sùng kính Thánh Thể đặc biệt.
Ngài từ chối việc lập gia đình và gia nhập dòng Thăm Viếng ở Paray-le-Monial và khấn trọn vào năm tiếp đó. Một nữ tu dòng Thăm Viếng “không cần phải trở nên phi thường,” nhưng người nữ tu trẻ tuổi này thật khác lạ. Một chị đệ tử
sinh (thích chỉ trích) cũng phải công nhận Margaret là người khiêm tốn, đơn sơ và thành thật, nhưng trên tất cả Margaret hiền lành và kiên nhẫn khi bị sửa sai và chỉ trích.
Khi hai mươi tuổi, ngài được thị kiến Ðức Kitô, và từ ngày 27 tháng Mười Hai 1673, cho đến một năm rưỡi sau đó, ngài nhận được một chuỗi những thụ khải.
Qua đó, Ðức Kitô cho biết thánh nữ được chọn là khí cụ của Người để lan truyền việc sùng kính Thánh Tâm Chúa, và qua tình yêu của chính mình,
thánh nữ sẽ đền bù cho sự lạnh nhạt và vô ơn của thế gian — qua sự thường xuyên và quý trọng việc Rước Lễ, nhất là trong các thứ Sáu đầu tháng, và qua một giờ cầu nguyện mỗi tối thứ Năm để tưởng nhớ sự thống khổ và cô đơn của Chúa khi trong vườn Cây Dầu. Chúa cũng yêu cầu thiết lập một ngày lễ để kính Thánh Tâm Chúa.
Như tất cả các thánh khác, Margaret đã phải trả giá cho sự thánh thiện của
mình. Một số các sơ trong dòng chống đối ra mặt. Các thần học gia được triệu tập để tuyên bố những gì ngài được thụ khải chỉ là ảo tưởng và họ đề nghị ngài ăn uống điều độ hơn. Sau này một cha giải tội của nhà dòng, Chân Phước Claude de la Colombiere, dòng Tên, nhận ra giá trị thực của điều thụ khải và đã hỗ trợ ngài. Bất kể sự chống đối mãnh liệt, Ðức Kitô kêu gọi ngài hãy hy sinh để đền bù cho những thiếu sót của các sơ trong dòng, và để sứ điệp của Chúa được lan rộng.
Cho đến năm 1683, sự chống đối chấm dứt khi Mẹ Melin được chọn làm Bề Trên và bổ nhiệm Sơ Margaret Mary làm phụ tá. Sau này sơ làm Giám Ðốc Ðệ Tử Viện, và được mục kích lễ Thánh Tâm Chúa được nhà dòng cử mừng một cách riêng tư vào năm 1686, và hai năm sau, một nhà nguyện được xây cất ở
Paray-le-Monial để kính Thánh Tâm Chúa.
Sơ Margaret Mary từ trần ngày 17-10 và được phong thánh năm 1920. Chính
ngài cũng như Thánh Gioan Eudes và Chân Phước Claude La Colombiere được gọi là “Các Thánh của Thánh Tâm”; bảy mươi lăm năm sau, năm 1765, việc sùng kính Thánh Tâm được chính thức công nhận và được chấp thuận bởi Ðức Giáo Hoàng Clêmentê XIII.
Lời Bàn
Thời đại vật chất-khoa học của chúng ta không thể “chứng minh” những thụ
khải riêng tư. Các thần học gia, nếu bị ép buộc, cũng xác nhận là chúng ta không phải tin vào điều thụ khải. Nhưng không thể khước từ sứ điệp mà Thánh Margaret Mary đã loan báo: Thiên Chúa yêu thương chúng ta với một tình yêu nồng nàn. Thánh nữ luôn nhấn mạnh đến việc đền bù qua sự cầu nguyện, và nhắc đến sự phán xét sau cùng. Những điều ấy đủ để xoá tan tính cách dị đoan và hời hợt của việc sùng kính Thánh Tâm trong khi vẫn duy trì được ý nghĩa sâu xa của Kitô Giáo.
Lời Trích
Ðức Kitô nói với Thánh Margaret Mary: “Ðây là Trái Tim đã quá yêu thế gian đến nỗi không còn giữ lại chút gì, cho đến khi kiệt quệ và héo hon, để chứng minh tình yêu của trái tim Thầy. Ðền đáp lại, Thầy chỉ nhận được sự vô ơn bạc nghĩa, qua sự bất kính và phạm thượng của chúng, và qua sự lạnh nhạt và khinh miệt của chúng trong bí tích tình yêu này… Thầy đến trong trái tim mà Thầy đã ban cho con để qua sự nhiệt thành của con, con sẽ đền bù cho những xúc phạm đến Thầy vì những tâm hồn thờ ơ và lười biếng đã làm ô danh Thầy trong Bí Tích Thánh Thể” (lần thụ khải thứ ba).
Maria Thanh Mai gởi
TỪ BÈ TAM ĐIỂM ĐẾN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO
Ngày 26-11-1929, sau trận chiến nội tâm ”tàn-khốc”, ông Einar Berrum quyết định gởi thư đến trụ sở hội tam điểm tại Na-Uy, xin rút tên ra khỏi hội.
Thư gửi đi, ông tức khắc tìm được niềm an bình hạnh phúc khôn tả! Cùng ngày đó, ông đến gặp Cha Sở nhà thờ chính tòa Công Giáo Oslo, thủ đô Na-Uy, xin gia nhập Giáo Hội Công Giáo .. Bốn năm sau, ông lấy giấy ghi lại cuộc trở về với Giáo Hội Công Giáo.
Con đường dẫn tôi đến với Giáo Hội là con đường bình thường. Có lẽ không bao giờ tôi viết lại, nếu không có người xin tôi viết. Và khi chấp nhận lời yêu cầu, cùng lúc tôi muốn bày tỏ lòng yêu mến và ghi ơn Giáo Hội Công Giáo, Mẹ chúng ta.
Tôi sinh năm 1872 tại Osolo và được may mắn lớn lên trong gia đình Kitô. Thân phụ tôi là tín hữu tin lành mộ đạo.
Sau khi mãn bậc tiểu học, tôi được cha mẹ gửi sang Anh quốc, bắt đầu bậc trung học đệ nhất cấp tại trường Thánh Olave ở thành phố York.
Đây là trường học tin lành. Dĩ nhiên người ta nói với chúng tôi về ông tổ tin lành Luther và trình bày cho chúng tôi biết tất cả thành kiến xấu về Giáo Hội Công Giáo và Vị Giáo Hoàng của Giáo Hội này! Chính trong bầu khí bài xích Giáo Hội Công Giáo mà tôi đi vào thế giới của tôn giáo và của văn chương khoa học.
Tôi không bao giờ quên Chúa Nhật đầu tiên tại thành phố York. Hôm ấy tôi bước vào nhà thờ mang tên Thánh Olave, vị thánh người Na-Uy. Đó là nhà thờ Anh giáo. Ban đầu tôi cứ ngỡ mình đang ở trong nhà thờ Công Giáo, vì lúc ấy, tôi chưa thạo tiếng Anh cho lắm..
Lần đầu tiên trong đời, tôi học biết quỳ gối. Và những nghi lễ trang trọng cùng với thánh ca có nhạc cụ đi kèm, nghe thật du dương và thật sốt sắng. Buổi phụng vụ Chúa Nhật ghi vào lòng tôi một ấn tượng tốt đẹp. Từ đó, tôi có thói quen đến nhà thờ này vào mỗi Chúa Nhật để tham dự các nghi lễ phụng vụ.. Sau này, khi trở lại Oslo, tôi cũng thường đến tham dự các buổi cử hành phụng vụ tại nhà thờ Anh giáo. Tôi đến đây không phải vì tâm tình mộ đạo cho bằng bị lôi cuốn bởi nét đẹp của các buổi cử hành. Thế thôi.
Sau khi mãn bậc trung học đệ nhất cấp tại Anh quốc, tôi trở về Na-Uy học tiếp. Đến năm 1908 – tôi 36 tuổi – xảy ra biến cố làm thay đổi cuộc đời. Thân phụ tôi giữ chức vụ cao trong hội tam điểm. Ông muốn các con trai ông phải ghi tên vào hội này. Ngày 24-4-1908, anh em tôi chính thức ghi tên gia nhập hội tam điểm.
Năm 1918, tôi thành hôn với thanh nữ Đan-Mạch sống tại thủ đô Copenhagen. Hiền thê tôi là tín hữu tin lành đạo đức và là phụ nữ trí thức. Nàng say mê văn chương và thích nghe bài giảng hay. Khi thành hôn với tôi, nàng về sinh sống tại tỉnh nhỏ ở Na-Uy. Chỉ có điều duy nhất nàng cảm thấy nhung nhớ, đó là những bài giảng hay trong các nhà thờ tin lành ở thủ đô Copenhagen.
Một Chúa Nhật mùa chay năm 1928, khi trở về nhà, nàng hớn hở nói với tôi nàng vừa tìm ra vị giảng thuyết thật hay, tại nhà thờ Công Giáo thánh nữ Brigitte. Tôi tỏ dấu tức giận và hờn dỗi, vì thấy vợ tự ý đi tìm nhà thờ Công Giáo, với vị giảng thuyết Công Giáo. Dầu vậy, từ đó, chúng tôi đều đặn đến nghe giảng tại nhà thờ này .. Tuy nhiên, hạnh phúc lứa đôi bắt đầu lung lay. Đôi khi chúng tôi còn cãi vả to tiếng với nhau nữa. Trong khi đó, vợ tôi mỗi ngày một đến gần Giáo Hội Công Giáo.
Ngày 2-12-1928, Chúa Nhật Mùa Vọng, sau khi bất bình với nhau về nhiều sự, vợ tôi vẫn cố gắng thuyết phục tôi đi lễ nơi nhà thờ Các Linh Mục dòng Đaminh tại Oslo. Tôi miễn cưỡng nghe lời vợ. Đến nơi, tôi chọn ngồi vào hàng ghế sau cùng. Nhưng thay vì cảm thấy khó chịu, tôi lại cảm thấy lòng thanh thản lạ thường. Vị Linh Mục chủ lễ và giảng hôm đó là
người Pháp. Vậy mà ngài nói rành tiếng Na-Uy, không thể chê được. Thêm vào đó, bài giảng thật hay. Tôi xúc động thật sự.
Năm sau, ngày 4-10-1929, vợ tôi chính thức gia nhập Giáo Hội Công Giáo. Cuộc chiến nội tâm của tôi còn kéo dài đến ngày 26-11 cùng năm. Sau đó tôi quyết định ra khỏi hội tam điểm và xin gia nhập Giáo Hội Công Giáo. Từ đó tôi tận hưởng niềm an bình hạnh phúc thật sự.
(”Stella Maris”, Octobre/1993, trang 30-31).
Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt
Maria Thanh Mai gởi
httpv://www.youtube.com/watch?v=pZSYOV2ASjk&feature=related
httpv://www.youtube.com/watch?v=4Rm-H9gm9r0&feature=related
Bữa cơm của Khổng Tử
Một lần Khổng Tử dẫn học trò đi du thuyết từ Lỗ sang Tề. Trong đám học trò đi với Khổng Tử có Nhan Hồi và Tử Lộ là 2 học trò yêu của Khổng Tử.
Trong thời Đông Chu, chiến tranh liên miên, các nước chư hầu loạn lạc, dân chúng phiêu bạt điêu linh, lầm than đói khổ. Thầy trò Khổng Tử cũng lâm vào cảnh rau cháo cầm hơi và
cũng có nhiều ngày phải nhịn đói, nhịn khát. Tuy vậy, không một ai kêu than, thoái chí; tất cả đều quyết tâm theo thầy đến cùng.
May mắn thay, ngày đầu tiên đến đất Tề, có một nhà hào phú từ lâu đã nghe danh Khổng Tử, nên đem biếu thầy trò một ít gạo. Khổng Tử liền phân công Tử Lộ dẫn các môn sinh vào rừng kiếm rau, còn Nhan Hồi đảm nhận việc thổi cơm.
Tại sao Khổng Tử lại giao cho Nhan Hồi – một đệ tử đạo cao đức trọng mà Khổng Tử đã đặt nhiều kỳ vọng nhất – phần việc nấu cơm? Bởi lẽ, trong hoàn cảnh đói kém, phân công cho
Nhan Hồi việc bếp núc là hợp lý nhất.
Sau khi Tử Lộ dẫn các môn sinh vào rừng kiếm rau, Nhan Hồi thổi cơm ở nhà bếp, Khổng Tử nằm đọc sách ở nhà trên, đối diện với nhà bếp, cách một cái sân nhỏ.
Đang đọc sách bỗng nghe một tiếng “cộp” từ nhà bếp vọng lên, Khổng Tử ngừng đọc, liếc mắt nhìn xuống thấy Nhan Hồi từ từ mở vung, lấy đũa xới cơm cho vào tay và nắm lại từng nắm nhỏ. Xong, Nhan Hồi đậy vung lại, liếc mắt nhìn chung quanh rồi từ từ đưa cơm
lên miệng.
Hành động của Nhan Hồi không lọt qua đôi mắt của vị thầy tôn kính. Khổng Tử thở dài… ngửa mặt lên trời mà than rằng:
“Chao ôi! Học trò nhất của ta mà lại đi ăn vụng thầy, vụng bạn, đốn mạt như
thế này ư? Chao ôi! Bao nhiêu kỳ vọng ta đặt vào nó thế là tan thành mây khói!”
Sau đó, Tử Lộ cùng các môn sinh khác mang rau về. Nhan Hồi lại luộc rau. Khổng Tử vẫn nằm im đau khổ.
Một lát sau rau chín. Nhan Hồi và Tử Lộ dọn cơm lên nhà trên: tất cả các môn sinh chắp tay mời Khổng Tử xơi cơm.
Khổng Tử ngồi dậy và nói rằng:
Các con ơi! Chúng ta đi từ đất Lỗ sang Tề đường xa vạn dặm, thầy rất mừng vì trong hoàn cảnh loạn lạc, dãi nắng dầm mưa, đói khổ như thế này mà các con vẫn giữ được tấm lòng trong sạch, các con vẫn yêu thương đùm bọc nhau, các con vẫn một dạ theo thầy, trải qua bao nhiêu chặng đường đói cơm, khát nước.
Hôm nay, ngày đầu tiên đến đất Tề, may mắn làm sao thầy trò ta lại có được bữa cơm.
Bữa cơm đầu tiên trên đất Tề làm thầy chạnh lòng nhớ đến quê hương nước Lỗ. Thầy nhớ đến cha mẹ thầy, cho nên thầy muốn xới một bát cơm để cúng cha mẹ thầy, các con bảo có nên chăng?”
Trừ Nhan Hồi đứng im, còn các môn sinh đều chắp tay thưa: “Dạ thưa thầy, nên ạ!” Khổng Tử lại nói: “Nhưng không biết nồi cơm này có sạch hay không?”
Tất cả học trò không rõ ý Khổng Tử muốn nói gì nên ngơ ngác nhìn nhau. Lúc bấy giờ Nhan Hồi liền chắp tay thưa:
“Dạ thưa thầy, nồi cơm này không được sạch.”
Khổng Tử hỏi: “Tại sao?”
Nhan Hồi thưa: “Khi cơm chín con mở vung ra xem thử cơm đã chín đều chưa, chẳng may một cơn gió tràn vào, bồ hóng và bụi trên nhà rơi xuống làm bẩn cả nồi cơm. Con đã nhanh tay đậy vung lại nhưng không kịp. Sau đó con liền xới lớp cơm bẩn ra định vất
đi nhưng lại nghĩ: cơm thì ít, anh em lại đông, nếu bỏ lớp cơm bẩn này thì vô hình chung làm mất một phần ăn, anh em hẳn phải ăn ít lại. Vì thế cho nên con đã mạn phép thầy và tất cả anh em, ăn trước phần cơm bẩn ấy, còn phần cơm sạch để dâng thầy và tất cả anh em.
Thưa thầy, như vậy là hôm nay con đã ăn cơm rồi. Bây giờ, con xin phép không ăn cơm nữa, con chỉ ăn phần rau. Và thưa thầy, nồi cơm đã ăn trước thì không nên cúng nữa ạ!”
Nghe Nhan Hồi nói xong, Khổng Tử ngửa mặt lên trời mà than rằng:
“ Thế ra trên đời này có những việc chính mắt mình trông thấy rành rành
mà vẫn không hiểu được đúng sự thật !. Chao ôi!. Suýt tí nữa là Khổng
Tử nầy trở thành kẻ hồ đồ rồi !.
Muốn hiểu biết tường tận một vấn đề gì, cần phải là người trong cuộc.
nguồn: Chị Nguyễn Kim Bằng gởi