50 năm thờ cúng tổ tiên

50 năm th cúng t tiên


Lm. Trăng Thập Tự Võ Tá Khánh

Với bầu khí hiệp thông với các đẳng linh hồn trong tháng 11, loạt bài bất ngờ được mang một tên mới: “50 năm thờ cúng Ông Bà” để nhấn mạnh hơn tới cuộc kỷ niệm “Plane compertum est” đang đến. Tuy nhiên, các bài chia sẻ vẫn tiếp tục được đánh số thứ tự nối theo loạt bài trước để việc loan báo Tin mừng cho Dòng họ và việc hội nhập Đạo Hiếu vào Tin mừng là một.

50 NĂM THỜ CÚNG ÔNG BÀ – Chia sẻ 27

CHUNG MỐI ĐỒNG CẢM

Sau khi đưa lên mạng bài chia sẻ số 16, tôi nhận được bài viết của tác giả Mạc Tường tựa đề “Như gấm thêm hoa”, trùng khít với những điều tôi đang viết. Do đó, đề tài chia sẻ này xin được dành để giới thiệu cùng quí độc giả suy tư của anh Mạc Tường.

NHƯ GẤM THÊM HOA

Thấm thoát đã gần nửa thế kỷ từ ngày Tòa Thánh chấp thuận cho giáo dân Việt Nam được thờ cúng ông bà, tổ tiên theo cung cách cổ truyền, miễn là đừng thực hiện những hành vi mang tính dị đoan. Giáo Hội Công giáo Việt Nam cũng đã cổ võ khuyến khích thực hiện việc thờ cúng ông bà tổ tiên theo tinh thần trên. Riêng Giáo Phận Quy Nhơn, gần đây các bài giáo huấn số 32 và 34 của lịch phụng vụ năm C được rao đọc trước các thánh lễ Chúa Nhật đã nhấn mạnh tính quan trọng và cấp thiết trong việc thiết lập bàn thờ gia tiên, thực hiện các nghi thức lễ bái, nhất là những dịp giỗ, chạp, lễ tết, để nhờ đó có thể sớm xóa tan được thành kiến “theo đạo bỏ ông bà”.

Sau gần nửa thế kỷ, được khuyến khích hòa nhập với cộng đồng dân tộc, hầu xóa sạch những hiểu lầm và hàn gắn những khoảng cách không đáng có giữa người Công giáo và anh chị em lương dân, thử hỏi chúng ta đã hòa nhập đến đâu?

Thật đau lòng và đáng lo ngại! Hiện nay, trong các gia đình Công giáo, một số đã có bàn thờ gia tiên, nhưng thử hỏi có bao nhiêu bàn thờ được bài trí một cách đàng hoàng, nghiêm cẩn như ở các gia đình lương dân?

Bước vào nhà người Công giáo, trên bàn thờ Chúa cũng như trên bàn thờ gia tiên, thật khó mà tìm thấy một cặp nến màu đỏ như ở các gia đình lương dân. Tại sao chúng ta cứ nhất thiết phải dùng nến trắng trong khi nến đỏ đã được dùng rất lâu ở Việt Nam trước khi có những cây nến màu trắng lạ mắt có nguồn gốc từ Châu Âu?

Trong những dịp lễ lớn chúng ta dâng lên bàn thờ Thiên Chúa, bàn thờ gia tiên những thức ăn, thức uống, bánh mứt, rượu bia, nước ngọt… Nhưng liệu chúng ta có quen với việc dâng lên một mâm cơm cúng như anh chị em lương dân quen làm không?

Khi trong gia đình Công giáo có tang sự, chúng ta thường rước đoàn kèn Tây (“rất tốn kém và thổi những bản nhạc đời vô tội vạ”, như một Cha sở đã nói). Chúng ta có đủ can đảm rước một đoàn nhạc bát âm, với những nhạc cụ dân tộc (chỉ diễn những bản nhạc thuộc về tang lễ) như anh chị em lương dân thường làm không? Còn bao nhiêu điều tưởng chừng như nhỏ nhặt, thực ra lại là hố sâu ngăn cách, khó bề gần gũi giữa người Công giáo và anh chị em lương dân.

Nếu chúng ta không quyết liệt về nguồn, không triệt để canh tân, loại bỏ những cách biệt, thiết nghĩ việc xóa định kiến “theo đạo bỏ ông bà” chắc chắn còn xa, xa vời lắm!

Mong rằng tất cả nọi người Công giáo Việt Nam ý thức được tầm quan trọng và cơ hội mà Hội Thánh đã trao cho chúng ta. Không lý gì chỉ vì màu của cây nến; không lý gì chỉ vì chút ngại ngần trước mâm cơm cúng; không lý gì chỉ vì không quen với dàn nhạc bát âm, và chỉ vì những tiểu tiết tương tự mà công việc truyền giáo cứ phải mãi mãi bị ngáng trở!

Những hố sâu, rào cản cần được dỡ bỏ, san bằng để mọi người Việt Nam dễ cảm nhận Đạo Công giáo phù hợp với tấm lòng, tín ngưỡng, phong tục, tập quán của dân tộc Việt Nam. Được như thế, trong một viễn cảnh không xa ta có thể thấy hình ảnh các thợ gặt rộn rã với những bó lúa vàng trĩu nặng trên tay trên khắp cánh đồng truyền giáo Việt Nam bao la bát ngát. Và ngày ấy Giáo Hội Công giáo Việt Nam sẽ “như gấm thêm hoa”.

MẠC TƯỜNG

50 NĂM THỜ CÚNG ÔNG BÀ – Chia sẻ 28

QUYỂN GIA LỄ Công Giáo HAY KINH NGUYỆN GIA ĐÌNH

Thông cáo 1965 kết thúc: “Yêu cầu quý cha phổ biến rộng rãi và giải thích tường tận thông cáo này không những trong các nhà thờ mỗi khi có dịp, không những cho anh em giáo hữu mà cho cả người ngoài Công Giáo. Các vị phụ trách Công Giáo Tiến hành cũng phải lấy thông cáo này làm đề tài học tập cho các hội đoàn trong các buổi họp và các khóa huấn luyện”.

Nói chung, các cha đều có trình bày trên tòa giảng, cả trong những dịp tang lễ và hôn lễ, trong các lớp dự bị hôn nhân. Cũng có những người muốn thúc đẩy cho việc tái hội nhập vào văn hóa dân tộc tiến nhanh nhưng hình như không mấy ai hưởng ứng. Bài viết của anh Mạc Tường tiêu biểu cho nỗi âu lo thao thức của những người quan tâm tới việc khai mở con đường loan Tin mừng qua việc thờ cúng Tổ Tiên. Phải nói rằng, sau 50 năm, nếu để khai báo thành quả, hầu như chúng ta chưa làm được gì mấy. Lắm người bảo việc áp dụng huấn thị “Plane compertum est” cách nửa vời càng dễ gây phản tác dụng vì dễ khiến người lương nghĩ rằng người Công Giáo không thật lòng trong việc này.

Sau những năm tích cực nhập cuộc tôi nghĩ sự trì trệ có hai lý do. Ngoài lý do tự nhiên là thiếu tài liệu hướng dẫn cụ thể, hẳn còn có một lý do siêu nhiên khá bất ngờ là linh tính đức tin của người tín hữu chưa cho phép họ mạnh dạn tiến xa. Ở chia sẻ sau, tôi sẽ nói tới lý do siêu nhiên, còn ở đây xin trình bày lý do tự nhiên.

Thật ra, cho tới nay chưa có tài liệu hướng dẫn thực hành chính thức nào đi xa hơn những nguyên tắc trong hai bản thông cáo 1965 và 1974. Nhiều giáo dân muốn áp dụng nhưng có lẽ chỉ biết cách mơ hồ, không rõ phải làm gì trong thực tế.

Đi tìm hiểu cách thực hành của anh chị em lương dân, tôi sớm nhận ra rằng các truyền thống đạo hiếu được duy trì và phổ cập đồng bộ trong dân chúng có lẽ là do sự góp phần rất lớn của một quyển sách mỏng tên là “Thọ Mai gia lễ”. Cũng có một vài quyển gia lễ khác nhưng có lẽ quyển Thọ Mai thịnh hành nhất và có ảnh hưởng rộng nhất. Nay nếu muốn cho việc áp dụng thông cáo của Hội Đồng Giám Mục đi sâu vào tận các gia đình, cũng cần có một quyển “Gia lễ Công Giáo” với những chỉ dẫn cặn kẽ.

QUYỂN GIA LỄ Công Giáo HAY KINH NGUYỆN GIA ĐÌNH

Đang khi tôi suy nghĩ tìm cách thực hiện thì Đức Cha Phaolô Nguyễn Văn Hòa, giám mục Nha Trang, sau khi dự Thượng hội đồng Giám mục về gia đình, đã giao cho tôi dịch tông huấn hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục. Tôi dịch xong và trình cho ngài thì ngài bảo làm một sưu tập những kinh theo tinh thần mới để dùng cho các gia đình. Yêu cầu ấy của ngài cho tôi hiểu ra rằng quyển “Gia lễ Công Giáo” không gì khác hơn là một quyển “Kinh nguyện Gia đình”, với những đầy đủ các chỉ dẫn cần thiết cho các gia đình, trong đó có những chỉ dẫn về tang lễ, kỵ giỗ và việc thờ cúng Ông Bà. Tôi đúc kết một bản thảo, đem in lụa dùng thử rồi sửa đi sửa lại. Khoảng năm 1986 thì có được ấn bản mới. Đức Cha Phaolô duyệt qua và cho phép dùng. Sau đó cuối năm 1997 ngài cho imprimatur và Tòa Giám mục Nha Trang đã chính thức xin phép xuất bản và in lại nhiều lần.

Quyển sách gồm hai phần. Phần đầu là sưu tập một số các kinh cũ, kinh mới, bài hát, thánh vịnh, lời nguyện. Phần hai là những chương trình giờ kinh khác nhau trong gia đình. Trong đó, mục thứ năm là “Những dịp đặc biệt trong gia đình”, với những hướng dẫn về cúng lễ gia tiên, dọn tất niên, tưởng nhớ gia tiên dịp tết nguyên đán, lễ giao thừa, lễ minh niên, lễ bổn mạng một người trong gia đình, giáp năm ngày rửa tội, thôi nôi hoặc sinh nhật, nghi thức lễ cưới ở gia đình, giáp năm ngày cưới, lễ giỗ và làm phép nhà. Mục thứ sáu là chăm sóc bệnh nhân và cầu nguyện cho người hấp hối. Mục thứ bảy là “Cầu nguyện cho tín hữu đã qua đời”, với những hướng dẫn về viếng thi hài, canh thức cầu nguyện tại tang gia, nhập quan, động quan và di quan, trước khi hạ huyệt, nghi thức hoả táng và nghi thức tiếp nhận di cốt về gia đình. Mỗi mục nhỏ ấy đều gồm những chỉ dẫn thực hành (giống như các “lời bảo” ngày xưa) và những kinh hoặc bài hát thích hợp (lấy ở phần đầu của quyển sách). Xin nêu mục nhỏ thứ nhất làm minh họa.

18. CÚNG LỄ GIA TIÊN (phiên bản 1986)

Thiên Chúa đã tự xưng là Thiên Chúa của các tổ phụ. Ngài không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của người sống (Mt 22,32). Bên kia cái chết các bậc tiền nhân nào đã thực sự “sống khôn thác thiêng” đều đang sống trong Thiên Chúa. Các tín hữu ở trần gian kết hợp với họ trong mầu nhiệm các thánh thông công. Do đó, khi nhớ đến gia tiên tổ phụ, người Công Giáo không làm một sự thờ phượng ở ngoài sự thờ phượng Thiên Chúa, nhưng thật ra là để nhờ đó mà thêm lòng biết ơn và kính mến Thiên Chúa là nguồn mọi tình phụ tử trên trời dưới đất (Ep 3,14). Đàng khác, khi nhớ đến các tổ tiên theo huyết thống, người Công Giáo cũng nhớ đến các tổ phụ trong đức tin.

Người Việt Nam có thói quen rất tốt: mỗi khi gia đình có việc buồn vui đều luôn tưởng nhớ gia tiên và biểu lộ tâm tình ấy bằng việc cúng lễ. Người tín hữu Công Giáo Việt Nam tiếp nhận truyền thống tốt đẹp ấy với một cái nhìn chính xác, phù hợp với đức tin Kitô giáo.

Mỗi gia đình nên có một bàn thờ gia tiên đơn sơ. Mà đã có bàn thờ thì nhớ thắp hương, đừng để hương tàn khói lạnh.

Hình thức sơ đẳng nhất của lễ gia tiên là mỗi sớm, mỗi tối, mỗi lần ra khỏi nhà và mỗi lần đi đâu về, ta thắp một cây nhang cắm lên bàn thờ và thinh lặng cầu nguyện một phút.

Ngày tết ngày giỗ nên giữ một cây hương cháy suốt ngày. Tránh những chi tiết trái đức tin và tránh tốn kém không hợp tình hợp lý. Về hình thức, chỉ cốt sao biểu lộ được tấm lòng và giúp các cháu nhỏ học được lòng biết ơn tổ tiên và biết ơn Thiên Chúa Tạo Hoá.

Khi cúng lễ, cần nhắc cho các cháu nhỏ nhớ: Đức tin Công Giáo dạy ta biết rằng người quá cố không cần đến thức ăn vật chất, các lễ vật chỉ nhằm bày tỏ lòng biết ơn kính nhớ mà thôi.

Lễ gia tiên thường do vị trưởng tộc hoặc người cha trong gia đình chủ lễ. Nếu vị này vắng mặt thì vợ hoặc con trai hoặc con dâu trưởng chủ lễ.

Chương trình đơn giản như sau:

1. Thắp hương đèn trên bàn thờ

2. Dấu thánh giá

3. Kinh Lạy Cha

4. Tạ ơn Chúa:

Xướng: Ta hãy tạ ơn Thiên Chúa đã đưa các bậc tổ tiên ta về với Ngài.

Đáp:

A. Chúa trọn bề nhân nghĩa với tổ tiên

Và nhớ mãi lời xưa giao ước

B. Chúa đã thề với tổ phụ Ab-ra-ham

Rằng sẽ giải phóng ta khỏi địch thù

5. Cầu cho các tín hữu đã qua đời:

X. Ta hãy cầu nguyện cho các linh hồn ở luyện ngục

Đ.

A. Chúng con cậy vì Danh Chúa nhân từ

Cho các đẳng linh hồn được lên chốn nghỉ ngơi

B. Hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen.

6. Lời nguyện với tổ tiên (do vị chủ lễ đọc):

Kính lạy anh linh các bậc tổ tiên ông bà nội ngoại hai bên, cùng các bác, các chú, thím, cô dì, cậu mợ và mọi anh chị em đã qua đời.

Hôm nay nhân ngày. .. (nhân ngày đầu năm, cuối năm, hoặc nhân một ngày một dịp nào khác), chúng con xin thắp nén hương bày tỏ lòng tưởng nhớ và biết ơn. Kính xin thương cầu nguyện cho chúng con được bình an mạnh khoẻ, được hoà thuận êm ấm và được mọi điều tốt đẹp như ý Thiên Chúa muốn. ..

(Vị chủ lễ vái 4 vái. Những người hiện diện tuần tự tiến lên vái mỗi người 4 vái và cầu nguyện riêng. Ai không lên vái cũng không sao. Đến đây kết thúc trong thinh lặng hoặc cũng có thể hát một bài tạ ơn để kết thúc).

XIN GÓP Ý

Đó là mục thứ 18 trong phần II của quyển “Kinh Nguyện Gia Đình” và cũng là mở đầu cho phần “Gia lễ Công Giáo”. Có thể một số độc giả đã từng sử dụng quyển sách và biết phần hướng dẫn ở các mục khác tương tự. Quý độc giả nào chưa biết quyển sách, xin tải xuống từ địa chỉ:

http://gpquinhon.org/qn/download/tu-duc/Kinh-nguyen-gia-dinh/

Đóng góp của tôi trong quyển sách chỉ mới là một cố gắng cá nhân. Tôi đã cố gắng bám sát những trường hợp có thật và đa dạng để xây dựng các lời chỉ dẫn cho đúng thực tế. Dù vậy, còn rất nhiều thiếu sót.

Đã hơn 25 năm. Cả những bài hát trong đó đã nhiều bài bị đào thải. Nay chuẩn bị mừng 50 năm áp dụng huấn thị Plane compertum est, Ban Mục vụ Văn hóa Giáo phận Qui Nhơn đang duyệt lại toàn bộ để phát hành với tựa đề mới là SÁCH GIA LỄ Công Giáo.

Trong viễn tượng loan Tin mừng rộng lớn và lâu dài, các chỉ dẫn thực hành này cần được chỉnh sửa thật chu đáo. Do đó, tôi tha thiết ước mong quý độc giả chịu khó tải quyển sách xuống, xem kỹ mục thứ năm và thứ bảy của phần II và đóng góp ý kiến. Quý vị nào muốn góp ý trên bản thảo mới, chúng tôi sẽ gửi file vi tính của bản thảo. Chúng tôi mong nhận được các góp ý trước ngày 15-12 để có thể sớm hoàn tất việc biên tập.

Xin liên lạc về: tinmunggiesu@gmail.com

Xin chân thành cám ơn.

50 NĂM THỜ CÚNG ÔNG BÀ – Chia sẻ 29

50 NĂM LINH TÍNH ĐỨC TIN – NGHI THỨC CÚNG GIỖ

Xin được trình bày lý do thứ hai, lý do siêu nhiên, khiến việc áp dụng huấn thị Plane compertum est trong 50 năm qua tiến rất chậm. Suy cho kỹ, chúng ta sẽ phải cảm tạ Thiên Chúa vô cùng vì sự an bài kỳ diệu Ngài đã làm cho Giáo Hội tại Việt Nam trong lãnh vực này, nơi cuộc tranh luận 1610-1742 xưa kia cũng như nơi sự trì trệ 50 năm qua. Mãi đến hôm nay, cả những linh mục đã đọc kỹ hai thông cáo 1965 và 1974 vẫn thấy ngập ngừng liệu có nên khuyến khích giáo dân bày đồ cúng lên bàn thờ với các thức ăn như xôi, chè, thịt, cá. Sự ngập ngừng ấy không phải không có lý do. Vậy đâu là trở ngại và đâu là cách giải quyết?

Sau hơn 20 năm tích cực nhập cuộc, nghe ngóng, xem xét, suy tư và sáng tạo thể nghiệm, tôi nhận ra rằng nơi sự dè dặt ấy có ơn của Chúa Thánh Thần rất rõ. Sự dè dặt ấy có thể nói là một minh họa sống động hiếm hoi cho trường hợp thứ ba của ơn vô ngộ là cảm thức đức tin của Dân Chúa mà cha Phi Khanh Vương Đình Khởi gọi dịch rất chính xác là “linh tính đức tin” của các tín hữu (x. Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, số 889). Mặc dù hai thông cáo 1965 và 1974 mở rộng cửa, cả các linh mục lẫn giáo dân đều cảm thấy có cái gì đó chưa ổn. Người ta linh cảm rằng ở đây, giữa ý nghĩa dấu chỉ tượng trưng và những ngộ nhận dẫn đến mê tín, ranh giới thật mong manh. Đang khi có những tác giả mới như Khải Chính Phạm Kim Thư (Nguyên tắc cúng, khấn, vái và lạy – dactrung.net) diễn giải các chi tiết một cách trong sáng, gần gũi với cách nhìn của Giáo Hội Công Giáo thì các sách nghi lễ hiện hành kết thúc các văn tế với lời mời tiền nhân về “phối hưởng” các lễ phẩm (ví dụ trong quyển “Tập Văn tế mẫu Cúng Gia Tiên”, Thái Vy biên soạn, Nxb Thanh Hóa,2007). Các bài văn tế hiện dùng thường dịch lại sát các bản văn xưa và cũng mang ý nghĩa mời người xưa về hưởng các lễ phẩm. Nói tắt, vẫn còn một tỉ lệ lớn bà con lương dân nghĩ rằng Ông Bà Tổ Tiên về hưởng của cúng.

Có nhìn vào thực tế ấy, ta mới hiểu được tính nghiêm túc của cuộc tranh luận kéo dài cả 130 năm từ sau cái chết của cha Matthieu Ricci (1610) và của huấn thị Ex quo singulari. Thực tế ấy cũng giúp chúng ta thông cảm với lập trường dứt khoát và cứng rắn của anh em Tin lành trong vấn đề “ăn của cúng”.

Những chi tiết văn hóa khi hội nhập vào cuộc sống người Kitô hữu phải được mặc lấy một ý nghĩa mới, nhưng đó là ý nghĩa nào? Ở đây, không thể xuề xòa hay nhập nhằng thỏa hiệp.

Thông cáo 1965 nói: “nếu cần, thì phải giải thích chủ ý của mình một cách khéo léo, hợp cảnh, hợp thời”, và thông cáo 1974 nói nếu “sợ có sự hiểu lầm nên khéo léo giải thích qua những lời phân ưu khích lệ, thông cảm…”. Thật ra đó là việc vượt quá khả năng người giáo dân bình thường. Ngay cả khi họ vẫn nắm vững và biết cách giải thích, khung cảnh thực tế của sự việc thường rất tế nhị, những giải thích như thế sẽ thiếu tự nhiên, lắm khi còn vô tình gây những căng thẳng không đáng có.

Để giúp vượt khỏi những ngập ngừng dè dặt kia cũng như những trường hợp khó xử này, cần có một quyển gia lễ hướng dẫn cặn kẽ cho việc áp dụng huấn thị Plane compertum est, để qua đó cả người giáo lẫn người lương đều có thể hiểu cách dễ dàng là Giáo Hội muốn dạy gì. Phiên bản “Kinh nguyện gia đình” 1986 của chúng tôi cũng chỉ mới nêu một số đề xuất mang tính dò dẫm. Sau hơn 25 năm thể nghiệm, chúng tôi thấy vấn đề khá rõ. Với phiên bản “Sách Gia lễ Công Giáo” sắp ấn hành, chúng tôi xin được mạnh dạn đề xuất một bản văn “nghi thức cúng giỗ” như sau. Rất mong được độc giả bốn phương, Công Giáo cũng như ngoài Công Giáo, góp ý hoàn chỉnh. Xin gửi về: tinmunggiesu@gmail.com

NGHI THỨC CÚNG GIỖ

Việc cầu nguyện trong ngày giỗ vừa là để dâng lời cảm tạ Chúa đã giải thoát các bậc tổ tiên, đưa về hưởng nhan Chúa, vừa là để cầu xin ơn giải thoát cho những người đang cần được thanh luyện, quen gọi là cầu hồn. Đối với những người mới qua đời, ta nên nhấn mạnh tới việc cầu hồn, còn đối với những người đã qua đời rất lâu năm, ta có thể chú trọng hơn tới việc dâng lời cảm tạ Chúa nhân từ đã thứ tha và giải thoát. Cần nhớ rằng chúng ta đang sống trong một thế giới lệ thuộc không gian và thời gian, còn tiền nhân đã khuất đang thuộc về một thế giới vượt ngoài không gian và thời gian, do đó lấy ý niệm “rồi” và “chưa” theo cách ta quen suy nghĩ ở đời này đem áp dụng cho thế giới đời sau không khỏi có phần khập khiễng. Nói đến đời sau là ta đang chạm đến những mầu nhiệm vượt khỏi mọi ý niệm cân đo đong đếm. Cũng nên nhớ rằng ngay cả những vị đã chết mà không chịu phép thánh tẩy, ta vẫn có thể tin rằng Thiên Chúa nhân từ và đầy quyền năng đã có cách cứu vớt họ trong Chúa Kitô và nhờ Chúa Kitô.

Cũng đừng quên rằng ta có thể cầu nguyện với những bậc tổ tiên đang được hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa. Nói đúng hơn, ta có thể xin họ cầu nguyện với Chúa cho ta. Khi còn sống, họ đã yêu thương cầu nguyện cho ta, thì khi đã về với Chúa, họ còn yêu thương ta hơn và lời cầu nguyện của họ còn hữu hiệu hơn.

Bữa ăn giỗ là để phát huy tình cảm gia đình và gia tộc, lắm khi là để giúp vượt qua những bất hòa bất thuận trong cuộc sống, để ai nấy lại thấy ấm tình hiệp thông và hiệp nhất. Do đó, từ chương trình đến cách sắp xếp chỗ ngồi, cần làm sao để cả người lớn và trẻ con đều tham dự tích cực, chan hoà trong tình hiệp nhất thân mật. Nên chú trọng hơn tới nội bộ gia tộc. Nếu mời vài người khách thì nên liệu sao để sự hiện diện của họ không ngăn cản sự thân mật giữa mọi người trong gia tộc.

Trên bàn thờ, có thể dùng nến hồng (ngụ ý xin Chúa ban phúc lành cho mọi người có mặt và vắng mặt) hoặc nến trắng (ngụ ý nói lên lòng tin, cậy và yêu mến Chúa). Cũng có thể dọn mâm cơm trước bàn thờ theo truyền thống dân tộc. Về nghi thức cầu nguyện, có thể theo một trong ba hình thức sau đây.

A. Hình thức thứ nhất:

– Gia chủ nói đôi lời tuyên bố lý do: giỗ ai, mấy năm, vài nét về người đã khuất (nếu là giỗ chung thì nói chung về những tiền bối liên hệ) và mời mọi người cầu nguyện

– Gia chủ ghi dấu thánh giá, xướng kinh Lạy Cha,

– Có thể đọc vài câu Lời Chúa

– Hát một bài

– Lời nguyện trên của cúng:

“Lạy Cha, xin chúc lành cho những của ăn Cha đã rộng lòng ban cho chúng con mà chúng con dùng để bày tỏ niềm hiệp thông thân thương và quý mến đối với người thân yêu đã khuất. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.”

– Lời nguyện lễ giỗ:

Lạy Chúa, chúng con xin ngợi khen cảm tạ Chúa nhân từ đã thương đưa các bậc tổ tiên chúng con về hưởng hạnh phúc với Chúa. Chúng con cũng xin Chúa đoái thương đến những linh hồn đã qua đời đang cần tới lòng từ bi vĩnh cửu của Chúa, xin đoái thương cho họ sớm được hợp đoàn cùng các thánh Chúa. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.

(Có thể thêm: Lạy Chúa là Cha rất nhân từ. Chúa dạy chúng con phải giữ lòng hiếu thảo. Hôm nay chúng con họp nhau để kính nhớ tổ tiên. Xin Chúa trả công bội hậu cho những bậc đã sinh thành dưỡng dục chúng con, và giúp chúng con luôn sống cho phải đạo đối với các ngài. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.)

X. Chúng con cậy vì Danh Chúa nhân từ, xin cho các linh hồn được lên chốn nghỉ ngơi.

Đ. Hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen.

B. Hình thức thứ hai

Chủ sự tuyên bố lý do rồi nguyện kinh trước bữa ăn hoặc hát một bài xin Chúa chúc lành rồi mời mọi người dùng bữa.

C. Hình thức thứ ba

Nếu cử hành nghi thức cúng giỗ theo truyền thống dân tộc thì thực hiện theo thứ tự sau đây

1. CHUẨN BỊ ĐỒ CÚNG

Sau khi dọn thức ăn, mọi người tề tựu nghiêm trang, chủ lễ cầu nguyện trên của cúng.

2. LỜI NGUYỆN TRÊN CỦA CÚNG

Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần

Lạy Cha là Chúa Trời Đất, là Cội Nguồn duy nhất và là Hạnh Phúc đích thật của muôn loài. Chúng con cảm tạ Cha đã ban những lương thực này để nuôi sống chúng con như đã nuôi sống những người đi trước chúng con. Giờ đây những người đã khuất không còn cần đến những lương thực này nữa nhưng trước khi chúng con cùng nhau dùng bữa tưởng nhớ (người thân của chúng con/họ/các ngài), chúng con muốn bày tỏ niềm kính trọng, mến thương và hiệp thông qua dấu hiệu thân thương của bữa ăn. Nhờ đó, chúng con cảm thấy người đã khuất vẫn hết sức gần gũi với chúng con. Nếu (người thân của chúng con/họ/các ngài) còn vướng mắc những lỗi lầm thiếu sót, cúi xin Cha thương sớm hoàn tất cuộc thanh tẩy để (người thân của chúng con/họ/các ngài) sớm được hưởng Tiệc vui đời đời. Cúi xin Cha cũng thương cho tất cả chúng con đây một ngày kia được chung hưởng niềm vui Nước Trời với Cha và với những người thân yêu đã đi trước chúng con. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Con Cha, là Thiên Chúa và là Chúa chúng con, là Đấng hằng sống hằng trị cùng Cha và Chúa Thánh Thần đến muôn thở muôn đời. Amen.

(Nếu có sẵn nước thánh, chủ lễ nói những lời sau đây trước khi rảy:

– Thưa anh chị em, chúng ta cảm ta Chúa đã ban bí tích Thánh Tẩy để tái sinh chúng ta làm con cái Chúa. Nước thánh chúng ta dùng đây là nước tự nhiên nhưng chúng ta đã xin Chúa chúc lành để thành dấu hiệu nhắc chúng ta nhớ đến ơn làm con cái Chúa qua bí tích Thánh Tẩy. Có những người chưa được lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy bằng nước, nhưng lòng đã hướng về Chúa và đã cố gắng sống ngay chính theo lương tâm, thì cũng được Thiên Chúa thanh tẩy trong máu Chúa Kitô. Với nước thánh này rảy trên của cúng, chúng ta cảm tạ Chúa đã cho tiền nhân được làm người và hơn nữa, còn được làm con cái Thiên Chúa và được chung phần hạnh phúc đời đời với Chúa.

(chủ sự rảy nước thánh trên của cúng)

Mọi người cùng đọc chung Kinh Lạy Cha.

3. VĂN KHẤN

(Văn khấn đọc trước bàn thờ, nên viết ra giấy thật rõ ràng, bỏ những chữ thừa, để khi đọc không lẫn lộn, mất nghiêm túc)

VĂN KHẤN VỚI MỘT NGƯỜI ĐÃ KHUẤT TRONG NGÀY GIỖ RIÊNG

Ông (Bà/Cha/Mẹ/Bác/Chú/Thím/Cô/Dì/Cậu/Mợ/ Anh/Chị/Em) kính mến (hay thân mến),

Hôm nay là ngày giỗ (đầy năm) của Ông (Bà/Cha/ Mẹ/Bác/Chú/Thím/Cô/Dì/Cậu/ Mợ/Anh/Chị/Em). Tất cả chúng con (chúng tôi) quy tụ về đây để tưởng nhớ.

Chúng con (chúng tôi) không quên được hình ảnh của (Ông/Bà/Cha/Mẹ/Bác/Chú/Thím/ Cô/Dì/Cậu/Mợ/Anh/Chị hoặc Em). Dù nay còn phải buồn sầu xa cách vì sự chết, nhưng mai kia chúng ta sẽ lại sum vầy bên nhau trong cõi lòng của Thiên Chúa Tình Yêu. Là con cái Chúa, chúng ta biết rằng sự sống thay đổi chứ không mất đi và thời lưu ngụ dưới trần chấm dứt là để nhường chỗ cho hạnh phúc vĩnh cửu trên trời. Chúng con (chúng tôi) họp nhau cầu xin Thiên Chúa là Cha, nhờ công ơn cứu chuộc của Đức Giêsu Kitô, Con Ngài, sớm hoàn tất những thanh luyện cần thiết cho (Ông/Bà/Cha/Mẹ/Bác/Chú/Thím/Cô/Dì/Cậu/Mợ/ Anh/Chị/Em) và đưa về hưởng phúc muôn đời. Chúng con (chúng tôi) cũng xin (Ông/Bà/Cha/Mẹ/Bác/Chú/Thím/Cô/Dì/Cậu/Mợ/Anh/Chị/Em) nhớ đến chúng con (chúng tôi), chuyển cầu cho chúng con (chúng tôi) trước nhan Chúa để chúng con (chúng tôi) được mọi ơn lành phần hồn và phần xác, sống xứng đáng là con cái Chúa, bây giờ và mãi mãi. Amen.

VĂN KHẤN VỚI TỔ TIÊN TRONG NGÀY GIỖ CHUNG (GIỖ TẾ HIỆP)

Hôm nay là ngày … tháng… năm… Tất cả chúng con cùng quy tụ nơi đây để tưởng nhớ toàn thể tiên nhân trong Gia tộc, Tổ tiên, Ông Bà, Cha Mẹ, các Bác, các Chú, Thím, Cô, Dì, Cậu, Mợ và các Anh Chị Em đã hoàn tất hành trình dương thế trước chúng con.

Thiên Chúa Toàn Năng là Cha Trên Trời, là Cội Nguồn duy nhất, là Đấng Tạo Hóa đã thương tạo dựng nên tất cả, cho sống trên cõi đời này rồi lại thương gọi về cho hưởng phúc đời đời với Ngài.

Chúng ta yếu hèn tội lỗi, nhưng Chúa Cha giàu lòng thương xót đã cho Con Ngài là Chúa Kitô đến hy sinh, chịu nạn chịu chết trên cây thánh giá mà cứu chuộc và ban ơn tha thứ; nhờ đó, chúng ta được thoát ách sự chết và được sống luôn mãi cho Thiên Chúa là Cha.

Hôm nay chúng con họp nhau cùng cảm tạ, chúc tụng và ngợi khen Thiên Chúa về những hồng ân ấy. Chúng con cầu xin cho tất cả những ai đang cần ơn giải thoát, sớm được Thiên Chúa hoàn tất những thanh luyện cần thiết và đưa về hưởng phúc muôn đời.

Chúng con cũng xin các bậc tiền nhân nhớ đến chúng con, chuyển cầu cho chúng con trước nhan Chúa để chúng con được mọi ơn lành phần hồn và phần xác, sống xứng đáng là con cái Chúa, bây giờ và mãi mãi. Amen.

Sau phần văn khấn, chủ sự đọc lời nguyện lễ giỗ và lời nguyện báo hiếu:

Chúng ta dâng lời cầu nguyện.

Lạy Chúa, chúng con xin ngợi khen cảm tạ Chúa nhân từ đã thương đưa các bậc tổ tiên chúng con về hưởng hạnh phúc với Chúa. Chúng con cũng xin Chúa đoái thương đến những linh hồn đã qua đời đang cần tới lòng từ bi vĩnh cửu của Chúa, xin đoái thương cho họ sớm được hợp đoàn cùng các thánh Chúa. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.

Lạy Chúa là Cha rất nhân từ. Chúa dạy chúng con phải giữ lòng hiếu thảo. Hôm nay chúng con họp nhau để kính nhớ tổ tiên. Xin Chúa trả công bội hậu cho những bậc đã sinh thành dưỡng dục chúng con, và giúp chúng con luôn sống cho phải đạo đối với các ngài. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.

Để kết thúc phần nghi thức, chủ sự xướng cho mọi người đáp như sau:

– X: Chúng con cậy vì Danh Chúa nhân từ, xin cho các đẳng linh hồn được lên chốn nghỉ ngơi

– Đ: Hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen.

4. NIỆM HƯƠNG

Từng người đến khấn và vái trước bàn thờ gia tiên và bàn thờ của vị được tưởng nhớ trong ngày giỗ.

Cầm hương trong tay và khấn thầm hoặc nói lớn rồi thinh lặng, lâu hay mau tùy ý tùy lòng, rồi cắm hương lên các bàn thờ.

Sau đó có thể vái, lạy hoặc phủ phục, rồi lui xuống, nhường chỗ cho người khác

Nhóm NO-U kêu gọi giúp đỡ Philippines

Nhóm NO-U kêu gọi giúp đỡ Philippines

Kính Hòa, phóng viên RFA
2013-11-11

000_TS-Hkg9183693(1)-305.jpg

Một người Philippines viết lời kêu gọi cứu trợ lương thực tại Anibong, Tacloban, hôm 11 tháng 11 năm 2013.

AFP photo

Cơn bão Hải Yến được xem là cơn bão mạnh nhất đổ vào đất liền mà nhân loại ghi nhận được đã tàn phá một cách khủng khiếp một vùng rộng lớn miền Trung nước Philippines.

Các hoạt động cứu trợ đang được khẩn trương tiến hành. Tại Hà nội, nhóm NO-U, một nhóm có nhiều hoạt động dân sự, phi chính phủ, cũng bắt đầu kêu gọi cứu trợ cho Philippines. Anh Nguyễn Lân Thắng, một nhà hoạt động xã hội tích cực của NO-U đã dành cho Kính Hòa cuộc trao đổi sau đây về việc kêu gọi cứu trợ mà nhóm của anh đang tiến hành.

Nguyễn Lân Thắng: Qua phương tiện thông tin đại chúng, câu lạc bộ NO-U chúng tôi biết được cơn bão rất tệ hại ở Philippines. Chúng tôi cũng đã có nhiều bạn bè người Philippines, cũng như những người có cùng những hoạt động lý tưởng với nhóm NO-U như chống đường lưỡi bò của Trung quốc trên biển Đông. Khi biết được các bạn Philippines đang chịu cái điều kinh khủng của cơn bão này, chúng tôi muốn làm điều gì đó để chia sẻ với các bạn.

Kính Hòa: Thưa anh, công việc quyên góp được tiến hành như thế nào ạ?


“Khi biết được các bạn Philippines đang chịu cái điều kinh khủng của cơn bão này, chúng tôi muốn làm điều gì đó để chia sẻ với các bạn.
– Anh Nguyễn Lân Thắng”

Nguyễn Lân Thắng: Hiện chúng tôi thông qua mạng xã hội để kêu gọi sự đóng góp. Ở đất nước Philippines có nhiều tổ chức nhân đạo khác nhau đang thực hiện công tác nhân đạo rất là to lớn. Bản thân chính phủ Việt Nam cũng đã hỗ trợ cho Philippines 100.000 đô la. Tuy nhiên nhóm NO-U của chúng tôi rất mong muốn tham gia các hoạt động nhân đạo, bởi vì thông qua đó chúng tôi kêu gọi được những người tốt, những người quan tâm đến những giá trị nhân bản, tham gia cùng với chúng tôi tham gia những điều thiện, giúp cho cuộc sống quanh ta tốt đẹp hơn.

Kính Hòa: Thông qua mạng xã hội để góp tiền bạc và phẩm vật rồi sau đó nhóm NO-U sẽ định làm như thế nào để nó đến tay người Philippines?

Nguyễn Lân Thắng: Các bạn NO-U sẽ góp tiền vì cái vùng bị bão hiện nay rất là hỗn loạn. Chúng tôi cũng có nhiều bạn bè Philippines hoạt động trong các tổ chức nhân đạo khác nhau. Lần này chúng tôi quyết định nhờ tổ chức Asian Bridge là tổ chức đã thực hiện khóa học về xã hội dân sự cách đây hơn một tháng. Họ đến vùng bão để hỗ trợ trực tiếp cho những người dân còn sống sót sau trận bão.

Kính Hòa: Các bạn có nghĩ tới việc liên hệ qua tòa Đại sứ Philippines ở Hà Nội không?

Nguyễn Lân Thắng: Tòa Đại sứ là cơ quan đại diện ngoại giao của chính phủ Philippines. Chúng tôi không có chủ trương thông qua kênh này mà muốn các hoạt động dân sự là giữa các tổ chức dân sự với nhau, và các phẩm vật cứu trợ đến trực tiếp tới người bị nạn.

Kính Hòa: Hiện giờ hiện vật, tài chính cứu trợ thu được có khả quan không?

Nguyễn Lân Thắng: Hiện tại theo phản hồi trên mạng là khá tốt, tuy nhiên lời kêu gọi mới chỉ được đưa ra cách đây vài tiếng đồng hồ nên chúng tôi chưa biết chính xác.

Kính Hòa: Anh cho hỏi câu cuối là sau hoạt động này thì nhóm NO-U có thực hiện việc cứu trợ với chính đồng bào Việt Nam mình bị nạn sau cơn bão này không?


“NO-U luôn có một tinh thần hỗ trợ nhân đạo và hoạt động rất nhiều. Đây không phải là hoạt động sau cùng. Trước đây hai hay ba tuần NO-U đã thực hiện các chương trình ủng hộ đồng bào miền Trung.
– Anh Nguyễn Lân Thắng”

Nguyễn Lân Thắng: NO-U luôn có một tinh thần hỗ trợ nhân đạo và hoạt động rất nhiều. Đây không phải là hoạt động sau cùng. Trước đây hai hay ba tuần NO-U đã thực hiện các chương trình ủng hộ đồng bào miền Trung. Còn ngay bây giờ đây thì chúng tôi có chương trình xây đập tràn cho bà con nghèo ở vùng núi phía Bắc.

Kính Hòa: Xin cảm ơn anh Nguyễn Lân Thắng.

Nhóm NO-U là một nhóm ra đời từ sau những cuộc biểu tình chống sự gây hấn của Trung quốc trên biển Đông. Sau đó nhóm NO-U được duy trì và thực hiện các hoạt động dân sự như nhân đạo, thể thao. NO-U có nghĩa là không chấp nhận đường chữ U hay còn gọi là đường lưỡi bò mà Trung quốc vạch ra để tuyên bố chủ quyền của họ trên biển Đông.

Nếu bạn ở nước ngoài, bạn có thể gửi ủng hộ trực tiếp vào tài khoản sau:
Name: Asian Bridge Philippines NGO Center, Inc.
Account no: 654 00 34 716
Swift code: BNORPHMM
Name of Bank: BDO
Address: Isidora Hills Branch, Manila, Philippines
________________________________________________
Nếu bạn là người trong nước, bạn có thể gửi đến tài khoản sau:
Chủ TK Lê Trung Sơn
Tk: 190 270 385 18018
Chi nhánh: Techcombank Hà nội
ĐT: 0936663858

Theo thông tin từ anh Nguyễn Lân Thắng, ngày 17/11/2013 Asian Bridge sẽ đến thành phó bị bão tàn phá là Tacloban để cứu trợ.

Điều kỳ diệu của tạo hóa

Điều kỳ diệu của tạo hóa

Con người, có lẽ chính là kiệt tác nghệ thuật hoàn hảo nhất của tạo hóa. Mỗi cá nhân chúng ta lại là một bản thể riêng biệt, không giống bất kỳ ai.

.

Trẻ em chính là món quà tuyệt vời nhất mà tạo hóa ban tặng cho cuộc sống này. Là trái ngọt cho tình yêu của người cha & người mẹ. Mỗi đứa trẻ giống như một công trình khoa học đồ sộ. Điều khác biệt là trong “dự án” này, sai sót là điều không bao giờ được phép xảy ra. Bạn đã bao giờ tự hỏi, trẻ em được hình thành như thế nào? Hay chính xác hơn là bạn được hình thành như thế nào? Đoạn clip dưới đây sẽ trả lời câu hỏi đó cho bạn.

httpv://www.youtube.com/watch?v=Ah_RGa8-J0A

GIÔNG BÃO CUỘC ĐỜI

GIÔNG BÃO CUỘC ĐỜI

Đứa cháu họ của tôi qua đời chỉ ba tuần truớc ngày đám cưới.  Hai mươi bốn tuổi, trai tráng, khôi ngô, đời tràn ngập sức sống.  Bỗng một chiều, cháu mệt.  Vào bệnh viện, rồi ra đi.  Để người con gái sắp cưới ở lại, ôm nỗi đau khó diễn tả.  Mong một ngày làm vợ và làm dâu chưa thành.  Cô khóc không còn nước mắt.  Có ngàn giọt nước mắt người thân đến chia sẻ, nhưng không thể giúp vơi niềm đau.  Cô dựa vào lòng chị tôi, người mẹ chồng tương lai, để tìm sức mạnh.  Nhưng chị tôi cũng yếu đuối như người con gái ấy.  Cả hai ôm nhau đứng trước cơn giông bão cuộc đời quá lớn, có sức phá vỡ tất cả nghị lực và cuốn trôi tất cả niềm tin. “Chúa ở đâu trong cơn giông bão ấy?”

Những người đạo đức trong xứ đến an ủi chị, “Có lẽ là thánh ý Chúa, anh chị cố gắng chấp nhận.”  Chị tôi ngậm ngùi, không dám phản ứng trước lời an ủi.  Trong đáy sâu tâm hồn, chị thầm hỏi “Tại sao lại là Thánh Ý Chúa?”  Rồi chị thinh lặng trong nỗi đau.  Ngày tháng qua đi, chị vẫn chưa hiểu nổi tại sao bão tố đến với gia đình chị.  Đau khổ vẫn mãi mãi là một nhiệm mầu sâu thăm thẳm chưa có câu trả lời thỏa đáng.  Bước đi trong niềm tin xen lẫn nước mắt vẫn là hành trình của người Kitô Hữu.

Đôi khi, người ta tìm được chút ánh sáng trong những trang sách xưa cũ.  Kinh thánh kể về một gia đình đơn côi trong một làng nghèo ở Bethania.  Làng này nghèo hơn tất cả các làng nghèo chung quanh vùng phụ cận Giêrusalem.  Một trong những lý do Chúa Giêsu hay lui tới làng này, là vì họ nghèo.  Chúa muốn đem ơn cứu độ đến cho dân nghèo.  Làm bạn, kết thân, rồi gắn bó với họ.

Có một gia đình đơn côi, không cha không mẹ.  Gia đình của ba chị em Matha, Maria và Lazarô.  Rồi một ngày, Lazarô lâm bịnh rồi ra đi khi Chúa Giêsu chưa kịp đến.  Hai người chị Matha và Maria, tuổi còn xuân xanh, đối diện với sóng gió cuộc đời.  Người em trai duy nhất ngã xuống, mảnh nương tựa của cảnh đời đơn côi rạn vỡ.  Hụt hẫng, hoang mang, giông bão cuộc đời kéo đến.  Thách đố số phận; thách đố niềm tin.  Những ngày đưa tang về thấy căn nhà trống vắng, thiếu tiếng nói cười của người yêu thương.  Lời nguyện trong đêm từ nay xen lẫn nhiều nước mắt.

Phúc âm ghi rõ, người mà Thầy thương mến đang ốm nặng.  Biết người mình yêu mến đang lâm nguy tại sao Chúa không đến ngay?  Tôi cứ mãi băn khoăn, sao người thầy thương mến lại phải đối diện với những nỗi đau mênh mông đến thế.  Sao người thầy thương mến phải nằm trong mồ?  Những lần khác Chúa đến đúng giờ, nhưng khi người thân yêu đau khổ, Chúa lại đến trễ.  Tại sao Chúa lại để người theo Chúa phải nằm trong nhiều nấm mồ của cuộc đời?  Mồ bệnh tật, mồ thất bại, mồ bị phản bội, mồ cô đơn, và nhiều nấm mồ khác.

Tôi không có câu trả lời thỏa đáng, chỉ mong tìm một chút ánh sáng từ câu chuyện Tin mừng: đó là Thiên Chúa không làm ngơ trước đau khổ.  Phải tin tưởng điều này mới mong có ngày bước ra khỏi những nấm mồ cuộc đời.  Nếu không, bệnh viện tâm thần sẽ không còn chỗ chứa.  Ngài hiện diện qua sự nâng đỡ của tình người và nhất là qua ân sủng.  Thánh Phaolô cũng cảm nhận, “Ơn ta đủ cho con.

Đứng Bên Thập Giá

Ngành tâm lý ngày nay giúp hiểu rằng, đau khổ được biến đổi nhờ sự nâng đỡ của người khác.  Có nghĩa là, không phải đau khổ nào cũng đưa con người đi đến một kết quả xấu.  Nếu đau khổ được nâng đỡ bởi tình yêu và nhờ ân sủng, một cuộc biến đổi sẽ diễn ra.  Do đó, đau khổ lớn nhất không phải là chính biến cố đau khổ, nhưng phải đi qua đau khổ trong cô đơn mới là kinh nghiệm đớn đau nhất.  Hai ngàn năm trước, phúc âm đã dọi vào cuộc đời ánh sáng này, khi trình bày cảnh thập giá có bóng dáng của người thân yêu. “Ðứng gần thập giá Ðức Giêsu, có thân mẫu Người, chị của bà thân mẫu, bà Maria vợ ông Cơlôpát, cùng với bà Maria Mácđala.” (Ga 19, 25)  Sự hiện diện yêu thương này đã giúp Đức Giêsu đi trọn con đường đau khổ ở một giây phút hệ trọng nhất của sứ mạng.

Vậy đau khổ có khi không còn là vì do Chúa trừng phạt như người ta hay nghĩ, nhưng có khi lại là lời mời gọi để đi đến tận cùng của thân phận làm người.  Lắm khi trong đau khổ, người ta lại cảm nghiệm được giá trị thật của cuộc sống.  Như Gandi có lần diễn tả, một con người muốn đạt đến chiều cao của tâm linh, người ấy có khi phải đụng chạm đến cái vực sâu khốn khổ của thân phận làm người.  Chúa để người thân của mình đối diện đau khổ, học những bài học từ đau khổ, và để can đảm sống niềm tin giữa những dằng co trong đó xen lẫn cả đắng cay và ngọt ngào.  Cuộc đời này chưa phải là vĩnh cửu của Thiên Đàng.

Có khi Thiên Chúa để tôi bước vào mầu nhiệp đau khổ để cảm nghiệm sự bất hạnh của một nhân loại đang thật quá đau khổ.  Nếu như thế, giông bão của cuộc đời có khi là một sứ mạng để bắt đầu biết yêu thương.  Tôi sợ sứ mạng này, đó là những “chén đắng” cho đời tôi, nhưng có khi lại là niềm nâng đỡ cho anh chị em mình đang đau khổ.

Chén đắng này Chúa uống cạn, để giúp tôi hiểu về đau khổ.  Hôm nay, Chúa mời gọi tôi nếm  từ từ. Tôi hiểu như thế, nhưng chưa bao giờ nói với chị mình tại sao chị phải uống chén đắng của đời mình. Hy vọng một ngày nào đó khi nắng bình minh của tâm hồn rọi chiếu, chị sẽ khám phá cho chính mình ý nghĩa của từng nỗi đau của một người mẹ mất đi đứa con yêu thương, nhưng trong sâu thẳm vẫn tin rằng Chúa vẫn không bỏ rơi mình.

Nguyễn Thảo Nam

http://tinvahyvong.blogspot.com/

From: ThiênKim

Bình Nhưỡng tử hình công khai những người xem truyền hình Hàn Quốc

Bình Nhưỡng tử hình công khai những người xem truyền hình Hàn Quốc

Kim Jong-un chủ trì Hội nghị BCH Trung ương đảng Lao động Triều Tiên, Bình Nhưỡng,  31/03/2013

Kim Jong-un chủ trì Hội nghị BCH Trung ương đảng Lao động Triều Tiên, Bình Nhưỡng, 31/03/2013

REUTERS/KCNA

Thụy My

Từ đầu tháng 11, chế độ Bình Nhưỡng đã hành quyết công khai khoảng 80 người, trong đó có nhiều người lãnh án tử vì đã xem nhiều chương trình truyền hình Hàn Quốc – một hành vi bị nghiêm cấm tại Bắc Triều Tiên. Hãng tin Pháp AFP hôm nay 11/11/2013 dẫn nguồn tin từ một tờ báo Hàn Quốc cho biết như trên.

Tờ Joong Ang Ilbo, một tờ báo bảo thủ chỉ nêu một nguồn tin giấu tên, nhưng có ít nhất một nhóm người Bắc Triều Tiên tị nạn cho biết cũng có nghe thông tin này, làm tăng tín khả tín của nguồn tin trên báo.

Theo nguồn tin trên được cho là rất thành thạo về những chuyện nội bộ của Bắc Triều Tiên, các cuộc hành quyết diễn ra vào ngày 03/11 tại bảy thành phố trên cả nước. Tại thành phố cảng Wonsan ở miền đông, chính quyền đã tập hợp 10.000 người tại một sân vận động để chứng kiến việc xử bắn tám tội nhân.

Đa số các tử tội bị hành hình do đã xem các chương trình truyền hình Hàn Quốc, qua các băng DVD hay USB được lén lút mang vào Bắc Triều Tiên. Một số khác bị kết án vì tội mại dâm.

Daily-NK, một trang web tin tức do những người Bắc Triều Tiên tị nạn điều hành và có một mạng lưới trên khắp nước nói rằng không nghe thông tin này. Một trang web khác cũng của người Bắc Triều Tiên tị nạn là North Korea Intellectual Solidarity thì nhấn mạnh, nhiều cơ sở của họ cách đây mấy tháng đã báo cho biết về dự định một đợt tử hình công khai rộng rãi. Một người có trách nhiệm của tổ chức này nói : « Chế độ Bình Nhưỡng có vẻ lo ngại khả năng thay đổi trong suy nghĩ của người dân và cố gây sợ hãi ».

Chế độ cộng sản Bắc Triều Tiên được điều hành với bàn tay sắt từ ba thế hệ nhà họ Kim : Kim Nhật Thành (Kim Il Sung), Kim Jong Il và nay đến đời thứ ba là Kim Jong Un.

Hồi tháng 9, tờ Asahi Shimbun cho biết, người yêu cũ của Kim Jong Un, nữ ca sĩ Hyon Song Wol, văn công của đoàn Unhasu Orchestra đã bị xử bắn cùng với một số nữ diễn viên của đoàn vì tội quay video sex. Lệnh xử tử được đưa ra nhằm dập tắt những tin đồn về lối sống đồi trụy của Ri Sol Ju, vợ Kim Jong Un lúc còn là ca sĩ trong đoàn. Bình Nhưỡng hôm 22/9 đã giận dữ bác bỏ các thông tin trên « các phương tiện truyền thông rắn rết » nhằm gây « tổn hại phẩm cách » của lãnh đạo tối cao.

Đảng Chí Hiến Trung Quốc đòi bầu cử tự do

Đảng Chí Hiến Trung Quốc đòi bầu cử tự do

Nữ giáo sư Vương Tranh (Wang Zheng),  một trong những sáng lập viên đảng Chí Hiến (Zhi Xian), tại Quảng Tây, ngày 07/03/2013

Nữ giáo sư Vương Tranh (Wang Zheng), một trong những sáng lập viên đảng Chí Hiến (Zhi Xian), tại Quảng Tây, ngày 07/03/2013

REUTERS/Courtesy of Wang Zheng/Handout via Reuters

Tú Anh

RFI

Đảng Chí Hiến không bài bác quyền lực của đảng Cộng sản Trung Quốc, nhưng yêu cầu phải tổ chức bầu cử theo lối phổ thông đầu phiếu, chấm dứt tình trạng đảng cử dân bầu. Trên đây là giải thích của giáo sư Vương Tranh, một trong những người sáng lập đảng mới tại Trung Quốc, bất chấp các lời khuyến cáo từ phía chính quyền.

Đảng Chí Hiến ( Hiến pháp trên hết) do những người ủng hộ cựu lãnh đạo bị thất sủng Bạc Hy Lai thành lập hôm thứ Tư tuần trước, bất chấp lệnh cấm ngay vào lúc đảng Cộng sản Trung Quốc họp Hội nghị trung ương 3.

Tuy nhiên, theo hãng Reuters, ngày Chủ nhật 10/11/2013, một trong những sáng lập viên là nữ giáo sư Vương Tranh, đại học Bắc Kinh nói rõ là đảng Chí Hiến thừa nhận vai trò lãnh đạo Trung Quốc của đảng Cộng sản. Có điều là đảng mới này yêu cầu chính quyền phải chấp nhận bầu cử tự do theo lối phổ thông trực tiếp. Trong chế độ bầu cử hiện nay tại Trung Quốc, các ứng cử viên do đảng Cộng sản quyết định. Yêu cầu thứ hai là Nhà nước phải tôn trọng quyền tự do hội họp.

Cũng theo bà Vương Tranh, Hiến pháp Trung Quốc dự trù quyền tự do ứng cử bầu cử ở Quốc hội và sự có mặt của đại diện nhân dân ở mọi cấp chính quyền, nhưng trên thực tế những quy định này không được tôn trọng.

Sáng lập viên đảng Chí Hiến thú thật là chưa gặp ông Bạc Hy Lai lần nào. Nhân vật bị thất sủng này đang bị án tù chung thân đã được đề nghị làm chủ tịch đảng Chí Hiến đến trọn đời.

Bà Vương Tranh cũng cho biết, tuy công nhận thiện chí của Nhóm Hiến chương 08 của nhà dân chủ Lưu Hiểu Ba, nhưng bà không đồng ý với phương thức đấu tranh của phong trào này. Được hỏi về mục đích của đảng Chí Hiến, giáo sư Vương Tranh tuyên bố là « để bảo vệ quyền lực của Hiến pháp » và sẽ tổ chức đại hội trong sáu tháng tới đây.

Chủ trương « bảo vệ Hiến pháp » bị phe bảo thủ trong đảng Cộng sản Trung Quốc chỉ trích dữ dội. Tạp chí Đảng Kiến, cơ quan tuyên huấn của đảng Cộng sản Trung Quốc trong số tháng 8/2013 xem đây là một chiến thuật « diễn biến hòa bình » dựa vào Hiến pháp để từ từ loại trừ đảng Cộng sản.

Sống như ngày sau đang sống

Sống như ngày sau đang sống

M. Hoàng Thị Thùy Trang

VRNs (10.11.2013) – Nói về sự sống đời sau, có lẽ không một người nào hiện diện trên thế giới này mà không đặt dấu hỏi. Từ khi có ý thức, biết suy tư về con người và cuộc đời, người ta đã bắt đầu suy tư về sự tồn tại của bản thân và thế giới. Câu hỏi sự sống đời sau là một trong những câu hỏi được nhân loại quan tâm hàng đầu. Sống đây nhưng con người vẫn ngay ngáy lo cho ngày mai. Mặc dầu không tin lắm vào sự hiện diện thần linh của Thiên Chúa nhưng người ta cũng vẫn cứ muốn biết cái gì tiếp diễn ở đằng sau cuộc sống này, khi mà sự chết đến, biến đổi toàn bộ đời sống thế giới, nhân loại vẫn muốn biết còn gì nữa đằng sau cái chết.

Niềm tin công giáo dạy rằng, chết chính là cửa ngõ để bước sang một sự sống mới, sự sống vĩnh cửu của Thiên Chúa. Lúc này con người không còn chết nữa, nhưng là sống đời đời. Và sự sống mai hậu trên thiên quốc ấy, nơi chỉ còn tình yêu và hoan lạc, không có nước mắt, chẳng còn khổ đau. Và tất cả mọi người, sống như thiên thần, chẳng còn dựng vợ, cũng không có gả chồng: “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. Quả thật họ không thể chết được nữa.” (Lc 20, 34-36)

Nói về cuộc sống trần gian, ai cũng cảm thấy sợ, thấy ngán ngẩm, người ta mơ về một lối sống chẳng còn đau khổ, chẳng có chia lìa. Thế nhưng, để mà đánh đổi cho có được cuộc sống ấy thì ai ai cũng muốn thối lui, bỏ cuộc. Nhân loại không muốn đánh mất những giá trị trần thế, cái mà họ cho là cùng đích, là cứu cánh. Mặc dầu biết rất rõ rằng, tất cả mọi thứ tồn tại trên trần gian này đều là phù vân, là hư vô, là giả trá, không có giá trị trường tồn, vĩnh cửu.

Người tin đã vậy, người không tin lại càng tệ hại. Tin có sự sống đời sau, nhưng khổ nỗi lòng còn mang nặng tham vọng trần thế, nên không dám đánh đổi để có được sự sống vĩnh cửu thuộc về Thiên Chúa. Kẻ không tin thì mặc kệ, buông thả bản thân, thỏa mãn mọi dục vọng thế trần. Làm thế nào đây, để thế giới hiểu được rằng có một sự sống khác đàng sau cuộc sống đầy khổ đau và nước mắt này. Tất cả những gì chúng ta đang gầy dựng cho cuộc sống hiện tại chỉ là tạm bợ, phù du. Chính sự sống đằng sau sự bôn ba, lo toan vất vả ấy mới là cuộc sống thật, nơi được đong đo bằng tình yêu và lòng mến.

Cuộc sống thật ấy là gì? Là hoàn toàn khác biệt với lối sống mà nhân loại đang thủ đắc. Nơi đó người lành được hưởng phúc thiên đàng, kẻ có tội phải chịu hình phạt thích đáng với hậu quả mình gây ra. Cuộc sống ấy chỉ còn niềm vui, không còn nước mắt vì thuộc về Thiên Chúa, là con cái của Ngài. Chỉ những ai biết chu toàn thánh ý Thiên Chúa, người đó mới xứng đáng nhận phần phúc mà thôi. Lúc này đau khổ hay ngay cả sự chết cũng không làm gì được họ, họ đã được ngang hàng với các thiên thần, là con cái Thiên Chúa, con cái sự sống lại. (x. Lc 20, 36)

Lạy Chúa, con tin có một sự sống đằng sau cuộc sống này. Và cuộc sống ấy mới đích thực là sự sống mà con cần phải thủ đắc. Có được sự sống đời này, con thấy cũng quá đủ đau khổ lắm rồi. Bao phen trầy trụa, vào cay ra đắng, lăn lộn với những vòng xoáy cuộc đời con mới có thể tồn tại đến ngày hôm nay. Khó khăn chật vật vậy đấy, nhưng đó cũng chỉ là một lối sống tạm bợ, nay còn mai mất mà thôi, phù vân biết chừng nào. Vậy thì, có được sự sống vĩnh cửu hạnh phúc bất diệt, không bao giờ phải chết nữa, ắt hẳn con còn phải khổ công lao nhọc hơn biết là ngần nào. Đang sống đây, nhưng luôn ý thức rằng mình sẽ chết mai khiến tâm trí con nhiều khi chao đảo, rã rời. Cái hạnh phúc bất diệt ngày sau mà Thiên Chúa hứa ban ấy dường như với sức lực bản thân, con chẳng sao vươn tới. Thôi thì, hãy giúp con, sống sao thì sống, chỉ cần con sống một ngày hạnh phúc trong tình yêu Thiên Chúa, đời này hay đời sau cũng vậy. Cuộc đời đã vắn vủi vậy, nỗi đau khổ của đời sau lại kéo dài, thì còn bất hạnh nào hơn. Xin giúp con hãy sống hôm nay như ngày sau đang sống, để không phải nối tiếc nếu có phải đổi thay.

M. Hoàng Thị Thùy Trang

Chết không phải là hết

Chết không phải là hết

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

VRNs (10.11.2013) – Đồng Nai – Cuộc sống luôn đặt ra cho chúng ta một câu hỏi: Tôi sinh ra làm gì? Chết rồi đi đâu? Đây là câu hỏi đưa đến một hướng đi cho cuộc đời. Tin vào sự sống đời sau chắc chắn con người sẽ có cách hành xử khác với những người vô thần từ chối sự sống thần linh.

Thử hỏi, nếu không có sự sống đời sau cuộc đời này sẽ ra sao? Có lẽ người ta sẽ thấy cuộc đời là một phi lý. Sinh ra trong cuộc đời. Vật lộn với cuộc sống. Tranh đấu để tồn tại. Sống ăn ngay ở lành. Làm việc lương thiện. Chết rồi hết! Quả là bất công, vì đang khi đó có biết bao người sống chìm đắm trong lạc thú, sống vô luân họ chết cũng là chấm hết, hóa ra cuộc đời họ quá sướng, trong khi kẻ ăn ngay ở lành lại thiệt thòi vì hy sinh vô ích. Thế nên, phải có đời sau để trả lại công bằng cho cuộc sống làm người hôm nay. Người Phật Giáo thì tin vào kiếp luân hồi. Người Công Giáo thì có Cánh Chung. Chung quy đều là câu trả lời cho lý do phải sống ăn ngay ở lành trong cuộc sống làm người hôm nay.

Quả thực, nếu cuộc đời  là bể khổ và chết là hết thì thật là một tai họa cho kiếp người chúng ta, đúng như một ai đó đã ngao ngán bảo rằng:

“Cây xanh thiếu lá nó xanh xanh

Biết mình thế này thà đừng sinh ra”

Vâng, nếu cuộc đời này thiếu hạnh phúc như cây xanh thiếu lá thì niềm tin cho chúng ta sự hy vọng vào một thế giới ngày mai sẽ không còn đau khổ, và không còn sự chết. Con người sinh ra không phải để chết mà là để sống. Cái chết chỉ là sự chuyển đổi một cách sống khác hoàn hảo hơn cuộc sống hôm nay.

Mấy năm gần đây, một số bác sĩ người Đức và Mỹ đã nghiên cứu đến hiện tượng gọi là “kinh nghiệm cận tử” (near death experience) : nhiều người vì một tai nạn hay một lý do nào đó đã ngất đi trong một thời gian khá dài. Về mặt thể lý, coi như họ đã chết. Nhưng sau đó họ sống lại. Các bác sĩ đã phỏng vấn 1370 người ấy. Trong những điều họ thuật lại, có những điểm mà ai cũng nhất trí, như sau :

– Cuộc sống ở  “cõi bên kia” hạnh phúc hơn cuộc sống ở đời này.

– Sau khi “chết đi sống lại”, không ai còn sợ chết nữa, không ai ham muốn kiếm tiền bạc danh vọng lạc thú gì nữa. Điều duy nhất mà họ quan tâm là sống yêu thương, quảng đại, phục vụ mọi người (Tóm bài của Willie Hoffsuemmer).

Cái chết và sự Phục sinh của Chúa Giê-su chính là câu trả lời cho cuộc sống chúng ta. Ngài đã chết và sống lại. Sự sống Phục sinh của Ngài hoàn toàn khác lạ với cuộc sống nhân trần. Mặc dù Ngài vẫn mang thân xác con người nhưng các môn đệ đã không nhận ra Người. Sự sống Phục sinh luôn thanh thoát nhẹ nhàng. Ngài đến và đi. Ngài hiện diện chỗ này. Ngài hiện diện chỗ khác. Không gian và thời gian như dừng lại với cuộc sống Phục sinh. Ngài nói rằng Ngài về Nhà Cha. Về nơi hạnh phúc trường sinh. Nơi đó Ngài cũng dọn chỗ cho tất cả những ai tin vào Người.

Lời Chúa hôm nay cũng khẳng định cho chúng ta thấy có sự sống đời sau. Sự sống đời sau thì tròn đầy, viên mãn. Con người không còn phải lo dựng vợ gả chồng để lưu truyền nòi giống. Con người sống bất tử như các thiên thần. Vì Đấng Tạo dựng con người đã mạc khải chính mình là Thiên Chúa kẻ sống chứ không phải kẻ chết. Ngài tạo dựng chúng ta để được sống trường sinh như Ngài.

Nhưng để có một sự sống đời sau cũng đòi hỏi con người hôm nay biết sống tròn trách nhiệm làm người của mình. Chúa Giê-su luôn hoàn thành bổn phận Chúa Cha. Ngài đã tìm ý Chúa Cha để thực hiện. Ngài luôn xin vâng theo thánh ý Chúa Cha. Đây cũng là con đường tiến vào sự phục sinh vinh quang với Chúa nếu chúng ta biết đi theo con đường của Chúa. Con đường của hy sinh, từ bỏ những đam mê tội lỗi. Con đường của vâng phục theo thánh ý Chúa Cha, cho dẫu đường đời có lắm gian nguy. Con đường hẹp nhưng mang lại cho chúng ta sự sống đời đời.

Ước gì niềm tin vào sự phục sinh mai sau sẽ giúp chúng ta biết sống một cuộc đời đầy ý nghĩa hơn. Một cuộc đời sống tôn thờ Thiên Chúa và phục vụ đồng loại. Một cuộc đời lương thiện và vi tha. Xin đừng vì những quyến luyến của danh lợi thú khiến chúng ta đánh mất sự sống trường sinh. Amen

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Sức Mạnh Của Mẹ Thiên Nhiên

Sức Mạnh Của Mẹ Thiên Nhiên

Thiên nhiên hiền hòa, tươi đẹp, ban  cho con người bao nguồn vui và cảm hứng , nhưng cũng có thể gây nhiều tai ương, đau khổ, mất mát…, nhất là khi con người làm mất đi sự cân bằng sinh thái, không bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và khai thác quá mức….

Con người phải thận trọng vì mọi thứ do con người tạo dựng có thể bị  hủy diệt bởi Mẹ thiên nhiên ( People need to be cautious because anything built by man can be destroyed by Mother Nature) Russel Honore.

Nguyện cầu cho siêu bão dữ Haiyan sẽ chệch hướng và suy giảm để gây ít thiệt hại cho người dân vùng bão quê hương chúng ta.

Mời các bạn xem clip  THE POWER OF MOTHER NATURE.  Clip You Tube này đã có trên 2.400.000 lượt xem

httpv://www.youtube.com/watch?v=RWgg5-kUSho

CHA ĐẺ CỦA DỐI TRÁ

CHA ĐẺ CỦA DỐI TRÁ

Tác giả: Xuân Thái

Ngay từ thời Cựu ước, ma quỷ được mô tả là rất quỷ quyệt và luôn là kẻ lừa dối. Chúa Giêsu đã gọi nó là kẻ nói dối và là cha của kẻ nói dối. Nó dẫn dụ và mê hoặc người ta tin vào những điều dối trá và chống lại Thượng Đế.

Một trong những điều dối trá mà ma quỷ đưa đến cho con người là dối trá về Thượng Đế. Nó tạo ra sự nghi ngờ về các ý định tốt lành của Thượng Đế dành cho con người.

Điều dối trá thứ hai là về ý chỉ thánh thiện của Thượng Đế. Thiên Chúa đã ban luật lệ vì lợi ích và bảo vệ con người, nhưng ma quỷ dối trá xuyên tạc rằng các lệ luật ấy chỉ làm hại và biến con người thành nô lệ.

Điều dối trá thứ ba là dối trá về hậu quả của tội và bất tuân lệnh Chúa. Ma quỷ dối trá bảo rằng vi phạm luật Chúa sẽ không chết đâu, nhưng mắt sẽ mở ra, sẽ khôn ngoan như Thượng Đế vậy.

Cho đến nay, Satan vẫn luôn dùng sự dối trá của nó để chi phối và thao túng con người hiện đại, nhưng với các thủ đoạn và bằng nhiều hình thức khác nhau. Vì thế, sau nhà trường và xã hội, gia đình vẫn mãi mãi phải là nơi đầu tiên giúp định hình nhân cách, một nhân cách không thể thiếu sự ngay thẳng và lòng chính trực của một con người. Sự giáo dục phải được đặc biệt quan tâm và từng bước thực hiện ngay từ khi còn thơ bé.

Từ một lần Đức Phật dạy con khi còn niên thiếu…

Theo lịch sử, Thái tử Tất Đạt Đa – sau này chính là đức Phật, trước khi xuất gia đã có một người con trai duy nhất là Lahula (La Hầu La).  Song, ít ai biết rằng sau khi đạt giác ngộ, đức Phật đã trở thành người thầy rất quan trọng dạy dỗ cho con trai mình trong hầu hết quãng đời niên thiếu.

Kể từ khi La Hầu La lên bảy tuổi, Ngài đã là một người cha rất mực mô phạm, nhờ vậy, La Hầu La đã đạt được giác ngộ viên mãn khi mới tròn 20 tuổi.

Kinh điển không đề cập nhiều đến mối quan hệ cha-con giữa đức Phật và La Hầu La, nhưng đó đây đã để lại những dấu chỉ thú vị đáng lưu ý về việc đức Phật đã dẫn dắt con mình như thế nào trên con đường trưởng thành.

Đó là một tiến trình liên tục của con đường dẫn tới giác ngộ: lúc La Hầu La bảy tuổi, đức Phật dạy cho con về đạo đức; lúc La Hầu La 10 tuổi, đức Phật dạy cho con Thiền; và lúc 20 tuổi, Ngài dạy về tuệ giác giải thoát. Quá trình trưởng thành của La Hầu La, vì vậy, đi đôi và song hành với tiến trình giác ngộ của Đức Phật.

ĐẠO ĐỨC

Câu chuyện đầu tiên kể về La Hầu La được Đức Phật dạy về lòng chính trực (integrity) như thế nào. Lúc lên tám tuổi, có lần La Hầu La đã nói dối. Bài Kinh Trung Bộ Kinh, 61,  kể chi tiết rằng một lần sau khi tọa thiền xong, Đức Phật đến tìm con. La Hầu La lấy ghế mời cha ngồi, rồi mang đến một thau nước cho cha rửa chân theo như phong tục thời ấy. Sau khi rửa chân xong, Đức Phật hỏi:

“Này, La Hầu La, con có thấy chút nước còn lại trong cái thau này không?”

“Dạ, con có thấy” – La Hầu La thưa.

“Đời của một người tu cũng chỉ đáng bằng một chút nước này thôi, nếu như người đó cố tình nói dối.”

Sau đó, Đức Phật đổ hết nước trong thau ra và nói:

“Đời của một người tu cũng chỉ đáng vất bỏ đi như vầy, nếu như người đó cố tình nói dối.”

Xong, Đức Phật lật cái thau úp xuống và nói:

“Đời của một người tu sẽ trở nên đảo lộn như vầy, nếu như người đó cố tình nói dối.”

Và, để nhấn mạnh thêm nữa, Đức Phật lật ngửa cái thau trở lại và nói:

“Đời của một người tu cũng trở nên trống rỗng như cái thau này, nếu như người đó cố tình nói dối.”

Sau đó Ngài dạy con:

“Đối với một người cố tình nói dối, không có một tội lỗi xấu xa nào mà người đó không thể làm. Vì vậy, La Hầu La, con hãy tập đừng bao giờ nói dối, cho dù đó là một lời nói đùa.”

Câu chuyện trên đã nhắc nhở rằng những lời la mắng giận dữ với con cái thực ra chỉ có sức mạnh mà không có nội lực. Đức Phật đã rất bình tĩnh, chọn đúng thời điểm để dạy con mà không trừng phạt hay nổi giận với con.

…đến trình thuật về hậu quả của lời nói dối trong Thánh Kinh…

Thánh Kinh đã ghi lại những dòng thật đẹp về đời sống của cộng đoàn tín hữu đầu tiên, họ chuyên cần nghe các Tông đồ giảng dạy, hiệp thông với nhau, không ai coi tài sản mình là của riêng, nhưng để mọi sự làm của chung trong tinh thần hiệp nhất. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu. Tuy nhiên, Sách Công vụ Tông đồ ( 5, 1-11) đã thuật lại một trường hợp cá biệt về việc bán đất đai hết sức ấn tượng như sau:

“…Có một người tên Khanania cùng với vợ là Xaphira bán một thửa đất. Ông đồng ý giữ lại một phần tiền, rồi đem phần còn lại đặt dưới chân các Tông đồ. Ông Phêrô mới nói: Anh Khanania, sao anh lại để Satan xâm chiếm lòng anh, khiến anh lừa dối Thánh thần, mà giữ lại một phần giá thửa đất? Khi đất còn đó thì nó chẳng là của anh sao? Bán đi rồi thì anh chẳng có quyền sử dụng tiền bán đó hay sao? Sao anh lại rắp tâm làm chuyện ấy? Anh đã chẳng lừa dối người phàm, mà là lừa dối Thiên Chúa. Nghe những lời ấy, Khanania ngã xuống đất, tắt thở. Các thanh niên đến liệm xác và đem đi chôn.

Khoảng 3 giờ sau, vợ ông đi vào mà không hay biết chuyện đã xảy ra. Ông Phê rô lên tiếng hỏi: “Chị cho tôi hay, anh chị bán thửa đất được bấy nhiêu, phải không? Chị ta đáp, vâng, được bấy nhiêu thôi. Ông Phêrô liền nói, Sao anh chị lại đồng lòng với nhau để thử thách Thần Khí Chúa, kìa, những người đã chôn cất chồng chị còn đứng ở ngoài cửa, họ sắp khiêng cả chị đi nữa đấy. Lập tức, bà ta ngã xuống dưới chân ông Phêrô và tắt thở”

Nếu chỉ đọc thoáng qua trình thuật trên, dễ có cảm tưởng, sao ông Phêrô lại ác độc quá vậy?. Chỉ vì bớt lại một phần tiền (của chính mình) mà cả hai vợ chồng bị chết tươi bởi quyền năng từ ông Phêrô, có thể vị này đã lạm dụng quyền lực để hại chết người chăng, sao mạng người có thể bị xem nhẹ đến thế?

Thực ra, bản chất tội của họ không phải vì cất dấu một phần tiền bạc, nhưng chính vì vợ chồng họ đã nói dối cộng đoàn và lừa dối Thánh Thần. Hành vi của họ làm cho đời sống cộng đoàn xấu đi. Họ xứng đáng bị trừng phạt để nêu gương cho người khác khi nói dối.

Thiên Chúa rất dứt khoát quyết liệt và luôn không khoan nhượng với ma quỷ, vì thế, những hình phạt là bệnh tật, khổ đau và chết chóc trên trái đất phát khởi từ một lời nói dối chỉ là những hậu quả tất yếu.

Điều này làm chúng ta nhớ Ma quỷ đã nói dối với người nữ đầu tiên là Ê-va. Hắn bảo rằng bà sẽ không chết nếu cãi lời Ðức Chúa Trời và ăn trái cây mà Ngài bảo bà không được ăn. Ê-va đã tin Ma-quỉ và ăn trái cây. Bà cũng đưa cho A-đam ăn nữa. Bởi vậy con người đã trở thành những kẻ phạm tội, cùng với tất cả con cháu đều mang tội tổ tông. Vì có tội, nên tất cả con cháu của A-đam đều đau khổ đủ đường và cuối cùng, phải chết. Những vấn đề này bắt đầu từ đâu ? Thưa, bắt đầu từ một lời nói dối.

Im lặng cũng là một cách nói

Cùng với tâm thức nhị nguyên trong nhận thức và khái niệm về các mặt đời sống của thiện/ác, sai/đúng, phải/trái…sẽ không sợ sai lầm khi cho rằng, ngay từ khi có tiếng nói con người đã biết nói dối. Và, khi bắt đầu có chữ viết, văn tự, thì sự nói dối ngày càng có những bước tiến vượt bậc cùng với sức mạnh kinh hoàng ghê gớm khó thể hình dung, đến mức con người đã hoặc đang bị tẩy não mà không tự nhận ra.

Thật vậy, tẩy não là sự tái giáo dục cưỡng bức các niềm tin và giá trị truyền thống. Hàng ngày, qua báo, đài, tờ rơi và rất nhiều phương tiện truyền thông khác, từng phút rồi từng giờ, ta phải nhận biết bao thông tin không chính xác (nói dối) trong mọi mặt đời sống, từ đó, nhận thức của ta thay đổi lúc nào chính ta cũng không nhận ra qua tràn lan quảng cáo, cùng vô vàn những thông tin vốn đã được định hướng chỉ với mục đích tuyên truyền.

Tẩy não thì ở đâu cũng có, nơi nào cởi mở thì chuyện tẩy não sẽ kín đáo, tế nhị và nhẹ nhàng, thể hiện giới hạn qua những quảng cáo thương mại và các sản phẩm tiêu dùng, khác hơn với những nơi khép kín luôn tàn bạo, trắng trợn kèm theo bạo hành dưới đủ dạng bạo lực và tràn lan mọi mặt đời sống.

Tiến sỹ Paul Joseph Göbbels (1897–1945) Bộ trưởng Bộ Thông tin Quần chúng và Tuyên truyền của Đức Quốc xã, đã truyền lại một công thức để đời : SỰ THẬT là những DỐI TRÁ ĐƯỢC LẬP LẠI NHIỀU LẦN. Kinh nghiệm xương máu ấy đã được vận dụng với rất nhiều sáng tạo, nên không gây nhiều ngạc nhiên khi thế giới được chứng kiến, cảnh đông đảo dân chúng Bắc Triều tiên đã khóc lóc thảm thiết khi lãnh tụ của họ từ trần, trong xứ sở đói nghèo và khép kín nhất thế giới ấy. Họ đã lên đồng, bao nhiêu người khác ở nhiều nơi thế giới đã lên đồng tập thể từ những dối trá.

Chẳng ai muốn nói dối, nhưng người ta vẫn thường nói dối vì nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân lớn nhất vẫn là SỢ HÃI. Sợ mất quyền lợi, sợ trách nhiệm, sợ phải đương đầu… cùng vô vàn nỗi sợ có tên và không tên khác.

Mấy ngày nay dư luận cả nước đang ồn ào dậy sóng vì vụ Bác sỹ Cát Tường làm chết người rồi quăng xác xuống sông, vụ xương động vật thay vì hài cốt liệt sỹ cùng với oan án 10 năm Nguyễn Thanh Chấn ở Bắc Giang. Những thảm kịch ấy mỗi vụ đều khác nhau về tính chất, mức độ, thời điểm v.v…nhưng tựu trung, xét cho cùng, tất cả đều khởi từ những lời nói dối. Sự dối trá đang bao phủ và trùm lên tất cả trong thảm cảnh « Đêm giữa ban ngày ». Giữa ban ngày mà bóng đen đêm tối đang ngự trị khi cha đẻ của dối trá vẫn còn phủ trùm luôn mãi.

Chẳng ai muốn nói dối, nhưng ngay cả khi thinh lặng thì sự thinh lặng ấy vẫn luôn mang nhiều ý nghĩa khi đối chiếu với lời hằng sống : « Ta là Đường và là Sự Thật » để tự trả lời cho lòng mình rằng, ĐƯỜNG ấy sẽ đưa ta đến đâu ? SỰ THẬT ẤY đang là sự thật nào, bên này hay bên kia dãy Phyrené ?.

Tự nguyện

Xem như thế, ai cũng biết hậu quả kinh hoàng của nói dối, nhưng oái oăm và đáng sợ biết bao nhiêu, nói dối lại là điều rất dễ vướng, đôi khi rất khó nhận ra.

Nói dối là nói không thật, nói thiếu chính xác, là chém gió,  là nổ văng miểng.

Theo công trình nghiên cứu Feldman, 60% các đối tượng được nghiên cứu đã nói dối ít nhất 1 lần trong một cuộc trò chuyện ngắn, và cũng trong khoảng thời gian đó, họ đã nói khoảng 2,92 điều sai. Đối tượng được nghiên cứu gồm đủ loại tuổi và nhiều thành phần và đều cho kết quả, lời nói dối dễ xuất hiện trong lần gặp gỡ đầu tiên.

Lạy Chúa !

Nếu kết quả nghiên cứu trên là khả tín và nếu ma quỷ là cha đẻ của dối trá, thì chưa cần cám dỗ, khi này, nơi khác, đôi lần con đã tự nguyện đứng chung hàng ngũ với nó rồi Chúa ơi.

Xin giúp con tỉnh thức và điều chỉnh mình, để luôn nhớ Kim chỉ Nam trong ứng xử mà Chúa đã ban cho con lâu nay :

« Có thì phải nói có, không thì phải nói không.

Thêm thắt điều gì là do ác quỷ (Mt 5, 37) ».

Amen.

Xuân Thái.

BÍ QUYẾT CHO CUỘC SỐNG VUI VẺ

BÍ QUYẾT CHO CUỘC SỐNG VUI VẺ

Làm thế nào để chúng ta thoát khỏi sự căng thẳng và cảm xúc tiêu cực để thực sự bắt đầu một cuộc sống mạnh khoẻ và hạnh phúc? Hãy tuân thủ những mẹo nhỏ và quy tắc đơn giản sau xem sao:

1. Đi bộ từ 10 đến 30 phút hàng ngày.

2. Ngồi yên trong ít nhất 10 phút mỗi ngày.

3. Ngủ đủ 7-8 tiếng mỗi ngày.

4. Nguyên tắc sống với: hoạt động tích cực, hăng hái nhiệt tình và sự đồng cảm.

5. Chơi thể thao nhiều hơn nữa.

6. Đọc nhiều sách hơn bạn đã làm trong tháng trước.

7. Thực hành phương pháp ngồi thiền, tập Yoga và cầu nguyện.

8. Dành thời gian cho ông bà bố mẹ những người trên 70 tuổi và dướii 6 tuổi.

9. Quên các vấn đề của quá khứ đi. Đừng nhắc đi nhắc lại lỗi lầm của bạn đời trong quá khứ.

10. Không suy nghĩ đến những vấn đề tiêu cực hoặc những thứ bạn không nên kiểm soát. Thay vào đó hãy đầu tư sức lực vào những vấn đề tích cực hiện tại.

11. Buổi sáng ăn cho mình, buổi trưa ăn cho bạn, buổi tối ăn cho kẻ thù. Chính vì vậy bữa sáng là quan trọng nhất.

12. Mỉm cười và cười nhiều hơn nữa.

13. Cuộc sống quá dài để bạn lãng phí thời gian ghét một ai.vì vậy hãi loại bỏ cảm giác đau khổ và ghen ghét đi nhé!

14. Đừng quá nghiêm khắc với bản thân. Không ai hoàn hảo cả đâu!

15. Bạn không cần phải thắng cuộc trong tất cả các cuộc tranh luận đâu. Hoà thuận là hơn cả.

16. Đừng so sánh cuộc sống của bạn với người khác. Và cũng đừng so sánh người bạn đời của mình với người khác bạn nhé.

17. Không ai nắm giữ hạnh phúc của bạn ngoài bạn cả.

18. Tha thứ cho mọi người về tất cả mọi thứ.

19. Công việc của bạn sẽ không chăm sóc được bạn khi ốm đâu, mà chỉ có người thân và bạn bè. Vậy nên hãy giữ liên lạc thường xuyên với họ.

20. Loại bỏ tất cả những gì không có ích. Hãy vui tươi hơn.

21. Ghen tị là một việc làm lãng phí thời gian. Bạn đã có được những gì bạn cần hoặc sẽ có những gì bạn thực sự muốn.

22. Gọi điện thoại cho gia đình thường xuyên.

23. Mỗi ngày làm một việc tốt cho người khác.

24. Đừng làm quá sức, hãy giữ giới hạn cho riêng mình.

25. Khi bạn thức dậy vào mỗi buổi sáng nên cám ơn Trời và cám ơn người.

Chúc các bạn luôn luôn vui vẻ và thành công trong cuộc sống !

S.T.

‘Người Việt không xếp hàng vì đã mất niềm tin vào sự công bằng’

Người Việt không xếp hàng vì đã mất niềm tin vào sự công bằng’

VnExpress.net – Thứ bảy, ngày 02 tháng mười một năm 2013

Ra nước ngoài, người Việt vẫn xếp hàng rất lịch sự, nhưng về nước họ sợ những người ‘đi đêm’, tham nhũng, ‘con ông cháu cha’, các loại ‘cò’ quen biết… giành mất phần của mình.

Người Nhật xếp hàng trong các điểm dịch vụ công cộng là điều cả thế giới nhìn nhận là một nét văn hóa đặc biệt không phải đâu cũng có. Nhất là sau vụ thảm họa kép năm ngoái, toàn thế giới không chỉ được nghe đồn đại, hay đọc đâu đó mà được chứng kiến thực tế và mọi dân tộc khác đều phải ghen tị với việc xếp hàng này.

Trong cuộc sống hàng ngày, tại các bến xe lửa, trước cửa toa tàu là hai hàng người đứng hai bên cho người trên tàu xuống và lần lượt lên. Nếu không hết, người còn lại kiên nhẫn chờ chuyến tới và họ không chen lấn hay phàn nàn điều gì.

So với người Nhật, tại sao chúng ta ít xếp hàng? Hay nói cách khác, người Việt chúng ta có xếp hàng không? Và có được như người Nhật không?

Tôi sinh ra khi chiến tranh gần kết thúc và lớn lên trong giai đoạn bao cấp, giao thời mở cửa rồi đến kinh tế thị trường hiện nay. Tôi còn nhớ câu chuyện vui về xếp hàng phát chẩn (cho tiền, gạo những người bị tai nạn) thời xưa: “Số tôi thật không may, hôm trước đi nhận phát chẩn đứng cuối hàng nên khi đến lượt thì hết. Hôm qua đi sớm, họ lại phát từ cuối hàng lên và đến nơi cũng hết. Hôm nay, tôi cố gắng đứng giữa hàng, khổ nổi, họ phát từ hai đầu lại và… cũng hết khi đến lượt tôi”.

Trong thời bao cấp, dù muốn hay không mọi người đều phải xếp hàng, tuy nhiên việc xếp hàng dần dần có tiêu cực trong đó, có sự xí chỗ, có sự bán chỗ đã “xếp gạch” và điển hình hơn những người nhà, thân quen sếp sẽ có được các cách lấy hàng mà không phải xếp hàng.

Thời gian đó, ở các bến tàu, bến xe, việc có được một vé đi xe khách trước đây rất vất vả, phải xếp hàng từ rất sớm trước khi xe chạy cả ngày. Nhưng người có mối quan hệ, quen biết sếp… sẽ bỗng nhiên chen ngang và lấy hết suất vé, đành quay về chờ chuyến khác và mọi người đều phải sống chung với chuyện đó.

Việc này tồn tại đến tận bây giờ. Các loại vé xe, vé tàu, vé thể thao, vé sự kiện nghệ thuật… đều có sự chen ngang. Hay gần đây, chúng ta biết nhiều việc xếp hàng xin cho con đi học từ mẫu giáo, cấp một mà báo chí nhiều lần thông tin. Trong làm ăn kinh tế, nếu xếp hàng chờ đến lượt để có dự án, chắc mọi người sẽ phì cười vì phi thực tế hiện nay.

Tôi không ví dụ thêm nữa, chắc các bạn cũng hiểu trước nay, xưa kia và hiện tại thì người Việt Nam đều xếp hàng, chen ngang và mất chỗ diễn ra khắp nơi, mọi lĩnh vực, mọi hình thái, trong cả giáo dục, nghiên cứu khoa học đến nông dân bán hàng hóa…

Hàng nghìn người chen lấn, xô đẩy để giành ăn sushi miễn phí tại Hà Nội. Ảnh: Jenny

Vậy nó nói lên điều gì? Đó là lòng tin của việc xếp hàng. Tôi dẫn chứng không đi quá xa về quá khứ, nhưng có thể nói: trong mỗi con người Việt Nam, lòng tin đạt được từ xếp hàng quá thấp, không ít thì nhiều, nhiều người có kinh nghiệm trả giá từ xếp hàng, bị chen ngang. Chính điều này khiến họ phải chủ động tranh chỗ, chen lấn nhau trong xếp hàng?

Trong cơ quan, thay vì xếp hàng chờ đến lượt, nhiều người đã chủ động “chạy” trước để xen ngang, tác động quan hệ để đạt được cái mình mong muốn, từ tâm lý này, tạo niềm tin vào xếp hàng đi xuống.

Với người Nhật, họ tin tưởng, biết chắc chuyến tàu tiếp theo sẽ đến và họ sẽ lên được tàu. Tin tưởng chắc chắn phần họ mong đợi trong xếp hàng sẽ đến và họ yên tâm xếp hàng, mọi người đều đồng thuận trong văn hóa này.

Người Việt Nam khi ra nước ngoài, hầu hết cũng xếp hàng và theo trật tự của nước sở tại, nghĩa là họ cũng tin cậy và kiên nhẫn với hàng mình đợi. Người nước ngoài đến Việt Nam, cũng có nhiều người lái xe máy phóng vèo vèo, vượt đèn đỏ, xếp hàng cũng chen lấn, tại họ ư? Chắc chắn khó mà lý giải được!

Như vậy, không phải ý thức của người dân Việt Nam chúng ta kém, không phải chúng ta không muốn xếp hàng, hay người Việt Nam chúng ta không kiên nhẫn. Chúng ta có thể thấy từ các hệ quả của xen ngang trong hàng đợi trong cuộc sống, từ các nhà quản lý “con ông cháu cha”… đã dẫn đến mất lòng tin để phải xếp hàng.